SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MAI
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ MAI
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Ở TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Mai
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM ................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự............................................ 8
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự................................................................ 8
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................ 15
1.1.3. Ý nghĩa và vai trò của thi hành án dân sự........................................... 20
1.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự qua
các giai đoạn....................................................................................... 21
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950................................................ 21
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980................................................ 24
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993................................................ 26
1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay .................................................................. 30
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 37
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH.... 38
2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng đến việc
thực hiện thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình................................. 38
2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên....................................................... 38
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội....................................................... 39
2.1.3. Đặc điểm về dân cư, tôn giáo.............................................................. 40
2.2. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình từ
năm 2011 đến nay.............................................................................. 42
2.3. Đánh giá chung về công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình từ năm 2011 đến nay................................................................ 55
2.3.1. Ưu điểm............................................................................................... 55
2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ........................................................................ 59
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ....................................................... 62
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 68
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG THI HÀNH ÁN Ở TỈNH NINH BÌNH ........................... 69
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sự ở tỉnh
Ninh Bình từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025............ 69
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sƣ từ nay đến
năm 2020 và tầm nhìn 2025.............................................................. 74
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 74
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình .... 78
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện nâng cao chất
lƣợng công tác thi hành án dân sự................................................... 86
3.3.1. Phía Nhà nước..................................................................................... 86
3.3.2. Phía Cơ quan thi hành dân sự ở tỉnh Ninh Bình ................................. 91
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 97
KẾT LUẬN.................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 100
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân.
THADS: Thi hành án dân sự.
UBND: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Kết quả thi hành về việc 45
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền 45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động đưa bản án, quyết định về
dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
ra thi hành trên thực tế. THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án
được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và lợi ích của nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến
pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành” [35].
Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước
đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án
dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12
và Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12,
Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 với mục đích nhằm tiếp tục hoàn thiện
thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản,
bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp
phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án,
quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành.
2
Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế,
các giao lưu dân sự trong nội bộ nhân dân và giữa các cơ sở kinh tế ngày càng
mở rộng và đa dạng dẫn tới tình trạng số vụ việc tranh chấp về dân sự và kinh
tế ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. Kết quả là số lượng
các bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều, tổng số tiền và hiện vật
phải thi hành ngày càng lớn, trong đó có nhiều vụ việc rất khó khăn, phức tạp
trong việc tổ chức thi hành. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp Ủy Đảng, chính
quyền và sự cố gắng của đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án trong các cơ
quan thi hành án từ Trung ương tới địa phương đã làm giảm đáng kể số lượng
án phải thi hành hàng năm, nhưng số vụ việc và số tiền phải thi hành chuyển
kỳ sau vẫn còn rất lớn, có xu hướng tăng lên. Đáng lo ngại là trên thực tế
nhiều vụ việc không thể thi hành được còn tồn tại rất nhiều. Trong những năm
qua, ngành thi hành án đã đạt được những kết quả nhất định nhưng lượng án
tồn đọng vẫn còn đáng kể. Riêng ở Ninh Bình, công tác thi hành án đã đạt
được kết quả cao theo đúng chỉ tiêu mà Bộ Tư pháp cũng như Tổng cục thi
hành án dân sự đặt ra, năm 2015 việc chiếm 94% (vượt 6% so với chỉ tiêu quốc
hội giao, tiền đạt 82% (vượt 5% so với chỉ tiêu Quốc hội giao). Kết quả đạt
được nói trên phản ánh sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ thi hành án ở tỉnh
Ninh Bình, sự quan tâm, chỉ đạo của cấp Ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự
phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong thi hành án dân sự.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều tồn tại, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, vẫn còn trong tình trạng các
bản án, quyết định cuả Tòa án đã có hiệu lực nhưng chưa được nghiêm chỉnh
thi hành, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội,
được sự hướng dẫn của Nhà giáo ưu tú.Phó Giáo Sư.Tiến sĩ Dương Đức
Chính học viên chọn đề tài: "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình" làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
3
Học viên mong muốn qua luận văn này đưa ra được những thực trạng
cũng như những đề xuất, kiến nghị trong thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai
trò của thi hành án dân sự trong việc đưa bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành
trên thực tế. Đây là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối
với lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định
của pháp luật thi hành án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, công tác thi hành án dân sự đang được đặt
ra và là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và tất cả
công dân Việt Nam. Thi hành án dân sự là một lĩnh vực tương đối rộng và
phức tạp, vì vậy trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân
sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự,
cụ thể là: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tư
pháp chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí
Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ
khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở
Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc
Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2003; và công trình nghiên cứu khác, như:
Luận án tiến sĩ luật học của Hoàng Thế Anh (2015), "Giám sát thi hành án dân
sự", Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của
Nguyễn Công Long (2000): “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”; Luận văn thạc sĩ luật học của
4
Nguyễn Thanh Thủy (2001): “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự”;
Luận văn thạc sĩ luật học của Trần thị Bích Thủy: “Đổi mới tổ chức bộ máy
cơ quan thi hành án dân sự thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn
thạc sĩ luật học của Cù Hoàng Hanh (2008): “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế”; Luận văn
thạc sĩ luật học của Đỗ Thị Lý (2010): “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh
Thái Bình”; Hoàng Thọ Khiêm (2006): “Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành
án”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Triển khai
áp dụng Luật thi hành án +dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành
án” do TS Lê Thu Hà, trưởng khoa đào đạo Chấp hành viên và các chức danh
tư pháp khác làm chủ nhiệm; “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật
Thi hành án dân sự”, của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số 05/2010; “Công tác cán bộ thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực
tiễn” của Đinh Duy Bằng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09/2010; “Vướng
mắc trong hoạt động thi hành án dân sự” của Ngọc Biên, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 09/2011; “Một số khó khăn sau hai năm áp dụng Luật Thi hành
án dân sự” của Lạc Phong, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2012;
“Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn đọng” của Hoàng Thế Anh, Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, 06/2012; Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự
của Học viện tư pháp và một số bài viết trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật,
Tạp chí luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Tin thi hành án dân sự,…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân
sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên
cứu trên đã nghiên cứu sâu về những vấn đề chung về thi hành án dân sự;
những vấn đề mang tính tổng thể hay những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác
nhau của thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc. Nhưng đến nay, chưa có
5
công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực tiễn về công tác thi
hành án dân sự ở một địa phương cụ thể với những đặc thù riêng biệt của địa
bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh như tỉnh Ninh Bình. Do vậy, việc lựa chọn đề
tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình" được xem là một trong
những công trình đầu tiên nghiên cứu về thực tiễn công tác thi hành án dân sự
ở một địa phương cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích khoa học của Luận văn là lãm rõ cơ sở lý luận cũng như
thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Ninh Bình. Trên cơ sở đó thấy được
thực trạng của công tác thi hành án dân sự, đánh giá đúng và nghiêm túc về
vai trò, vị trí của công tác thi hành án dân sự, để đưa ra các yêu cầu và giải
pháp tăng cường hơn nữa vai trò của công tác hoạt động thi hành án dân sự,
đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được
đưa ra thi hành góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở
tỉnh Ninh Bình nói riêng và thi hành án dân sự cả nước nói chung trong giai
đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Luận giải hệ thống lý luận về thi hành án dân sự
- Đánh giá thực trạng hoạt động công tác thi hành án dân sự ở tỉnh
Ninh Bình.
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động công tác thi
hành án đưa ra phương hướng, yêu cầu và giải pháp để nâng cao chất lượng
thi hành án dân sự.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Việc nghiên cứu được thực hiện trên quy định về thi hành án dân sự
trong pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh
Bình hiện nay.
6
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về thi hành án và hoạt động thực tiễn công tác thi hành
án dân sự ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó đưa ra các yêu cầu và giải pháp nâng cao
chất lượng công tác thi hành án dân sự. Về thời gian nghiên cứu: Thời gian
nghiên cứu đề tài từ năm 2011-2015. Ngoài thời gian nghiên cứu trên luận
văn còn mở rộng nghiên cứu các khoảng thời gian lịch sử để có thêm số liệu,
đánh giá, so sánh, minh họa cho các luận cứ trong luận văn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu, hoàn
thiện luận văn: Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ
thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Thứ nhất: Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện và đầy đủ về
“Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình”. Kết quả nghiên cứu của luận
văn góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận về pháp luật thi hành án dân
sự ở Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng.
Thứ hai: Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp
luật thi hành án dân sự hiện hành và liên hệ thực tiễn ở tỉnh Ninh Bình, chỉ ra
những kết quả đạt được, nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp luật thi hành án dân sự.
Thứ ba, luận văn đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự từ ngay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025.
7
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho các hoạt động nghiên cứu, chỉ đạo, tổ chức hoạt động của công tác thi
hành án nhằm tiếp tục phát huy vai trò của công tác thi hành án dân sự nói
chung, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thi hành án dân sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn thi hành án dân sự ở Ninh Bình.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp, điều kiện nâng cao chất lượng
công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và
những mối quan hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội
có giai cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai
cấp. Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được
nhà nước bảo đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh
các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống
trị [48, tr. 139]. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự
chung (qui phạm pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể
hiện ý chí của nhân dân, được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên
cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa [48, tr. 143]. Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ
phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật thi hành án dân sự, trước hết cần
làm rõ một số khái niệm có liên quan đến khái niệm pháp luật thi hành án dân
sự như: khái niệm thi hành, khái niệm tư pháp, khái niệm thi hành án và khái
niệm thi hành án dân sự.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [54, tr. 1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết
thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm
cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [37, tr. 464].
9
Việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều
tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác
nhau, có quan điểm cho rằng:
Quan điểm 1: Thi hành án dân sự là một giai đoạn tố tụng.
Thi hành án là gia đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành
hoạt động thi hành án. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng
các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành
hiện thực trong đời sống thực tế. Thi hành án là hoạt động bảo vệ
pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức
và quản lý. Thi hành án nhằm mục đích thực thi các phán quyết của
Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi
hành có hiệu qủa trên thực tế. Hoạt động thi hành án gắn liền với
quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [49, tr. 8].
Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình
quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn
chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các
phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi
hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền đề
của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò của Tòa án gắn chặt với
hoạt động của thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc hoãn
thi hành án trong thời gian luật định, hay “xem xét, kháng nghị để xét xử theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục
tố tụng” khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét
theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến
hành thi hành án của cơ quan thi hành án.
10
Thi hành án với quan điểm này, được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự
tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết
của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm 2: Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất
hành chính – tư pháp. Theo quan điểm này quá trình tố tụng mà
trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi tòa án ra phán
quyết nhân danh nhà nước. Trong đó tòa án đã xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên còn việc thi hành các phán quyết là một gia
đoạn khác, không phụ thuộc vào quá trình tố tụng. Thi hành án
không phải là gia đoạn tố tụng bởi vì: Thi hành án có mục đích là
khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các
vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải
quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là
quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [28, tr. 21].
Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng:
Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố
tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã
hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt
trong vấn đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. Xét về bản chất,
hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau:
- Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá
trình thi hành án.
- Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi
hành án;
- Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án. Quan hệ
thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ
11
khác mang tính hành tính- tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng các
quan hệ mang tính hành chính - tư pháp chủ yếu hơn. Thi hành án
là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực,
một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để
thực hiện xã hội hóa hoạt động này.Đây là điều khác so với hoạt
động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không
có xã hội hóa.
Cùng quan điểm, TS. Đinh Trung Tụng cũng cho rằng:
Thi hành án không mang tính chất tố tụng thuần túy mà có
nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính- tư pháp. Ở đây có
nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án.
Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không
phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang tính hành
chính- tư pháp hơn. (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế- tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối
với loại hình phạt không phả là hình phạt tù) [49, tr. 12].
Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi
hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng thi
hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành
chính - tư pháp. Điều này thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của
Toà án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư
pháp (theo nghĩa rộng);
- Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối
quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi
hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành
án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ
12
quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án để
xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên,
thi hành án lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được
bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự đối với thi
hành án dân sự. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với
tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa
vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp
hành trong thi hành án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần
là hoạt động tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát,
chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành án đông đảo
và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ UBND địa
phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi
hành án làm việc...
- Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân
quả với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các
cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện
pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi
hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu,
tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc
nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình,
đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ
dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa
án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi
sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
các cơ quan nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ
có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy
tín của cơ quan xét xử.
13
- Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát
chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với
hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên,
trong Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân hiện hành vẫn có một chương với
nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, Viện Kiểm sát
nhân dân các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi
hành án. Tuy nhiên, tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có
nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này
cho thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi
hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án.
- Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án
cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng
trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa,
yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành
án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cũng không thấp hơn
những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp
luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến
tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không
còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự
nguyện khác trong quá trình thi hành án.
- Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp
hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau
nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
14
án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi
hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án,
quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng
pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động
hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt
động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước
đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân
pháp luật được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải
tôn trọng thực hiện.
Như vậy có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau: “Thi
hành án dân sự là hoạt động hành chính- tư pháp của Nhà Nước, do các cơ
quan thi hành án thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định,
nhằm đảm bảo thi hành án các bản án hoặc các quyết định về dân sự của Tòa
án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền”. Trong các văn bản
pháp luật về thì hành án thì chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về
thi hành án dân sự. Dưới góc độ lý luận xung quanh khái niệm “dân sự” trong
thi hành án dân sự có hai cách hiểu khác nhau:
Ý kiến thứ nhất: Tại điều 1 của Bộ luật dân sự năm 2005 cho rằng quan
hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong
giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án
bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài
sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các hợp đồng dân sự, về hôn nhân
gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự).
Ý kiến thứ 2: “Dân sự” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao
gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng
dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính chất dân sự của
Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.
15
Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác
nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi
hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Đồng tình với ý kiến này, bởi lẽ theo quy định của pháp luật hiện hành,
nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác
nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự như đã nêu.
1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự
Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của thi hành án dân sự, trên cơ sở các
quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có
thể thấy thi hành án dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Thi hành án mang bản chất hành chính- tƣ pháp
- Tính hành chính thể hiện ở chỗ: Thi hành án là dạng hoạt động chấp
hành, quản lý.
+ Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên
cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật
định; toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức
khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản
án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật.
+ Là dạng hoạt động quản lý vì thi hành án là sự tác động của pháp
luật, của các cơ quan thi hành án tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác
thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được
xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định
của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của
cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước.
- Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: Căn cứ để thi hành án là các bản án và
quyết định của Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá
16
trình thi hành án. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành
án là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp
thường được hiểu bao gồm Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ
quan điều tra, cơ quan thi hành án. Điều này là không đúng. Về mặt lý luận,
nhiều quốc gia trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và phán
quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp; Tòa án là cơ quan tư pháp độc
lập duy nhất. Viện Kiểm sát nhân dân chỉ là cơ quan tham gia các hoạt động
tư pháp. Ngay cả Bộ Tư pháp về tên gọi là như thế nhưng vẫn không có quyền
tư pháp (quyền phán quyết) mà chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về một số
lĩnh vực liên quan trong hoạt động tư pháp (luật sư, thi hành án dân sự...).
Tương tự như vậy, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cũng thuộc nhóm cơ
quan hành pháp. Hệ quả là không thể dựa vào tính tư pháp trong thi hành án
để cho rằng thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hành chính. Vì vậy, có
thể dùng "cái gạch ngang" giữa hành chính và tư pháp để phản ánh bản chất
của thi hành án.
Tính chất hành chính - tư pháp là một đặc điểm rất quan trọng cần lưu ý
trong khi quy định về tổ chức và hoạt động của thi hành án. Là hoạt động
thuộc trách nhiệm của hệ thống cơ quan hành pháp nên trong các quy định
của pháp luật thi hành án phải xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức,
quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án phải thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân
dân các địa phương. Với đặc điểm là hoạt động mang tính chất tư pháp thì
những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án (thủ trưởng cơ
quan thi hành án, chấp hành viên) phải có tính độc lập tương đối, hoạt động
theo luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Thật khó có thể xác định rõ
được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành
án. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng
như của mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án sẽ quy định mức
17
độ của tính hành chính và tính tư pháp và thông thường trong thi hành án, tính
tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn so với tính hành chính.
Thứ hai: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đƣơng sự (Ngƣời đƣợc thi
hành án, ngƣời phải thi hành án)
Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS,
Chấp hành viên và các bên đương sự (Người được thi hành án, người phải thi
hành án) hình thành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết
định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật. Cơ quan thi
hành án và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước để thi
hành bản án, quyết định theo quy định. Về nguyên tắc tính chủ động, độc lập
của Chấp hành viên trong hoạt động nghiệp vụ luôn được tôn trọng, bảo vệ.
Ví dụ, đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong thi hành án
dân sự, Chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp
luật quy định, đó là: khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy có giá của
người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong
tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc: kê
biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang di người thứ ba giữ; buộc
giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc
buộc phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất đinh; chỉ được áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi người phải thi hành án đã hết
thời gian tự nguyện thi hành án (trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi
hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án);
không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong các ngày nghỉ theo quy định
của pháp luật lao đông trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm
sau, mười lăm ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày lễ tết truyền thống
đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án và các
18
trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định; việc áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành
án: Chấp hành viên phải căn cứ vào nội dung bản án, quyết định, tính chất,
mức độ của nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải thi hành án, đề
nghị của đương sự và tình hình thực tế tại địa phương để áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án.
Thứ ba: Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành
án của các đƣơng sự
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải
trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường hợp chủ động ra quyết định thi
hành án theo quy định, cơ quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở
yêu cầu của người phải thi hành án, người được thi hành án đồng thời bảo vệ
quyền và lợi ích cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự
nguyện thi hành án. Chỉ khi các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì
mới bị cưỡng chế thi hành án. Người phải thi hành án có quyền yêu cầu về
việc thi hành án khác với nội dung bản án, quyết định tuyên như quyền yêu
cầu không thi hành án, hoặc cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành
án… và được người được thi hành án chấp nhận thì việc thi hành án được
thực hiện theo yêu cầu đó.
Thứ 4: Trình tự thủ tục thi hành án dân sự dƣợc tiến thành theo
một thủ tục trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.
Trình tự thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của luật
THADS nhằm phục vụ cho chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, thủ tục
thi hành án phải đảm bảo chính xác bởi lẽ hoạt động thi hành án là để hiện
thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ THADS. Đó là trình tự
nhận bản án, quyết định của tòa án nhân dân, nhận đơn yêu cầu thi hành án, ra
quyết định thi hành án, xác minh thi hành án, thông báo thi hành án, cưỡng
19
chế thi hành án…. Việc tuân thủ các trình tự này đảm bảo tính dân chủ, công
khai, công bằng, đảm bảo cho kết quả của hoạt động thi hành án dân sự là
thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, nếu cơ quan
thi hành án, Chấp hành viên áp dụng pháp luật thi hành án dân sự không
chính xác sẽ dẫn đến hậu quả thực tế rất khó khắc phục.
Thứ năm: Thi hành án dân sự đề cao tính chủ động của Chấp hành viên
Tùy từng trường hợp cụ thể, Chấp hành viên được lựa chọn biện
pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi
hành án (cưỡng chế, kê biên tài sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi
hành án đạt được mục đích và hiệu quả miễn là đảm bảo nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Trong thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp của
Chấp hành viên được đề cao, Chấp hành viên căn cứ vào các quy định của
pháp luật về thi hành dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa
chọn các biện pháp thi hành án phù hợp. Ví dụ: vụ việc đơn giản, ý thức chấp
hành pháp luật của người phải thi hành án tốt thì Chấp hành viên lựa chọn
biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành các
nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của tòa án hoặc của trọng tài thương
mại (trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi hành án thi
hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quy định của bản án, quyết định của tòa án).
Ngược lại nếu sau khi xác minh thấy đương sự có điều kiện để thi hành án
nhưng xét thấy người phải thi hành án ý thức chấp hành pháp luật không tốt,
có biểu hiện tẩu tán tài sản hoặc có tính chây ỳ, không tự nguyện thi hành án
thì Chấp hành viên lựa chọn, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế
theo quy định trong luật thi hành án dân sự (khấu trừ tài khoản, trừ vào tài
khoản, thu hồi giấy có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành
20
án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc, xử lý tài sản của người phải thi
hành án kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ;
buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm
hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất định) để
tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của
Trọng tài thương mại.
1.1.3. Ý nghĩa và vai trò của thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong hoạt động tư
pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của
Toà án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi
hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án
được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp
chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
- Thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử nhằm
thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ
thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối
cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ
với cơ quan xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ
hoạt động tố tụng trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu một bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không
nghiêm thì trật tự, kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị xem
thường. Vì vậy, khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành là đảm bảo hiệu
lực pháp luật, hiệu lực pháp lý của Nhà nước, góp phần giữ vững kỷ cương xã
hội, nâng cao uy tín của Nhà nước trước nhân dân.
- Thông qua thi hành án cũng có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước
21
đó, bản án có thấu tình, đạt lý mới có thể dễ dàng thi hành án trên thực tế, trái
lại việc xét xử ra một bản án có sai sót, sẽ khó thi hành án. Từ thực tiễn thi
hành án mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Tòa án
đã tham gia quá trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc phục những
khiếm khuyết nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, Đồng thời
cũng là cơ sở để Tòa án nhân dân tối cao tổng kết, đúc rút kinh nghiệm đưa ra
đường lỗi xét xử chung, thống nhất trong toàn ngành.
- Thông qua thi hành án, các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp
luật phải chấm dứt các hành vi đó và thực hiện các quyền của mình theo quyết
định của Tòa án. Qua thi hành án các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị
xâm phạm được khôi phục vì thế bảo đảm thực hiện được mục đích giải quyết
vụ việc dân sự, bảo vệ được lợi ích của nhà nước, bảo hộ được các quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân.
- Thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ của riêng cơ quan thi
hành án mà đó là sự kết hợp với vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng,
chính quyền địa phương; là sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu
quan và mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thông qua thi hành án dân sự
ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ngày càng được nâng cao và
vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được đảm bảo, niềm tim của
nhân dân vào hệ thống pháp luật, vào bộ máy của Nhà nước ngày càng được
vững chắc hơn.
1.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự qua
các giai đoạn
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở nước ta tồn tại chế độ Thừa
Phát lại. Thừa phát lại được tổ chức ở Việt Nam với nhiệm vụ: thông báo Tòa
khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự
22
tại phiên tòa, tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, thi hành án văn có
hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của Pháp
luật. (Theo quy định của Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày
16/3/1010 của Toàn quyền Đông Dương). Thừa phát lại là những công lại
được pháp luật giao cho việc làm các truyền phiếu, các việc về tư pháp, việc
thi hành các bản án, công văn cũng là công việc nội bộ trong Tòa án (Theo
nghị định 111/BTP ngày 02 tháng 02 năm 1950 của Bộ Tư Pháp). Sau cách
mạng tháng 8 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, hệ thống cơ
quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước, chế độ thừa phát lại được duy
trì và chịu sự quản lý của Ban công lại thuộc phòng giám đốc của Bộ Tư
pháp.Đến năm 1946 tai sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch
Thẩm phán đã đặt cơ sở đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam.
Tại khoản 3, điều 3 Sắc lệnh này quy định “Ban tư pháp xã có quyền thi hành
những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên bao gồm các bản án, quyết định của
Tòa án” Và tại điều 3 của lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố
”chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký, đều chịu trách nhiệm thi hành các mệnh
lệnh hoặc án”. Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể
những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản
án và quyết định của Tòa án. Cụ thể là:
Về nguyên tắc chấp hành: theo dân sự, thương sự tố tụng, người đương
sự được kiện, muốn chấp hành bản án của mình phải xin ở phòng lục sự một
bản trích lục hoặc toàn sao bản án ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền
giám thị của chưởng lý và biện lý. Bản thân lục sự của Tòa án phải tự động
gửi bản sao bản án cho người đương sự biết và thi hành.
23
Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng
lục sự cấp cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: "thừa lệnh Tòa án".
Bên chữ ký của lục sự phải có chữ ký của thẩm phán công tố viên "duyệt".Đó
là những bản sao có thể thức chấp hành.Bản sao này chỉ được cấp có một lần.
Nhưng trong trường hợp đặc biệt, ví dụ: đánh mất bản sao có thể thức chấp
hành, ông Chánh án có thể ra mệnh lệnh cho phép phòng lục sự cấp một bản
toàn sao khác có thể thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý có nhiệm vụ
kiểm soát những thể thức chấp hành này.
Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành
các án hộ và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát
lại trước năm 1945 là lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp
xã. Chức năng này của ban tư pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc
lệnh số 13, ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Khi
cần thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án.
Tuy nhiên, việc dân sự không có một cách thức thi hành duy nhất. Tuỳ
theo bản chất, mỗi loại án hộ có một cách thức thi hành riêng. Các thẩm
phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và phải theo dõi công việc xem
có đạt được kết quả không. Nếu cần, thẩm phán nên thân hành đến chứng
kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỗi khi có trở lực trong việc chấp
hành, ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật
được tôn trọng.
Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng,
dù phải đương đầu với biết bao khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
chính quyền non trẻ trước sự tấn công của thù trong, giặc ngoài, Nhà nước ta
vẫn không ngừng quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó đã từng bước hình thành pháp luật thi hành án dân sự, xác định
cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nhằm thể hiện bản
24
chất của nền Tư pháp nhân dân, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân. Tuy còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động thi
hành án dân sự đã có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát
triển của nền Tư pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ
nhân dân. Tuy vậy, ở giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
vẫn còn rất sơ khai, pháp luật thi hành án dân sự chưa đầy đủ và còn nhiều
hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo.
Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong
những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình
thức là Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án
nhưng việc thi hành án đều thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980
Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác thi hành án dân sự có một sự
thay đổi lớn về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động, với việc ngày 22/5/1950,
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và
luật tố tụng”, theo đó Điều 19 của Sắc lệnh này quy định: “Thẩm phán huyện
dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về
khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa
án trên đã tuyên”. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát
lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện
thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm
vụ tổ chức thi hành án dân sự cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp
xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác thi hành án dân sự
ngày càng được nâng cao.
Bước sang năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát
triển mới, đó là trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án
25
nhân dân năm 1960 đã quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có
nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định
dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định
hình sự”. Như vậy, thay bằng quy định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét
xử, vừa kiêm nhiệm công tác thi hành án dân sự thì theo quy định mới này từ
năm 1960, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên
trách thực hiện nhiệm vụ thi hành dân sự. Ngày 14 tháng 11 năm 1974, Tòa
án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành
án. Trong thời kỳ này, Phòng chỉ đạo thi hành án là một Phòng hoạt động độc
lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi
hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp; xây dựng các văn
bản chỉ đạo chung về thi hành án.
Có thể nói, từ năm 1960 đến năm 1980 ngành Tòa án nhân dân đã thực
sự quan tâm tới việc xây dựng, phát triển tổ chức và hoạt động của hệ thống
thi hành án dân sự. Trong thời kỳ này, các cơ quan của Nhà nước và Tòa án
nhân dân tối cao đã ban hành các văn bản quy định cụ thể, rõ ràng về nguyên
tắc, trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự và được áp dụng thống nhất trong
cả nước; Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án về lý luận chính
trị và nghiệp vụ, tăng cường phương tiện phục vụ công tác thi hành án cho
Chấp hành viên và nhân viên thi hành án. Đồng thời với việc ra đời chức danh
Chấp hành viên và sự phát triển đội ngũ Chấp hành viên trong Tòa án nhân
dân các cấp, hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên đã góp phần bảo đảm lợi
ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường và
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
26
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993
Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình,
đánh dấu một dấu mốc lịch sử quan trọng khi đất nước ta chuyển mình sang
một giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả
nước. Hiến pháp năm 1980 đã đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12).
Với tinh thần thượng tôn pháp luật đó, Hiến pháp năm 1980 cũng đã lần đầu
tiên ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi thành của các bản án,
quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công
dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành
(Điều 137). Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp ngành Thi
hành án dân sự có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử phát triển của
mình trong giai đoạn 1981-1989.
Tiếp theo, Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng đã đổi tên Hội đồng
Chính phủ thành Hội động Bộ trưởng, trong Luật này có ghi danh sách các
Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp, sau đó ngày 22 tháng 11 năm 1981, Nghị định số
143/HĐBT đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký ban hành. Sau khi được
tái lập, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và có hệ thống tổ chức bộ
máy lớn hơn so với Bộ Tư pháp trước đây. Trong đó, Bộ Tư pháp được giao
nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương, trong đó có công tác thi hành án dân sự
(Vụ Quản lý Toà án).
Theo quy định tại Thông tư số 08-TT ngày 06 tháng 01 năm 1982
hướng dẫn thực hiện Nghị định 143-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức của các cơ quan thuộc hệ thống tư
pháp, trong cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp có Phòng quản lý Toà án tham
27
mưu cho Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân huyện,
quận, thị xã; phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân cấp tỉnh trong công tác
này; Quản lý công tác tư pháp khác tại địa phương bao gồm cả công tác chấp
hành án. Đối với Ban Tư pháp huyện có nhiệm vụ : Chấp hành các án dân sự
và hôn nhân gia đình do Toà án huyện xét xử hoặc Toà án tỉnh ủy nhiệm .
Đối với Ban Tư pháp xã có nhiệm vụ: Tham gia đôn đốc việc thi hành các
bản án dân sự và hôn nhân gia đình thuộc phạm vi xã do Toà án huyện và
Ban Tư pháp huyện chuyển về.
Cũng ở thời điểm này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 được
Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 7 năm 1981 đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp
phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân
dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22 tháng 11
năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Bộ Tư pháp quy định Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Toà án nhân dân địa
phương về mặt tổ chức và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành
theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án. Ngày 01 tháng 01 năm 1982, Toà
án nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án trong
phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp. Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp
và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác
quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định:
- Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ
cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi
hành án.
- Tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công
tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự - một hình
thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, lần đầu tiên đã được ban hành, đặt
28
cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự. Trên cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo
Nghị định số 68/HĐBT ngày 06 tháng 3 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng.
Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế chấp
hành viên thì chỉ có chấp hành viên là người được nhà nước giao trách nhiệm
thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước đây việc thi hành án ngoài
Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quy định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho từng
Tòa án địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa
phương. Chấp hành viên được bổ nhiệm ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và
Tòa án nhân dân cấp huyện.
Với việc ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, cơ chế thi
hành án đã có bước thay đổi căn bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp
quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và
Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự.
Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của
tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay
đã được vận dụng trong giai đoạn thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự là
một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người
được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu
cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng
cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương
thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một
phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Quyền tự định đoạt của
đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án
dân sự. Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1989 vẫn có những quy định về quyền chủ
29
động thi hành của cơ quan thi hành án trong những trường hợp nhất định
nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và công dân.
Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công
tác thi hành án cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ Thẩm
phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án,
đội ngũ cán bộ thi hành án đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn
riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết
của Tòa án.
Tuy nhiên, mặc dù cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện,
đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng
sự chỉ đạo điều hành công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp.
Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ
đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt
động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều
thuộc thẩm quyền của Chánh án. Chấp hành viên với trách nhiệm là “Người
được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án”
thực ra chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền
năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án
với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử phải
đồng thời là người chỉ đạo việc thi hành các phán quyết của Tòa án, dẫn đến
tình trạng quá tải về công việc, có nơi, có lúc chưa giải quyết kịp thời các
yêu cầu thi hành án đặt ra. Hơn nữa, Tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất,
vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng,
vừa thổi còi”, chưa thực sự đảm bảo sự khách quan, công bằng trong hoạt
động thi hành án dân sự, gây ra sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu
quả công tác này.
30
Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân
tối cao trong công tác quản lý Toà án địa phương diễn ra thuận lợi trong thời
gian đầu nhưng từ năm 1989 đã xuất hiện những ý kiến khác nhau về trách
nhiệm quản lý Toà án địa phương.
Do trọng tâm của Tòa án là xét xử nên trong một thời gian dài tổ chức
hoạt động thi hành án chưa được quan tâm đầy đủ. Số cán bộ giỏi thường
được bổ sung sang làm Thẩm phán, đội ngũ cán bộ luôn luôn bị xáo trộn
không được quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, chế độ, chính sách
không được chú ý đúng mức. Lực lượng chấp hành viên, cán bộ thi hành án
vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Cơ sở vật chất, phương tiện
phục vụ cho hoạt động thi hành án hầu như không được trang bị; quản lý Nhà
nước về công tác thi hành án bị buông lỏng; số việc tồn đọng chưa được thi
hành chiếm tỷ lệ cao;… điều này đã vi phạm trật tự kỷ cương Nhà nước, vi
phạm pháp chế XHCN, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm
minh của pháp luật.
1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay
Đây là giai đoạn công tác thi hành án dân sự được chuyển giao hoàn
toàn từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ thông qua
việc Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi
hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính
phủ; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993
về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự và
liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà
nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày
26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự và Uỷ ban
thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993.
31
Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong
cải cách về công tác Thi hành án dân sự từ đó đến nay. Giai đoạn từ năm 1993
đến nay đã chứng kiến sự phát triển không ngừng của ngành Thi hành án dân
sự cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ Chấp hành viên, công chức Thi
hành án dân sự.
Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/1993, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan Thi
hành án dân sự và Chấp hành viên. Theo quy định của Nghị định 30/CP, các
cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp,
Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu
và tương đương. Ở Trung ương, Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, chỉ
đạo hoạt động thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc.
Như vậy, kể từ ngày 01/7/1993, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
được xây dựng theo cơ cấu từ Trung ương đến cấp huyện, do Chính phủ
thống nhất quản lý và chỉ đạo.
Trong thời gian này, công tác thi hành án dân sự ngày càng trở nên
nặng nề hơn. Các cơ quan thi hành án dân sự được bổ sung nhiệm vụ tổ chức
thi hành các bản án, quyết định về kinh tế, lao động, quyết định tuyên bố phá
sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính;
bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài
đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; giá trị tiền, tài sản phải
thi hành ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Đứng trước những khó
khăn, thử thách mới, ngành Tư pháp nói chung và Hệ thống Thi hành án dân
sự nói riêng đã có nhiều nỗ lực vượt bậc. Đảng, Nhà nước ta đã dành sự quan
tâm to lớn đối với công tác thi hành án dân sự. Trong điều kiện khó khăn
32
chung của đất nước, Chính phủ vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan
thi hành án cả về kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị và biên
chế nhằm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Đảng, Nhà
nước thường xuyên theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo về công tác tư pháp, nhất là
công tác thi hành án dân sự. Tại các kỳ họp, Quốc hội đều nghe và cho ý kiến
đối với báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án. Nhờ đó, công tác thi
hành án dân sự trong giai đoạn này đã đạt được kết quả quan trọng, từ năm
1993 đến hết năm 2003, các cơ quan Thi hành án dân sự đã thi hành xong
1.195.754 việc, thu được trên 9.697 tỷ đồng. Chính vì vậy, tại Chỉ thị số
20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đã ghi nhận: "Hệ thống tổ chức
các cơ quan Thi hành án dân sự đã được hình thành trong cả nước, công tác
thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu, làm
giảm đáng kể số lượng án tồn đọng".
Ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự,
trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và
trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày
11/4/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP. Theo quy
định của Nghị định số 50/NĐ-CP, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư
pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống
nhất pháp luật về thi hành án dân sự trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo,
kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp
huyện;… Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-
NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết này đã chỉ
rõ “Chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển
33
giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp, giúp Chính phủ thống
nhất quản lý công tác thi hành án…”.
Các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh , cấp huyện, từ chỗ là Phòng
Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở
thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập. Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ
quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức,
kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Thi hành án dân sự cấp huyện
trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của Thi hành án dân sự cấp tỉnh về kinh
phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về
mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự
tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất,
trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan Thi hành án được tăng
cường. Nhờ đó, công tác thi hành án dân sự ngày càng có sự chuyển biến tích
cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước, góp phần
quan trọng trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
giữ vững trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý,
tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày
14/11/2008, Quốc hội khoá 12 đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm
2008. Ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân
sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công
chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, hệ thống các cơ quan Thi
hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống
nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương
34
xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư
pháp. Theo quy định của Nghị định số 74/NĐ-CP, ở Trung ương, Tổng cục
Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham
mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án
dân sự trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự
theo quy định của pháp luật; cấp tỉnh có Cục Thi hành án dân sự là cơ quan
trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và cấp huyện có Chi cục Thi hành án
dân sự là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự.
Để thi hành Luật thi hành án dân sự Chính phủ đã ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về
thủ tục thi hành án dân sự. Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Nghị định số
61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại thực
hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở các quy định của Luật, việc tổ chức thi hành án đã đạt nhiều
kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức cá nhân và
các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò công tác thi hành án được nâng lên
rõ rệt, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật cơ bản đầy đủ; việc kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, cán bộ làm
công tác thi hành án theo quy định của Luật cơ bản được hoàn thành.; vị thê
cơ quan thi hành án được nâng lên và nhận được sự quan tâm hơn của cấp ủy,
chính quyền địa phương thông qua cơ quan thi hành án có trách nhiệm trực
tiếp báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp,
cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của cơ quan THADS đã được cải thiện một
bước, xây dựng trụ sở, kho vật chứng cũng đã được quan tâm thực hiện; công
tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng được tăng cường và triển khai
35
bài bản nhờ đó kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến
tích cực và đạt kết quả khả quan. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Luật thi hành án năm 2008 đã bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập.
Để hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tiếp tục tạo chuyển biến cơ
bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính, góp phần đảm bảo thực hiện các quy định của Hiến pháp
năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Ngày 25/11/2014, Quốc hội thông
qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008,
điều này nhằm tháo gỡ những vấn đề không còn phù hợp khi mà các quan hệ
xã hội đang ngày càng có nhiều thay đổi đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có
những sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Luật Thi hành án dân sự trước khi được
thông qua đã được triển khai lấy ý kiến đóng góp rộng rãi. Đến nay, các ý
kiến đóng góp thiết thực đã được tập hợp và thể chế hóa nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự cũng như nâng
cao hiệu quả, chất lượng của công tác thi hành án dân sự. Chính thức có hiệu
lực thi hành kể từ 01/7/2015, xét về khía cạnh dung lượng sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ không phải là ít, tuy nhiên hệ thống các văn bản hướng dẫn thì lại chưa
được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho tương thích, chưa kể đến một số quy định
được sửa đổi, bổ sung mặc dù chưa được áp dụng trên thực tế nhưng đã bộc lộ
những điểm chưa thực sự phù hợp trên phương diện lý luận. Để thi hành Luật
thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, ngày 18/7/2015, Chính phủ
ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2015 và thay thế Nghị định số
36
74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi
hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi
hành án dân sự; Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân
sự về thủ tục thi hành án dân sự; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày
14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
58/2009/NĐ-CP nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo
cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu
quả công tác thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm sự phù hợp với các quy
định của Hiến pháp năm 2013 về việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền
lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thi hành án là cơ quan
thuộc hệ thống hành pháp tham gia thực hiện quyền tư pháp.
37
Kết luận chƣơng 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề về thi hành án dân sự, từ đó rút ra được
một số khái niệm quan trọng về thi hành án dân sự cũng như đặc điểm, ý
nghĩa của công tác thi hành án dân sự. Hiểu được quá trình phát triển của
pháp luật thi hành án dân sự qua các thời kỳ qua đó nắm được sự phát triển
của tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự cũng như hoạt động thi hành
án dân sự Việt Nam. Thi hành án dân sự là hoạt động của nhà nước để đưa ra
bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan có thẩm
quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững
kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Những vấn đề lý luận đã được trình bày là cơ sở để xem xét, đánh giá
thực tiễn hoạt động công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình nói riêng và
công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung. Từ đó có phương hướng
và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân
sự trong thời gian tới.
38
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH
2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng đến việc
thực hiện thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam,
thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Về đơn vị hành chính, hiện nay Ninh
Bình có 2 thành phố và 6 huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17
phường và 7 thị trấn). Quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế xếp Ninh Bình
vào vùng duyên hải Bắc Bộ. Mặc dù được xếp vào khu vực đồng bằng Bắc Bộ
nhưng Ninh Bình chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh và Kim Sơn không
thuộc miền núi. Vùng đất này từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, là địa
bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Tây Sơn.
Vùng đất Ninh Bình xưa là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010
với 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý và cũng là địa bàn quan trọng về quân
sự qua các thời kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử
văn hóa đồng thời sở hữu 2 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh
quyển thế giới, Ninh Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong
phú và đa dạng. Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây
Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh nằm giữa 3 vùng kinh
tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Phía
bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam, Phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy,
Phía tây giáp Thanh Hóa, Phía nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh
là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam.Địa hình, vị
trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm
cả ba loại địa hình.Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các
39
huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Đỉnh Mây Bạc thuộc rừng
Cúc Phương với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình.Vùng đồng
bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Ninh
Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều.
Với những yếu tố thuận lợi về giao thông, vị trí địa lý, tỉnh Ninh Bình
có nhiều tài nguyên thích hợp để phát triển các vùng nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, hoa quả xuất khẩu hay các loại nông
sản, thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là tài nguyên đá vôi và các loại khoáng sản
phù hợp để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Với vị trí đặc biệt về
giao thông, địa hình và lịch sử văn hóa, Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du
lịch phong phú và đa dạng. Ninh Bình được ví như một Việt Nam thu nhỏ.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
Ninh Bình được biết đến như một miền đất của các di tích lịch sử, văn
hóa tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu gắn liền với các lễ hội. Ninh Bình là
chiếc nôi của nhiều nghề truyền thống như: Nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân
(Hoa Lư), nghề mộc ở phường Ninh Phong (thành phố Ninh Bình), nghề dệt
chiếu và chế biến cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, nghề thêu ren ở Ninh Hải (Hoa
Lư), nghề đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan.
Nền kinh tế của Ninh Bình chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, công nghiệp. Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển
công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều
trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng
(công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng
Duyên Hà, xi măng Hướng Dương. Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi
măng, đá, thép, vôi, gạch.
Nghề thủ công truyền thống địa phương có: thêu ren Văn Lâm, đá mỹ
nghệ Ninh Vân ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn,
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...anh hieu
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luậtLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
Giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, một số vấn đề lý luận và thực ...
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOTĐề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT

Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...
Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...
Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nônghieu anh
 

Similar to Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT (20)

Luận văn: Thi hành án dân sự Qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Thi hành án dân sự Qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, HAYLuận văn: Thi hành án dân sự Qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, HAY
Luận văn: Thi hành án dân sự Qua thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, HAY
 
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng NaiGiải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
Giải Quyết Vụ Án Hành Chính Tại Tòa Án Tỉnh Đồng Nai
 
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư phápXây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...
Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...
Luận văn: Thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Củ...
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAYNguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
 
Thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
Thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khácThủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
Thủ tục phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
 
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khácPhối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với các cơ quan khác
 
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khác
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khácPhối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khác
Phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổ chức khác
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOTLuận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
Luận văn: Thi hành án dân sự liên quan đến Phật giáo, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOTLuận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Pháp luật về Thi hành án dân sự tại tỉnh Phú Yên, HOT
 
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đLuận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nôngưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
ưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MAI THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MAI THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS DƢƠNG ĐỨC CHÍNH HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Mai
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM ................................................................... 8 1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự............................................ 8 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự................................................................ 8 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ........................................................ 15 1.1.3. Ý nghĩa và vai trò của thi hành án dân sự........................................... 20 1.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự qua các giai đoạn....................................................................................... 21 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950................................................ 21 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980................................................ 24 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993................................................ 26 1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay .................................................................. 30 Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 37 Chƣơng 2: THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH.... 38 2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng đến việc thực hiện thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình................................. 38 2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên....................................................... 38
  • 5. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội....................................................... 39 2.1.3. Đặc điểm về dân cư, tôn giáo.............................................................. 40 2.2. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2011 đến nay.............................................................................. 42 2.3. Đánh giá chung về công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình từ năm 2011 đến nay................................................................ 55 2.3.1. Ưu điểm............................................................................................... 55 2.3.2. Những tồn tại, hạn chế ........................................................................ 59 2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ....................................................... 62 Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 68 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THI HÀNH ÁN Ở TỈNH NINH BÌNH ........................... 69 3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình từ nay đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025............ 69 3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng thi hành án dân sƣ từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2025.............................................................. 74 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay ............................................................................................... 74 3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình .... 78 3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp hoàn thiện nâng cao chất lƣợng công tác thi hành án dân sự................................................... 86 3.3.1. Phía Nhà nước..................................................................................... 86 3.3.2. Phía Cơ quan thi hành dân sự ở tỉnh Ninh Bình ................................. 91 Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 97 KẾT LUẬN.................................................................................................... 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 100
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐND: Hội đồng nhân dân TAND: Tòa án nhân dân. THADS: Thi hành án dân sự. UBND: Ủy ban nhân dân
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Kết quả thi hành về việc 45 Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền 45
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” [35]. Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây, nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và gần đây là Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị quyết về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự số 24/2008/QH12, Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 với mục đích nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
  • 9. 2 Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế, các giao lưu dân sự trong nội bộ nhân dân và giữa các cơ sở kinh tế ngày càng mở rộng và đa dạng dẫn tới tình trạng số vụ việc tranh chấp về dân sự và kinh tế ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về nội dung. Kết quả là số lượng các bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều, tổng số tiền và hiện vật phải thi hành ngày càng lớn, trong đó có nhiều vụ việc rất khó khăn, phức tạp trong việc tổ chức thi hành. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cấp Ủy Đảng, chính quyền và sự cố gắng của đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án trong các cơ quan thi hành án từ Trung ương tới địa phương đã làm giảm đáng kể số lượng án phải thi hành hàng năm, nhưng số vụ việc và số tiền phải thi hành chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn, có xu hướng tăng lên. Đáng lo ngại là trên thực tế nhiều vụ việc không thể thi hành được còn tồn tại rất nhiều. Trong những năm qua, ngành thi hành án đã đạt được những kết quả nhất định nhưng lượng án tồn đọng vẫn còn đáng kể. Riêng ở Ninh Bình, công tác thi hành án đã đạt được kết quả cao theo đúng chỉ tiêu mà Bộ Tư pháp cũng như Tổng cục thi hành án dân sự đặt ra, năm 2015 việc chiếm 94% (vượt 6% so với chỉ tiêu quốc hội giao, tiền đạt 82% (vượt 5% so với chỉ tiêu Quốc hội giao). Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ thi hành án ở tỉnh Ninh Bình, sự quan tâm, chỉ đạo của cấp Ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm còn bộc lộ nhiều tồn tại, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, vẫn còn trong tình trạng các bản án, quyết định cuả Tòa án đã có hiệu lực nhưng chưa được nghiêm chỉnh thi hành, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cơ quan bảo vệ pháp luật. Qua thời gian học tập, nghiên cứu tại khoa Luật- Đại học Quốc Gia Hà Nội, được sự hướng dẫn của Nhà giáo ưu tú.Phó Giáo Sư.Tiến sĩ Dương Đức Chính học viên chọn đề tài: "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình" làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
  • 10. 3 Học viên mong muốn qua luận văn này đưa ra được những thực trạng cũng như những đề xuất, kiến nghị trong thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai trò của thi hành án dân sự trong việc đưa bản án, quyết định về dân sự của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra thi hành trên thực tế. Đây là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án dân sự góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, công tác thi hành án dân sự đang được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và tất cả công dân Việt Nam. Thi hành án dân sự là một lĩnh vực tương đối rộng và phức tạp, vì vậy trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT do Viện nghiên cứu khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện năm 2003; và công trình nghiên cứu khác, như: Luận án tiến sĩ luật học của Hoàng Thế Anh (2015), "Giám sát thi hành án dân sự", Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Công Long (2000): “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”; Luận văn thạc sĩ luật học của
  • 11. 4 Nguyễn Thanh Thủy (2001): “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự”; Luận văn thạc sĩ luật học của Trần thị Bích Thủy: “Đổi mới tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn thạc sĩ luật học của Cù Hoàng Hanh (2008): “Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế”; Luận văn thạc sĩ luật học của Đỗ Thị Lý (2010): “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Thái Bình”; Hoàng Thọ Khiêm (2006): “Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành án”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án +dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án” do TS Lê Thu Hà, trưởng khoa đào đạo Chấp hành viên và các chức danh tư pháp khác làm chủ nhiệm; “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự”, của Nguyễn Thị Khanh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/2010; “Công tác cán bộ thi hành án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn” của Đinh Duy Bằng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09/2010; “Vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự” của Ngọc Biên, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 09/2011; “Một số khó khăn sau hai năm áp dụng Luật Thi hành án dân sự” của Lạc Phong, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 02/2012; “Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn đọng” của Hoàng Thế Anh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, 06/2012; Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự của Học viện tư pháp và một số bài viết trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Tin thi hành án dân sự,… Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu sâu về những vấn đề chung về thi hành án dân sự; những vấn đề mang tính tổng thể hay những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc. Nhưng đến nay, chưa có
  • 12. 5 công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực tiễn về công tác thi hành án dân sự ở một địa phương cụ thể với những đặc thù riêng biệt của địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh như tỉnh Ninh Bình. Do vậy, việc lựa chọn đề tài "Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình" được xem là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở một địa phương cụ thể. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Mục đích khoa học của Luận văn là lãm rõ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở Ninh Bình. Trên cơ sở đó thấy được thực trạng của công tác thi hành án dân sự, đánh giá đúng và nghiêm túc về vai trò, vị trí của công tác thi hành án dân sự, để đưa ra các yêu cầu và giải pháp tăng cường hơn nữa vai trò của công tác hoạt động thi hành án dân sự, đảm bảo mọi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án phải được đưa ra thi hành góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình nói riêng và thi hành án dân sự cả nước nói chung trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên cần phải giải quyết các nhiệm vụ sau: - Luận giải hệ thống lý luận về thi hành án dân sự - Đánh giá thực trạng hoạt động công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình. - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động công tác thi hành án đưa ra phương hướng, yêu cầu và giải pháp để nâng cao chất lượng thi hành án dân sự. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Việc nghiên cứu được thực hiện trên quy định về thi hành án dân sự trong pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
  • 13. 6 3.4. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của Luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành án và hoạt động thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình. Từ đó đưa ra các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự. Về thời gian nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu đề tài từ năm 2011-2015. Ngoài thời gian nghiên cứu trên luận văn còn mở rộng nghiên cứu các khoảng thời gian lịch sử để có thêm số liệu, đánh giá, so sánh, minh họa cho các luận cứ trong luận văn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu, hoàn thiện luận văn: Phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Thứ nhất: Luận văn đã nghiên cứu tương đối toàn diện và đầy đủ về “Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình”. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng rõ những vấn đề lý luận về pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung và Ninh Bình nói riêng. Thứ hai: Luận văn đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng pháp luật thi hành án dân sự hiện hành và liên hệ thực tiễn ở tỉnh Ninh Bình, chỉ ra những kết quả đạt được, nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi pháp luật thi hành án dân sự. Thứ ba, luận văn đưa ra các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự từ ngay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025.
  • 14. 7 Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, chỉ đạo, tổ chức hoạt động của công tác thi hành án nhằm tiếp tục phát huy vai trò của công tác thi hành án dân sự nói chung, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thi hành án dân sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn thi hành án dân sự ở Ninh Bình. Chương 3: Phương hướng và giải pháp, điều kiện nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
  • 15. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái quát chung về thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội có giai cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp. Pháp luật: Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị [48, tr. 139]. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa [48, tr. 143]. Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm sáng tỏ khái niệm pháp luật thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan đến khái niệm pháp luật thi hành án dân sự như: khái niệm thi hành, khái niệm tư pháp, khái niệm thi hành án và khái niệm thi hành án dân sự. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [54, tr. 1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [37, tr. 464].
  • 16. 9 Việc xác định bản chất của thi hành án dân sự vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận và thực tiễn. Dựa trên những luận cứ khác nhau, có quan điểm cho rằng: Quan điểm 1: Thi hành án dân sự là một giai đoạn tố tụng. Thi hành án là gia đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở để tiến hành hoạt động thi hành án. Ở giai đoạn này, cơ quan thi hành án áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định để đưa chân lý trở thành hiện thực trong đời sống thực tế. Thi hành án là hoạt động bảo vệ pháp luật khác về bản chất với các hoạt động hành chính là tổ chức và quản lý. Thi hành án nhằm mục đích thực thi các phán quyết của Tòa án, đảm bảo các phán quyết của Tòa án được thi hành và thi hành có hiệu qủa trên thực tế. Hoạt động thi hành án gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử [49, tr. 8]. Theo quan điểm này thì thi hành án là giai đoạn nằm trong quá trình quyết vụ án, theo đó giai đoạn tố tụng trước của giai đoạn xét xử là giai đoạn chuẩn bị xét xử, còn thi hành án là giai đoạn xét xử, giai đoạn thực thi các phán quyết của Tòa án trên thực tế. Căn cứ duy nhất để thi hành án là bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật. Tính lệ thuộc của thi hành án vào công tác xét xử được thể hiện ở việc khẳng định xét xử là tiền đề của thi hành án. Trong quá trình thi hành án, vai trò của Tòa án gắn chặt với hoạt động của thi hành án, thể hiện ở trách nhiệm của Tòa án trong việc hoãn thi hành án trong thời gian luật định, hay “xem xét, kháng nghị để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án quyết định có vi phạm thủ tục tố tụng” khi cơ quan thi hành án kiến nghị. Hậu quả pháp lý của việc xem xét theo trình tự này có thể làm thay đổi kết quả thi hành án hay cách thức tiến hành thi hành án của cơ quan thi hành án.
  • 17. 10 Thi hành án với quan điểm này, được hiểu là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quan điểm 2: Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính chất hành chính – tư pháp. Theo quan điểm này quá trình tố tụng mà trọng tâm là việc xét xử của Tòa án chấm dứt khi tòa án ra phán quyết nhân danh nhà nước. Trong đó tòa án đã xác định quyền và nghĩa vụ của các bên còn việc thi hành các phán quyết là một gia đoạn khác, không phụ thuộc vào quá trình tố tụng. Thi hành án không phải là gia đoạn tố tụng bởi vì: Thi hành án có mục đích là khác với mục đích tố tụng, tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, trên cơ sở đó đưa ra phương án giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật, còn thi hành án là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [28, tr. 21]. Cùng quan điểm trên PGS.TS Võ Khánh Vinh cho rằng: Không thể đồng nhất hoạt động thi hành án với hoạt động tố tụng, bởi lẽ hoạt động thi hành án có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội của nó. Nghiên cứu hoạt động thi hành án hiện nay cần đặt trong vấn đề để xây dựng nhà nước pháp quyền. Xét về bản chất, hoạt động thi hành án được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu sau: - Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình thi hành án. - Tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án; - Đặc thù trong các quan hệ về thủ tục thi hành án. Quan hệ thủ tục thi hành án có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ
  • 18. 11 khác mang tính hành tính- tư pháp. Nhưng cần khẳng định rằng các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp chủ yếu hơn. Thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc Nhà nước có thể xây dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này.Đây là điều khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không có xã hội hóa. Cùng quan điểm, TS. Đinh Trung Tụng cũng cho rằng: Thi hành án không mang tính chất tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính hành chính- tư pháp. Ở đây có nhiều điểm khác nhau giữa tố tụng và quá trình thực hiện thi hành án. Hoạt động thi hành án là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá trình thi hành án mang tính hành chính- tư pháp hơn. (đặc biệt là trong thi hành án kinh tế- tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi hành án hình sự đối với loại hình phạt không phả là hình phạt tù) [49, tr. 12]. Xuất phát từ các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở nước ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành chính - tư pháp. Điều này thể hiện ở một số điểm sau đây: - Cơ sở của hoạt động thi hành án là các bản án, quyết định dân sự của Toà án; các cơ quan tham gia vào quá trình thi hành án chủ yếu là cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng); - Thi hành án dân sự là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trước đó (ví dụ: việc thi hành các quyết định khẩn cấp tạm thời của Toà án; trong quá trình thi hành án, Chánh án Toà án, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền yêu cầu cơ
  • 19. 12 quan thi hành án hoãn việc thi hành án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án để xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm...). Tuy nhiên, thi hành án lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan thi hành dân sự đối với thi hành án dân sự. Những quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án. Các cơ quan, tổ chức, công dân, trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Tính chấp hành trong thi hành án phản ánh một đặc trưng chứng tỏ nó không đơn thuần là hoạt động tố tụng thuần tuý. Bên cạnh các chủ thể là Tòa án, Viện kiểm sát, chúng ta có thể thấy các chủ thể tham gia vào giai đoạn thi hành án đông đảo và đa dạng hơn so với các giai đoạn tố tụng trước đó, ví dụ UBND địa phương nơi người phải thi hành án cư trú; cơ quan, tổ chức nơi người phải thi hành án làm việc... - Thi hành án và các giai đoạn tố tụng trước đó có mối quan hệ nhân quả với nhau. Trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nếu ở giai đoạn điều tra, các cơ quan tiến hành tố tụng không kiên quyết áp dụng đầy đủ, kịp thời các biện pháp ngăn chặn như thu giữ, kê biên, phong tỏa tài sản... thì đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án sẽ gặp rất nhiều khó khăn do đương sự cất giấu, tẩu tán tài sản dẫn đến tình trạng án tồn đọng không thể thi hành được. Hoặc nếu một bản án, quyết định được Tòa án tuyên một cách công bằng, thấu tình, đạt lý, rõ ràng, cụ thể, được dư luận ủng hộ, đồng tình thì việc thi hành án sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều. Ngược lại, nếu bản án, quyết định của Tòa án được tuyên không khách quan, toàn diện và công bằng, thiếu tính khả thi sẽ gây cản trở cho việc thi hành án, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, việc thi hành án nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, củng cố, tăng cường uy tín của cơ quan xét xử.
  • 20. 13 - Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân thì Viện Kiểm sát nhân dân không thực hiện chức năng kiểm sát chung như trước đây, có nghĩa là không thực hiện chức năng kiểm sát đối với hoạt động hành chính mà chỉ kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trong Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân hiện hành vẫn có một chương với nhiều điều quy định về kiểm sát thi hành án. Trong thực tiễn, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã ban hành nhiều kháng nghị đối với các quyết định về thi hành án. Tuy nhiên, tính chất của kháng nghị trong giai đoạn thi hành án có nhiều điểm không giống với kháng nghị trong giai đoạn xét xử... Điều này cho thấy rõ mối quan hệ mật thiết, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan thi hành án, giữa pháp luật tố tụng tư pháp với pháp luật về thi hành án, giữa quan hệ pháp luật tố tụng với quan hệ pháp luật về thi hành án. - Quá trình thi hành án nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó, các trình tự, thủ tục thi hành án cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hơn nữa, yêu cầu đặt ra đối với những người tiến hành các trình tự, thủ tục thi hành án, kể cả Chấp hành viên trong thi hành án dân sự cũng không thấp hơn những người tiến hành tố tụng trước đó là phải độc lập và tuân theo pháp luật để bảo đảm duy trì sự thật trong bản án, quyết định của Tòa án và tiến tới đạt được sự thật trên thực tế; nếu không độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì giá trị sự thật mà bản án, quyết định của Tòa án đã xác định sẽ không còn nguyên nghĩa của nó, trừ trường hợp các đương sự có sự thỏa thuận tự nguyện khác trong quá trình thi hành án. - Bản chất của thi hành án là dạng hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác nhau nhằm buộc người có nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định của Tòa
  • 21. 14 án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng của thi hành án là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án được ghi trong bản án, quyết định được thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trưng của hoạt động hành chính. Mặt khác, tính chất chấp hành không chỉ là yêu cầu trong hoạt động thi hành án mà còn là yêu cầu bắt buộc trong các giai đoạn tố tụng trước đó với ý nghĩa cao nhất là chấp hành các quy định của pháp luật, bản thân pháp luật được Nhà nước ban hành có tính bắt buộc chung mà mọi người phải tôn trọng thực hiện. Như vậy có thể đưa ra khái niệm về thi hành án dân sự như sau: “Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính- tư pháp của Nhà Nước, do các cơ quan thi hành án thẩm quyền tiến hành theo một trình tự, thủ tục luật định, nhằm đảm bảo thi hành án các bản án hoặc các quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền”. Trong các văn bản pháp luật về thì hành án thì chưa có văn bản nào đưa ra khái niệm cụ thể về thi hành án dân sự. Dưới góc độ lý luận xung quanh khái niệm “dân sự” trong thi hành án dân sự có hai cách hiểu khác nhau: Ý kiến thứ nhất: Tại điều 1 của Bộ luật dân sự năm 2005 cho rằng quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản phát sinh trong giao lưu dân sự. Vì vậy, những bản án, quyết định dân sự trong thi hành án bao gồm bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản (như bản án, quyết định về tranh chấp các hợp đồng dân sự, về hôn nhân gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự). Ý kiến thứ 2: “Dân sự” ở đây hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.
  • 22. 15 Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Đồng tình với ý kiến này, bởi lẽ theo quy định của pháp luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như đã nêu. 1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự Từ góc độ tiếp cận về khái niệm của thi hành án dân sự, trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác thi hành án dân sự có thể thấy thi hành án dân sự có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Thi hành án mang bản chất hành chính- tƣ pháp - Tính hành chính thể hiện ở chỗ: Thi hành án là dạng hoạt động chấp hành, quản lý. + Là dạng hoạt động chấp hành vì thi hành án chỉ được tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và trong khuôn khổ luật định; toàn bộ quá trình thi hành án với những hoạt động, biện pháp, cách thức khác nhau đều nhằm thực hiện những nội dung đã được thể hiện trong các bản án, quyết định của Tòa án và theo các quy định cụ thể của pháp luật. + Là dạng hoạt động quản lý vì thi hành án là sự tác động của pháp luật, của các cơ quan thi hành án tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của Tòa án; phải tuân theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước. - Tính tư pháp thể hiện ở chỗ: Căn cứ để thi hành án là các bản án và quyết định của Tòa án và có sự tham gia của các cơ quan tư pháp vào quá
  • 23. 16 trình thi hành án. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng tính tư pháp trong thi hành án là tư pháp hiểu theo nghĩa rộng. Trong thực tiễn ở nước ta, cơ quan tư pháp thường được hiểu bao gồm Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án. Điều này là không đúng. Về mặt lý luận, nhiều quốc gia trên thế giới đều xem quyền tư pháp là quyền xem xét và phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp; Tòa án là cơ quan tư pháp độc lập duy nhất. Viện Kiểm sát nhân dân chỉ là cơ quan tham gia các hoạt động tư pháp. Ngay cả Bộ Tư pháp về tên gọi là như thế nhưng vẫn không có quyền tư pháp (quyền phán quyết) mà chỉ là cơ quan quản lý nhà nước về một số lĩnh vực liên quan trong hoạt động tư pháp (luật sư, thi hành án dân sự...). Tương tự như vậy, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án cũng thuộc nhóm cơ quan hành pháp. Hệ quả là không thể dựa vào tính tư pháp trong thi hành án để cho rằng thi hành án là một giai đoạn của tố tụng hành chính. Vì vậy, có thể dùng "cái gạch ngang" giữa hành chính và tư pháp để phản ánh bản chất của thi hành án. Tính chất hành chính - tư pháp là một đặc điểm rất quan trọng cần lưu ý trong khi quy định về tổ chức và hoạt động của thi hành án. Là hoạt động thuộc trách nhiệm của hệ thống cơ quan hành pháp nên trong các quy định của pháp luật thi hành án phải xác định rõ trách nhiệm chính trong tổ chức, quản lý, chỉ đạo công tác thi hành án phải thuộc về Chính phủ và Ủy ban nhân dân các địa phương. Với đặc điểm là hoạt động mang tính chất tư pháp thì những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trực tiếp thi hành án (thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp hành viên) phải có tính độc lập tương đối, hoạt động theo luật và chịu trách nhiệm trước Nhà nước. Thật khó có thể xác định rõ được mức độ (liều lượng) của tính hành chính và tính tư pháp trong thi hành án. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đặc điểm của mỗi loại hình thi hành án cũng như của mỗi nhóm vụ việc trong từng loại hình thi hành án sẽ quy định mức
  • 24. 17 độ của tính hành chính và tính tư pháp và thông thường trong thi hành án, tính tư pháp luôn thể hiện ở mức độ hạn chế hơn so với tính hành chính. Thứ hai: Chủ thể bắt buộc trong quan hệ thi hành án dân sự là Cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và đƣơng sự (Ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời phải thi hành án) Quan hệ THADS luôn tồn tại ba chủ thể bắt buộc là cơ quan THADS, Chấp hành viên và các bên đương sự (Người được thi hành án, người phải thi hành án) hình thành trên cơ sở các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Pháp luật. Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên là chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước để thi hành bản án, quyết định theo quy định. Về nguyên tắc tính chủ động, độc lập của Chấp hành viên trong hoạt động nghiệp vụ luôn được tôn trọng, bảo vệ. Ví dụ, đối với việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án trong thi hành án dân sự, Chấp hành viên chỉ được áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, đó là: khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành án tại ngân hàng, kho bạc: kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang di người thứ ba giữ; buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc buộc phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất đinh; chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau khi người phải thi hành án đã hết thời gian tự nguyện thi hành án (trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án); không được tổ chức cưỡng chế thi hành án trong các ngày nghỉ theo quy định của pháp luật lao đông trong khoảng thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau, mười lăm ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày lễ tết truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án và các
  • 25. 18 trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định; việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi hành án: Chấp hành viên phải căn cứ vào nội dung bản án, quyết định, tính chất, mức độ của nghĩa vụ thi hành án, điều kiện của người phải thi hành án, đề nghị của đương sự và tình hình thực tế tại địa phương để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Thứ ba: Đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của các đƣơng sự Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện, tự thỏa thuận, bình đẳng, hòa giải trong quan hệ dân sự. Ngoài những trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án theo quy định, cơ quan thi hành án chỉ tổ chức thi hành án trên cơ sở yêu cầu của người phải thi hành án, người được thi hành án đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích cho các bên đương sự thực hiện quyền thỏa thuận và tự nguyện thi hành án. Chỉ khi các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì mới bị cưỡng chế thi hành án. Người phải thi hành án có quyền yêu cầu về việc thi hành án khác với nội dung bản án, quyết định tuyên như quyền yêu cầu không thi hành án, hoặc cho người phải thi hành án hoãn việc thi hành án… và được người được thi hành án chấp nhận thì việc thi hành án được thực hiện theo yêu cầu đó. Thứ 4: Trình tự thủ tục thi hành án dân sự dƣợc tiến thành theo một thủ tục trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Trình tự thủ tục THADS là một cơ chế chặt chẽ theo quy định của luật THADS nhằm phục vụ cho chức năng thi hành án. Qua nghiên cứu, thủ tục thi hành án phải đảm bảo chính xác bởi lẽ hoạt động thi hành án là để hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ THADS. Đó là trình tự nhận bản án, quyết định của tòa án nhân dân, nhận đơn yêu cầu thi hành án, ra quyết định thi hành án, xác minh thi hành án, thông báo thi hành án, cưỡng
  • 26. 19 chế thi hành án…. Việc tuân thủ các trình tự này đảm bảo tính dân chủ, công khai, công bằng, đảm bảo cho kết quả của hoạt động thi hành án dân sự là thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án. Vì vậy, nếu cơ quan thi hành án, Chấp hành viên áp dụng pháp luật thi hành án dân sự không chính xác sẽ dẫn đến hậu quả thực tế rất khó khắc phục. Thứ năm: Thi hành án dân sự đề cao tính chủ động của Chấp hành viên Tùy từng trường hợp cụ thể, Chấp hành viên được lựa chọn biện pháp thích hợp, chủ động giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình thi hành án (cưỡng chế, kê biên tài sản, ủy thác thi hành án) sao cho việc thi hành án đạt được mục đích và hiệu quả miễn là đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong thi hành án dân sự, tính chủ động trong hoạt động tác nghiệp của Chấp hành viên được đề cao, Chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành dân sự, căn cứ vào tình hình thực tế của vụ việc để lựa chọn các biện pháp thi hành án phù hợp. Ví dụ: vụ việc đơn giản, ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án tốt thì Chấp hành viên lựa chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi hành các nghĩa vụ của mình theo đúng phán quyết của tòa án hoặc của trọng tài thương mại (trường hợp người được thi hành án yêu cầu người phải thi hành án thi hành toàn bộ các nghĩa vụ theo quy định của bản án, quyết định của tòa án). Ngược lại nếu sau khi xác minh thấy đương sự có điều kiện để thi hành án nhưng xét thấy người phải thi hành án ý thức chấp hành pháp luật không tốt, có biểu hiện tẩu tán tài sản hoặc có tính chây ỳ, không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên lựa chọn, áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế theo quy định trong luật thi hành án dân sự (khấu trừ tài khoản, trừ vào tài khoản, thu hồi giấy có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; phong tỏa tài khoản, tài sản của người phải thi hành
  • 27. 20 án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc, xử lý tài sản của người phải thi hành án kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; buộc giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất hoặc giao vật, tài sản khác; cấm hoặc buộc người phải thi hành án không làm hoặc làm công việc nhất định) để tổ chức thi hành dứt điểm bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của Trọng tài thương mại. 1.1.3. Ý nghĩa và vai trò của thi hành án dân sự Thi hành án dân sự có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Toà án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. - Thi hành án dân sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử nhằm thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với cơ quan xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động tố tụng trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự, kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị xem thường. Vì vậy, khi bản án, quyết định được đưa ra thi hành là đảm bảo hiệu lực pháp luật, hiệu lực pháp lý của Nhà nước, góp phần giữ vững kỷ cương xã hội, nâng cao uy tín của Nhà nước trước nhân dân. - Thông qua thi hành án cũng có thể kiểm tra lại quá trình xét xử trước
  • 28. 21 đó, bản án có thấu tình, đạt lý mới có thể dễ dàng thi hành án trên thực tế, trái lại việc xét xử ra một bản án có sai sót, sẽ khó thi hành án. Từ thực tiễn thi hành án mà Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân và cán bộ Tòa án đã tham gia quá trình xét xử có thể rút ra kinh nghiệm để khắc phục những khiếm khuyết nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, Đồng thời cũng là cơ sở để Tòa án nhân dân tối cao tổng kết, đúc rút kinh nghiệm đưa ra đường lỗi xét xử chung, thống nhất trong toàn ngành. - Thông qua thi hành án, các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật phải chấm dứt các hành vi đó và thực hiện các quyền của mình theo quyết định của Tòa án. Qua thi hành án các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm được khôi phục vì thế bảo đảm thực hiện được mục đích giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ được lợi ích của nhà nước, bảo hộ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. - Thi hành án không chỉ là hoạt động nghiệp vụ của riêng cơ quan thi hành án mà đó là sự kết hợp với vai trò và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; là sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức hữu quan và mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội. Thông qua thi hành án dân sự ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ngày càng được nâng cao và vai trò trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức được đảm bảo, niềm tim của nhân dân vào hệ thống pháp luật, vào bộ máy của Nhà nước ngày càng được vững chắc hơn. 1.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật thi hành án dân sự qua các giai đoạn 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở nước ta tồn tại chế độ Thừa Phát lại. Thừa phát lại được tổ chức ở Việt Nam với nhiệm vụ: thông báo Tòa khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi hành lệnh giữ trật tự
  • 29. 22 tại phiên tòa, tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án, thi hành án văn có hiệu lực pháp luật, triệu tập đương sự, lập các vi bằng theo quy định của Pháp luật. (Theo quy định của Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày 16/3/1010 của Toàn quyền Đông Dương). Thừa phát lại là những công lại được pháp luật giao cho việc làm các truyền phiếu, các việc về tư pháp, việc thi hành các bản án, công văn cũng là công việc nội bộ trong Tòa án (Theo nghị định 111/BTP ngày 02 tháng 02 năm 1950 của Bộ Tư Pháp). Sau cách mạng tháng 8 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, hệ thống cơ quan tư pháp mới được thiết lập trong cả nước, chế độ thừa phát lại được duy trì và chịu sự quản lý của Ban công lại thuộc phòng giám đốc của Bộ Tư pháp.Đến năm 1946 tai sắc lệnh số 13 ngày 20/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán đã đặt cơ sở đầu tiên cho tổ chức thi hành án dân sự Việt Nam. Tại khoản 3, điều 3 Sắc lệnh này quy định “Ban tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh lệnh của thẩm phán cấp trên bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án” Và tại điều 3 của lệnh số 130 ngày 19/7/1946 của Chủ tịch chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã quy định “Trong các xã, thị xã hoặc khu phố ”chủ tịch, phó chủ tịch và thư ký, đều chịu trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh hoặc án”. Về trình tự thi hành án, Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc thi hành án Hình và Hộ đã quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án và quyết định của Tòa án. Cụ thể là: Về nguyên tắc chấp hành: theo dân sự, thương sự tố tụng, người đương sự được kiện, muốn chấp hành bản án của mình phải xin ở phòng lục sự một bản trích lục hoặc toàn sao bản án ấy. Nhưng việc chấp hành vẫn chịu quyền giám thị của chưởng lý và biện lý. Bản thân lục sự của Tòa án phải tự động gửi bản sao bản án cho người đương sự biết và thi hành.
  • 30. 23 Về thể thức thi hành: trong các bản trích lục hoặc bản sao được phòng lục sự cấp cho đương sự, bên dưới phải được lục sự ký: "thừa lệnh Tòa án". Bên chữ ký của lục sự phải có chữ ký của thẩm phán công tố viên "duyệt".Đó là những bản sao có thể thức chấp hành.Bản sao này chỉ được cấp có một lần. Nhưng trong trường hợp đặc biệt, ví dụ: đánh mất bản sao có thể thức chấp hành, ông Chánh án có thể ra mệnh lệnh cho phép phòng lục sự cấp một bản toàn sao khác có thể thức chấp hành. Vị chưởng lý và biện lý có nhiệm vụ kiểm soát những thể thức chấp hành này. Về cách thức thi hành: pháp luật đặt ra những công lại riêng để thi hành các án hộ và thương mại, được gọi là các thừa phát lại. Tuy nhiên, thừa phát lại trước năm 1945 là lý trưởng, thì nay trong tổ chức tư pháp mới là tư pháp xã. Chức năng này của ban tư pháp xã đã được quy định chính thức trong Sắc lệnh số 13, ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Khi cần thiết, các vị chỉ huy binh lực sẽ can thiệp vào việc thi hành án. Tuy nhiên, việc dân sự không có một cách thức thi hành duy nhất. Tuỳ theo bản chất, mỗi loại án hộ có một cách thức thi hành riêng. Các thẩm phán phải thấu triệt những thủ tục chấp hành và phải theo dõi công việc xem có đạt được kết quả không. Nếu cần, thẩm phán nên thân hành đến chứng kiến việc làm của các cơ quan thừa hành. Mỗi khi có trở lực trong việc chấp hành, ông biện lý có bổn phận can thiệp để tỏ rõ nhiệm vụ làm cho pháp luật được tôn trọng. Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, dù phải đương đầu với biết bao khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền non trẻ trước sự tấn công của thù trong, giặc ngoài, Nhà nước ta vẫn không ngừng quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức thi hành án dân sự. Bên cạnh đó đã từng bước hình thành pháp luật thi hành án dân sự, xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nhằm thể hiện bản
  • 31. 24 chất của nền Tư pháp nhân dân, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy còn ở những bước đi ban đầu nhưng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự đã có những đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển của nền Tư pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước dân chủ nhân dân. Tuy vậy, ở giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự vẫn còn rất sơ khai, pháp luật thi hành án dân sự chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo. Như vậy, tổ chức thi hành án dân sự đã được hình thành ngay trong những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám thành công và tồn tại dưới hai hình thức là Thừa phát lại và Ban tư pháp xã. Tuy tồn tại hai lực lượng thi hành án nhưng việc thi hành án đều thể hiện quyền lực nhà nước và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1980 Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác thi hành án dân sự có một sự thay đổi lớn về cơ chế quản lý và tổ chức hoạt động, với việc ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”, theo đó Điều 19 của Sắc lệnh này quy định: “Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hay Tòa án trên đã tuyên”. Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được giao cho Thẩm phán huyện thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sắc lệnh này đã giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự cho một cơ quan cấp huyện thay vì cơ quan cấp xã như trước đây, cho thấy vai trò và vị trí của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nâng cao. Bước sang năm 1960, công tác thi hành án tiếp tục có thêm bước phát triển mới, đó là trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Điều 24 Luật Tổ chức Toà án
  • 32. 25 nhân dân năm 1960 đã quy định: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự”. Như vậy, thay bằng quy định Thẩm phán vừa thực hiện công tác xét xử, vừa kiêm nhiệm công tác thi hành án dân sự thì theo quy định mới này từ năm 1960, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án chuyên trách thực hiện nhiệm vụ thi hành dân sự. Ngày 14 tháng 11 năm 1974, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định thành lập Phòng chỉ đạo thi hành án. Trong thời kỳ này, Phòng chỉ đạo thi hành án là một Phòng hoạt động độc lập dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, giúp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nắm tình hình, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác thi hành án của Chấp hành viên tại Tòa án nhân dân các cấp; xây dựng các văn bản chỉ đạo chung về thi hành án. Có thể nói, từ năm 1960 đến năm 1980 ngành Tòa án nhân dân đã thực sự quan tâm tới việc xây dựng, phát triển tổ chức và hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự. Trong thời kỳ này, các cơ quan của Nhà nước và Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành các văn bản quy định cụ thể, rõ ràng về nguyên tắc, trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự và được áp dụng thống nhất trong cả nước; Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án về lý luận chính trị và nghiệp vụ, tăng cường phương tiện phục vụ công tác thi hành án cho Chấp hành viên và nhân viên thi hành án. Đồng thời với việc ra đời chức danh Chấp hành viên và sự phát triển đội ngũ Chấp hành viên trong Tòa án nhân dân các cấp, hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên đã góp phần bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
  • 33. 26 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993 Ngày 18 tháng 12 năm 1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ hoà bình, đánh dấu một dấu mốc lịch sử quan trọng khi đất nước ta chuyển mình sang một giai đoạn mới: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Hiến pháp năm 1980 đã đưa ra yêu cầu Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 12). Với tinh thần thượng tôn pháp luật đó, Hiến pháp năm 1980 cũng đã lần đầu tiên ghi nhận thành nguyên tắc hiến định về giá trị thi thành của các bản án, quyết định: Các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm túc chấp hành (Điều 137). Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng giúp ngành Thi hành án dân sự có những chuyển biến quan trọng trong lịch sử phát triển của mình trong giai đoạn 1981-1989. Tiếp theo, Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng đã đổi tên Hội đồng Chính phủ thành Hội động Bộ trưởng, trong Luật này có ghi danh sách các Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp, sau đó ngày 22 tháng 11 năm 1981, Nghị định số 143/HĐBT đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký ban hành. Sau khi được tái lập, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ nhiều hơn và có hệ thống tổ chức bộ máy lớn hơn so với Bộ Tư pháp trước đây. Trong đó, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ quản lý Toà án địa phương, trong đó có công tác thi hành án dân sự (Vụ Quản lý Toà án). Theo quy định tại Thông tư số 08-TT ngày 06 tháng 01 năm 1982 hướng dẫn thực hiện Nghị định 143-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức của các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, trong cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp có Phòng quản lý Toà án tham
  • 34. 27 mưu cho Sở Tư pháp quản lý về mặt tổ chức các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã; phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân cấp tỉnh trong công tác này; Quản lý công tác tư pháp khác tại địa phương bao gồm cả công tác chấp hành án. Đối với Ban Tư pháp huyện có nhiệm vụ : Chấp hành các án dân sự và hôn nhân gia đình do Toà án huyện xét xử hoặc Toà án tỉnh ủy nhiệm . Đối với Ban Tư pháp xã có nhiệm vụ: Tham gia đôn đốc việc thi hành các bản án dân sự và hôn nhân gia đình thuộc phạm vi xã do Toà án huyện và Ban Tư pháp huyện chuyển về. Cũng ở thời điểm này, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 được Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 7 năm 1981 đã giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143-HĐBT ngày 22 tháng 11 năm 1981 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp quy định Bộ Tư pháp có chức năng quản lý Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án. Ngày 01 tháng 01 năm 1982, Toà án nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án trong phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp. Ngày 18 tháng 7 năm 1982, Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân Tối cao đã ký Thông tư liên ngành số 472 về công tác quản lý thi hành án trong thời kỳ trước mắt, trong đó quy định: - Tại các Toà án nhân dân cấp tỉnh có Phòng thi hành án nằm trong cơ cấu bộ máy và biên chế của Toà án để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án. - Tại các Toà án cấp huyện có Chấp hành viên hoặc cán bộ làm công tác thi hành án dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Ngày 28 tháng 8 năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự - một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, lần đầu tiên đã được ban hành, đặt
  • 35. 28 cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, quy chế Chấp hành viên đã được ban hành kèm theo Nghị định số 68/HĐBT ngày 06 tháng 3 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989 và Quy chế chấp hành viên thì chỉ có chấp hành viên là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án (trước đây việc thi hành án ngoài Chấp hành viên còn có thể do cán bộ thi hành án thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế Chấp hành viên, cán bộ thi hành án cho từng Tòa án địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương. Chấp hành viên được bổ nhiệm ở các Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện. Với việc ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989, cơ chế thi hành án đã có bước thay đổi căn bản. Theo Pháp lệnh này, cơ chế kết hợp quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động của Cơ quan thi hành án và Chấp hành viên đã tạo ra sự phát triển mới trong công tác thi hành án dân sự. Quyền tự định đoạt của đương sự, một trong những nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, trước đây mới chỉ được áp dụng trong giai đoạn xét xử, thì nay đã được vận dụng trong giai đoạn thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập tiếp theo giai đoạn xét xử, trong giai đoạn này người được thi hành vẫn có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình, có quyền yêu cầu người phải thi hành án thi hành những phán quyết của Tòa án, nhưng cũng có quyền tự hòa giải, thỏa thuận với người phải thi hành án về phương thức thi hành, thậm chí không yêu cầu người phải thi hành án thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Quyền tự định đoạt của đương sự đã trở thành một nguyên tắc quan trọng trong công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, Pháp lệnh năm 1989 vẫn có những quy định về quyền chủ
  • 36. 29 động thi hành của cơ quan thi hành án trong những trường hợp nhất định nhằm bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công dân. Cùng với sự đổi mới của cơ chế thi hành án, đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án cũng không ngừng được củng cố và tăng cường. Từ chỗ Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ xét xử, vừa tổ chức thực hiện nhiệm vụ thi hành án, đội ngũ cán bộ thi hành án đã được chuyên môn hóa, có chức danh, tiêu chuẩn riêng và chịu trách nhiệm trước Nhà nước về việc thực hiện các phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên, mặc dù cơ chế thi hành án đã từng bước được hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước, nhưng sự chỉ đạo điều hành công tác thi hành án vẫn chưa được thay đổi phù hợp. Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên thuộc Tòa án, do Tòa án trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động thi hành án. Mọi quyết định quan trọng trong thủ tục thi hành án đều thuộc thẩm quyền của Chánh án. Chấp hành viên với trách nhiệm là “Người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án” thực ra chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của Chánh án, không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Mặt khác, Chánh án với tư cách là người chịu trách nhiệm về tổ chức và hoạt động xét xử phải đồng thời là người chỉ đạo việc thi hành các phán quyết của Tòa án, dẫn đến tình trạng quá tải về công việc, có nơi, có lúc chưa giải quyết kịp thời các yêu cầu thi hành án đặt ra. Hơn nữa, Tòa án vừa là cơ quan xét xử duy nhất, vừa là cơ quan làm nhiệm vụ thi hành án, dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, chưa thực sự đảm bảo sự khách quan, công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, gây ra sự băn khoăn, lo lắng trong nhân dân về hiệu quả công tác này.
  • 37. 30 Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao trong công tác quản lý Toà án địa phương diễn ra thuận lợi trong thời gian đầu nhưng từ năm 1989 đã xuất hiện những ý kiến khác nhau về trách nhiệm quản lý Toà án địa phương. Do trọng tâm của Tòa án là xét xử nên trong một thời gian dài tổ chức hoạt động thi hành án chưa được quan tâm đầy đủ. Số cán bộ giỏi thường được bổ sung sang làm Thẩm phán, đội ngũ cán bộ luôn luôn bị xáo trộn không được quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, chế độ, chính sách không được chú ý đúng mức. Lực lượng chấp hành viên, cán bộ thi hành án vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho hoạt động thi hành án hầu như không được trang bị; quản lý Nhà nước về công tác thi hành án bị buông lỏng; số việc tồn đọng chưa được thi hành chiếm tỷ lệ cao;… điều này đã vi phạm trật tự kỷ cương Nhà nước, vi phạm pháp chế XHCN, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật. 1.2.4. Giai đoạn từ 1993 đến nay Đây là giai đoạn công tác thi hành án dân sự được chuyển giao hoàn toàn từ Tòa án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ thông qua việc Quốc hội Khóa IX ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Toà án nhân dân các cấp sang các cơ quan thuộc Chính phủ; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 266-TTg ngày 02/6/1993 về việc triển khai việc bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự và liên ngành giữa Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư liên ngành số 01-TTLN ngày 26/5/1993 hướng dẫn việc bàn giao công tác thi hành án dân sự và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993.
  • 38. 31 Những cơ sở pháp lý quan trọng này đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cải cách về công tác Thi hành án dân sự từ đó đến nay. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay đã chứng kiến sự phát triển không ngừng của ngành Thi hành án dân sự cả về thể chế, tổ chức bộ máy và đội ngũ Chấp hành viên, công chức Thi hành án dân sự. Trên cơ sở Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 21/4/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 30/CP ngày 02/6/1993 quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên. Theo quy định của Nghị định 30/CP, các cơ quan Thi hành án dân sự gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu và tương đương. Ở Trung ương, Cục Quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý tổ chức, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc. Như vậy, kể từ ngày 01/7/1993, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được xây dựng theo cơ cấu từ Trung ương đến cấp huyện, do Chính phủ thống nhất quản lý và chỉ đạo. Trong thời gian này, công tác thi hành án dân sự ngày càng trở nên nặng nề hơn. Các cơ quan thi hành án dân sự được bổ sung nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định về kinh tế, lao động, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hành chính; bản án, quyết định của toà án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành; giá trị tiền, tài sản phải thi hành ngày càng lớn, tính chất ngày càng phức tạp. Đứng trước những khó khăn, thử thách mới, ngành Tư pháp nói chung và Hệ thống Thi hành án dân sự nói riêng đã có nhiều nỗ lực vượt bậc. Đảng, Nhà nước ta đã dành sự quan tâm to lớn đối với công tác thi hành án dân sự. Trong điều kiện khó khăn
  • 39. 32 chung của đất nước, Chính phủ vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan thi hành án cả về kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị và biên chế nhằm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường xuyên theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo về công tác tư pháp, nhất là công tác thi hành án dân sự. Tại các kỳ họp, Quốc hội đều nghe và cho ý kiến đối với báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án. Nhờ đó, công tác thi hành án dân sự trong giai đoạn này đã đạt được kết quả quan trọng, từ năm 1993 đến hết năm 2003, các cơ quan Thi hành án dân sự đã thi hành xong 1.195.754 việc, thu được trên 9.697 tỷ đồng. Chính vì vậy, tại Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự đã ghi nhận: "Hệ thống tổ chức các cơ quan Thi hành án dân sự đã được hình thành trong cả nước, công tác thi hành án dân sự đã được triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu, làm giảm đáng kể số lượng án tồn đọng". Ngày 14/01/2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 với nhiều đổi mới quan trọng về thi hành án dân sự, trong đó có cả đổi mới về tổ chức, cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự và trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Trên cơ sở của Pháp lệnh này, ngày 11/4/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/2005/NĐ-CP. Theo quy định của Nghị định số 50/NĐ-CP, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được giao thêm nhiều nhiệm vụ quan trọng như tổ chức áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành án dân sự trong toàn quốc, hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo về thi hành án; giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý theo ngành dọc đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện;… Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49- NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết này đã chỉ rõ “Chuẩn bị các điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để thực hiện việc chuyển
  • 40. 33 giao tổ chức và công tác thi hành án cho Bộ Tư pháp, giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án…”. Các cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh , cấp huyện, từ chỗ là Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp trở thành hệ thống cơ quan tương đối độc lập. Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan chịu sự quản lý, chỉ đạo của Bộ Tư pháp về tổ chức, cán bộ, công chức, kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Thi hành án dân sự cấp huyện trực thuộc và chịu sự quản lý, chỉ đạo của Thi hành án dân sự cấp tỉnh về kinh phí và nghiệp vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện về mặt nhà nước theo quy định của pháp luật. Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự tiếp tục được củng cố, kiện toàn cả về số lượng và chất lượng; cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kinh phí hoạt động của các cơ quan Thi hành án được tăng cường. Nhờ đó, công tác thi hành án dân sự ngày càng có sự chuyển biến tích cực, kết quả thi hành án về việc và tiền năm sau cao hơn năm trước, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giữ vững trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá 12 đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Ngày 09/9/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 74/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự. Theo đó, hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương
  • 41. 34 xứng với nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Theo quy định của Nghị định số 74/NĐ-CP, ở Trung ương, Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật; cấp tỉnh có Cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và cấp huyện có Chi cục Thi hành án dân sự là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự. Để thi hành Luật thi hành án dân sự Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự. Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở các quy định của Luật, việc tổ chức thi hành án đã đạt nhiều kết quả quan trọng, cụ thể là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò công tác thi hành án được nâng lên rõ rệt, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đầy đủ; việc kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, cán bộ làm công tác thi hành án theo quy định của Luật cơ bản được hoàn thành.; vị thê cơ quan thi hành án được nâng lên và nhận được sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính quyền địa phương thông qua cơ quan thi hành án có trách nhiệm trực tiếp báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của cơ quan THADS đã được cải thiện một bước, xây dựng trụ sở, kho vật chứng cũng đã được quan tâm thực hiện; công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng được tăng cường và triển khai
  • 42. 35 bài bản nhờ đó kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực và đạt kết quả khả quan. Tuy nhiên, so với đòi hỏi của thực tiễn và yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì Luật thi hành án năm 2008 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Để hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tiếp tục tạo chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, góp phần đảm bảo thực hiện các quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Ngày 25/11/2014, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, điều này nhằm tháo gỡ những vấn đề không còn phù hợp khi mà các quan hệ xã hội đang ngày càng có nhiều thay đổi đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có những sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Luật Thi hành án dân sự trước khi được thông qua đã được triển khai lấy ý kiến đóng góp rộng rãi. Đến nay, các ý kiến đóng góp thiết thực đã được tập hợp và thể chế hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự cũng như nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác thi hành án dân sự. Chính thức có hiệu lực thi hành kể từ 01/7/2015, xét về khía cạnh dung lượng sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ không phải là ít, tuy nhiên hệ thống các văn bản hướng dẫn thì lại chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho tương thích, chưa kể đến một số quy định được sửa đổi, bổ sung mặc dù chưa được áp dụng trên thực tế nhưng đã bộc lộ những điểm chưa thực sự phù hợp trên phương diện lý luận. Để thi hành Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, ngày 18/7/2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2015 và thay thế Nghị định số
  • 43. 36 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự; Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, thi hành án là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp tham gia thực hiện quyền tư pháp.
  • 44. 37 Kết luận chƣơng 1 Qua nghiên cứu một số vấn đề về thi hành án dân sự, từ đó rút ra được một số khái niệm quan trọng về thi hành án dân sự cũng như đặc điểm, ý nghĩa của công tác thi hành án dân sự. Hiểu được quá trình phát triển của pháp luật thi hành án dân sự qua các thời kỳ qua đó nắm được sự phát triển của tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự cũng như hoạt động thi hành án dân sự Việt Nam. Thi hành án dân sự là hoạt động của nhà nước để đưa ra bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác được tôn trọng và thực hiện trên thực tế nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề lý luận đã được trình bày là cơ sở để xem xét, đánh giá thực tiễn hoạt động công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình nói riêng và công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam nói chung. Từ đó có phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
  • 45. 38 Chương 2 THỰC TIỄN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở TỈNH NINH BÌNH 2.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội ảnh hƣởng đến việc thực hiện thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình 2.1.1. Đặc điểm về vị trí địa lý, tự nhiên Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực nam miền Bắc Việt Nam, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng. Về đơn vị hành chính, hiện nay Ninh Bình có 2 thành phố và 6 huyện (145 đơn vị hành chính cấp xã gồm 121 xã, 17 phường và 7 thị trấn). Quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế xếp Ninh Bình vào vùng duyên hải Bắc Bộ. Mặc dù được xếp vào khu vực đồng bằng Bắc Bộ nhưng Ninh Bình chỉ có 2 huyện duyên hải là Yên Khánh và Kim Sơn không thuộc miền núi. Vùng đất này từng là kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Tây Sơn. Vùng đất Ninh Bình xưa là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968 - 1010 với 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý và cũng là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời sở hữu 2 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Phía bắc giáp với Hòa Bình, Hà Nam, Phía đông giáp Nam Định qua sông Đáy, Phía tây giáp Thanh Hóa, Phía nam giáp biển (vịnh Bắc Bộ). Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía nam.Địa hình, vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình.Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía tây bắc bao gồm các
  • 46. 39 huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Đỉnh Mây Bạc thuộc rừng Cúc Phương với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình.Vùng đồng bằng ven biển ở phía đông nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Với những yếu tố thuận lợi về giao thông, vị trí địa lý, tỉnh Ninh Bình có nhiều tài nguyên thích hợp để phát triển các vùng nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thủy hải sản, hoa quả xuất khẩu hay các loại nông sản, thủ công mỹ nghệ, đặc biệt là tài nguyên đá vôi và các loại khoáng sản phù hợp để phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình và lịch sử văn hóa, Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng. Ninh Bình được ví như một Việt Nam thu nhỏ. 2.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội Ninh Bình được biết đến như một miền đất của các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu là chùa, đền, đình, miếu gắn liền với các lễ hội. Ninh Bình là chiếc nôi của nhiều nghề truyền thống như: Nghề chạm khắc đá ở Ninh Vân (Hoa Lư), nghề mộc ở phường Ninh Phong (thành phố Ninh Bình), nghề dệt chiếu và chế biến cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, nghề thêu ren ở Ninh Hải (Hoa Lư), nghề đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan. Nền kinh tế của Ninh Bình chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp. Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng (công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương. Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch. Nghề thủ công truyền thống địa phương có: thêu ren Văn Lâm, đá mỹ nghệ Ninh Vân ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn,