SlideShare a Scribd company logo
1 of 110
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.
ĐẮK LẮK – NĂM 2016
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Mã số: 60 38 01 02.
Người hướng dẫn khoa học: TS. Huỳnh Văn Thới
ĐẮK LẮK – NĂM 2016
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
khoa học của TS. Huỳnh Văn Thới.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề
được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu
sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./.
Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016
Học viên
Huỳnh Ngọc Hoàng Hải
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài............................................................3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài..........................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................6
6. Ý nghĩa của luận văn..........................................................................................6
7. Kết cấu của Luận văn .........................................................................................6
Chương 1: ..............................................................................................................7
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC ........................7
VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN ......................................................................................................................7
1.1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC..................7
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước 7
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân 9
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân 10
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân
.13
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.......................... 15
1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người 15
1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam
20
5
1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình
sự 24
1.3. NỘI DUNG VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN................................................................................................ 35
1.3.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự 35
1.3.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự 43
1.3.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc tạm giữ, tạm giam 48
1.3.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án 53
Chương 2 ............................................................................................................. 56
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TỈNH ĐĂK LĂK TRONG
BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT CẤP TỈNH HIỆN NAY
2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
ĐẮK LẮK ........................................................................................................... 56
2.1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK. 56
2.1.2. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK
59
2.2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ
............................................................................................................................. 60
2.2.1. Trong giai đoạn khởi tố và điều tra 60
2.2.2. Trong giai đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự 67
2.2.3. Trong giai đoạn thi hành án hình sự 74
6
2.2.4. Đánh giá chung 79
2.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân của chúng79
2.2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng 80
2.3. GIẢ PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP
TỈNH TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI……………….……………….82
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò bảo
vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân 82
2.3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân 90
2.3.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát
91
2.3.2.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát
93
2.3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng hình sự
95
2.3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành kiểm sát 97
2.3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ
cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát 99
KẾT LUẬN........................................................................................................ 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 104
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ
dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được
bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”.
Có nhiều biện pháp tổng hợp để Nhà nước thực hiện bảo vệ quyền con
người, từ xây dựng hệ thống bộ máy, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho đến tổ
chức thực hiện pháp luật. Trong đó, bảo vệ con người thông qua các thiết chế tư
pháp là vô cùng cấn thiết. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã hoàn thiện thêm một
bước về tổ chức và phân công thực hiện quyền lực nhà nước, các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực
hiện quyền hành pháp và tòa án thực hiện quyền tư pháp, viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Các thiết chế này có trách nhiệm bảo
vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Nói về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, Hiến pháp năm
2013 khẳng định: “1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. ...3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107). Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ra đời thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, thể chế
8
hóa quan điểm lãnh đạo của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp nước
ta gắn với vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát. Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02.6.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 đã chỉ rõ: “Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức năng như
hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm
sát nhân dân tổ chức cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án.
Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy nhà
nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có những bộ
luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền con người như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự, thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò bảo vệ quyền con người
của Viện kiểm sát hay một chế định hiến định nào đó đều là điều cần thiết, cả về
mặt lý luận và thực tiễn, cả ở bình diện quốc gia hay địa phương.
Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở Tây Nguyên. Những năm qua, công tác kiểm sát
đã được quan tâm nâng cao chất lượng, nhằm bảo về quyền con người, quyền công
dân, cũng như góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật,
góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên,
trước bối cảnh đổi mới cơ quan kiểm sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên
tắc pháp quyền, việc nâng cao vai trò của viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường
trực, hơn nữa, thời gian qua, công tác kiểm sát ở tỉnh Đắk Lắk xuất hiện những hạn
chế về hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của người dân vào
sự công bằng của pháp luật.
Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ
quyền con người, đánh giá thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế
cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến
nghị nhằm hoàn thiện vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh trong bảo vệ quyền con người – từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
9
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công bố,
ở những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như:
- Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015.
- Giáo trình Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Nhóm
tác giả (Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009.
- Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2006), Bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Hà Nội.
- GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong
giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Tháng 8/2013), Báo cáo chuyên đề “Xác
định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động xét xử”, Hà Nội.
- Vụ Công tác Lập pháp, Viện Khoa học Kiểm sát (2003), Những sửa đổi cơ
bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội.
- Hội đồng Phối hợp Phổ biến Giáo dục pháp luật Trung ương (2013), Quyền
con người và chính sách pháp luật về quyền con người, Đặc san tuyên truyền pháp
luật số 06/2013.
- TS. Phạm Mạnh Hùng (2011), “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện
kiểm sát”, Tạp chí kiểm sát (21).
- PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23, tr. 64-80.
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của tác giả Lê Hữu Thể và các tác giả (năm 2008).
10
- Lại Văn Trình, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP. Hồ Chí Minh, năm 2011;
- Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân – Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2015.
Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: Chu Mạnh Hùng, “Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt
động tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học – trường Đại học Luật Hà Nội, số
6/2008; Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải
cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung
trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn
Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012,...
Qua khảo sát, cho thấy: nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ
bản về vai trò, các chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con
người thông qua các chức năng của cơ quan này, và thông qua các giai đoạn trong
tố tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò
bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát ở những địa phương cụ thể. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền
con người của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu về vai trò Cơ quan viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con
người theo quy định hiện hành và đánh giá thực hiện vai trò đó qua thực tiễn ở
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò
của cơ quan này trong bảo vệ quyền con người trong thời gian tới.
- Các nhiệm vụ của luận văn:
11
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân trong bộ
máy nhà nước; quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, pháp
luật Việt Nam; nội dung vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân
theo quy định hiện hành.
+ Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk
hiện nay; nghiên cứu thực tiễn thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua
các mặt công tác của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh, tìm hiểu các thành tựu, hạn chế
và các nguyên nhân của chúng;
+ Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân nói chung trong giai đoạn hiện nay, trong đó có Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò bảo vệ quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân và việc thực hiện vai trò đó trong thực tiễn ở Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: tỉnh Đắk Lắk.
- Phạm vi thời gian: từ 2013 đến nay (2016).
- Phạm vi nội dung: luận văn nghiên cứu công tác trong lĩnh vực hình sự;
(một số số liệu, thông tin khác có liên quan có giá trị tham khảo).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để
nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người
12
thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; các đề tài khoa học,
chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để
nêu lên cơ sở lý thuyết về vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công
tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và đánh giá, khái quát thành những quan điểm,
luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.
- Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả sử dụng phương pháp này thông
qua các hình thức khảo sát và phỏng vấn sâu đối với một số chủ thể có liên quan.
- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở
chương 2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm
cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những
giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con
người của viện kiểm sát nhân dân;
- Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền
con người của viện kiểm sát qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên
cứu luật học về chủ đề.
7. Kết cấu của Luận văn
Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Trong đó phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và vai trò bảo vệ
quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Đắk Lắk và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
13
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước
Về vị trí, vai trò: Việt Nam hiện tại là một nước theo hệ thống Xã hội chủ
nghĩa. Bộ máy nhà nước của các nước nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa (XHCN) được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân
nhân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội
không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước, trong đó
Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói
chung (Hiến pháp 1960, 1980). Hiến pháp 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân
(VKSND) kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố; Hiến
pháp 1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố
là chức năng chủ yếu của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960
bằng một đạo luật là Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Yêu cầu đặt ra đối với các Kiểm sát viên là phải hành động một cách vô tư,
khách quan, căn cứ vào các tiêu chí pháp luật, không thiên vị. Với chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì cần tổ chức Viện kiểm
sát thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập. Từ năm 1945 đến nay, việc xác
định vị trí của cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước ta luôn luôn thể hiện
xu hướng khẳng định sự độc lập của hệ thống cơ quan này. Từ khi thành lập Viện
kiểm sát nhân dân năm 1960, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm
14
sát nhân dân luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước trong thời
gian Quốc hội không họp.
Ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Liên bang Nga,
Viện kiểm sát là cơ quan độc lập với Chính phủ và Toà án. ở Trung Quốc, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu
ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Tại Liên bang Nga, Tổng Kiểm sát do Hội đồng liên bang (giống Thượng
nghị viện) bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Phó Tổng Kiểm sát
trưởng do Hội đồng liên bang bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng Kiểm sát
trưởng. Viện kiểm sát Liên bang Nga được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục
tùng Kiểm sát viên cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng Kiểm sát
trưởng; thực hiện các thẩm quyền của mình độc lập với chính quyền địa phương.
Ngay tại một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Viện công tố cũng được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, độc
lập với các cơ quan chính quyền địa phương. Các Công tố viên chịu sự lãnh đạo
của Công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng Công
tố trưởng.
Với vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể
15
hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể
thiếu trong bộ máy Nhà nước. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân
Việt Nam là một hệ thống độc lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm:
- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (hiện có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh);
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hiện có 63
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
- Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hiện có
691 Viện kiểm sát cấp huyện tại 691 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm:
- Viện kiểm sát quân sự Trung ương.
- Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn...
- Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực.
Quy định như vậy là sự thể chế hóa quy định trong Hiến pháp 2013, và đã có
nhiều thay đổi so với mô hình Viện kiểm sát theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ
sung năm 2001 và Luật TCVKSND 2002. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung
năm 2001 quy định hệ thống Viện kiểm sát gồm:"Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự”.Quy định này
là nhằm xác định hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức theo địa giới hành chính từ
Trung ương xuống địa phương. Việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo
địa giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
được ban hành.
16
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "Viện kiểm sát nhân
dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do Luật định”.
Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống Viện
kiểm sát tương ứng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực),
không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm
nguyên tắc độc lập của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động,
đặc biệt khi mô hình tổ chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, quy định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân, việc kiện toàn hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
được cụ thể hóa trong Luật TCVKSND 2014, trên cơ sở định hướng của Đảng và
Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị
về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan Điều
tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp
với hệ thống tổ chức Tòa án.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống Viện kiểm sát
được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không phụ
thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ được
sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Viện kiểm sát theo bốn cấp tương ứng với
bốn cấp của Tòa án, cụ thể là: 1. Tòa án nhân dân tối cao; 2. Tòa án nhân dân cấp
cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; (và hệ thống Tòa án
quân sự) (Theo Điều 3 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014).
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
- Chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
17
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân
dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện
kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ:
“bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
(Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013);
“bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014).
- Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
i) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
ii) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế
quyền con người, quyền công dân trái luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân
có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND 2014.
- Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
18
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp
luật.
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
i) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng
quy định của pháp luật;
ii) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp
luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn
trọng và bảo vệ;
iii) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi
hành nghiêm chỉnh;
iv) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân
dân có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014.
1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat
nhân dân:
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức
năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân
19
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập
trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào
bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo
đảm tính thống nhất của pháp chế.
Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ
chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa
phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.
Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
lãnh đạo trong ngành.
Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương,
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 8 Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát
quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức.
- Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào ở địa
phương.
Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ
thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối
quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành.
Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh
và thống nhất.
20
Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong
năm 2014, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám
sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu
trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ
quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi
các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ
thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật
của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và
Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là
các cơ quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân.
Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ
máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương.
Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa
phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa
phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng
nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc
phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh.
21
1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người
1.2.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ
yếu, khác nhau về quyền con người.
Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên
(natural rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy
quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được
hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con
người, do đó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay
ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào.
Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước bỏ các
quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các
mối quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các
quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải
do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc
xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội [25].
Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính
phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan điểm
nêu trên. Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của
tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự
nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt
xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người
là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và
22
chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý
nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [20].
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều
quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi định
nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con
người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office of
High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những bảo
đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental) của con người [25, tr.37].
Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con
người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép
(entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới
tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì
họ là con người” [25, tr.37].
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung,
Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có
một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí,
và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành
lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ
những quyền đó [15].
Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ
và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có
tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15].
23
Cho đến nay, giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn
nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền
con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế [24].
Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của
cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu
là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là
giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm,
bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc
quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng
được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn
nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm với
nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai khái
niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác
biệt nhất định.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công
dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân
tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ
thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ
giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại.
Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ
giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công
dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và
chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền
công dân mà pháp luật nước đó quy định.
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong
pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa thực tế.
24
Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi
được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời,
pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45].
Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định nghĩa
triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một định
nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự
khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn
gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới
nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo. mà
mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh
vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà
quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc tế,
định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ
về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản
của con người” [25, tr.41].
Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về quyền con người như
sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo thông qua
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái
niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo
vệ bằng pháp luật quốc gia.
1.2.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người
Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn
cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh,
vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có
25
pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được
bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa
vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc
đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống
nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47].
Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cũng với quyền, tự do và
nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản ánh của
các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân
con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng
đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có
của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong
việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người.
Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các
quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện
những quyền pháp lý - những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã
được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên
mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật
chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật là phương
tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là
công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các
chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong
việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy
phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47].
Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều
điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa...) trong đó pháp luật có
vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng
của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con
người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm
cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực
hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người
26
chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật [16]. Như vậy, đảm
bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp
luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo
đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống.
Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm
thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo
pháp lý bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong hệ
thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không được thường
xuyên. Khả năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá trình tổ chức thực
hiện trước hết phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế hóa quyền con người tự
nhiên thành quyền công dân, cùng với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ
thống pháp luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng bộ thuận tiện khả thi của các quy
định pháp luật về quyền công dân; xây dựng thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ
máy Nhà nước hướng đến mục tiêu thực hiện bảo vệ quyền con người; xây dựng
hệ thống các thủ tục tố tụng ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và
những người tiến hành tố tụng, hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước thông
qua pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện.
Theo nhận thức của cộng đồng Quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà
nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): nghĩa vụ này đòi hỏi
các nhà nước không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp
hoặc gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người.
Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba.
Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): nghĩa vụ này đòi hỏi các
nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các
quyền con người [41, tr.58].
Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức
đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và Công
27
ước quốc tế về quyền con người. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền công dân trong
hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ
quyền con người.
Như vậy, đảm bảo pháp lý về quyền con người là hệ thống các quy định
pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực
hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các quy định và thiết chế
đó được thực hiện trong thực tế.
Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh
tế, văn hóa, giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng
đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con
người; là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con
người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt
Nam
Tư tưởng về quyền con người đã được thể hiện khá sớm tại Việt Nam, đặc biệt,
thể hiện thành văn rõ rệt ngay từ khi đất nước giành được độc lập từ tay thực dân Pháp
sau cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc. Ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại quảng
trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh
ra nước VNDCCH. Trong bản Tuyên ngôn độc lập ấy, với việc nhắc lại Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tiếp nối tinh thần của Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh, “cha
đẻ” của Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946, lại một lần nữa thể hiện tinh thần
nhân văn sâu sắc qua việc ghi nhận các giá trị con người, các quyền cơ bản về dân
chủ và dân sinh, các quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng ở bản hiến pháp đầu
tiên của dân tộc. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm và biến
đổi của hoàn cảnh địa - chính trị, quyền con người vẫn luôn được thể hiện sâu sắc
qua các bản hiến pháp tiếp theo của Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến
28
các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001) và đặc
biệt là Hiến pháp năm 2013 [16, tr.29].
Hiến pháp năm 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 6 - Quốc hội khóa XIII
gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992)
có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung tiến bộ
của 4 bản Hiến pháp trước đồng thời chắt lọc, tập hợp trí tuệ, tâm huyết của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Hiến pháp cũng đã tham khảo, tiếp thu có chọn lọc
nhiều nội dung Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới [57].
Quyền con người được quy định trong Chương II của Hiến pháp năm 2013
là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
và được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến
pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), đồng thời chuyển các
quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của
Hiến pháp năm 1992 về chương này. Việc thay đổi vị trí nói trên là một sự thay
đổi về nhận thức chứ không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán
vị về bố cục. Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi
quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập
hiến, thông qua quyền lập hiến của mình, Nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành
pháp, tư pháp và các thiết chế độc lập khác, thì quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một
bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của
Đảng và Nhà nước ta [53]. Điều này đã khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của
quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán
đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo
vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới năm 2013 có những sửa đổi, bổ
sung và phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:
29
Một là, Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ "quyền con người", không
đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền
con người, quyền cơ bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc
phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa
“quyền con người” và “quyền công dân”. Theo đó, quyền con người được quan
niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân,
trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức
là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước
đảm bảo đối với công dân của nước mình. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thể hiện
sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp. Đồng thời, Hiến pháp mới đã bổ sung
nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người
mà Việt Nam là thành viên và theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có
thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng. Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải
“theo quy định của luật”.
Hai là, Hiến pháp mới đã khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo hướng:
Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn
trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được
xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
được quy định tại Điều 15.
Ba là, Hiến pháp mới đã tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và
trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ
quyền con người. Đồng thời, Hiến pháp sắp xếp lại các điều khoản theo các nhóm
quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, bảo
đảm tính khả thi hơn.
30
Bốn là, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần
30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc
bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đó là Quyền sống (Điều
19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư (Điều 21 ), Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều
34), Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị
văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41),
Quyền xác định dân tộc (Điều 42), Quyền được sống trong môi trường trong lành
(Điều 43),... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước
quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ
hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc
thực hiện quyền con người [53].
Ngoài ra, Hiến pháp mới đã tiếp cận căn bản các chuẩn mực quốc tế về
quyền con người, thậm chí có một số nội dung rất tiến bộ so với tiêu chuẩn quốc
tế. Quyền con người cũng không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác.
So với Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp mới đã tách bạch quyền con người và
quyền công dân. Đây là nhận thức đúng, quyền con người là đối với mọi người,
còn công dân thì chỉ là người Việt Nam mà không bị tước quyền công dân. Các
quyền tự do ngôn luận, báo chí, đi lại, cư trú theo Hiến định Nhà nước cũng không
can thiệp. Đặc biệt, chương về Chính phủ, VKSND, Tòa án nhân dân đều có chế
định Chính phủ, Tòa án, VKS phải bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cụ
thể, Chính phủ có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân; VKS có
trách nhiệm bảo vệ quyền công tố, quyền con người; Tòa án có trách nhiệm bảo vệ
công lý, quyền công dân. Như vậy, bộ máy Nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền
con người. Cách tiếp cận quyền con người này một cách căn bản giống như các
nhà nước trên thế giới. Lần đầu tiên trong Hiến pháp mới của chúng ta quy định,
trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện những công ước quốc tế, trong đó
có những công ước liên quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia [57].
Tại Hiến pháp mới năm 2013, vấn đề quyền con người được chính thức đưa
vào một cách đầy đủ, toàn diện, có hẳn một chương trong Hiến pháp về quyền con
31
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này là kết quả tất yếu của quá
trình hội nhập và nỗ lực phấn đấu bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước
ta. Bảo đảm quyền con người luôn được xác định là trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước, làm cho mỗi người và mọi người phát triển tự do và toàn diện như nghị
quyết của Đảng đã nêu.
Như vậy, có thể thấy được vấn đề quyền con người đã được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm và điều đó đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm
2013 - đạo luật gốc - với những quy định tiến bộ về quyền con người, quyền công
dân, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển con người, thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân, đã tạo lập khuôn khổ hiến định cho việc tiếp tục củng cố, phát
triển quyền con người, quyền công dân phù hợp với các đặc điểm chính trị, kinh tế,
xã hội của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đồng thời, bảo đảm sự phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam là thành viên. Chúng ta có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 là
Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước ta trong
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bảo đảm cho việc tiếp tục đổi mới và
phát triển đất nước ta trong tình hình mới.
1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp
hình sự
1.2.3.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Hình
sự
Quyền con người trong mọi lĩnh vực, được coi là giá trị của nhân loại, phải
được tôn trọng và bảo vệ bao gồm cả các quyền cần được đảm bảo bởi pháp luật,
trong đó có pháp luật hình sự. Thông qua các điều khoản của BLHS Việt Nam
1985, được sửa đổi, bổ sung năm 1999, 2009 chúng ta có thể thấy rất rõ vấn đề
quyền con người và bảo vệ quyền con người được thể hiển rất cụ thể.
Hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người được coi là một trong
những hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và bị pháp luật nghiêm trị. Để bảo đảm
thực hiện nguyên tắc đã được Hiến pháp ghi nhận, đó là quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng của công dân, Chương XII BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
32
năm 2009) quy định 10 tội danh liên quan đến hành vi trực tiếp hay gián tiếp, vô
tình hay cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách bất hợp pháp, đó là:
Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95); Tội giết người d o vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng (Điều 96); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ
(Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm
quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội bức tử (Điều 100);
Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 101); Tội không cứu giúp người
đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102) [17, tr.70].
Do đối tượng tác động của tội phạm là xâm phạm quyền sống của con người
nên chính sách hình sự và đường lối xử lý của Nhà nước đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người là rất nghiêm khắc. Trong 10 tội nêu trên có 01 tội đặc
biệt nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 93), có 01 tội rất
nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là đến 15 năm tù (Điều 97). Ngoài các tội
nêu trên, Bộ luật Hình sự còn quy định một số tội có liên quan đến việc xâm phạm
mạng sống của con người tại các Điều: 83, 84 (Chương XI - Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia); Điều 336 (Chương XXIII - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân) và các Điều 342, 343 (Chương XXIV - Các tội phá hoại hòa
bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) [45, tr.55-56].
Ngoài ra, BLHS đã ngày càng thu hẹp phạm vi áp dụng biện pháp tử hình
đối với một số loại tội phạm, đặc biệt là với các tội phạm về kinh tế. Nếu như
BLHS năm 1985 quy định về 44 điều luật có khung hình phạt tử hình thì số điều
luật quy định cho tử hình trong BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 và giảm tiếp
xuống sau đợt sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009 xuống còn 25 Điều (Ngày 16-6-
2009, Quốc hội Khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật
hình sự năm 1999, trong đó bỏ hình phạt tử hình trong 4 tội danh khác bao gồm:
Tội hiếp dâm (Điều 111); Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân
phiếu giả, công trái giả (Điều 180); Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều
221);Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 334)).
BLHS cũng có quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với một số đối tượng
33
phạm tội, chẳng hạn, đối với người chưa thành niên, đối với phụ nữ có thai hoặc
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Người bị kết án tử hình, theo BLHS,
cũng có thể được xem xét ân giảm xuống hình phạt tù chung thân nếu có đủ các
điều kiện mà pháp luật quy định. Đối với những người bị truy tố theo khung hình
phạt có mức cao nhất là tử hình, BLTTHS 2003 yêu cầu cơ quan tố tụng phải mời
luật sư bào chữa bắt buộc nếu như gia đình bị can, bị cáo không thể mời luật sư
tham gia (Điều 57). Trong việc xét xử người phạm tội (đối với bị cáo bị áp dụng
mức hình phạt tử hình), BLTTHS cũng quy định thành phần cơ quan xét xử gồm
02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm và tòa án xét xử buộc phải là tòa án cấp tỉnh [17,
tr.70].
Một trong các quyền quan trọng khác về quyền bất khả xâm phậm về thân
thể của con người là quyền được “xét xử công bằng và công khai.” Việc xét xử
phải được thực hiện bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được
lập ra theo các quy định của pháp luật. Như vậy, ngay cả khi công dân vi phạm
pháp luật, họ cũng có quyền được hưởng một phiên tòa công bằng, pháp luật còn
có quy định cho phép họ được hưởng quyền xét xử công khai và minh bạch. Điều
16 BLTTHS quy định “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo
pháp luật.” Không chỉ có vậy, công dân còn có quyền yêu cầu thay đổi người tham
gia tố tụng nếu có cơ sở để tin rằng những người nào không vô tư khi thực thi
nhiệm vụ. Điều 18 BLTTHS năm 2003 quy định về việc tòa án xét xử công khai,
cụ thể:
Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền
tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trong trường hợp đặc biệt cần
giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của
đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên
án công khai [32].
Quyền tự do an ninh cá nhân là quyền dân sự khá rộng và được đảm bảo
thực hiện bởi rất nhiều đạo luật có liên quan như BLDS, BLHS, BLTTHS và một
số văn bản khác. Cùng với các đạo luật khác, một số quy định tại BLHS cũng có ý
nghĩa nhất định trong việc đảm bảo quyền con người trong tự do, an ninh cá nhân,
34
như: tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299)... Các nguyên tắc
“suy đoán vô tội”, “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, “nguyên tắc mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động xét xử” cho thấy cơ chế
đảm bảo các quyền tự do và an ninh thân thể đối với con người đã Nhà nước xây
dựng khá đầy đủ và hoàn chỉnh, tạo thành một hệ thống các quy phạm pháp luật áp
dụng trên diện rộng để hướng tới mục tiêu bảo vệ các giá trị con người [17].
Trong lĩnh vực tư pháp và xét xử, quyền tự do và an ninh thân thể của công
dân còn được thể hiện khá rõ nét. Khi tham gia tố tụng, công dân là bị cáo có
quyền mời luật sư tham gia bào chữa ngay khi bị bắt và bị giam giữ. Cụ thể Điều
11 BLTTHS quy định: “ ‘người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm
vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ
theo quy định của Bộ luật này ”. Bên cạnh đó, mọi công dân sẽ đều được xét xử
công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền. được lập ra theo quy định
của pháp luật... [17].
Như vậy, ngoài việc quy định rõ ràng trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật
Dân sự và pháp luật Hình sự của Việt Nam cùng các văn bản pháp lý khác có liên
quan đều có các quy định điều chỉnh và tác động trực tiếp lên quyền sống của con
người. Hòa vào xu hướng chung của thế giới, quyền sống của con người ngày một
được tôn trọng và bảo đảm. Không chỉ có vậy, Nhà nước còn không ngừng đổi
mới và hoàn thiện các chế định về quyền con người để đảm bảo một cách tốt nhất
quyền lợi của công dân theo hướng mở rộng quyền được sống, hạn chế các quy
định có ảnh hưởng bất lợi tới quyền sống của con người.
Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong
pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa thực tế. Pháp
luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi được
pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời, pháp
luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.2.3.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Thi
35
hành án hình sự
Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định:
Cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả các quyền con người về dân sự, chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hoá trong một tổng thể hài hoà, không được xem nhẹ bất cứ
quyền nào. Đồng thời, các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo
đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng
đồng.. .Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số
quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá của cả cộng đồng là cách đề cập phiến diện, không phản
ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về quyền con người [1].
Quyền con người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc
gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ quyền con người cũng là một nhân
tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây
dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên các điều kiện
chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo
đảm các quyền con người được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Con
người được đặt là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát
triển và công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Các quyền và tự do cơ bản của
nhân dân được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng
nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế.
Thi hành án hình sự có liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật
tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xác định thi hành án hình
sự là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều
văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Pháp lệnh thi hành
án phạt tù năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007); Nghị định
số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ; Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi
hành hình phạt tù cho hưởng án treo; Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày
23/8/2001 hướng dẫn biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Nghị định số
36
53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt cấm cư trú, quản
chế; Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt
trục xuất; Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế trại
giam; Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an...[2].
Trên cơ sở đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án hình sự đã được tổ
chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật về thi hành án hình sự đã bộc lộ
những hạn chế, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đồng bộ với quy định có
liên quan đến công tác thi hành án hình sự trong một số đạo luật như Bộ luật hình
sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Toà án nhân dân
năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật Công an nhân
dân... Những tồn tại, hạn chế của pháp luật làm cho hoạt động thi hành án hình sự
gặp nhiều bất cập, vướng mắc, các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thi hành
án hình sự mới chỉ quan tâm nhiều đến thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất mà
chưa quan tâm đúng mức đến việc thi hành các hình phạt khác; chưa có tổ chức bộ
máy chuyên trách quản lý thống nhất việc thi hành án hình sự; đội ngũ cán bộ làm
nhiệm vụ thi hành án hình sự còn thiếu về số lượng và chưa bảo đảm về chất
lượng, chế độ chính sách còn chưa bảo đảm; cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác
này chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ [2].
Tình hình nêu trên đặt ra yêu cầu hoàn thiện một bước pháp luật về thi hành
án hình sự, theo đó việc xây dựng, ban hành Luật thi hành án hình sự để điều chỉnh
toàn diện về tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự là rất cần thiết. Luật thi hành
án hình sự được ban hành, gồm 15 chương, 182 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2011.
Có thể nói, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà
nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
37
Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và loại
hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra. Bản
án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong
cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo
dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở
thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung.
Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị quy định quyền không
bị tra tấn Điều 7: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn
ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để
làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người
đó”. Công ước đặt ra những chuẩn mực cho các quốc gia thành viên để bảo vệ
nhóm quyền không bị tra tấn, được đối xử nhân đạo, không bị giam giữ độc đoán,
tra tấn, nhục hình. Các nước thành viên Công ước, dựa trên các nguyên tắc nền này
và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của nước mình có
thể đưa ra những quy định riêng nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản
đã được quy định trong Công ước [3, tr.20-21].
Những vấn đề này đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ từ văn bản
pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
2001 và 2013); cho đến các văn bản luật và dưới luật đã cụ thể hóa các quy định
của Hiến pháp như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Thi hành án hình sự... Đây chính là nền tảng pháp lý để ngăn chặn và trừng trị
những hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục.
Với tinh thần đó, một số quy định của Luật thi hành án hình sự cũng đã thể hiện
được được những quyền cơ bản được ghi nhận trong các công ước quốc tế về
quyền dân sự, chính trị, cụ thể như sau:
* Quy định để đảm bảo những người phải chấp hành án phạt tù được đối xử
nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người:
Quyền được đối xử nhân đạo, được tôn trọng nhân phẩm đã được thể hiện ở
chính mục đích của hình phạt tù và thông qua chế độ chấp hành án. Người chấp
38
hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản, như
quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Những
quyền này được quy định cụ thể tại Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
Một trong các nguyên tắc thi hành án hình sự được đề ra trong Luật là “tôn
trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 3 Điều
4). Bên cạnh đó, cần “kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án;
áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội,
độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp
hành án” (Khoản 4 Điều 4). Luật Thi hành án hình sự cũng nghiêm cấm “xâm
phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 9 Điều 9). Luật
Thi hành án hình sự đã dành riêng một chương quy định về thi hành án phạt tù và
chế độ quản lý, giam giữ, giáo dục phạm nhân (Chương III, từ Điều 21 đến Điều
53) [3, tr.23-24]
Với tinh thần tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người, Luật Thi
hành án hình sự đã quy định rất cụ thể việc phân khu giam giữ phạm nhân, quy
định rõ những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: phạm nhân nữ;
phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân
là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh
tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân
thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam (Điều 27). Các chế độ liên quan
thiết thực của phạm nhân như chê độ ăn, mặc, ở, chăm sóc sinh hoạt, y tế, học tập,
học nghề, lao động, gặp, liên lạc, nhận quà của thân nhân. đều được quy định
trong Luật này [3, tr.23-24].
* Về quy định dành riêng cho người chưa thành niên để đảm bảo việc giam
giữ được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp lứa tuổi của họ:
Xuất phát từ tinh thần nhân văn cao cả là nhằm giáo dục, giúp đỡ người
chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công
dân có ích cho xã hội, tại Khoản 2 Điều 27 Luật Thi hành án hình sự quy định:
39
“... Trong các khu giam giữ quy định tại Khoản 1 Điều này, những phạm
nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng:
a) Phạm nhân nữ;
b) Phạm nhân là người chưa thành niên;
c)....”
Không chỉ được giam giữ riêng, Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng
một mục để quy định đối với các phạm nhân là người chưa thành niên với các điều
kiện đối xử tốt hơn so với các phạm nhân đã thành niên (mục 3 Chương III).
Chẳng hạn như chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ và vui chơi giải trí,
giáo dục, học văn hóa, học nghề, lao động... Phạm nhân là người chưa thành niên
được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành niên và
được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng; Phạm nhân là
người chưa thành niên được lao động ở khu vực riêng và phù hợp với độ tuổi;
không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc
hại... [3, tr.26]
Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định rõ trách nhiệm của
trại giam trong việc giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên về văn hoá,
pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hoá, giới tính và sức khoẻ,
chuẩn bị điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù
(khoản 2 Điều 51) [3, tr.26-27].
Bên cạnh quy định về quyền không bị tra tấn, Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị 1966 đặt ra các nghĩa vụ chính đối với các quốc gia thành
viên liên quan đến nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động
cưỡng bức như sau: Một là, các quốc gia cần nghiêm cấm việc bắt giữ làm nô lệ
bất cứ người nào; chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm.
Hai là, các quốc gia không được bắt buộc lao động cưỡng bức. Ba là, cần có những
quy định về các trường hợp ngoại lệ của lao động cưỡng bức. Đây là những chuẩn
mực mà Công ước đặt ra cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm quyền
không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức. Các nước thành viên
Công ước, dựa trên những nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...KhoTi1
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dânLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...
LUẬN VĂN TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ ĐỘNG VẬT NGUY CẤP, QUÝ, HIẾM TỪ THỰC ...
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Giám định tư pháp trong tố tụng hình sự, HOT
 

Similar to Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người (20)

Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Đề tài: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt nam, HOT
Đề tài: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt nam, HOTĐề tài: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt nam, HOT
Đề tài: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt nam, HOT
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt NamLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật ở Việt Nam
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HOT, 9đ
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HOT, 9đLuận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HOT, 9đ
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HOT, 9đ
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HAY
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HAYLuận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HAY
Luận văn: Cơ chế bảo vệ hiến pháp bằng pháp luật, HAY
 
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, HAY
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, HAYLuận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, HAY
Luận văn: Cơ chế bảo vệ Hiến pháp bằng pháp luật, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 

Recently uploaded (19)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 

Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Mã số: 60 38 01 02. ĐẮK LẮK – NĂM 2016
  • 2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HUỲNH NGỌC HOÀNG HẢI VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Mã số: 60 38 01 02. Người hướng dẫn khoa học: TS. Huỳnh Văn Thới ĐẮK LẮK – NĂM 2016
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản luận văn này do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Huỳnh Văn Thới. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa hề được công bố hoặc sử dụng để bảo vệ một học hàm nào. Các thông tin trích dẫn trong luận văn này đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm./. Đắk Lắk, tháng 8 năm 2016 Học viên Huỳnh Ngọc Hoàng Hải
  • 4. 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU....................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài............................................................3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài..........................................................4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................5 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................6 6. Ý nghĩa của luận văn..........................................................................................6 7. Kết cấu của Luận văn .........................................................................................6 Chương 1: ..............................................................................................................7 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC ........................7 VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ......................................................................................................................7 1.1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC..................7 1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước 7 1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân 9 1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân 10 1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân .13 1.2. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.......................... 15 1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người 15 1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam 20
  • 5. 5 1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự 24 1.3. NỘI DUNG VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN................................................................................................ 35 1.3.1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự 35 1.3.2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự 43 1.3.3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam 48 1.3.4. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án 53 Chương 2 ............................................................................................................. 56 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TỈNH ĐĂK LĂK TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT CẤP TỈNH HIỆN NAY 2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK ........................................................................................................... 56 2.1.1. KHÁI QUÁT VỀ TỈNH ĐĂK LĂK. 56 2.1.2. KHÁI QUÁT VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK 59 2.2. THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................................................................. 60 2.2.1. Trong giai đoạn khởi tố và điều tra 60 2.2.2. Trong giai đoạn truy tố và xét xử vụ án hình sự 67 2.2.3. Trong giai đoạn thi hành án hình sự 74
  • 6. 6 2.2.4. Đánh giá chung 79 2.2.4.1. Những thành tựu và nguyên nhân của chúng79 2.2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng 80 2.3. GIẢ PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI……………….……………….82 2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân 82 2.3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân 90 2.3.2.1. Đổi mới tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm sát 91 2.3.2.2. Đổi mới phương thức quản lý, chỉ đạo điều hành trong ngành Kiểm sát 93 2.3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong tố tụng hình sự 95 2.3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành kiểm sát 97 2.3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ cấp, ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ Kiểm sát 99 KẾT LUẬN........................................................................................................ 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 104
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”. Có nhiều biện pháp tổng hợp để Nhà nước thực hiện bảo vệ quyền con người, từ xây dựng hệ thống bộ máy, hoàn thiện hệ thống pháp luật cho đến tổ chức thực hiện pháp luật. Trong đó, bảo vệ con người thông qua các thiết chế tư pháp là vô cùng cấn thiết. Hiến pháp năm 2013 ra đời đã hoàn thiện thêm một bước về tổ chức và phân công thực hiện quyền lực nhà nước, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và tòa án thực hiện quyền tư pháp, viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Các thiết chế này có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nói về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. ...3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107). Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ra đời thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, thể chế
  • 8. 8 hóa quan điểm lãnh đạo của Đảng về cải cách hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta gắn với vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát. Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02.6.2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Trước mắt Viện kiểm sát nhân dân vẫn giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân tổ chức cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án. Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có những bộ luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền con người như: Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, thì việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát hay một chế định hiến định nào đó đều là điều cần thiết, cả về mặt lý luận và thực tiễn, cả ở bình diện quốc gia hay địa phương. Đắk Lắk là một tỉnh lớn ở Tây Nguyên. Những năm qua, công tác kiểm sát đã được quan tâm nâng cao chất lượng, nhằm bảo về quyền con người, quyền công dân, cũng như góp phần phát hiện và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật, góp phần ổn định trật tự xã hội, nâng cao văn hóa pháp lý nói chung. Tuy nhiên, trước bối cảnh đổi mới cơ quan kiểm sát, đổi mới bộ máy nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, việc nâng cao vai trò của viện kiểm sát ở luôn là đòi hỏi thường trực, hơn nữa, thời gian qua, công tác kiểm sát ở tỉnh Đắk Lắk xuất hiện những hạn chế về hiệu quả hoạt động, ảnh hưởng không nhỏ tới niềm tin của người dân vào sự công bằng của pháp luật. Để tìm hiểu rõ hơn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người, đánh giá thực trạng công tác bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tìm ra những ưu điểm, khuyết điểm và hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến các hạn chế, nhằm đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay, tác giả chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong bảo vệ quyền con người – từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk”.
