SlideShare a Scribd company logo
1 of 93
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ NHÂN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
ĐẮK LẮK – NĂM 2017
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN THỊ NHÂN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02
Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Sản
ĐẮK LẮK – NĂM 2017
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn với tiêu đề “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” hoàn toàn là kết quả nghiên
cứu của chính bản thân tôi và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào của người khác. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã
thực hiện nghiêm túc các quy tắc đạo đức nghiên cứu; các kết quả trình bày
trong luận văn là sản phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi; tất cả
các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn tường minh,
theo đúng quy định.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các
nội dung khác trong luận văn của mình.
Đắk Lắk, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tác giả Luận văn
Trần Thị Nhân
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………… ...................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn…… ………… ................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn………................. 3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................... 5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............. 5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................. 5
7. Kết cấu của luận văn............................................................................. 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.............................................. 7
1.1.1. Khái niệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân .......................... 7
1.1.2. Đặc điểm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân............................ 9
1.1.3. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân................ 11
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.......................... 12
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân...... 12
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân....... 13
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân..... 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân..................................................................................................... 17
5
1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý .................................................................... 17
1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy................................................................... 20
1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức................................................................ 23
1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính................................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân..................................................................................................... 26
2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
................................................................................................................... 26
2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên...................................... 28
2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
thuyên chuyển Kiểm sát viên.......................................................................... 31
2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố
tụng khác ......................................................................................................... 34
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay........................................................................... 38
2.2.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm
sát viên............................................................................................................. 38
2.2.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm
cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân........................................... 49
2.2.3. Về mối quan hệ giữa kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác
................................................................................................................... 51
6
2.3. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay............................................................. 53
2.3.1. Những kết quả đạt được.................................................................. 53
2.3.2. Những hạn chế, bất cập................................................................... 55
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập....................................... 59
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân .................................................................................. 63
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát
nhân dân .......................................................................................................... 63
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân
dân ................................................................................................................... 67
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân hiện nay...................................................................................... 74
3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân........................................................................... 74
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân...................................................................... 75
KẾT LUẬN............................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................. 79
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NNPQ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong
những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệ m của ngành kiểm sát,
người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải
thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật,
phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh,
chính trực" (Lê Duẩn).
Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý
về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật
do nhà nước ban hành. Sự ra đời của VKSND năm 1960 đánh dấu sự hình
thành chức danh Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật
và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang
được khẳng định. Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là người trực tiếp
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có
nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng.
Là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng
của cả nước, Đắk Lắk có diện tích hơn 13.000 km2
; dân số gần 02 triệu người;
có 47 dân tộc anh em ở khắp các vùng, miền trong cả nước cùng về đây sinh
sống; có 73 km đường biên giới giáp tỉnh Munđunkiri thuộc nước bạn Cam-
pu-chia; tỉnh Đắk Lắk tiếp giáp với 05 tỉnh bạn là Gia Lai, Đắk Nông, Lâm
Đồng, Khánh Hoà và Phú Yên; có 03 quốc lộ 14, 26 và 27 chạy qua; có 15
9
đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố cấp 01 Buôn Ma Thuột, 01 thị
xã Buôn Hồ và 13 huyện, với 184 xã, 2.445 thôn, buôn, bản.
Trong những năm qua, tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh luôn
diễn biến và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nhất là các hoạt động của bọn
phản động Fulrô lưu vong liên quan đến tình hình an ninh nông thôn và tội
phạm hình sự (lượng án ở Đắk Lắk giải quyết đứng thứ 5 trên toàn quốc). Với
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND
tỉnh Đắk Lắk đã góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử
lý kịp thời, nghiêm minh. VKSND tỉnh Đắk Lắk không thể đảm nhận được
vai trò, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát
viên của hai cấp. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ
phẩm chất và năng lực là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, pháp luật
về Kiểm sát viên đã bộc lộ những những yếu kém, bất cập: thiếu tính đồng
bộ, tính thống nhất; nhiều quy định về Kiểm sát viên còn chung chung, chưa
hoàn toàn phù hợp; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên
còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa đáp ứng được yêu cầu,
nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị; các quy định về quản lý còn phân tán, chống
chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phân công rõ ràng, rành mạch; tiêu chuẩn
đối với Kiểm sát viên còn nhiều mâu thuẫn, chưa ăn khớp; công tác đào tạo,
bồi dưỡng Kiểm sát viên chậm được đổi mới; tiền lương, phụ cấp và các đãi
ngộ khác đối với Kiểm sát viên chưa được giải quyết một cách cơ bản, còn
nhiều bất hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm
sát viên chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng
dụng tài năng chưa được quan tâm; tình trạng cục bộ địa phương chậm được
10
khắc phục; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây dựng đội ngũ
Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời, vv... Những
thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trình độ, chất
lượng của đội ngũ Kiểm sát viên tỉnh Đắk Lắk còn thấp; năng lực của một bộ
phận không nhỏ Kiểm sát viên còn yếu kém, chưa toàn tâm toàn ý với công
vụ, thiếu công tâm, khách quan, còn có những biểu hiện tiêu cực, chưa được
nhân dân tín nhiệm.
Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên có được
sự đổi mới cơ bản, có hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục
đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao đã đặt
ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ
khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” là yêu
cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Pháp luật về Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” cho thấy, các
nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, trong đó
đáng chú ý như:
Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức
hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh
Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp
tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật; Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005),
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên,
Nxb Sài Gòn; Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án
11
tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền
công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp; Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số
vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ;
Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS nhân
dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2009; Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô
hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật…
Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn là công trình
khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về: “Pháp
luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk”
dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của
luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk
Lắk để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND; đặc điểm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nội dung
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; vai trò pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND; các yếu tố bảo đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND.
Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND tỉnh Đắk Lắk, luận văn đánh giá khách quan về những kết quả
12
đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất
cập này.
Thứ ba, luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất phương hướng và
các giải pháp cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
Dưới góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính,
phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, thời gian từ năm 2012 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2016; về đổi mới
công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng
hợp lý, có hiệu quả từng từng phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận
văn chú trọng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh
pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ
thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả
phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà
13
nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống
dân sự. Luận văn có thể được tham khảo trong xây dựng chiến lược hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, trong đổi mới công tác cán
bộ và cải cách tư pháp; tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán bộ, công
chức ngành kiểm sát nhân dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Đắk Lắk;
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Để có quan niệm xác thực về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải
tiếp cận nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống cán bộ, công chức nhà
nước và là một thuật ngữ có tính tập hợp.
Cán bộ, theo quan niệm thông thường được hiểu là những người thoát
ly khỏi sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp… để làm việc trong bộ máy chính
quyền, đảng, đoàn thể, những người là sĩ quan trong lực lượng Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân, những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức kinh tế…
Theo các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay, sử dụng
đồng thời ba thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức. Hiến pháp năm 2013 ở
Điều 8 "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải
tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…". Theo quy định của Hiến
15
pháp thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm
cán bộ, công chức và viên chức.
Căn cứ tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 thì “Cán
bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ,
chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước.”
Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ
các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong
các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định
là cán bộ.
Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia
trên thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc
riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Tùy thuộc
vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội và chế độ chính sách của mỗi quốc gia
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà nội dung của khái niệm công chức
được hiểu theo những cách khác nhau.
Theo Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),
Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến nay là Luật Tổ chức VKSND năm
2014 qui định thì tại Điều 74 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp [38].
Đồng thời, căn cứ Nghị định 60/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định
những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt Nam,
16
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế,
hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ
quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4].
Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND gồm: Phó Viện trưởng
VKSND tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng,
vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện VKSND cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc
trong văn phòng, phòng thuộc VKSND cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện
trưởng VKSND cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc
trong VKSND cấp huyện.
Qua phân tích các quy định trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái
quát về Kiểm sát viên VKSND như sau: Kiểm sát viên VKSND là công dân
Việt Nam được bổ nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm
nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
VKSND là một bộ phận trong bộ máy chính quyền nhà nước. Kiểm sát
viên VKSND là những người hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy
định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và cơ quan nhà
nước cấp trên. Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, công chức
nhà nước, hoạt động của Kiểm sát viên đều hướng theo mục tiêu nhiệm vụ
chung.
Về vị trí: Là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.
Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp.
17
Về tổ chức, quyền hạn: Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất,
bao gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương, các
VKS quân sự và được phân cấp đảm nhiệm những chức năng. Do đó, Kiểm
sát viên VKSND gồm hai bộ phận, một là, chỉ thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo bổ nhiệm ngạch Kiểm sát
viên; hai là, vừa thực hiện chức năng trên vừa giữ chức danh quản lý theo sự
bỏ phiếu tín nhiệm của từng nhiệm kỳ.
Về hoạt động: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND
trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người
phạm tội; kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp.
Đặc điểm của Kiểm sát viên VKSND được thể hiện cụ thể sau đây:
Kiểm sát viên là người thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ
tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích
của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải
được xử lý theo pháp luật.
Kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh
chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; đấu tranh
không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; kiên quyết bảo
vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu,
học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”; nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật,
nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, Kiểm sát viên là
những người gần dân, sát dân, biết dân, vì nhân dân phục vụ nên dễ làm dân
18
tin và dân mến, có điều kiện thuận lợi trong việc thuyết phục, vận động nhân
dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn không ít Kiểm sát
viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc được giao, trong giải quyết công
việc còn thiếu trách nhiệm mà coi nhẹ kỷ cương, pháp luật.
Kiểm sát viên là người có trình độ chuyên môn và có năng lực công tác.
Theo tiêu chuẩn thì Kiểm sát viên có trình độ cử nhân luật trở lên, đã hoàn
thành đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Kiểm sát viên hiểu biết, nắm vững và áp
dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế, các quy
chế nghiệp vụ của ngành, nhất là các quy định của pháp luật trong lĩnh vực
công tác được giao để giải quyết công việc được chính xác, có chất lượng,
hiệu quả; vận dụng linh hoạt, nhạy bén các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, đồng thời biết gắn
nhiệm vụ công tác được giao với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của
Đảng; có khả năng tham mưu, hướng dẫn pháp luật trong công tác. Ngoài ra,
với tính chất công việc và yêu cầu nhiệm vụ, Kiểm sát viên có mối quan hệ
công tác và tiếp xúc với nhiều người khác nhau như: Điều tra viên, Thẩm
phán, Luật sư và viên chức các ban ngành có liên quan đến công việc, quần
chúng hay bị can, bị cáo, đương sự … nên Kiểm sát viên còn có các kĩ năng
giải quyết vấn đề, phân tích thông tin và kỹ năng báo cáo, kĩ năng tranh tụng
trước tòa, hùng biện và nói trước đám đông, thuyết phục. Khi thực thi pháp
luật, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và
Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình trong việc thực
hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối tượng
công chức nhà nước khác.
Kiểm sát viên không có tính ổn định, là công chức trong biên chế, làm
việc suốt đời (60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ), nhưng chức danh
19
được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nếu không được bổ nhiệm thì không còn giữ
chức danh Kiểm sát viên nữa; thường có sự điều động, luân chuyển. Về nghĩa
vụ, trách nhiệm có tính đặc thù, chuyên trách với trách nhiệm cao, thường
xuyên làm việc với đối tượng phạm tội, nhưng thực chất chế độ của Kiểm sát
viên chưa được hưởng tương xứng và đầy đủ. Bên cạnh đó, có những Kiểm
sát viên còn hạn chế về năng lực, trình độ, chưa nắm vững các quy định pháp
luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Trong bộ máy nhà nước, VKSND có một vị trí đặc biệt. Luật tổ chức
VKSND năm 2014 khẳng định rõ địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến
định trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân. Hệ thống cơ quan VKSND gồm VKSND tối cao,
các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương và các Viện kiểm sát quân sự.
VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
VKSND cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân
cấp cao. VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Các Viện
kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong quân đội.
1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là lĩnh vực pháp luật có tính chất
liên ngành, các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các
20
nghị định trong đó Luật cán bộ, công chức; các nghị định của Chính phủ về
cán bộ, công chức, Luật tổ chức VKSND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với
vị trí là những văn bản chung.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để
làm hình thành pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hiến pháp quy định các
nguyên tắc mang tính chính trị - xã hội cốt yếu của nền hành chính, thông qua
quy định nghĩa vụ của công chức nhà nước trong hoạt động công vụ; quyền tự
do của công dân trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hành chính - chính
trị; quy định trình tự pháp lý của việc thiết lập các chức vụ chính trị trong bộ
máy nhà nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức vụ
trong bộ máy đó. Các quy định này là cơ sở định hướng cho việc xây dựng chế
độ pháp lý về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng.
Luật cán bộ, công chức là văn bản qui định liên quan tới mọi mặt đời sống
công vụ; xác định phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ ; các quy tắc chung về
tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật v.v...của
cán bộ, công chức nói chung, trong đó có Kiểm sát viên VKSND.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức
VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn
bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới Kiểm sát viên, qui định các mặt
cụ thể của chế độ công vụ của Kiểm sát viên VKSND, quy định về: tuyển
dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật
chất, .... của Kiểm sát viên VKSND.
Như vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một lĩnh vực pháp luật,
bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới mọi mặt của Kiểm sát
viên VKSND và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản lập pháp và lập
quy này do cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương ban hành. Phạm vi
điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình thiết lập đội ngũ Kiểm sát viên.
21
Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái quát như
sau: Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các quy phạm pháp luật
thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, quy định các nguyên tắc của chế độ công vụ, trật tự
hoạt động công vụ, điều chỉnh các quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức
danh công chức của VKSND; các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND
trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử
dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách
Kiểm sát viên VKSND.
1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Quy định pháp luật điều chỉnh về Kiểm sát viên có ở nhiều văn bản
khác nhau. Dưới góc độ luật Hiến pháp - Luật Hành chính, dựa vào các quan
hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, trên cơ sở thực
tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Địa vị pháp lý - công vụ của chức danh Kiểm sát viên. Vấn đề này
thường trả lời cho câu hỏi, Kiểm sát viên có phải là cán bộ, hay công chức
trong nền công vụ mà nó đang tồn tại.
- Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên.
- Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Kiểm sát viên.
- Chế độ đối với Kiểm sát viên.
Như vậy có thể thấy, hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm
sát viên là: Thứ nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát
viên, bao gồm các quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và
nghĩa vụ pháp lý của Kiểm sát viên; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý
22
(hành chính) đối với Kiểm sát viên như: tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản
lý, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật, miễn
nhiệm, cách chức. Trong từng trường hợp cụ thể mà có thể xác định nguồn
quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội cụ thể đối với Kiểm sát viên. Trong
phạm vi luận văn này, chủ yếu tập trung vào một số nội dung cơ bản của hai
nhóm nêu trên, đó là các quy định về: nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của Kiểm sát viên; quy định về tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên; và mối quan hệ công vụ của Kiểm sát
viên với cơ quan tiến hành tố tụng khác.
1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân,
là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó Hiến pháp là tối cao, tối
thượng, các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác không trái, mâu
thuẫn với Hiến pháp. Pháp luật của NNPQ là pháp luật vì con người, phục vụ
con người, điều đó đòi hỏi muốn xây dựng NNPQ trước hết phải xây dựng
được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện cả về nội dung và hình thức,
trong đó có pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Như vậy, pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây
dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Vai trò đó thể hiện ở những khía
cạnh sau:
Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện để Đảng ta
thực hiện quan điểm về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng. Pháp luật là phương tiện thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chính
sách của Đảng. Chính sách đưa ra phương hướng phải tiến tới, ấn định nguyên
tắc giải quyết các vấn đề, còn pháp luật quy định cụ thể trong từng trường hợp
mỗi người có quyền và nghĩa vụ gì, phải hành động hay không được hành động,
quy định những biện pháp cưỡng chế nếu có những hành vi vi phạm. Đồng thời,
23
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng chính là phương tiện để Đảng kiểm
nghiệm chủ trương, đường lối của mình trong thực tiễn.
Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là lĩnh vực có
quy mô và phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều
chỉnh, trong đó có quan hệ hành chính nhân sự là một trong những vấn đề
quan trọng, mối quan tâm hàng đầu của nền hành chính các quốc gia. Pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể những quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ quản lý nhân sự, đảm bảo trật tự công vụ và sự vận hành có
hiệu quả của bộ máy nhà nước từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng đến khâu sử dụng, quản lý và các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật
đối với Kiểm sát viên VKSND. Các văn bản pháp luật đó quy định phạm vi,
quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
các chức vụ hành chính được nhà nước trao cho nhằm tạo ra hành lang pháp
lý trong quá trình thực thi công vụ, phục vụ nhân dân. Việc quy định nhiệm
vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm và không được
làm là đảm bảo pháp lý giúp cho Kiểm sát viên VKSND hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật, vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công chức vừa bảo đảm các mệnh lệnh, quyết định quản lý nhà nước
đều được tổ chức thực hiện đầy đủ.
Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện cho đội ngũ
Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, bảo vệ lợi ích nhà nước,
đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận trong hệ thống
pháp luật nhà nước, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ chức vụ hành chính nhà nước. Các hoạt động của Kiểm sát viên
VKSND trong bộ máy nhà nước nhằm thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát
viên VKSND là những người được nhà nước lựa chọn làm nhân sự ủy thác,
24
thay mặt nhà nước để thi hành chức trách. Do đó, hoạt động công vụ của họ
mang tính quyền lực nhà nước.
Trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước: Việc
pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các bảo đảm pháp lý,
những việc Kiểm sát viên không được làm… nhằm tạo điều kiện cho Kiểm
sát viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, mặt khác để bảo
vệ danh dự, uy tín và lợi ích của nhà nước, của quốc gia. Hầu hết các văn bản
pháp luật có tầm quan trọng quy định về chế độ Kiểm sát viên VKSND đã
khẳng định Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành phục vụ nhà nước,
phục vụ nhân dân, làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đảm bảo cho các
quyết định, mệnh lệnh của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi
ích của nhà nước. Trong mối quan hệ này, pháp luật có vai trò xác định trách
nhiệm của Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước.
Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này,
pháp luật xác định Kiểm sát viên là công bộc của nhân dân, có nghĩa vụ tận
tụy phục vụ nhân dân; những quy định về địa vị pháp lý, những việc không
được làm, khen thưởng và kỷ luật là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát
viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình. Các quy định của pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của
nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh; hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm,
sách nhiễu, cửa quyền, ức hiếp dân, thậm chí còn tham nhũng, nhận hối lộ,
gây phiền hà cho dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc
dù Kiểm sát viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi
hành nhiệm vụ, công vụ nhưng quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND (theo
nghĩa đại diện nhà nước) với công dân vẫn là quan hệ giữa người phục vụ và
người được phục vụ, đều phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.
Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND có vai trò đặc biệt
25
quan trọng, nó không chỉ là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về
xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND, mà còn là phương tiện quan trọng
trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở và bảo vệ lợi ích nhà
nước, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện
Kiểm sát nhân dân
1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý
Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là nội dung trọng yếu
của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Điều đó đã được xác định rõ ràng,
chính thức qua các văn kiện quan trọng nhất của Đảng và ghi nhận trang trọng
trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [12].
Điều này đòi hỏi Đảng và nhân dân ta vừa thực hiện, vừa nghiên cứu, tổng
kết, để hình thành dần và ngày càng hoàn thiện mô hình phù hợp với yêu cầu mà
lịch sử đã đặt ra cho chúng ta; nhằm đưa cách mạng nước ta đến mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây thực sự là nhiệm vụ quan trọng không chỉ vì thuộc tính cơ bản của
NNPQ là tính tối cao của pháp luật, mà còn vì pháp luật đóng vai trò không
thể thiếu trong việc thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác
quốc tế; cơ sở để đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay
còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu các bộ luật, đạo luật, đặc biệt là pháp luật về
kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, công chức, công vụ v.v... Yêu cầu
26
đặt ra, phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện, phù hợp với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta trên cơ sở vận dụng các thành tựu
khoa học hiện đại, kỹ thuật pháp lý tiên tiến vào công tác lập pháp, lập quy.
Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ
cần phải đáp ứng được những yêu tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND đạt chất lượng. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND suy cho cùng là việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật. Trong
điều kiện xây dựng NNPQ, điều cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của
Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao
trong đời sống xã hội. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ
XHCN không thể là sản phẩm tùy tiện, tự do, duy ý chí của nhà nước và các
nhà làm luật. Ngược lại, trong NNPQ xã hội chủ nghĩa, pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND phải phù hợp với bản chất khách quan của các quan hệ xã hội, ý
chí của toàn dân và các nguyên tắc pháp luật XHCN.
Tuy nhiên, chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trước hết phải hoàn thiện
và tăng cường công tác quy hoạch đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng
sao cho nội dung của đường lối, chính sách của Đảng phải phản ánh đầy đủ và
khách quan quy luật tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội cần phải được
điều chỉnh bằng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao năng lực hoạt
động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của Chính phủ và các cơ
quan nhà nước khác; pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được thông
qua theo trình tự thủ tục pháp lý chặt chẽ, dân chủ và khoa học.
Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa phải
được sắp xếp theo một thứ bậc chặt chẽ nhất. Trong đó, Hiến pháp là đạo luật
27
có hiệu lực pháp lý cao nhất. Các quy định của Hiến pháp là nguồn, làm căn
cứ cho tất cả các văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Quá trình hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải tuân thủ Hiến pháp cả về nội
dung lẫn hình thức, cả thủ tục ban hành lẫn phạm vi hiệu lực. Pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm tính thống nhất với pháp luật về cán bộ,
công chức nhà nước nói chung và không được trái, không được mâu thuẫn với
các quy định của Hiến pháp.
Thứ ba, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh quy trình làm luật: chặt
chẽ, khách quan, dân chủ. Điều này đòi hỏi trong quá trình ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND chúng ta phải xác định
đúng đối tượng và phạm vi điều chỉnh, bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ;
mức độ điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phải phù hợp với từng lĩnh vực quan hệ xã hội, tránh tạo ra sự vênh
nhau giữa các mức độ và phạm vi điều chỉnh; bảo đảm một thứ tự ưu tiên hợp
lý và sự cụ thể hóa kịp thời bằng các văn bản hướng dẫn. Như vậy, chúng ta
mới tạo ra được một cơ chế đủ sức huy động cao nhất là các sáng kiến lập
pháp, lập quy của nhân dân, của các cơ quan Đảng, Nhà nước và bảo đảm tính
khả thi của các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, tạo ra khả năng
phối hợp một cách đồng bộ các cơ chế, chính sách và tổ chức để thực thi, đưa
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vào cuộc sống.
Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ xã hội chủ nghĩa phải
là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND và cải
cách chế độ công vụ. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải thể hiện bản
chất dân chủ, giá trị công bằng, bình đẳng, phù hợp với hiện thực khách quan
và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Không thể xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND một cách tùy tiện. Tình trạng ban hành hoặc
28
thay đổi quá nhanh và thiếu tính khả thi các văn bản quy phạm pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND của các Bộ, ngành và địa phương sẽ làm suy giảm lòng
tin của nhân dân vào những giá trị công bằng và khả năng điều chỉnh của pháp
luật. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng NNPQ là quyết
tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND nói riêng, đặt công việc đó trên một nền tảng khoa học.
Để thực hiện được những yêu cầu nhiệm vụ trên đây, trước hết cần phải
có một chiến lược xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thật sự khoa
học, tiên tiến, phù hợp với thực tiễn điều kiện Việt Nam và theo kịp xu thế
của quốc tế; nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, lập quy và chất
lượng của hoạt động lập pháp, lập quy.
1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy
NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm
sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Đây chính là bước phát triển trong
nhận thức của Đảng ta tiếp thu những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền
trong xây dựng NNPQ ở nước ta. Trong điều kiện không có đối trọng và kiềm
chế lẫn nhau giữa các quyền lực như ở các nhà nước theo nguyên tắc phân
quyền thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động nhà
nước là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu ở nước ta và vì thế đẩy mạnh
xây dựng NNPQ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước trước hết phải là hoàn thiện
cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, kiện toàn các cơ quan và các
thiết chế giám sát. Trong cơ chế giám sát đó thì VKSND là một thành tố, là
thiết chế giám sát có tính chuyên nghiệp cần thiết cho Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao của mình. Ở góc độ khác phải thấy rằng, Chính phủ,
29
VKSND tối cao, Toà án nhân dân tối cao không chỉ là đối tượng giám sát tối
cao của Quốc hội mà các cơ quan này cũng có vai trò nhất định trong phản
biện quyền lực của Quốc hội thông qua những ý kiến phản hồi về tính thiếu
khả thi, chồng chéo không thống nhất của hệ thống pháp luật, những hạn chế
của các đạo luật cụ thể do Quốc hội ban hành. Đây chính là quan hệ biện
chứng về kiểm soát quyền lực trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Với ý nghĩa hết sức quan trọng của cơ cấu, tổ chức bộ máy trong việc
thực hiện pháp luật Kiểm sát viên có hiệu quả. Do đó, xác định nhiệm vụ rồi
mới thành lập tổ chức, có tổ chức mới sắp xếp, bố trí công tác, cán bộ. Mỗi
Viện kiểm sát và cán bộ, Kiểm sát viên các cấp đều phải được tổ chức, xác
định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng. Các khâu công tác, cũng như
việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải trên cơ sở yêu cầu và nội
dung của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng tổ chức trong sạch,
vững mạnh.
VKSND mặc dù có những thay đổi nhất định nhưng về tổng thể luôn là
một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc
thù, có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Hệ thống VKSND bao gồm:
VKSND tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (sau đây gọi là VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi là VKSND cấp huyện); Viện
kiểm sát quân sự các cấp.
Tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn
phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tương đương; các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác; Viện
kiểm sát quân sự trung ương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao gồm
có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các viện và tương đương. Tổ chức bộ máy
của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các phòng và
tương đương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp huyện gồm có văn phòng và
30
các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận
công tác và bộ máy giúp việc.
Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự trung
ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân
sự khu vực. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm
có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các phòng và tương
đương. Tổ chức bộ máy của VKS quân sự quân khu và tương đương gồm
có: Ủy ban kiểm sát; các ban và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy của VKS
quân sự vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
Việc xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể của
VKSND vẫn bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Viện kiểm sát vẫn là công cụ thực hiện hiệu quả tư tưởng
Nhà nước pháp quyền, khẳng định nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, các đạo
luật của Nhà nước. Viện kiểm sát nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói
riêng là người bảo vệ pháp luật quan trọng nhất của quốc gia, bảo vệ bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức
Ngày 26/7/1960, ngành Kiểm sát được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành,
ngành Kiểm sát đã từng bước củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát,
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị quyết
49-NQ/TW Ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
31
đến năm 2020 quy định: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các
cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ. Tăng cường công tác xây
dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng
viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng
cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình
độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng VKSND và Chánh
án tòa án nhân dân các cấp” [8].
Công tác tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sau
này. Do đó, việc tuyển dụng cần thông báo công khai rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng, việc thành lập và hoạt động của Hội đồng
tuyển dụng công chức, các Ban giúp việc cho Hội đồng tuyển dụng công chức
đều được bảo đảm đúng quy trình, thủ tục theo quy định của Viện KSND tối
cao, tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển, qua đó, có điều kiện sàng lọc, tuyển
dụng được những cán bộ có tài, có đức. Cán bộ Kiểm sát viên phải tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; phải đấu tranh không
khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; phải kiên quyết bảo vệ
Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu,
học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính
trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.Cái tâm của người cán bộ L n ki
ể1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính
Xây dựng đội ngũ cán Kiểm sát viên phải đi liền với yếu tố cơ sở, vật
chất và nguồn lực tài chính, chế độ, chính sách nhằm phát huy tính chủ động,
tích cực, đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân. Cần tăng thời hạn bổ nhiệm
chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn; có chế
độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp.
32
Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang thiết bị và nguồn lực tài
chính sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát huy tài năng sáng tạo của đội
ngũ Kiểm sát viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đầu tư nguồn lực tài chính đầy đủ và phù hợp sẽ góp phần xây dựng
được đội ngũ Kiểm sát viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Theo đó,
cần đầu tư kinh phí về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi học, ưu tiên đào tạo cán
bộ trẻ, trong diện quy hoạch.... Khi cử cán bộ đi học, hỗ trợ tiền ăn, ở, học
phí, tiền mua giáo trình, tài liệu... theo từng đối tượng phù hợp, đảm bảo các
điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học...
Hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là hoạt
động đặc biệt, đòi hỏi cường độ lao động cao, sự đầu tư về trí tuệ lớn, trách
nhiệm pháp lý nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Thực tế cho
thấy, đại đa số cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn do đồng lương thấp.
Việc đổi mới chính sách về tiền lương đối với đội ngũ cán bộ các cơ quan tư
pháp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng là một nhu cầu cần thiết. Thực hiện
tốt chính sách ưu đãi về tiền lương, phụ cấp sẽ tạo điều kiện giúp Kiểm sát
viên giảm bớt khó khăn, yên tâm nhiệt tình công tác.
Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác thi đua khen thưởng, có chế độ
khen thưởng, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần đối với những
Kiểm sát viên có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác.
Tiểu kết chương 1
Bằng phương pháp tiếp cận có khoa học để xác định những nội dung
quan trọng liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn đã tập
trung phân tích các khái niệm cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên
VKSND nói riêng, chỉ ra sự khác nhau giữa cán bộ và công chức cũng như
đặc điểm và vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND.
33
Dưới góc độ luật học, luận văn đã luận giải và xây dựng khái niệm pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND; nhận diện, phân tích các đặc điểm của pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND, xuất phát từ nhu cầu của quản lý và đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.
Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCCN ở nước ta hiện nay, luận văn
một mặt phân tích để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND, mặt khác chỉ rõ yêu cầu của NNPQ xã hội chủ nghĩa đối với
việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở những căn cứ
và tiêu chí khoa học.
Qua việc phân tích một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề nêu
trên, có thể khẳng định hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp
ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay hoàn toàn có cơ sở lý
luận khoa học và là yêu cầu khách quan và tất yếu.
Chương 2
34
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân
2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên là vấn đề quan
trọng trong quy chế pháp lý của Kiểm sát viên. Theo Điều 83 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 quy định, Kiểm sát viên có các nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm sau:
- Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát
viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND.
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố,
tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi
có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền
từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện
trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn
bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về
hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp
trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật về quyết định của mình.
Viện trưởng VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối
với vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có
quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Kiểm sát viên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định.
35
- Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm sát
viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát viên
ở ngạch cao hơn.
- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết
luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh những quy định nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm, pháp luật cũng quy định những việc Kiểm sát viên không được làm:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm.
- Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc
người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không
đúng quy định của pháp luật.
- Can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc hoặc lợi dụng ảnh hưởng
của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc.
- Đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan nếu không vì
nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
- Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong
vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
Để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về vai trò của người
Kiểm sát viên, pháp luật còn quy định việc Tuyên thệ của Kiểm sát viên tại
Điều 85 Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ:
Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân;
Thứ hai, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm
pháp luật;
Thứ ba, kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng
xã hội;
Thứ tư, không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch
Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”;
36
Thứ năm, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân.
2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên
Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành kiểm sát được tổ chức
theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, đứng đầu là Viện
trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nhưng Viện trưởng VKSND không thể tự mình thực hiện hết mọi quyền năng
theo luật định mà phải thông qua hoạt động của các thành viên khác, đặc biệt
là đội ngũ Kiểm sát viên. Để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các lĩnh vực hoạt động tư pháp, phát huy tính hiệu quả trong hoạt
động, đòi hỏi các Kiểm sát viên phải nắm vững pháp luật và kiến thức của
nhiều ngành khoa học liên quan, không ngừng nâng cao hiểu biết về chính trị
- xã hội và nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Công tác kiểm sát và
thực hành quyền công tố là một nhiệm vụ chính trị, mọi hoạt động của Kiểm
sát viên đều nhằm phục vụ nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược mà Đảng và Nhà
nước định ra trong từng thời kỳ (từng giai đoạn Cách mạng). Vì lẽ đó, có trình
độ chuyên môn nghiệp vụ thôi chưa đủ, Kiểm sát viên phải có đạo đức chính
trị, phải trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có ý thức pháp luật cao,
đấu tranh không khoan nhượng với bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào.
Kiểm sát viên phải là người “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng”
như lời Bác Hồ dạy. Là lực lượng chủ yếu của VKSND, những công dân
được bổ nhiệm Kiểm sát viên phải đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn
theo pháp luật quy định, đó là những tiêu chuẩn chung và riêng đối với Kiểm
sát viên VKSND.
* Về tiêu chuẩn chung
37
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn chung của
Kiểm sát viên tại Điều 75 như sau: “Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm
chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh
thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử nhân luật
trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; có thời gian làm công tác
thực tiễn theo quy định của Luật này; có sức khoẻ để đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao” [38].
Như vậy, tiêu chuẩn chung của người được tuyển chọn bổ nhiệm làm
Kiểm sát viên gồm có tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, thời gian công tác thực tiễn và sức khỏe đảm bảo hoàn thành
nhiệm vụ. Tiêu chuẩn này đã được đề cập tới tại Điều 53, Sắc lệnh số 13/SL
ngày 26 tháng 01 năm 1946 với quy định: “Vào ngạch thẩm phán phải có đủ
ba điều kiện chung: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông đàn bà;
có hạnh kiểm tốt; chưa can án bao giờ” (theo Sắc lệnh này thẩm phán gồm
thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội, thẩm phán buộc tội là người thực
hiện chức năng công tố), sau đó được cụ thể hơn trong luật Tổ chức VKSND
các năm 1981, 1992, 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 1993, 2002 và hiện
nay là Luật Tổ chức VKSND năm 2014.
* Tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên viện kiểm sát các cấp
Trên cơ sở tiêu chuẩn chung trên, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014 đã xác định tiêu chuẩn cụ thể của kiểm sát viên viện kiểm sát các cấp.
Đối với Kiểm sát viên sơ cấp, phải đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại
Điều 77 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “Người có đủ tiêu chuẩn chung
của Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là có thời gian làm công tác pháp
luật từ 04 năm trở lên; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp thì có
thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu
38
là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung
cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với kiểm sát viên trung cấp, theo quy định tại Điều 78 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên
và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm; có năng
lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả năng hướng
dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp đối
với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung
cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát
nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với Kiểm sát viên cao cấp, theo quy định tại Điều 79 Luật tổ chức
VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên
và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm; có
năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả năng
hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát
viên cao cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của
VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38].
Đối với kiểm sát viên VKSND tối cao, theo quy định tại Điều 80 Luật
tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm
sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất 05 năm;
có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKSND tối cao; có lực giải quyết những vấn đề quan
trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối cao thì có thể được tuyển chọn, bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên” [38].VKSNDTC.
39
Như vậy, điểm mới của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 so với Pháp
lệnh Kiểm sát viên 2002 là quy định có 04 ngạch Kiểm sát viên gồm: Kiểm
sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp,
Kiểm sát viên sơ cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp tương ứng
với tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao hiện nay và nâng cao
tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao. Về số lượng Kiểm sát
viên VKSND tối cao quy định không quá 19 người. Về nhiệm kỳ Kiểm sát
viên, Luật năm 2014 quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời
hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là
10 năm. Về cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên, Luật năm 2014 quy định: Áp
dụng hình thức thi tuyển vào các ngạch Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao
cấp. Hội đồng thi được tổ chức ở VKSND tối cao, do Viện trưởng VKSND
tối cao làm Chủ tịch, các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan.
Không áp dụng hình thức thi tuyển vào ngạch đối với Kiểm sát viên VKSND
tối cao. Trong trường hợp cần thiết, có thể bổ nhiệm những người đủ thời gian
làm Kiểm sát viên cấp dưới trực tiếp theo quy định của pháp luật. Điều này có
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo năng lực thực tiễn và quá
trình phấn đấu rèn luyện đối với người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm
sát viên VKSND các cấp.
2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và
thuyên chuyển Kiểm sát viên
* Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên
Tuyển chọn kiểm sát viên là một nội dung quan trọng gắn với hoạt
động quản lý hành chính đối với Kiểm sát viên. Việc tuyển chọn Kiểm sát
viên phải đạt được mục đích: tuyển chọn được những người có đủ tiêu chuẩn
làm Kiểm sát viên, bảo đảm tính khách quan, công bằng trong hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là nhằm
chuẩn hoá đội ngũ Kiểm sát viên chuyên nghiệp. Vì vậy, trong công tác tuyển
40
chọn, phương thức tuyển chọn, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ hoạt động của
Kiểm sát viên là những vấn đề cơ bản, cấp thiết.
Nếu như trước đây, những cán bộ đảm nhận nhiệm vụ công tố thời kỳ
1946-1959 do cử thì chức danh Kiểm sát viên từ năm 1960 tới nay việc tuyển
chọn thường được tiến hành theo thủ tục bổ nhiệm. Theo đó, người được
tuyển chọn làm Kiểm sát viên do người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết
định bổ nhiệm, riêng đối với Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu.
Theo quy định của Pháp lệnh kiểm sát viên 2002, để giúp Chủ tịch nước và
Viện trưởng VKSND tối cao trong việc bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND ở
mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên. Theo quy định của Luật
Tổ chức VKSND năm 2014 thì có những đổi mới, thể hiện:
Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao: Hội
đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao gồm: Chủ tịch là Viện trưởng
VKSND tối cao và các uỷ viên là đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội
vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội luật gia
Việt Nam. Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối
cao do Uỷ banbthường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng
VKSND tối cao.
Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị tuyển
chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao, trình bày ý kiến đề nghị
việc tuyển chọn và bổ nhiệm đối với người đó Kiểm sát viên VKSND tối cao,
theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát VKSND tối cao, Hội đồng tuyển
chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao làm việc theo chế độ tập thể và quyết định
của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao tuyển chọn người đủ tiêu
chuẩn làm Kiểm sát viên VKSND tối cao rồi báo cáo danh sách Kiểm sát viên
được chọn đến Viện trưởng VKSND tối cao để trình Chủ tịch nước xem xét và
quyết định bổ nhiệm.
41
- Thành phần và quy trình Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung
cấp, Kiểm sát viên cao cấp:
Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp,
Kiểm sát viên cao cấp gồm có Chủ tịch là Viện trưởng KSND tối cao và các
ủy viên là một Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự trung ương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh sách Hội đồng thi tuyển Kiểm
sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do Viện
trưởng KSND tối cao quyết định.
Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người đề nghị thi tuyển để bổ
nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao
cấp, theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao,. Hội đồng thi tuyển KSV
sơ cấp, KSV trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp Tổ chức các kỳ thi tuyển Kiểm
sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp và công bố
danh sách những người trúng tuyển. Hội đồng báo cáo danh sách người trúng
tuyển đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm
sát viên cao cấp VKSND các cấp để đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao
xem xét và quyết định bổ nhiệm.
Việc quy định thành phần và quy trình bổ nhiệm như trên thể hiện tính
dân chủ, khách quan của các cơ quan, tổ chức xã hội, các đoàn thể và nhân
dân thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn người xứng đáng giữ cán
cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên VKSND tối cao và
Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Bên cạnh đó,
việc tổ chức thi tuyển Kiểm sát viên là cách để lựa chọn được người thực sự
có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo
quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 để bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ
cấp, trung cấp và cao cấp.
42
* Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân các cấp
Việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ tịch
nước quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Việc miễn
nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên VKSND cấp cao, trung cấp do Viện
trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng VKSND
cấp cao.
Trình tự, thủ tục xem xét đề nghị miễn nhiệm, cách chức chức danh
kiểm sát viên được tiến hành theo trình tự sau: Chủ tịch nước, Viện trưởng
VKSND tối cao báo cáo với Hội đồng tuyển chọn về hồ sơ đề nghị miễn
nhiệm hoặc cách chức đối với chức danh Kiểm sát viên và trình bày ý kiến đề
nghị miễn nhiệm, cách chức. Các thành viên trong Hội đồng căn cứ vào quy
định của Pháp lệnh và hồ sơ đề nghị, tiến hành thảo luận, trao đổi về miễn
nhiệm, cách chức. Chủ tịch Hội đồng kết luận, các thành viên Hội đồng có
mặt biểu quyết công khai bằng hình thức giơ tay. Sau đó, Viện trưởng
VKSND tối cao làm văn bản đề nghị Chủ tịch nước quyết định miễn nhiệm
hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên VKSND tối cao; Viện trưởng
VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện KSND cấp cao làm văn bản đề nghị Viện
trưởng VKSND tối cao miễn nhiệm hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên
VKSND cấp mình.
* Thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên
Việc thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên các cấp được pháp
luật quy định nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý theo
địa giới hành chính hoặc theo nhiệm vụ công tác của địa phương. Do đó,
thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên phải đáp ứng được yêu cầu của
công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà
nước, đồng thời phải đảm bảo đời sống của Kiểm sát viên. Việc điều động,
43
biệt phái Kiểm sát viên từ VKSND địa phương này tới VKSND cùng cấp ở
địa phương khác do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định.
2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố
tụng khác
- Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan điều tra.
Cơ quan điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện các biện pháp
nghiệp vụ thông qua các điều tra viên để xác định sự thật của vụ việc đã xảy
ra một cách khách quan, chính xác và toàn diện.
Trong hệ thống tư pháp, điều tra và công tố luôn là mắt xích quan
trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác kịp thời, xử lý
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan
người vô tội. Hoạt động kiểm sát của KSV có quan hệ mật thiết với cơ quan
điều tra, đặc biệt trong tư pháp hình sự. Pháp luật đã quy định mối quan hệ
chặt chẽ giữa các khâu phát hiện, điều tra tội phạm và luận tội nhằm mục đích
truy tố chính xác tội phạm và kẻ phạm tội ra trước tòa.
Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên thực hiện
quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố
hoặc thay đổi quyết định khởi tố theo ủy quyền của Viện trưởng VKSND cấp
mình. Kiểm sát viên có quyền yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo luật định. Khi kiểm sát việc điều tra của cơ quan điều tra,
đảm bảo việc điều tra đúng pháp luật, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc
khởi tố, kiểm sát các họat động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan
điều tra, có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong quá trình
điều tra, cung cấp tài liệu khi cần và khi điều tra viên vi phạm pháp luật.
Đồng thời báo cáo Viện trưởng viện kiểm sát cấp mình khi có tranh chấp về
thẩm quyền điều tra để Viện trưởng có quyết định kịp thời, đảm bảo điều tra
đúng tiến độ.
44
Như vậy, Kiểm sát viên là người trực tiếp kiểm tra giám sát cơ quan
điều tra trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các
yêu cầu và quyết định của Kiểm sát viên (trường hợp không đồng ý, cơ quan
điều tra có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên). Để hoạt động điều tra
của cơ quan điều tra đảm bảo tính khách quan, toàn diện và chính xác, rất cần
hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên VKSND - người thực hiện chức năng
đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
- Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Tòa án.
Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng xét xử. Thực hiện
chức năng công tố là chức năng riêng có của VKSND theo ủy quyền của Viện
trưởng, tại phiên tòa xét xử hình sự, Kiểm sát viên đọc Cáo trạng, phát biểu
quan điểm của Viện kiểm sát và tham gia tranh tụng. Theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên
tại phiên tòa là điều kiện để phiên tòa diễn ra hợp pháp, nếu Kiểm sát viên
vắng mặt mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế, phiên tòa phải hoãn
lại. Tại phiên toà, chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp
lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham
gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với
những quy định này, Tòa án đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của
Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo những lập luận đầy đủ, thuyết phục của
Kiểm sát viên khi bảo vệ quan điểm của VKSND.
Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn thực hiện
kiểm sát việc xét xử của tòa án, đảm bảo tòa án xét xử đúng người, đúng tội.
Khác với mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Kiểm sát viên mối quan hệ
này thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử. Giai đoạn này, Tòa án thực hiện
chức năng xét xử còn Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát việc thực hiện chức
năng ấy, đồng thời duy trì chức năng kiểm sát, cùng với Tòa án xác định sự
45
thật của vụ án để xét xử khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan thi hành án.
Trong chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có công
tác kiểm sát thi hành án và Pháp lệnh thi hành án cũng quy định VKSND
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp
hành viên... Có nghĩa giữa cơ quan thi hành án và Kiểm sát viên tồn tại một
quan hệ chặt chẽ. Bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải
được thi hành, và cơ quan thi hành án là người chịu trách nhiệm chính. Việc
bản án, quyết định của tòa án được thi hành trên thực tế mới đảm bảo được
tính giáo dục phòng ngừa đối với cộng đồng, mới khẳng định được sự nghiêm
minh của pháp luật. Thời điểm án được thi hành cũng là thời điểm Kiểm sát
viên hoàn thành nhiệm vụ được giao đối với một vụ án cụ thể. Thực hiện công
tác kiểm sát thi hành án Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
ra quyết định thi hành án đúng quy định, tự kiểm tra việc thi hành, trực tiếp
kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới,
quyền kháng nghị và yêu cầu khi có căn cứ đối với cơ quan thi hành án...
Pháp luật hiện hành quy định cơ quan thi hành án không phải là cơ quan độc
lập mà chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước, và sự
quản lý về chuyên môn của Cục Thi hành án trực thuộc Bộ tư pháp, điều này
đã ảnh hưởng không ít tới chất lượng thi hành án, vấn đề này sẽ được sửa đổi
khi luật thi hành án ra đời. Khi cơ quan thi hành án là một cơ quan độc lập,
mối quan hệ với Kiểm sát viên sẽ có sự thay đổi.
- Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với luật sư.
Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, được Bộ tư pháp công nhận
quyền tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác (khi có
đủ tiêu chuẩn theo luật định) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân tổ chức, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT

More Related Content

What's hot

Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nướcBài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
Học Huỳnh Bá
 

What's hot (19)

Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Quy trình xây dựng pháp lệnh ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chất lượng thủ tục hành chính trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn: Chất lượng thủ tục hành chính trong xây dựng văn bản quy phạmLuận văn: Chất lượng thủ tục hành chính trong xây dựng văn bản quy phạm
Luận văn: Chất lượng thủ tục hành chính trong xây dựng văn bản quy phạm
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nướcBài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
Bài tập tổng hợp môn văn bản quản lý nhà nước
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
Luatbanhanhvanbanso 80-2015-qh13
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật - Vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOTLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 

Similar to Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT

Similar to Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT (20)

Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
Luận văn: Năng lực kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành...
 
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOTPháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
 
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà MauLuận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân ...
Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân ...Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân ...
Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra ở Viện kiểm sát nhân ...
 
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOTĐề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
HuyBo25
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
Gingvin36HC
 

Recently uploaded (20)

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Mar...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
Hoạt động truyền thông qua mạng xã hội của các công ty BHNT hàng đầu việt nam...
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 

Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN THỊ NHÂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC ĐẮK LẮK – NĂM 2017
  • 2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA TRẦN THỊ NHÂN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỀN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Minh Sản ĐẮK LẮK – NĂM 2017
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn với tiêu đề “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” hoàn toàn là kết quả nghiên cứu của chính bản thân tôi và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào của người khác. Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã thực hiện nghiêm túc các quy tắc đạo đức nghiên cứu; các kết quả trình bày trong luận văn là sản phẩm nghiên cứu, khảo sát của riêng cá nhân tôi; tất cả các tài liệu tham khảo sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn tường minh, theo đúng quy định. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội dung khác trong luận văn của mình. Đắk Lắk, ngày 20 tháng 3 năm 2017 Tác giả Luận văn Trần Thị Nhân
  • 4. 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………… ...................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn…… ………… ................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn………................. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ...................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................... 5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ............. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn............................................. 5 7. Kết cấu của luận văn............................................................................. 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.............................................. 7 1.1.1. Khái niệm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân .......................... 7 1.1.2. Đặc điểm kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân............................ 9 1.1.3. Vị trí, vai trò của kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân................ 11 1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.......................... 12 1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân...... 12 1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân....... 13 1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân..... 14 1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân..................................................................................................... 17
  • 5. 5 1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý .................................................................... 17 1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy................................................................... 20 1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức................................................................ 23 1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính................................. 23 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân..................................................................................................... 26 2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên ................................................................................................................... 26 2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên...................................... 28 2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Kiểm sát viên.......................................................................... 31 2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác ......................................................................................................... 34 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay........................................................................... 38 2.2.1. Hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên............................................................................................................. 38 2.2.2. Về tiêu chuẩn, trình tự thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân........................................... 49 2.2.3. Về mối quan hệ giữa kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác ................................................................................................................... 51
  • 6. 6 2.3. Đánh giá chung việc thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay............................................................. 53 2.3.1. Những kết quả đạt được.................................................................. 53 2.3.2. Những hạn chế, bất cập................................................................... 55 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập....................................... 59 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY 3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân .................................................................................. 63 3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân .......................................................................................................... 63 3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân ................................................................................................................... 67 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hiện nay...................................................................................... 74 3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân........................................................................... 74 3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân...................................................................... 75 KẾT LUẬN............................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................. 79
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NNPQ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Đất nước đang bước vào công cuộc đổi mới toàn diện, là một trong những cơ quan của chuyên chính vô sản, trách nhiệ m của ngành kiểm sát, người cán bộ kiểm sát là hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân (VKSND), "Người cán bộ Kiểm sát viên phải thấy hết trách nhiệm cao cả và nặng nề của mình, luôn luôn tôn trọng sự thật, phân rõ đúng sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, công minh, chính trực" (Lê Duẩn). Ngay từ khi nước nhà giành độc lập, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã chú ý tới những cán bộ làm nhiệm vụ công tố, những vấn đề pháp lý về chức danh này bước đầu được điều chỉnh trong những văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Sự ra đời của VKSND năm 1960 đánh dấu sự hình thành chức danh Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát sự tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND trong hệ thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang được khẳng định. Với cơ quan Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là người trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm vụ thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh, công bằng. Là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của cả nước, Đắk Lắk có diện tích hơn 13.000 km2 ; dân số gần 02 triệu người; có 47 dân tộc anh em ở khắp các vùng, miền trong cả nước cùng về đây sinh sống; có 73 km đường biên giới giáp tỉnh Munđunkiri thuộc nước bạn Cam- pu-chia; tỉnh Đắk Lắk tiếp giáp với 05 tỉnh bạn là Gia Lai, Đắk Nông, Lâm Đồng, Khánh Hoà và Phú Yên; có 03 quốc lộ 14, 26 và 27 chạy qua; có 15
  • 9. 9 đơn vị hành chính cấp huyện gồm 01 thành phố cấp 01 Buôn Ma Thuột, 01 thị xã Buôn Hồ và 13 huyện, với 184 xã, 2.445 thôn, buôn, bản. Trong những năm qua, tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh luôn diễn biến và tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, nhất là các hoạt động của bọn phản động Fulrô lưu vong liên quan đến tình hình an ninh nông thôn và tội phạm hình sự (lượng án ở Đắk Lắk giải quyết đứng thứ 5 trên toàn quốc). Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND tỉnh Đắk Lắk đã góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh. VKSND tỉnh Đắk Lắk không thể đảm nhận được vai trò, nếu thiếu nhân tố có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên của hai cấp. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên hai cấp có đủ phẩm chất và năng lực là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân, vì dân, pháp luật về Kiểm sát viên đã bộc lộ những những yếu kém, bất cập: thiếu tính đồng bộ, tính thống nhất; nhiều quy định về Kiểm sát viên còn chung chung, chưa hoàn toàn phù hợp; số lượng định biên và cơ cấu chức danh Kiểm sát viên còn gò bó, cứng nhắc, có nơi thiếu, nơi thừa, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị; các quy định về quản lý còn phân tán, chống chéo, thiếu thống nhất, chưa có sự phân công rõ ràng, rành mạch; tiêu chuẩn đối với Kiểm sát viên còn nhiều mâu thuẫn, chưa ăn khớp; công tác đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên chậm được đổi mới; tiền lương, phụ cấp và các đãi ngộ khác đối với Kiểm sát viên chưa được giải quyết một cách cơ bản, còn nhiều bất hợp lý; một số chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng về Kiểm sát viên chưa được thể chế hóa thành pháp luật; chính sách thu hút và trọng dụng tài năng chưa được quan tâm; tình trạng cục bộ địa phương chậm được
  • 10. 10 khắc phục; nhiều vấn đề mới phát sinh trong quản lý và xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên chưa được pháp luật điều chỉnh, bổ sung kịp thời, vv... Những thiếu sót đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến trình độ, chất lượng của đội ngũ Kiểm sát viên tỉnh Đắk Lắk còn thấp; năng lực của một bộ phận không nhỏ Kiểm sát viên còn yếu kém, chưa toàn tâm toàn ý với công vụ, thiếu công tâm, khách quan, còn có những biểu hiện tiêu cực, chưa được nhân dân tín nhiệm. Để tạo được một hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên có được sự đổi mới cơ bản, có hệ thống quy phạm, nguyên tắc, định hướng và mục đích pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ, thống nhất và có tính khả thi cao đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận, pháp lý cần phải được giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc chọn và nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” là yêu cầu khách quan và tất yếu, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” cho thấy, các nhà khoa học tiếp cận theo nhiều cách, với những cấp độ khác nhau, trong đó đáng chú ý như: Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật; Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội; Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn; Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án
  • 11. 11 tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số vấn đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ; Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2009; Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Tuy vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên biệt về pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên biệt về: “Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân - Thực tiễn từ tỉnh Đắk Lắk” dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Với kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần khắc phục tình trạng nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn hướng tới làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk để đưa ra các quan điểm, phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong thời gian tới. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên đây, luận văn có nhiệm vụ: Thứ nhất, luận văn xây dựng cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thông qua việc phân tích, làm rõ khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; đặc điểm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nội dung pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; vai trò pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; các yếu tố bảo đảm thực hiện hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Thứ hai, trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, luận văn đánh giá khách quan về những kết quả
  • 12. 12 đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này. Thứ ba, luận văn hình thành các quan điểm, đề xuất phương hướng và các giải pháp cơ bản, có tính hệ thống và bảo đảm cơ sở khoa học nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hiện hành của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Dưới góc độ tiếp cận của khoa học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, phạm vi nghiên cứu của luận văn được xác định là pháp luật về Kiểm sát viên VKSND ở Việt Nam, được đánh giá thông qua thực tiễn thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND tỉnh Đắk Lắk, thời gian từ năm 2012 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2016; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Để phù hợp với nội dung và mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng hợp lý, có hiệu quả từng từng phương pháp nghiên cứu cụ thể, trong đó luận văn chú trọng các phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ thống về pháp luật Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà
  • 13. 13 nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp. Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống dân sự. Luận văn có thể được tham khảo trong xây dựng chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020, trong đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp; tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành pháp luật, tư pháp và các khóa bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành kiểm sát nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; Chương 2: Thực trạng pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thi hành ở tỉnh Đắk Lắk; Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và bảo đảm thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
  • 14. 14 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Để có quan niệm xác thực về Kiểm sát viên VKSND, trước hết cần phải tiếp cận nó như một bộ phận cấu thành của hệ thống cán bộ, công chức nhà nước và là một thuật ngữ có tính tập hợp. Cán bộ, theo quan niệm thông thường được hiểu là những người thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp… để làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, những người là sĩ quan trong lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, những người giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế… Theo các văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay, sử dụng đồng thời ba thuật ngữ: cán bộ, công chức, viên chức. Hiến pháp năm 2013 ở Điều 8 "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân…". Theo quy định của Hiến
  • 15. 15 pháp thì những người phục vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước bao gồm cán bộ, công chức và viên chức. Căn cứ tại khoản 1 Điều 4 Luật Cán bộ công chức năm 2008 thì “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.” Theo quy định này thì tiêu chí xác định cán bộ gắn với cơ chế bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thông qua bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ chức danh theo nhiệm kỳ thì được xác định là cán bộ. Công chức là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là khái niệm mang tính lịch sử, đồng thời phản ánh đặc sắc riêng của nền công vụ và tổ chức bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia. Tùy thuộc vào đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội và chế độ chính sách của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà nội dung của khái niệm công chức được hiểu theo những cách khác nhau. Theo Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức VKSND năm 2002 và đến nay là Luật Tổ chức VKSND năm 2014 qui định thì tại Điều 74 quy định: Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [38]. Đồng thời, căn cứ Nghị định 60/NĐ-CP ngày 25/01/2010 quy định những người là công chức thì xác định “Công chức là công dân Việt Nam,
  • 16. 16 được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [4]. Theo đó, công chức trong hệ thống VKSND gồm: Phó Viện trưởng VKSND tối cao; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, vụ, cục, ban và Viện nghiệp vụ thuộc VKSND tối cao; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện VKSND cấp tỉnh; kiểm sát viên, điều tra viên; người làm việc trong văn phòng, phòng thuộc VKSND cấp tỉnh; Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong VKSND cấp huyện. Qua phân tích các quy định trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái quát về Kiểm sát viên VKSND như sau: Kiểm sát viên VKSND là công dân Việt Nam được bổ nhiệm vào vào ngạch Kiểm sát viên theo nhiệm kỳ để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 1.1.2. Đặc điểm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân VKSND là một bộ phận trong bộ máy chính quyền nhà nước. Kiểm sát viên VKSND là những người hoạt động theo thẩm quyền được pháp luật quy định, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, hoạt động của Kiểm sát viên đều hướng theo mục tiêu nhiệm vụ chung. Về vị trí: Là cơ quan trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp. Về chức năng, nhiệm vụ: Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
  • 17. 17 Về tổ chức, quyền hạn: Hệ thống VKSND là một hệ thống thống nhất, bao gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương, các VKS quân sự và được phân cấp đảm nhiệm những chức năng. Do đó, Kiểm sát viên VKSND gồm hai bộ phận, một là, chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo bổ nhiệm ngạch Kiểm sát viên; hai là, vừa thực hiện chức năng trên vừa giữ chức danh quản lý theo sự bỏ phiếu tín nhiệm của từng nhiệm kỳ. Về hoạt động: Thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội; kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Đặc điểm của Kiểm sát viên VKSND được thể hiện cụ thể sau đây: Kiểm sát viên là người thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được xử lý theo pháp luật. Kiểm sát viên có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”; nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND. Chính vì vậy, Kiểm sát viên là những người gần dân, sát dân, biết dân, vì nhân dân phục vụ nên dễ làm dân
  • 18. 18 tin và dân mến, có điều kiện thuận lợi trong việc thuyết phục, vận động nhân dân tuân thủ pháp luật, thực hiện đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy còn không ít Kiểm sát viên chưa toàn tâm, toàn ý với công việc được giao, trong giải quyết công việc còn thiếu trách nhiệm mà coi nhẹ kỷ cương, pháp luật. Kiểm sát viên là người có trình độ chuyên môn và có năng lực công tác. Theo tiêu chuẩn thì Kiểm sát viên có trình độ cử nhân luật trở lên, đã hoàn thành đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát. Kiểm sát viên hiểu biết, nắm vững và áp dụng đúng các quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế, các quy chế nghiệp vụ của ngành, nhất là các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công tác được giao để giải quyết công việc được chính xác, có chất lượng, hiệu quả; vận dụng linh hoạt, nhạy bén các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, đồng thời biết gắn nhiệm vụ công tác được giao với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng; có khả năng tham mưu, hướng dẫn pháp luật trong công tác. Ngoài ra, với tính chất công việc và yêu cầu nhiệm vụ, Kiểm sát viên có mối quan hệ công tác và tiếp xúc với nhiều người khác nhau như: Điều tra viên, Thẩm phán, Luật sư và viên chức các ban ngành có liên quan đến công việc, quần chúng hay bị can, bị cáo, đương sự … nên Kiểm sát viên còn có các kĩ năng giải quyết vấn đề, phân tích thông tin và kỹ năng báo cáo, kĩ năng tranh tụng trước tòa, hùng biện và nói trước đám đông, thuyết phục. Khi thực thi pháp luật, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Đây cũng là những đặc điểm khác biệt của Kiểm sát viên so với các đối tượng công chức nhà nước khác. Kiểm sát viên không có tính ổn định, là công chức trong biên chế, làm việc suốt đời (60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ), nhưng chức danh
  • 19. 19 được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, nếu không được bổ nhiệm thì không còn giữ chức danh Kiểm sát viên nữa; thường có sự điều động, luân chuyển. Về nghĩa vụ, trách nhiệm có tính đặc thù, chuyên trách với trách nhiệm cao, thường xuyên làm việc với đối tượng phạm tội, nhưng thực chất chế độ của Kiểm sát viên chưa được hưởng tương xứng và đầy đủ. Bên cạnh đó, có những Kiểm sát viên còn hạn chế về năng lực, trình độ, chưa nắm vững các quy định pháp luật và các quy định có liên quan nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Trong bộ máy nhà nước, VKSND có một vị trí đặc biệt. Luật tổ chức VKSND năm 2014 khẳng định rõ địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nước, có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hệ thống cơ quan VKSND gồm VKSND tối cao, các VKSND cấp cao, các VKSND địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND cấp cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao. VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quân đội. 1.2. Pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân 1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là lĩnh vực pháp luật có tính chất liên ngành, các quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến pháp, các luật, bộ luật, pháp lệnh, các
  • 20. 20 nghị định trong đó Luật cán bộ, công chức; các nghị định của Chính phủ về cán bộ, công chức, Luật tổ chức VKSND có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với vị trí là những văn bản chung. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để làm hình thành pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hiến pháp quy định các nguyên tắc mang tính chính trị - xã hội cốt yếu của nền hành chính, thông qua quy định nghĩa vụ của công chức nhà nước trong hoạt động công vụ; quyền tự do của công dân trên các lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực hành chính - chính trị; quy định trình tự pháp lý của việc thiết lập các chức vụ chính trị trong bộ máy nhà nước; quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chức vụ trong bộ máy đó. Các quy định này là cơ sở định hướng cho việc xây dựng chế độ pháp lý về cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng. Luật cán bộ, công chức là văn bản qui định liên quan tới mọi mặt đời sống công vụ; xác định phạm vi, các quyền, nghĩa vụ công vụ ; các quy tắc chung về tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật v.v...của cán bộ, công chức nói chung, trong đó có Kiểm sát viên VKSND. Luật tổ chức VKSND năm 2014 là văn bản hợp nhất Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND năm 2011, là văn bản trực tiếp và quan trọng nhất liên quan tới Kiểm sát viên, qui định các mặt cụ thể của chế độ công vụ của Kiểm sát viên VKSND, quy định về: tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật chất, .... của Kiểm sát viên VKSND. Như vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một lĩnh vực pháp luật, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới mọi mặt của Kiểm sát viên VKSND và chế độ công vụ đối với họ. Những văn bản lập pháp và lập quy này do cơ quan nhà nước ở Trung ương, địa phương ban hành. Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thiết lập đội ngũ Kiểm sát viên.
  • 21. 21 Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ luật học có thể khái quát như sau: Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể các quy phạm pháp luật thể hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, quy định các nguyên tắc của chế độ công vụ, trật tự hoạt động công vụ, điều chỉnh các quan hệ về công vụ trong thiết lập các chức danh công chức của VKSND; các quyền, nghĩa vụ của Kiểm sát viên VKSND trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ; việc bổ nhiệm, tuyển dụng, sử dụng, quản lý, khen thưởng, kỷ luật và các vấn đề khác trong chính sách Kiểm sát viên VKSND. 1.2.2. Nội dung pháp luật về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Quy định pháp luật điều chỉnh về Kiểm sát viên có ở nhiều văn bản khác nhau. Dưới góc độ luật Hiến pháp - Luật Hành chính, dựa vào các quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, trên cơ sở thực tiễn pháp luật, có thể xác định được nội dung của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND gồm những vấn đề cơ bản sau: - Địa vị pháp lý - công vụ của chức danh Kiểm sát viên. Vấn đề này thường trả lời cho câu hỏi, Kiểm sát viên có phải là cán bộ, hay công chức trong nền công vụ mà nó đang tồn tại. - Nhiệm kỳ Kiểm sát viên, các ngạch Kiểm sát viên. - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. - Tiêu chuẩn Kiểm sát viên, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên. - Chế độ đối với Kiểm sát viên. Như vậy có thể thấy, hai nhóm nội dung cơ bản của pháp luật về Kiểm sát viên là: Thứ nhất, nhóm các quy định về chế độ hoạt động của Kiểm sát viên, bao gồm các quy định về địa vị pháp lý, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý của Kiểm sát viên; thứ hai, nhóm các quy định về quản lý
  • 22. 22 (hành chính) đối với Kiểm sát viên như: tuyển chọn, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, điều động, khen thưởng, kỷ luật, miễn nhiệm, cách chức. Trong từng trường hợp cụ thể mà có thể xác định nguồn quy phạm điều chỉnh quan hệ xã hội cụ thể đối với Kiểm sát viên. Trong phạm vi luận văn này, chủ yếu tập trung vào một số nội dung cơ bản của hai nhóm nêu trên, đó là các quy định về: nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên; quy định về tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên; và mối quan hệ công vụ của Kiểm sát viên với cơ quan tiến hành tố tụng khác. 1.2.3. Vai trò của pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì dân, là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó Hiến pháp là tối cao, tối thượng, các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác không trái, mâu thuẫn với Hiến pháp. Pháp luật của NNPQ là pháp luật vì con người, phục vụ con người, điều đó đòi hỏi muốn xây dựng NNPQ trước hết phải xây dựng được một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện cả về nội dung và hình thức, trong đó có pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Như vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một trong những phương tiện có vai trò quan trọng để xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân. Vai trò đó thể hiện ở những khía cạnh sau: Một là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Pháp luật là phương tiện thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, chính sách của Đảng. Chính sách đưa ra phương hướng phải tiến tới, ấn định nguyên tắc giải quyết các vấn đề, còn pháp luật quy định cụ thể trong từng trường hợp mỗi người có quyền và nghĩa vụ gì, phải hành động hay không được hành động, quy định những biện pháp cưỡng chế nếu có những hành vi vi phạm. Đồng thời,
  • 23. 23 pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng chính là phương tiện để Đảng kiểm nghiệm chủ trương, đường lối của mình trong thực tiễn. Hai là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện quan trọng trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là lĩnh vực có quy mô và phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, trong đó có quan hệ hành chính nhân sự là một trong những vấn đề quan trọng, mối quan tâm hàng đầu của nền hành chính các quốc gia. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ quản lý nhân sự, đảm bảo trật tự công vụ và sự vận hành có hiệu quả của bộ máy nhà nước từ khâu tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng đến khâu sử dụng, quản lý và các chế độ đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật đối với Kiểm sát viên VKSND. Các văn bản pháp luật đó quy định phạm vi, quyền hạn, nhiệm vụ và trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở các chức vụ hành chính được nhà nước trao cho nhằm tạo ra hành lang pháp lý trong quá trình thực thi công vụ, phục vụ nhân dân. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, những việc Kiểm sát viên VKSND được làm và không được làm là đảm bảo pháp lý giúp cho Kiểm sát viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình trên cơ sở pháp luật, vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công chức vừa bảo đảm các mệnh lệnh, quyết định quản lý nhà nước đều được tổ chức thực hiện đầy đủ. Ba là, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là phương tiện cho đội ngũ Kiểm sát viên thực thi đúng chức trách của mình, bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận trong hệ thống pháp luật nhà nước, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ chức vụ hành chính nhà nước. Các hoạt động của Kiểm sát viên VKSND trong bộ máy nhà nước nhằm thực thi quyền hành pháp. Kiểm sát viên VKSND là những người được nhà nước lựa chọn làm nhân sự ủy thác,
  • 24. 24 thay mặt nhà nước để thi hành chức trách. Do đó, hoạt động công vụ của họ mang tính quyền lực nhà nước. Trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND với nhà nước: Việc pháp luật quy định các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, các bảo đảm pháp lý, những việc Kiểm sát viên không được làm… nhằm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên VKSND hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình, mặt khác để bảo vệ danh dự, uy tín và lợi ích của nhà nước, của quốc gia. Hầu hết các văn bản pháp luật có tầm quan trọng quy định về chế độ Kiểm sát viên VKSND đã khẳng định Kiểm sát viên VKSND có nghĩa vụ trung thành phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân, làm tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, đảm bảo cho các quyết định, mệnh lệnh của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi ích của nhà nước. Trong mối quan hệ này, pháp luật có vai trò xác định trách nhiệm của Kiểm sát viên VKSND đối với nhà nước. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với công dân: Trong mối quan hệ này, pháp luật xác định Kiểm sát viên là công bộc của nhân dân, có nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhân dân; những quy định về địa vị pháp lý, những việc không được làm, khen thưởng và kỷ luật là cơ sở pháp lý quan trọng để Kiểm sát viên thực thi đúng bổn phận, trách nhiệm của mình. Các quy định của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nhằm đảm bảo các quyết định, mệnh lệnh của nhà nước được thi hành nghiêm chỉnh; hạn chế tình trạng thiếu trách nhiệm, sách nhiễu, cửa quyền, ức hiếp dân, thậm chí còn tham nhũng, nhận hối lộ, gây phiền hà cho dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với nhà nước. Mặc dù Kiểm sát viên có những quyền, bảo đảm pháp lý nhất định trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ nhưng quan hệ giữa Kiểm sát viên VKSND (theo nghĩa đại diện nhà nước) với công dân vẫn là quan hệ giữa người phục vụ và người được phục vụ, đều phải tuân thủ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật. Tóm lại, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND có vai trò đặc biệt
  • 25. 25 quan trọng, nó không chỉ là phương tiện để Đảng ta thực hiện quan điểm về xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND, mà còn là phương tiện quan trọng trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước ở cơ sở và bảo vệ lợi ích nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân 1.3.1. Yếu tố thể chế pháp lý Xây dựng NNPQ là yêu cầu tất yếu khách quan, là nội dung trọng yếu của thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Điều đó đã được xác định rõ ràng, chính thức qua các văn kiện quan trọng nhất của Đảng và ghi nhận trang trọng trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" [12]. Điều này đòi hỏi Đảng và nhân dân ta vừa thực hiện, vừa nghiên cứu, tổng kết, để hình thành dần và ngày càng hoàn thiện mô hình phù hợp với yêu cầu mà lịch sử đã đặt ra cho chúng ta; nhằm đưa cách mạng nước ta đến mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây thực sự là nhiệm vụ quan trọng không chỉ vì thuộc tính cơ bản của NNPQ là tính tối cao của pháp luật, mà còn vì pháp luật đóng vai trò không thể thiếu trong việc thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ; tăng cường hợp tác quốc tế; cơ sở để đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong khi đó, hệ thống pháp luật của chúng ta hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu các bộ luật, đạo luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, công chức, công vụ v.v... Yêu cầu
  • 26. 26 đặt ra, phải xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta trên cơ sở vận dụng các thành tựu khoa học hiện đại, kỹ thuật pháp lý tiên tiến vào công tác lập pháp, lập quy. Vì vậy, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ cần phải đáp ứng được những yêu tố cơ bản sau đây: Thứ nhất, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đạt chất lượng. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND suy cho cùng là việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật. Trong điều kiện xây dựng NNPQ, điều cốt yếu là đề cao vai trò và giá trị xã hội của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo Hiến pháp và pháp luật giữ địa vị tối cao trong đời sống xã hội. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ XHCN không thể là sản phẩm tùy tiện, tự do, duy ý chí của nhà nước và các nhà làm luật. Ngược lại, trong NNPQ xã hội chủ nghĩa, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với bản chất khách quan của các quan hệ xã hội, ý chí của toàn dân và các nguyên tắc pháp luật XHCN. Tuy nhiên, chất lượng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trước hết phải hoàn thiện và tăng cường công tác quy hoạch đường lối, chính sách lãnh đạo của Đảng sao cho nội dung của đường lối, chính sách của Đảng phải phản ánh đầy đủ và khách quan quy luật tồn tại và phát triển của các quan hệ xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao năng lực hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy của Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác; pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được thông qua theo trình tự thủ tục pháp lý chặt chẽ, dân chủ và khoa học. Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong điều kiện xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa phải được sắp xếp theo một thứ bậc chặt chẽ nhất. Trong đó, Hiến pháp là đạo luật
  • 27. 27 có hiệu lực pháp lý cao nhất. Các quy định của Hiến pháp là nguồn, làm căn cứ cho tất cả các văn bản pháp luật về Kiểm sát viên VKSND. Quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải tuân thủ Hiến pháp cả về nội dung lẫn hình thức, cả thủ tục ban hành lẫn phạm vi hiệu lực. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm tính thống nhất với pháp luật về cán bộ, công chức nhà nước nói chung và không được trái, không được mâu thuẫn với các quy định của Hiến pháp. Thứ ba, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải tuân thủ một cách nghiêm chỉnh quy trình làm luật: chặt chẽ, khách quan, dân chủ. Điều này đòi hỏi trong quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND chúng ta phải xác định đúng đối tượng và phạm vi điều chỉnh, bảo đảm tính toàn diện và đồng bộ; mức độ điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với từng lĩnh vực quan hệ xã hội, tránh tạo ra sự vênh nhau giữa các mức độ và phạm vi điều chỉnh; bảo đảm một thứ tự ưu tiên hợp lý và sự cụ thể hóa kịp thời bằng các văn bản hướng dẫn. Như vậy, chúng ta mới tạo ra được một cơ chế đủ sức huy động cao nhất là các sáng kiến lập pháp, lập quy của nhân dân, của các cơ quan Đảng, Nhà nước và bảo đảm tính khả thi của các quy định pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, tạo ra khả năng phối hợp một cách đồng bộ các cơ chế, chính sách và tổ chức để thực thi, đưa pháp luật về Kiểm sát viên VKSND vào cuộc sống. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trong NNPQ xã hội chủ nghĩa phải là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND và cải cách chế độ công vụ. Pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải thể hiện bản chất dân chủ, giá trị công bằng, bình đẳng, phù hợp với hiện thực khách quan và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội. Không thể xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND một cách tùy tiện. Tình trạng ban hành hoặc
  • 28. 28 thay đổi quá nhanh và thiếu tính khả thi các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND của các Bộ, ngành và địa phương sẽ làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào những giá trị công bằng và khả năng điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hàng đầu trong việc xây dựng NNPQ là quyết tâm đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND nói riêng, đặt công việc đó trên một nền tảng khoa học. Để thực hiện được những yêu cầu nhiệm vụ trên đây, trước hết cần phải có một chiến lược xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND thật sự khoa học, tiên tiến, phù hợp với thực tiễn điều kiện Việt Nam và theo kịp xu thế của quốc tế; nâng cao năng lực của các cơ quan lập pháp, lập quy và chất lượng của hoạt động lập pháp, lập quy. 1.3.2. Yếu tố tổ chức, bộ máy NNPQ XHCN Việt Nam là Nhà nước mà ở đó tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Đây chính là bước phát triển trong nhận thức của Đảng ta tiếp thu những hạt nhân hợp lý của thuyết phân quyền trong xây dựng NNPQ ở nước ta. Trong điều kiện không có đối trọng và kiềm chế lẫn nhau giữa các quyền lực như ở các nhà nước theo nguyên tắc phân quyền thì quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động nhà nước là cách thức kiểm soát quyền lực chủ yếu ở nước ta và vì thế đẩy mạnh xây dựng NNPQ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước trước hết phải là hoàn thiện cách thức, cơ chế giám sát quyền lực nhà nước, kiện toàn các cơ quan và các thiết chế giám sát. Trong cơ chế giám sát đó thì VKSND là một thành tố, là thiết chế giám sát có tính chuyên nghiệp cần thiết cho Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình. Ở góc độ khác phải thấy rằng, Chính phủ,
  • 29. 29 VKSND tối cao, Toà án nhân dân tối cao không chỉ là đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội mà các cơ quan này cũng có vai trò nhất định trong phản biện quyền lực của Quốc hội thông qua những ý kiến phản hồi về tính thiếu khả thi, chồng chéo không thống nhất của hệ thống pháp luật, những hạn chế của các đạo luật cụ thể do Quốc hội ban hành. Đây chính là quan hệ biện chứng về kiểm soát quyền lực trong điều kiện cụ thể của nước ta. Với ý nghĩa hết sức quan trọng của cơ cấu, tổ chức bộ máy trong việc thực hiện pháp luật Kiểm sát viên có hiệu quả. Do đó, xác định nhiệm vụ rồi mới thành lập tổ chức, có tổ chức mới sắp xếp, bố trí công tác, cán bộ. Mỗi Viện kiểm sát và cán bộ, Kiểm sát viên các cấp đều phải được tổ chức, xác định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng. Các khâu công tác, cũng như việc quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải trên cơ sở yêu cầu và nội dung của việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh. VKSND mặc dù có những thay đổi nhất định nhưng về tổng thể luôn là một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù, có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Hệ thống VKSND bao gồm: VKSND tối cao; VKSND cấp cao; VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là VKSND cấp tỉnh); VKSND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi là VKSND cấp huyện); Viện kiểm sát quân sự các cấp. Tổ chức bộ máy của VKSND tối cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tương đương; các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác; Viện kiểm sát quân sự trung ương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp cao gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các viện và tương đương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp tỉnh gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các phòng và tương đương. Tổ chức bộ máy của VKSND cấp huyện gồm có văn phòng và
  • 30. 30 các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc. Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát quân sự trung ương; Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương; Viện kiểm sát quân sự khu vực. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có: Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các phòng và tương đương. Tổ chức bộ máy của VKS quân sự quân khu và tương đương gồm có: Ủy ban kiểm sát; các ban và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy của VKS quân sự vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc. Việc xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể của VKSND vẫn bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Viện kiểm sát vẫn là công cụ thực hiện hiệu quả tư tưởng Nhà nước pháp quyền, khẳng định nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, các đạo luật của Nhà nước. Viện kiểm sát nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng là người bảo vệ pháp luật quan trọng nhất của quốc gia, bảo vệ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. 1.3.3. Yếu tố cán bộ, công chức Ngày 26/7/1960, ngành Kiểm sát được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, ngành Kiểm sát đã từng bước củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm sát, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị quyết 49-NQ/TW Ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
  • 31. 31 đến năm 2020 quy định: “Đảng lãnh đạo chặt chẽ hoạt động tư pháp và các cơ quan tư pháp về chính trị, tổ chức và cán bộ. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục, quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng VKSND và Chánh án tòa án nhân dân các cấp” [8]. Công tác tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên sau này. Do đó, việc tuyển dụng cần thông báo công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, việc thành lập và hoạt động của Hội đồng tuyển dụng công chức, các Ban giúp việc cho Hội đồng tuyển dụng công chức đều được bảo đảm đúng quy trình, thủ tục theo quy định của Viện KSND tối cao, tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển, qua đó, có điều kiện sàng lọc, tuyển dụng được những cán bộ có tài, có đức. Cán bộ Kiểm sát viên phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; phải đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; phải kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.Cái tâm của người cán bộ L n ki ể1.3.4. Yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính Xây dựng đội ngũ cán Kiểm sát viên phải đi liền với yếu tố cơ sở, vật chất và nguồn lực tài chính, chế độ, chính sách nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân. Cần tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn; có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp.
  • 32. 32 Đầu tư thỏa đáng về cơ sở vật chất và trang thiết bị và nguồn lực tài chính sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát huy tài năng sáng tạo của đội ngũ Kiểm sát viên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Đầu tư nguồn lực tài chính đầy đủ và phù hợp sẽ góp phần xây dựng được đội ngũ Kiểm sát viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Theo đó, cần đầu tư kinh phí về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đi học, ưu tiên đào tạo cán bộ trẻ, trong diện quy hoạch.... Khi cử cán bộ đi học, hỗ trợ tiền ăn, ở, học phí, tiền mua giáo trình, tài liệu... theo từng đối tượng phù hợp, đảm bảo các điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học... Hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là hoạt động đặc biệt, đòi hỏi cường độ lao động cao, sự đầu tư về trí tuệ lớn, trách nhiệm pháp lý nặng nề, nếu để xảy ra oan, sai phải bồi thường. Thực tế cho thấy, đại đa số cán bộ, Kiểm sát viên còn nhiều khó khăn do đồng lương thấp. Việc đổi mới chính sách về tiền lương đối với đội ngũ cán bộ các cơ quan tư pháp nói chung, Kiểm sát viên nói riêng là một nhu cầu cần thiết. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi về tiền lương, phụ cấp sẽ tạo điều kiện giúp Kiểm sát viên giảm bớt khó khăn, yên tâm nhiệt tình công tác. Bên cạnh đó, cần đổi mới công tác thi đua khen thưởng, có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần đối với những Kiểm sát viên có nhiều thành tích xuất sắc trong công tác. Tiểu kết chương 1 Bằng phương pháp tiếp cận có khoa học để xác định những nội dung quan trọng liên quan đến hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay, luận văn đã tập trung phân tích các khái niệm cán bộ, công chức nói chung và Kiểm sát viên VKSND nói riêng, chỉ ra sự khác nhau giữa cán bộ và công chức cũng như đặc điểm và vị trí, vai trò của Kiểm sát viên VKSND.
  • 33. 33 Dưới góc độ luật học, luận văn đã luận giải và xây dựng khái niệm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nhận diện, phân tích các đặc điểm của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, xuất phát từ nhu cầu của quản lý và đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND. Trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCCN ở nước ta hiện nay, luận văn một mặt phân tích để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, mặt khác chỉ rõ yêu cầu của NNPQ xã hội chủ nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trên cơ sở những căn cứ và tiêu chí khoa học. Qua việc phân tích một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề nêu trên, có thể khẳng định hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay hoàn toàn có cơ sở lý luận khoa học và là yêu cầu khách quan và tất yếu. Chương 2
  • 34. 34 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân 2.1.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên là vấn đề quan trọng trong quy chế pháp lý của Kiểm sát viên. Theo Điều 83 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định, Kiểm sát viên có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm sau: - Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND. Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp. Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng VKSND. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng VKSND cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình. Viện trưởng VKSND có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Kiểm sát viên. - Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định.
  • 35. 35 - Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn. - Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật. Bên cạnh những quy định nội dung về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm, pháp luật cũng quy định những việc Kiểm sát viên không được làm: - Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm. - Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không đúng quy định của pháp luật. - Can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc. - Đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. - Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định. Để nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về vai trò của người Kiểm sát viên, pháp luật còn quy định việc Tuyên thệ của Kiểm sát viên tại Điều 85 Luật tổ chức VKSND năm 2014. Người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ: Thứ nhất, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; Thứ hai, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật; Thứ ba, kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội; Thứ tư, không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”;
  • 36. 36 Thứ năm, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. 2.1.2. Các quy định về tiêu chuẩn Kiểm sát viên Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngành kiểm sát được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành, đứng đầu là Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nhưng Viện trưởng VKSND không thể tự mình thực hiện hết mọi quyền năng theo luật định mà phải thông qua hoạt động của các thành viên khác, đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên. Để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các lĩnh vực hoạt động tư pháp, phát huy tính hiệu quả trong hoạt động, đòi hỏi các Kiểm sát viên phải nắm vững pháp luật và kiến thức của nhiều ngành khoa học liên quan, không ngừng nâng cao hiểu biết về chính trị - xã hội và nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Công tác kiểm sát và thực hành quyền công tố là một nhiệm vụ chính trị, mọi hoạt động của Kiểm sát viên đều nhằm phục vụ nhiệm vụ trọng tâm, chiến lược mà Đảng và Nhà nước định ra trong từng thời kỳ (từng giai đoạn Cách mạng). Vì lẽ đó, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi chưa đủ, Kiểm sát viên phải có đạo đức chính trị, phải trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có ý thức pháp luật cao, đấu tranh không khoan nhượng với bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào. Kiểm sát viên phải là người “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng” như lời Bác Hồ dạy. Là lực lượng chủ yếu của VKSND, những công dân được bổ nhiệm Kiểm sát viên phải đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo pháp luật quy định, đó là những tiêu chuẩn chung và riêng đối với Kiểm sát viên VKSND. * Về tiêu chuẩn chung
  • 37. 37 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định về tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên tại Điều 75 như sau: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có trình độ cử nhân luật trở lên; đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này; có sức khoẻ để đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” [38]. Như vậy, tiêu chuẩn chung của người được tuyển chọn bổ nhiệm làm Kiểm sát viên gồm có tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thời gian công tác thực tiễn và sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ. Tiêu chuẩn này đã được đề cập tới tại Điều 53, Sắc lệnh số 13/SL ngày 26 tháng 01 năm 1946 với quy định: “Vào ngạch thẩm phán phải có đủ ba điều kiện chung: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông đàn bà; có hạnh kiểm tốt; chưa can án bao giờ” (theo Sắc lệnh này thẩm phán gồm thẩm phán xét xử và thẩm phán buộc tội, thẩm phán buộc tội là người thực hiện chức năng công tố), sau đó được cụ thể hơn trong luật Tổ chức VKSND các năm 1981, 1992, 2002, Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 1993, 2002 và hiện nay là Luật Tổ chức VKSND năm 2014. * Tiêu chuẩn cụ thể đối với Kiểm sát viên viện kiểm sát các cấp Trên cơ sở tiêu chuẩn chung trên, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã xác định tiêu chuẩn cụ thể của kiểm sát viên viện kiểm sát các cấp. Đối với Kiểm sát viên sơ cấp, phải đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại Điều 77 Luật tổ chức VKSND năm 2014: “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu
  • 38. 38 là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38]. Đối với kiểm sát viên trung cấp, theo quy định tại Điều 78 Luật tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38]. Đối với Kiểm sát viên cao cấp, theo quy định tại Điều 79 Luật tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm; có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp; đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của VKSND; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự” [38]. Đối với kiểm sát viên VKSND tối cao, theo quy định tại Điều 80 Luật tổ chức VKSND năm 2014 phải là “Người có đủ tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên và có đủ các điều kiện là đã là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất 05 năm; có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND tối cao; có lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của VKSND tối cao thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên” [38].VKSNDTC.
  • 39. 39 Như vậy, điểm mới của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 so với Pháp lệnh Kiểm sát viên 2002 là quy định có 04 ngạch Kiểm sát viên gồm: Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp tương ứng với tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao hiện nay và nâng cao tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao. Về số lượng Kiểm sát viên VKSND tối cao quy định không quá 19 người. Về nhiệm kỳ Kiểm sát viên, Luật năm 2014 quy định Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm, trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm. Về cơ chế tuyển chọn Kiểm sát viên, Luật năm 2014 quy định: Áp dụng hình thức thi tuyển vào các ngạch Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Hội đồng thi được tổ chức ở VKSND tối cao, do Viện trưởng VKSND tối cao làm Chủ tịch, các ủy viên gồm đại diện lãnh đạo nhiều cơ quan. Không áp dụng hình thức thi tuyển vào ngạch đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao. Trong trường hợp cần thiết, có thể bổ nhiệm những người đủ thời gian làm Kiểm sát viên cấp dưới trực tiếp theo quy định của pháp luật. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo năng lực thực tiễn và quá trình phấn đấu rèn luyện đối với người được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND các cấp. 2.1.3. Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và thuyên chuyển Kiểm sát viên * Quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm kiểm sát viên Tuyển chọn kiểm sát viên là một nội dung quan trọng gắn với hoạt động quản lý hành chính đối với Kiểm sát viên. Việc tuyển chọn Kiểm sát viên phải đạt được mục đích: tuyển chọn được những người có đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên, bảo đảm tính khách quan, công bằng trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đặc biệt là nhằm chuẩn hoá đội ngũ Kiểm sát viên chuyên nghiệp. Vì vậy, trong công tác tuyển
  • 40. 40 chọn, phương thức tuyển chọn, thủ tục tuyển chọn và nhiệm kỳ hoạt động của Kiểm sát viên là những vấn đề cơ bản, cấp thiết. Nếu như trước đây, những cán bộ đảm nhận nhiệm vụ công tố thời kỳ 1946-1959 do cử thì chức danh Kiểm sát viên từ năm 1960 tới nay việc tuyển chọn thường được tiến hành theo thủ tục bổ nhiệm. Theo đó, người được tuyển chọn làm Kiểm sát viên do người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định bổ nhiệm, riêng đối với Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu. Theo quy định của Pháp lệnh kiểm sát viên 2002, để giúp Chủ tịch nước và Viện trưởng VKSND tối cao trong việc bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND ở mỗi cấp đều có Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên. Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì có những đổi mới, thể hiện: Thành phần và quy trình bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao: Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao gồm: Chủ tịch là Viện trưởng VKSND tối cao và các uỷ viên là đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội luật gia Việt Nam. Danh sách uỷ viên Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao do Uỷ banbthường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên VKSND tối cao, trình bày ý kiến đề nghị việc tuyển chọn và bổ nhiệm đối với người đó Kiểm sát viên VKSND tối cao, theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát VKSND tối cao, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao làm việc theo chế độ tập thể và quyết định của Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND tối cao tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên VKSND tối cao rồi báo cáo danh sách Kiểm sát viên được chọn đến Viện trưởng VKSND tối cao để trình Chủ tịch nước xem xét và quyết định bổ nhiệm.
  • 41. 41 - Thành phần và quy trình Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp: Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp gồm có Chủ tịch là Viện trưởng KSND tối cao và các ủy viên là một Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh sách Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do Viện trưởng KSND tối cao quyết định. Trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ của người đề nghị thi tuyển để bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp, theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao,. Hội đồng thi tuyển KSV sơ cấp, KSV trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp Tổ chức các kỳ thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp và công bố danh sách những người trúng tuyển. Hội đồng báo cáo danh sách người trúng tuyển đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp VKSND các cấp để đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao xem xét và quyết định bổ nhiệm. Việc quy định thành phần và quy trình bổ nhiệm như trên thể hiện tính dân chủ, khách quan của các cơ quan, tổ chức xã hội, các đoàn thể và nhân dân thông qua người đại diện trong việc tuyển chọn người xứng đáng giữ cán cân công lý. Mặt khác, quy định này cũng thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tham gia Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên VKSND tối cao và Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, cao cấp. Bên cạnh đó, việc tổ chức thi tuyển Kiểm sát viên là cách để lựa chọn được người thực sự có phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 để bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp và cao cấp.
  • 42. 42 * Miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân các cấp Việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên VKSND tối cao do Chủ tịch nước quyết định theo đề nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Việc miễn nhiệm, cách chức đối với Kiểm sát viên VKSND cấp cao, trung cấp do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng VKSND cấp cao. Trình tự, thủ tục xem xét đề nghị miễn nhiệm, cách chức chức danh kiểm sát viên được tiến hành theo trình tự sau: Chủ tịch nước, Viện trưởng VKSND tối cao báo cáo với Hội đồng tuyển chọn về hồ sơ đề nghị miễn nhiệm hoặc cách chức đối với chức danh Kiểm sát viên và trình bày ý kiến đề nghị miễn nhiệm, cách chức. Các thành viên trong Hội đồng căn cứ vào quy định của Pháp lệnh và hồ sơ đề nghị, tiến hành thảo luận, trao đổi về miễn nhiệm, cách chức. Chủ tịch Hội đồng kết luận, các thành viên Hội đồng có mặt biểu quyết công khai bằng hình thức giơ tay. Sau đó, Viện trưởng VKSND tối cao làm văn bản đề nghị Chủ tịch nước quyết định miễn nhiệm hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên VKSND tối cao; Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện KSND cấp cao làm văn bản đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao miễn nhiệm hoặc cách chức chức danh Kiểm sát viên VKSND cấp mình. * Thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên Việc thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên các cấp được pháp luật quy định nhằm mục đích điều động, phân bổ cán bộ một cách hợp lý theo địa giới hành chính hoặc theo nhiệm vụ công tác của địa phương. Do đó, thuyên chuyển công tác đối với Kiểm sát viên phải đáp ứng được yêu cầu của công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước, đồng thời phải đảm bảo đời sống của Kiểm sát viên. Việc điều động,
  • 43. 43 biệt phái Kiểm sát viên từ VKSND địa phương này tới VKSND cùng cấp ở địa phương khác do Viện trưởng VKSND tối cao quyết định. 2.1.4. Quy định về mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và các cơ quan tố tụng khác - Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện các biện pháp nghiệp vụ thông qua các điều tra viên để xác định sự thật của vụ việc đã xảy ra một cách khách quan, chính xác và toàn diện. Trong hệ thống tư pháp, điều tra và công tố luôn là mắt xích quan trọng, phục vụ đắc lực cho mục đích phát hiện chính xác kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Hoạt động kiểm sát của KSV có quan hệ mật thiết với cơ quan điều tra, đặc biệt trong tư pháp hình sự. Pháp luật đã quy định mối quan hệ chặt chẽ giữa các khâu phát hiện, điều tra tội phạm và luận tội nhằm mục đích truy tố chính xác tội phạm và kẻ phạm tội ra trước tòa. Thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên thực hiện quyền khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố theo ủy quyền của Viện trưởng VKSND cấp mình. Kiểm sát viên có quyền yêu cầu hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định. Khi kiểm sát việc điều tra của cơ quan điều tra, đảm bảo việc điều tra đúng pháp luật, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các họat động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra, có quyền yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục vi phạm trong quá trình điều tra, cung cấp tài liệu khi cần và khi điều tra viên vi phạm pháp luật. Đồng thời báo cáo Viện trưởng viện kiểm sát cấp mình khi có tranh chấp về thẩm quyền điều tra để Viện trưởng có quyết định kịp thời, đảm bảo điều tra đúng tiến độ.
  • 44. 44 Như vậy, Kiểm sát viên là người trực tiếp kiểm tra giám sát cơ quan điều tra trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Kiểm sát viên (trường hợp không đồng ý, cơ quan điều tra có quyền kiến nghị lên Viện kiểm sát cấp trên). Để hoạt động điều tra của cơ quan điều tra đảm bảo tính khách quan, toàn diện và chính xác, rất cần hoạt động kiểm sát của Kiểm sát viên VKSND - người thực hiện chức năng đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. - Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Tòa án. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng có chức năng xét xử. Thực hiện chức năng công tố là chức năng riêng có của VKSND theo ủy quyền của Viện trưởng, tại phiên tòa xét xử hình sự, Kiểm sát viên đọc Cáo trạng, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát và tham gia tranh tụng. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa là điều kiện để phiên tòa diễn ra hợp pháp, nếu Kiểm sát viên vắng mặt mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế, phiên tòa phải hoãn lại. Tại phiên toà, chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với những quy định này, Tòa án đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo những lập luận đầy đủ, thuyết phục của Kiểm sát viên khi bảo vệ quan điểm của VKSND. Ngoài chức năng thực hành quyền công tố, Kiểm sát viên còn thực hiện kiểm sát việc xét xử của tòa án, đảm bảo tòa án xét xử đúng người, đúng tội. Khác với mối quan hệ giữa cơ quan điều tra và Kiểm sát viên mối quan hệ này thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử. Giai đoạn này, Tòa án thực hiện chức năng xét xử còn Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát việc thực hiện chức năng ấy, đồng thời duy trì chức năng kiểm sát, cùng với Tòa án xác định sự
  • 45. 45 thật của vụ án để xét xử khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. - Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với cơ quan thi hành án. Trong chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND có công tác kiểm sát thi hành án và Pháp lệnh thi hành án cũng quy định VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên... Có nghĩa giữa cơ quan thi hành án và Kiểm sát viên tồn tại một quan hệ chặt chẽ. Bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành, và cơ quan thi hành án là người chịu trách nhiệm chính. Việc bản án, quyết định của tòa án được thi hành trên thực tế mới đảm bảo được tính giáo dục phòng ngừa đối với cộng đồng, mới khẳng định được sự nghiêm minh của pháp luật. Thời điểm án được thi hành cũng là thời điểm Kiểm sát viên hoàn thành nhiệm vụ được giao đối với một vụ án cụ thể. Thực hiện công tác kiểm sát thi hành án Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đúng quy định, tự kiểm tra việc thi hành, trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới, quyền kháng nghị và yêu cầu khi có căn cứ đối với cơ quan thi hành án... Pháp luật hiện hành quy định cơ quan thi hành án không phải là cơ quan độc lập mà chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước, và sự quản lý về chuyên môn của Cục Thi hành án trực thuộc Bộ tư pháp, điều này đã ảnh hưởng không ít tới chất lượng thi hành án, vấn đề này sẽ được sửa đổi khi luật thi hành án ra đời. Khi cơ quan thi hành án là một cơ quan độc lập, mối quan hệ với Kiểm sát viên sẽ có sự thay đổi. - Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với luật sư. Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, được Bộ tư pháp công nhận quyền tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác (khi có đủ tiêu chuẩn theo luật định) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.