SlideShare a Scribd company logo
1 of 124
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
............…/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ THỊ LANH
PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ THỊ HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ-NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Lê Thị Lanh
Lời Cảm Ơn
Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời
câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc
gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn PGS. TS. Lê Thị
Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn
đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và
täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm
giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để
giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017
Học viên
Lê Thị Lanh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ........................................................................................ 7
1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự.......................................................................7
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự.................................................................7
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự........................................................11
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự.............................................................13
1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự ......................15
1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự........................................................................16
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự........................................16
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự ..................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH PHÚ YÊN.....................................40
2.1. Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh phú yên ...............................................40
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Yên......................................................................................................40
2.1.2. Kết quả thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay..46
2.1.3. Nhận xét về tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ................51
2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú
Yên ............................................................................................................................57
2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên............57
2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên
............................................................................................................................60
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................79
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự..................................79
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải dựa trên nguyên
tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền..........................79
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải phù hợp với chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng về thi hành án dân sự ................80
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải nhằm phát huy vai trò
của cá nhân, tổ chức và nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự..........81
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam.........83
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả ....................83
3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng
lực hoạt động của đội ngũ chấp hành viên ...................................................89
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm
bảo đảm kỷ cương và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án
dân sự.................................................................................................................94
3.2.4. Tăng cường các biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự tồn
đọng....................................................................................................................95
3.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong công tác phối hợp
thi hành án dân sự............................................................................................97
3.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và chấp hành viên
trong công tác tổ chức thi hành án dân sự..................................................101
3.2.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin
pháp luật về thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên
quan đến thi hành án dân sự.........................................................................103
3.2.8. Thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự.......................106
KẾT LUẬN..................................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................112
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số việc qua các năm...............................................................47
Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc ............................................................47
Bảng 2.3: Tổng số tiền và giá trị hiện vật qua các năm..................................49
Bảng 2.4: Kết quả thi hành án dân sự về tiền .................................................49
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng nhằm đưa bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Toà án, quyết định của Trọng tài thương mại,
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra
thi hành trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và công dân góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn
xã hội. Điều 106 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[34 ]. Thi hành án dân sự là
một bộ phận trong chế định về thi hành án ở nước ta, được thực hiện bởi cơ
quan có thẩm quyền nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự được thực hiện
trong thực tiễn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992
và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 [49], công tác thi hành án dân sự
được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương
đến địa phương. Trải qua gần 25 năm, công tác thi hành án dân sự đã có nhiều
chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Thực hiện Luật Thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và
các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự- Bộ Tư
Pháp, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể về mặt tổ chức
bộ máy và về việc. Năm 2015 đã thi hành xong hơn 5.014việc, đạt 85,5% về
việc, hơn 82% về tiền (vượt 5% so với chỉ tiêu của Bộ Tư Pháp giao). Năm
2016 đã đạt tỷ lệ 79% về việc với 5.073 việc đã giải quyết xong trên số có
điều kiện thi hành (vượt 7% so với chỉ tiêu giao), thi hành xong hơn 130 tỷ
2
đồng, đạt 48% (vượt 15% so với chỉ tiêu giao). Các cơ quan thi hành án đã ra
quyết định cưỡng chế nhiều vụ việc, hầu hết đều đảm bảo an toàn, đúng pháp
luật, đảm bảo tình hình an ninh trật tự xã hội[19],[20] thành quả trên có vai
trò to lớn của quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên thời gian qua.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay
vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi
hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy
theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng
khiếu nại, tố cáo ngày càng diễn biến phức tạp; hoạt động phối hợp trong thi
hành án dân sự chưa được nhịp nhàng và đồng bộ, hiệu quả chưa cao; kết quả
công tác thi hành án dân sự hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn
đọng chuyển sang năm sau còn nhiều. Những bất cập này đã và đang làm
giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, chưa đáp ứng được
yêu cầu của pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành.
Tại tỉnh Phú Yên, pháp luật về thi hành án dân sự tại địa phương còn
tồn tại nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Bên cạnh
các bất cập chung xuất phát từ hệ thống pháp luật, thực trạng pháp luật về Thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn nhiều hạn chế: Công tác quản
lý, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thi hành án dân sự chưa chủ động; đội ngũ
cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng; sự phối
hợp trong hoạt động thi hành án với các cơ quan, tổ chức chưa hiệu quả, sự
khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành... Hơn nữa, trên thực tế
công tác thi hành án cũng chưa được các cấp, các ngành quan tâm xứng tầm
với nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về Thi hành án
dân sự cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc làm giảm đáng kể
3
hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, cần có các giải pháp
để giải quyết tổng thể.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về Thi
hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi
hành án dân sự như sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài cấp Bộ "Mô hình quản lý thống
nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự -
Bộ Tư pháp thực hiện[6]; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc
đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do
Bộ Tư pháp chủ trì [7].
- Luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến[13]; Luận văn thạc sĩ Luật
học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh
Thủy[48]; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam"
của tác giả Lê Xuân Hồng[30]; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái [47];
- Các bài viết, chuyên đề, giáo trình: Giáo trình môn Luật Thi hành án dân
sự của trường Đại học Luật Hà Nội[27]; Những nội dung cơ bản của Luật Thi
hành án dân sự - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Thạc sỹ luật học Lê Anh Tuấn -
Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp[46]; các bài viết chuyên khảo đăng trên các
tạp chí dân chủ pháp luật, sách báo chuyên ngành Luật…[11]
Tuy nhiên, chủ đề pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên
thì chưa có nghiên cứu nào đề cập. Do vậy, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích
nghiên cứu của đề tài là không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ
sở lý luận về pháp luật về Thi hành án dân sự hiện nay; Luận văn đánh giá
thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, trong
chương trình tổng thể về cải cách tư pháp đến năm 2020 và trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về THADS,
vai trò của THADS; phân tích nội dung của pháp luật về Thi hành án dân sự.
- Phân tích thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên,
đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của thực trạng thi
hành pháp luật về THADS tại tỉnh Phú Yên và làm rõ nguyên nhân của những
hạn chế đó.
- Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểmvà giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật về Thi hành
án dân sự tại tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về Thi hành án dân sự từ
trước đến nay, tham khảo số liệu từ năm 2011 đến nay.
5
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan
dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt
Nam về thi hành án dân sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên
cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo
sát, các báo cáo liên quan đến thi hành án dân sự của Tổng cục Thi hành án
dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn đã đúc kết một số vấn đề lý luận của pháp luật về Thi hành án
dân sự; đánh giá thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật về Thi hành án dân
tỉnh ở Phú Yên; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về thi hành án dân sự, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật
đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới
và hội nhập quốc tế ngày nay.
Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên liên quan đến pháp
luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Phú Yên. Vì vậy, kết quả
nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán
bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Phú Yên nói riêng và tổ chức thi hành án trên toàn quốc. Luận văn cũng
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập,
nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
6
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thi hành án dân sự
Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự và pháp luật về thi hành án
dân sự ở tỉnh Phú Yên
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành
án dân sự ở Việt Nam hiện nay
7
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải
quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền
lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân
sự tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản
án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án dân sự (THADS).
THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai
đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền và
lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành
trên thực tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế, bảo
đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo vệ kịp thời
các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích
liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực
của Tòa án, hoạt động THADS còn góp phần phát hiện sai sót của các quá trình tố
tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến
quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như
lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến thúc xây dựng…, từ đó kiến nghị đến
Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên
đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan; chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn
áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc tổ
8
chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mà còn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định chưa có
hiệu lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật quy định cụ
thể tại Điều 2, Khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự “Những bản án, quyết
định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị
kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả
công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao
động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần,
nhận người lao động trở lại làm việc;b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời” [ 37]. Do đó, THADS là hoạt động đặc thù và rất phức tạp, có
nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt động THADS. Để xác
định được là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, phân tích các quan
điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: hoạt động THADS là một hoạt động tư
pháp vì nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong
quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên
quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật
Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tư pháp là giai đoạn
cuối của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một
vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải là
cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên (CHV) THADS không phải là
người tiến hành tố tụng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: hoạt động THADS không phải là hoạt
động tư pháp, bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự, mà còn có trình
tự, thủ tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương
mại, hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo một trình tự thủ
tục hành chính. Do đó nó là một loại hoạt động hành chính [3]vì bản chất,
9
mục đích của thi hành án dân sự khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó
với hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này xuất phát từ bản chất và mục
đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự,
vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để
có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến
hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh
bạch. Còn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình
thủ tục, tố tụng. Cơ quan THADS thường phải đưa ra một quyết định mang
tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để
điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và
chủ thể được thi hành án. Ngoài ra, THADS còn có thể coi là hoạt động hành
chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động chấp hành và điều hành, theo đó
mà nó mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Tuy nhiên, nếu xem
THADS là hoạt động hành chính thì sẽ khó lý giải với những trường hợp
người được THADS không làm đơn yêu cầu THADS thì cơ quan THADS
không thể có cơ sơ để thực hiện (trừ trường hợp bắt buộc để bảo vệ những
người không có khả năng tự mình thực hiện các quyền của họ) và qua đó có
thể áp dụng các phương pháp hành chính như: mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra
các biện pháp cưỡng chế THADS được, do đó yếu tố hành chính không hoàn
toàn được thỏa mãn. Ngoài ra, yếu tố hành chính cũng không hoàn toàn được
thỏa mãn khi chế định Thừa phát lại được thí điểm áp dụng, khi việc THADS
không chỉ do các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án) thực hiện mà có thể
do các tổ chức như thừa phát lại hoặc được chính các chủ thể phải thi hành án
tự nguyện thực hiện trên cơ sở của những phương pháp có tính chất dân sự
như thỏa thuận, tự định đoạt (trong những phạm vi nhất định).
Quan điểm thứ ba cho rằng, THADS là hoạt động “lưỡng tính”, vừa
mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ không thể chỉ có
10
riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và CHV thực hiện
nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án đi vào
thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên thực tế luôn gắn liền với quy
trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng, gắn với quyền
lực hành pháp. Đồng thời, cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức
có nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình.
Trong trường hợp không thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ
chức đó phải chịu sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có
chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do
các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó được thực hiện một cách
tự giác bởi người có nghĩa vụ thi hành án. Khi nào các bản án, phán quyết
không được thi hành một cách tự nguyện bởi người có nghĩa vụ thì hoạt động
cưỡng chế thi hành án của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện.
Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan
điểm thứ ba là phù hợp hơn cả. Bởi vì, xuất phát từ các quy định pháp luật
hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, có thể nói rằng,
THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa
có tính chất của hoạt động tư pháp.
Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt
động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án
hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
11
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau:
Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó
bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham
gia của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ
quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ thi
hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong
THADS là sự ''lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy
nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà
nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt
động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền
hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận
giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc
của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của
người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững
kỷ cương, phép nước, giữ vững giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng trực tiếp được thi hành án.
Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên
quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS.
Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của
Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn
trong việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân
sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng.
Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn luôn bảo đảm quyền tự
nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
12
thi hành án mà cơ quan này không được tự tiện can thiệp.
Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử
Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về
trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy
tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất
vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội
dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu
sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không khả thi ở
thực tế. Cơ quan THADS, CHV không chỉ làm cho các bản án hoặc phán
quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án,
quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với người
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định
đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, THADS
chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết định của
Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội
thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục
những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao
của bản án, quyết định của Tòa án.
Thứ năm, THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương
thuần túy như thi hành án hình sự. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ
thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các
bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của
Thừa phát lại. Mặt khác, THADS chỉ do cơ quan thi hành án thực hiện khi có
sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định
13
như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2014[37]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể
thi hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với
nhau để cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng
thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng
chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các
đương sự liên quan đến phán quyết.
1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự
THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và
quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đó là công đoạn cuối cùng của hoạt động
tố tụng, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành
nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các
khía cạnh sau.
Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án
được chấp hành trong thực tế. Mọi quyết định, bản án của toà án, quyết định
của cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong
thực tế. Nếu không có “giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự
nguyện chấp hành của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt
buộc phải chấp hành. Việc THADS được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước
sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định
của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện.
Hai là, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà
nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Việc quyết định, bản án của Tòa án và quyết định khác của cơ quan
14
có thẩm quyền được thi hành trong thực tế đồng nghĩa với việc quyền, lợi ích
của các chủ thể được thi hành án được bảo đảm, các chủ thể chấp hành thi
hành án đúng các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Thông qua việc thực hiện
các trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu
tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản theo
bản án, quyết định của tòa án đối với chủ thể phải thi hành mà thi hành án góp
phần đảm bảo công bằng, bình đẳng, giữ vững trật tự xã hội.
Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. THADS
được thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền. Thông qua hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức từ trung ương đến cấp tỉnh,
cấp huyện và cơ quan thi hành án quân sự mà đảm bảo việc áp dụng thống
nhất các quy định của pháp luật, quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, hoạt động
trong thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án,
góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả
của bộ máy nhà nước
Bốn là, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. THADS là
một trong các quan hệ xã hội phổ biến, là chế định quan trọng của tố tụng dân
sự, được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh. Việc thực hiện đúng các quy định
pháp luật về THADS trong thực tế góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật. Tất cả chủ thể tham gia trong các quan hệ này đều được điều chỉnh
bởi pháp luật và phải tuân thủ pháp luật. Do vậy, THADS góp phần đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN.
Năm là, góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Một trong
những vai trò của THADS chính là giáo dục ý thức pháp luật. Thông qua hoạt
động THADS, đương sự bao gồm người được thi hành án và người phải thi
hành án, các cá nhân có liên quan và công dân một lần nữa lại được hướng
15
dẫn, giải thích quy định pháp luật dân sự, quy định pháp luật về THADS, qua
đó, nâng cao được hiểu biết của công dân về pháp luật.
1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự
Trong các hoạt động tố tụng hiện nay ở nước ta, bên cạnh THADS, còn
có hoạt động thi hành án hình sự (THAHS). Có thể phân biệt hai hoạt động
này thông qua các đặc thù của mỗi hoạt động thể hiện, cụ thể như sau:
Về cơ quan thi hành án: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ THADS là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên. Trong khi đó, chủ thể của THAHS
là Cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại
giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại
giam); Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương sự [4], [5]
Về người chấp hành án: Đương sự trong THADS bao gồm người được
thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản
án, quyết định được thi hành) và người phải thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành). Đối với
THAHS, người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo
bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Về khách thể: THADS đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa
thuận thi hành án của các bên đương sự, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự
thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường
hợp phải chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định, cơ quan THADS
chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người được thi hành án, đồng
thời phải tôn trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa
thuận và tự nguyện thi hành án. Còn THAHS hoàn toàn mang tính cưỡng chế
nhà nước, chỉ tuân thủ theo quyết định, bản án hình sự có hiệu lực pháp luật.
16
Về trình tự, thủ tục: Trình tự, thủ tục THADS theo quy định của pháp
luật về THADS. Trình tự, thủ tục THAHS là một cơ chế chặt chẽ theo quy
định của pháp luật về THAHS.
1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự)
có tính bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện ý chí nhà nước và
được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục,
thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ để thực
hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước.
Biểu hiện của tính hệ thống pháp luật là sự phân chia hệ thống ấy thành
những ngành, chế định pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực, nhóm quan hệ xã
hội nhất định. Những nhóm quan hệ xã hội ấy giống nhau về nội dung và tính
chất, tồn tại một cách khách quan. Pháp luật THADS có tính chất chuyên
ngành được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó Hiến pháp là
đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để hình thành pháp luật
về THADS “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật
phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Đ.106 Hiến pháp năm 2013) [34].
Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện
đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về
THADS, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới[1], Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
17
khoá IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020[3], Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020[2]. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà
nước trước đây, nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh
Thi hành án dân sự năm 1989 [49], Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
1993[49] và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004[50]. Kết quả sau hơn ba
năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 cho thấy, nhiều quy
định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải
cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang
cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác
thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi
hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất
là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan,
tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ
quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công
việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án, của Chấp hành viên chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi
hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi
thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hoá hoạt động
thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án
dân sự (sau đây gọi là Luật) và Nghị quyết thi hành luật này, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 1/7/2009[35],[36]. Trên cơ sở các quy định của Luật, việc tổ
chức thi hành Luật đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò
18
của công tác THADS được nâng lên rõ rệt; hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ (06
Nghị định của CP, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 Thông tư, 15
thông tư liên tịch...); việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác
THADS theo quy định của Luật đã cơ bản được hoàn thành; tiếp tục được
hoàn thiện và ban hành Luật hi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014, có hiệu lực ngày 1/7/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành như
Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ, các Thông tư liên
ngành về thi hành án dân sự...[43]
Như vậy, có thể khái quát: Pháp luật thi hành án dân sự là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa cơ quan thi hành
án dân sự với các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành
án dân sự, phát sinh trong giai đoạn thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc
thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật về THADS không chỉ gói gọn trong Luật Thi hành án dân sự
năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 mà còn được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Để tìm hiểu nội dung cơ bản của pháp luật
về THADS đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện những chế định
có liên quan như: các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về THADS, hệ
thống các cơ quan thi hành án, chấp hành viên; vấn đề về trình tự thủ tục tổ
chức thi hành, cưỡng chế thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm; vấn đề về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và
nhà nước có liên quan đến THADS; vấn đề về công tác phối hợp của các cấp,
các ngành đối với hoạt động THADS. Nhìn chung pháp luật về THADS của
nước ta bao gồm những nội dung cơ bản sau:
19
1.2.2.1. Quy định về mục tiêu cơ bản của thi hành án dân sự
Mục tiêu chung nhất của pháp luật về THADS là nhằm hoàn thiện thể
chế về THADS, tiếp tục tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, khắc
phục tình trạng án tồn đọng kéo dài; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án;
nâng cao kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật. Bảo vệ tốt
hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước là người được
thi hành theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài
thương mại. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tăng cường vị trí,
vai trò của cơ quan THADS, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ
chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động THADS.
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 ra đời tiếp
tục hoàn thiện thể chế về THADS, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ
bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, góp phần bảo
đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp
hành. Tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của
công dân theo Hiến pháp năm 2013, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi
hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự
và được quy định tại các điều 7, 7a và 7b về quyền và nghĩa vụ của đương sự
(người được thi hành án, người phải thi hành án), quyền yêu cầu và quyền tự
thỏa thuận, định đoạt của đương sự cũng được quy định cụ thể và mở rộng
hơn trước đây của Luật THADS năm 2008 [37].
Như vậy, mục tiêu chung nhất của pháp luật về THADS đó là tạo điều
kiện thuận lợi nhất để mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan đến THADS được bảo
20
đảm thực hiện các quyền của mình và được pháp luật bảo vệ các lợi ích hợp
pháp kịp thời. Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác THADS.
1.2.2.2. Quy định các nguyên tắc thi hành án dân sự
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc này xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đường lối chính sách của Đảng luôn giữ vai
trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật của Nhà
nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều có sự lãnh đạo của Đảng trong đó có
hoạt động THADS. Đảng phải xác định những phương hướng chủ yếu, kế
hoạch và nội dung chính của hoạt động THADS. Những Nghị quyết, Văn
kiện của Đảng là cơ sở vững chắc cho hoạt động THADS của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không bao biện làm thay chức năng của
Nhà nước và văn kiện của Đảng tất nhiên không phải là pháp luật. Bởi vậy,
Nhà nước phải cụ thể hoá nó bằng những qui phạm pháp luật, qua đó, QLNN
trong THADS bằng pháp luật chính là quá trình hiện thực hóa sự lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác THADS.
Thứ hai, nguyên tắc pháp chế XHCN.
Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong hoạt động THADS luôn thực
hiện đúng nguyên tắc pháp chế này, bởi các yêu cầu cơ bản sau:
- Pháp luật bảo đảm cho toàn bộ quá trình THADS đều phải được thực
hiện theo khuôn khổ pháp luật, pháp luật bảo đảm cho hoạt động THADS
được thực thi theo một trật tự ổn định, là cơ sở giải quyết các quan hệ dân sự
phát sinh, trong qụá trình THADS, là cơ sở hướng tới mục tiêu hiệu quả của
hoạt động THADS.
- Các văn bản pháp luật về THADS phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp
21
luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các quy định pháp luật phải thống nhất với
nhau không mâu thuẫn chồng chéo và phải tôn trọng tính tối cao của Hiến
pháp, phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn về các quy luật
khách quan của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THADS, từ đó
đủ khả năng điều chỉnh một cách hiệu quả tổ chức và hoạt động THADS.
- Các quy định của pháp luật về THADS phải được tôn trọng và nghiêm
túc thực hiện, được quán triệt trong nhận thức và hành động của các cơ quan quản
lý THADS, cơ quan THADS, các CHV, Thư ký thi hành án..., không chấp nhận
tính tùy tiện, cục bộ bản vị và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực THADS.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định.
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án là những
tư tưởng, quan điểm cơ bản đóng vai trò chỉ đạo định hướng cho việc xây
dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời các bản án quyết định
của Tòa án. Khi giải quyết vụ việc dân sự Toà án phải quyết định áp dụng
các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm cho việc thi
hành án, phải tuyên bản án, quyết định đầy đủ, rõ ràng, chính xác tạo thuận
lợi cho việc thi hành án; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được
đưa ra thi hành trên thực tế và mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan đến thi hành
bản án, quyết định của Tòa án đều phải chấp hành nghiêm túc. Mọi hành vi
chống lại và không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đều bị xử lý theo
quy định pháp luật. Trong các giai đoạn thi hành án nếu các cá nhân, tổ chức
phải có nghĩa vụ thi hành theo bản án, quyết định mà không tự nguyện thi
hành thì phải chịu áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ thực
hiện. Cơ quan, tổ chức, được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định phải
thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó; mọi cơ quan,
tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
22
Các cơ quan, tổ chức và cá nhân không được can thiệp trái pháp luật vào quá
trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, không được cản trở, gây khó
khăn cho cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong việc tổ chức thi
hành án dân sự; đối với những người có hành vi trái pháp luật như cố tình
không chấp hành án, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án
dân sự v.v. thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lí theo quy định của
pháp luật. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức thực hiện quyền lực của
Nhà nước, yêu cầu các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và chấp hành nghiêm túc,
đầy đủ, kịp thời.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sư
Là nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân
trong thi hành án. THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con
người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, các cơ quan thi hành án phải đảm
bảo và tôn trọng các quyền đó. Ngoài ra, quyền tự định đoạt của các bên
đương sự cũng phải được tôn trọng, cho họ tự nguyện thi hành. Chỉ trong
trường hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, còn
lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ
pháp luật trong THADS; Luật thi hành án dân sự cũng đã quy định rất rõ về
các quyền và nghĩa vụ của đương sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan trong việc yêu cầu thi hành án ở (Điều 7, 7a, 7b), quyền thỏa thuận tự
nguyện về thi hành án (Điều 6), quyền được thông báo về thi hành án (Điều
39 đến Điều 43), quyền yêu cầu hoãn thi hành án (Điều 48), Quyền yêu cầu
đình chỉ thi hành án (Điều 50)[37] đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật.
Nguyên tắc này cũng thể hiện tính nhân đạo trong thi hành án, đòi hỏi
phải đảm bảo việc bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các loại lợi ích khác nhau, tôn
23
trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân, được thể hiện rõ trong nhiều quy
định của pháp luật về THADS, ví dụ như khi áp dụng biện pháp cưỡng chế,
kê biên tài sản để thi hành án, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ
để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ không kê biên tất
cả tài sản của người đó. Đồng thời, khi kê biên tài sản, Chấp hành viên không
được kê biên những loại tài sản cần thiết tối thiểu cho cuộc sống của họ và gia
đình họ… (những tài sản không được cưỡng chế kê biên được quy định tại
Điều 87 Luật THADS). Hoặc là người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác
nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên đủ điều kiện được hoãn thi hành án
(theo điểm a,khoản 1 Điều 48 Luật THADS) [37] Xuất phát từ nguyên tắc
thỏa thuận và tự định đoạt của giao dịch dân sự, trong THADS, đảm bảo và
khuyến khích tự nguyện THADS là một yếu tố rất quan trọng để thi hành án
có hiệu quả, ít tốn kém nhất. Luật thi hành án dân sự cũng có quy định cụ thể
để ấn định thời hạn tự nguyện thi hành và đến khi hết thời hạn đó, cơ quan
THADS, chấp hành viên, mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế như kê biên
tài sản, cưỡng chế trả nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất…
Thứ năm, nguyên tắc phối hợp giữa cơ quan THADS với các cấp chính
quyền địa phương, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác.
THADS là hoạt động mà khi triển khai và hiệu quả triển khai không chỉ
phụ thuộc và các cơ quan thi hành án mà còn phụ thuộc sự tham gia của các cấp
chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác. Chính
vì thế, cần bảo đảm sự phối hợp này, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan
THADS với Tòa án và Viện kiểm sát. Bởi lẽ, THADS là hoạt động hiện thực
hóa các bản án quyết định dân sự của Tòa án, được thực hiện sau khi bản án
quyết định dân sự của Tòa án và có quyết định thi hành án của Tòa án. Viện
kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
THADS, nhằm phát hiện, kiến nghị, kháng nghị các vi phạm pháp luật để khắc
24
phục vi phạm pháp luật, bảo đảm pháp chế XHCN trong THADS.Trong quá
trình thi hành án, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của mình, các cơ quan THADS một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với
nhau, mặt khác phải phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể
xã hội trong công tác giải quyết thi hành án. Sự chỉ đạo của cấp ủy, chính
quyền địa phương trong công tác phối hợp, xác minh, kê biên, cưỡng chế thi
hành án tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của chấp hành viên, cơ quan thi
hành án đạt hiệu quả cao hơn.
1.2.2.3. Quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong thi hành án dân sự
Từ khi có Hiến pháp năm 2013 đã đề cao vai trò quyền con người nên
được thể chế hóa trong các văn bản luật luôn chú trọng đến vấn đề này. Trước
đây, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không có điều luật nào quy định cụ
thể về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà quyền và nghĩa vụ của họ được
quy định rải rác ở các điều luật. Để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền
con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Luật Sửa
đổi, bổ sung năm 2014, đã quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người
được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong thi hành án dân sự. Theo đó, từ quy định về quyền yêu cầu thi
hành án tại Điều 7 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung đã có quy
định tương đối cụ thể tại các Điều 7, 7a và 7b về quyền và nghĩa vụ của
đương sự (người được thi hành án và người phải thi hành án), người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động thi hành án dân sự. Cụ thể như sau:
- Về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án
Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Điều 7 của Luật thi
hành án dân sự 2008 quy định về quyền yêu cầu thi hành án, đã được sửa đổi
25
thành điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, với
những quyền, nghĩa vụ cơ bản nhất, được thiết kế với sự phân định rõ ràng
giữa quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, bên cạnh những quyền,
nghĩa vụ cụ thể khác được quy định tại các điều luật liên quan xuyên suốt quá
trình tổ chức thi hành án dân sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự
thực hiện. Luật đã mở rộng, tạo điều kiện cho người được thi hành án không
chỉ có quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ
bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành
án mà còn có quyền được thông báo về thi hành án; yêu cầu Tòa án giải thích
những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của mình. Quy định này, cùng với
quy định về quyền được ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin
về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; quyền chuyển giao quyền
được thi hành án cho người khác và các quyền khác đã tạo điều kiện thiết thực cho
đương sự có thêm cơ hội lựa chọn phương thức phù hợp để thi hành án, phù hợp
với chủ trương xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự.
Một quyền rất mới mà Luật bổ sung cho đương sự, đó là quyền được
yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp
hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ. Quy định này phù hợp với quy định
hiện hành về thay đổi người tiến hành tố tụng trong các thủ tục tố tụng, đảm
bảo sự khách quan trong tổ chức thi hành án dân sự. Điều quan trọng là Luật
sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi một cách căn bản quyền, nghĩa vụ của người được
thi hành án liên quan đến việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo Điều 44
Luật thi hành án dân sự 2008 thì người được thi hành án có nghĩa vụ tiến hành
xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu
cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến
hành xác minh không có kết quả và phải chịu chi phí xác minh. Quy định trên
trong thực tiễn thực hiện cho thấy chưa phù hợp ở giai đoạn hiện tại của điều
26
kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Như vậy, để tạo điều kiện thuận lợi tối đa
cho người được thi hành án trong việc thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đã
được pháp luật công nhận, trên cơ sở khôi phục quy định của Pháp lệnh thi
hành án dân sự 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, Luật sửa đổi, bổ
sung đã quy định chuyển hóa thành quyền của người được thi hành án trong
việc cho phép họ được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung
cấp cho cơ quan thi hành án thông tin về điều kiện thi hành án của người phải
thi hành án; họ không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do
Chấp hành viên thực hiện. Để khuyến khích người được thi hành án thi hành
án tích cực, chủ động trong việc cung cấp thông tin, điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án nhà nước sẽ miễn, giảm phí thi hành án. Khi người
được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện về tài sản của người phải thi
hành án mà cơ quan thi hành án có thể thể tiến hành xử lý tài sản đó để đảm
bảo việc thi hành án cho người được thi hành án thì họ sẽ được miễn, giảm
phí thi hành án tương ứng với số tiền hoặc tài sản thu được từ thông tin mà họ
cung cấp cho cơ quan thi hành án.
Mặt khác, tình trạng người phải thi hành án luôn tìm mọi cách để trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, như: không nhận tài sản là của mình,
đồng ý tài sản là của người khác, không khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản
chung. Do đó, Luật đã quy định bổ sung quyền của người được thi hành án trong
việc yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; khởi kiện
dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh
chấp của đương sự về tài sản liên quan đến thi hành án cũng như quyền yêu cầu
Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai
sót. Đây là quyền quan trọng để tạo cơ hội cho người được thi hành án bảo vệ
kịp thời và đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp mà bản án, quyết định đã ghi
nhận. Người được thi hành án có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh bản án,
27
quyết định; thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành
án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư
trú; chịu phí, chi phí thi hành án theo quy định. [43]
- Về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án
Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Quy định về quyền, nghĩa vụ
của người phải thi hành án được quy định ở Điều 7ª của Luật sửa đổi, bổ sung
đã bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng thi hành như Nghị định
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ. Bên cạnh các quyền của
người phải thi hành án (cũng là các quyền chung với người được thi hành án),
về quyền tự nguyện thi hành án trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người phải
thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định thi hành án (theo quy định tại Điều 45 Luật thi hành án dân sự
được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Quy định người phải thi hành án có nghĩa
vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu,
giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm
quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó. Đây là quy
định mới, vừa khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp
hành nghiêm chỉnh pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành
án đối với nghĩa vụ thi hành án, vừa giảm tải trách nhiệm của Chấp hành viên,
chi phí của nhà nước, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án.
Ngoài ra, người phải thi hành án còn có các quyền được thông báo các văn
bản, quyết định về thi hành án, các hình thức thông báo được quy định tại từ
Điều 39 đến Điều 43 Luật THADS. Nghĩa vụ của người phải thi hành án là
phải thi hành các bản án, quyết định và thực hiện đầy đủ các quyết định, yêu
cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân
sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.
28
- Về quyền và nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi
hành án của đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án). Các
quyền của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án giữa các bên
đương sự, giúp cho họ kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có
liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự, được quy định tại Điều 7b của Luật
THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Luật sửa đổi, bổ sung cũng khẳng định người có quyền, nghĩa vụ liên
quan có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, yêu cầu của Chấp
hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có
thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành
án dân sự. Ví dụ như xác định tư cách của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
đến đương sự ở hai giai đoạn khác nhau. Ở giai đoạn xét xử đã được Tòa án xác định
rõ trong bản án, quyết định với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ở
giai đoạn thi hành án, cũng có thể phát sinh người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
trong những trường hợp thi hành án dân sự đối với phần tài sản chung, hộ gia đình...
như việc chấp hành viên tiến hành cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản chung của vợ
chồng để đảm bảo thi hành cho bản án, quyết định của người vợ hoặc của người
chồng trong những vụ án tranh chấp dân sự... Khi kê biên, xử lý tài sản chung này
được thì người có liên quan đến tài sản chung đó được xác định tư cách là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Do vậy, họ có các quyền và nghĩa vụ được ưu tiên
quy định tại Điều 74 , Điều 101 của Luật thi hành án dân sự.
1.2.2.4. Quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, các cơ quan trong pháp
luật về thi hành án dân sự
Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan
THADS, Chấp hành viên được quy định tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự
29
năm 2014: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan,
tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự
trong việc thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm
thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy
định của Luật này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy
định của pháp” [37] và không chỉ quy định trong Luật mà còn thể hiện ở các
văn bản hướng dẫn thi hành,tập trung chủ là các cá nhân, tổ chức, cơ quan
như sau:
- Bộ Tư pháp, Bộ Quốc có trách nhiệm phối hợp trong thi hành án dân sự
Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp, chịu sự kiểm sát
hoạt động tư pháp của hệ thống cơ quan kiểm sát, tại điểm e khoản 1 Điều
167 quy định về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về thi hành án dân sự đã không quy định việc thanh tra về công tác
thi hành án dân sự nói chung như Luật thi hành án dân sự 2008 quy định. Luật
sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp thực hiện thanh tra
việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực hiện chế độ
chính sách đối với công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống tổ
chức thi hành án dân sự. Do vậy, Bộ Tư pháp không thực hiện nhiệm vụ
thanh tra nghiệp vụ thi hành án dân sự như trước đây vì thuộc nhiệm vụ kiểm
sát thi hành án dân sự do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện.
Tương tự như trách nhiệm của Bộ Tư Pháp thì trách nhiệm Bộ Quốc
phòng trong Pháp luật thi hành án dân sự, chỉ tiến hành thanh tra việc sử dụng
ngân sách, việc thực hiện chế độ chính sách và bố trí, sử dụng cán bộ thi hành
án trong quân đội được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 168 Luật THADS
được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Luật giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ,
30
quyền hạn của mình quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều, khoản
được giao trong Luật này mà trước đây chưa phân định rõ trách nhiệm nên có
phần hạn chế trong công tác phối hợp thi hành án dân sự.
- Trách nhiệm của UBND trong phối hợp hoạt động THADS
Công tác thi hành án dân sự, có thể nói không thể thiếu vai trò của Ủy
ban nhân dân các cấp. Công tác thi hành án dân sự gắn liền với người dân,
gắn với địa bàn cụ thể nơi đóng trụ sở của cơ quan thi hành án, nơi diễn ra
hoạt động thi hành án, từ việc thông báo thi hành án, tống đạt trực tiếp hay
niêm yết công khai, việc xác minh điều kiện thi hành án đến việc tổ chức
cưỡng chế thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án…Điều đó,
cho thấy được tầm quan trọng của UBND các cấp có trách nhiệm phối hợp
vào các công đoạn của quy trình trình tự thủ tục thi hành án dân sự trên địa
bàn được Luật THADS quy định tại các Điều 173,174 và 175 [37] quy định
về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân trong thi hành án dân sự và cụ
thể từng cấp.
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong thi hành án dân sự
Là cơ quan trung ương đóng tại địa phương, cơ quan thi hành án dân sự
chịu sự quản lý song trùng trực thuộc, theo nguyên tắc quản lý theo ngành kết
hợp quản lý theo lãnh thổ. Mặt khác, cơ quan thi hành án dân sự, với nhiệm
vụ được giao có vai trò góp phần vào việc thực thi pháp luật, đảm bảo an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.Với vai trò là cơ quan hành chính
cao nhất ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý toàn diện, mọi mặt
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương trên phạm vi toàn tỉnh và cấp
huyện trên phạm vi địa bàn. Giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện có các cơ quan chuyên môn trực thuộc. Mỗi cơ quan có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn riêng, theo pháp luật, quy định của nhà nước và quy
định của ngành để giải quyết công việc, trong đó có nhiều công việc liên
31
quan, phục vụ cho việc thực hiện các hoạt động cụ thể trong quá trình tổ chức
thi hành án dân sự. Vì vậy, kết quả hoạt động, sự phối hợp của các cơ quan
hữu quan cũng góp phần giúp cho cơ quan thi hành án hoàn thành nhiệm vụ,
cụ thể như sau:
Thứ nhất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện vai trò chỉ
đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự
trên địa bàn theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 174. Trong
thực tiễn công tác thi hành án dân sự, có thể nói rằng hầu hết các cơ quan, đơn
vị đều phối hợp tốt, giúp cho cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành nhiệm
vụ. Đơn cử như việc xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, việc cử công chức
tham gia việc thi hành án, việc tổ chức họp bàn thống nhất quan điểm, việc
cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án, việc hoàn tất các thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng và các vấn đề liên quan khác… Khi cần có
sự phối hợp của các cơ quan hữu quan cũng như khi cần có sự chỉ đạo để phân
công, phân nhiệm, để phối hợp hiệu quả hơn trong việc phối hợp giữa các cơ quan
có liên quan trong thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án dân sự cần chủ
động, kịp thời đề xuất, báo cáo Ủy ban để kịp thời chỉ đạo các cơ quan hữu quan
trên địa bàn và không chỉ là công tác chỉ đạo các cơ quan chuyên môn phối hợp
mà còn là trách nhiệm giải quyết những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong
công tác THADS. Trách nhiệm của UBND đã góp phần quan trọng trong công tác
chỉ đạo cơ quan chuyên môn, cơ quan hữu quan.
Thứ hai là việc chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn,
phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh,
cấp huyện.
Cưỡng chế thi hành án là hoạt động phức tạp, khó khăn nhất của cơ quan
thi hành án dân sự và cũng là hoạt động cần huy động nhiều lực lượng tham gia
32
nhất như cơ quan công an, chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn
khác… Nếu hoạt động thi hành án, đặc biệt là cưỡng chế thi hành án không được
sự ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương thì
cơ quan thi hành án dân sự gặp khó khăn trong việc tổ chức cưỡng chế hoặc tổ
chức cưỡng chế khó thành công, hiệu quả, an toàn.
Thứ ba, có ý kiến bằng văn bản về việc đồng ý, không đồng ý bổ nhiệm,
miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp.
Đây là sự phối hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác tổ
chức cán bộ để đảm bảo lựa chọn lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự đáp
ứng yêu cầu, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tự kiểm tra và đề nghị
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên kiểm tra công tác thi
hành án dân sự ở địa phương.
Kiểm tra luôn là công cụ hữu hiệu để thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, kịp thời phát hiện những ưu điểm, kết quả đạt được để nhân rộng cũng
như những tồn tại, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Kết quả kiểm tra cũng
giúp cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ được chính xác. Với việc cơ quan thi
hành án dân sự được tổ chức theo hệ thống dọc, nên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
bên cạnh việc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh tự kiểm tra công
tác thi hành án ở địa phương, tiến hành kiểm tra đối với các cơ quan thi hành
án dân sự trực thuộc, còn thực hiện quyền và trách nhiệm đề nghị cơ quan
quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp kiểm tra công tác thi hành án
dân sự ở địa phương. Tương tự, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc
yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tự kiểm tra và có thể đề nghị
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành án
dân sự ở địa phương.
33
Thứ năm, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự báo cáo công tác thi
hành án dân sự ở địa phương.
Định kỳ hoặc đột xuất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện
việc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp báo cáo về công tác thi
hành án, đồng thời thực hiện việc cho ý kiến đối với báo cáo của cơ quan thi
hành án dân sự cùng cấp trước khi trình Hội đồng nhân dân theo quy định.
Thứ sáu, quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền
khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác THADS
Là cơ quan trung ương, cơ quan thi hành án dân sự được xét thi đua,
khen thưởng theo hệ thống dọc. Bên cạnh đó, với sự đóng góp của các công
chức làm công tác thi hành án vào thành quả kinh tế, chính trị trên địa bàn,
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện xem xét quyết định việc khen thưởng
hoặc đề xuất cấp trên khen thưởng cho các tập thể và cá nhân làm công tác thi
hành án. Thực tế công tác này đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp
huyện quan tâm đầy đủ, góp phần động viên, khích lệ đội ngũ công chức làm
công tác thi hành án.
Thứ bảy, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý kịp
thời vi phạm pháp luật về thi hành án dân sự
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm trong việc kiến
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý kịp thời vi phạm pháp
luật về thi hành án dân sự theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật.
Việc bổ sung này cũng phù hợp với vai trò của Ủy ban tại địa phương, không
chỉ khen thưởng mà còn phải có thái độ nghiêm khắc, xử lý kiên quyết những
trường hợp vi phạm.
+ Ủy ban nhân dân cấp xã
Khác với quy định về vai trò của Ủy ban nhân cấp huyện và cấp tỉnh là
vai trò chỉ đạo thì, Luật thi hành án dân sự quy định vai trò của Ủy ban cấp xã là
34
vai trò phối hợp. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình phối hợp với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự
trong các hoạt động sau: Thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án,
áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, các nhiệm vụ
khác về thi hành án dân sự trên địa bàn.Như vậy, các nhiệm vụ của Ủy ban nhân
dân cấp xã trong thi hành án xuyên suốt cả quá trình thi hành án. Ủy ban nhân
dân cấp xã xuất hiện từ đầu hoạt động thi hành án cho đến khi kết thúc. Vì vậy,
việc hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hoạt động thi hành án dân sự là
thường xuyên, liên tục trong quá trình tổ chức thi hành án. Ủy ban tham gia phối
hợp bằng nhiều cách, như cử công chức tham gia cùng với Chấp hành viên trong
hoạt động thông báo, xác minh, cưỡng chế; cung cấp thông tin; xác nhận vào các
biên bản làm việc; giáo dục công dân trên địa bàn nhận thức và chấp hành các
yêu cầu hợp pháp của cơ quan thi hành án dân sự...
- Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân phối hợp trong hoạt động thi
hành án dân sự
Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thi
hành án được quy định tại khoản 5 Điều 3, các Điều 23,24,25 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và hiện nay quy định tại điểm c khoản 2
Điều 4, Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Luật Thi
hành án dân sự cũng thể hiện nội dung này tại khoản 2 Điều 12 Luật thi hành
án dân sự năm 2008. Kế thừa các quy định này, Luật sửa đổi, bổ sung đã giữ
nguyên khoản 1 và sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 12 theo hướng mở rộng các
đối tượng kiểm sát, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát nhân
dân khi kiểm sát thi hành án. Nếu như trước đây, Viện kiểm sát nhân dân chỉ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên, thì nay Viện kiểm sát nhân dân còn kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án trong một số hoạt động như việc cấp, chuyển giao bản
35
án, quyết định, việc sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định (Điều 12 Luật sửa
đổi, bổ sung)[43],nhằm khắc phục hạn chế việc chuyển giao cho cơ quan thi
hành án dân sự chậm, chưa đúng với thời gian quy định tại Điều 28 Luật Thi
hành án dân sự, có những thời điểm Tòa án chuyển giao quá nhiều bản án,
quyết định dẫn đến tình trạng cùng một lúc cơ quan thi hành án dân sự phải
thi hành nhiều vụ việc. Vì vậy, không tránh khỏi tình trạng cơ quan thi hành
án vi phạm một số thời hạn nhất định như thời hạn thông báo, thời hạn xác
minh điều kiện thi hành án … Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát hoạt
động chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án sẽ hạn chế được tình trạng
“dồn án” hoặc “quên” chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án
dân sự tổ chức thi hành và sẽ khắc phục được phần nào tình trạng quá tải và
một số vi phạm của cơ quan thi hành án dân sự.
Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực
hiện hoạt động kiểm sát như: quyền yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan thi hành
án dân sự cung cấp, cấp dưới ra quyết định về thi hành án, gửi các quyết định
về thi hành án; thi hành đúng bản án, quyết định; yêu cầu cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho
Viện kiểm sát nhân dân; trực tiếp kiểm sát và ban hành kết luận kiểm sát khi
kết thúc việc kiểm sát; tham gia các phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi
hành án và phát biểu quan điểm tại các phiên họp đó…Viện kiểm sát thực hiện
tốt chức năng về kiểm sát thi hành án nhằm kịp thời ngăn chặn, hạn chế những
sai sót của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, đồng thời cũng tăng
trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân với hoạt động thi hành án dân sự.
Thực tế thời gian qua một số cơ quan thi hành án địa phương đã để xảy ra
nhiều vi phạm; đồng thời, một số Chấp hành viên, công chức đã bị xem xét
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện hành thì Viện
kiểm sát nhân dân chưa phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm mặc dù
36
vụ việc có liên quan đã được Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoặc thông qua
các cuộc kiểm sát trực tiếp, kiểm sát theo định kỳ (tháng, quý, năm), kiểm sát
theo chuyên đề theo quy định. Từ đó cho thấy đối với một số nơi, một số vụ
việc cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân đã làm chưa hết trách nhiệm của mình
trong việc kiểm sát thi hành án.
Trách nhiệm của Tòa án nhân dân phối hợp trong hoạt động thi hành
án dân sự
Tòa án là cơ quan tư pháp, thực hiện chức năng xét xử, ban hành các
bản án, quyết định nhân danh Nhà nước. Cơ quan Thi hành án dân sự là cơ
quan chấp hành, thực hiện và tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án. Công tác thi hành án dân sự có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào
phán quyết của Tòa án có tính khả thi hay không. Do đó cần nâng cao vai trò,
trách nhiệm của Tòa án trong việc tuyên án; chuyển giao kịp thời, đầy đủ các
bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự; giải thích, đính chính
những nội dung trong bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án dân sự,
đương sự có kiến nghị, đề nghị; nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc
xác định quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án để thi hành
án…Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014, tòa án có trách
nhiệm trong phối hợp hoạt thi hành án dân sự như:
+Quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án trong việc xác định quyền sở
hữu tài sản của người phải thi hành án
Xuất phát từ một số vướng mắc trong thực tế, chẳng hạn, khi người
phải thi hành án không có tài sản riêng mà chỉ có khối tài sản chung với một
hoặc nhiều người (quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự) mà chưa xác
định được phần quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, nếu như
Tòa án không ra phán quyết về việc xác định phần quyền sử dụng, sở hữu tài
sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung thì cơ quan thi hành
37
án cũng không thể tổ chức thi hành được. Điều này dẫn đến việc quyền, lợi
ích hợp pháp của người được thi hành án mặc dù đã được Tòa án công nhận
nhưng cũng không được thi hành trên thực tế. Do đó, Luật THADS được sửa
đổi, bổ sung năm 2014 được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 170 trách
nhiệm của Tòa án“Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành
án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc
giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hủy giấy tờ, giao dịch
phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án”
+ Tăng cường trách nhiệm của Tòa án khi xem xét bản án, quyết định
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trên thực tế, hoạt động thi hành án còn vướng mắc liên quan trong
trường hợp cơ quan thi hành án đã thi hành xong bản án, quyết định nhưng
bản án, quyết định đó lại bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy theo thủ tục
giám đốc thẩm để xem xét lại. Theo quy định tại Điều 136 Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 thì trường hợp giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên hủy bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc
thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới
có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới. Tuy nhiên, khi Tòa án cấp sơ
thẩm xét xử lại vụ án thì nguyên đơn lại rút yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn
được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; theo quy định, Tòa án ra
quyết định đình chỉ vụ án. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án không có
căn cứ để giải quyết đối với các vấn đề phát sinh tiếp theo từ kết quả THADS
trước đó, dẫn đến phát sinh nhiều đơn khiếu nại gay gắt, phức tạp gây khó khăn
cho cơ quan thi hành án dân sự. Để khắc phục những vướng mắc trên, Luật sửa
đổi, bổ sung đã bổ sung khoản 4 Điều 170 đó là “Khi xét xử lại vụ án mà bản
án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo
38
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy.” Do đó, pháp luật về thi
hành án dân sự đã quy định trách nhiệm của Tòa án trong giai đoạn THADS, giúp
các cơ quan thi hành án dân sự tháo gỡ được nhiều vướng mắc phát sinh và
giải quyết triệt để về vấn đề tài sản khi cơ quan thi hành án dân sự đã thi hành
xong nhưng Tòa án cấp có thẩm quyền lại tuyên hủy bản án, quyết định đã
được thi hành xong và Tòa án có thẩm quyền lại ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án góp phần vào rất quan trọng trong việc giảm án tồn của cơ quan thi
hành án dân sự.
Ngoài ra, Tòa án còn có trách nhiệm trong việc xét việc dân sự đối với
các trường hợp thi hành án đề nghị miễn, giảm thi hành án đối với khoản thu, nộp
ngân sách nhà nước; trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem
xét lại bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 90
ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị…
39
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, luận văn đã cơ bản giải quyết được các vấn đề cơ sở
lý luận liên quan đến pháp luật về THADS như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò,
ý nghĩa của THADS; Khái niệm và phân tích nội dung của pháp luật về
THADS. Phân biệt được Thi hành án dân sự với Thi hành án hình sự, trách
nhiệm của các chủ thể tham gia trong công tác phối hợp thi hành án dân
sự. Từ đó, có thể khẳng định rằng, pháp luật về thi hành án dân sự đóng vai
trò to lớn trong việc thực hiện mục tiêu của cải cách hành chính - tư pháp,
nhằm xây dựng một nền tư pháp tiên tiến, hiện đại, hiệu quả, đáp ứng được
hội nhập quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần
bảo vệ trật tự an toàn xã hội
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về công chứng tại tỉnh Quảng Ngãi, 9đ
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAYLuận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
Luận văn: Quản lý hộ tịch - qua thực tiễn Hải Phòng, HAY
 
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOTĐề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
Đề tài: Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú YênĐề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
Đề tài: Pháp luật về tổ chức hành nghề công chứng tại Phú Yên
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAYLuận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
Luận văn: Công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai, HAY
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 TPHCM, HOT
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT

Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT (20)

Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái NguyênLuận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
Luận văn: Thi hành án dân sự tại thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên
 
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOTĐề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOTLuận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
 
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAYĐề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
Đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong điều tra, HAY
 
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
Chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong điều tra vụ án hình sự mà bị can l...
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAYLuận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAY
Luận văn: Pháp luật về quản lý công chức cấp xã tại Huế, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chínhLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOTĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
 
Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật tại tỉnh Tiền Giang, HAYLuận văn: Theo dõi thi hành pháp luật tại tỉnh Tiền Giang, HAY
Luận văn: Theo dõi thi hành pháp luật tại tỉnh Tiền Giang, HAY
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOTVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAYVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sựLuận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Luận văn: Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 

Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ............…/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LÊ THỊ LANH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HIẾN PHÁP - LUẬT HÀNH CHÍNH Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THỊ HƢƠNG THỪA THIÊN HUẾ-NĂM 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Lê Thị Lanh
  • 3. Lời Cảm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn PGS. TS. Lê Thị Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu, cô luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này. Trån trọng! Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Lê Thị Lanh
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ........................................................................................ 7 1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự.......................................................................7 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự.................................................................7 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự........................................................11 1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự.............................................................13 1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự ......................15 1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự........................................................................16 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự........................................16 1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự ..................................18 Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH PHÚ YÊN.....................................40 2.1. Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh phú yên ...............................................40 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên......................................................................................................40 2.1.2. Kết quả thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay..46 2.1.3. Nhận xét về tình hình thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ................51 2.2. Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ............................................................................................................................57 2.2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên............57
  • 5. 2.2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên ............................................................................................................................60 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................79 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự..................................79 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền..........................79 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về thi hành án dân sự ................80 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải nhằm phát huy vai trò của cá nhân, tổ chức và nhà nước trong hoạt động thi hành án dân sự..........81 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam.........83 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả ....................83 3.2.2. Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ chấp hành viên ...................................................89 3.2.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm bảo đảm kỷ cương và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án dân sự.................................................................................................................94 3.2.4. Tăng cường các biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự tồn đọng....................................................................................................................95 3.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong công tác phối hợp thi hành án dân sự............................................................................................97 3.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và chấp hành viên trong công tác tổ chức thi hành án dân sự..................................................101
  • 6. 3.2.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin pháp luật về thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan đến thi hành án dân sự.........................................................................103 3.2.8. Thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự.......................106 KẾT LUẬN..................................................................................................110 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................112
  • 7. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Tổng số việc qua các năm...............................................................47 Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc ............................................................47 Bảng 2.3: Tổng số tiền và giá trị hiện vật qua các năm..................................49 Bảng 2.4: Kết quả thi hành án dân sự về tiền .................................................49
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thi hành án dân sự là hoạt động quan trọng nhằm đưa bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án, quyết định của Trọng tài thương mại, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Điều 106 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[34 ]. Thi hành án dân sự là một bộ phận trong chế định về thi hành án ở nước ta, được thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền nhằm đưa các bản án, quyết định dân sự được thực hiện trong thực tiễn. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa IX ngày 06/10/1992 và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 [49], công tác thi hành án dân sự được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Trải qua gần 25 năm, công tác thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Thực hiện Luật Thi hành án dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự- Bộ Tư Pháp, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng kể về mặt tổ chức bộ máy và về việc. Năm 2015 đã thi hành xong hơn 5.014việc, đạt 85,5% về việc, hơn 82% về tiền (vượt 5% so với chỉ tiêu của Bộ Tư Pháp giao). Năm 2016 đã đạt tỷ lệ 79% về việc với 5.073 việc đã giải quyết xong trên số có điều kiện thi hành (vượt 7% so với chỉ tiêu giao), thi hành xong hơn 130 tỷ
  • 9. 2 đồng, đạt 48% (vượt 15% so với chỉ tiêu giao). Các cơ quan thi hành án đã ra quyết định cưỡng chế nhiều vụ việc, hầu hết đều đảm bảo an toàn, đúng pháp luật, đảm bảo tình hình an ninh trật tự xã hội[19],[20] thành quả trên có vai trò to lớn của quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc; việc kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định còn chậm; cơ sở vật chất vẫn còn nhiều khó khăn; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng diễn biến phức tạp; hoạt động phối hợp trong thi hành án dân sự chưa được nhịp nhàng và đồng bộ, hiệu quả chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự hàng năm tăng chậm, không bền vững, án tồn đọng chuyển sang năm sau còn nhiều. Những bất cập này đã và đang làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, chưa đáp ứng được yêu cầu của pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn thi hành. Tại tỉnh Phú Yên, pháp luật về thi hành án dân sự tại địa phương còn tồn tại nhiều vấn đề đang đòi hỏi cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Bên cạnh các bất cập chung xuất phát từ hệ thống pháp luật, thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên còn nhiều hạn chế: Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thi hành án dân sự chưa chủ động; đội ngũ cán bộ, công chức còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng về chất lượng; sự phối hợp trong hoạt động thi hành án với các cơ quan, tổ chức chưa hiệu quả, sự khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tổ chức thi hành... Hơn nữa, trên thực tế công tác thi hành án cũng chưa được các cấp, các ngành quan tâm xứng tầm với nhiệm vụ đặt ra, dẫn đến việc tổ chức thực hiện pháp luật về Thi hành án dân sự cũng gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc làm giảm đáng kể
  • 10. 3 hiệu quả hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, cần có các giải pháp để giải quyết tổng thể. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về Thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án dân sự như sau: - Đề tài nghiên cứu khoa học: Đề tài cấp Bộ "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp thực hiện[6]; Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì [7]. - Luận văn thạc sỹ: Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự" của tác giả Hoàng Kim Chiến[13]; Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy[48]; Luận văn thạc sĩ luật học "Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Xuân Hồng[30]; Luận văn thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái [47]; - Các bài viết, chuyên đề, giáo trình: Giáo trình môn Luật Thi hành án dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội[27]; Những nội dung cơ bản của Luật Thi hành án dân sự - Tiến sỹ Nguyễn Thanh Thủy, Thạc sỹ luật học Lê Anh Tuấn - Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp[46]; các bài viết chuyên khảo đăng trên các tạp chí dân chủ pháp luật, sách báo chuyên ngành Luật…[11] Tuy nhiên, chủ đề pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên thì chưa có nghiên cứu nào đề cập. Do vậy, phạm vi, nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài là không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây.
  • 11. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về pháp luật về Thi hành án dân sự hiện nay; Luận văn đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên, trong chương trình tổng thể về cải cách tư pháp đến năm 2020 và trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 3.2. Nhiệm vụ - Luận văn có nhiệm vụ làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về THADS, vai trò của THADS; phân tích nội dung của pháp luật về Thi hành án dân sự. - Phân tích thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế của thực trạng thi hành pháp luật về THADS tại tỉnh Phú Yên và làm rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. - Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểmvà giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật Thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên. - Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về Thi hành án dân sự từ trước đến nay, tham khảo số liệu từ năm 2011 đến nay.
  • 12. 5 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về thi hành án dân sự. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài. Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát, các báo cáo liên quan đến thi hành án dân sự của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên từ năm 2011 đến nay. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn đã đúc kết một số vấn đề lý luận của pháp luật về Thi hành án dân sự; đánh giá thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật về Thi hành án dân tỉnh ở Phú Yên; đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, góp phần vào tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới và hội nhập quốc tế ngày nay. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên liên quan đến pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn của tỉnh Phú Yên. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng và tổ chức thi hành án trên toàn quốc. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
  • 13. 6 7. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, kết cấu và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng thi hành án dân sự và pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Yên Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
  • 14. 7 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Quan niệm về thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án được gọi là thi hành án dân sự (THADS). THADS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự và người có quyền và lợi ích liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực tế. Đó là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và theo các trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đưa bản án, quyết định của Toà án ra thi hành trên thực tế, bảo đảm tính hiệu lực của các bản án, quyết định dân sự của Tòa án bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan. Trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, hoạt động THADS còn góp phần phát hiện sai sót của các quá trình tố tụng dân sự của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi cho công dân, đương sự và không phù hợp với hiện trạng thực tế như lĩnh vực về đất đai, nhà ở, công trình kiến thúc xây dựng…, từ đó kiến nghị đến Tòa án có thẩm quyền kịp thời xét xử lại nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự, người có quyền và lợi ích liên quan; chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc xây dựng pháp luật. Tuy nhiên, việc tổ
  • 15. 8 chức THADS không những chỉ đối với các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà còn phải tổ chức thi hành đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực nhưng phải thi hành ngay trong những trường hợp pháp luật quy định cụ thể tại Điều 2, Khoản 2 của Luật Thi hành án dân sự “Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị: a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời” [ 37]. Do đó, THADS là hoạt động đặc thù và rất phức tạp, có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về tính chất của hoạt động THADS. Để xác định được là hoạt động tư pháp hay hoạt động hành chính, phân tích các quan điểm sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng: hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp vì nó là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, luôn gắn liền với các giai đoạn tố tụng và được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng Dân sự. Do đó THADS chính là một hoạt động tư pháp là giai đoạn cuối của tố tụng dân sự. Tuy nhiên, quan điểm này lại không lý giải được một vấn đề thực tiễn pháp lý đang thừa nhận đó là cơ quan THADS không phải là cơ quan tiến hành tố tụng, chấp hành viên (CHV) THADS không phải là người tiến hành tố tụng. Quan điểm thứ hai cho rằng: hoạt động THADS không phải là hoạt động tư pháp, bởi vì không những thi hành các vụ án dân sự, mà còn có trình tự, thủ tục thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự, kinh doanh thương mại, hành chính, lao động…, trình tự tổ chức thi hành theo một trình tự thủ tục hành chính. Do đó nó là một loại hoạt động hành chính [3]vì bản chất,
  • 16. 9 mục đích của thi hành án dân sự khác hoàn toàn với tố tụng, không thể gắn nó với hoạt động tố tụng dân sự. Quan điểm này xuất phát từ bản chất và mục đích của tố tụng dân sự là xác định sự thật khách quan của các vụ án dân sự, vụ việc dân sự để đưa ra các phán quyết đúng theo quy định của pháp luật. Để có được các phán quyết đó, các cơ quan tiến hành tố tụng, các cá nhân tiến hành tố tụng tham gia theo một quy trình tố tụng chặt chẽ, công khai và minh bạch. Còn hoạt động THADS lại là một quy trình đi ngược lại với quy trình thủ tục, tố tụng. Cơ quan THADS thường phải đưa ra một quyết định mang tính hành chính dựa trên một văn bản cá biệt (văn bản áp dụng pháp luật) để điều chỉnh hoạt động của cá nhân, đối tượng phải có nghĩa vụ thi hành án và chủ thể được thi hành án. Ngoài ra, THADS còn có thể coi là hoạt động hành chính vì bản chất, hoạt động này là hoạt động chấp hành và điều hành, theo đó mà nó mang tính quản lý hành chính nhà nước rõ nét. Tuy nhiên, nếu xem THADS là hoạt động hành chính thì sẽ khó lý giải với những trường hợp người được THADS không làm đơn yêu cầu THADS thì cơ quan THADS không thể có cơ sơ để thực hiện (trừ trường hợp bắt buộc để bảo vệ những người không có khả năng tự mình thực hiện các quyền của họ) và qua đó có thể áp dụng các phương pháp hành chính như: mệnh lệnh, quyền uy để đưa ra các biện pháp cưỡng chế THADS được, do đó yếu tố hành chính không hoàn toàn được thỏa mãn. Ngoài ra, yếu tố hành chính cũng không hoàn toàn được thỏa mãn khi chế định Thừa phát lại được thí điểm áp dụng, khi việc THADS không chỉ do các cơ quan nhà nước (cơ quan thi hành án) thực hiện mà có thể do các tổ chức như thừa phát lại hoặc được chính các chủ thể phải thi hành án tự nguyện thực hiện trên cơ sở của những phương pháp có tính chất dân sự như thỏa thuận, tự định đoạt (trong những phạm vi nhất định). Quan điểm thứ ba cho rằng, THADS là hoạt động “lưỡng tính”, vừa mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất tư pháp chứ không thể chỉ có
  • 17. 10 riêng tính chất hành chính, hoặc riêng tính chất tư pháp. THADS là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và CHV thực hiện nhằm đưa quyết định của các bản án, quyết định về dân sự của Toà án đi vào thực tiễn cuộc sống. Hoạt động THADS trên thực tế luôn gắn liền với quy trình tố tụng nói chung và quy trình tố tụng dân sự nói riêng, gắn với quyền lực hành pháp. Đồng thời, cũng qua hoạt động THADS, các cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ phải THADS phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Trong trường hợp không thi hành quyết định thi hành án thì cá nhân, tổ chức đó phải chịu sự cưỡng chế của Nhà nước thông qua các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ liên quan. Tuy nhiên, việc thi hành án không chỉ do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện mà có khi nó được thực hiện một cách tự giác bởi người có nghĩa vụ thi hành án. Khi nào các bản án, phán quyết không được thi hành một cách tự nguyện bởi người có nghĩa vụ thì hoạt động cưỡng chế thi hành án của chủ thể có thẩm quyền mới cần phải thực hiện. Cả ba quan điểm trên đều có điểm hợp lý nhưng theo tác giả, quan điểm thứ ba là phù hợp hơn cả. Bởi vì, xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, có thể nói rằng, THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính, vừa có tính chất của hoạt động tư pháp. Từ những phân tích nêu trên, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để đưa bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, là giai đoạn cuối cùng của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ dân sự.
  • 18. 11 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự THADS là hoạt động phức tạp với những đặc điểm sau: Thứ nhất, THADS là hoạt động liên quan đến quyền lực nhà nước. Nó bao gồm nhiều hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của chủ thể không chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp cũng như của chính người có nghĩa vụ thi hành án. Do đó, như đã phân tích, việc thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS là sự ''lưỡng tính” giữa quyền hành pháp và quyền tư pháp. Tuy nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang tính quyền lực nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà nước, có hoạt động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao quyền hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền lực nhà nước. Thứ hai, THADS là hoạt động có mục đích là để thực hiện lợi ích của người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ cương, phép nước, giữ vững giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng trực tiếp được thi hành án. Đồng thời THADS còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản là đối tượng trong các quyết định THADS. Thứ ba, THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật là quan hệ pháp luật dân sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ phía người được THADS được tôn trọng. Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan THADS luôn luôn bảo đảm quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự lựa chọn thực hiện hay không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến
  • 19. 12 thi hành án mà cơ quan này không được tự tiện can thiệp. Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hiệu lực xét xử Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất vụ án dân sự đa dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội dung cũng như qui định về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án, quyết định tuyên không rõ ràng, không khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS, CHV không chỉ làm cho các bản án hoặc phán quyết được tôn trọng mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án, quyết định của Toà án mà họ đang thi hành thì có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những bản án, quyết định của Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học kinh nghiệm khắc phục những khiếm khuyết, nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính khả thi cao của bản án, quyết định của Tòa án. Thứ năm, THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương thuần túy như thi hành án hình sự. THADS có thể có sự hợp tác của các chủ thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc khi có sự tham gia của Thừa phát lại. Mặt khác, THADS chỉ do cơ quan thi hành án thực hiện khi có sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp pháp luật quy định
  • 20. 13 như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014[37]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể thi hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau để cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng chỉ là thực hiện quyền lực nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các đương sự liên quan đến phán quyết. 1.1.3. Vai trò của thi hành án dân sự THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đó là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các khía cạnh sau. Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành trong thực tế. Mọi quyết định, bản án của toà án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong thực tế. Nếu không có “giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt buộc phải chấp hành. Việc THADS được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết định của tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện. Hai là, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc quyết định, bản án của Tòa án và quyết định khác của cơ quan
  • 21. 14 có thẩm quyền được thi hành trong thực tế đồng nghĩa với việc quyền, lợi ích của các chủ thể được thi hành án được bảo đảm, các chủ thể chấp hành thi hành án đúng các nghĩa vụ, trách nhiệm của mình. Thông qua việc thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của tòa án đối với chủ thể phải thi hành mà thi hành án góp phần đảm bảo công bằng, bình đẳng, giữ vững trật tự xã hội. Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. THADS được thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền. Thông qua hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức từ trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện và cơ quan thi hành án quân sự mà đảm bảo việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật, quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, hoạt động trong thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước Bốn là, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. THADS là một trong các quan hệ xã hội phổ biến, là chế định quan trọng của tố tụng dân sự, được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh. Việc thực hiện đúng các quy định pháp luật về THADS trong thực tế góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tất cả chủ thể tham gia trong các quan hệ này đều được điều chỉnh bởi pháp luật và phải tuân thủ pháp luật. Do vậy, THADS góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN. Năm là, góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân. Một trong những vai trò của THADS chính là giáo dục ý thức pháp luật. Thông qua hoạt động THADS, đương sự bao gồm người được thi hành án và người phải thi hành án, các cá nhân có liên quan và công dân một lần nữa lại được hướng
  • 22. 15 dẫn, giải thích quy định pháp luật dân sự, quy định pháp luật về THADS, qua đó, nâng cao được hiểu biết của công dân về pháp luật. 1.1.4. Phân biệt thi hành án dân sự với thi hành án hình sự Trong các hoạt động tố tụng hiện nay ở nước ta, bên cạnh THADS, còn có hoạt động thi hành án hình sự (THAHS). Có thể phân biệt hai hoạt động này thông qua các đặc thù của mỗi hoạt động thể hiện, cụ thể như sau: Về cơ quan thi hành án: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ THADS là Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên. Trong khi đó, chủ thể của THAHS là Cơ quan thi hành án hình sự, bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam); Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương sự [4], [5] Về người chấp hành án: Đương sự trong THADS bao gồm người được thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành) và người phải thi hành án (cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành). Đối với THAHS, người chấp hành án là người bị kết tội và phải chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật. Về khách thể: THADS đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của các bên đương sự, xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường hợp phải chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định, cơ quan THADS chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người được thi hành án, đồng thời phải tôn trọng và đảm bảo cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện thi hành án. Còn THAHS hoàn toàn mang tính cưỡng chế nhà nước, chỉ tuân thủ theo quyết định, bản án hình sự có hiệu lực pháp luật.
  • 23. 16 Về trình tự, thủ tục: Trình tự, thủ tục THADS theo quy định của pháp luật về THADS. Trình tự, thủ tục THAHS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của pháp luật về THAHS. 1.2. Pháp luật về thi hành án dân sự 1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự Pháp luật là hệ thống các quy phạm (quy tắc hành vi hay quy tắc xử sự) có tính bắt buộc chung và được thực hiện lâu dài, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận), thể hiện ý chí nhà nước và được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy nhà nước. Pháp luật là công cụ để thực hiện quyền lực nhà nước và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có nhà nước. Biểu hiện của tính hệ thống pháp luật là sự phân chia hệ thống ấy thành những ngành, chế định pháp luật điều chỉnh từng lĩnh vực, nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những nhóm quan hệ xã hội ấy giống nhau về nội dung và tính chất, tồn tại một cách khách quan. Pháp luật THADS có tính chất chuyên ngành được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở để hình thành pháp luật về THADS “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” (Đ.106 Hiến pháp năm 2013) [34]. Nhận thức tầm quan trọng của công tác thi hành án, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về THADS, như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới[1], Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
  • 24. 17 khoá IX (2004) và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020[3], Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020[2]. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây, nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 [49], Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993[49] và Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004[50]. Kết quả sau hơn ba năm thực hiện Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 cho thấy, nhiều quy định về thủ tục thi hành án đã thể hiện được quan điểm cải cách tư pháp, cải cách hành chính, phù hợp với sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, tháo gỡ kịp thời một số tồn tại, vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự, góp phần từng bước nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Pháp lệnh năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nhất là quy định về trình tự, thủ tục; trách nhiệm, cơ chế phối hợp của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án; cơ chế quản lý, mô hình tổ chức cơ quan thi hành án chưa ngang tầm với chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc được giao; quyền hạn của cơ quan thi hành án, của Chấp hành viên chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chưa có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa thi hành án dân sự với thi hành án phạt tù, đặc biệt là các vụ án hình sự có bồi thường thiệt hại; chưa tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện xã hội hoá hoạt động thi hành án dân sự, ngày 14/11/2008, Quốc hội thông qua Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi là Luật) và Nghị quyết thi hành luật này, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2009[35],[36]. Trên cơ sở các quy định của Luật, việc tổ chức thi hành Luật đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò
  • 25. 18 của công tác THADS được nâng lên rõ rệt; hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ (06 Nghị định của CP, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 Thông tư, 15 thông tư liên tịch...); việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác THADS theo quy định của Luật đã cơ bản được hoàn thành; tiếp tục được hoàn thiện và ban hành Luật hi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, có hiệu lực ngày 1/7/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ, các Thông tư liên ngành về thi hành án dân sự...[43] Như vậy, có thể khái quát: Pháp luật thi hành án dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong giai đoạn thi hành án dân sự nhằm bảo đảm việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước. 1.2.2. Nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự Pháp luật về THADS không chỉ gói gọn trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 mà còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Để tìm hiểu nội dung cơ bản của pháp luật về THADS đòi hỏi phải có sự nghiên cứu đầy đủ, toàn diện những chế định có liên quan như: các quy định về phân cấp quản lý nhà nước về THADS, hệ thống các cơ quan thi hành án, chấp hành viên; vấn đề về trình tự thủ tục tổ chức thi hành, cưỡng chế thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm; vấn đề về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và nhà nước có liên quan đến THADS; vấn đề về công tác phối hợp của các cấp, các ngành đối với hoạt động THADS. Nhìn chung pháp luật về THADS của nước ta bao gồm những nội dung cơ bản sau:
  • 26. 19 1.2.2.1. Quy định về mục tiêu cơ bản của thi hành án dân sự Mục tiêu chung nhất của pháp luật về THADS là nhằm hoàn thiện thể chế về THADS, tiếp tục tạo chuyển biến cơ bản trong công tác THADS, khắc phục tình trạng án tồn đọng kéo dài; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án; nâng cao kỷ cương phép nước và tính nghiêm minh của pháp luật. Bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước là người được thi hành theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thương mại. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; tăng cường vị trí, vai trò của cơ quan THADS, Chấp hành viên; xác định rõ hơn trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong hoạt động THADS. Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 ra đời tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác THADS, góp phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự và được quy định tại các điều 7, 7a và 7b về quyền và nghĩa vụ của đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án), quyền yêu cầu và quyền tự thỏa thuận, định đoạt của đương sự cũng được quy định cụ thể và mở rộng hơn trước đây của Luật THADS năm 2008 [37]. Như vậy, mục tiêu chung nhất của pháp luật về THADS đó là tạo điều kiện thuận lợi nhất để mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan đến THADS được bảo
  • 27. 20 đảm thực hiện các quyền của mình và được pháp luật bảo vệ các lợi ích hợp pháp kịp thời. Góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác THADS. 1.2.2.2. Quy định các nguyên tắc thi hành án dân sự Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc này xuất phát từ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đường lối chính sách của Đảng luôn giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung, phương hướng xây dựng pháp luật của Nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều có sự lãnh đạo của Đảng trong đó có hoạt động THADS. Đảng phải xác định những phương hướng chủ yếu, kế hoạch và nội dung chính của hoạt động THADS. Những Nghị quyết, Văn kiện của Đảng là cơ sở vững chắc cho hoạt động THADS của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không bao biện làm thay chức năng của Nhà nước và văn kiện của Đảng tất nhiên không phải là pháp luật. Bởi vậy, Nhà nước phải cụ thể hoá nó bằng những qui phạm pháp luật, qua đó, QLNN trong THADS bằng pháp luật chính là quá trình hiện thực hóa sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong công tác THADS. Thứ hai, nguyên tắc pháp chế XHCN. Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong hoạt động THADS luôn thực hiện đúng nguyên tắc pháp chế này, bởi các yêu cầu cơ bản sau: - Pháp luật bảo đảm cho toàn bộ quá trình THADS đều phải được thực hiện theo khuôn khổ pháp luật, pháp luật bảo đảm cho hoạt động THADS được thực thi theo một trật tự ổn định, là cơ sở giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh, trong qụá trình THADS, là cơ sở hướng tới mục tiêu hiệu quả của hoạt động THADS. - Các văn bản pháp luật về THADS phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp
  • 28. 21 luật. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi các quy định pháp luật phải thống nhất với nhau không mâu thuẫn chồng chéo và phải tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp, phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn về các quy luật khách quan của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình THADS, từ đó đủ khả năng điều chỉnh một cách hiệu quả tổ chức và hoạt động THADS. - Các quy định của pháp luật về THADS phải được tôn trọng và nghiêm túc thực hiện, được quán triệt trong nhận thức và hành động của các cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS, các CHV, Thư ký thi hành án..., không chấp nhận tính tùy tiện, cục bộ bản vị và vi phạm pháp luật trong lĩnh vực THADS. Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án là những tư tưởng, quan điểm cơ bản đóng vai trò chỉ đạo định hướng cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời các bản án quyết định của Tòa án. Khi giải quyết vụ việc dân sự Toà án phải quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm cho việc thi hành án, phải tuyên bản án, quyết định đầy đủ, rõ ràng, chính xác tạo thuận lợi cho việc thi hành án; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải được đưa ra thi hành trên thực tế và mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan đến thi hành bản án, quyết định của Tòa án đều phải chấp hành nghiêm túc. Mọi hành vi chống lại và không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đều bị xử lý theo quy định pháp luật. Trong các giai đoạn thi hành án nếu các cá nhân, tổ chức phải có nghĩa vụ thi hành theo bản án, quyết định mà không tự nguyện thi hành thì phải chịu áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ thực hiện. Cơ quan, tổ chức, được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ đó; mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
  • 29. 22 Các cơ quan, tổ chức và cá nhân không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, không được cản trở, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án dân sự; đối với những người có hành vi trái pháp luật như cố tình không chấp hành án, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án dân sự v.v. thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lí theo quy định của pháp luật. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước, yêu cầu các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi công dân, cơ quan, tổ chức tôn trọng và chấp hành nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời. Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sư Là nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người, quyền công dân trong thi hành án. THADS là hoạt động liên quan trực tiếp đến quyền con người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, các cơ quan thi hành án phải đảm bảo và tôn trọng các quyền đó. Ngoài ra, quyền tự định đoạt của các bên đương sự cũng phải được tôn trọng, cho họ tự nguyện thi hành. Chỉ trong trường hợp cần thiết mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, còn lại cần tôn trọng sự tự nguyện và thỏa thuận của các bên tham gia vào quan hệ pháp luật trong THADS; Luật thi hành án dân sự cũng đã quy định rất rõ về các quyền và nghĩa vụ của đương sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc yêu cầu thi hành án ở (Điều 7, 7a, 7b), quyền thỏa thuận tự nguyện về thi hành án (Điều 6), quyền được thông báo về thi hành án (Điều 39 đến Điều 43), quyền yêu cầu hoãn thi hành án (Điều 48), Quyền yêu cầu đình chỉ thi hành án (Điều 50)[37] đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này cũng thể hiện tính nhân đạo trong thi hành án, đòi hỏi phải đảm bảo việc bảo vệ có hiệu quả, hài hòa các loại lợi ích khác nhau, tôn
  • 30. 23 trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân, được thể hiện rõ trong nhiều quy định của pháp luật về THADS, ví dụ như khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản để thi hành án, pháp luật chỉ cho phép kê biên những tài sản đủ để thi hành án và thanh toán chi phí về việc thi hành án chứ không kê biên tất cả tài sản của người đó. Đồng thời, khi kê biên tài sản, Chấp hành viên không được kê biên những loại tài sản cần thiết tối thiểu cho cuộc sống của họ và gia đình họ… (những tài sản không được cưỡng chế kê biên được quy định tại Điều 87 Luật THADS). Hoặc là người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên đủ điều kiện được hoãn thi hành án (theo điểm a,khoản 1 Điều 48 Luật THADS) [37] Xuất phát từ nguyên tắc thỏa thuận và tự định đoạt của giao dịch dân sự, trong THADS, đảm bảo và khuyến khích tự nguyện THADS là một yếu tố rất quan trọng để thi hành án có hiệu quả, ít tốn kém nhất. Luật thi hành án dân sự cũng có quy định cụ thể để ấn định thời hạn tự nguyện thi hành và đến khi hết thời hạn đó, cơ quan THADS, chấp hành viên, mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, cưỡng chế trả nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất… Thứ năm, nguyên tắc phối hợp giữa cơ quan THADS với các cấp chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác. THADS là hoạt động mà khi triển khai và hiệu quả triển khai không chỉ phụ thuộc và các cơ quan thi hành án mà còn phụ thuộc sự tham gia của các cấp chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác. Chính vì thế, cần bảo đảm sự phối hợp này, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan THADS với Tòa án và Viện kiểm sát. Bởi lẽ, THADS là hoạt động hiện thực hóa các bản án quyết định dân sự của Tòa án, được thực hiện sau khi bản án quyết định dân sự của Tòa án và có quyết định thi hành án của Tòa án. Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động THADS, nhằm phát hiện, kiến nghị, kháng nghị các vi phạm pháp luật để khắc
  • 31. 24 phục vi phạm pháp luật, bảo đảm pháp chế XHCN trong THADS.Trong quá trình thi hành án, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các cơ quan THADS một mặt phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, mặt khác phải phối hợp với cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể xã hội trong công tác giải quyết thi hành án. Sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác phối hợp, xác minh, kê biên, cưỡng chế thi hành án tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của chấp hành viên, cơ quan thi hành án đạt hiệu quả cao hơn. 1.2.2.3. Quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong thi hành án dân sự Từ khi có Hiến pháp năm 2013 đã đề cao vai trò quyền con người nên được thể chế hóa trong các văn bản luật luôn chú trọng đến vấn đề này. Trước đây, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 không có điều luật nào quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, mà quyền và nghĩa vụ của họ được quy định rải rác ở các điều luật. Để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013, Luật Sửa đổi, bổ sung năm 2014, đã quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự. Theo đó, từ quy định về quyền yêu cầu thi hành án tại Điều 7 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung đã có quy định tương đối cụ thể tại các Điều 7, 7a và 7b về quyền và nghĩa vụ của đương sự (người được thi hành án và người phải thi hành án), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hoạt động thi hành án dân sự. Cụ thể như sau: - Về quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Điều 7 của Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về quyền yêu cầu thi hành án, đã được sửa đổi
  • 32. 25 thành điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, với những quyền, nghĩa vụ cơ bản nhất, được thiết kế với sự phân định rõ ràng giữa quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, bên cạnh những quyền, nghĩa vụ cụ thể khác được quy định tại các điều luật liên quan xuyên suốt quá trình tổ chức thi hành án dân sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện. Luật đã mở rộng, tạo điều kiện cho người được thi hành án không chỉ có quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà còn có quyền được thông báo về thi hành án; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ trong bản án, quyết định của mình. Quy định này, cùng với quy định về quyền được ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; quyền chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác và các quyền khác đã tạo điều kiện thiết thực cho đương sự có thêm cơ hội lựa chọn phương thức phù hợp để thi hành án, phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự. Một quyền rất mới mà Luật bổ sung cho đương sự, đó là quyền được yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ. Quy định này phù hợp với quy định hiện hành về thay đổi người tiến hành tố tụng trong các thủ tục tố tụng, đảm bảo sự khách quan trong tổ chức thi hành án dân sự. Điều quan trọng là Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi một cách căn bản quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án liên quan đến việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2008 thì người được thi hành án có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh không có kết quả và phải chịu chi phí xác minh. Quy định trên trong thực tiễn thực hiện cho thấy chưa phù hợp ở giai đoạn hiện tại của điều
  • 33. 26 kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Như vậy, để tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người được thi hành án trong việc thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đã được pháp luật công nhận, trên cơ sở khôi phục quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, Luật sửa đổi, bổ sung đã quy định chuyển hóa thành quyền của người được thi hành án trong việc cho phép họ được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp cho cơ quan thi hành án thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; họ không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện. Để khuyến khích người được thi hành án thi hành án tích cực, chủ động trong việc cung cấp thông tin, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án nhà nước sẽ miễn, giảm phí thi hành án. Khi người được thi hành án cung cấp thông tin điều kiện về tài sản của người phải thi hành án mà cơ quan thi hành án có thể thể tiến hành xử lý tài sản đó để đảm bảo việc thi hành án cho người được thi hành án thì họ sẽ được miễn, giảm phí thi hành án tương ứng với số tiền hoặc tài sản thu được từ thông tin mà họ cung cấp cho cơ quan thi hành án. Mặt khác, tình trạng người phải thi hành án luôn tìm mọi cách để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, như: không nhận tài sản là của mình, đồng ý tài sản là của người khác, không khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung. Do đó, Luật đã quy định bổ sung quyền của người được thi hành án trong việc yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp của đương sự về tài sản liên quan đến thi hành án cũng như quyền yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót. Đây là quyền quan trọng để tạo cơ hội cho người được thi hành án bảo vệ kịp thời và đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp mà bản án, quyết định đã ghi nhận. Người được thi hành án có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh bản án,
  • 34. 27 quyết định; thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú; chịu phí, chi phí thi hành án theo quy định. [43] - Về quyền và nghĩa vụ của người phải thi hành án Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Quy định về quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án được quy định ở Điều 7ª của Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng thi hành như Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ. Bên cạnh các quyền của người phải thi hành án (cũng là các quyền chung với người được thi hành án), về quyền tự nguyện thi hành án trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án (theo quy định tại Điều 45 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Quy định người phải thi hành án có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó. Đây là quy định mới, vừa khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án, vừa giảm tải trách nhiệm của Chấp hành viên, chi phí của nhà nước, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án. Ngoài ra, người phải thi hành án còn có các quyền được thông báo các văn bản, quyết định về thi hành án, các hình thức thông báo được quy định tại từ Điều 39 đến Điều 43 Luật THADS. Nghĩa vụ của người phải thi hành án là phải thi hành các bản án, quyết định và thực hiện đầy đủ các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.
  • 35. 28 - Về quyền và nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án). Các quyền của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án giữa các bên đương sự, giúp cho họ kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự, được quy định tại Điều 7b của Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Luật sửa đổi, bổ sung cũng khẳng định người có quyền, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự. Ví dụ như xác định tư cách của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến đương sự ở hai giai đoạn khác nhau. Ở giai đoạn xét xử đã được Tòa án xác định rõ trong bản án, quyết định với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ở giai đoạn thi hành án, cũng có thể phát sinh người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong những trường hợp thi hành án dân sự đối với phần tài sản chung, hộ gia đình... như việc chấp hành viên tiến hành cưỡng chế, kê biên, xử lý tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo thi hành cho bản án, quyết định của người vợ hoặc của người chồng trong những vụ án tranh chấp dân sự... Khi kê biên, xử lý tài sản chung này được thì người có liên quan đến tài sản chung đó được xác định tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Do vậy, họ có các quyền và nghĩa vụ được ưu tiên quy định tại Điều 74 , Điều 101 của Luật thi hành án dân sự. 1.2.2.4. Quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, các cơ quan trong pháp luật về thi hành án dân sự Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS, Chấp hành viên được quy định tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự
  • 36. 29 năm 2014: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên theo quy định của Luật này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị xử lý theo quy định của pháp” [37] và không chỉ quy định trong Luật mà còn thể hiện ở các văn bản hướng dẫn thi hành,tập trung chủ là các cá nhân, tổ chức, cơ quan như sau: - Bộ Tư pháp, Bộ Quốc có trách nhiệm phối hợp trong thi hành án dân sự Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp, chịu sự kiểm sát hoạt động tư pháp của hệ thống cơ quan kiểm sát, tại điểm e khoản 1 Điều 167 quy định về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án dân sự đã không quy định việc thanh tra về công tác thi hành án dân sự nói chung như Luật thi hành án dân sự 2008 quy định. Luật sửa đổi, bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Tư pháp thực hiện thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự. Do vậy, Bộ Tư pháp không thực hiện nhiệm vụ thanh tra nghiệp vụ thi hành án dân sự như trước đây vì thuộc nhiệm vụ kiểm sát thi hành án dân sự do Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Tương tự như trách nhiệm của Bộ Tư Pháp thì trách nhiệm Bộ Quốc phòng trong Pháp luật thi hành án dân sự, chỉ tiến hành thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc thực hiện chế độ chính sách và bố trí, sử dụng cán bộ thi hành án trong quân đội được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 168 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Luật giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ,
  • 37. 30 quyền hạn của mình quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều, khoản được giao trong Luật này mà trước đây chưa phân định rõ trách nhiệm nên có phần hạn chế trong công tác phối hợp thi hành án dân sự. - Trách nhiệm của UBND trong phối hợp hoạt động THADS Công tác thi hành án dân sự, có thể nói không thể thiếu vai trò của Ủy ban nhân dân các cấp. Công tác thi hành án dân sự gắn liền với người dân, gắn với địa bàn cụ thể nơi đóng trụ sở của cơ quan thi hành án, nơi diễn ra hoạt động thi hành án, từ việc thông báo thi hành án, tống đạt trực tiếp hay niêm yết công khai, việc xác minh điều kiện thi hành án đến việc tổ chức cưỡng chế thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án…Điều đó, cho thấy được tầm quan trọng của UBND các cấp có trách nhiệm phối hợp vào các công đoạn của quy trình trình tự thủ tục thi hành án dân sự trên địa bàn được Luật THADS quy định tại các Điều 173,174 và 175 [37] quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân trong thi hành án dân sự và cụ thể từng cấp. + Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong thi hành án dân sự Là cơ quan trung ương đóng tại địa phương, cơ quan thi hành án dân sự chịu sự quản lý song trùng trực thuộc, theo nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ. Mặt khác, cơ quan thi hành án dân sự, với nhiệm vụ được giao có vai trò góp phần vào việc thực thi pháp luật, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.Với vai trò là cơ quan hành chính cao nhất ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý toàn diện, mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương trên phạm vi toàn tỉnh và cấp huyện trên phạm vi địa bàn. Giúp việc cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có các cơ quan chuyên môn trực thuộc. Mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng, theo pháp luật, quy định của nhà nước và quy định của ngành để giải quyết công việc, trong đó có nhiều công việc liên
  • 38. 31 quan, phục vụ cho việc thực hiện các hoạt động cụ thể trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Vì vậy, kết quả hoạt động, sự phối hợp của các cơ quan hữu quan cũng góp phần giúp cho cơ quan thi hành án hoàn thành nhiệm vụ, cụ thể như sau: Thứ nhất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện vai trò chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 174. Trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự, có thể nói rằng hầu hết các cơ quan, đơn vị đều phối hợp tốt, giúp cho cơ quan thi hành án dân sự hoàn thành nhiệm vụ. Đơn cử như việc xây dựng kế hoạch bảo vệ cưỡng chế, việc cử công chức tham gia việc thi hành án, việc tổ chức họp bàn thống nhất quan điểm, việc cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án, việc hoàn tất các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng và các vấn đề liên quan khác… Khi cần có sự phối hợp của các cơ quan hữu quan cũng như khi cần có sự chỉ đạo để phân công, phân nhiệm, để phối hợp hiệu quả hơn trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự, thì cơ quan thi hành án dân sự cần chủ động, kịp thời đề xuất, báo cáo Ủy ban để kịp thời chỉ đạo các cơ quan hữu quan trên địa bàn và không chỉ là công tác chỉ đạo các cơ quan chuyên môn phối hợp mà còn là trách nhiệm giải quyết những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong công tác THADS. Trách nhiệm của UBND đã góp phần quan trọng trong công tác chỉ đạo cơ quan chuyên môn, cơ quan hữu quan. Thứ hai là việc chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện. Cưỡng chế thi hành án là hoạt động phức tạp, khó khăn nhất của cơ quan thi hành án dân sự và cũng là hoạt động cần huy động nhiều lực lượng tham gia
  • 39. 32 nhất như cơ quan công an, chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn khác… Nếu hoạt động thi hành án, đặc biệt là cưỡng chế thi hành án không được sự ủng hộ, phối hợp chặt chẽ của cơ quan hữu quan, chính quyền địa phương thì cơ quan thi hành án dân sự gặp khó khăn trong việc tổ chức cưỡng chế hoặc tổ chức cưỡng chế khó thành công, hiệu quả, an toàn. Thứ ba, có ý kiến bằng văn bản về việc đồng ý, không đồng ý bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp. Đây là sự phối hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác tổ chức cán bộ để đảm bảo lựa chọn lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thứ tư, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tự kiểm tra và đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Kiểm tra luôn là công cụ hữu hiệu để thực hiện chức năng quản lý nhà nước, kịp thời phát hiện những ưu điểm, kết quả đạt được để nhân rộng cũng như những tồn tại, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Kết quả kiểm tra cũng giúp cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ được chính xác. Với việc cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức theo hệ thống dọc, nên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bên cạnh việc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh tự kiểm tra công tác thi hành án ở địa phương, tiến hành kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc, còn thực hiện quyền và trách nhiệm đề nghị cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Tương tự, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tự kiểm tra và có thể đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh kiểm tra công tác thi hành án dân sự ở địa phương.
  • 40. 33 Thứ năm, yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự báo cáo công tác thi hành án dân sự ở địa phương. Định kỳ hoặc đột xuất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện việc yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp báo cáo về công tác thi hành án, đồng thời thực hiện việc cho ý kiến đối với báo cáo của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp trước khi trình Hội đồng nhân dân theo quy định. Thứ sáu, quyết định khen thưởng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác THADS Là cơ quan trung ương, cơ quan thi hành án dân sự được xét thi đua, khen thưởng theo hệ thống dọc. Bên cạnh đó, với sự đóng góp của các công chức làm công tác thi hành án vào thành quả kinh tế, chính trị trên địa bàn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện xem xét quyết định việc khen thưởng hoặc đề xuất cấp trên khen thưởng cho các tập thể và cá nhân làm công tác thi hành án. Thực tế công tác này đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện quan tâm đầy đủ, góp phần động viên, khích lệ đội ngũ công chức làm công tác thi hành án. Thứ bảy, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về thi hành án dân sự Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm trong việc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý kịp thời vi phạm pháp luật về thi hành án dân sự theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật. Việc bổ sung này cũng phù hợp với vai trò của Ủy ban tại địa phương, không chỉ khen thưởng mà còn phải có thái độ nghiêm khắc, xử lý kiên quyết những trường hợp vi phạm. + Ủy ban nhân dân cấp xã Khác với quy định về vai trò của Ủy ban nhân cấp huyện và cấp tỉnh là vai trò chỉ đạo thì, Luật thi hành án dân sự quy định vai trò của Ủy ban cấp xã là
  • 41. 34 vai trò phối hợp. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phối hợp với Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự trong các hoạt động sau: Thông báo thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án, các nhiệm vụ khác về thi hành án dân sự trên địa bàn.Như vậy, các nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thi hành án xuyên suốt cả quá trình thi hành án. Ủy ban nhân dân cấp xã xuất hiện từ đầu hoạt động thi hành án cho đến khi kết thúc. Vì vậy, việc hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp xã trong hoạt động thi hành án dân sự là thường xuyên, liên tục trong quá trình tổ chức thi hành án. Ủy ban tham gia phối hợp bằng nhiều cách, như cử công chức tham gia cùng với Chấp hành viên trong hoạt động thông báo, xác minh, cưỡng chế; cung cấp thông tin; xác nhận vào các biên bản làm việc; giáo dục công dân trên địa bàn nhận thức và chấp hành các yêu cầu hợp pháp của cơ quan thi hành án dân sự... - Trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thi hành án được quy định tại khoản 5 Điều 3, các Điều 23,24,25 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và hiện nay quy định tại điểm c khoản 2 Điều 4, Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Luật Thi hành án dân sự cũng thể hiện nội dung này tại khoản 2 Điều 12 Luật thi hành án dân sự năm 2008. Kế thừa các quy định này, Luật sửa đổi, bổ sung đã giữ nguyên khoản 1 và sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 12 theo hướng mở rộng các đối tượng kiểm sát, quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát thi hành án. Nếu như trước đây, Viện kiểm sát nhân dân chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật về thi hành án của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, thì nay Viện kiểm sát nhân dân còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong một số hoạt động như việc cấp, chuyển giao bản
  • 42. 35 án, quyết định, việc sửa chữa, bổ sung bản án, quyết định (Điều 12 Luật sửa đổi, bổ sung)[43],nhằm khắc phục hạn chế việc chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự chậm, chưa đúng với thời gian quy định tại Điều 28 Luật Thi hành án dân sự, có những thời điểm Tòa án chuyển giao quá nhiều bản án, quyết định dẫn đến tình trạng cùng một lúc cơ quan thi hành án dân sự phải thi hành nhiều vụ việc. Vì vậy, không tránh khỏi tình trạng cơ quan thi hành án vi phạm một số thời hạn nhất định như thời hạn thông báo, thời hạn xác minh điều kiện thi hành án … Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát hoạt động chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án sẽ hạn chế được tình trạng “dồn án” hoặc “quên” chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành và sẽ khắc phục được phần nào tình trạng quá tải và một số vi phạm của cơ quan thi hành án dân sự. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện hoạt động kiểm sát như: quyền yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự cung cấp, cấp dưới ra quyết định về thi hành án, gửi các quyết định về thi hành án; thi hành đúng bản án, quyết định; yêu cầu cơ quan thi hành án, Chấp hành viên tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; trực tiếp kiểm sát và ban hành kết luận kiểm sát khi kết thúc việc kiểm sát; tham gia các phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án và phát biểu quan điểm tại các phiên họp đó…Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng về kiểm sát thi hành án nhằm kịp thời ngăn chặn, hạn chế những sai sót của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, đồng thời cũng tăng trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân với hoạt động thi hành án dân sự. Thực tế thời gian qua một số cơ quan thi hành án địa phương đã để xảy ra nhiều vi phạm; đồng thời, một số Chấp hành viên, công chức đã bị xem xét trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, với quy định của pháp luật hiện hành thì Viện kiểm sát nhân dân chưa phải chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm mặc dù
  • 43. 36 vụ việc có liên quan đã được Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoặc thông qua các cuộc kiểm sát trực tiếp, kiểm sát theo định kỳ (tháng, quý, năm), kiểm sát theo chuyên đề theo quy định. Từ đó cho thấy đối với một số nơi, một số vụ việc cụ thể, Viện kiểm sát nhân dân đã làm chưa hết trách nhiệm của mình trong việc kiểm sát thi hành án. Trách nhiệm của Tòa án nhân dân phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự Tòa án là cơ quan tư pháp, thực hiện chức năng xét xử, ban hành các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước. Cơ quan Thi hành án dân sự là cơ quan chấp hành, thực hiện và tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Công tác thi hành án dân sự có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào phán quyết của Tòa án có tính khả thi hay không. Do đó cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc tuyên án; chuyển giao kịp thời, đầy đủ các bản án, quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự; giải thích, đính chính những nội dung trong bản án, quyết định mà cơ quan thi hành án dân sự, đương sự có kiến nghị, đề nghị; nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc xác định quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án để thi hành án…Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014, tòa án có trách nhiệm trong phối hợp hoạt thi hành án dân sự như: +Quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án trong việc xác định quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án Xuất phát từ một số vướng mắc trong thực tế, chẳng hạn, khi người phải thi hành án không có tài sản riêng mà chỉ có khối tài sản chung với một hoặc nhiều người (quy định tại Điều 74 Luật Thi hành án dân sự) mà chưa xác định được phần quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, nếu như Tòa án không ra phán quyết về việc xác định phần quyền sử dụng, sở hữu tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung thì cơ quan thi hành
  • 44. 37 án cũng không thể tổ chức thi hành được. Điều này dẫn đến việc quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án mặc dù đã được Tòa án công nhận nhưng cũng không được thi hành trên thực tế. Do đó, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 170 trách nhiệm của Tòa án“Thụ lý và kịp thời giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hủy giấy tờ, giao dịch phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án” + Tăng cường trách nhiệm của Tòa án khi xem xét bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trên thực tế, hoạt động thi hành án còn vướng mắc liên quan trong trường hợp cơ quan thi hành án đã thi hành xong bản án, quyết định nhưng bản án, quyết định đó lại bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy theo thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại. Theo quy định tại Điều 136 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì trường hợp giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại thì việc thi hành án được thực hiện theo bản án, quyết định sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật hoặc bản án phúc thẩm mới. Tuy nhiên, khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án thì nguyên đơn lại rút yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt; theo quy định, Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ án. Trong trường hợp này, cơ quan thi hành án không có căn cứ để giải quyết đối với các vấn đề phát sinh tiếp theo từ kết quả THADS trước đó, dẫn đến phát sinh nhiều đơn khiếu nại gay gắt, phức tạp gây khó khăn cho cơ quan thi hành án dân sự. Để khắc phục những vướng mắc trên, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung khoản 4 Điều 170 đó là “Khi xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành theo
  • 45. 38 bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy.” Do đó, pháp luật về thi hành án dân sự đã quy định trách nhiệm của Tòa án trong giai đoạn THADS, giúp các cơ quan thi hành án dân sự tháo gỡ được nhiều vướng mắc phát sinh và giải quyết triệt để về vấn đề tài sản khi cơ quan thi hành án dân sự đã thi hành xong nhưng Tòa án cấp có thẩm quyền lại tuyên hủy bản án, quyết định đã được thi hành xong và Tòa án có thẩm quyền lại ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án góp phần vào rất quan trọng trong việc giảm án tồn của cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, Tòa án còn có trách nhiệm trong việc xét việc dân sự đối với các trường hợp thi hành án đề nghị miễn, giảm thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước; trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết định của Toà án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 90 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị…
  • 46. 39 Tiểu kết chương 1 Trong chương này, luận văn đã cơ bản giải quyết được các vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến pháp luật về THADS như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của THADS; Khái niệm và phân tích nội dung của pháp luật về THADS. Phân biệt được Thi hành án dân sự với Thi hành án hình sự, trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong công tác phối hợp thi hành án dân sự. Từ đó, có thể khẳng định rằng, pháp luật về thi hành án dân sự đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện mục tiêu của cải cách hành chính - tư pháp, nhằm xây dựng một nền tư pháp tiên tiến, hiện đại, hiệu quả, đáp ứng được hội nhập quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội