SlideShare a Scribd company logo
1 of 116
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DUY PHƯƠNG
nh÷ng c¨n cø kh«ng ®­îc khëi tè vô ¸n h×nh sù
theo luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN DUY PHƯƠNG
nh÷ng c¨n cø kh«ng ®­îc khëi tè vô ¸n h×nh sù
theo luËt tè tông h×nh sù viÖt nam
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn kế thừa từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ.
Tác giả luận văn
Trần Duy Phương
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG
ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.........................................................7
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA NHỮNG CĂN CỨ
KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................7
1.1.1. Khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự...............7
1.1.2. Bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự.............................................................................................11
1.2. PHÂN BIỆT NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ
VỤ ÁN HÌNH SỰ VỚI NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN
QUAN KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM.....................................................................12
1.2.1. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với
căn cứ khởi tố vụ án hình sự ............................................................ 12
1.2.2. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với
chế định miễn trách nhiệm hình sự ..................................................16
1.2.3. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với
loại trừ trách nhiệm hình sự .............................................................17
1.2.4. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với
với các trường hợp không xử lý hình sự...........................................19
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM
1945 ĐẾN NAY .............................................................................. 20
1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 .....20
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
1988 đến nay ...................................................................................26
1.4. NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH
SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI........................................................................................30
1.4.1. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.............................................30
1.4.2. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa...........33
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK..........................................................36
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ..................................................................................36
2.1.1. Trường hợp không có sự việc phạm tội............................................ 37
2.1.2. Trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm................................ 38
2.1.3. Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa
đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự .................................................... 39
2.1.4. Trường hợp người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án
hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật....................... 43
2.1.5. Trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự............... 43
2.1.6. Trường hợp tội phạm được đại xá.................................................... 47
2.1.7. Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã
chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác....................... 48
2.2. CÁC QUY ĐỊNH KHÁC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG CĂN CỨ
KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................48
2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .... 52
2.3.1. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk........................................................................................... 52
2.3.2. Thực tiễn áp dụng chế định những căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................... 54
2.3.3. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản..........................56
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG
ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ...65
3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG
CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ..................65
3.1.1. Về phương diện thực tiễn................................................................. 65
3.1.2. Về phương diện lý luận.................................................................... 67
3.1.3. Về phương diện lập pháp................................................................. 70
3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ
KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................73
3.2.1. Nhận xét, đánh giá...........................................................................73
3.2.2. Nội dung hoàn thiện......................................................................... 74
3.3. KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ...88
3.3.1. Về chuyên môn, nghiệp vụ .............................................................. 88
3.3.2. Về tổ chức, cán bộ ...........................................................................91
3.3.3. Về sự tham gia của cơ quan, tổ chức................................................97
KẾT LUẬN............................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 105
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Sự hình thành và phát triển nhân cách con người 41
Bảng 2.2: So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một
số nước 42
Bảng 2.3: Phân bố dân số trên địa bàn các huyện ở thành phố
Buôn Ma Thuột và một số thị trấn, huyện lỵ ở tỉnh
Đắk Lắk 53
Bảng 2.4: Tổng hợp số vụ án được đưa ra khởi tố và số vụ án
không đưa ra khởi tố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2010 đến 2014 55
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định một trong
những phương hướng trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN là:
…Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư
pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người… [2].
Do vậy, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong giai đoạn hiện nay tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho công cuộc đổi mới trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội được coi là một trong những nhiệm vụ cấp
bách của Nhà nước ta, tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn luôn là một công cụ quan
trọng để Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội, đồng thời pháp
luật cũng là một công cụ để củng cố và bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước. Điều
đặc biệt hơn chính là quyền con người, quyền công dân được coi trọng và bảo
đảm và đã được đề cập trong một Chương II của Hiến pháp mới năm 2013.
Mọi hoạt động của Nhà nước, của cá nhân nào đó đi ngược lại với lợi ích hợp
pháp của con người, xâm phạm tới quyền công dân đã được Hiến pháp và
pháp luật quy định đều phải bị lên án và bị xử lý nghiêm khắc. Ngoài ra,
Đảng ta đã khẳng định:
2
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo
vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ,
đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ
quan và chức danh tư pháp... [11, tr.80].
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là một trong những
quy định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chính vì thế,
việc áp dụng đúng đắn và chính xác các quy phạm của các quy định này sẽ
góp phần nâng cao hiệu quả của của việc thực hiện các quy định của luật tố
tụng hình sự, đấu tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả, củng cố và tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của
công dân bằng pháp luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, hoàn thiện các quy định
định này còn góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự cũng là một vấn đề rất
rộng lớn và phức tạp. Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu, các
bài viết về vấn đề này, vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất bởi lẽ chưa đi
sâu vào bản chất của nó, chưa nghiên cứu một cách toàn diện về riêng một
điều luật cụ thể và các điều luật có liên quan hay áp dụng trong thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử về vấn đề này. Hiện nay, trên địa bàn cả nước nói chung,
địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự như khái niệm, nội dung, những căn cứ để không được khởi tố vụ án
hình sự, v.v... Theo đó, hiện tượng oan, sai hay bỏ lọt tội phạm, nhầm lẫn giữa
3
những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với loại trừ trách nhiệm hình
sự, với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự... để tránh oan, sai vẫn xảy ra...
Do đó, lợi ích của con người, của xã hội và của Nhà nước ở một góc độ nào
đó chưa kịp thời được bảo đảm, hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm
còn chưa cao. Nguyên nhân của tình hình trên là do có sự nhận thức về những
căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự chưa đúng và các cơ quan tiến hành
tố tụng không nghiên cứu kỹ các tình tiết của vụ án. Các quy định của Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, văn bản giải thích hướng dẫn áp dụng
không cụ thể, còn sơ sài không hệ thống.
Vì vậy, từ những lý do đã nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài:
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự
Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Về quy định Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự trong Luật tố
tụng hình sự đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chưa nhiều, nội dung
nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một vài khía cạnh của quy định về: những
căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu có một phần
nội dung trực tiếp đề cập đến quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án
hình sự chủ yếu là các cuốn: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, năm
2004; cuốn Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (Học viện Khoa học
xã hội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2013) và một số giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật như: Giáo trình Luật tố tụng hình
sự Việt Nam (Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, năm 2014 do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên); Giáo
4
trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội, năm 2011 do PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên);
v.v.... Bên cạnh đó, quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
còn được đề cập một cách trực tiếp trong một số bài viết được đăng trên các
tạp chí pháp luật: Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và một số quy định liên
quan (TS. Phan Thị Thanh Mai, Tạp chí Luật học số 7/2010); Hoàn thiện quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về không khởi tố vụ án hình sự (Ths. Hoàng
Duy Hiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 8(269)/2014).
Tuy nhiên, đến nay thời điểm hiện nay, vẫn chưa có tác giả nào tiếp tục
trực tiếp nghiên cứu về vấn đề này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học,
đặc biệt từ khi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đang xin ý kiến góp ý sửa đổi,
bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, cũng như đánh giá thực tiễn áp
dụng trên địa bàn một tỉnh cụ thể có tình hình an ninh, trật tự rất cần sự ổn
định là địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, việc học viên lựa chọn đề tài: “Những
căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình là có tính cấp bách.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm sáng tỏ về mặt lý luận các trường hợp không
được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp
dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn
thiện Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta, cũng như kiến nghị giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng, qua đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn có phạm vi nghiên
cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn về những căn cứ không được khởi tố vụ
5
án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đánh giá thực tiễn áp
dụng những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản để đề xuất
kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, đồng thời có những kiến nghị
khác nâng cao hiệu quả áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những căn cứ không được khởi
tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
1) Làm rõ khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự,
bản chất pháp lý và phân tích các đặc điểm cơ bản, các mối liên hệ của nó với
các quy định có liên quan trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam;
2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về những
căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay;
3) Nghiên cứu quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới để rút ra nhận xét;
4) Phân tích quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình
sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó chỉ ra các tồn
tại, hạn chế và những nguyên nhân cơ bản;
5) Luận chứng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về những căn
cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam;
6
6) Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về những
căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,… Đồng thời dựa trên
những thành tựu của khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình
sự, Tội phạm học...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống… để tổng hợp các tri thức khoa
học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét
xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong những năm gần
đây trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Các vấn đề chung về những căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về
những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
và những kiến nghị.
7
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI
TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA NHỮNG CĂN CỨ
KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự đó là
nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều
13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo nguyên tắc này:
Khi phát hiện dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này
quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không
được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này
quy định [30, tr.10].
Nguyên tắc này xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự đồng thời cũng xác định rõ
phạm vi thẩm quyền đó được giới hạn bởi những căn cứ và trình tự luật định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của
quá trình tố tụng hình sự, cung cấp toàn bộ “nguyên liệu” đầu vào cho quy
trình tố tụng. Trong giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có
trách nhiệm xác định sự việc có hay không có dấu hiệu phạm tội để ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự nhằm khẳng định
về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra. Việc quyết định khởi tố vụ
án có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, bằng quyết định khởi tố vụ án hoặc
quyết định không khởi tố vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định về mặt
8
pháp lý vụ việc nào cần phải xử lý theo tố tụng hình sự và những vụ việc nào
không cần xử lý theo tố tụng hình sự.
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm
để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án.
Đây là giai đoạn tố tụng đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, có tính
chất độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố
tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng [8, tr.293]. Chủ thể có quyền khởi tố
vụ án hình sự là những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác
định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay
không khởi tố vụ án hình sự - những văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn
này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai
đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối
quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho
việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn
trước. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt
động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành
các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết định
khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có
thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng [8, tr.294].
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, bắt
đầu từ việc tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm
và kết thúc bằng quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Kết
thúc giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể là sự khởi đầu cho các giai đoạn tố
tụng khác hoặc chấm dứt quá trình tố tụng. Vì thế, việc chứng minh khởi tố
vụ án hình sự là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong hoạt động tố tụng
hình sự để quyết định việc đưa vụ án ra khởi tố hay không khởi tố.
9
Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự có thể là sự hiện diện dấu hiệu của tội
phạm. Các dấu hiệu này có thể chưa phản ánh đầy đủ về tội phạm đã xảy ra
nhưng là căn cứ để khẳng định rằng cần phải tiến hành tố tụng để làm rõ vụ
việc. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, tuy chưa đặt ra yêu cầu cần phải
xác định chính xác và đầy đủ, nhưng phải sơ bộ định tội danh phù hợp với tội
phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khởi tố các vụ án hình sự, bên
cạnh việc quy định về các căn cứ khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình
sự còn quy định về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự (Bộ luật tố
tụng hình sự 2003) như sau:
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những
căn cứ sau đây:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến
tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc
quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ
trường hợp cần tái thẩm đối với người khác [30, Điều 107].
Nghiên cứu các sách báo pháp lý về tố tụng hình sự cho thấy, không có
quan điểm khoa học nào nêu lên khái niệm này. Vì vậy, căn cứ vào quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự và thực tiễn xét xử, dưới góc độ khoa học, theo
chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau:
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện dấu
hiệu không phạm tội và khi có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ
10
án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố không được khởi tố vụ án hình
sự, nếu vụ án đã khởi tố thì phải hủy quyết định khởi tố đó.
Như vậy, những quy định về căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan khởi tố trong việc kết thúc giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự khi vụ án đó không có dấu hiệu phạm tội.
Đối ngược với những căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện của
dấu hiệu phạm tội thì những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là việc đưa
ra những căn cứ thể hiện những dấu hiệu không phạm tội trong vụ án. Việc
đưa ra những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự này tạo điều kiện thuận lợi
cho những cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý để dừng việc điều tra,
khởi tố, xét xử một vụ án hình sự khi mà vụ án này không có sự hiện diện
của dấu hiệu phạm tội. Dấu hiệu phạm tội là dấu hiệu của hành vi gây nguy
hiểm cho xã hội và những kẻ có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì được
coi là tội phạm. Vì vậy ở góc độ pháp lý ta có thể hiểu những căn cứ không
khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện của dấu hiệu không có tội phạm ở trong
một vụ án hình sự. Như chúng ta đã biết, theo quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999 thì:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [26].
11
Do đó, những hành vi của cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự
không gây nguy hiểm cho xã hội hay không còn gây nguy hiểm cho xã hội sẽ
là dấu hiệu, căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự
1.1.2. Bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự
Xuất phát từ nhận thức nêu trên về giai đoạn khởi tố vụ án, những căn
cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự, chúng ta có thể nhận thấy, bản
chất pháp lý của giai đoạn này là ở chỗ: Với tính chất là một giai đoạn độc
lập và đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp
luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc
điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận
được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc
bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên
quan đến hành vi đó.
Như vậy, bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự là những dấu hiệu để cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc giai đoạn
khởi tố và chấm dứt quá trình tố tụng, tức là khi xét thấy vụ án thỏa mãn một
trong các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ
dừng việc chứng minh khởi tố và không đưa vụ án đó ra xét xử.
Với bản chất pháp lý đặc trưng này thì những căn cứ không khởi tố vụ
án hình sự là lý do, căn cứ xác đáng cho các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra
để kết thúc vụ án hình sự ở các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng.
Những dấu hiệu của việc không phạm tội này có thể xuất hiện ngay khi mới
bắt đầu vào vụ án (xét thấy người gây hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến
tuổi chịu trách nhiệm hình sự) hoặc xuất hiện ở những phút cuối trong giai
đoạn tố tụng (người phạm tội chết trong quá trình tố tụng) nhưng chỉ cẩn khi
12
xuất hiện những căn cứ này thì nó sẽ là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố
tụng dừng ngay việc khởi tố vụ án hình sự.
Việc ban hành quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
đã tạo nên một cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng đưa
ra các căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ án hình sự không có sự hiện diện
dấu hiệu phạm tội, nhanh chóng kép hồ sơ của những vụ án mà không có tội
phạm hay không còn tội phạm. Những căn cứ này không chỉ giúp cho các cơ
quan tố tụng dễ dàng hơn khi đưa ra kết luận có khởi tố vụ án hình sự hay
không mà nó còn giúp cho Nhà nước tiết kiệm được kinh phí, thời gian mà
vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước với xã hội.
1.2. PHÂN BIỆT NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ VỚI NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN KHÁC TRONG
LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
với căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Căn cứ để khởi tố vụ vụ án hình sự và căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự đều là sự hiện diện của dấu hiệu để từ đó cơ quan tiến hành tố
tụng và kết thúc giai đoạn khởi tố vụ án. Tuy nhiên kết quả của những căn
cứ để không khởi tố vụ án hình sự là việc chấm dứt quá trình tố tụng và kết
quả của những căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự khởi đầu cho các giai
đoạn tố tụng khác.
Vụ án hình sự chỉ có thể được khởi tố khi có căn cứ theo luật định.
Theo đó, căn cứ vào Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định
các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự như sau:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu
của tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở
sau đây:
13
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội Biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện
dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú [30, tr.67].
Như vậy, điều luật quy định khả năng duy nhất cho phép khởi tố vụ án
chính là khi xác định có “dấu hiệu của tội phạm”. Dấu hiệu tội phạm chính là
những tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội nói chung, chưa phải tài liệu về
người phạm tội cụ thể nào và thực tế cho thấy có những trường hợp lúc đầu
mới chỉ biết những thông tin về sự kiện nhưng khi kiểm tra thì sự kiện đó
không đủ dấu hiệu tội phạm. Có dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ cần và đủ
để khởi tố vụ án hình sự. Dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở những
thông tin thu được từ những nguồn nhất định. Điều luật quy định 5 nguồn
thông tin cụ thể làm cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm.
Khi nhận được sự tố giác hay tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm
quyền khởi tố phải kiểm tra nhằm xác định có dấu hiệu tội phạm hay không
và có những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hay không để ra quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Chỉ sau khi đã ra quyết định khởi
tố vụ án hình sự thì mới được thực hiện các hoạt động tố tụng khác như bắt
người, khám xét…
Điều luật không quy định yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị
hại là căn cứ độc lập để khởi tố. Bởi một số tội phạm, trong khoản 1 của điều
luật có quy định chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại (các tội được quy
14
định tại khoản 1 của các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122,
131, 171 của Bộ luật hình sự). Điều này không xuất phát từ sự khác biệt nào
về bản chất của thông tin ban đầu làm cơ sở để xác định căn cứ khởi tố vụ án
so với sợ tố giác của công dân. Trường hợp đó, cơ sở để xác định căn cứ khởi
tố được coi như là sự tố giác về tội phạm của công dân. Yêu cầu của người bị
hại được hiểu như nguồn tin “tố giác của công dân”. Như vậy, những quy
định đã nêu trên là những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự.
Stt Tiêu chí
Căn cứ khởi tố
vụ án hình sự
Những căn cứ không được
khởi tố vụ án hình sự
1
Quy định
trong Bộ
luật tố tụng
hình sự
Quy định tại Điều 100, Bộ
luật tố tụng hình sự năm
2003, quy định căn cứ khởi
tố vụ án hình sự và cơ sở để
xác định căn cứ đó.
Quy định tại Điều 107 Bộ luật
tố tụng hình sự 2003, gồm 7
căn cứ, mỗi căn cứ tương ứng
với một khoản cụ thể quy
định trong điều này.
2
Bản chất
pháp lý
Căn cứ để khởi tố vụ án hình
sự chỉ có thể là sự hiện diện
dấu hiệu của tội phạm. Các
dấu hiệu này có thể chưa
phản ánh đầy đủ về tội phạm
đã xảy ra, nhưng là căn cứ
để khẳng định rằng cần phải
tiến hành tố tụng để làm rõ
vụ việc. Chỉ được khởi tố vụ
án hình sự khi đã xác định
có dấu hiệu tội phạm. Đó là
căn cứ duy nhất để khởi tố
vụ án hình sự.
Để quyết định khởi tố vụ án
Căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự bao gồm 7 căn cứ.
Chỉ và chỉ khi xuất hiện 1
trong 7 căn cứ trên thì mới ra
quyết định không được khởi
tố vụ án hình sự.
Những căn cứ không khởi tố
vụ án hình sự là cơ sở để cơ
quan nhà nước có thẩm quyền
dựa vào đó mà ra quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
15
hình sự cần xác định: Có sự
việc xảy ra; và sự việc đó
có dấu hiệu tội phạm.
Căn cứ khởi tố vụ án hình
sự cũng là cơ sở để cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền
dựa vào đó mà ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
3
Vai trò, ý
nghĩa
Không bỏ lọt người, lọt tội;
Phát hiện và xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm pháp
luật, bảo đảm công lý được
thực thi, duy trì trật tự, an toàn
xã hội đồng thời bảo vệ quyền
và lợi ích của công dân.
Phòng ngừa việc khởi tố vụ
án hình sự một cách thiếu
chính xác, không đúng căn cứ
pháp luật mang lại những hậu
quả xấu cho công dân và xã
hội.
4
Hậu quả
pháp lý
Khi xác định có dấu hiệu tội
phạm theo quy định tại Điều
100 Bộ luật tố tụng hình sự
thì cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định khởi tố vụ án
hình sự theo quy định của
pháp luật.
Như vậy, hậu quả pháp lý
của khởi tố vụ án hình sự
là làm phát sinh các hoạt
động tố tụng trong giai
đoạn điều tra.
Khi có một trong những căn cứ
quy định tại Điều 107 Bộ luật
tố tụng hình sự thì cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định
không khởi tố vụ án hình sự;
hoặc nếu đã khởi tố thì phải
ra quyết định hủy bỏ quyết
định khởi tố vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật.
Như vậy, hậu quả pháp lý của
không khởi tố vụ án hình sự
là không làm phát sinh các
hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra
16
1.2.2. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
với chế định miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự
quy định đối với người phạm tội [51, tr.224].
Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý mà bản thân người phạm tội
phải gánh chịu trước Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội. Nhà nước
có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội. Hậu quả là người
phạm tội bị áp dụng biện pháp cưỡng chế (hình phạt, biện pháp tư pháp) của
Luật hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người đáp ứng những điều
kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực
hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa, chống tội
phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội [50, tr.97]. Bản chất
pháp lý của chế định miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ hậu quả pháp lý của
việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, tức
là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của nhà nước (cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án) căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ
thể để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
Khác với căn cứ không khởi tố vụ án là khi có dấu hiệu không phạm tội
và khi có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ
quan khởi tố không được khởi tố vụ án hình sự, hậu quả pháp lý của nó là vụ
án hình sự sẽ làm chấm dứt giai đoạn khởi tố. Còn miễn trách nhiệm hình sự
là khi vụ án hình sự đã được đưa ra xét xử và đã có hành vi phạm tội nhưng
được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp nhất định
chứ không phải người không phạm tội. Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể
do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng.
17
1.2.3. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
với loại trừ trách nhiệm hình sự
Nghiên cứu Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành cho thấy, thuật ngữ
“loại trừ trách nhiệm hình sự” duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 Điều 53 Bộ
luật hình sự (“Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm”). Ngoài ra,
trong Bộ luật hình sự còn sử dụng một số thuật ngữ có nội dung tương đương
và gắn với từng trường hợp cụ thể (mặc dù nội hàm chưa đồng nhất) như:
“không phải là tội phạm”; “không phải chịu trách nhiệm hình sự”; “không có
tội”; v.v... khi đề cập đến hậu quả pháp lý của mỗi trường hợp tương ứng
trong Bộ luật này như sau:
- Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể - thì không phải là tội
phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự);
- Sự kiện bất ngờ - thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 11
Bộ luật hình sự).
- Người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện - thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự (quy định gián tiếp trong Điều 12 Bộ luật hình sự).
- Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự - thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự).
- Phòng vệ chính đáng - thì không phải là tội phạm (Điều 15 Bộ luật
hình sự).
- Tình thế cấp thiết - thì không phải là tội phạm (Điều 16 Bộ luật hình sự).
Đặc biệt, trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện
hành, các nhà làm luật nước ta còn quy định một trường hợp được coi
là “không có tội”: “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước
khi bị phát giác thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã
dùng để đưa hối lộ” (khoản 6 Điều 289) v.v…
18
Như vậy, về cơ bản, các nhà lý luận, thực tiễn đều quan niệm những
tình tiết trên là các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do trách nhiệm
hình sự quy định (mặc dù còn một số tình tiết vẫn đang tranh luận). Tuy
nhiên, việc sử dụng thuật ngữ chưa thống nhất này với từng trường hợp cụ
thể và xét về tổng thể thì giữa các thuật ngữ đã nêu không có gì mâu thuẫn.
Bởi lẽ, suy cho cùng, thì hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành
vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau - họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự, có nghĩa được loại trừ trách nhiệm hình sự. Nói một cách khác, khi
đề cập đến trách nhiệm hình sự với tư cách là hậu quả pháp lý của tội phạm,
trong thực tế bao giờ cũng dẫn đến ba khả năng đối với một người - phải
chịu trách nhiệm hình sự, được miễn trách nhiệm hình sự hay không phải
chịu trách nhiệm hình sự, có nghĩa là được loại trừ trách nhiệm hình sự. Do
đó, dưới góc độ khoa học, loại trừ trách nhiệm hình sự là trường hợp một
người đã có hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng căn cứ vào các quy định
của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
này. Nói một cách khác, trong hành vi của một người khi thực hiện hành vi
gây thiệt hại cho xã hộ do không thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu cơ
bản của tội phạm, nên tính chất tội phạm của hành vi đó được loại trừ, và
logic tương ứng người thực hiện nó không phải chịu trách nhiệm hình sự hay
được loại trừ trách nhiệm hình sự.
Như vậy, có thể thấy điểm khác biệt giữa căn cứ không khởi tố vụ án
hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự là căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
là hiện diện ở giai đoạn đầu của tố tụng vụ án hình sự, nó là căn cứ chứng
minh để kết thúc vụ án và không đưa vụ án ra xét xử còn loại trừ trách nhiệm
hình xuất hiện khi vụ án đã được đem ra xét xử và trong trường hợp người đã
19
có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật
hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này.
1.2.4. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
với với các trường hợp không xử lý hình sự
Khác với những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là những căn
cứ để không đưa vụ án ra xử lý hình sự theo quy định của pháp luật. Những
trường hợp không xử lý hình sự là một vụ án hình sự đã đủ điều kiện để đưa
ra khởi tố và trong quá trình tố tụng đối chiếu với các quy định của Bộ luật
hình sự thì hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đó không bị xử lý hình sự. Tại
khoản 3 điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định “Không được khởi tố vụ
án hình sự khi có căn cứ: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa
đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và tại Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy
định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
- Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm.
- Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [26, Điều 12].
Như vậy đối chiếu với các quy định của pháp luật thì khi một người
chưa đủ 14 tuổi phạm tội thì chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đó là
căn cứ để không được khởi tố vụ án hình sự. Nhưng nếu người đó đã từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì vụ án đó sẽ được đưa ra khởi tố theo
đúng trình tự và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình tố tụng
nếu xét thấy hành vi phạm tội đó không phải là tội phạm rất nghiệm trọng do
cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì người gây ra hành vi nguy hiểm
cho xã hội đó không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.
20
1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ
ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY
1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non
trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế nước ta vốn lệ
thuộc vào thực dân Pháp, bị tàn phá trong chiến tranh, giê đây rất kiệt quệ,
tiêu điều. Nghiêm trọng và cấp bách hơn cả là nạn ngoại xâm. Ở miền Bắc,
khoảng hơn 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh
vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, nhưng dã tâm của chúng là lật đổ chính
quyền nhân dân để lập một Chính phủ phản động làm tay sai cho chóng. Ở
miền Nam, thực dân Pháp và bọn can thiệp Anh chiếm Sài Gòn và mở rộng
chiến tranh, tìm cách xâm chiếm các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trong tình hình đó, Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm
vụ hàng đầu, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đảng ta đã giữ vững được
chính quyền, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị gấp rút về mọi mặt,
trước khi bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Mặc dù phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, hoạt động lập pháp nói
chung, lập pháp tố tụng hình sự nói riêng vẫn được Nhà nước ta quan tâm, khi
hoạt động tố tụng chưa được quy định thành một bộ luật cụ thể nhưng được
thể hiện thông qua các Sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam lâm thời. Các quy
định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự cũng chưa được cụ
thể hóa thành một điều khoản cụ thể nào [39, tr.15].
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng,
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
21
diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra
những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội.
Trước hết, chúng ta tiến hành đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục
những nhận thức đơn giản và tư duy lý luận lạc hậu. Đồng thời, chúng ta tiến
hành đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng,
phát triển sản xuất. Kiên quyết và dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung
quan liêu, bao cấp, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Chính
sách kinh tế mới đã động viên, khuyến khích, phát huy khả năng của toàn xã
hội, tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, cũng đã nảy sinh nhiều
hiện tượng tiêu cực mới, bất công xã hội tăng lên, pháp luật, kỷ cương bị
buông lỏng; tình trạng oan sai, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
dân trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án diễn biến phức tạp. Mặt khác,
các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn hành không thể hiện
được toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật tố tụng hình sự là vấn đề mang tính
khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Bộ luật tố tụng
hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định trình tự, thủ tục tiến hành
các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Bộ luật đã kế
22
thừa và phát triển những thành tựu của luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là
từ Cách mạng tháng Tám đến nay, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và
triệt để mọi hành vi phạm tội.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 gồm 7 phần, 32 chương với 286 điều.
Trong đó tại Điều 89, chương VII, phần 2 đã đưa ra bảy căn cứ không được
khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự và kiểm sát
việc khởi tố vụ án hình sự. Cụ thể như sau:
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Không có sự việc phạm tội;
- Hành vi không cấu thành tội phạm;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu
trách nhiệm hình sự;
- Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình
chỉ vụ án có hiệu lực của pháp luật;
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Tội phạm đã được đại xá;
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp
cần tái thẩm người khác.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là kết quả tổng kết kinh nghiệm của
hơn 40 năm hoạt động tư pháp hình sự, là sự thể chế hóa đường lối đổi mới
trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, mà Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Sự ra đời của Bộ luật đã đánh dấu sự
trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta, đã nâng cao
hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân. Đặc biệt trong đó những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
23
đã được quy định cụ thể làm một điều riêng của Bộ luật tố tụng hình sự là một
bước đổi mới để hoàn thiện hơn trong công tác tố tụng cũng như việc hỗ trợ
cho hoạt động tố tụng hình sự của nước ta. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để nhanh chóng kết thúc vụ án khi thỏa
mãn một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. Nhìn vào mặt
kinh tế và xã hội chúng ta có thể thấy quy định này đã giúp cho nhà nước tiết
kiệm được chi phí điều tra và xét xử tuy nhiên, cũng bảo đảm cho việc xét xử
đúng người đúng tội góp phần giữ vững an ninh và trật tự xã hội.
Bên cạnh quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự Bộ luật
tố tụng hình sự 1988 còn đưa ra rất nhiều những quy định liên quan khác như:
Điều 86. Nhiệm vụ giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm
Trong thời hạn không quá hai mươi ngày kể từ khi nhận được
tố giác hoặc tin báo, Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, trong phạm
vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết
định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo có nhiều
tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm
thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng
không quá hai tháng [25].
Trong quy định này nêu rõ về thời gian cho các cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát xác minh nguồn tin tố giác tội phạm và nếu thấy thỏa mãn một trong
những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng
phải ra quyết định dừng khởi tố vụ án. Việc xác minh nguồn tin để ra quyết
định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự này là 20 ngày kể từ ngày nhận
được nguồn tin tố giác, trong trường hợp nguồn tin có nhiều tình tiết phức tạp
thì thời hạn giải quyết có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng. Có thể thấy
tại thời điểm này bộ luật tố tụng hình sự đã có những giới hạn cho các cơ
24
quan tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự khi nhận được tin tố
giác của công dân đê tránh kéo dài thời gian cho việc giải quyết một vụ án. Vì
vậy, việc ban hành ra quy định về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình
sự vào thời điểm này là một trong những công cụ hỗ trợ lớn cho công tác điều
tra và khởi tố của các cơ quan tố tụng của nước ta. Bởi vì từ quy định này mà
cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để dừng điều tra vụ án nhanh chóng và
đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998 cũng có nêu ra việc việc ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng. Theo
đó khi có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định tài Điều 89 Bộ
luật tố tụng hình sự thì cơ quan có quyền khởi tố ra quyết định không khởi tố
vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải huỷ bỏ quyết định khởi tố và thông báo
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lý
do; nếu xét cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan hoặc
tổ chức hữu quan giải quyết. Như vậy, quy định về căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự sẽ là căn cứ để cơ quan có quyền khởi tố tụng ra quyết định
khởi tố và là lý do để cơ quan có quyền khởi tố trả lời cho các cơ quan có
thẩm quyền khác và cá nhân báo tin về tội phạm biết về quyết định không
khởi tố của mình
Năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam ra đời và sau
đó mãi đến năm 1988 Bộ luật tố tụng hình đầu tiên mới được ban hành. Việc
ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã phát huy ngày càng tốt công
tác tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng và các quy định trong bộ
luật hình sự 1985 cũng được thực thi triệt để hơn. Cụ thể trong bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1985 có những quy định như sau:
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ 14 tuổi trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách
nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
25
2. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm [25, Điều 58].
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Không truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tính từ ngày tội
phạm được thực hiện đã qua những thời hạn sau đây:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy
định hình phạt từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn;
b) Mười năm tù đối với các loại tội phạm ít nghiêm trọng mà
Bộ luật quy định hình phạt tù trên hai năm;
c) Mười lăm năm đối với các loại tội phạm nghiêm trọng.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới
mà Bộ luật quy định thì hình phạt từ một năm tù trở lên thì thời gian
đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ tính lại kể từ
ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh
và đã có lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh không được tính; thời
hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ.
2. Đối với những trường hợp nói ở điểm c khoản 1 Điều này
nếu có lý do đặc biệt thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn có thể
truy cứu trách nhiệm hình sự và Tòa án nhân dân tối cao có thể
quyết định không áp dụng thời hiệu [25, Điều 45].
Với những quy định nêu trên của Bộ luật hình sự năm 1985 đã làm cơ
sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở rõ ràng khi đưa ra căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ như một người phạm tội mà chưa đủ
14 tuổi thì sẽ làm căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự vì theo quy định của
bộ luật hình sự thì người dưới 14 tuổi không nằm trong độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và đối chiếu với quy định về căn cứ không khởi tố vụ án hình
26
sự thì khi người phạm tội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì sẽ không
được khởi tố hình sự. Nhìn chung ở giai đoạn này chúng ta thấy mặc dù Bộ
luật tố tụng hình sự đầu tiên của chúng ta ra đời sau Bộ luật hình sự nhưng hai
bộ luật này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng hỗ trợ rất nhiều cho
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta vào thời điểm bấy giờ.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến nay
Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Bộ luật đã phát huy tác dụng trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công
dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm kỷ
cương, phép nước.
Ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung 03 điều
của Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể như sau: Điều 42a. Người bảo vệ quyền
lợi của đương sự, Điều 168a. Thời hạn hoãn phiên tòa, Điều 215a. Việc Tòa
án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; sửa
đổi, bổ sung 35 điều luật.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự
được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án đã nảy sinh một số vướng mắc liên quan đến người làm chứng, kê
biên tài sản, bắt giam người bị kết án tại phiên tòa phúc thẩm, tiếp tục tạm
giam bị cáo trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm để
điều tra, xét xử lại… Để giải quyết những vướng mắc đó, ngày 22/12/1992,
tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
IX, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung 3 điều mới. Cụ thể như sau: Điều
143a. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Điều 143b. Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
27
vụ án, Điều 160a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời chung
thẩm; sửa đổi, bổ sung 5 điều.
Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội thông
qua ngày 28/6/1988 và được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990
và ngày 22/12/1992 [26]. Tuy nhiên, do Bộ luật hình sự mới đã được Quốc hội
thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000, có một số
nội dung mới trực tiếp liên quan đến các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, nên Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày
9/6/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000 nhằm thi hành Bộ luật hình sự
năm 1999 và giải quyết kịp thời một số vấn đề bức xúc mà thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án đặt ra, mà ý kiến của các cơ quan hữu quan tương
đối thống nhất. Cụ thể, Bộ luật tố tụng hình sự đã sửa đổi bổ sung 2 điều mới:
Điều 10a. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
Điều 234a. Thi hành hình phạt trục xuất; bỏ khoản 3, 4 Điều 145. Thẩm quyền
xét xử của Tòa án các cấp, bỏ điều 160a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
đồng thời chung thẩm; bỏ điểm a khoản 1 Điều 226. Những bản án và quyết
định được thi hành; sửa đổi, bổ sung 21 điều luật và sửa đổi số điều, khoản của
Bộ luật hình sự năm 1985 được viện dẫn trong Bộ luật tố tụng hình sự thành số
điều, khoản tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999.
Như vậy, cho đến nay sau nhiều lần sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng
hình sự của nước ta ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn và góp phần giữ gìn
an ninh, trật tự xã hội trong bối cảnh đất nước đang hội nhập, mở rộng kinh tế
phát triển đất nước. Tuy nhiên, quy định về những căn cứ không được khởi tố
vụ án hình sự vẫn không có sửa đổi, bổ sung nào. Hiện nay, trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự được
28
quy đinh cụ thể tại Điều 107 và nó vẫn giữ nguyên 07 căn cứ giống như với
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 [28].
Có thể thấy trên thực tế áp dụng những căn cứ này có một vai trò quan
trọng, góp phần không nhỏ cho các cơ quan hoạt động tố tụng của chúng ta và
vẫn đang phát huy được tốt vai trò của mình trong bối cảnh xã hội đang ngày
càng phát triển và tình hình tội phạm đang ngày càng diễn biến phức tạp.Tuy
nhiên những quy định liên quan đến những căn cứ không được khởi tố vụ án
hình sự đã được bổ sung sửa đổi thêm. Cụ thể tại điểm a khoản 2, khoản 3
Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và điểm a khoản 2, khoản 3 Điều
36 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về thẩm quyền quyết định
không khởi tố vụ án hình sự. Khoản 2 Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự có
quy định về thời hạn để kiểm tra, xác minh nguồn tin tố giác tội phạm để ra
quyết định có khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự. Và quy
định về việc quyết định khởi tố vụ án hình sự cũng có sự thay đổi so với bộ
luật tố tụng hình sự 1988.
Theo đó tại Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 có nêu: “Khi có một
trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan khởi tố có quyền
ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự…” [26] còn tại Khoản 1 Điều 108
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì quy định “khi có một trong những căn cứ quy
định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết
định không khởi tố vụ án hình sự…” [30]. Như vậy tại Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 chỉ nói chung chung về cơ quan khởi tố có quyền ra quyết định
không khởi tố vụ án hình sự còn bộ luật tố tụng hình sự thì nêu cụ thể là người
có quyền khởi tố vụ án hình sự ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Ngoài ra khoản 1 Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn đưa
ra quy định thêm: “Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan phải được gửi cho
29
Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định” [30].
Với quy định này thì trong vòng 24 giờ kể từ khi có quyết định không khởi tố
vụ án hình sự thì Viện kiểm sát sẽ nắm được tình hình vụ án hình sự đó đã
được ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự nữa. Và song hành cùng với
việc ban hành ra bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là Bộ luật hình sự 2005. Bộ
luật hình sự cũng có những sửa đổi bổ sung so với Bộ luật hình sự năm 1985
về những quy định liên quan đến căn cứ không khởi tố hình sự.
Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 23 quy định về thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự có nêu:
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày
tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2
Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời
gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại
kể từ ngày phạm tội mới.
Tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự như sau: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [27]. Như vậy khác với quy định về
độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm 1985: “Người từ
14 tuổi trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội
phạm nghiêm trọng do cố ý” [25]. Quy định mới này của Bộ luật hình sự
30
2005 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên đến 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm nghiêm trọng do cố ý như Bộ luật
hình sự 1988 có quy định.
1.4. NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Xuất phát từ sự khác nhau về văn hóa, xã hội, đặc điểm dân cư và tình
hình kinh tế - chính trị của các nước là khác nhau dẫn đến có những quy định
khác biệt trong pháp luật của các quốc gia về căn cứ không được khởi tố vụ
án hình sự.
1.4.1. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga
Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang
Nga về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự như sau:
1. Không được khởi tố vụ án hình sự và đối với vụ án hình sự
đã được khởi tố thì phải đình chỉ theo những căn cứ sau đây:
1) Không có sự việc phạm tội;
2) Hành vi không cấu thành tội phạm;
3) Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
4) Người bị tình nghi hoặc bị can đã chết, trừ những trường
hợp việc tiến hành tố tụng đối với vụ án là cần thiết để minh oan
cho người đã chết;
Nghị quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga số 16-P
ngày 14/7/2011 khẳng định: các quy định liên quan với nhau tại
điểm 4 Điều 24 và điểm 1 Điều 254 Bộ luật này, quy định về việc
người bị tình nghi hoặc bị can đã chết, trừ những trường hợp việc
tiến hành tố tụng đối với vụ án là cần thiết để minh oan cho người
đã chết như một trong những căn cứ đình chỉ vụ án hình sự, bị coi
31
là trái Hiến pháp ở mức độ nếu như các quy định này được áp dụng
để đình chỉ vụ án hình sự do người bị tình nghi (hoặc bị can) đã
chết mà không có sự đồng ý của họ hàng thân thích của họ.
5) Không có yêu cầu của người bị hại, nếu vụ án đó chỉ được
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, trừ những trường hợp quy
định tại khoản 4 Điều 20 Bộ luật này;
6) Không có kết luận của Tòa án về dấu hiệu tội phạm đối
với hành vi của một trong những người quy định tại các điểm 2 và
2.1 khoản 1 Điều 448 Bộ luật này hoặc không có sự đồng ý của Hội
đồng Liên bang (tương đương Thượng nghị viện - ND), Đuma
Quốc gia (tương đương Hạ nghị viện - ND), Tòa án Hiến pháp Liên
bang Nga, Hội đồng thẩm định chức danh Thẩm phán về việc khởi
tố vụ án hình sự hay khởi tố bị can đối với một trong những người
quy định tại các điểm 1 và từ 3 - 5 khoản 1 Điều 448 Bộ luật này.
(Khoản này được sửa đổi theo Luật liên bang số 58/LLB ngày
29/5/2002 và Luật liên bang số 176/LLB ngày 18/7/2009) [48].
Như vậy, so với quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì quy định tại Điều
24 “Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ vụ án hình sự”
trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga có một vài điểm khác biệt sau:
Về hình thức: Nếu như Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003) quy
định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 107, thuộc phần thứ
hai “Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định việc truy tố” và thuộc
chương VIII “Khởi tố vụ án hình sự”, thì Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang
Nga lại quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 24, mục
4 “Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ vụ án hình sự” và
chương I “Những quy định chung”.
32
Về nội dung, về cơ bản thì những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga cũng chính là những
căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam năm 2003 (Điều 107). Tuy nhiên, ở Nga có quy định căn cứ:
Không có yêu cầu của người bị hại, nếu vụ án đó chỉ được khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại; mà ở Việt Nam không có căn cứ không khởi tố này.
Theo em đây là một căn cứ cần thiết và nên đưa vào làm những căn cứ không
khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam. Bởi căn cứ này không chỉ nâng cao bảo
đảm quyền con người trong Bộ luật tố tụng hình sự mà còn thống nhất được
với các điều luật khác trong Bộ luật tố tụng hình sự (như Điều 105)...
Về thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, theo Bộ luật
tố tụng hình sự Việt Nam thì thẩm quyền này thuộc về cơ quan ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, đó là: Cơ quan điều tra, thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên
phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng
các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (khoản 1, Điều 108). Còn Bộ luật tố
tụng hình sự Liên bang Nga lại quy định thẩm quyền ra quyết định không
khởi tố vụ án hình sự tại khoản 1, Điều 145: “1. Trên cơ sở kết quả xem xét
thông tin về tội phạm, Cơ quan điều tra ban đầu, Điều tra viên, Dự thẩm viên
hoặc Thủ trưởng Cơ quan điều tra dự thẩm ra một trong những quyết định
sau...Quyết định không khởi tố vụ án hình sự” [48].
Về thời hạn ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Ở Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam thì thời hạn không khởi tố vụ án chính là thời hạn khởi
tố, theo quy định tại Điều 103 Bộ luật này thì thời hạn là 20 ngày, có trường
hợp ngoại lệ nhưng cũng không được quá 2 tháng. Còn ở Bộ luật tố tụng hình
sự Liên bang Nga thì quy định tại khoản 1 Điều 144, cụ thể:
Điều tra viên, Cơ quan điều tra ban đầu, Dự thẩm viên và
33
Thủ trưởng Cơ quan điều tra dự thẩm có trách nhiệm tiếp nhận,
kiểm tra tin báo về bất kỳ tội phạm nào đã được thực hiện hoặc
chuẩn bị thực hiện và trong phạm vi thẩm quyền do Bộ luật này quy
định ra quyết định trong thời hạn không quá 3 ngày từ khi nhận
được tin báo... và khoản 3 Điều 144: Thủ trưởng Cơ quan Điều tra
dự thẩm, Thủ trưởng Cơ quan điều tra ban đầu có quyền, theo yêu
cầu nêu rõ lý do của Điều tra viên, Dự thẩm viên, gia hạn thời hạn
quy định tại khoản 1 Điều này đến 10 ngày, còn đối với trường hợp
cần phải kiểm tra, xác minh tài liệu, đồ vật, tử thi, thì Thủ trưởng
Cơ quan Điều tra dự thẩm, theo yêu cầu của Dự thẩm viên, cũng
như Kiểm sát viên, theo yêu cầu của Điều tra viên, có quyền gia hạn
đến 30 ngày, nhưng phải nêu rõ nhưng tình tiết cụ thể làm căn cứ
cho việc gia hạn như vậy [48].
1.4.2. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự là đạo luật cơ bản điều chỉnh hoạt động tố tụng hình
sự, liên quan trực tiếp đến việc sắp xếp quyền lực công và đảm bảo quyền lợi
cá nhân, vì vậy từ trước đến nay luôn được coi là “Hiến pháp thu nhỏ”. Từ khi
bắt đầu được ban hành vào năm 1979, sửa đổi lần đầu tiên năm 1996 cho đến
nay, sau 16 năm phát triển nhanh chóng về mọi mặt kinh tế xã hội, những vấn
đề mới và mâu thuẫn mới trong thực tiễn tư pháp ngày càng nhiều và rõ rệt,
yêu cầu luật tố tụng hình sự phải tiếp tục được hoàn thiện [49]. Trên cơ sở luận
chứng đầy đủ, trưng cầu ý kiến rộng rãi, qua ba lần thẩm tra, “Quyết định về
việc sửa đổi <Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa>” đã
được biểu quyết thông qua ngày 14/3/2012 tại kỳ họp thứ năm Đại hội đại
biểu nhân dân toàn quốc khóa XI [10].
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm 5
phần, 290 Điều quy định cụ thể, rõ ràng hoạt động tiến hành tố tụng của các
34
cơ quan tố tụng. Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 110 Bộ
luật này, cụ thể là:
“Điều 110. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan
công an phải nhanh chóng thẩm tra các tài liệu do người báo tin, tố giác, tố
cáo hoặc tự thú cung cấp, nếu thấy có dấu hiệu phạm tội, cần truy cứu trách
nhiệm hình sự thì khởi tố vụ án; nếu thấy không có dấu hiệu phạm tội hoặc vi
phạm không nghiêm trọng, không cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì không
khởi tố vụ án và thông báo lý do không khởi tố vụ án cho người tố cáo. Người
tố cáo nếu không đồng ý, có thể đề nghị xét lại.
Như vậy, nhìn chung giữa Việt Nam và Trung Quốc đều có một cách
nhìn nhận tương đồng khi xác định căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Tuy
nhiên, quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam và
Trung Quốc vẫn có sự khác biệt, cụ thể là:
Về hình thức, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm 8 phần, 37
chương, 346 điều; quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại
Điều 107, thuộc phần thứ hai “Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định
việc truy tố” và thuộc chương VIII “Khởi tố vụ án hình sự”. Còn Bộ luật tố
tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm 5 phần, 290 điều;
những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 110, thuộc
phần thứ hai “Khởi tố, điều tra và truy tố” và thuộc chương I “Khởi tố vụ án”.
Về nội dung, Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
không quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thành các điều
khoản cụ thể trong luật như Việt Nam (Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003). Nếu như ở Việt Nam quy định là 7 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự
thì theo như điều luật trên thì Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 3 căn cứ đó
là: Không có dấu hiệu phạm tội; vi phạm không nghiêm trọng; và không cần
truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ không khởi tố vụ án hình sự.
35
Về thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tại khoản 1,
Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định: “ Khi có một trong
những những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền
khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự,...”, quy định như vậy
có nghĩa là cơ quan nào có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, thì
có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; theo quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì các cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, thủ
trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Còn trong Bộ luật
tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì cơ quan có thẩm quyền
ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 110, đó là 3
cơ quan: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an. Như
vậy, có thể đánh giá sơ bộ là phạm vi thẩm quyền ra quyết định không khởi tố
vụ án hình sự ở Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được quy định mở rộng hơn
so với Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Về thời hạn ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam thì thời hạn không khởi tố vụ án chính là thời hạn khởi tố,
theo quy định tại Điều 103 Bộ luật này thì thời hạn là 20 ngày, có trường hợp
ngoại lệ nhưng cũng không được quá 2 tháng. Còn ở Bộ luật tố tụng hình sự
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại không có quy định cụ thể về thời hạn ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, tùy thuộc vào đặc điểm thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của
từng quốc gia mà pháp luật của từng nước sẽ có những quy định khác nhau về
căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Dù căn cứ vào yếu tố nào, pháp luật các
quốc gia luôn hướng đến việc xem xét một cách đúng đắn nhất đối với hành
vi của người dân để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và cũng không để xảy ra
tình trạng án oan sai đối với người vô tội.
36
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Giải quyết các vụ án hình sự thông qua thủ tục tố tụng hình sự với mục
đích không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ lợi ích của xã hội trước sự xâm phạm của
hành vi tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con người trong
tố tụng hình sự thực chất là hoạt động thực thi công lý của nhà nước mà đại
diện là các cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là hành trình tiếp cận công lý
của người dân. Công lý chỉ được thực thi, người dân chỉ có thể tiếp cận công
lý một cách thuận lợi nhất khi những rào cản, trở ngại về pháp luật được khai
thông. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam với tư cách là một đạo luật chứa
đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tố tụng hình sự trong đó
có hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố đang đứng trước nhiệm vụ cần khắc
phục những bất cập, hạn chế đáp ứng được nhiệm vụ nói trên.
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm phát
hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý một cách công minh mọi hành vi phạm
tội. Trình tự, thủ tục đó được chia thành các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các giai đoạn tố tụng đó nhằm
giải quyết vụ án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn đầu làm
cơ sở pháp lý, là tiền đề cho các hoạt động của giai đoạn sau, giai đoạn sau
kiểm tra kết quả hoạt động của giai đoạn trước, đảm bảo quá trình giải quyết
vụ án hình sự đúng pháp luật quy định [8].
37
Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự đó là
nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều
13 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo nguyên tắc này:
Khi phát hiện dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật
này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ
luật này quy định.
Nguyên tắc này xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự đồng thời cũng xác định rõ
phạm vi thẩm quyền đó được giới hạn bởi những căn cứ và trình tự luật định.
Việc quyết định khởi tố vụ án có ý nghĩa pháp lí rất quan trọng, bằng quyết
định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án, cơ quan tiến hành tố
tụng đã xác định về mặt pháp lí vụ việc nào cần phải xử lí theo tố tụng hình sự
và những vụ việc nào không cần xử lí theo tố tụng hình sự. Vì vậy, để bảo
đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự chính xác, tránh những trường hợp khởi tố
vụ án hình sự thiếu căn cứ, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định những căn cứ
không được khởi tố vụ án hình sự nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có
cơ sở pháp lí khi ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
2.1.1. Trường hợp không có sự việc phạm tội
Sự việc phạm tội là sự việc do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra.
Khi có sự việc phạm tội, cơ quan có thẩm quyền phải khởi tố vụ án hình sự để
tiến hành điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội. trong trường hợp
không có sự việc phạm tội, khởi tố vụ án hình sự sẽ không mang lại ý nghĩa.
Do đó, khi xác định không có sự việc phạm tội thì không được khởi tố vụ án
hình sự. Thông thường có hai trường hợp xác định không có sự việc phạm tội:
38
Một là, có sự việc xảy ra trên thực tế nhưng sự việc đó không phải là
tội phạm, không phải do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra;
Hai là, hoàn toàn không có sự việc xảy ra mà do nguồn tin chỉ là giả
mạo, không thật…
Vì vậy, khi xác định không có sự việc phạm tội, thì không được khởi tố
vụ án hình sự.
2.1.2. Trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu cần và đủ của tội phạm
được quy định một cách chặt chẽ trong Bộ luật hình sự. Theo GS. TS. Nguyễn
Ngọc Hòa quan niệm, “cấu thành tội phạm trong luật hình sự được coi là cơ
sở pháp lý và sự thỏa mãn cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ của
trách nhiệm hình sự” [15, tr.9-10]; v.v...
Chỉ những hành vi có đầy đủ các các dấu hiệu đó mới bị coi là tội
phạm. Bất cứ một hành vi nào dù gây ra những thiệt hại nhất định nhưng
nếu không có hoặc không đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì cũng
không phải là tội phạm và người thực hiện hành vi đó không thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi không đủ các dấu hiệu
trong cấu thành tội phạm theo quy định của luật hình sự. Ví dụ:có hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhưng không được quy định trong luật hình; người thực
hiện hành vi nguy hiểm không có lỗi hoặc không có năng lực chịu trách
nhiệm hình sự; có những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành vi
như: sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết…
Khi xác định hành vi không cấu thành tội phạm thì cơ quan có thẩm
quyền không được khởi tố vụ án hình sự.
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật

More Related Content

What's hot

What's hot (16)

Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nướcĐề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
Đề tài: Quyền con người trong trách nhiệm bồi thường nhà nước
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
 
Đề tài: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HAYĐề tài: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOTĐề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
Đề tài: Pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát tỉnh Đắk Lắk, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOTKiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
Kiểm sát biện pháp tạm giữ, tạm giam theo luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dânĐề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
Đề tài: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền công dân
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 

Similar to Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTOnTimeVitThu
 

Similar to Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật (20)

Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOTĐề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm hoạt động tư pháp trong Luật hình sự, HOT
 
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOTPháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
Pháp luật của tòa án tỉnh Sơn La trong xét xử vụ án về ma túy, HOT
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánĐề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Đề tài: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAYĐề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, HOT
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (19)

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 

Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DUY PHƯƠNG nh÷ng c¨n cø kh«ng ®­îc khëi tè vô ¸n h×nh sù theo luËt tè tông h×nh sù viÖt nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN DUY PHƯƠNG nh÷ng c¨n cø kh«ng ®­îc khëi tè vô ¸n h×nh sù theo luËt tè tông h×nh sù viÖt nam (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Tác giả luận văn Trần Duy Phương
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.........................................................7 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................7 1.1.1. Khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự...............7 1.1.2. Bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự.............................................................................................11 1.2. PHÂN BIỆT NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VỚI NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.....................................................................12 1.2.1. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với căn cứ khởi tố vụ án hình sự ............................................................ 12 1.2.2. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với chế định miễn trách nhiệm hình sự ..................................................16 1.2.3. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với loại trừ trách nhiệm hình sự .............................................................17 1.2.4. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với với các trường hợp không xử lý hình sự...........................................19
  • 5. 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY .............................................................................. 20 1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 .....20 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến nay ...................................................................................26 1.4. NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI........................................................................................30 1.4.1. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.............................................30 1.4.2. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa...........33 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK..........................................................36 2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ..................................................................................36 2.1.1. Trường hợp không có sự việc phạm tội............................................ 37 2.1.2. Trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm................................ 38 2.1.3. Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự .................................................... 39 2.1.4. Trường hợp người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật....................... 43
  • 6. 2.1.5. Trường hợp đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự............... 43 2.1.6. Trường hợp tội phạm được đại xá.................................................... 47 2.1.7. Trường hợp người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác....................... 48 2.2. CÁC QUY ĐỊNH KHÁC CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................48 2.3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .... 52 2.3.1. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk........................................................................................... 52 2.3.2. Thực tiễn áp dụng chế định những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................... 54 2.3.3. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản..........................56 Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ...65 3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ..................65 3.1.1. Về phương diện thực tiễn................................................................. 65 3.1.2. Về phương diện lý luận.................................................................... 67 3.1.3. Về phương diện lập pháp................................................................. 70 3.2. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ...............................73 3.2.1. Nhận xét, đánh giá...........................................................................73
  • 7. 3.2.2. Nội dung hoàn thiện......................................................................... 74 3.3. KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ...88 3.3.1. Về chuyên môn, nghiệp vụ .............................................................. 88 3.3.2. Về tổ chức, cán bộ ...........................................................................91 3.3.3. Về sự tham gia của cơ quan, tổ chức................................................97 KẾT LUẬN............................................................................................... 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 105
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Sự hình thành và phát triển nhân cách con người 41 Bảng 2.2: So sánh độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số nước 42 Bảng 2.3: Phân bố dân số trên địa bàn các huyện ở thành phố Buôn Ma Thuột và một số thị trấn, huyện lỵ ở tỉnh Đắk Lắk 53 Bảng 2.4: Tổng hợp số vụ án được đưa ra khởi tố và số vụ án không đưa ra khởi tố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2010 đến 2014 55
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta xác định một trong những phương hướng trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: …Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người… [2]. Do vậy, nhiệm vụ của các ngành, các cấp trong giai đoạn hiện nay tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ cho công cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội được coi là một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước ta, tiến tới xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền, pháp luật luôn luôn là một công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội, đồng thời pháp luật cũng là một công cụ để củng cố và bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước. Điều đặc biệt hơn chính là quyền con người, quyền công dân được coi trọng và bảo đảm và đã được đề cập trong một Chương II của Hiến pháp mới năm 2013. Mọi hoạt động của Nhà nước, của cá nhân nào đó đi ngược lại với lợi ích hợp pháp của con người, xâm phạm tới quyền công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định đều phải bị lên án và bị xử lý nghiêm khắc. Ngoài ra, Đảng ta đã khẳng định:
  • 10. 2 Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp... [11, tr.80]. Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là một trong những quy định quan trọng của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chính vì thế, việc áp dụng đúng đắn và chính xác các quy phạm của các quy định này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của của việc thực hiện các quy định của luật tố tụng hình sự, đấu tranh phòng và chống tội phạm có hiệu quả, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân bằng pháp luật tố tụng hình sự. Đặc biệt, hoàn thiện các quy định định này còn góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự cũng là một vấn đề rất rộng lớn và phức tạp. Cho đến nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn đề này, vẫn còn nhiều vấn đề chưa thống nhất bởi lẽ chưa đi sâu vào bản chất của nó, chưa nghiên cứu một cách toàn diện về riêng một điều luật cụ thể và các điều luật có liên quan hay áp dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử về vấn đề này. Hiện nay, trên địa bàn cả nước nói chung, địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự như khái niệm, nội dung, những căn cứ để không được khởi tố vụ án hình sự, v.v... Theo đó, hiện tượng oan, sai hay bỏ lọt tội phạm, nhầm lẫn giữa
  • 11. 3 những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với loại trừ trách nhiệm hình sự, với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự... để tránh oan, sai vẫn xảy ra... Do đó, lợi ích của con người, của xã hội và của Nhà nước ở một góc độ nào đó chưa kịp thời được bảo đảm, hiệu quả đấu tranh phòng và chống tội phạm còn chưa cao. Nguyên nhân của tình hình trên là do có sự nhận thức về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự chưa đúng và các cơ quan tiến hành tố tụng không nghiên cứu kỹ các tình tiết của vụ án. Các quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, văn bản giải thích hướng dẫn áp dụng không cụ thể, còn sơ sài không hệ thống. Vì vậy, từ những lý do đã nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Về quy định Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự đã có một số công trình nghiên cứu nhưng chưa nhiều, nội dung nghiên cứu mới chỉ tập trung vào một vài khía cạnh của quy định về: những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu có một phần nội dung trực tiếp đề cập đến quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự chủ yếu là các cuốn: Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Công an nhân dân, năm 2004; cuốn Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (Học viện Khoa học xã hội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, năm 2013) và một số giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật như: Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, năm 2014 do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên); Giáo
  • 12. 4 trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2011 do PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn chủ biên); v.v.... Bên cạnh đó, quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự còn được đề cập một cách trực tiếp trong một số bài viết được đăng trên các tạp chí pháp luật: Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và một số quy định liên quan (TS. Phan Thị Thanh Mai, Tạp chí Luật học số 7/2010); Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về không khởi tố vụ án hình sự (Ths. Hoàng Duy Hiệp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số tháng 8(269)/2014). Tuy nhiên, đến nay thời điểm hiện nay, vẫn chưa có tác giả nào tiếp tục trực tiếp nghiên cứu về vấn đề này dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, đặc biệt từ khi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đang xin ý kiến góp ý sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn một tỉnh cụ thể có tình hình an ninh, trật tự rất cần sự ổn định là địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, việc học viên lựa chọn đề tài: “Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình là có tính cấp bách. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích làm sáng tỏ về mặt lý luận các trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam và việc áp dụng vào thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta, cũng như kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, qua đó, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã nêu, luận văn có phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn về những căn cứ không được khởi tố vụ
  • 13. 5 án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản để đề xuất kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự, đồng thời có những kiến nghị khác nâng cao hiệu quả áp dụng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk). 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: 1) Làm rõ khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, bản chất pháp lý và phân tích các đặc điểm cơ bản, các mối liên hệ của nó với các quy định có liên quan trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam; 2) Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay; 3) Nghiên cứu quy định này trong Bộ luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới để rút ra nhận xét; 4) Phân tích quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân cơ bản; 5) Luận chứng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam;
  • 14. 6 6) Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong đấu tranh phòng và chống tội phạm,… Đồng thời dựa trên những thành tựu của khoa học như: Triết học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Tội phạm học... 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống… để tổng hợp các tri thức khoa học Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trong những năm gần đây trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau: Chương 1: Các vấn đề chung về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự và những kiến nghị.
  • 15. 7 Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự đó là nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo nguyên tắc này: Khi phát hiện dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định [30, tr.10]. Nguyên tắc này xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự đồng thời cũng xác định rõ phạm vi thẩm quyền đó được giới hạn bởi những căn cứ và trình tự luật định. Trong quá trình giải quyết vụ án, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự, cung cấp toàn bộ “nguyên liệu” đầu vào cho quy trình tố tụng. Trong giai đoạn này các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xác định sự việc có hay không có dấu hiệu phạm tội để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự nhằm khẳng định về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra. Việc quyết định khởi tố vụ án có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, bằng quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định về mặt
  • 16. 8 pháp lý vụ việc nào cần phải xử lý theo tố tụng hình sự và những vụ việc nào không cần xử lý theo tố tụng hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Đây là giai đoạn tố tụng đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, có tính chất độc lập bởi giai đoạn này có nhiệm vụ riêng mang đặc thù về chủ thể tố tụng, hành vi tố tụng và văn bản tố tụng [8, tr.293]. Chủ thể có quyền khởi tố vụ án hình sự là những cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự - những văn bản tố tụng đặc trưng của giai đoạn này. Tuy nhiên, tính độc lập của giai đoạn khởi tố vụ án cũng như các giai đoạn khác trong quá trình tố tụng chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau; giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra giai đoạn trước. Quyết định khởi tố vụ án là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện các hoạt động điều tra. Khi chưa có quyết định khởi tố vụ án thì không được tiến hành các hoạt động điều tra cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Quyết định khởi tố vụ án làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự giữa cơ quan có thẩm quyền, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng [8, tr.294]. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Kết thúc giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể là sự khởi đầu cho các giai đoạn tố tụng khác hoặc chấm dứt quá trình tố tụng. Vì thế, việc chứng minh khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn vô cùng quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự để quyết định việc đưa vụ án ra khởi tố hay không khởi tố.
  • 17. 9 Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự có thể là sự hiện diện dấu hiệu của tội phạm. Các dấu hiệu này có thể chưa phản ánh đầy đủ về tội phạm đã xảy ra nhưng là căn cứ để khẳng định rằng cần phải tiến hành tố tụng để làm rõ vụ việc. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, tuy chưa đặt ra yêu cầu cần phải xác định chính xác và đầy đủ, nhưng phải sơ bộ định tội danh phù hợp với tội phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác khởi tố các vụ án hình sự, bên cạnh việc quy định về các căn cứ khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự (Bộ luật tố tụng hình sự 2003) như sau: Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: 1. Không có sự việc phạm tội; 2. Hành vi không cấu thành tội phạm; 3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; 4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; 5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 6. Tội phạm đã được đại xá; 7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác [30, Điều 107]. Nghiên cứu các sách báo pháp lý về tố tụng hình sự cho thấy, không có quan điểm khoa học nào nêu lên khái niệm này. Vì vậy, căn cứ vào quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và thực tiễn xét xử, dưới góc độ khoa học, theo chúng tôi, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện dấu hiệu không phạm tội và khi có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ
  • 18. 10 án hình sự thì cơ quan có thẩm quyền khởi tố không được khởi tố vụ án hình sự, nếu vụ án đã khởi tố thì phải hủy quyết định khởi tố đó. Như vậy, những quy định về căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan khởi tố trong việc kết thúc giai đoạn khởi tố vụ án hình sự khi vụ án đó không có dấu hiệu phạm tội. Đối ngược với những căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện của dấu hiệu phạm tội thì những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là việc đưa ra những căn cứ thể hiện những dấu hiệu không phạm tội trong vụ án. Việc đưa ra những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự này tạo điều kiện thuận lợi cho những cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý để dừng việc điều tra, khởi tố, xét xử một vụ án hình sự khi mà vụ án này không có sự hiện diện của dấu hiệu phạm tội. Dấu hiệu phạm tội là dấu hiệu của hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và những kẻ có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội thì được coi là tội phạm. Vì vậy ở góc độ pháp lý ta có thể hiểu những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là sự hiện diện của dấu hiệu không có tội phạm ở trong một vụ án hình sự. Như chúng ta đã biết, theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 thì: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [26].
  • 19. 11 Do đó, những hành vi của cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự không gây nguy hiểm cho xã hội hay không còn gây nguy hiểm cho xã hội sẽ là dấu hiệu, căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự 1.1.2. Bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự Xuất phát từ nhận thức nêu trên về giai đoạn khởi tố vụ án, những căn cứ khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự, chúng ta có thể nhận thấy, bản chất pháp lý của giai đoạn này là ở chỗ: Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó. Như vậy, bản chất pháp lý của những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là những dấu hiệu để cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc giai đoạn khởi tố và chấm dứt quá trình tố tụng, tức là khi xét thấy vụ án thỏa mãn một trong các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ dừng việc chứng minh khởi tố và không đưa vụ án đó ra xét xử. Với bản chất pháp lý đặc trưng này thì những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là lý do, căn cứ xác đáng cho các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra để kết thúc vụ án hình sự ở các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng. Những dấu hiệu của việc không phạm tội này có thể xuất hiện ngay khi mới bắt đầu vào vụ án (xét thấy người gây hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự) hoặc xuất hiện ở những phút cuối trong giai đoạn tố tụng (người phạm tội chết trong quá trình tố tụng) nhưng chỉ cẩn khi
  • 20. 12 xuất hiện những căn cứ này thì nó sẽ là cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng dừng ngay việc khởi tố vụ án hình sự. Việc ban hành quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự đã tạo nên một cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng đưa ra các căn cứ pháp lý để giải quyết các vụ án hình sự không có sự hiện diện dấu hiệu phạm tội, nhanh chóng kép hồ sơ của những vụ án mà không có tội phạm hay không còn tội phạm. Những căn cứ này không chỉ giúp cho các cơ quan tố tụng dễ dàng hơn khi đưa ra kết luận có khởi tố vụ án hình sự hay không mà nó còn giúp cho Nhà nước tiết kiệm được kinh phí, thời gian mà vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước với xã hội. 1.2. PHÂN BIỆT NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VỚI NHỮNG KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với căn cứ khởi tố vụ án hình sự Căn cứ để khởi tố vụ vụ án hình sự và căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự đều là sự hiện diện của dấu hiệu để từ đó cơ quan tiến hành tố tụng và kết thúc giai đoạn khởi tố vụ án. Tuy nhiên kết quả của những căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự là việc chấm dứt quá trình tố tụng và kết quả của những căn cứ khởi tố vụ án hình sự là sự khởi đầu cho các giai đoạn tố tụng khác. Vụ án hình sự chỉ có thể được khởi tố khi có căn cứ theo luật định. Theo đó, căn cứ vào Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định các căn cứ để khởi tố vụ án hình sự như sau: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu của tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
  • 21. 13 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; 4. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội Biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; 5. Người phạm tội tự thú [30, tr.67]. Như vậy, điều luật quy định khả năng duy nhất cho phép khởi tố vụ án chính là khi xác định có “dấu hiệu của tội phạm”. Dấu hiệu tội phạm chính là những tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội nói chung, chưa phải tài liệu về người phạm tội cụ thể nào và thực tế cho thấy có những trường hợp lúc đầu mới chỉ biết những thông tin về sự kiện nhưng khi kiểm tra thì sự kiện đó không đủ dấu hiệu tội phạm. Có dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ cần và đủ để khởi tố vụ án hình sự. Dấu hiệu tội phạm được xác định trên cơ sở những thông tin thu được từ những nguồn nhất định. Điều luật quy định 5 nguồn thông tin cụ thể làm cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm. Khi nhận được sự tố giác hay tin báo về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải kiểm tra nhằm xác định có dấu hiệu tội phạm hay không và có những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự hay không để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Chỉ sau khi đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì mới được thực hiện các hoạt động tố tụng khác như bắt người, khám xét… Điều luật không quy định yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại là căn cứ độc lập để khởi tố. Bởi một số tội phạm, trong khoản 1 của điều luật có quy định chỉ khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại (các tội được quy
  • 22. 14 định tại khoản 1 của các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131, 171 của Bộ luật hình sự). Điều này không xuất phát từ sự khác biệt nào về bản chất của thông tin ban đầu làm cơ sở để xác định căn cứ khởi tố vụ án so với sợ tố giác của công dân. Trường hợp đó, cơ sở để xác định căn cứ khởi tố được coi như là sự tố giác về tội phạm của công dân. Yêu cầu của người bị hại được hiểu như nguồn tin “tố giác của công dân”. Như vậy, những quy định đã nêu trên là những căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Stt Tiêu chí Căn cứ khởi tố vụ án hình sự Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự 1 Quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Quy định tại Điều 100, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, quy định căn cứ khởi tố vụ án hình sự và cơ sở để xác định căn cứ đó. Quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, gồm 7 căn cứ, mỗi căn cứ tương ứng với một khoản cụ thể quy định trong điều này. 2 Bản chất pháp lý Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự chỉ có thể là sự hiện diện dấu hiệu của tội phạm. Các dấu hiệu này có thể chưa phản ánh đầy đủ về tội phạm đã xảy ra, nhưng là căn cứ để khẳng định rằng cần phải tiến hành tố tụng để làm rõ vụ việc. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Đó là căn cứ duy nhất để khởi tố vụ án hình sự. Để quyết định khởi tố vụ án Căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự bao gồm 7 căn cứ. Chỉ và chỉ khi xuất hiện 1 trong 7 căn cứ trên thì mới ra quyết định không được khởi tố vụ án hình sự. Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền dựa vào đó mà ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
  • 23. 15 hình sự cần xác định: Có sự việc xảy ra; và sự việc đó có dấu hiệu tội phạm. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự cũng là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dựa vào đó mà ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. 3 Vai trò, ý nghĩa Không bỏ lọt người, lọt tội; Phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm công lý được thực thi, duy trì trật tự, an toàn xã hội đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích của công dân. Phòng ngừa việc khởi tố vụ án hình sự một cách thiếu chính xác, không đúng căn cứ pháp luật mang lại những hậu quả xấu cho công dân và xã hội. 4 Hậu quả pháp lý Khi xác định có dấu hiệu tội phạm theo quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, hậu quả pháp lý của khởi tố vụ án hình sự là làm phát sinh các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra. Khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; hoặc nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, hậu quả pháp lý của không khởi tố vụ án hình sự là không làm phát sinh các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra
  • 24. 16 1.2.2. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với chế định miễn trách nhiệm hình sự Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý và là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định đối với người phạm tội [51, tr.224]. Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý mà bản thân người phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước do việc thực hiện hành vi phạm tội. Nhà nước có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với người phạm tội. Hậu quả là người phạm tội bị áp dụng biện pháp cưỡng chế (hình phạt, biện pháp tư pháp) của Luật hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội [50, tr.97]. Bản chất pháp lý của chế định miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, tức là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của nhà nước (cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) căn cứ vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể để miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Khác với căn cứ không khởi tố vụ án là khi có dấu hiệu không phạm tội và khi có một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan khởi tố không được khởi tố vụ án hình sự, hậu quả pháp lý của nó là vụ án hình sự sẽ làm chấm dứt giai đoạn khởi tố. Còn miễn trách nhiệm hình sự là khi vụ án hình sự đã được đưa ra xét xử và đã có hành vi phạm tội nhưng được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp nhất định chứ không phải người không phạm tội. Việc miễn trách nhiệm hình sự có thể do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng.
  • 25. 17 1.2.3. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với loại trừ trách nhiệm hình sự Nghiên cứu Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành cho thấy, thuật ngữ “loại trừ trách nhiệm hình sự” duy nhất được sử dụng tại đoạn 2 Điều 53 Bộ luật hình sự (“Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm”). Ngoài ra, trong Bộ luật hình sự còn sử dụng một số thuật ngữ có nội dung tương đương và gắn với từng trường hợp cụ thể (mặc dù nội hàm chưa đồng nhất) như: “không phải là tội phạm”; “không phải chịu trách nhiệm hình sự”; “không có tội”; v.v... khi đề cập đến hậu quả pháp lý của mỗi trường hợp tương ứng trong Bộ luật này như sau: - Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể - thì không phải là tội phạm (khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự); - Sự kiện bất ngờ - thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều 11 Bộ luật hình sự). - Người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện - thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (quy định gián tiếp trong Điều 12 Bộ luật hình sự). - Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự - thì không phải chịu trách nhiệm hình sự (Khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự). - Phòng vệ chính đáng - thì không phải là tội phạm (Điều 15 Bộ luật hình sự). - Tình thế cấp thiết - thì không phải là tội phạm (Điều 16 Bộ luật hình sự). Đặc biệt, trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, các nhà làm luật nước ta còn quy định một trường hợp được coi là “không có tội”: “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ” (khoản 6 Điều 289) v.v…
  • 26. 18 Như vậy, về cơ bản, các nhà lý luận, thực tiễn đều quan niệm những tình tiết trên là các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do trách nhiệm hình sự quy định (mặc dù còn một số tình tiết vẫn đang tranh luận). Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ chưa thống nhất này với từng trường hợp cụ thể và xét về tổng thể thì giữa các thuật ngữ đã nêu không có gì mâu thuẫn. Bởi lẽ, suy cho cùng, thì hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau - họ không phải chịu trách nhiệm hình sự, có nghĩa được loại trừ trách nhiệm hình sự. Nói một cách khác, khi đề cập đến trách nhiệm hình sự với tư cách là hậu quả pháp lý của tội phạm, trong thực tế bao giờ cũng dẫn đến ba khả năng đối với một người - phải chịu trách nhiệm hình sự, được miễn trách nhiệm hình sự hay không phải chịu trách nhiệm hình sự, có nghĩa là được loại trừ trách nhiệm hình sự. Do đó, dưới góc độ khoa học, loại trừ trách nhiệm hình sự là trường hợp một người đã có hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Nói một cách khác, trong hành vi của một người khi thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hộ do không thỏa mãn ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên tính chất tội phạm của hành vi đó được loại trừ, và logic tương ứng người thực hiện nó không phải chịu trách nhiệm hình sự hay được loại trừ trách nhiệm hình sự. Như vậy, có thể thấy điểm khác biệt giữa căn cứ không khởi tố vụ án hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự là căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là hiện diện ở giai đoạn đầu của tố tụng vụ án hình sự, nó là căn cứ chứng minh để kết thúc vụ án và không đưa vụ án ra xét xử còn loại trừ trách nhiệm hình xuất hiện khi vụ án đã được đem ra xét xử và trong trường hợp người đã
  • 27. 19 có hành vi gây thiệt hại cho xã hội nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này. 1.2.4. Phân biệt những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự với với các trường hợp không xử lý hình sự Khác với những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự là những căn cứ để không đưa vụ án ra xử lý hình sự theo quy định của pháp luật. Những trường hợp không xử lý hình sự là một vụ án hình sự đã đủ điều kiện để đưa ra khởi tố và trong quá trình tố tụng đối chiếu với các quy định của Bộ luật hình sự thì hành vi gây nguy hiểm cho xã hội đó không bị xử lý hình sự. Tại khoản 3 điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định “Không được khởi tố vụ án hình sự khi có căn cứ: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và tại Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. - Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [26, Điều 12]. Như vậy đối chiếu với các quy định của pháp luật thì khi một người chưa đủ 14 tuổi phạm tội thì chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đó là căn cứ để không được khởi tố vụ án hình sự. Nhưng nếu người đó đã từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì vụ án đó sẽ được đưa ra khởi tố theo đúng trình tự và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình tố tụng nếu xét thấy hành vi phạm tội đó không phải là tội phạm rất nghiệm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì người gây ra hành vi nguy hiểm cho xã hội đó không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình.
  • 28. 20 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY 1.3.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế nước ta vốn lệ thuộc vào thực dân Pháp, bị tàn phá trong chiến tranh, giê đây rất kiệt quệ, tiêu điều. Nghiêm trọng và cấp bách hơn cả là nạn ngoại xâm. Ở miền Bắc, khoảng hơn 200.000 quân Tưởng Giới Thạch mượn danh nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, nhưng dã tâm của chúng là lật đổ chính quyền nhân dân để lập một Chính phủ phản động làm tay sai cho chóng. Ở miền Nam, thực dân Pháp và bọn can thiệp Anh chiếm Sài Gòn và mở rộng chiến tranh, tìm cách xâm chiếm các tỉnh ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Trong tình hình đó, Đảng ta xác định giữ vững chính quyền là nhiệm vụ hàng đầu, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đảng ta đã giữ vững được chính quyền, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị gấp rút về mọi mặt, trước khi bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Mặc dù phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, hoạt động lập pháp nói chung, lập pháp tố tụng hình sự nói riêng vẫn được Nhà nước ta quan tâm, khi hoạt động tố tụng chưa được quy định thành một bộ luật cụ thể nhưng được thể hiện thông qua các Sắc lệnh của Chính phủ Việt Nam lâm thời. Các quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự cũng chưa được cụ thể hóa thành một điều khoản cụ thể nào [39, tr.15]. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn
  • 29. 21 diện, khắc phục từng bước những sai lầm, khuyết điểm trước đây, mở ra những hướng mới, nhằm thoát khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Trước hết, chúng ta tiến hành đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nhằm khắc phục những nhận thức đơn giản và tư duy lý luận lạc hậu. Đồng thời, chúng ta tiến hành đổi mới về cơ chế và chính sách kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng, phát triển sản xuất. Kiên quyết và dứt khoát xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, từng bước hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Chính sách kinh tế mới đã động viên, khuyến khích, phát huy khả năng của toàn xã hội, tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống chung của xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực trên, cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực mới, bất công xã hội tăng lên, pháp luật, kỷ cương bị buông lỏng; tình trạng oan sai, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trong điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án diễn biến phức tạp. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật tố tụng hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Chính vì vậy, việc ban hành Bộ luật tố tụng hình sự là vấn đề mang tính khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1989 (sau đây gọi tắt là Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988). Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Bộ luật đã kế
  • 30. 22 thừa và phát triển những thành tựu của luật tố tụng hình sự Việt Nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám đến nay, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 gồm 7 phần, 32 chương với 286 điều. Trong đó tại Điều 89, chương VII, phần 2 đã đưa ra bảy căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự. Cụ thể như sau: Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây: - Không có sự việc phạm tội; - Hành vi không cấu thành tội phạm; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; - Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực của pháp luật; - Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; - Tội phạm đã được đại xá; - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm người khác. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp hình sự, là sự thể chế hóa đường lối đổi mới trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra. Sự ra đời của Bộ luật đã đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta, đã nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt trong đó những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự
  • 31. 23 đã được quy định cụ thể làm một điều riêng của Bộ luật tố tụng hình sự là một bước đổi mới để hoàn thiện hơn trong công tác tố tụng cũng như việc hỗ trợ cho hoạt động tố tụng hình sự của nước ta. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để nhanh chóng kết thúc vụ án khi thỏa mãn một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. Nhìn vào mặt kinh tế và xã hội chúng ta có thể thấy quy định này đã giúp cho nhà nước tiết kiệm được chi phí điều tra và xét xử tuy nhiên, cũng bảo đảm cho việc xét xử đúng người đúng tội góp phần giữ vững an ninh và trật tự xã hội. Bên cạnh quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự Bộ luật tố tụng hình sự 1988 còn đưa ra rất nhiều những quy định liên quan khác như: Điều 86. Nhiệm vụ giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm Trong thời hạn không quá hai mươi ngày kể từ khi nhận được tố giác hoặc tin báo, Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Trong trường hợp sự việc bị tố giác hoặc tin báo có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng [25]. Trong quy định này nêu rõ về thời gian cho các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xác minh nguồn tin tố giác tội phạm và nếu thấy thỏa mãn một trong những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định dừng khởi tố vụ án. Việc xác minh nguồn tin để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự này là 20 ngày kể từ ngày nhận được nguồn tin tố giác, trong trường hợp nguồn tin có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng. Có thể thấy tại thời điểm này bộ luật tố tụng hình sự đã có những giới hạn cho các cơ
  • 32. 24 quan tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự khi nhận được tin tố giác của công dân đê tránh kéo dài thời gian cho việc giải quyết một vụ án. Vì vậy, việc ban hành ra quy định về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự vào thời điểm này là một trong những công cụ hỗ trợ lớn cho công tác điều tra và khởi tố của các cơ quan tố tụng của nước ta. Bởi vì từ quy định này mà cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để dừng điều tra vụ án nhanh chóng và đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1998 cũng có nêu ra việc việc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng. Theo đó khi có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định tài Điều 89 Bộ luật tố tụng hình sự thì cơ quan có quyền khởi tố ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải huỷ bỏ quyết định khởi tố và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan hoặc tổ chức hữu quan giải quyết. Như vậy, quy định về căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự sẽ là căn cứ để cơ quan có quyền khởi tố tụng ra quyết định khởi tố và là lý do để cơ quan có quyền khởi tố trả lời cho các cơ quan có thẩm quyền khác và cá nhân báo tin về tội phạm biết về quyết định không khởi tố của mình Năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Việt Nam ra đời và sau đó mãi đến năm 1988 Bộ luật tố tụng hình đầu tiên mới được ban hành. Việc ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã phát huy ngày càng tốt công tác tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng và các quy định trong bộ luật hình sự 1985 cũng được thực thi triệt để hơn. Cụ thể trong bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 có những quy định như sau: Tuổi chịu trách nhiệm hình sự 1. Người từ 14 tuổi trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý.
  • 33. 25 2. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm [25, Điều 58]. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự 1. Không truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tính từ ngày tội phạm được thực hiện đã qua những thời hạn sau đây: a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn; b) Mười năm tù đối với các loại tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt tù trên hai năm; c) Mười lăm năm đối với các loại tội phạm nghiêm trọng. Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định thì hình phạt từ một năm tù trở lên thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ tính lại kể từ ngày phạm tội mới. Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh không được tính; thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ. 2. Đối với những trường hợp nói ở điểm c khoản 1 Điều này nếu có lý do đặc biệt thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự và Tòa án nhân dân tối cao có thể quyết định không áp dụng thời hiệu [25, Điều 45]. Với những quy định nêu trên của Bộ luật hình sự năm 1985 đã làm cơ sở pháp lý để cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở rõ ràng khi đưa ra căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ như một người phạm tội mà chưa đủ 14 tuổi thì sẽ làm căn cứ để không khởi tố vụ án hình sự vì theo quy định của bộ luật hình sự thì người dưới 14 tuổi không nằm trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đối chiếu với quy định về căn cứ không khởi tố vụ án hình
  • 34. 26 sự thì khi người phạm tội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì sẽ không được khởi tố hình sự. Nhìn chung ở giai đoạn này chúng ta thấy mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của chúng ta ra đời sau Bộ luật hình sự nhưng hai bộ luật này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng hỗ trợ rất nhiều cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của nước ta vào thời điểm bấy giờ. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến nay Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Bộ luật đã phát huy tác dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm kỷ cương, phép nước. Ngày 30/6/1990, tại kỳ họp thứ bảy, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung 03 điều của Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể như sau: Điều 42a. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự, Điều 168a. Thời hạn hoãn phiên tòa, Điều 215a. Việc Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; sửa đổi, bổ sung 35 điều luật. Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đã nảy sinh một số vướng mắc liên quan đến người làm chứng, kê biên tài sản, bắt giam người bị kết án tại phiên tòa phúc thẩm, tiếp tục tạm giam bị cáo trong trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại… Để giải quyết những vướng mắc đó, ngày 22/12/1992, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung 3 điều mới. Cụ thể như sau: Điều 143a. Trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Điều 143b. Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ
  • 35. 27 vụ án, Điều 160a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm; sửa đổi, bổ sung 5 điều. Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988 và được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 30/6/1990 và ngày 22/12/1992 [26]. Tuy nhiên, do Bộ luật hình sự mới đã được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000, có một số nội dung mới trực tiếp liên quan đến các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, nên Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự đã được Quốc hội thông qua ngày 9/6/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000 nhằm thi hành Bộ luật hình sự năm 1999 và giải quyết kịp thời một số vấn đề bức xúc mà thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đặt ra, mà ý kiến của các cơ quan hữu quan tương đối thống nhất. Cụ thể, Bộ luật tố tụng hình sự đã sửa đổi bổ sung 2 điều mới: Điều 10a. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Điều 234a. Thi hành hình phạt trục xuất; bỏ khoản 3, 4 Điều 145. Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, bỏ điều 160a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm; bỏ điểm a khoản 1 Điều 226. Những bản án và quyết định được thi hành; sửa đổi, bổ sung 21 điều luật và sửa đổi số điều, khoản của Bộ luật hình sự năm 1985 được viện dẫn trong Bộ luật tố tụng hình sự thành số điều, khoản tương ứng của Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy, cho đến nay sau nhiều lần sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự của nước ta ngày càng hoàn thiện, phù hợp hơn và góp phần giữ gìn an ninh, trật tự xã hội trong bối cảnh đất nước đang hội nhập, mở rộng kinh tế phát triển đất nước. Tuy nhiên, quy định về những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự vẫn không có sửa đổi, bổ sung nào. Hiện nay, trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự được
  • 36. 28 quy đinh cụ thể tại Điều 107 và nó vẫn giữ nguyên 07 căn cứ giống như với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 [28]. Có thể thấy trên thực tế áp dụng những căn cứ này có một vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ cho các cơ quan hoạt động tố tụng của chúng ta và vẫn đang phát huy được tốt vai trò của mình trong bối cảnh xã hội đang ngày càng phát triển và tình hình tội phạm đang ngày càng diễn biến phức tạp.Tuy nhiên những quy định liên quan đến những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự đã được bổ sung sửa đổi thêm. Cụ thể tại điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định về thẩm quyền quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoản 2 Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về thời hạn để kiểm tra, xác minh nguồn tin tố giác tội phạm để ra quyết định có khởi tố vụ án hình sự hay không khởi tố vụ án hình sự. Và quy định về việc quyết định khởi tố vụ án hình sự cũng có sự thay đổi so với bộ luật tố tụng hình sự 1988. Theo đó tại Điều 90 Bộ luật tố tụng hình sự 1988 có nêu: “Khi có một trong những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan khởi tố có quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự…” [26] còn tại Khoản 1 Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì quy định “khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự…” [30]. Như vậy tại Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 chỉ nói chung chung về cơ quan khởi tố có quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự còn bộ luật tố tụng hình sự thì nêu cụ thể là người có quyền khởi tố vụ án hình sự ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Ngoài ra khoản 1 Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 còn đưa ra quy định thêm: “Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan phải được gửi cho
  • 37. 29 Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định” [30]. Với quy định này thì trong vòng 24 giờ kể từ khi có quyết định không khởi tố vụ án hình sự thì Viện kiểm sát sẽ nắm được tình hình vụ án hình sự đó đã được ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự nữa. Và song hành cùng với việc ban hành ra bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là Bộ luật hình sự 2005. Bộ luật hình sự cũng có những sửa đổi bổ sung so với Bộ luật hình sự năm 1985 về những quy định liên quan đến căn cứ không khởi tố hình sự. Tại khoản 2 và khoản 3 Điều 23 quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự có nêu: 2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng; d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới. Tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [27]. Như vậy khác với quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm 1985: “Người từ 14 tuổi trở lên những chưa đủ 16 tuổi phải trách nhiệm hình sự về những tội phạm nghiêm trọng do cố ý” [25]. Quy định mới này của Bộ luật hình sự
  • 38. 30 2005 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên đến 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng chứ không phải là tội phạm nghiêm trọng do cố ý như Bộ luật hình sự 1988 có quy định. 1.4. NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Xuất phát từ sự khác nhau về văn hóa, xã hội, đặc điểm dân cư và tình hình kinh tế - chính trị của các nước là khác nhau dẫn đến có những quy định khác biệt trong pháp luật của các quốc gia về căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. 1.4.1. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga Theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga về các căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự như sau: 1. Không được khởi tố vụ án hình sự và đối với vụ án hình sự đã được khởi tố thì phải đình chỉ theo những căn cứ sau đây: 1) Không có sự việc phạm tội; 2) Hành vi không cấu thành tội phạm; 3) Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; 4) Người bị tình nghi hoặc bị can đã chết, trừ những trường hợp việc tiến hành tố tụng đối với vụ án là cần thiết để minh oan cho người đã chết; Nghị quyết của Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga số 16-P ngày 14/7/2011 khẳng định: các quy định liên quan với nhau tại điểm 4 Điều 24 và điểm 1 Điều 254 Bộ luật này, quy định về việc người bị tình nghi hoặc bị can đã chết, trừ những trường hợp việc tiến hành tố tụng đối với vụ án là cần thiết để minh oan cho người đã chết như một trong những căn cứ đình chỉ vụ án hình sự, bị coi
  • 39. 31 là trái Hiến pháp ở mức độ nếu như các quy định này được áp dụng để đình chỉ vụ án hình sự do người bị tình nghi (hoặc bị can) đã chết mà không có sự đồng ý của họ hàng thân thích của họ. 5) Không có yêu cầu của người bị hại, nếu vụ án đó chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, trừ những trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 20 Bộ luật này; 6) Không có kết luận của Tòa án về dấu hiệu tội phạm đối với hành vi của một trong những người quy định tại các điểm 2 và 2.1 khoản 1 Điều 448 Bộ luật này hoặc không có sự đồng ý của Hội đồng Liên bang (tương đương Thượng nghị viện - ND), Đuma Quốc gia (tương đương Hạ nghị viện - ND), Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga, Hội đồng thẩm định chức danh Thẩm phán về việc khởi tố vụ án hình sự hay khởi tố bị can đối với một trong những người quy định tại các điểm 1 và từ 3 - 5 khoản 1 Điều 448 Bộ luật này. (Khoản này được sửa đổi theo Luật liên bang số 58/LLB ngày 29/5/2002 và Luật liên bang số 176/LLB ngày 18/7/2009) [48]. Như vậy, so với quy định về những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì quy định tại Điều 24 “Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ vụ án hình sự” trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga có một vài điểm khác biệt sau: Về hình thức: Nếu như Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003) quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 107, thuộc phần thứ hai “Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định việc truy tố” và thuộc chương VIII “Khởi tố vụ án hình sự”, thì Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga lại quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 24, mục 4 “Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc đình chỉ vụ án hình sự” và chương I “Những quy định chung”.
  • 40. 32 Về nội dung, về cơ bản thì những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga cũng chính là những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 (Điều 107). Tuy nhiên, ở Nga có quy định căn cứ: Không có yêu cầu của người bị hại, nếu vụ án đó chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại; mà ở Việt Nam không có căn cứ không khởi tố này. Theo em đây là một căn cứ cần thiết và nên đưa vào làm những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam. Bởi căn cứ này không chỉ nâng cao bảo đảm quyền con người trong Bộ luật tố tụng hình sự mà còn thống nhất được với các điều luật khác trong Bộ luật tố tụng hình sự (như Điều 105)... Về thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, theo Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì thẩm quyền này thuộc về cơ quan ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, đó là: Cơ quan điều tra, thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (khoản 1, Điều 108). Còn Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga lại quy định thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự tại khoản 1, Điều 145: “1. Trên cơ sở kết quả xem xét thông tin về tội phạm, Cơ quan điều tra ban đầu, Điều tra viên, Dự thẩm viên hoặc Thủ trưởng Cơ quan điều tra dự thẩm ra một trong những quyết định sau...Quyết định không khởi tố vụ án hình sự” [48]. Về thời hạn ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Ở Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì thời hạn không khởi tố vụ án chính là thời hạn khởi tố, theo quy định tại Điều 103 Bộ luật này thì thời hạn là 20 ngày, có trường hợp ngoại lệ nhưng cũng không được quá 2 tháng. Còn ở Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga thì quy định tại khoản 1 Điều 144, cụ thể: Điều tra viên, Cơ quan điều tra ban đầu, Dự thẩm viên và
  • 41. 33 Thủ trưởng Cơ quan điều tra dự thẩm có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra tin báo về bất kỳ tội phạm nào đã được thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện và trong phạm vi thẩm quyền do Bộ luật này quy định ra quyết định trong thời hạn không quá 3 ngày từ khi nhận được tin báo... và khoản 3 Điều 144: Thủ trưởng Cơ quan Điều tra dự thẩm, Thủ trưởng Cơ quan điều tra ban đầu có quyền, theo yêu cầu nêu rõ lý do của Điều tra viên, Dự thẩm viên, gia hạn thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này đến 10 ngày, còn đối với trường hợp cần phải kiểm tra, xác minh tài liệu, đồ vật, tử thi, thì Thủ trưởng Cơ quan Điều tra dự thẩm, theo yêu cầu của Dự thẩm viên, cũng như Kiểm sát viên, theo yêu cầu của Điều tra viên, có quyền gia hạn đến 30 ngày, nhưng phải nêu rõ nhưng tình tiết cụ thể làm căn cứ cho việc gia hạn như vậy [48]. 1.4.2. Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Luật tố tụng hình sự là đạo luật cơ bản điều chỉnh hoạt động tố tụng hình sự, liên quan trực tiếp đến việc sắp xếp quyền lực công và đảm bảo quyền lợi cá nhân, vì vậy từ trước đến nay luôn được coi là “Hiến pháp thu nhỏ”. Từ khi bắt đầu được ban hành vào năm 1979, sửa đổi lần đầu tiên năm 1996 cho đến nay, sau 16 năm phát triển nhanh chóng về mọi mặt kinh tế xã hội, những vấn đề mới và mâu thuẫn mới trong thực tiễn tư pháp ngày càng nhiều và rõ rệt, yêu cầu luật tố tụng hình sự phải tiếp tục được hoàn thiện [49]. Trên cơ sở luận chứng đầy đủ, trưng cầu ý kiến rộng rãi, qua ba lần thẩm tra, “Quyết định về việc sửa đổi <Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa>” đã được biểu quyết thông qua ngày 14/3/2012 tại kỳ họp thứ năm Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa XI [10]. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm 5 phần, 290 Điều quy định cụ thể, rõ ràng hoạt động tiến hành tố tụng của các
  • 42. 34 cơ quan tố tụng. Những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 110 Bộ luật này, cụ thể là: “Điều 110. Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an phải nhanh chóng thẩm tra các tài liệu do người báo tin, tố giác, tố cáo hoặc tự thú cung cấp, nếu thấy có dấu hiệu phạm tội, cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì khởi tố vụ án; nếu thấy không có dấu hiệu phạm tội hoặc vi phạm không nghiêm trọng, không cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì không khởi tố vụ án và thông báo lý do không khởi tố vụ án cho người tố cáo. Người tố cáo nếu không đồng ý, có thể đề nghị xét lại. Như vậy, nhìn chung giữa Việt Nam và Trung Quốc đều có một cách nhìn nhận tương đồng khi xác định căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam và Trung Quốc vẫn có sự khác biệt, cụ thể là: Về hình thức, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam gồm 8 phần, 37 chương, 346 điều; quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự tại Điều 107, thuộc phần thứ hai “Khởi tố, điều tra vụ án hình sự và quyết định việc truy tố” và thuộc chương VIII “Khởi tố vụ án hình sự”. Còn Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm 5 phần, 290 điều; những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 110, thuộc phần thứ hai “Khởi tố, điều tra và truy tố” và thuộc chương I “Khởi tố vụ án”. Về nội dung, Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không quy định những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thành các điều khoản cụ thể trong luật như Việt Nam (Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003). Nếu như ở Việt Nam quy định là 7 căn cứ không khởi tố vụ án hình sự thì theo như điều luật trên thì Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có 3 căn cứ đó là: Không có dấu hiệu phạm tội; vi phạm không nghiêm trọng; và không cần truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ không khởi tố vụ án hình sự.
  • 43. 35 Về thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tại khoản 1, Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định: “ Khi có một trong những những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự,...”, quy định như vậy có nghĩa là cơ quan nào có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, thì có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; theo quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì các cơ quan đó là: Cơ quan điều tra, thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Còn trong Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự được quy định tại Điều 110, đó là 3 cơ quan: Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an. Như vậy, có thể đánh giá sơ bộ là phạm vi thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự ở Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam được quy định mở rộng hơn so với Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Về thời hạn ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam thì thời hạn không khởi tố vụ án chính là thời hạn khởi tố, theo quy định tại Điều 103 Bộ luật này thì thời hạn là 20 ngày, có trường hợp ngoại lệ nhưng cũng không được quá 2 tháng. Còn ở Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lại không có quy định cụ thể về thời hạn ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, tùy thuộc vào đặc điểm thể chế chính trị, kinh tế - xã hội của từng quốc gia mà pháp luật của từng nước sẽ có những quy định khác nhau về căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Dù căn cứ vào yếu tố nào, pháp luật các quốc gia luôn hướng đến việc xem xét một cách đúng đắn nhất đối với hành vi của người dân để bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và cũng không để xảy ra tình trạng án oan sai đối với người vô tội.
  • 44. 36 Chương 2 CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1. CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NHỮNG CĂN CỨ KHÔNG ĐƯỢC KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ Giải quyết các vụ án hình sự thông qua thủ tục tố tụng hình sự với mục đích không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ lợi ích của xã hội trước sự xâm phạm của hành vi tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự thực chất là hoạt động thực thi công lý của nhà nước mà đại diện là các cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là hành trình tiếp cận công lý của người dân. Công lý chỉ được thực thi, người dân chỉ có thể tiếp cận công lý một cách thuận lợi nhất khi những rào cản, trở ngại về pháp luật được khai thông. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam với tư cách là một đạo luật chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động tố tụng hình sự trong đó có hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố đang đứng trước nhiệm vụ cần khắc phục những bất cập, hạn chế đáp ứng được nhiệm vụ nói trên. Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý một cách công minh mọi hành vi phạm tội. Trình tự, thủ tục đó được chia thành các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các giai đoạn tố tụng đó nhằm giải quyết vụ án hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn đầu làm cơ sở pháp lý, là tiền đề cho các hoạt động của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra kết quả hoạt động của giai đoạn trước, đảm bảo quá trình giải quyết vụ án hình sự đúng pháp luật quy định [8].
  • 45. 37 Một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự đó là nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng hình sự. Theo nguyên tắc này: Khi phát hiện dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định. Nguyên tắc này xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự đồng thời cũng xác định rõ phạm vi thẩm quyền đó được giới hạn bởi những căn cứ và trình tự luật định. Việc quyết định khởi tố vụ án có ý nghĩa pháp lí rất quan trọng, bằng quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng đã xác định về mặt pháp lí vụ việc nào cần phải xử lí theo tố tụng hình sự và những vụ việc nào không cần xử lí theo tố tụng hình sự. Vì vậy, để bảo đảm cho việc khởi tố vụ án hình sự chính xác, tránh những trường hợp khởi tố vụ án hình sự thiếu căn cứ, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lí khi ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. 2.1.1. Trường hợp không có sự việc phạm tội Sự việc phạm tội là sự việc do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra. Khi có sự việc phạm tội, cơ quan có thẩm quyền phải khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra, làm rõ tội phạm và người phạm tội. trong trường hợp không có sự việc phạm tội, khởi tố vụ án hình sự sẽ không mang lại ý nghĩa. Do đó, khi xác định không có sự việc phạm tội thì không được khởi tố vụ án hình sự. Thông thường có hai trường hợp xác định không có sự việc phạm tội:
  • 46. 38 Một là, có sự việc xảy ra trên thực tế nhưng sự việc đó không phải là tội phạm, không phải do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra; Hai là, hoàn toàn không có sự việc xảy ra mà do nguồn tin chỉ là giả mạo, không thật… Vì vậy, khi xác định không có sự việc phạm tội, thì không được khởi tố vụ án hình sự. 2.1.2. Trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu cần và đủ của tội phạm được quy định một cách chặt chẽ trong Bộ luật hình sự. Theo GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa quan niệm, “cấu thành tội phạm trong luật hình sự được coi là cơ sở pháp lý và sự thỏa mãn cấu thành tội phạm là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự” [15, tr.9-10]; v.v... Chỉ những hành vi có đầy đủ các các dấu hiệu đó mới bị coi là tội phạm. Bất cứ một hành vi nào dù gây ra những thiệt hại nhất định nhưng nếu không có hoặc không đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì cũng không phải là tội phạm và người thực hiện hành vi đó không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi không đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm theo quy định của luật hình sự. Ví dụ:có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không được quy định trong luật hình; người thực hiện hành vi nguy hiểm không có lỗi hoặc không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự; có những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm của hành vi như: sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết… Khi xác định hành vi không cấu thành tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền không được khởi tố vụ án hình sự.