  • 9. 9 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xung quanh đề tài luận văn, đã có nhiều công trình liên quan được công bố, ở những mức độ, nội dung nghiên cứu khác nhau. Có thể kể tới như: - Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. - Bình luận khoa học Hiến pháp năm 2013, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015. - Giáo trình Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người của Nhóm tác giả (Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên)), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. - Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2006), Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia, Hà Nội. - GS.TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên) (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Tháng 8/2013), Báo cáo chuyên đề “Xác định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động xét xử”, Hà Nội. - Vụ Công tác Lập pháp, Viện Khoa học Kiểm sát (2003), Những sửa đổi cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, NXB Tư pháp, Hà Nội. - Hội đồng Phối hợp Phổ biến Giáo dục pháp luật Trung ương (2013), Quyền con người và chính sách pháp luật về quyền con người, Đặc san tuyên truyền pháp luật số 06/2013. - TS. Phạm Mạnh Hùng (2011), “Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát”, Tạp chí kiểm sát (21). - PGS.TS.Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23, tr. 64-80. - Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của tác giả Lê Hữu Thể và các tác giả (năm 2008).
  • 10. 10 - Lại Văn Trình, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2011; - Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân – Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Chu Mạnh Hùng, “Các giải pháp đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học – trường Đại học Luật Hà Nội, số 6/2008; Hoàng Nghĩa Mai, "Nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm cải cách tư pháp của Cộng hòa Pháp và Cộng hòa Italia phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam", tạp chí Kiểm sát số 15/2012; Lê Thị Tuyết Hoa, "Một số nội dung trọng tâm để thực hiện chủ trương tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát số 6 16/2012; Nguyễn Hòa Bình, "Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLTTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", tạp chí Kiểm sát 16/2012 và tạp chí Kiểm sát số 21/2012,... Qua khảo sát, cho thấy: nhiều công trình đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, các chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người thông qua các chức năng của cơ quan này, và thông qua các giai đoạn trong tố tụng hình sự; có những nghiên cứu ban đầu về việc thực hiện nhiệm vụ, vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát ở những địa phương cụ thể. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh ở Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu về vai trò Cơ quan viện kiểm sát trong việc bảo vệ quyền con người theo quy định hiện hành và đánh giá thực hiện vai trò đó qua thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao vai trò của cơ quan này trong bảo vệ quyền con người trong thời gian tới. - Các nhiệm vụ của luận văn:
  • 11. 11 + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước; quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam; nội dung vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân theo quy định hiện hành. + Nghiên cứu về thực tiễn tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk hiện nay; nghiên cứu thực tiễn thực hiện vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công tác của Viện kiêm sát nhân dân tỉnh, tìm hiểu các thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của chúng; + Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân nói chung trong giai đoạn hiện nay, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Quy định của pháp luật hiện hành về vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân và việc thực hiện vai trò đó trong thực tiễn ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: tỉnh Đắk Lắk. - Phạm vi thời gian: từ 2013 đến nay (2016). - Phạm vi nội dung: luận văn nghiên cứu công tác trong lĩnh vực hình sự; (một số số liệu, thông tin khác có liên quan có giá trị tham khảo). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tác giả sử dụng phương pháp này để nghiên cứu các văn bản pháp luật có liên quan đến vai trò bảo vệ quyền con người
  • 12. 12 thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh; các đề tài khoa học, chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp này để nêu lên cơ sở lý thuyết về vai trò bảo vệ quyền con người thông qua các mặt công tác của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh và đánh giá, khái quát thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn. - Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả sử dụng phương pháp này thông qua các hình thức khảo sát và phỏng vấn sâu đối với một số chủ thể có liên quan. - Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu ở chương 2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp, phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn chế để đưa ra những giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể. 6. Ý nghĩa của luận văn - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát nhân dân; - Đánh giá sự phù hợp của các quy định pháp luật về vai trò bảo vệ quyền con người của viện kiểm sát qua đối chiếu thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. - Là nguồn tài liệu tham khảo cho tổ chức, cá nhân hữu quan; cho nghiên cứu luật học về chủ đề. 7. Kết cấu của Luận văn Luận văn gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó phần nội dung gồm hai chương: Chương 1: Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước và vai trò bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Thực tiễn bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân hiện nay.
  • 13. 13 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Về vị trí, vai trò: Việt Nam hiện tại là một nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước của các nước nằm trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân nhân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Quốc hội không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước, trong đó Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung (Hiến pháp 1960, 1980). Hiến pháp 1992 quy định Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố; Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001, Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố là chức năng chủ yếu của Viện kiểm sát. Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta được thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960 bằng một đạo luật là Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Yêu cầu đặt ra đối với các Kiểm sát viên là phải hành động một cách vô tư, khách quan, căn cứ vào các tiêu chí pháp luật, không thiên vị. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì cần tổ chức Viện kiểm sát thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập. Từ năm 1945 đến nay, việc xác định vị trí của cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước ta luôn luôn thể hiện xu hướng khẳng định sự độc lập của hệ thống cơ quan này. Từ khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm
  • 14. 14 sát nhân dân luôn là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Nước trong thời gian Quốc hội không họp. Ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc, Liên bang Nga, Viện kiểm sát là cơ quan độc lập với Chính phủ và Toà án. ở Trung Quốc, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra và chịu trách nhiệm trước cơ quan này. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tại Liên bang Nga, Tổng Kiểm sát do Hội đồng liên bang (giống Thượng nghị viện) bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Tổng thống. Phó Tổng Kiểm sát trưởng do Hội đồng liên bang bổ nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Tổng Kiểm sát trưởng. Viện kiểm sát Liên bang Nga được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, các Kiểm sát viên cấp dưới phải phục tùng Kiểm sát viên cấp trên và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Tổng Kiểm sát trưởng; thực hiện các thẩm quyền của mình độc lập với chính quyền địa phương. Ngay tại một số nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Viện công tố cũng được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, độc lập với các cơ quan chính quyền địa phương. Các Công tố viên chịu sự lãnh đạo của Công tố viên cấp trên trực tiếp và thống nhất chịu sự lãnh đạo của Tổng Công tố trưởng. Với vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì Viện kiểm sát là một trong những cơ quan thể
  • 15. 15 hiện trực tiếp bản chất của Nhà nước ta, là một bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nước. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. 1.1.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam là một hệ thống độc lập và được được tổ chức ở 4 cấp, gồm: - Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (hiện có 3 Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh); - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (hiện có 63 Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh). - Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (hiện có 691 Viện kiểm sát cấp huyện tại 691 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự, gồm: - Viện kiểm sát quân sự Trung ương. - Viện kiểm sát quân sự cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn... - Viện kiểm sát quân sự cấp Khu vực. Quy định như vậy là sự thể chế hóa quy định trong Hiến pháp 2013, và đã có nhiều thay đổi so với mô hình Viện kiểm sát theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật TCVKSND 2002. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định hệ thống Viện kiểm sát gồm:"Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự”.Quy định này là nhằm xác định hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức theo địa giới hành chính từ Trung ương xuống địa phương. Việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo địa giới hành chính ra đời từ khi luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được ban hành.
  • 16. 16 Hiến pháp năm 2013 quy định tại Khoản 2 Điều 107 "Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do Luật định”. Quy định này có ý nghĩa mở đường thực hiện chủ trương tổ chức lại hệ thống Viện kiểm sát tương ứng hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử (Tòa án khu vực), không tương ứng với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc độc lập của Tòa án. Đây là quy định "mở” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động, đặc biệt khi mô hình tổ chức bộ máy đang được xây dựng trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, quy định này mang tính tùy nghi thuận tiện cho xây dựng mô hình hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, việc kiện toàn hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được cụ thể hóa trong Luật TCVKSND 2014, trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Định hướng đó được cụ thể hóa tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Kết Luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan Điều tra theo Nghị quyết 49, đã xác định tổ chức hệ thống Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, đồng thời Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án. Như vậy, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án theo cấp xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Do đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sẽ được sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức Viện kiểm sát theo bốn cấp tương ứng với bốn cấp của Tòa án, cụ thể là: 1. Tòa án nhân dân tối cao; 2. Tòa án nhân dân cấp cao; 3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; 4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; (và hệ thống Tòa án quân sự) (Theo Điều 3 Luật Tổ chức tòa án nhân dân 2014). 1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân - Chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
  • 17. 17 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013); “bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014). - Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: i) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; ii) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức VKSND 2014. - Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
  • 18. 18 Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: i) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật; ii) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ; iii) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh; iv) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND 2014. 1.1.4. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sat nhân dân: Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân
  • 19. 19 được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. - Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp chế. Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều. Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 109 Hiến pháp 2013 và Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. - Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan Nhà nước nào ở địa phương. Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành. Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
  • 20. 20 Theo Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong năm 2014, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa phương. Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh.
  • 21. 21 1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm về quyền con người và bảo vệ quyền con người 1.2.1.1. Khái niệm quyền con người Trong lịch sử nhân loại trước thế kỷ XVII, đã hình thành hai quan điểm chủ yếu, khác nhau về quyền con người. Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) xuất phát từ chỗ coi con người là một thực thể tự nhiên, vì vậy quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thanh viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước, có thể ban hành hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Quan điểm thứ hai, đặt con người và quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng, các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội [25]. Quan điểm biện chứng của học thuyết Mác - Lênin đã khắc phục được tính phiến diện trong nhận thức về con người và quyền con người trong các quan điểm nêu trên. Học thuyết Mác - Lênin xem xét con người với tư cách là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Con người là một thực thể tự nhiên nhưng là một thực thể tự nhiên con người trong cộng đồng xã hội. Trong cái tự nhiên của con người có mặt xã hội và trong cái xã hội của con người có mặt tự nhiên. Do đó, Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn có và
  • 22. 22 chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội [20]. Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên Hiệp Quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố từ trước đến nay, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Theo Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc về quyền con người (Office of High Commissoner for Human Rights - OHCHR), quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental) của con người [25, tr.37]. Bên cạnh định nghĩa nêu trên, cũng có một định nghĩa khác về quyền con người thường được nhắc đến, theo đó, “quyền con người là những sự được phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội... đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người” [25, tr.37]. Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và các chuyên gia từng nêu ra. Theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Quyền con người: Đó là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên gắn bó mật thiết với con người - một động vật cao cấp có lý trí, và có tình cảm làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [15]. Còn theo TS Trần Quang Tiệp, đưa ra một định nghĩa ngắn gọn, khá đầy đủ và cụ thể về quyền con người như sau: “Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [15].
  • 23. 23 Cho đến nay, giữa các nhà khoa học - luật gia trong và ngoài nước vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm quyền con người, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [24]. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm, bình đẳng xã hội, tự do...; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Cùng với khái niệm quyền con ngưởi, chúng ta còn thường thấy đi kèm với nó là khái niệm quyền công dân. Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm có mối liên hệ mật thiết với nhau, tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác biệt nhất định. Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công dân. Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phân biệt quốc tịch, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền công dân mà pháp luật nước đó quy định. Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có ý nghĩa thực tế.
  • 24. 24 Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời, pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân [45]. Như vậy, cho đến nay, chúng ta phải thừa nhận rằng chưa có một định nghĩa triết học kinh điển nào về quyền con người. Bên cạnh việc không có một định nghĩa tiêu chuẩn thống nhất, cách hiểu về quyền con người cũng cho thấy có sự khác biệt. Thứ nhất, hiện đang còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất của quyền con người. Thứ hai, quyền con người được xem xét dưới nhiều lĩnh vực khác nhau như triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật, tôn giáo. mà mỗi lĩnh vực lại tiếp cận khái niệm này ở một góc độ riêng, tuy nhiên không lĩnh vực nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người. Tùy vào tính chất chủ quan của mỗi người, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà quyền con người được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa về quyền con người phổ biến nhất vẫn là định nghĩa của Cao ủy LHQ về quyền con người, theo đó: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [25, tr.41]. Từ những phân tích trên, có thể rút ra định nghĩa về quyền con người như sau: Quyền con người là quyền mà con người được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được nhà nước đảm bảo thông qua hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Định nghĩa này đã chỉ ra được những đặc điểm thuộc về bản chất của khái niệm về quyền con người như nó là quyền tự nhiên, vốn có của con người, được bảo vệ bằng pháp luật quốc gia. 1.2.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền con người Là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối liên hệ gần gũi hơn cả với pháp luật. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh, vốn có hay phải do các nhà nước quy định, thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có
  • 25. 25 pháp luật. Hầu hết những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con người không thể được bảo đảm đầy đủ nếu không được ghi nhận bằng pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức mà trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội [25, tr.47]. Với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người - cũng với quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó - luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý - những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Chỉ khi mang tính pháp lý, các quyền tự nhiên mới chuyển thành những quyền con người có đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa đó. Pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [25, tr.47]. Bảo vệ quyền con người là một quá trình. Nó phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau (kinh tế, chính trị, pháp luật, văn hóa...) trong đó pháp luật có vị trí, vai trò và tầm quan trọng hàng đầu. Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của pháp luật trong việc bảo vệ quyền con người thì phải thể chế hóa quyền con người thành các quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật, phải có cơ chế bảo đảm cho các quy định đó được thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người. Nói cách khác, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người
  • 26. 26 chính là đảm bảo thực hiện quyền con người bằng pháp luật [16]. Như vậy, đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người là hệ thống các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện bảo vệ quyền con người và cơ chế bảo đảm thực hiện các quy định đó trong thực tiễn đời sống. Quá trình thể chế hóa quyền con người, xây dựng các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình xây dựng đảm bảo pháp lý bảo vệ quyền con người. Quyền con người được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật sẽ trở nên vô nghĩa nếu việc tổ chức thực hiện không được thường xuyên. Khả năng bảo đảm bảo vệ quyền con người trong quá trình tổ chức thực hiện trước hết phụ thuộc vào chất lượng của việc thể chế hóa quyền con người tự nhiên thành quyền công dân, cùng với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật như: bảo đảm tính cụ thể, đồng bộ thuận tiện khả thi của các quy định pháp luật về quyền công dân; xây dựng thiết chế tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước hướng đến mục tiêu thực hiện bảo vệ quyền con người; xây dựng hệ thống các thủ tục tố tụng ngăn ngừa sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng, hòa nhập pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Tóm lại, có thể hiểu, bảo vệ quyền con người chính là việc nhà nước thông qua pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Theo nhận thức của cộng đồng Quốc tế, để bảo đảm quyền con người, nhà nước có ba nghĩa vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, nghĩa vụ tôn trọng (obligation to respect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước không được tùy tiện tước bỏ, hạn chế hay can thiệp, kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp, vào việc thụ hưởng các quyền con người. Thứ hai, nghĩa vụ bảo vệ (obligation to protect): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải ngăn chặn sự vi phạm quyền con người của các bên thứ ba. Thứ ba, nghĩa vụ thực hiện (obligation to fulfil): nghĩa vụ này đòi hỏi các nhà nước phải có những biện pháp nhằm hỗ trợ công dân trong việc thực hiện các quyền con người [41, tr.58]. Nội dung quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ngày càng nhận thức đầy đủ và toàn diện, được phát triển và cụ thể hóa trong các Tuyên bố và Công
  • 27. 27 ước quốc tế về quyền con người. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền công dân trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia chính là thể hiện việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người. Như vậy, đảm bảo pháp lý về quyền con người là hệ thống các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân gắn với các thiết chế bảo đảm thực hiện nó trong hệ thống pháp luật và cơ chế bảo đảm cho các quy định và thiết chế đó được thực hiện trong thực tế. Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu, bởi vì pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con người; là công cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người; pháp luật tạo cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.2.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam Tư tưởng về quyền con người đã được thể hiện khá sớm tại Việt Nam, đặc biệt, thể hiện thành văn rõ rệt ngay từ khi đất nước giành được độc lập từ tay thực dân Pháp sau cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại của dân tộc. Ngày 02 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước VNDCCH. Trong bản Tuyên ngôn độc lập ấy, với việc nhắc lại Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tiếp nối tinh thần của Tuyên ngôn độc lập năm 1945, Hồ Chí Minh, “cha đẻ” của Hiến pháp nước VNDCCH năm 1946, lại một lần nữa thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc qua việc ghi nhận các giá trị con người, các quyền cơ bản về dân chủ và dân sinh, các quyền tự do cá nhân, tự do tín ngưỡng ở bản hiến pháp đầu tiên của dân tộc. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, trải qua nhiều thăng trầm và biến đổi của hoàn cảnh địa - chính trị, quyền con người vẫn luôn được thể hiện sâu sắc qua các bản hiến pháp tiếp theo của Việt Nam từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến
  • 28. 28 các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001) và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 [16, tr.29]. Hiến pháp năm 2013 được thông qua tại kỳ họp thứ 6 - Quốc hội khóa XIII gồm 11 chương, 120 điều (giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp năm 2013 kế thừa những nội dung tiến bộ của 4 bản Hiến pháp trước đồng thời chắt lọc, tập hợp trí tuệ, tâm huyết của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Hiến pháp cũng đã tham khảo, tiếp thu có chọn lọc nhiều nội dung Hiến pháp của các quốc gia trên thế giới [57]. Quyền con người được quy định trong Chương II của Hiến pháp năm 2013 là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V của Hiến pháp năm 1992 (Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân), đồng thời chuyển các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân tại các chương khác của Hiến pháp năm 1992 về chương này. Việc thay đổi vị trí nói trên là một sự thay đổi về nhận thức chứ không đơn thuần là một sự dịch chuyển cơ học, một sự hoán vị về bố cục. Với quan niệm đề cao chủ quyền Nhân dân trong Hiến pháp, coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lập hiến, thông qua quyền lập hiến của mình, Nhân dân giao quyền cho lập pháp, hành pháp, tư pháp và các thiết chế độc lập khác, thì quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải được xác định ở vị trí trang trọng hàng đầu trong một bản Hiến pháp. Việc thay đổi này là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, thể hiện quan điểm đề cao nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta [53]. Điều này đã khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp, thể hiện nhất quán đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong việc công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới năm 2013 có những sửa đổi, bổ sung và phát triển thể hiện tầm quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu như:
  • 29. 29 Một là, Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ "quyền con người", không đồng nhất quyền con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt sự khác nhau giữa “quyền con người” và “quyền công dân”. Theo đó, quyền con người được quan niệm là quyền tự nhiên vốn có của con người từ lúc sinh ra; còn quyền công dân, trước hết cũng là quyền con người, nhưng việc thực hiện nó gắn với quốc tịch, tức là gắn với vị trí pháp lý của công dân trong quan hệ với nhà nước, được nhà nước đảm bảo đối với công dân của nước mình. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Đồng thời, Hiến pháp mới đã bổ sung nguyên tắc hạn chế quyền phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên và theo đó, quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà phải “theo quy định của luật”. Hai là, Hiến pháp mới đã khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo hướng: Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác được quy định tại Điều 15. Ba là, Hiến pháp mới đã tiếp tục làm rõ nội dung quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa và trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người. Đồng thời, Hiến pháp sắp xếp lại các điều khoản theo các nhóm quyền để bảo đảm tính thống nhất giữa quyền con người và quyền công dân, bảo đảm tính khả thi hơn.
  • 30. 30 Bốn là, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quyền mới là thành tựu của gần 30 năm đổi mới đất nước; thể hiện rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân. Đó là Quyền sống (Điều 19), Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác (Điều 20), Quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư (Điều 21 ), Quyền được bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34), Quyền kết hôn và ly hôn (Điều 36), Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41), Quyền xác định dân tộc (Điều 42), Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43),... Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên, thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc thực hiện quyền con người [53]. Ngoài ra, Hiến pháp mới đã tiếp cận căn bản các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, thậm chí có một số nội dung rất tiến bộ so với tiêu chuẩn quốc tế. Quyền con người cũng không chỉ đề cập ở Chương II mà ở nhiều chương khác. So với Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp mới đã tách bạch quyền con người và quyền công dân. Đây là nhận thức đúng, quyền con người là đối với mọi người, còn công dân thì chỉ là người Việt Nam mà không bị tước quyền công dân. Các quyền tự do ngôn luận, báo chí, đi lại, cư trú theo Hiến định Nhà nước cũng không can thiệp. Đặc biệt, chương về Chính phủ, VKSND, Tòa án nhân dân đều có chế định Chính phủ, Tòa án, VKS phải bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Cụ thể, Chính phủ có trách nhiệm bảo vệ quyền con người, quyền công dân; VKS có trách nhiệm bảo vệ quyền công tố, quyền con người; Tòa án có trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền công dân. Như vậy, bộ máy Nhà nước được lập ra để bảo vệ quyền con người. Cách tiếp cận quyền con người này một cách căn bản giống như các nhà nước trên thế giới. Lần đầu tiên trong Hiến pháp mới của chúng ta quy định, trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện những công ước quốc tế, trong đó có những công ước liên quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia [57]. Tại Hiến pháp mới năm 2013, vấn đề quyền con người được chính thức đưa vào một cách đầy đủ, toàn diện, có hẳn một chương trong Hiến pháp về quyền con
  • 31. 31 người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều này là kết quả tất yếu của quá trình hội nhập và nỗ lực phấn đấu bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước ta. Bảo đảm quyền con người luôn được xác định là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, làm cho mỗi người và mọi người phát triển tự do và toàn diện như nghị quyết của Đảng đã nêu. Như vậy, có thể thấy được vấn đề quyền con người đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và điều đó đã được khẳng định rõ trong Hiến pháp năm 2013 - đạo luật gốc - với những quy định tiến bộ về quyền con người, quyền công dân, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển con người, thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đã tạo lập khuôn khổ hiến định cho việc tiếp tục củng cố, phát triển quyền con người, quyền công dân phù hợp với các đặc điểm chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời, bảo đảm sự phù hợp với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Chúng ta có thể khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 là Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bảo đảm cho việc tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước ta trong tình hình mới. 1.2.3. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự 1.2.3.1. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Hình sự Quyền con người trong mọi lĩnh vực, được coi là giá trị của nhân loại, phải được tôn trọng và bảo vệ bao gồm cả các quyền cần được đảm bảo bởi pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự. Thông qua các điều khoản của BLHS Việt Nam 1985, được sửa đổi, bổ sung năm 1999, 2009 chúng ta có thể thấy rất rõ vấn đề quyền con người và bảo vệ quyền con người được thể hiển rất cụ thể. Hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người được coi là một trong những hành vi phạm tội nghiêm trọng nhất và bị pháp luật nghiêm trị. Để bảo đảm thực hiện nguyên tắc đã được Hiến pháp ghi nhận, đó là quyền bất khả xâm phạm về tính mạng của công dân, Chương XII BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung
  • 32. 32 năm 2009) quy định 10 tội danh liên quan đến hành vi trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý tước đoạt sinh mạng của người khác một cách bất hợp pháp, đó là: Tội giết người (Điều 93); Tội giết con mới đẻ (Điều 94); Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95); Tội giết người d o vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96); Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97); Tội vô ý làm chết người (Điều 98); Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99); Tội bức tử (Điều 100); Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 101); Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102) [17, tr.70]. Do đối tượng tác động của tội phạm là xâm phạm quyền sống của con người nên chính sách hình sự và đường lối xử lý của Nhà nước đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người là rất nghiêm khắc. Trong 10 tội nêu trên có 01 tội đặc biệt nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là tử hình (Điều 93), có 01 tội rất nghiêm trọng có mức hình phạt cao nhất là đến 15 năm tù (Điều 97). Ngoài các tội nêu trên, Bộ luật Hình sự còn quy định một số tội có liên quan đến việc xâm phạm mạng sống của con người tại các Điều: 83, 84 (Chương XI - Các tội xâm phạm an ninh quốc gia); Điều 336 (Chương XXIII - Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân) và các Điều 342, 343 (Chương XXIV - Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) [45, tr.55-56]. Ngoài ra, BLHS đã ngày càng thu hẹp phạm vi áp dụng biện pháp tử hình đối với một số loại tội phạm, đặc biệt là với các tội phạm về kinh tế. Nếu như BLHS năm 1985 quy định về 44 điều luật có khung hình phạt tử hình thì số điều luật quy định cho tử hình trong BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 và giảm tiếp xuống sau đợt sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009 xuống còn 25 Điều (Ngày 16-6- 2009, Quốc hội Khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó bỏ hình phạt tử hình trong 4 tội danh khác bao gồm: Tội hiếp dâm (Điều 111); Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả (Điều 180); Tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy (Điều 221);Tội hủy hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (Điều 334)). BLHS cũng có quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với một số đối tượng
  • 33. 33 phạm tội, chẳng hạn, đối với người chưa thành niên, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Người bị kết án tử hình, theo BLHS, cũng có thể được xem xét ân giảm xuống hình phạt tù chung thân nếu có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Đối với những người bị truy tố theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình, BLTTHS 2003 yêu cầu cơ quan tố tụng phải mời luật sư bào chữa bắt buộc nếu như gia đình bị can, bị cáo không thể mời luật sư tham gia (Điều 57). Trong việc xét xử người phạm tội (đối với bị cáo bị áp dụng mức hình phạt tử hình), BLTTHS cũng quy định thành phần cơ quan xét xử gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm và tòa án xét xử buộc phải là tòa án cấp tỉnh [17, tr.70]. Một trong các quyền quan trọng khác về quyền bất khả xâm phậm về thân thể của con người là quyền được “xét xử công bằng và công khai.” Việc xét xử phải được thực hiện bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo các quy định của pháp luật. Như vậy, ngay cả khi công dân vi phạm pháp luật, họ cũng có quyền được hưởng một phiên tòa công bằng, pháp luật còn có quy định cho phép họ được hưởng quyền xét xử công khai và minh bạch. Điều 16 BLTTHS quy định “khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.” Không chỉ có vậy, công dân còn có quyền yêu cầu thay đổi người tham gia tố tụng nếu có cơ sở để tin rằng những người nào không vô tư khi thực thi nhiệm vụ. Điều 18 BLTTHS năm 2003 quy định về việc tòa án xét xử công khai, cụ thể: Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai [32]. Quyền tự do an ninh cá nhân là quyền dân sự khá rộng và được đảm bảo thực hiện bởi rất nhiều đạo luật có liên quan như BLDS, BLHS, BLTTHS và một số văn bản khác. Cùng với các đạo luật khác, một số quy định tại BLHS cũng có ý nghĩa nhất định trong việc đảm bảo quyền con người trong tự do, an ninh cá nhân,
  • 34. 34 như: tội dùng nhục hình (Điều 298), tội bức cung (Điều 299)... Các nguyên tắc “suy đoán vô tội”, “xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, “nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động xét xử” cho thấy cơ chế đảm bảo các quyền tự do và an ninh thân thể đối với con người đã Nhà nước xây dựng khá đầy đủ và hoàn chỉnh, tạo thành một hệ thống các quy phạm pháp luật áp dụng trên diện rộng để hướng tới mục tiêu bảo vệ các giá trị con người [17]. Trong lĩnh vực tư pháp và xét xử, quyền tự do và an ninh thân thể của công dân còn được thể hiện khá rõ nét. Khi tham gia tố tụng, công dân là bị cáo có quyền mời luật sư tham gia bào chữa ngay khi bị bắt và bị giam giữ. Cụ thể Điều 11 BLTTHS quy định: “ ‘người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này ”. Bên cạnh đó, mọi công dân sẽ đều được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền. được lập ra theo quy định của pháp luật... [17]. Như vậy, ngoài việc quy định rõ ràng trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật Dân sự và pháp luật Hình sự của Việt Nam cùng các văn bản pháp lý khác có liên quan đều có các quy định điều chỉnh và tác động trực tiếp lên quyền sống của con người. Hòa vào xu hướng chung của thế giới, quyền sống của con người ngày một được tôn trọng và bảo đảm. Không chỉ có vậy, Nhà nước còn không ngừng đổi mới và hoàn thiện các chế định về quyền con người để đảm bảo một cách tốt nhất quyền lợi của công dân theo hướng mở rộng quyền được sống, hạn chế các quy định có ảnh hưởng bất lợi tới quyền sống của con người. Quyền con người muốn được hiện thực hóa phải được quy định cụ thể trong pháp luật, nếu không, nó chỉ mang ý nghĩa hô hào, không có ý nghĩa thực tế. Pháp luật là phương tiện để ghi nhận và hiện thực hóa các quyền con người. Khi được pháp luật quy định, quyền con người trở thành quyền công dân. Đồng thời, pháp luật còn thiết lập nghĩa vụ của những chủ thể có liên quan trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. 1.2.3.2. Quyền con người và bảo vệ quyền con người trong pháp luật Thi
  • 35. 35 hành án hình sự Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định: Cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá trong một tổng thể hài hoà, không được xem nhẹ bất cứ quyền nào. Đồng thời, các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng.. .Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của cả cộng đồng là cách đề cập phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh về quyền con người [1]. Quyền con người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất mà các quốc gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ quyền con người cũng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây dựng một hệ thống pháp luật riêng cho quốc gia của mình dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội và các giá trị truyền thống văn hóa của quốc gia để bảo đảm các quyền con người được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất. Con người được đặt là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển và công cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam. Các quyền và tự do cơ bản của nhân dân được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế. Thi hành án hình sự có liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xác định thi hành án hình sự là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2007); Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ; Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo; Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Nghị định số
  • 36. 36 53/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt cấm cư trú, quản chế; Nghị định số 54/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất; Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế trại giam; Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an...[2]. Trên cơ sở đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật về thi hành án hình sự đã bộc lộ những hạn chế, nhiều quy định không còn phù hợp, chưa đồng bộ với quy định có liên quan đến công tác thi hành án hình sự trong một số đạo luật như Bộ luật hình sự năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Luật Công an nhân dân... Những tồn tại, hạn chế của pháp luật làm cho hoạt động thi hành án hình sự gặp nhiều bất cập, vướng mắc, các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực thi hành án hình sự mới chỉ quan tâm nhiều đến thi hành hình phạt tù, tử hình, trục xuất mà chưa quan tâm đúng mức đến việc thi hành các hình phạt khác; chưa có tổ chức bộ máy chuyên trách quản lý thống nhất việc thi hành án hình sự; đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ thi hành án hình sự còn thiếu về số lượng và chưa bảo đảm về chất lượng, chế độ chính sách còn chưa bảo đảm; cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác này chưa được đầu tư tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ [2]. Tình hình nêu trên đặt ra yêu cầu hoàn thiện một bước pháp luật về thi hành án hình sự, theo đó việc xây dựng, ban hành Luật thi hành án hình sự để điều chỉnh toàn diện về tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự là rất cần thiết. Luật thi hành án hình sự được ban hành, gồm 15 chương, 182 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2011. Có thể nói, thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
  • 37. 37 Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng lao động nhằm mục đích làm cho người thụ án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác, góp phần răn đe, ngăn ngừa chung. Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị quy định quyền không bị tra tấn Điều 7: “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Công ước đặt ra những chuẩn mực cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm quyền không bị tra tấn, được đối xử nhân đạo, không bị giam giữ độc đoán, tra tấn, nhục hình. Các nước thành viên Công ước, dựa trên các nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa của nước mình có thể đưa ra những quy định riêng nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản đã được quy định trong Công ước [3, tr.20-21]. Những vấn đề này đã quy định một cách thống nhất và đồng bộ từ văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001 và 2013); cho đến các văn bản luật và dưới luật đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự... Đây chính là nền tảng pháp lý để ngăn chặn và trừng trị những hành vi tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục. Với tinh thần đó, một số quy định của Luật thi hành án hình sự cũng đã thể hiện được được những quyền cơ bản được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, cụ thể như sau: * Quy định để đảm bảo những người phải chấp hành án phạt tù được đối xử nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người: Quyền được đối xử nhân đạo, được tôn trọng nhân phẩm đã được thể hiện ở chính mục đích của hình phạt tù và thông qua chế độ chấp hành án. Người chấp
  • 38. 38 hành án phạt tù tại các trại giam được pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản, như quyền tự do thân thể, quyền sống, vui chơi, giải trí, không bị tra tấn... Những quyền này được quy định cụ thể tại Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Một trong các nguyên tắc thi hành án hình sự được đề ra trong Luật là “tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 3 Điều 4). Bên cạnh đó, cần “kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án” (Khoản 4 Điều 4). Luật Thi hành án hình sự cũng nghiêm cấm “xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người chấp hành án” (Khoản 9 Điều 9). Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một chương quy định về thi hành án phạt tù và chế độ quản lý, giam giữ, giáo dục phạm nhân (Chương III, từ Điều 21 đến Điều 53) [3, tr.23-24] Với tinh thần tôn trọng nhân phẩm và tự do vốn có của con người, Luật Thi hành án hình sự đã quy định rất cụ thể việc phân khu giam giữ phạm nhân, quy định rõ những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: phạm nhân nữ; phạm nhân là người chưa thành niên; phạm nhân là người nước ngoài; phạm nhân là người có bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm; phạm nhân có dấu hiệu bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình trong thời gian chờ quyết định của Tòa án; phạm nhân thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế trại giam (Điều 27). Các chế độ liên quan thiết thực của phạm nhân như chê độ ăn, mặc, ở, chăm sóc sinh hoạt, y tế, học tập, học nghề, lao động, gặp, liên lạc, nhận quà của thân nhân. đều được quy định trong Luật này [3, tr.23-24]. * Về quy định dành riêng cho người chưa thành niên để đảm bảo việc giam giữ được tách riêng khỏi người lớn và phải được đối xử phù hợp lứa tuổi của họ: Xuất phát từ tinh thần nhân văn cao cả là nhằm giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội, tại Khoản 2 Điều 27 Luật Thi hành án hình sự quy định:
  • 39. 39 “... Trong các khu giam giữ quy định tại Khoản 1 Điều này, những phạm nhân dưới đây được bố trí giam giữ riêng: a) Phạm nhân nữ; b) Phạm nhân là người chưa thành niên; c)....” Không chỉ được giam giữ riêng, Luật Thi hành án hình sự đã dành riêng một mục để quy định đối với các phạm nhân là người chưa thành niên với các điều kiện đối xử tốt hơn so với các phạm nhân đã thành niên (mục 3 Chương III). Chẳng hạn như chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ và vui chơi giải trí, giáo dục, học văn hóa, học nghề, lao động... Phạm nhân là người chưa thành niên được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng; Phạm nhân là người chưa thành niên được lao động ở khu vực riêng và phù hợp với độ tuổi; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại... [3, tr.26] Bên cạnh đó, Luật Thi hành án hình sự cũng quy định rõ trách nhiệm của trại giam trong việc giáo dục phạm nhân là người chưa thành niên về văn hoá, pháp luật và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hoá, giới tính và sức khoẻ, chuẩn bị điều kiện để họ hoà nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong án phạt tù (khoản 2 Điều 51) [3, tr.26-27]. Bên cạnh quy định về quyền không bị tra tấn, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 đặt ra các nghĩa vụ chính đối với các quốc gia thành viên liên quan đến nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức như sau: Một là, các quốc gia cần nghiêm cấm việc bắt giữ làm nô lệ bất cứ người nào; chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm. Hai là, các quốc gia không được bắt buộc lao động cưỡng bức. Ba là, cần có những quy định về các trường hợp ngoại lệ của lao động cưỡng bức. Đây là những chuẩn mực mà Công ước đặt ra cho các quốc gia thành viên để bảo vệ nhóm quyền không bị nô lệ, lao động khổ sai hay lao động cưỡng bức. Các nước thành viên Công ước, dựa trên những nguyên tắc nền này và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn