SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ DIỆU HIỀN
NG¦êI TIÕN HµNH Tè TôNG TRONG TOµ ¸N NH¢N D¢N
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Diệu Hiền
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ .............................................................................. 8
1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân...... 8
1.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà
án nhân dân với nhau và với những người tiến hành tố tụng
hình sự trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân............ 20
1.2.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án
nhân dân với nhau............................................................................ 20
1.2.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án
nhân dân và người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra .. 23
1.2.3. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án
nhân dân với người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát
nhân dân........................................................................................... 26
1.3. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán, Bồi thẩm
đoàn một số nước trên thế giới ...................................................... 35
1.3.1. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn Toà án bang, Toà án liên bang của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .................................................................. 35
1.3.2. Thẩm phán một số nước khác........................................................... 38
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN
DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................. 41
2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người tiến
hành tố tụng trong Toà án nhân dân............................................. 41
2.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003..... 41
2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về người tiến
hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân .................................... 45
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của luật tố tụng hình sự Việt
Nam về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân ............. 57
2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân....................................... 57
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................... 62
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG
TOÀ ÁN NHÂN DÂN .................................................................... 74
3.1. Hoàn thiện luật tố tụng hình sự về người tiến hành tố tụng
hình sự trong Toà án nhân dân...................................................... 74
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 16 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 75
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung Điều 13, Điều 104 của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.......................................................................................... 78
3.1.3. Sửa đổi, bổ sung Điều 46 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 80
3.1.4. Sửa đổi, bổ sung Điều 44, Điều 45 của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003.......................................................................................... 82
3.1.5. Sửa đổi, bổ sung Điều 38 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 83
3.1.6. Hoàn thiện một số quy định khác của luật tố tụng hình sự có liên
quan đến người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân ................ 84
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến
hành tố tụng hình sự Trong toà án nhân dân ............................... 88
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của
những người tiến hành tố tụng hình sự ............................................. 88
3.2.2. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự của
những người tiến hành tố tụng.......................................................... 89
3.2.3. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp
và địa vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng hình sự............ 90
3.2.4. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật và công tác trao đổi nghiệp vụ của Tòa án
nhân dân tối cao với các Tòa án địa phương để tháo gỡ những
vướng mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các
loại vụ án.......................................................................................... 98
KẾT LUẬN............................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 102
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng việt
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
TAND Toà án nhân dân
TANDTC Toà án nhân dân tối cao
THTT Tiến hành tố tụng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình xét xử của ngành Tòa án nhân dân từ
2009 - 2013 60
Bảng 2.2: Tỷ lệ, nguyên nhân bản án, quyết định bị huỷ, sửa từ
2009 - 2013 61
Bảng 2.3: Tình hình án sửa, hủy của Toà chuyên trách TAND
tỉnh Nam Định từ 2009 - 2013 63
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án hình sự là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của TAND. Hệ
thống cơ quan TAND bao gồm TAND các cấp và Toà án quân sự. TAND các
cấp có nhiệm vụ quan trọng hơn cả vì những vụ án hình sự phần nhiều thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND các cấp còn số lượng án thuộc thẩm quyền xét
xử của Toà án quân sự không nhiều. Số lượng án hình sự mà hàng năm
TAND các cấp phải thụ lý để xét xử chiếm đa phần án hình sự của cả nước.
Để quá trình xét xử đưa lại kết quả của vụ án mang tính khách quan,
chính xác đúng pháp luật thì chúng ta cần có đội ngũ những người tiến hành
tố tụng trong TAND có tinh thần trách nhiệm, có đạo đức lương tâm nghề
nghiệp, có trình độ chuyên môn cao. Trong thực tiễn của quá trình xét xử
những người THTT trong TAND luôn làm việc công tâm, hết mình với sự
nghiệp đấu tranh để “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [24, tr.8]. Do người
THTT hình sự trong TAND có vị trí, vai trò quan trọng nên trong những năm
gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến đội ngũ này; không
chỉ tăng cường về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng nhằm nâng cao hiệu
quả của hoạt động TTHS. Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của người
THTT hình sự còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ so với yêu
cầu cải cách tư pháp đặt ra. Điều này có nhiều nguyên nhân, BLTTHS năm
2003 “được xác định là cơ bản, toàn diện và dựa trên cơ sở những nội dung
cải cách tư pháp đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng và Hiến
pháp 1992 (sửa đổi)” [36, tr.8] còn có những hạn chế trong quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT hình sự trong TAND như chưa cụ thể,
2
rõ ràng làm giảm tính độc lập của những người THTT trong TAND. Do lỗi
chủ quan của người THTT vẫn còn án oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội
phạm. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần quy định đầy đủ, rõ ràng, khoa học về
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người THTT trong TAND.
Hiện nay khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều
công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể hoặc
nghiên cứu cụ thể về các cơ quan tiến hành tố tụng như Toà án, Viện kiểm
sát, Cơ quan điều tra nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu về người
THTT hình sự trong TAND. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện
công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005
của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội
dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù
hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật… để
đổi mới tổ chức hoạt động của toà án nhằm nâng cao chất lượng xét xử đối với
các vụ án hình sự” [3, tr.4]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng
định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt
động xét xử làm trung tâm,…” [11, tr.127]. Do đó việc nghiên cứu các quy định
của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về người THTT trong TAND để làm rõ
nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của họ và đưa ra một số giải pháp để nâng cao
chất lượng của những người tiến hành tố tụng này để đảm bảo được sự công
bằng, vô tư, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội
là một vấn đề rất quan trọng. Đó là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa
chọn đề tài: “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam”.
3
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề hoàn thiện các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là TAND
trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay đang là một vấn đề cấp bách và được
rất nhiều người đề cập tới như TS. Nguyễn Ngọc Chí – khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hoàn thiện nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự; T.S. Nguyễn Ngọc Chí,
đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự. Có đề tài
luận văn của các học viên ở các khoá trước cũng nghiên cứu về Người tiến
hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Bên
cạnh đó cũng có những giáo trình luật tố tụng hình sự của trường Đại học
Luật Hà Nội, Đại học quốc gia Hà Nội, các sách chuyên khảo đều có những
chương riêng viết về cơ quan THTT và người THTT. Trên chuyên trang của
báo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự có rất nhiều bài viết của các tác giả có
liên quan tới cơ quan THTT, người THTT, Thực trạng và một số kiến nghị
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Phó Chánh án Toà án
nhân dân tối cao, Trần Văn Độ, tăng quyền cho người trực tiếp tiến hành tố
tụng, nguyên tắc việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham
gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: thực tiễn và bất cập
Giáo trình pháp luật nước ngoài cũng có những chương viết về những
vấn đề liên quan. Trong cuốn giáo trình giới thiệu về hệ thống pháp luật Hoa
Kỳ tại chương 7 là bài viết về các Thẩm phán liên bang; ngài Allaster Cox,
đại sứ Australia cung cấp cuốn sổ tay Thẩm phán với rất nhiều ý nghĩa cho
ngành Toà án.
Qua quá trình khảo sát trên đây ta thấy ở trong và ngoài nước đã có một
số công trình nghiên cứu cơ bản về người THTT, cơ quan THTT nhưng mới
chỉ dừng lại ở mức độ chung và chưa khái quát được người THTT hình sự
trong TAND ở trong một công trình nghiên cứu hay trong một bài viết. Đa
4
phần bài viết và công trình nghiên cứu về một cơ quan tiến hành tố tụng như
Toà án, Viện kiểm sát hay một người tiến hành tố tụng cụ thể như Thẩm phán
Toà án, hay Hội thẩm nhân dân trong quá trình tố tụng.
Tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định
việc nghiên cứu đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân
theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có
tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu các quy định của luật TTHS về người THTT trong TAND.
- Nghiên cứu nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người THTT trong
thực tiễn để thấy được kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự.
- Đưa ra hướng hoàn thiện về các quy định của người THTT trong
TAND, cũng như đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của
người THTT trong TAND trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để đưa lại
kết quả khách quan cho kết quả của vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như oan sai cho người vô tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái niệm cơ quan THTT, người THTT, người THTT trong TAND,
nghiên cứu đặc điểm, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người THTT
trong TAND, xác định mối quan hệ với người THTT trong các cơ quan khác
như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
- Khái quát sự hình thành, thay đổi và phát triển về những quy định đối
với người THTT hình sự trong TAND trong lịch sử luật tố tụng hình sự Việt
nam từ năm 1946 đến nay để đưa ra nhận xét, đánh giá.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn về hoạt động của người THTT trong
5
TAND, chỉ ra những tồn tại, hạn chế của họ còn mắc phải trong quá trình tố
tụng để giải quyết các vụ án hình sự và những nguyên nhân
- Đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp
luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm, trình độ, năng lực, đạo đức nghề
nghiệp của những người THTT trong TAND để hoạt động của họ đem lại kết
quả của vụ án hình sự mang tính khách quan, tôn trọng pháp luật, bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xã hội.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt
động của người THTT trong TAND theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết
hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động của người THTT trong
thực tiễn xét xử của TAND các cấp và nguyên nhân của những tồn tại, hạn
chế trong quá trình xét xử vụ án hình sự để kiến nghị những giải pháp hoàn
thiện luật thực định và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của TAND.
Nghiên cứu chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS.
Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan tới Luật tổ chức TAND. Nghiên
cứu quy định của luật một số nước về người THTT trong TAND. Đánh giá
thực trạng hoạt động của người THTT trong TAND trong khoảng thời gian 5
năm trở lại đây.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp
được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
6
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như: phương
pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học
về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự
nói riêng, những thành tựu của các khoa học: luật hình sự, luật TTHS, điều tra
hình sự.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Xây dựng nên khái niệm người THTT trong TAND, chỉ rõ ra nhiệm
vụ, trách nhiệm quyền hạn của họ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Qua đó so sánh về sự khác nhau giữa người THTT trong TAND ở một số nước
có hệ thống luật khác với nhà nước ta, tìm được ưu khuyết điểm để rút ra bài
học, kinh nghiệm.
- Nghiên cứu tổng hợp những thay đổi trong quy định của luật tố tụng
hình sự việt nam từ năm 1946 đến nay về THTT hình sự trong TAND
- Nghiên cứu đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định
của pháp luật về người THTT trong TAND
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể
được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của cơ quan
THTT hình sự là TAND và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng,
sửa đổi BLTTHS, và một số văn bản quy phạm pháp luật khác
- Về mặt thực tiễn: Có thể khai thác vận dụng những kết quả nghiên
cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong quá
trình xét xử giải quyết vụ án hình sự để đem lại kết quả khách quan, minh
bạch cho vụ án hình sự, tránh làm oan sai người vô tội cũng như việc bỏ
lọt tội phạm.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng trong Toà
án nhân dân theo luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người tiến
hành tố tụng trong Toà án nhân dân và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Toà án
nhân dân.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân
Ngay từ khi ra đời, “TTHS cũng như luật TTHS đã được đặt trên vai
nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật và an ninh xã hội – điều kiện trọng yếu nhất
quyết định tới sự phát triển bền vững của một quốc gia” [10, tr.30]. Tiến hành
các hoạt động tố tụng là nhu cầu tất yếu trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự khi có tội phạm xảy ra, hướng tới việc áp dụng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội ở các xã hội có nhà nước. Nhà nước thực hiện chức
năng này thông qua việc thiết lập ra các cơ quan để đảm nhiệm các hoạt động
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đó là các hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các cơ quan thực hiện những chức
năng này để giải quyết các vụ án hình sự được gọi là các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự. “Khi THTT giải quyết các vụ án, các cơ quan THTT có trách
nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm
tội, bị can, bị cáo” [6].
Như vậy cơ quan THTT hình sự là các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo
đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan
THTT phải được dựa trên cơ sở và phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự.
Nếu như cơ quan THTT hình sự là các pháp nhân công quyền trong
lĩnh vực tư pháp đại diện cho nhà nước tiến hành các chức năng buộc tội và
xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì người THTT hình sự trong
9
các cơ quan đó có trách nhiệm thực thi các quyền hạn, trách nhiệm để thực
hiện chức năng của các cơ quan THTT hình sự. Theo quy định của BLTTHS
năm 2003, người THTT hình sự là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự,
có vai trò quan trọng mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải
quyết vụ án hình sự cũng như trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Những người THTT hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng
hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách
nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo
vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân. “Khi THTT giải quyết các vụ án, người THTT không được lợi dụng quyền
tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người bị tình nghi
phạm tội, bị can, bị cáo” [6]. Hoạt động của họ là hoạt động tư pháp (hoạt
động điều tra, truy tố, xét xử). Họ thực hiện những hành vi như áp dụng pháp
luật, được sử dụng quyền lực nhà nước thực hiện theo thủ tục và trình tự tư
pháp chặt chẽ…; họ được bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức do luật định.
Vậy người THTT hình sự là một chức danh tư pháp thể hiện cấp bậc,
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của một người được nhà nước bổ nhiệm
nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được giao nhiệm vụ tiến
hành các hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình
sự và thi hành các bản án, quyết định của toà án theo trình tự, thủ tục do bộ
luật tố tụng hình sự quy định. Trên cơ sở phân loại theo các cơ quan THTT thì
có người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra, người THTT hình sự trong cơ
quan Viện kiểm sát và người THTT hình sự trong Toà án.
Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự thì xét xử là hoạt động trung tâm
với nguyên tắc xuyên suốt là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chỉ Toà án
mới có chức năng xét xử. Ở nhà nước ta, trong bộ máy nhà nước thì Toà án có
10
một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm
để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Toà án là một trong ba cơ quan do
Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất lập ra, chịu trách nhiệm trước
Quốc hội và phải báo cáo về hoạt động của mình tại các kỳ họp Quốc hội.
“Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân
sự, các toà án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [23]. Như vậy xét về chức năng thì chỉ Toà án
là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, trong tố tụng hình sự thì chỉ Toà án mới
có thẩm quyền xét xử hình sự, chỉ Toà án mới có quyền tuyên bố một người
phạm tội hay không phạm tội “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [24, tr.12].
Hệ thống tổ chức của Toà án được ghi nhận tại Hiến pháp 1992 tại Điều
127 và được cụ thể hoá ở Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2002. Theo đó Toà
án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, bao gồm:
TAND tối cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; các TAND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh; các Toà
án quân sự; các toà án khác do luật định. Về mặt cơ cấu tổ chức Toà
án bao gồm có Toà án nhân dân và Toà án quân sự. TAND có thẩm
quyền xét xử những vụ án hình sự ngoài lĩnh vực quân sự bao gồm
TAND tối cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các
TAND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh. Toà án quân sự
gồm: Toà án quân sự trung ương nằm trong cơ cấu của TAND tối
cao, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân
sự khu vực [23, Điều 2].
Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự
mà bị cáo là: Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng,
quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra
11
tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu
với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ
quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; Thường dân phạm
tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng
cho quân đội; Những người khác được pháp luật quy định thuộc
thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự [22, Điều 3].
Trong thực tế thì hành vi phạm tội có liên quan đến lĩnh vực quân sự rất
ít khi xảy ra, ngược lại hành vi phạm tội trong dân sự diễn biến rất phức tạp, số
vụ án mà TAND phải thụ lý hàng năm gấp rất nhiều lần so với số vụ án hình sự
mà Toà án quân sự phải thụ lý. Chính vì vậy vai trò của TAND trong hoạt động
xét xử để đấu tranh phòng chống tội phạm là quan trọng hơn cả.
Để thực hiện chức năng xét xử thì cần phải có đội ngũ những người
THTT hình sự trong TAND. Những người THTT hình sự trong TAND là
những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử và quyết định hình phạt
đối với người phạm tội. Vì vậy để pháp luật được nghiêm minh, công tác
xét xử đạt hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của người THTT
hình sự trong TAND. Vai trò, nhiệm vụ của họ đặc biệt quan trọng, điều
này đòi hỏi họ phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử
của mình. Bên cạnh đó thì trình độ, năng lực của những người THTT hình
sự trong TAND này phải được bồi dưỡng, nâng cao vì vậy việc bổ nhiệm,
tuyển chọn cũng như việc quy định quyền hạn, trách nhiệm đều được Pháp
luật tố tụng hình sự quy định.
Theo quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 33 của Bộ luật TTHS năm thì
người THTT hình sự bao gồm Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND. Theo quy định của Điều 18 và Điều 27
Luật tổ chức Toà án thì cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân bao gồm Chánh
án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND và Hội thẩm nhân dân.
12
Như vậy Chánh án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND và Hội
thẩm nhân dân là những người THTT hình sự trong TAND. Chánh án, Phó
Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND là những người được bổ nhiệm,
tuyển dụng theo quy định của pháp luật vào biên chế của TAND nên họ
đương nhiên là người THTT hình sự trong TAND. Riêng đối với Hội thẩm
nhân dân họ không thuộc biên chế của TAND họ không phải là người làm
việc chuyên nghiệp trong cơ quan tố tụng nào mà họ công tác ở nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau. Họ không phải do bổ nhiệm hay tuyển dụng mà
được bầu bởi cơ quan quyền lực nhà nước để tham gia vào hoạt động xét xử.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Việc cơ quan quyền lực nhà nước
bầu Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử thể hiện được quyền
làm chủ của người dân trong hoạt động này, qua đó thể hiện được bản chất
của nhà nước ta. Bên cạnh đó theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án
quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán” [24, Điều 15]. Chỉ có Toà án mới có thẩm quyền xét xử
những vụ án hình sự, vì vậy khi pháp luật đã quy định quyền THTT cho Hội
thẩm nhân dân là hoạt động xét xử thì Hội thẩm nhân dân sẽ là người THTT
hình sự trong TAND. Mặt khác trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân
thành phần của HĐXX luôn luôn có Hội thẩm nhân dân tham gia để đảm bảo
tính khách quan chính xác, thấu tình cho việc quyết định bản án cho người
phạm tội. Trong HĐXX, Thẩm phán chủ toạ phiên toà có vai trò quan trọng,
tuy nhiên để hiểu rõ tâm, sinh lý của người phạm tội, hiểu được hoàn cảnh,
hành vi của người phạm tội thì cần một người có chuyên môn về từng lĩnh
vực khác nhau, để từ đó HĐXX có được những nhận xét, đánh giá rõ hơn về
chứng cứ phạm tội. Vì vậy cần trong HĐXX có người có chuyên môn về
13
những lĩnh vực khác nhau tham gia xét xử. Đối với những vụ án xét xử về tội
Cố ý gây thương tích, Hiếp dâm cần một Hội thẩm nhân dân là bác sĩ, những
vụ án có trẻ vị thành niên phạm tội cần một Hội thẩm nhân dân là thầy giáo…
để có thể hiểu được mọi tình tiết, chứng cứ, tâm lý, hoàn cảnh của từng đối
tượng phạm tội. Chính vì vậy mà Hội thẩm nhân dân cũng là người THTT
hình sự trong TAND.
Xét xử là hoạt động trung tâm của TTHS với nguyên tắc xuyên suốt là
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử
của TAND và có vai trò đặc biệt quan trọng đó là Thẩm phán. Với vị trí đặc
biệt quan trọng đòi hỏi Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự phải vô tư,
khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử của mình. Chính vì vậy việc
tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như quy định cho Thẩm phán những quyền hạn,
trách nhiệm tố tụng đều được pháp luật quy định. Theo quy định của Pháp
lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND thì Thẩm phán TAND phải có những
tiêu chuẩn sau:
- Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo
đức tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân Luật và đã được đào tạo
về nghiệp vụ xét xử có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm
công tác xét xử theo quy định của pháp luật, có sức khoẻ đảm bảo
hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán [35, Điều 5].
- Thẩm phán TAND cấp huyện phải có thời gian công tác
pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án nhân
dân cấp huyện.
14
- Thẩm phán TAND cấp tỉnh trước hết phải là TAND cấp
huyện ít nhất 5 năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyển của TAND cấp tỉnh. Trong
trường hợp cần thiết do nhu cầu cán bộ, người có đủ tiêu chuẩn
chung, có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có năng
lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của TAND cấp tỉnh có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm
Thẩm phán TAND cấp tỉnh.
- Thẩm phán TAND tối cao phải là Thẩm phán TAND cấp
tỉnh ít nhất 5 năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết
những việc khác thuộc thẩm quyền của TAND tối cao. Việc tuyển
chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chánh án
TAND tối cao quyết định. Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch
nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án
TAND tối cao [14].
Theo đó có thể định nghĩa Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố
tụng hình sự trong TAND như sau: Thẩm phán là người tiến hành tố tụng
hình sự được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật thực hiện chức năng xét
xử những vụ án hình sự trong tòa án nhân dân một cách khách quan, công
bằng góp phần bảo vệ pháp luật, công lý, bảo đảm quyền con người trong tố
tụng hình sự.
Thẩm phán là người tiến hành tố tụng hình sự trực tiếp thực hiện chức
năng xét xử của TAND. Để hoạt động xét xử của Thẩm phán đạt hiệu quả cao
phải có sự kết hợp hoạt động với những người tiến hành tố tụng hình sự khác
trong TAND, đó là Chánh án, Phó Chánh án TAND, Hội thẩm nhân dân và
Thư kí TAND.
Chánh án, Phó Chánh án TAND là những người ngoài nhiệm vụ của
15
Thẩm phán còn có chức năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND với
tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Theo Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội và Điều 25 Luật tổ chức TAND năm
2002, Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi miễn Chánh án TAND tối cao theo đề
nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm
kỳ của Quốc hội; Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh
án TAND tối cao theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Chánh
án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó chánh án
TAND địa phương. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tối cao; Chánh án;
Phó Chánh án TAND địa phương là 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm.
Chánh án là những người ngoài nhiệm vụ của Thẩm phán còn có chức
năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND với tư cách là cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Có thể hiểu Chánh án là
người được bổ nhiệm có nhiệm vụ tổ chức và điều hành hoạt động của TAND
trong xét xử vụ án hình sự, đồng thời họ còn có trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng hình sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và
quyết định của mình theo quy định của pháp luật.
Phó Chánh án TAND cũng giống như Chánh án nhưng hoạt động dưới
quyền Chánh án trong việc tổ chức và điều hành hoạt động của TAND. Phó
Chánh án TAND là người được bổ nhiệm có nhiệm vụ tổ chức và điều hành
hoạt động của TAND trong xét xử vụ án hình sự, đồng thời họ còn có trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật
về những hành vi và quyết định của mình theo quy định của pháp luật.
Chánh án và Phó Chánh án về cơ bản có khái niệm tương tự nhau có
vai trò và trách nhiệm như nhau trong tiến hành tố tụng hình sự. Tuy nhiên
Phó Chánh án trong chức năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND có
vị trí thấp hơn Chánh án.
16
Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003 là khi xét
xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên Hội
thẩm nhân dân được quy định là người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND.
Tuy nhiên khác với những người tiến hành tố tụng hình sự khác Hội thẩm
nhân dân không phải do bổ nhiệm mà được bầu bởi cơ quan quyền lực nhà
nước, đồng thời họ không phải là người làm việc chuyên nghiệp trong cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự mà người đại diện cho nhân dân tham gia vào
hoạt động xét xử. Hội thẩm nhân dân trước hết phải là công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực, có kiến thức pháp lý,
có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu
tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có
sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bầu làm
Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân TAND địa phương do Hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp và
do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chánh
án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp.
Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân cấp này theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân
dân cùng cấp.
Vậy có thể hiểu, Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng hình sự
được bầu hay cử theo quy định của pháp luật tham gia vào hoạt động xét xử
vụ án hình sự của TAND và ngang quyền với Thẩm phán.
Một trong những thành phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt
động của TAND nói chung và THTT hình sự nói riêng là Thư ký TAND. Họ
là người THTT hình sự có trách nhiệm ghi chép mọi diễn biến tại phiên toà và
thực hiện các hoạt động tố tụng khác trước, trong và sau khi phiên toà kết
thúc. Thư ký TAND phải có những tiêu chuẩn chung như đối với những
17
người tiến hành tố tụng hình sự khác, đó là: là công dân Việt Nam trung thành
với Tổ quốc và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh
thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ
lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khoẻ
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Có thể hiểu: Thư ký phiên toà là người tiến hành tố tụng hình sự có
trách nhiệm ghi chép mọi diễn biến tại phiên toà và thực hiện các nhiệm vụ
hành chính pháp lý đảm bảo cho việc xét xử vụ án hình sự.
Từ những khái niệm riêng về Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND là những người THTT hình sự trong
TAND, chúng ta có thể thấy khái niệm chung về người THTT hình sự trong
TAND như sau: Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân là
những người được bổ nhiệm, tuyển dụng, bầu hoặc cử theo quy định của pháp
luật để thực hiện chức năng xét xử trong Toà án nhân dân một cách khách
quan, công bằng góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, công lý, đảm bảo quyền
con người trong tố tụng hình sự. Mỗi người có một vị trí, vai trò, nhiệm vụ
khác nhau trong quá trình xét xử vụ án hình sự để đưa ra bản án thích đáng
nhất cho người phạm tội, đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh của pháp
luật xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình THTT hình sự thì xét xử là hoạt động trung tâm. Thẩm
phán là nhân vật trung tâm đại diện cho cơ quan xét xử là TAND để làm
nhiệm vụ xét xử. Bên cạnh hoạt động của Thẩm phán để đưa ra được phán
quyết cuối cùng thì Thẩm phán cần có sự hỗ trợ hoạt động từ những người
tiến hành tố tụng hình sự khác trong TAND là Chánh án, Phó chánh án, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký TAND. Thông qua hoạt động xét xử họ có nhiệm vụ
xác định tội phạm, quyết định hình phạt nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi
18
hành vi phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy người THTT
hình sự trong TAND là người được nhà nước giao trách nhiệm thực hiện hoạt
động xét xử, quyết định hình phạt cho người phạm tội. Người THTT hình sự
trong TAND nhân danh nhà nước áp dụng các quy định của pháp luật để quy
định hình phạt cho người phạm tội khi họ thực hiện hành vi mà nhà nước quy
định là tội phạm. Khi thực hiện nhiệm vụ này họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Họ giữ vai trò trung
tâm trong hoạt động tố tụng hình sự. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình
độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng hình sự trong
TAND là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy nhà
nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
Người THTT hình sự trong TAND có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ
lẫn quyền hạn trong khi thực hiện hoạt động xét xử. Khi xét xử Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật. “Khi họ thực hiện nhiệm vụ không
ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để buộc họ làm trái pháp
luật; không ai, không cơ quan nào được lấy thẩm quyền hành chính để thay
thế, chỉ đạo hoạt động xét xử của họ” [12]. Trong hệ thống những chức danh
của bộ máy nhà nước, những chức danh trong TAND chỉ do nhà nước quy
định và bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ xét xử. Trong quá trình xét xử vụ án
hình sự không ai được phép sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện việc xét
xử ngoài người THTT hình sự trong TAND.
Người THTT hình sự trong TAND là hạt nhân của hoạt động tố tụng
hình sự, tạo nên uy tín, sức mạnh của cơ quan xét xử là TAND. Nếu hoạt
động xét xử của TAND là trung tâm của việc đấu tranh phòng chống, không
19
bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội thì có thể nói hoạt động của
THTT hình sự trong TAND là hạt nhân của hoạt động xét xử [12]. Hiệu quả
hoạt động của họ chính là hiệu quả hoạt động của TAND, trong đó Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân là người trực tiếp có thẩm quyền xét xử vụ án,
Chánh án, Phó Chánh án, Thư kí TAND thực hiện những công việc nhằm hỗ
trợ phục vụ cho hoạt động xét xử. Vì vậy hoạt động của họ mang tính chất
quyết định kết quả công việc của TAND. Hoạt động của TAND có hiệu quả
hay không hiệu quả phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của họ. Việc quyết
định hình phạt cho người phạm tội, xét xử đúng người, đúng tội không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan người vô tôi, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công
dân là hoạt động vô cùng quan trọng. Nếu hiệu quả hoạt động xét xử của
những người THTT hình sự trong TAND kém thì sẽ làm mất lòng tin của
nhân dân đối với cơ quan xét xử nói riêng và đối với nhà nước nói chung.
Hoạt động của người THTT hình sự trong TAND còn góp phần bảo vệ
trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng đúng
các quy định của pháp luật về trình tự xét xử là yêu cầu quan trọng nhất đối
với người THTT hình sự trong TAND. Vì khi thực hiện nhiệm vụ xét xử thì
không được để lọt tội phạm, xác định người phạm tội được chính xác để áp
dụng hình phạt cho phù hợp; có như vậy mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp
của công dân và bảo vệ được sự nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời sẽ
củng cố được hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước mà đặc biệt là cơ quan xét xử - Toà án
nhân dân – cơ quan bảo vệ pháp luật.
Có thể nói người THTT hình sự trong TAND có vị trí, vai trò rất quan
trọng trong bộ máy nhà nước, không có hoạt động của họ thì nhiệm vụ đấu
tranh phòng chống tội phạm, trừng phạt người phạm tội không được đặt ra.
Khác với những công việc khác, để đưa ra một phán quyết thấu tình đạt lý thì
những người THTT hình sự trong TAND đặc biệt là Thẩm phán phải huy động
20
nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am hiểu về pháp luật, sự hiểu biết
về thực tế, tích luỹ kiến thức về xã hội, tâm sinh lý của từng cá thể, lương tâm
của những người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND. Cơ sở của các phán
quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư,
khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng. Chỉ
khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp của những người THTT hình sự trong TAND mới đảm bảo cho phán
quyết của TAND thấu tình đạt lý. Khi tiến hành hoạt động tố tụng hình sự
trong TAND thì những người THTT hình sự phải có niềm tin nội tâm, đó là
niềm tin vào công lý. Bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn hảo, đầy đủ đến
đâu chăng nữa thì cũng không thể dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong
thực tế, thậm chí quy định của pháp luật còn chồng chéo không đồng bộ. Song
khi tiến hành hoạt động tố tụng hình sự trong TAND đặc biệt là khi xét xử,
Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vẫn phải đảm bảo
nguyên tắc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt phải đảm
bảo công lý nghiêm minh. Trong con mắt của người dân, TAND không chỉ bảo
vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, công bằng xã hội, tạo niềm tin
của công dân đối với bộ máy Nhà nước. “Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật,
trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người THTT là những tiêu chí để
người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy Nhà nước, tính nghiêm minh của
pháp luật trong đấu tranh phòng và chống tội phạm” [12].
1.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án
nhân dân với nhau và với những người tiến hành tố tụng hình sự trong
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân.
1.2.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà
án nhân dân với nhau
Mối quan hệ giữa Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm và
Thư kí TAND là mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng. Đây là
21
những mối quan hệ phát sinh trên cơ sở của pháp luật tố tụng hình sự và chỉ
phát sinh trong quá trình họ tham gia vào giải quyết vụ án, đồng thời đây cũng
là mối quan hệ phối hợp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan và chính xác.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003 Chánh án là người quyết định
phân công Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký TAND
tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự. Chánh án quyết định thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà. Tuy nhiên
Chánh án không được quyền can thiệp theo ý chủ quan của mình vào hoạt
động tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cũng như Thư kí Toà án.
Chánh án Toà án vừa thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật tố tụng,
vừa là người được giao nhiệm vụ quản lý, điều hành các hoạt động của cơ
quan Toà án với tư cách là Thủ trưởng cơ quan (hoặc Thủ trưởng đơn vị đối
với các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao).
Thẩm phán phải có trách nhiệm báo cáo tiến độ giải quyết vụ án. Đề
xuất Chánh án ra quyết định áp dụng lệnh tạm giam, cấp thu hồi giấy chứng
nhận người bào chữa, chuyển vụ án nếu thấy không thuộc thẩm quyền…
Tuy mối quan hệ giữa Chánh án và Thẩm phán là mối quan hệ giữa cấp
trên với cấp dưới nhưng khi thực hiện hoạt động xét xử Thẩm phán vẫn độc
lập không phụ thuộc vào sự chỉ đạo về đường lỗi xét xử của Chánh án.
Hội thẩm nhân dân cũng giống như Thẩm phán độc lập trong xét xử
vụ án hình sự và không phụ thuộc vào sự chỉ đạo về đường lối xét xử của
Chánh án.
Trong quan hệ với Thư kí Toà án, Chánh án căn cứ vào khả năng, trình
độ, năng lực của Thư ký Toà án để phân công, giao nhiệm vụ cho Thư
ký Toà án thực hiện các công việc của các Toà chuyên trách thuộc TANDTC
hoặc TAND cấp tỉnh, TAND huyện và các đơn vị giúp việc. Thư kí Toà án
22
giúp Chánh án làm công tác thi hành án hình sự. Tuỳ theo số lượng Thư kí
được biên chế mà Chánh án phân công công việc.
Trong quan hệ với Thư kí Toà án với Thẩm phán vì họ đều là những
người tiến hành tố tụng nên mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư kýToà án là
mối quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng và nó chỉ phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án. Thẩm phán không phải là Thủ trưởng của Thư
ký Toà án và Thư ký Toà án cũng không phải là Thư ký riêng của Thẩm phán.
Tuy nhiên, Thư ký Toà án là người giúp việc cho Thẩm phán để thực hiện
những tác nghiệp trong quá trình giải quyết vụ án, vì thế Thư ký Toà án phải
chịu sự giám sát, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn của Thẩm phán nhằm thực
hiện đúng các quy định của pháp luật.
Vì giữa Thẩm phán và Thư ký Toà án có mối quan hệ phối hợp để thực
hiện quy định của pháp luật tố tụng nên Thẩm phán phải thực hiện những
nhiệm vụ mà pháp luật quy định, không được giao cho Thư ký Toà án làm
thay những nhiệm vụ đó. Thư ký Toà án mà làm thay những việc thuộc nhiệm
vụ, thẩm quyền của Thẩm phán là vi phạm pháp luật. Trong thực tế, có một số
Thẩm phán khoán trắng cho Thư ký thực hiện việc lấy lời khai, điều tra xác
minh, xây dựng hồ sơ vụ án… Thẩm phán chỉ ký vào các tài liệu do Thư
ký Toà án làm để hợp thức hoá tài liệu đó là không đúng quy định, không
đúng thẩm quyền và đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm
cho công tác xét xử, giải quyết các vụ án chưa tốt.
Hội thẩm nhân dân và Thư kí Toà án tuy họ đều là những người tiến
hành tố tụng nhưng họ có nhiệm vụ, vị trí và chức năng khác nhau. Tuy nhiên
hoạt động của họ đều chung mục đích là hoàn thành nhiệm vụ xét xử vụ án
hình sự, do đó phải có sự phối hợp chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ. Thư kí
Toà án mới Hội thẩm nhân dân, thông báo ngày giờ xét xử, chuyển hồ sơ cho
Hội thẩm nhân dân nghiên cứu.
23
Những người tiến hành tố tụng trong TAND có mối quan hệ chặt chẽ
phối hợp với nhau để nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác nhất
để đảm bảo tính khách quan, nhanh chóng.
1.2.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà
án nhân dân và người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra
Điều tra là giai đoạn đầu trong tố tụng hình sự, giữ vai trò rất quan trọng.
Giai đoạn này kéo dài, phức tạp có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Người
THTT hình sự trong cơ quan điều tra theo quy định của BLTTHS bao gồm Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên. Trong quá trình tiến
hành giải quyết các vụ án hình sự, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ “ tự mình”
thực hiện đúng, chính xác và đầy đủ các công việc mà pháp luật đã quy định đã
giao thẩm quyền cả về thủ tục và nội dung thì người THTT hình sự trong
TAND phải giữ mối quan hệ chặt chẽ với THTT hình sự trong Cơ quan điều
tra. Những người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra mà trực tiếp là Điều tra
viên là những người trực tiếp tiếp cận với vụ án hình sự đầu tiên khi có hành vi
phạm tội xảy ra. Công việc của họ là phải khám nghiệm hiện trường, thu thập
chứng cứ, đánh giá chứng cứ để đưa vào hoàn thiện hồ sơ của vụ án. Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân là người xét xử và ra phán quyết nên không trực tiếp
tham gia các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Chính vì vậy trong quá
trình xét xử vụ án hình sự vẫn phải dựa trên cơ sở là kết quả điều tra do người
THTT hình sự trong Cơ quan điều tra cung cấp trong hồ sơ vụ án.
Hiện nay phương pháp xét xử của TAND vẫn là phương pháp thẩm
vấn. Với phương pháp này thì HĐXX chỉ lấy được chứng cứ trực tiếp từ lời
khai của bị cáo. Như vậy những chứng cứ có liên quan trực tiếp đến hiện
trường của vụ án thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể trực tiếp thu
thập mà phải thông qua hồ sơ vụ án do người THTT hình sự trong Cơ quan
điều tra lập ra trong quá trình điều tra của mình. Điều tra viên sẽ bắt đầu thực
24
hiện việc “làm án” từ các khâu đầu tiên như khám nghiệm hiện trường vụ án,
thu thập chứng cứ, xét hỏi, khai thác các đối tượng cho tới khâu lập hồ sơ vụ
án để chuyền hồ sơ sang Viện kiểm sát rồi sang Toà án nhân dân. Trước hết
công tác khám nghiệm hiện trường của Điều tra viên giúp thu thập và củng cố
chứng cứ ban đầu của vụ án hình sự. Vì một vụ án hình sự xảy ra khi tin báo
tố giác tội phạm chuyển đến cơ quan điều tra hình sự thường rất ít các tài liệu
chứng cứ vì vậy phải có công tác khám nghiệm hiện trường của cơ quan điều
tra. Kết quả khám nghiệm hiện trường là căn cứ để cơ quan điều tra hình sự
đưa ra nhận định, đánh giá tính chất vụ việc, đánh giá phương thức thủ đoạn
gây án, công cụ phương tiện gây án giúp cho Điều tra viên thu thập các dấu
vết, vật chứng, mẫu vật phục vụ công tác trưng cầu giám định. Đây là những
chứng cứ vô cùng quan trọng để giải quyết vụ án hình sự. Tất cả những hoạt
động của người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra nhằm làm rõ hành vi có
dấu hiệu phạm tội hay không. Vì vậy việc điều tra nhằm củng cố thêm các
chứng cứ buộc tội.
Trong quá trình điều tra, để có chứng cứ xác thực cung cấp nguồn
chứng cứ chính xác nhất cho hoạt động xét xử của người THTT hình sự trong
TAND thì Điều tra viên phải thu thập, điều tra, ghi chép, sắp xếp các tài liệu
chứng cứ vật chứng một cách hợp lý chính xác,khách quan, trung thực theo
thứ tự thời gian, không gian cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả hình
thức và nội dung theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS đã quy định. Có như
vậy thì công tác xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mới có nhiều
thuận lợi và đem lại quyền và lợi ích cho các chủ thể.
Ngược lại trong quá trình xét xử của người THTT hình sự trong TAND
khi HĐXX thẩm vấn bị cáo, bị cáo có thể khai ra những tình tiết mới giúp Cơ
quan điều tra mở rộng điều tra vụ án mà trước đó khi “làm án” Cơ quan điều
tra chưa tìm ra được. Hoặc trong quá trình thụ lý, xét xử những người THTT
25
hình sự trong TAND thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, xét xử công khai
tại phiên toà HĐXX xét thấy chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu, chưa rõ ràng
có thể ra quyết định trả hồ sơ, điều tra bổ sung giúp cơ quan điều tra củng cố
chứng cứ buộc tội chính xác, khách quan, rõ ràng, tránh làm oan sai người vô
tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Như vậy giữa người THTT hình sự trong TAND và người THTT hình
sự trong Cơ quan điều tra có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Hiệu quả xét
xử của người THTT hình sự trong TAND ngoài việc phải căn cứ chủ yếu vào
kết quả tranh tụng tại phiên toà thì còn phải căn cứ vào các tài liệu chứng cứ
có trong hồ sơ được cung cấp bởi các Điều tra viên. Ngược lại kết quả giải
quyết vụ án của người THTT hình sự trong TAND thì Điều tra viên cũng rút
ra được những kinh nghiệm bổ ích trong quá trình “làm án”, nhất là những vụ
án mà TAND trả hồ sơ điều tra bổ sung do chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu,
chưa rõ ràng. “Phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh
tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của Kiểm sát viên, người bào chữa…” [3]. Có thể nói trong quá trình điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự thì Điều tra viên là người điều tra thu thập chứng
cứ qua việc lập hồ sơ, Kiểm sát viên là người kiểm sát, thẩm định hoạt động
điều tra ra bản cáo trạng truy tố bị can còn Thẩm phán qua hoạt động xét xử
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên là người ra phán quyết
đối với bị cáo để kết thúc vụ án hình sự đó. Vì vậy với những chứng cứ tài
liệu của Điều tra viên thông qua việc kiểm sát, thẩm định hoạt động điều tra
ra bản cáo trạng truy tố bị can của Kiểm sát viên là hết sức quan trọng sẽ giúp
cho phán quyết của HĐXX thêm chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
26
1.2.3. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án
nhân dân với người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân
Cơ quan THTT hình sự nói chung nhiệm vụ là đấu tranh, phòng chống
tội phạm, cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện
điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Chính từ mục đích đó đã hình thành nên
mối quan hệ phối hợp tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án
nhân dân như là một vấn đề tất yếu.
Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của BLTTHS là cơ quan THTT
hình sự. Người THTT hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát bao gồm: Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên. Chức năng của họ trong THTT hình
sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
THTT hình sự và cơ quan THTT hình sự góp phần đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện nghiêm minh và thống nhất. Với những chức năng này thì hoạt động
của người THTT hình sự trong Viện kiểm sát có mối quan hệ qua lại, mật thiết
với hoạt động của người THTT hình sự trong TAND đặc biệt là mối quan hệ
trực tiếp với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND trong chức năng
buộc tội và chức năng xét xử. Hoạt động của những người THTT hình sự trong
hai cơ quan này có mối quan hệ biện chứng với nhau, “không thể xét xử nếu
không có sự buộc tội, hay nói cách khác ở đâu có buộc tội thì ở đó phát sinh
hoạt động xét xử và bào chữa” [13]. Nếu người THTT hình sự trong cơ quan
Viện kiểm sát làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét
xử của người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND và ngược lại. Ngay từ khi
thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình
phạt để truy tố cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng
cho người THTT hình sự trong TAND thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng.
Mối quan hệ giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân
và TAND xuất hiện ở giai đoạn xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc
27
thẩm và tái thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện bắt đầu từ khi Viện Kiểm sát
nhân dân gửi cáo trạng và hồ sơ vụ án sang TAND và nó được thể hiện thông
qua Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân uỷ quyền nghiên
cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước toà cùng với Thẩm
phán được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ toạ phiên toà
nếu vụ án được đưa ra xét xử. TAND sẽ xét xử ai, những hành vi nào, thì phải
căn cứ vào bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân. “Toà án nhân dân chỉ
xét xử về hình sự đối với những bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát
nhân dân truy tố mà Toà án nhân dân đã quyết định đưa ra xét xử” [24]. Sau
khi hồ sơ vụ án hình sự được chuyển sang TAND cùng với bản cáo trạng của
Viện kiểm sát nhân dân, lúc này bắt đầu xuất hiện quan hệ tố tụng hình sự
giữa hai cơ quan. Không thể nói tại thời điểm đó trở đi, những người tiến
hành tố tụng hình sự trong TAND có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề về vụ
án. Trong thực tế, quan hệ giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát
nhân dân và TAND trong giai đoạn này trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ
chế ước lẫn nhau. Tính chất phối hợp trong quan hệ giữa người THTT hình sự
trong Viện kiểm sát nhân dân và người THTT hình sự trong Toà án nhân dân
thể hiện ở chỗ họ cùng phải xem xét lại tính căn cứ, tính hợp pháp của chứng
cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án. Trong trường hợp cần thiết và những trường
hợp hai bên có những bất đồng về vụ án thì TAND triệu tập cuộc họp trù bị
có đại diện của Viện kiểm sát nhân dân tham gia v.v… Quan hệ phối hợp này
chỉ thể hiện trong giai đoạn chuẩn bị cho việc xét xử và khi thi hành án. Trong
phiên toà không có mối quan hệ phối hợp ấy vì Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân lúc này là người đứng giữa hai bên: một bên buộc tội (đại diện Viện kiểm
sát là Kiểm sát viên, người bị hại v.v…) và một bên gỡ tội (người bào chữa,
bị cáo v.v…). Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án
hình sự và dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự đã quy
28
định, trong đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp
giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh
đó quan hệ phối hợp giữa người THTT sự trong Viện kiểm sát nhân dân và
Toà án nhân dân còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm
quyền của người THTT; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự
bất cập, chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu
quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứ pháp luật, tránh oan
sai, bỏ lọt tội phạm. Trong những năm qua mối quan hệ phối hợp giữa người
THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân được thực
hiện trên cơ sở các thông tư liên ngành và các quy chế phối hợp về các vấn
đề, như: Những trường hợp cần họp trù bị giữa Tòa án và Viện kiểm sát quy
định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của Toà án nhân tối cao và
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhằm giải quyết án trọng điểm, phức tạp theo
Thông tư liên ngành số 01/TTLN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày
15/10/1994; về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến
người phạm tội tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC-
TANDTC; về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
vụ án hình sự quy định tại Thông tư số 01/2008/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC-BQP- BCA v.v... Về quy chế phối hợp được quy định trong Quy
chế số 01/2006/QCPH giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân
tối cao, Bộ Công an… phối hợp trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Trên cơ sở các văn bản pháp luật liên ngành tư pháp trung ương xác định về
các nội dung phối hợp giải quyết những vấn đề trong vụ án hình sự, các cơ
quan THTT ở địa phương xây dựng kế hoạch liên ngành phối hợp giải quyết
những vấn đề cụ thể về tư pháp hình sự; định kỳ họp liên ngành Công an,
Viện kiểm sát, TAND cấp tỉnh và huyện thống nhất giải quyết những vấn đề
vướng mắc trong hoạt động TTHS. Những năm gần đây, việc họp liên ngành
29
của các cơ quan TTHS chỉ tập trung bàn thống nhất tháo gỡ vướng mắc bất
cập trong hoạt động của mình, phối hợp giải quyết án điểm, tổ chức phiên tòa
lưu động theo tinh thần cải cách tư pháp, không còn thống nhất định tội danh
và bàn bạc những nội dung trong vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung như
trước đây. Do nhận thức về tính độc lập trong hoạt động tố tụng của Thẩm
phán và Kiểm sát viên ngày càng cao nhằm tránh tình trạng “án bỏ túi” bị dư
luận lên án.
Quan hệ chế ước lẫn nhau giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm
sát nhân dân và người THTT hình sự trong Toà án nhân dân thể hiện ở chỗ
Chánh án, Thẩm phán có thể yêu cầu Kiểm sát viên nhân dân tiến hành điều
tra bổ sung, cung cấp thêm những tài liệu và chứng cứ cần thiết khác phục vụ
cho khâu xét xử tại phiên toà. Nếu có những căn cứ bị cáo không phạm tội,
Thẩm phán có thể yêu cầu được bổ sung cáo trạng trước hoặc ngay trong
phiên toà nếu điều đó không làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc gây khó
khăn cho việc bào chữa của bị cáo, giải quyết việc rút một phần hay toàn bộ
việc truy tố trong thời gian chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử hoặc ngay tại phiên
toà trước khi HĐXX nghị án. Như vậy, quan hệ chế ước này được thể hiện ở
tất cả các khâu, từ khi hồ sơ vụ án chuyển sang TAND đến khi kết thúc giai
đoạn tố tụng hình sự. Khi Viện kiểm sát là cơ quan có độc quyền truy tố một
người ra toà nhưng việc kết tội lại thuộc về Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Tại phiên toà xét xử nhân danh nhà nước thực hành quyền công tố, nhưng
Kiểm sát viên chỉ đưa ra ý kiến đề xuất quan điểm giải quyết vụ án còn quyết
định về tội trạng, mức hình phạt vẫn là HĐXX là Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân. Nhưng mọi hoạt động xét xử của người THTT hình sự trong TAND
phải đảm bảo đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được
xét xử. Người THTT hình sự trong TAND không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục
tố tụng, do đó pháp luật quy định Viện kiểm sát nhân dân đại diện là Kiểm sát
30
viên nhân dân ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động
tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của HĐXX tại phiên toà, cũng như giám
sát hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm
thủ tục tố tụng tại phiên toà thì Kiểm sát viên có quyền ý kiến trực tiếp. Mặt
khác sau khi xét xử người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân có
quyền ban hành kiến nghị yêu cầu TAND khắc phục vi phạm pháp luật trong
hoạt động xét xử hoặc ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải
quyết lại vụ án khi có căn cứ luật định. Như vậy có thể thấy, dù Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân có quyền độc lập trong việc phán quyết, tuy nhiên nếu trái
pháp luật thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hay Kiểm sát viên nhân dân có
quyền kiến nghị, kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của
Toà án nhân dân. Pháp luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của người
THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân không được TAND tiếp thu, thì
họ có quyền kiến nghị TAND cấp trên và báo cáo Viện kiểm sát nhân dân cấp
trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Qua hoạt động giám sát của người
THTT hình sự trong Viện kiểm sát còn giúp cho Toà án nhân dân, những
người THTT hình sự trong TAND tránh được những sai sót, vi phạm pháp
luật, tăng cường pháp chế. Trong quan hệ chế ước, cơ bản là nhằm tránh lạm
quyền trong thực hiện chức năng THTT đối của những người THTT hình sự
trong Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Trong giai đoạn cải cách tư
pháp hiện nay, thì mối quan hệ giữa những người THTT hình sự này cần được
xây dựng theo hướng phối hợp, chế ước nhưng phải đảm bảo tính độc lập của
người THTT hình sự trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và tăng cường yếu tố tranh tụng.
Trong quan hệ giữa người THTT hình sự của cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân với TAND thì Kiểm sát viên nhân dân có mối quan hệ qua lại, gắn
bó và thường xuyên hơn cả. Kiểm sát viên nhân dân khi thực hiện hoạt động
31
THTT hình sự thì đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức
năng đối với những người THTT hình sự trong TAND là chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp khi xét xử vụ án hình sự, thi hành án và chức năng thực
hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự.
Đối với công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát
nhân dân nói chung và Kiểm sát viên nhân dân nói riêng khi được Viện
trưởng phân công có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của TAND, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đảm bảo xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án được xét xử nghiêm minh và
kịp thời. Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự, kiểm sát viên
thực hiện quyền nhân danh nhà nước (ủy viên công tố) kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án; yêu
cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới, người THTT hình sự trong
TAND cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét quyết
định việc kháng nghị. Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND
theo luật định.
Đối với công tác kiểm sát thi hành án,sự tham gia của Kiểm sát viên
nhân dân từ giai đoạn điều tra tới khi Thẩm phán ra phán quyết là chưa đủ.
Thực tế đã có rất nhiều vụ án chưa thật sự đảm bảo được tính giáo dục và
phòng ngừa chung, vì án không được thi hành hoặc thi hành không đúng luật
định. Do đó, công tác kiểm sát thi hành án là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên nói riêng. Kiểm
sát thi hành án là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, người
THTT hình sự trong TAND, cơ quan thi hành án, chấp hành viên và những cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, đảm bảo bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp
32
luật, đầy đủ và kịp thời trên thực tế. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân nói
chung và Kiểm sát viên nói riêng có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân, người
THTT hình sự trong TAND, cơ quan Thi hành án cùng cấp và cấp dưới, tổ
chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định đúng quy
định; cung cấp tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án; trực tiếp
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới;
của chấp hành viên trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật; giải quyết việc kháng cáo khiếu nại, tố cáo việc thi hành án, đồng thời
thực hiện quyền kháng nghị về những sai sót, vi phạm trong công tác thi hành
án theo quy định của pháp luật. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong thi
hành án, kiểm sát viên trình lên viện kiểm sát cùng cấp, để trong thời gian ngắn
nhất Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu đình chỉ thi hành án, sửa đổi hoặc
bãi bỏ quyết định vi phạm pháp luật trong thi hành án, chấm dứt việc làm vi
phạm pháp luật, khởi tố hình sự hoặc dân sự khi có căn cứ.
Chức năng thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của
Kiểm sát viên nhân dân có liên quan chặt chẽ với hoạt động xét xử của Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân. Công tố là quyền của nhà nước truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở nước ta, quyền công tố được nhà
nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Để thực hiện tốt nhiệm vụ
này, viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu chứng
cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước
Tòa án và thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa. Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân sẽ giao nhiệm vụ, quyền năng công tố cho Kiểm sát
viên tại phiên toà hình sự. Như vậy, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh
nhà nước đối với người phạm tội, do đó đối tượng tác động của quyền công tố
là tội phạm và người phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối
với người có hành vi phạm tội. Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
33
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và
xét xử. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện là Kiểm sát
viên có quyền luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm
về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Kiểm sát viên khi được Viện trưởng phân công tham gia xét xử tại phiên tòa có
quyền nhân danh nhà nước buộc tội bị cáo và giữ vai trò ủy viên công tố.
Nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên trong lĩnh vực thực hành quyền công tố
thể hiện rất rõ tại phiên tòa hình sự chính vì vậy mà hoạt động tố tụng của họ
có quan hệ rất mật thiết vơi hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố
tụng trong TAND đặc biệt là đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên tại
phiên tòa là điều kiện để phiên tòa diễn ra hợp pháp, nếu Kiểm sát viên vắng
mặt mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế, phiên tòa phải hoãn lại. Tại
phiên toà, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải
đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham
gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với
những quy định này đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát
viên tại phiên tòa, đảm bảo những lập luận đầy đủ, thuyết phục của Kiểm sát
viên khi bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát.
Tại phiên tòa hình sự, trước khi tiến hành xét hỏi Kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung nếu có. Bản cáo trạng là văn bản pháp lý
thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án hình sự trên cơ sở kết quả hoạt
động điều tra, nó kết thúc giai đoạn điều tra và mở đầu một giai đoạn tố tụng
34
mới. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa với nhiệm vụ chứng
minh tính có lỗi của bị cáo và đưa ra lời buộc tội. Hoạt động chứng minh của
kiểm sát viên được thực hiện theo các giai đoạn khác nhau, với các hình thức
khác nhau. Trong phần xét hỏi, Kiểm sát viên được hỏi bị cáo về các tình tiết
của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội, hỏi người tham gia tố tụng
(người bị hại, nguyên đơn, bị đơn....), được xem xét trực tiếp, kiểm tra các
chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ án. Nếu tại phiên tòa, người tham gia tố
tụng xuất trình thêm những tài liệu mới thì Kiểm sát viên cần làm rõ nguồn
gốc xuất xứ và nội dung tài liệu đó để đề xuất việc chấp nhận hay bác bỏ
trong phần luận tội. Nhiệm vụ của kiểm sát viên trong giai đoạn này là xác
định các tình tiết đã xảy ra như thế nào? Có hay không có hành vi phạm tội?
Là cơ sở khẳng định sự đúng đắn trong kết luận của mình ở phần tranh luận
mà chưa đưa ra một nhận định hay một kết luận nào.
Kết thúc phần xét hỏi, bước sang phần tranh luận, hoạt động chứng
minh của Kiểm sát viên được thông qua việc trình bày lời luận tội, buộc tội bị
cáo trước tòa, gồm hai bước luận chứng và luận tội.
Sau khi đã buộc tội bị cáo với tội danh cụ thể, Kiểm sát viên sẽ tiến
hành luận tội bằng việc làm rõ tính chất hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ,
hậu quả, nguyên nhân điều kiện phạm tội cũng như vai trò trách nhiệm nhân
thân người phạm tội để có sự “tâm phục, khẩu phục” của bị cáo cũng như
những người tham gia tố tụng khác đối với tội danh và hình phạt mà Kiểm sát
viên đề xuất.
Tranh luận tại phiên tòa là tiếp tục thực hành quyền công tố nhà nước
để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát. Vì vậy khi tiến
hành tranh luận Kiểm sát viên phải phân tích, chứng minh, chứng cứ làm rõ
nội dung truy tố của cáo trạng, nội dung tranh luận phải đạt tính chính xác và
thuyết phục, bảo vệ.
35
Qua phân tích trên có thể nhận thấy mối quan hệ giữa người THTT
hình sự trong TAND và trong cơ quan Viện kiểm sát là mối quan hệ phối hợp
nhưng có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Mặc dù BLTTHS không quy định cụ
thể về sự phối hợp và chế ước này tuy nhiên đây là các chức danh tư pháp chủ
yếu trong tố tụng hình sự để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Mỗi khâu
làm tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện để khâu sau đạt hiệu quả cao. Công tác xét xử
của TAND đạt hiệu quả phải phụ thuộc vào yếu tố con người. Cho dù pháp
luật có hoàn thiện mà trình độ, ý thức của những người THTT hình sự không
có thì cũng không đạt hiệu quả mong muốn. Sự phối hợp ở đây không có
nghĩa là thông đồng để đưa ra phán quyết sai lầm, bỏ lọt tội phạm. Sự phối
hợp ở đây là tạo điều kiện cho cả Thẩm phán và Kiểm sát viên hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Sự chế ước không phải gây khó khăn cho Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân mà để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm
minh, tránh cho sự phán quyết của HĐXX đưa ra mà để lọt tội phạm hay làm
oan sai cho người vô tội.
1.3. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán, Bồi thẩm
đoàn một số nước trên thế giới
1.3.1. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn Toà án bang, Toà án liên bang của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ
Vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử
Vai trò của thẩm phán trong việc xét xử, mặc dù rất quan trọng, nhưng
lại là một vai trò tương đối thụ động. Thẩm phán không đưa ra bất kỳ bằng
chứng nào hay chủ động tham gia vào việc thẩm vấn nhân chứng. Thẩm phán
được nhờ tới để giám sát trên cơ sở kiến nghị của công tố và luật sư bào chữa
về loại bằng chứng được đưa ra và loại câu hỏi được dùng để hỏi nhân chứng.
Trong một số khu vực tài phán, Thẩm phán được phép đặt những câu hỏi thực
chất cho nhân chứng và cũng bình luận trước Bồi thẩm đoàn về mức độ tin
cậy của bằng chứng đưa ra; ở những bang khác, Thẩm phán bị hạn chế khỏi
36
những hoạt động đó. Mặc dù vậy, truyền thống pháp lý của Mỹ cũng dành
chỗ cho rất nhiều phong cách xét xử tư pháp tùy theo tư cách cá nhân, trình
độ đào tạo và sự khôn ngoan của từng cá nhân Thẩm phán.
Đầu tiên và trước hết, Thẩm phán được kỳ vọng sẽ đóng vai trò một
bên tham gia không vụ lợi mà công việc chủ yếu là bảo đảm rằng cả hai bên
được phép trình bày vụ án của mình càng đầy đủ càng tốt trong phạm vi luật
định. Nếu các Thẩm phán không còn dáng vẻ thực hiện nhiệm vụ một cách
công bằng và trung lập thì họ sẽ đi ngược lại với những nguyên lý căn bản của
pháp luật Mỹ và phán quyết của họ có nguy cơ bị tòa phúc thẩm bác bỏ [37].
Thẩm phán phải chỉ dẫn cho các thành viên Bồi thẩm đoàn về ý nghĩa
của luật pháp và luật pháp được áp dụng như thế nào
Thẩm phán cũng phải nhắc nhở Bồi thẩm đoàn rằng gánh nặng bằng
chứng là dành cho bang và rằng bị cáo được giả định là vô tội. Nếu sau khi
xem xét tất cả bằng chứng mà Bồi thẩm đoàn vẫn có sự nghi ngờ hợp lý đối với
tội danh của bị cáo thì Bồi thẩm đoàn phải đưa ra một phán quyết không có tội.
Cuối cùng, Thẩm phán thường giúp các thành viên Bồi thẩm đoàn
hiểu rất nhiều vấn đề về thủ tục, làm thế nào để liên lạc với Thẩm phán khi
họ có câu hỏi, trật tự mà theo đó họ phải xem xét lời buộc tội nếu có nhiều
hơn một lời buộc tội, ai phải ký những giấy tờ chính thức thể hiện phán
quyết của Bồi thẩm đoàn.
Sau phiên toà Thẩm phán đưa ra quyết định hình phạt. Hầu hết ở các
bang quyết định hình phạt do Thẩm phán đưa ra, một số bang thì Thẩm phán
cung Bồi thẩm đoàn quyết định hình phạt.
Sau khi Thẩm phán công bố bản án, theo tập quán sẽ có một vài tuần
tính từ lúc bị đơn bị xác minh và tuyên bố là có tội đến khi hình phạt được đưa
ra. Khoảng thời gian này cho phép Thẩm phán nghe và xem xét những kiến
nghị sau phiên tòa mà luật sư bào chữa có thể nêu ra (như kiến nghị một phiên
37
tòa mới) và cho phép một người quản chế tiến hành điều tra trước khi kết án.
Bồi thẩm đoàn
Bồi thẩm đoàn bàn bạc hoàn toàn kín đáo; không một người ngoài nào
được quan sát hay tham gia vào việc bàn bạc này. Trong quá trình bàn bạc,
các thành viên Bồi thẩm đoàn có thể yêu cầu làm rõ những câu hỏi pháp lý từ
thẩm phán, và họ có thể xem từng bằng chứng hay những phần chọn lọc trong
bản ghi vụ án. Khi đã đạt được một quyết định bằng việc bỏ phiếu của các
thành viên, Bồi thẩm đoàn quay lại phòng xử án để công bố phán quyết đó.
Nếu đến chập tối mà không đạt được quyết định thì các thành viên Bồi thẩm
đoàn được đưa về nhà với những chỉ dẫn kiên quyết không được trao đổi vụ
án với người khác hay đọc về vụ án trên báo. Trong những vụ án cực kỳ quan
trọng hoặc tai tiếng, Bồi thẩm đoàn có thể bị Thẩm phán tách riêng ra, nghĩa
là các thành viên của Bồi thẩm đoàn sẽ ở một khách sạn địa phương suốt đêm
để tránh sự soi mói của công chúng.
Nếu Bồi thẩm đoàn bị bế tắc và không thể đi đến một phán quyết thì có
thể báo cáo sự việc lên Thẩm phán. Trong trường hợp như vậy, Thẩm phán có
thể yêu cầu Bồi thẩm đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực để đạt được phán quyết. Hoặc,
nếu bị thuyết phục rằng Bồi thẩm đoàn trên thực tế bị bế tắc một cách vô
vọng, thì Thẩm phán có thể giải tán bồi thẩm đoàn và triệu tập một phiên tòa
xét xử mới.
Khi những thành viên của Bồi thẩm đoàn cuối cùng cũng đi đến quyết
định, họ quay trở lại phòng xử án và phán quyết của họ được công bố công
khai, thường là do chủ tịch Bồi thẩm đoàn công bố. Nếu phán quyết của Bồi
thẩm đoàn là vô tội thì bị cáo được tuyên bố tha tại chỗ và được tự do rời khỏi
phòng xử án.
Phương thức bầu Thẩm phán: Điển hình cho việc áp dụng phương thức
38
bầu Thẩm phán là Hoa Kỳ. Trừ Thẩm phán liên bang do Tổng thống bổ
nhiệm và được Thượng viện bỏ phiếu phê chuẩn, còn lại hầu hết Thẩm phán
các bang đều được bầu. Hệ thống bổ nhiệm này dựa trên niềm tin rằng công
dân có quyền lực chọn thẩm phán của mình và có thể lựa chọn người khác
trong lần bầu tiếp theo nếu không hài lòng với hiệu quả công tác của những
người này trong nhiệm kỳ của họ. Những người phê phán cơ chế tuyển dụng
này cho rằng Thẩm phán được lựa chọn theo hệ thống này khó bảo đảm được
sự độc lập trong xét xử. Việc đứng ra tranh cử và huy động tiền để tranh cử sẽ
biến Thẩm phán mang màu sắc chính trị hơn là người giữ cán cân công lý. Để
khắc phục các ý kiến quan ngại nêu trên, một số bang thường thành lập các
Hội đồng, bao gồm đại diện của các nhóm đối tượng khác nhau như luật sư,
luật gia và thường dân, và họ sẽ là người trình Thống đốc bang danh sách các
luật sư đủ điều kiện. Thống đốc sau đó bổ nhiệm một người trong số đó làm
Thẩm phán và sau một nhiệm kỳ vài năm, vị Thẩm phán này sẽ phải ra "tái
cử" không ai có quyền tranh cãi. Tuy nhiên, cả cách làm nói trên cũng để lại
những ý kiến chỉ trích về cơ chế bầu chọn Thẩm phán, đó là việc thiếu thông
tin đáng tin cậy để các cử tri đưa ra các lựa chọn
1.3.2. Thẩm phánmộtsố nước khác
Phương thức bổ nhiệm hoặc bầu cử Thẩm phán
Đa số các nước trên thế giới áp dụng phương thức bổ nhiệm Thẩm
phán, một số ít nước áp dụng phương thức bầu cử Thẩm phán, cũng có nước
sử dụng đồng thời cả hai phương thức bổ nhiệm và bầu cử Thẩm phán.
Phương thức bổ nhiệm Thẩm phán:
Truyền thống chung của các nước theo hệ thống thông luật là Thẩm phán
được lựa chọn trong số các luật sư hoặc luật gia có kinh nghiệm, sau đó được cơ
quan hành pháp có thẩm quyền bổ nhiệm. Trong những thập niên gần đây, nhiều
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ ánVai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
 
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOTNăng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính, HOT
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ ánLuận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
 
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 

Similar to Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY

Similar to Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY (20)

Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOTLuận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAYLuận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAYLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOTVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAYVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAYLuận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
Luận văn: Giáo dục pháp luật thông qua xét xử hình sự, HAY
 
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAYĐề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
Đề tài: Pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, HAY
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOTLuận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
Luận văn: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ DIỆU HIỀN NG¦êI TIÕN HµNH Tè TôNG TRONG TOµ ¸N NH¢N D¢N THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Diệu Hiền
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............................................................................. 8 1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân...... 8 1.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với nhau và với những người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân............ 20 1.2.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với nhau............................................................................ 20 1.2.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân và người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra .. 23 1.2.3. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân........................................................................................... 26 1.3. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn một số nước trên thế giới ...................................................... 35 1.3.1. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn Toà án bang, Toà án liên bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ .................................................................. 35
  • 4. 1.3.2. Thẩm phán một số nước khác........................................................... 38 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG................................................. 41 2.1. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân............................................. 41 2.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003..... 41 2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân .................................... 45 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân ............. 57 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân....................................... 57 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................... 62 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN .................................................................... 74 3.1. Hoàn thiện luật tố tụng hình sự về người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân...................................................... 74 3.1.1. Sửa đổi, bổ sung Điều 16 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 75 3.1.2. Sửa đổi, bổ sung Điều 13, Điều 104 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.......................................................................................... 78 3.1.3. Sửa đổi, bổ sung Điều 46 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 80 3.1.4. Sửa đổi, bổ sung Điều 44, Điều 45 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.......................................................................................... 82 3.1.5. Sửa đổi, bổ sung Điều 38 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003...... 83
  • 5. 3.1.6. Hoàn thiện một số quy định khác của luật tố tụng hình sự có liên quan đến người tiến hành tố tụng trong Tòa án nhân dân ................ 84 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng hình sự Trong toà án nhân dân ............................... 88 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của những người tiến hành tố tụng hình sự ............................................. 88 3.2.2. Tăng cường công tác giám sát của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, của nhân dân đối với hoạt động xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng.......................................................... 89 3.2.3. Nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp và địa vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng hình sự............ 90 3.2.4. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và công tác trao đổi nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao với các Tòa án địa phương để tháo gỡ những vướng mắc về áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các loại vụ án.......................................................................................... 98 KẾT LUẬN............................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 102
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tiếng việt BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử TAND Toà án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao THTT Tiến hành tố tụng
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử của ngành Tòa án nhân dân từ 2009 - 2013 60 Bảng 2.2: Tỷ lệ, nguyên nhân bản án, quyết định bị huỷ, sửa từ 2009 - 2013 61 Bảng 2.3: Tình hình án sửa, hủy của Toà chuyên trách TAND tỉnh Nam Định từ 2009 - 2013 63
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xét xử vụ án hình sự là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của TAND. Hệ thống cơ quan TAND bao gồm TAND các cấp và Toà án quân sự. TAND các cấp có nhiệm vụ quan trọng hơn cả vì những vụ án hình sự phần nhiều thuộc thẩm quyền xét xử của TAND các cấp còn số lượng án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự không nhiều. Số lượng án hình sự mà hàng năm TAND các cấp phải thụ lý để xét xử chiếm đa phần án hình sự của cả nước. Để quá trình xét xử đưa lại kết quả của vụ án mang tính khách quan, chính xác đúng pháp luật thì chúng ta cần có đội ngũ những người tiến hành tố tụng trong TAND có tinh thần trách nhiệm, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao. Trong thực tiễn của quá trình xét xử những người THTT trong TAND luôn làm việc công tâm, hết mình với sự nghiệp đấu tranh để “chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [24, tr.8]. Do người THTT hình sự trong TAND có vị trí, vai trò quan trọng nên trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chú trọng đến đội ngũ này; không chỉ tăng cường về số lượng mà còn tăng cả về chất lượng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động TTHS. Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của người THTT hình sự còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ so với yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra. Điều này có nhiều nguyên nhân, BLTTHS năm 2003 “được xác định là cơ bản, toàn diện và dựa trên cơ sở những nội dung cải cách tư pháp đã được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp 1992 (sửa đổi)” [36, tr.8] còn có những hạn chế trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của người THTT hình sự trong TAND như chưa cụ thể,
  • 9. 2 rõ ràng làm giảm tính độc lập của những người THTT trong TAND. Do lỗi chủ quan của người THTT vẫn còn án oan sai cho người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần quy định đầy đủ, rõ ràng, khoa học về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người THTT trong TAND. Hiện nay khoa học luật tố tụng hình sự trong và ngoài nước đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu chỉ đề cập một cách tổng thể hoặc nghiên cứu cụ thể về các cơ quan tiến hành tố tụng như Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu về người THTT hình sự trong TAND. Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật… để đổi mới tổ chức hoạt động của toà án nhằm nâng cao chất lượng xét xử đối với các vụ án hình sự” [3, tr.4]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung tâm,…” [11, tr.127]. Do đó việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về người THTT trong TAND để làm rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của họ và đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng của những người tiến hành tố tụng này để đảm bảo được sự công bằng, vô tư, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội là một vấn đề rất quan trọng. Đó là lý do luận chứng cho sự cần thiết để tôi lựa chọn đề tài: “Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”.
  • 10. 3 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề hoàn thiện các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là TAND trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay đang là một vấn đề cấp bách và được rất nhiều người đề cập tới như TS. Nguyễn Ngọc Chí – khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hoàn thiện nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” trong tố tụng hình sự; T.S. Nguyễn Ngọc Chí, đảm bảo sự vô tư của người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự. Có đề tài luận văn của các học viên ở các khoá trước cũng nghiên cứu về Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Bên cạnh đó cũng có những giáo trình luật tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học quốc gia Hà Nội, các sách chuyên khảo đều có những chương riêng viết về cơ quan THTT và người THTT. Trên chuyên trang của báo pháp luật hình sự, tố tụng hình sự có rất nhiều bài viết của các tác giả có liên quan tới cơ quan THTT, người THTT, Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Trần Văn Độ, tăng quyền cho người trực tiếp tiến hành tố tụng, nguyên tắc việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán: thực tiễn và bất cập Giáo trình pháp luật nước ngoài cũng có những chương viết về những vấn đề liên quan. Trong cuốn giáo trình giới thiệu về hệ thống pháp luật Hoa Kỳ tại chương 7 là bài viết về các Thẩm phán liên bang; ngài Allaster Cox, đại sứ Australia cung cấp cuốn sổ tay Thẩm phán với rất nhiều ý nghĩa cho ngành Toà án. Qua quá trình khảo sát trên đây ta thấy ở trong và ngoài nước đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản về người THTT, cơ quan THTT nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ chung và chưa khái quát được người THTT hình sự trong TAND ở trong một công trình nghiên cứu hay trong một bài viết. Đa
  • 11. 4 phần bài viết và công trình nghiên cứu về một cơ quan tiến hành tố tụng như Toà án, Viện kiểm sát hay một người tiến hành tố tụng cụ thể như Thẩm phán Toà án, hay Hội thẩm nhân dân trong quá trình tố tụng. Tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu - Nghiên cứu các quy định của luật TTHS về người THTT trong TAND. - Nghiên cứu nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người THTT trong thực tiễn để thấy được kết quả đạt được và hạn chế trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. - Đưa ra hướng hoàn thiện về các quy định của người THTT trong TAND, cũng như đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của người THTT trong TAND trong quá trình giải quyết vụ án hình sự để đưa lại kết quả khách quan cho kết quả của vụ án, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như oan sai cho người vô tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khái niệm cơ quan THTT, người THTT, người THTT trong TAND, nghiên cứu đặc điểm, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của người THTT trong TAND, xác định mối quan hệ với người THTT trong các cơ quan khác như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. - Khái quát sự hình thành, thay đổi và phát triển về những quy định đối với người THTT hình sự trong TAND trong lịch sử luật tố tụng hình sự Việt nam từ năm 1946 đến nay để đưa ra nhận xét, đánh giá. - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn về hoạt động của người THTT trong
  • 12. 5 TAND, chỉ ra những tồn tại, hạn chế của họ còn mắc phải trong quá trình tố tụng để giải quyết các vụ án hình sự và những nguyên nhân - Đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm, trình độ, năng lực, đạo đức nghề nghiệp của những người THTT trong TAND để hoạt động của họ đem lại kết quả của vụ án hình sự mang tính khách quan, tôn trọng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong xã hội. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động của người THTT trong TAND theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình hoạt động của người THTT trong thực tiễn xét xử của TAND các cấp và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình xét xử vụ án hình sự để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của TAND. Nghiên cứu chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật TTHS. Ngoài ra ở chừng mực nhất định có liên quan tới Luật tổ chức TAND. Nghiên cứu quy định của luật một số nước về người THTT trong TAND. Đánh giá thực trạng hoạt động của người THTT trong TAND trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
  • 13. 6 Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: luật hình sự, luật TTHS, điều tra hình sự. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Xây dựng nên khái niệm người THTT trong TAND, chỉ rõ ra nhiệm vụ, trách nhiệm quyền hạn của họ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Qua đó so sánh về sự khác nhau giữa người THTT trong TAND ở một số nước có hệ thống luật khác với nhà nước ta, tìm được ưu khuyết điểm để rút ra bài học, kinh nghiệm. - Nghiên cứu tổng hợp những thay đổi trong quy định của luật tố tụng hình sự việt nam từ năm 1946 đến nay về THTT hình sự trong TAND - Nghiên cứu đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về người THTT trong TAND 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể được khai thác sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận của cơ quan THTT hình sự là TAND và có thể làm tài liệu tham khảo trong xây dựng, sửa đổi BLTTHS, và một số văn bản quy phạm pháp luật khác - Về mặt thực tiễn: Có thể khai thác vận dụng những kết quả nghiên cứu của Luận văn để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong quá trình xét xử giải quyết vụ án hình sự để đem lại kết quả khách quan, minh bạch cho vụ án hình sự, tránh làm oan sai người vô tội cũng như việc bỏ lọt tội phạm.
  • 14. 7 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân theo luật tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân.
  • 15. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TOÀ ÁN NHÂN DÂN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân Ngay từ khi ra đời, “TTHS cũng như luật TTHS đã được đặt trên vai nhiệm vụ bảo vệ trật tự pháp luật và an ninh xã hội – điều kiện trọng yếu nhất quyết định tới sự phát triển bền vững của một quốc gia” [10, tr.30]. Tiến hành các hoạt động tố tụng là nhu cầu tất yếu trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự khi có tội phạm xảy ra, hướng tới việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ở các xã hội có nhà nước. Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua việc thiết lập ra các cơ quan để đảm nhiệm các hoạt động trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đó là các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Các cơ quan thực hiện những chức năng này để giải quyết các vụ án hình sự được gọi là các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. “Khi THTT giải quyết các vụ án, các cơ quan THTT có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo” [6]. Như vậy cơ quan THTT hình sự là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được giao thực hiện chức năng tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án nhằm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, mọi hoạt động của cơ quan THTT phải được dựa trên cơ sở và phạm vi của pháp luật tố tụng hình sự. Nếu như cơ quan THTT hình sự là các pháp nhân công quyền trong lĩnh vực tư pháp đại diện cho nhà nước tiến hành các chức năng buộc tội và xét xử trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì người THTT hình sự trong
  • 16. 9 các cơ quan đó có trách nhiệm thực thi các quyền hạn, trách nhiệm để thực hiện chức năng của các cơ quan THTT hình sự. Theo quy định của BLTTHS năm 2003, người THTT hình sự là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, có vai trò quan trọng mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự cũng như trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Những người THTT hình sự có nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng hoạt động của họ có mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. “Khi THTT giải quyết các vụ án, người THTT không được lợi dụng quyền tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền của những người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo” [6]. Hoạt động của họ là hoạt động tư pháp (hoạt động điều tra, truy tố, xét xử). Họ thực hiện những hành vi như áp dụng pháp luật, được sử dụng quyền lực nhà nước thực hiện theo thủ tục và trình tự tư pháp chặt chẽ…; họ được bổ nhiệm theo điều kiện và cách thức do luật định. Vậy người THTT hình sự là một chức danh tư pháp thể hiện cấp bậc, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của một người được nhà nước bổ nhiệm nếu đáp ứng các tiêu chuẩn do pháp luật quy định và được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành các bản án, quyết định của toà án theo trình tự, thủ tục do bộ luật tố tụng hình sự quy định. Trên cơ sở phân loại theo các cơ quan THTT thì có người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra, người THTT hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát và người THTT hình sự trong Toà án. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự thì xét xử là hoạt động trung tâm với nguyên tắc xuyên suốt là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chỉ Toà án mới có chức năng xét xử. Ở nhà nước ta, trong bộ máy nhà nước thì Toà án có
  • 17. 10 một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật. Toà án là một trong ba cơ quan do Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất lập ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo về hoạt động của mình tại các kỳ họp Quốc hội. “Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự, các toà án khác do luật quy định là những cơ quan xét xử của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [23]. Như vậy xét về chức năng thì chỉ Toà án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử, trong tố tụng hình sự thì chỉ Toà án mới có thẩm quyền xét xử hình sự, chỉ Toà án mới có quyền tuyên bố một người phạm tội hay không phạm tội “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” [24, tr.12]. Hệ thống tổ chức của Toà án được ghi nhận tại Hiến pháp 1992 tại Điều 127 và được cụ thể hoá ở Điều 2 Luật tổ chức TAND năm 2002. Theo đó Toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ, bao gồm: TAND tối cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh; các Toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Về mặt cơ cấu tổ chức Toà án bao gồm có Toà án nhân dân và Toà án quân sự. TAND có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự ngoài lĩnh vực quân sự bao gồm TAND tối cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã thành phố thuộc tỉnh. Toà án quân sự gồm: Toà án quân sự trung ương nằm trong cơ cấu của TAND tối cao, các Toà án quân sự quân khu và tương đương, các Toà án quân sự khu vực [23, Điều 2]. Toà án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra
  • 18. 11 tình trạng sẵn sàng chiến đấu, dân quân tự vệ phối thuộc chiến đấu với quân đội và những người khác được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; Thường dân phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân đội; Những người khác được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự [22, Điều 3]. Trong thực tế thì hành vi phạm tội có liên quan đến lĩnh vực quân sự rất ít khi xảy ra, ngược lại hành vi phạm tội trong dân sự diễn biến rất phức tạp, số vụ án mà TAND phải thụ lý hàng năm gấp rất nhiều lần so với số vụ án hình sự mà Toà án quân sự phải thụ lý. Chính vì vậy vai trò của TAND trong hoạt động xét xử để đấu tranh phòng chống tội phạm là quan trọng hơn cả. Để thực hiện chức năng xét xử thì cần phải có đội ngũ những người THTT hình sự trong TAND. Những người THTT hình sự trong TAND là những người trực tiếp thực hiện hoạt động xét xử và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Vì vậy để pháp luật được nghiêm minh, công tác xét xử đạt hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của người THTT hình sự trong TAND. Vai trò, nhiệm vụ của họ đặc biệt quan trọng, điều này đòi hỏi họ phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử của mình. Bên cạnh đó thì trình độ, năng lực của những người THTT hình sự trong TAND này phải được bồi dưỡng, nâng cao vì vậy việc bổ nhiệm, tuyển chọn cũng như việc quy định quyền hạn, trách nhiệm đều được Pháp luật tố tụng hình sự quy định. Theo quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 33 của Bộ luật TTHS năm thì người THTT hình sự bao gồm Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND. Theo quy định của Điều 18 và Điều 27 Luật tổ chức Toà án thì cơ cấu tổ chức của Toà án nhân dân bao gồm Chánh án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND và Hội thẩm nhân dân.
  • 19. 12 Như vậy Chánh án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND và Hội thẩm nhân dân là những người THTT hình sự trong TAND. Chánh án, Phó Chánh án TAND, Thẩm phán, Thư kí TAND là những người được bổ nhiệm, tuyển dụng theo quy định của pháp luật vào biên chế của TAND nên họ đương nhiên là người THTT hình sự trong TAND. Riêng đối với Hội thẩm nhân dân họ không thuộc biên chế của TAND họ không phải là người làm việc chuyên nghiệp trong cơ quan tố tụng nào mà họ công tác ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Họ không phải do bổ nhiệm hay tuyển dụng mà được bầu bởi cơ quan quyền lực nhà nước để tham gia vào hoạt động xét xử. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Việc cơ quan quyền lực nhà nước bầu Hội thẩm nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử thể hiện được quyền làm chủ của người dân trong hoạt động này, qua đó thể hiện được bản chất của nhà nước ta. Bên cạnh đó theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” [24, Điều 15]. Chỉ có Toà án mới có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự, vì vậy khi pháp luật đã quy định quyền THTT cho Hội thẩm nhân dân là hoạt động xét xử thì Hội thẩm nhân dân sẽ là người THTT hình sự trong TAND. Mặt khác trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân thành phần của HĐXX luôn luôn có Hội thẩm nhân dân tham gia để đảm bảo tính khách quan chính xác, thấu tình cho việc quyết định bản án cho người phạm tội. Trong HĐXX, Thẩm phán chủ toạ phiên toà có vai trò quan trọng, tuy nhiên để hiểu rõ tâm, sinh lý của người phạm tội, hiểu được hoàn cảnh, hành vi của người phạm tội thì cần một người có chuyên môn về từng lĩnh vực khác nhau, để từ đó HĐXX có được những nhận xét, đánh giá rõ hơn về chứng cứ phạm tội. Vì vậy cần trong HĐXX có người có chuyên môn về
  • 20. 13 những lĩnh vực khác nhau tham gia xét xử. Đối với những vụ án xét xử về tội Cố ý gây thương tích, Hiếp dâm cần một Hội thẩm nhân dân là bác sĩ, những vụ án có trẻ vị thành niên phạm tội cần một Hội thẩm nhân dân là thầy giáo… để có thể hiểu được mọi tình tiết, chứng cứ, tâm lý, hoàn cảnh của từng đối tượng phạm tội. Chính vì vậy mà Hội thẩm nhân dân cũng là người THTT hình sự trong TAND. Xét xử là hoạt động trung tâm của TTHS với nguyên tắc xuyên suốt là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Người trực tiếp thực hiện chức năng xét xử của TAND và có vai trò đặc biệt quan trọng đó là Thẩm phán. Với vị trí đặc biệt quan trọng đòi hỏi Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự phải vô tư, khách quan, công bằng trong hoạt động xét xử của mình. Chính vì vậy việc tuyển chọn, bổ nhiệm cũng như quy định cho Thẩm phán những quyền hạn, trách nhiệm tố tụng đều được pháp luật quy định. Theo quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND thì Thẩm phán TAND phải có những tiêu chuẩn sau: - Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân Luật và đã được đào tạo về nghiệp vụ xét xử có thời gian công tác thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của pháp luật, có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán [35, Điều 5]. - Thẩm phán TAND cấp huyện phải có thời gian công tác pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện.
  • 21. 14 - Thẩm phán TAND cấp tỉnh trước hết phải là TAND cấp huyện ít nhất 5 năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyển của TAND cấp tỉnh. Trong trường hợp cần thiết do nhu cầu cán bộ, người có đủ tiêu chuẩn chung, có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND cấp tỉnh. - Thẩm phán TAND tối cao phải là Thẩm phán TAND cấp tỉnh ít nhất 5 năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của TAND tối cao. Việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán do Chánh án TAND tối cao quyết định. Thẩm phán TAND tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Chánh án TAND tối cao [14]. Theo đó có thể định nghĩa Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND như sau: Thẩm phán là người tiến hành tố tụng hình sự được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật thực hiện chức năng xét xử những vụ án hình sự trong tòa án nhân dân một cách khách quan, công bằng góp phần bảo vệ pháp luật, công lý, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Thẩm phán là người tiến hành tố tụng hình sự trực tiếp thực hiện chức năng xét xử của TAND. Để hoạt động xét xử của Thẩm phán đạt hiệu quả cao phải có sự kết hợp hoạt động với những người tiến hành tố tụng hình sự khác trong TAND, đó là Chánh án, Phó Chánh án TAND, Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND. Chánh án, Phó Chánh án TAND là những người ngoài nhiệm vụ của
  • 22. 15 Thẩm phán còn có chức năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Theo Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội và Điều 25 Luật tổ chức TAND năm 2002, Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi miễn Chánh án TAND tối cao theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chánh án TAND tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội; Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án TAND tối cao theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Chánh án TAND tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Chánh án, Phó chánh án TAND địa phương. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án TAND tối cao; Chánh án; Phó Chánh án TAND địa phương là 5 năm kể từ ngày được bổ nhiệm. Chánh án là những người ngoài nhiệm vụ của Thẩm phán còn có chức năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Có thể hiểu Chánh án là người được bổ nhiệm có nhiệm vụ tổ chức và điều hành hoạt động của TAND trong xét xử vụ án hình sự, đồng thời họ còn có trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình theo quy định của pháp luật. Phó Chánh án TAND cũng giống như Chánh án nhưng hoạt động dưới quyền Chánh án trong việc tổ chức và điều hành hoạt động của TAND. Phó Chánh án TAND là người được bổ nhiệm có nhiệm vụ tổ chức và điều hành hoạt động của TAND trong xét xử vụ án hình sự, đồng thời họ còn có trách nhiệm của người tiến hành tố tụng hình sự, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình theo quy định của pháp luật. Chánh án và Phó Chánh án về cơ bản có khái niệm tương tự nhau có vai trò và trách nhiệm như nhau trong tiến hành tố tụng hình sự. Tuy nhiên Phó Chánh án trong chức năng tổ chức và điều hành hoạt động của TAND có vị trí thấp hơn Chánh án.
  • 23. 16 Một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS năm 2003 là khi xét xử có Hội thẩm tham gia và Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nên Hội thẩm nhân dân được quy định là người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND. Tuy nhiên khác với những người tiến hành tố tụng hình sự khác Hội thẩm nhân dân không phải do bổ nhiệm mà được bầu bởi cơ quan quyền lực nhà nước, đồng thời họ không phải là người làm việc chuyên nghiệp trong cơ quan tiến hành tố tụng hình sự mà người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử. Hội thẩm nhân dân trước hết phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bầu làm Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân TAND địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chánh án TAND cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân cấp này theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Vậy có thể hiểu, Hội thẩm nhân dân là người tiến hành tố tụng hình sự được bầu hay cử theo quy định của pháp luật tham gia vào hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND và ngang quyền với Thẩm phán. Một trong những thành phần quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của TAND nói chung và THTT hình sự nói riêng là Thư ký TAND. Họ là người THTT hình sự có trách nhiệm ghi chép mọi diễn biến tại phiên toà và thực hiện các hoạt động tố tụng khác trước, trong và sau khi phiên toà kết thúc. Thư ký TAND phải có những tiêu chuẩn chung như đối với những
  • 24. 17 người tiến hành tố tụng hình sự khác, đó là: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khoẻ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Có thể hiểu: Thư ký phiên toà là người tiến hành tố tụng hình sự có trách nhiệm ghi chép mọi diễn biến tại phiên toà và thực hiện các nhiệm vụ hành chính pháp lý đảm bảo cho việc xét xử vụ án hình sự. Từ những khái niệm riêng về Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND là những người THTT hình sự trong TAND, chúng ta có thể thấy khái niệm chung về người THTT hình sự trong TAND như sau: Người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân là những người được bổ nhiệm, tuyển dụng, bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng xét xử trong Toà án nhân dân một cách khách quan, công bằng góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, công lý, đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự. Mỗi người có một vị trí, vai trò, nhiệm vụ khác nhau trong quá trình xét xử vụ án hình sự để đưa ra bản án thích đáng nhất cho người phạm tội, đảm bảo sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình THTT hình sự thì xét xử là hoạt động trung tâm. Thẩm phán là nhân vật trung tâm đại diện cho cơ quan xét xử là TAND để làm nhiệm vụ xét xử. Bên cạnh hoạt động của Thẩm phán để đưa ra được phán quyết cuối cùng thì Thẩm phán cần có sự hỗ trợ hoạt động từ những người tiến hành tố tụng hình sự khác trong TAND là Chánh án, Phó chánh án, Hội thẩm nhân dân, Thư ký TAND. Thông qua hoạt động xét xử họ có nhiệm vụ xác định tội phạm, quyết định hình phạt nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi
  • 25. 18 hành vi phạm tội, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy người THTT hình sự trong TAND là người được nhà nước giao trách nhiệm thực hiện hoạt động xét xử, quyết định hình phạt cho người phạm tội. Người THTT hình sự trong TAND nhân danh nhà nước áp dụng các quy định của pháp luật để quy định hình phạt cho người phạm tội khi họ thực hiện hành vi mà nhà nước quy định là tội phạm. Khi thực hiện nhiệm vụ này họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Họ giữ vai trò trung tâm trong hoạt động tố tụng hình sự. Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Người THTT hình sự trong TAND có vị trí mang tính độc lập cả về nhiệm vụ lẫn quyền hạn trong khi thực hiện hoạt động xét xử. Khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật. “Khi họ thực hiện nhiệm vụ không ai, không cơ quan nào được can thiệp, tác động để buộc họ làm trái pháp luật; không ai, không cơ quan nào được lấy thẩm quyền hành chính để thay thế, chỉ đạo hoạt động xét xử của họ” [12]. Trong hệ thống những chức danh của bộ máy nhà nước, những chức danh trong TAND chỉ do nhà nước quy định và bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ xét xử. Trong quá trình xét xử vụ án hình sự không ai được phép sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện việc xét xử ngoài người THTT hình sự trong TAND. Người THTT hình sự trong TAND là hạt nhân của hoạt động tố tụng hình sự, tạo nên uy tín, sức mạnh của cơ quan xét xử là TAND. Nếu hoạt động xét xử của TAND là trung tâm của việc đấu tranh phòng chống, không
  • 26. 19 bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội thì có thể nói hoạt động của THTT hình sự trong TAND là hạt nhân của hoạt động xét xử [12]. Hiệu quả hoạt động của họ chính là hiệu quả hoạt động của TAND, trong đó Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là người trực tiếp có thẩm quyền xét xử vụ án, Chánh án, Phó Chánh án, Thư kí TAND thực hiện những công việc nhằm hỗ trợ phục vụ cho hoạt động xét xử. Vì vậy hoạt động của họ mang tính chất quyết định kết quả công việc của TAND. Hoạt động của TAND có hiệu quả hay không hiệu quả phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của họ. Việc quyết định hình phạt cho người phạm tội, xét xử đúng người, đúng tội không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tôi, để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân là hoạt động vô cùng quan trọng. Nếu hiệu quả hoạt động xét xử của những người THTT hình sự trong TAND kém thì sẽ làm mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan xét xử nói riêng và đối với nhà nước nói chung. Hoạt động của người THTT hình sự trong TAND còn góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự xét xử là yêu cầu quan trọng nhất đối với người THTT hình sự trong TAND. Vì khi thực hiện nhiệm vụ xét xử thì không được để lọt tội phạm, xác định người phạm tội được chính xác để áp dụng hình phạt cho phù hợp; có như vậy mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của công dân và bảo vệ được sự nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời sẽ củng cố được hiệu lực của pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao uy tín của bộ máy nhà nước mà đặc biệt là cơ quan xét xử - Toà án nhân dân – cơ quan bảo vệ pháp luật. Có thể nói người THTT hình sự trong TAND có vị trí, vai trò rất quan trọng trong bộ máy nhà nước, không có hoạt động của họ thì nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, trừng phạt người phạm tội không được đặt ra. Khác với những công việc khác, để đưa ra một phán quyết thấu tình đạt lý thì những người THTT hình sự trong TAND đặc biệt là Thẩm phán phải huy động
  • 27. 20 nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am hiểu về pháp luật, sự hiểu biết về thực tế, tích luỹ kiến thức về xã hội, tâm sinh lý của từng cá thể, lương tâm của những người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND. Cơ sở của các phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư, khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng. Chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của những người THTT hình sự trong TAND mới đảm bảo cho phán quyết của TAND thấu tình đạt lý. Khi tiến hành hoạt động tố tụng hình sự trong TAND thì những người THTT hình sự phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì cho dù hệ thống pháp luật có hoàn hảo, đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng không thể dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế, thậm chí quy định của pháp luật còn chồng chéo không đồng bộ. Song khi tiến hành hoạt động tố tụng hình sự trong TAND đặc biệt là khi xét xử, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật và đặc biệt phải đảm bảo công lý nghiêm minh. Trong con mắt của người dân, TAND không chỉ bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, công bằng xã hội, tạo niềm tin của công dân đối với bộ máy Nhà nước. “Tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, trình độ nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của người THTT là những tiêu chí để người dân, dư luận xã hội đánh giá về bộ máy Nhà nước, tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng và chống tội phạm” [12]. 1.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với nhau và với những người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân. 1.2.1. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với nhau Mối quan hệ giữa Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm và Thư kí TAND là mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng. Đây là
  • 28. 21 những mối quan hệ phát sinh trên cơ sở của pháp luật tố tụng hình sự và chỉ phát sinh trong quá trình họ tham gia vào giải quyết vụ án, đồng thời đây cũng là mối quan hệ phối hợp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan và chính xác. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 Chánh án là người quyết định phân công Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký TAND tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự. Chánh án quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án trước khi mở phiên toà. Tuy nhiên Chánh án không được quyền can thiệp theo ý chủ quan của mình vào hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân cũng như Thư kí Toà án. Chánh án Toà án vừa thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của Luật tố tụng, vừa là người được giao nhiệm vụ quản lý, điều hành các hoạt động của cơ quan Toà án với tư cách là Thủ trưởng cơ quan (hoặc Thủ trưởng đơn vị đối với các đơn vị thuộc Toà án nhân dân tối cao). Thẩm phán phải có trách nhiệm báo cáo tiến độ giải quyết vụ án. Đề xuất Chánh án ra quyết định áp dụng lệnh tạm giam, cấp thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, chuyển vụ án nếu thấy không thuộc thẩm quyền… Tuy mối quan hệ giữa Chánh án và Thẩm phán là mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới nhưng khi thực hiện hoạt động xét xử Thẩm phán vẫn độc lập không phụ thuộc vào sự chỉ đạo về đường lỗi xét xử của Chánh án. Hội thẩm nhân dân cũng giống như Thẩm phán độc lập trong xét xử vụ án hình sự và không phụ thuộc vào sự chỉ đạo về đường lối xét xử của Chánh án. Trong quan hệ với Thư kí Toà án, Chánh án căn cứ vào khả năng, trình độ, năng lực của Thư ký Toà án để phân công, giao nhiệm vụ cho Thư ký Toà án thực hiện các công việc của các Toà chuyên trách thuộc TANDTC hoặc TAND cấp tỉnh, TAND huyện và các đơn vị giúp việc. Thư kí Toà án
  • 29. 22 giúp Chánh án làm công tác thi hành án hình sự. Tuỳ theo số lượng Thư kí được biên chế mà Chánh án phân công công việc. Trong quan hệ với Thư kí Toà án với Thẩm phán vì họ đều là những người tiến hành tố tụng nên mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư kýToà án là mối quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng và nó chỉ phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án. Thẩm phán không phải là Thủ trưởng của Thư ký Toà án và Thư ký Toà án cũng không phải là Thư ký riêng của Thẩm phán. Tuy nhiên, Thư ký Toà án là người giúp việc cho Thẩm phán để thực hiện những tác nghiệp trong quá trình giải quyết vụ án, vì thế Thư ký Toà án phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn của Thẩm phán nhằm thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Vì giữa Thẩm phán và Thư ký Toà án có mối quan hệ phối hợp để thực hiện quy định của pháp luật tố tụng nên Thẩm phán phải thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật quy định, không được giao cho Thư ký Toà án làm thay những nhiệm vụ đó. Thư ký Toà án mà làm thay những việc thuộc nhiệm vụ, thẩm quyền của Thẩm phán là vi phạm pháp luật. Trong thực tế, có một số Thẩm phán khoán trắng cho Thư ký thực hiện việc lấy lời khai, điều tra xác minh, xây dựng hồ sơ vụ án… Thẩm phán chỉ ký vào các tài liệu do Thư ký Toà án làm để hợp thức hoá tài liệu đó là không đúng quy định, không đúng thẩm quyền và đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho công tác xét xử, giải quyết các vụ án chưa tốt. Hội thẩm nhân dân và Thư kí Toà án tuy họ đều là những người tiến hành tố tụng nhưng họ có nhiệm vụ, vị trí và chức năng khác nhau. Tuy nhiên hoạt động của họ đều chung mục đích là hoàn thành nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, do đó phải có sự phối hợp chặt chẽ để hoàn thành nhiệm vụ. Thư kí Toà án mới Hội thẩm nhân dân, thông báo ngày giờ xét xử, chuyển hồ sơ cho Hội thẩm nhân dân nghiên cứu.
  • 30. 23 Những người tiến hành tố tụng trong TAND có mối quan hệ chặt chẽ phối hợp với nhau để nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác nhất để đảm bảo tính khách quan, nhanh chóng. 1.2.2. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân và người tiến hành tố tụng hình sự trong Cơ quan điều tra Điều tra là giai đoạn đầu trong tố tụng hình sự, giữ vai trò rất quan trọng. Giai đoạn này kéo dài, phức tạp có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng. Người THTT hình sự trong cơ quan điều tra theo quy định của BLTTHS bao gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên. Trong quá trình tiến hành giải quyết các vụ án hình sự, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ “ tự mình” thực hiện đúng, chính xác và đầy đủ các công việc mà pháp luật đã quy định đã giao thẩm quyền cả về thủ tục và nội dung thì người THTT hình sự trong TAND phải giữ mối quan hệ chặt chẽ với THTT hình sự trong Cơ quan điều tra. Những người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra mà trực tiếp là Điều tra viên là những người trực tiếp tiếp cận với vụ án hình sự đầu tiên khi có hành vi phạm tội xảy ra. Công việc của họ là phải khám nghiệm hiện trường, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ để đưa vào hoàn thiện hồ sơ của vụ án. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là người xét xử và ra phán quyết nên không trực tiếp tham gia các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ. Chính vì vậy trong quá trình xét xử vụ án hình sự vẫn phải dựa trên cơ sở là kết quả điều tra do người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra cung cấp trong hồ sơ vụ án. Hiện nay phương pháp xét xử của TAND vẫn là phương pháp thẩm vấn. Với phương pháp này thì HĐXX chỉ lấy được chứng cứ trực tiếp từ lời khai của bị cáo. Như vậy những chứng cứ có liên quan trực tiếp đến hiện trường của vụ án thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không thể trực tiếp thu thập mà phải thông qua hồ sơ vụ án do người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra lập ra trong quá trình điều tra của mình. Điều tra viên sẽ bắt đầu thực
  • 31. 24 hiện việc “làm án” từ các khâu đầu tiên như khám nghiệm hiện trường vụ án, thu thập chứng cứ, xét hỏi, khai thác các đối tượng cho tới khâu lập hồ sơ vụ án để chuyền hồ sơ sang Viện kiểm sát rồi sang Toà án nhân dân. Trước hết công tác khám nghiệm hiện trường của Điều tra viên giúp thu thập và củng cố chứng cứ ban đầu của vụ án hình sự. Vì một vụ án hình sự xảy ra khi tin báo tố giác tội phạm chuyển đến cơ quan điều tra hình sự thường rất ít các tài liệu chứng cứ vì vậy phải có công tác khám nghiệm hiện trường của cơ quan điều tra. Kết quả khám nghiệm hiện trường là căn cứ để cơ quan điều tra hình sự đưa ra nhận định, đánh giá tính chất vụ việc, đánh giá phương thức thủ đoạn gây án, công cụ phương tiện gây án giúp cho Điều tra viên thu thập các dấu vết, vật chứng, mẫu vật phục vụ công tác trưng cầu giám định. Đây là những chứng cứ vô cùng quan trọng để giải quyết vụ án hình sự. Tất cả những hoạt động của người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra nhằm làm rõ hành vi có dấu hiệu phạm tội hay không. Vì vậy việc điều tra nhằm củng cố thêm các chứng cứ buộc tội. Trong quá trình điều tra, để có chứng cứ xác thực cung cấp nguồn chứng cứ chính xác nhất cho hoạt động xét xử của người THTT hình sự trong TAND thì Điều tra viên phải thu thập, điều tra, ghi chép, sắp xếp các tài liệu chứng cứ vật chứng một cách hợp lý chính xác,khách quan, trung thực theo thứ tự thời gian, không gian cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, cả hình thức và nội dung theo đúng trình tự, thủ tục mà BLTTHS đã quy định. Có như vậy thì công tác xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mới có nhiều thuận lợi và đem lại quyền và lợi ích cho các chủ thể. Ngược lại trong quá trình xét xử của người THTT hình sự trong TAND khi HĐXX thẩm vấn bị cáo, bị cáo có thể khai ra những tình tiết mới giúp Cơ quan điều tra mở rộng điều tra vụ án mà trước đó khi “làm án” Cơ quan điều tra chưa tìm ra được. Hoặc trong quá trình thụ lý, xét xử những người THTT
  • 32. 25 hình sự trong TAND thông qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, xét xử công khai tại phiên toà HĐXX xét thấy chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu, chưa rõ ràng có thể ra quyết định trả hồ sơ, điều tra bổ sung giúp cơ quan điều tra củng cố chứng cứ buộc tội chính xác, khách quan, rõ ràng, tránh làm oan sai người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Như vậy giữa người THTT hình sự trong TAND và người THTT hình sự trong Cơ quan điều tra có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ. Hiệu quả xét xử của người THTT hình sự trong TAND ngoài việc phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà thì còn phải căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ được cung cấp bởi các Điều tra viên. Ngược lại kết quả giải quyết vụ án của người THTT hình sự trong TAND thì Điều tra viên cũng rút ra được những kinh nghiệm bổ ích trong quá trình “làm án”, nhất là những vụ án mà TAND trả hồ sơ điều tra bổ sung do chứng cứ buộc tội bị cáo còn yếu, chưa rõ ràng. “Phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa…” [3]. Có thể nói trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự thì Điều tra viên là người điều tra thu thập chứng cứ qua việc lập hồ sơ, Kiểm sát viên là người kiểm sát, thẩm định hoạt động điều tra ra bản cáo trạng truy tố bị can còn Thẩm phán qua hoạt động xét xử căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên là người ra phán quyết đối với bị cáo để kết thúc vụ án hình sự đó. Vì vậy với những chứng cứ tài liệu của Điều tra viên thông qua việc kiểm sát, thẩm định hoạt động điều tra ra bản cáo trạng truy tố bị can của Kiểm sát viên là hết sức quan trọng sẽ giúp cho phán quyết của HĐXX thêm chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
  • 33. 26 1.2.3. Mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng hình sự trong Toà án nhân dân với người tiến hành tố tụng hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân Cơ quan THTT hình sự nói chung nhiệm vụ là đấu tranh, phòng chống tội phạm, cùng có trách nhiệm là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh. Chính từ mục đích đó đã hình thành nên mối quan hệ phối hợp tố tụng hình sự giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân như là một vấn đề tất yếu. Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của BLTTHS là cơ quan THTT hình sự. Người THTT hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên. Chức năng của họ trong THTT hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người THTT hình sự và cơ quan THTT hình sự góp phần đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất. Với những chức năng này thì hoạt động của người THTT hình sự trong Viện kiểm sát có mối quan hệ qua lại, mật thiết với hoạt động của người THTT hình sự trong TAND đặc biệt là mối quan hệ trực tiếp với Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư kí TAND trong chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Hoạt động của những người THTT hình sự trong hai cơ quan này có mối quan hệ biện chứng với nhau, “không thể xét xử nếu không có sự buộc tội, hay nói cách khác ở đâu có buộc tội thì ở đó phát sinh hoạt động xét xử và bào chữa” [13]. Nếu người THTT hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát làm tốt chức năng buộc tội thì hỗ trợ đắc lực cho chức năng xét xử của người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND và ngược lại. Ngay từ khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ nhằm xác định tội trạng và khung hình phạt để truy tố cũng như thủ tục tố tụng được tiến hành chặt chẽ đặt nền móng cho người THTT hình sự trong TAND thực hiện hiệu quả hoạt động tố tụng. Mối quan hệ giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và TAND xuất hiện ở giai đoạn xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm đến giám đốc
  • 34. 27 thẩm và tái thẩm. Mối quan hệ này xuất hiện bắt đầu từ khi Viện Kiểm sát nhân dân gửi cáo trạng và hồ sơ vụ án sang TAND và nó được thể hiện thông qua Kiểm sát viên được Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân uỷ quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án, làm cáo trạng và giữ quyền công tố trước toà cùng với Thẩm phán được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và sẽ làm chủ toạ phiên toà nếu vụ án được đưa ra xét xử. TAND sẽ xét xử ai, những hành vi nào, thì phải căn cứ vào bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân. “Toà án nhân dân chỉ xét xử về hình sự đối với những bị cáo và những hành vi đã bị Viện kiểm sát nhân dân truy tố mà Toà án nhân dân đã quyết định đưa ra xét xử” [24]. Sau khi hồ sơ vụ án hình sự được chuyển sang TAND cùng với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân, lúc này bắt đầu xuất hiện quan hệ tố tụng hình sự giữa hai cơ quan. Không thể nói tại thời điểm đó trở đi, những người tiến hành tố tụng hình sự trong TAND có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề về vụ án. Trong thực tế, quan hệ giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và TAND trong giai đoạn này trở đi là quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước lẫn nhau. Tính chất phối hợp trong quan hệ giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và người THTT hình sự trong Toà án nhân dân thể hiện ở chỗ họ cùng phải xem xét lại tính căn cứ, tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án. Trong trường hợp cần thiết và những trường hợp hai bên có những bất đồng về vụ án thì TAND triệu tập cuộc họp trù bị có đại diện của Viện kiểm sát nhân dân tham gia v.v… Quan hệ phối hợp này chỉ thể hiện trong giai đoạn chuẩn bị cho việc xét xử và khi thi hành án. Trong phiên toà không có mối quan hệ phối hợp ấy vì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân lúc này là người đứng giữa hai bên: một bên buộc tội (đại diện Viện kiểm sát là Kiểm sát viên, người bị hại v.v…) và một bên gỡ tội (người bào chữa, bị cáo v.v…). Cơ sở của sự phối hợp là chỉ khi xảy ra việc giải quyết vụ án hình sự và dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự đã quy
  • 35. 28 định, trong đó là nguyên tắc xác định sự thật vụ án và nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan tố tụng hình sự với các cơ quan, tổ chức nhà nước. Bên cạnh đó quan hệ phối hợp giữa người THTT sự trong Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân còn xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện đúng đắn thẩm quyền của người THTT; việc thực hiện các quy định của pháp luật do có sự bất cập, chưa hoàn thiện, do đó đòi hỏi có sự phối hợp hoạt động để đạt hiệu quả trong hoạt động tố tụng và áp dụng thống nhất căn cứ pháp luật, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm. Trong những năm qua mối quan hệ phối hợp giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân được thực hiện trên cơ sở các thông tư liên ngành và các quy chế phối hợp về các vấn đề, như: Những trường hợp cần họp trù bị giữa Tòa án và Viện kiểm sát quy định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 8/12/1988 của Toà án nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nhằm giải quyết án trọng điểm, phức tạp theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 15/10/1994; về việc thông báo, gửi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến người phạm tội tại Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC; về quan hệ phối hợp trong một số hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự quy định tại Thông tư số 01/2008/TTLT-VKSNDTC- TANDTC-BQP- BCA v.v... Về quy chế phối hợp được quy định trong Quy chế số 01/2006/QCPH giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an… phối hợp trong công tác phòng, chống tham nhũng. Trên cơ sở các văn bản pháp luật liên ngành tư pháp trung ương xác định về các nội dung phối hợp giải quyết những vấn đề trong vụ án hình sự, các cơ quan THTT ở địa phương xây dựng kế hoạch liên ngành phối hợp giải quyết những vấn đề cụ thể về tư pháp hình sự; định kỳ họp liên ngành Công an, Viện kiểm sát, TAND cấp tỉnh và huyện thống nhất giải quyết những vấn đề vướng mắc trong hoạt động TTHS. Những năm gần đây, việc họp liên ngành
  • 36. 29 của các cơ quan TTHS chỉ tập trung bàn thống nhất tháo gỡ vướng mắc bất cập trong hoạt động của mình, phối hợp giải quyết án điểm, tổ chức phiên tòa lưu động theo tinh thần cải cách tư pháp, không còn thống nhất định tội danh và bàn bạc những nội dung trong vụ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung như trước đây. Do nhận thức về tính độc lập trong hoạt động tố tụng của Thẩm phán và Kiểm sát viên ngày càng cao nhằm tránh tình trạng “án bỏ túi” bị dư luận lên án. Quan hệ chế ước lẫn nhau giữa người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân và người THTT hình sự trong Toà án nhân dân thể hiện ở chỗ Chánh án, Thẩm phán có thể yêu cầu Kiểm sát viên nhân dân tiến hành điều tra bổ sung, cung cấp thêm những tài liệu và chứng cứ cần thiết khác phục vụ cho khâu xét xử tại phiên toà. Nếu có những căn cứ bị cáo không phạm tội, Thẩm phán có thể yêu cầu được bổ sung cáo trạng trước hoặc ngay trong phiên toà nếu điều đó không làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc gây khó khăn cho việc bào chữa của bị cáo, giải quyết việc rút một phần hay toàn bộ việc truy tố trong thời gian chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử hoặc ngay tại phiên toà trước khi HĐXX nghị án. Như vậy, quan hệ chế ước này được thể hiện ở tất cả các khâu, từ khi hồ sơ vụ án chuyển sang TAND đến khi kết thúc giai đoạn tố tụng hình sự. Khi Viện kiểm sát là cơ quan có độc quyền truy tố một người ra toà nhưng việc kết tội lại thuộc về Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân. Tại phiên toà xét xử nhân danh nhà nước thực hành quyền công tố, nhưng Kiểm sát viên chỉ đưa ra ý kiến đề xuất quan điểm giải quyết vụ án còn quyết định về tội trạng, mức hình phạt vẫn là HĐXX là Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nhưng mọi hoạt động xét xử của người THTT hình sự trong TAND phải đảm bảo đúng yêu cầu là có truy tố về hành vi về con người thì mới được xét xử. Người THTT hình sự trong TAND không thể tuỳ tiện làm trái thủ tục tố tụng, do đó pháp luật quy định Viện kiểm sát nhân dân đại diện là Kiểm sát
  • 37. 30 viên nhân dân ngoài chức năng công tố còn có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đó là giám sát việc tuân thủ của HĐXX tại phiên toà, cũng như giám sát hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng tại phiên toà thì Kiểm sát viên có quyền ý kiến trực tiếp. Mặt khác sau khi xét xử người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân có quyền ban hành kiến nghị yêu cầu TAND khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử hoặc ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để giải quyết lại vụ án khi có căn cứ luật định. Như vậy có thể thấy, dù Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân có quyền độc lập trong việc phán quyết, tuy nhiên nếu trái pháp luật thì Viện trưởng, Phó Viện trưởng hay Kiểm sát viên nhân dân có quyền kiến nghị, kháng nghị để đảm bảo cho việc chấp hành pháp luật của Toà án nhân dân. Pháp luật nước ta còn quy định, nếu kiến nghị của người THTT hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân không được TAND tiếp thu, thì họ có quyền kiến nghị TAND cấp trên và báo cáo Viện kiểm sát nhân dân cấp trên để kiến nghị được đảm bảo thực hiện. Qua hoạt động giám sát của người THTT hình sự trong Viện kiểm sát còn giúp cho Toà án nhân dân, những người THTT hình sự trong TAND tránh được những sai sót, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế. Trong quan hệ chế ước, cơ bản là nhằm tránh lạm quyền trong thực hiện chức năng THTT đối của những người THTT hình sự trong Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, thì mối quan hệ giữa những người THTT hình sự này cần được xây dựng theo hướng phối hợp, chế ước nhưng phải đảm bảo tính độc lập của người THTT hình sự trên cơ sở đảm bảo thực hiện đúng chức năng xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân và tăng cường yếu tố tranh tụng. Trong quan hệ giữa người THTT hình sự của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân với TAND thì Kiểm sát viên nhân dân có mối quan hệ qua lại, gắn bó và thường xuyên hơn cả. Kiểm sát viên nhân dân khi thực hiện hoạt động
  • 38. 31 THTT hình sự thì đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng đối với những người THTT hình sự trong TAND là chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp khi xét xử vụ án hình sự, thi hành án và chức năng thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự. Đối với công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên nhân dân nói riêng khi được Viện trưởng phân công có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, vụ án được xét xử nghiêm minh và kịp thời. Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự, kiểm sát viên thực hiện quyền nhân danh nhà nước (ủy viên công tố) kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án; yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới, người THTT hình sự trong TAND cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét quyết định việc kháng nghị. Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND theo luật định. Đối với công tác kiểm sát thi hành án,sự tham gia của Kiểm sát viên nhân dân từ giai đoạn điều tra tới khi Thẩm phán ra phán quyết là chưa đủ. Thực tế đã có rất nhiều vụ án chưa thật sự đảm bảo được tính giáo dục và phòng ngừa chung, vì án không được thi hành hoặc thi hành không đúng luật định. Do đó, công tác kiểm sát thi hành án là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên nói riêng. Kiểm sát thi hành án là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, người THTT hình sự trong TAND, cơ quan thi hành án, chấp hành viên và những cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đảm bảo bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp
  • 39. 32 luật, đầy đủ và kịp thời trên thực tế. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Kiểm sát viên nói riêng có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân, người THTT hình sự trong TAND, cơ quan Thi hành án cùng cấp và cấp dưới, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định đúng quy định; cung cấp tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án; trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan thi hành án cùng cấp và cấp dưới; của chấp hành viên trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; giải quyết việc kháng cáo khiếu nại, tố cáo việc thi hành án, đồng thời thực hiện quyền kháng nghị về những sai sót, vi phạm trong công tác thi hành án theo quy định của pháp luật. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật trong thi hành án, kiểm sát viên trình lên viện kiểm sát cùng cấp, để trong thời gian ngắn nhất Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu đình chỉ thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định vi phạm pháp luật trong thi hành án, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật, khởi tố hình sự hoặc dân sự khi có căn cứ. Chức năng thực hành quyền công tố trong xét xử vụ án hình sự của Kiểm sát viên nhân dân có liên quan chặt chẽ với hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Công tố là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Ở nước ta, quyền công tố được nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Tòa án và thực hiện quyền buộc tội tại phiên tòa. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân sẽ giao nhiệm vụ, quyền năng công tố cho Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự. Như vậy, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người phạm tội, do đó đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người có hành vi phạm tội. Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
  • 40. 33 hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật hoặc vụ án bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện là Kiểm sát viên có quyền luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Kiểm sát viên khi được Viện trưởng phân công tham gia xét xử tại phiên tòa có quyền nhân danh nhà nước buộc tội bị cáo và giữ vai trò ủy viên công tố. Nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên trong lĩnh vực thực hành quyền công tố thể hiện rất rõ tại phiên tòa hình sự chính vì vậy mà hoạt động tố tụng của họ có quan hệ rất mật thiết vơi hoạt động tố tụng hình sự của người tiến hành tố tụng trong TAND đặc biệt là đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa là điều kiện để phiên tòa diễn ra hợp pháp, nếu Kiểm sát viên vắng mặt mà không có Kiểm sát viên dự khuyết thay thế, phiên tòa phải hoãn lại. Tại phiên toà, Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận. Với những quy định này đã góp phần nâng cao chất lượng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đảm bảo những lập luận đầy đủ, thuyết phục của Kiểm sát viên khi bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa hình sự, trước khi tiến hành xét hỏi Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung nếu có. Bản cáo trạng là văn bản pháp lý thể hiện quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án hình sự trên cơ sở kết quả hoạt động điều tra, nó kết thúc giai đoạn điều tra và mở đầu một giai đoạn tố tụng
  • 41. 34 mới. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa với nhiệm vụ chứng minh tính có lỗi của bị cáo và đưa ra lời buộc tội. Hoạt động chứng minh của kiểm sát viên được thực hiện theo các giai đoạn khác nhau, với các hình thức khác nhau. Trong phần xét hỏi, Kiểm sát viên được hỏi bị cáo về các tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội, hỏi người tham gia tố tụng (người bị hại, nguyên đơn, bị đơn....), được xem xét trực tiếp, kiểm tra các chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ án. Nếu tại phiên tòa, người tham gia tố tụng xuất trình thêm những tài liệu mới thì Kiểm sát viên cần làm rõ nguồn gốc xuất xứ và nội dung tài liệu đó để đề xuất việc chấp nhận hay bác bỏ trong phần luận tội. Nhiệm vụ của kiểm sát viên trong giai đoạn này là xác định các tình tiết đã xảy ra như thế nào? Có hay không có hành vi phạm tội? Là cơ sở khẳng định sự đúng đắn trong kết luận của mình ở phần tranh luận mà chưa đưa ra một nhận định hay một kết luận nào. Kết thúc phần xét hỏi, bước sang phần tranh luận, hoạt động chứng minh của Kiểm sát viên được thông qua việc trình bày lời luận tội, buộc tội bị cáo trước tòa, gồm hai bước luận chứng và luận tội. Sau khi đã buộc tội bị cáo với tội danh cụ thể, Kiểm sát viên sẽ tiến hành luận tội bằng việc làm rõ tính chất hành vi phạm tội, thủ đoạn, động cơ, hậu quả, nguyên nhân điều kiện phạm tội cũng như vai trò trách nhiệm nhân thân người phạm tội để có sự “tâm phục, khẩu phục” của bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác đối với tội danh và hình phạt mà Kiểm sát viên đề xuất. Tranh luận tại phiên tòa là tiếp tục thực hành quyền công tố nhà nước để bảo vệ cáo trạng, bảo vệ quan điểm của Viện kiểm sát. Vì vậy khi tiến hành tranh luận Kiểm sát viên phải phân tích, chứng minh, chứng cứ làm rõ nội dung truy tố của cáo trạng, nội dung tranh luận phải đạt tính chính xác và thuyết phục, bảo vệ.
  • 42. 35 Qua phân tích trên có thể nhận thấy mối quan hệ giữa người THTT hình sự trong TAND và trong cơ quan Viện kiểm sát là mối quan hệ phối hợp nhưng có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Mặc dù BLTTHS không quy định cụ thể về sự phối hợp và chế ước này tuy nhiên đây là các chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Mỗi khâu làm tốt sẽ tạo tiền đề, điều kiện để khâu sau đạt hiệu quả cao. Công tác xét xử của TAND đạt hiệu quả phải phụ thuộc vào yếu tố con người. Cho dù pháp luật có hoàn thiện mà trình độ, ý thức của những người THTT hình sự không có thì cũng không đạt hiệu quả mong muốn. Sự phối hợp ở đây không có nghĩa là thông đồng để đưa ra phán quyết sai lầm, bỏ lọt tội phạm. Sự phối hợp ở đây là tạo điều kiện cho cả Thẩm phán và Kiểm sát viên hoàn thành nhiệm vụ của mình. Sự chế ước không phải gây khó khăn cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân mà để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh, tránh cho sự phán quyết của HĐXX đưa ra mà để lọt tội phạm hay làm oan sai cho người vô tội. 1.3. Hoạt động xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn một số nước trên thế giới 1.3.1. Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn Toà án bang, Toà án liên bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Vai trò của Thẩm phán trong quá trình xét xử Vai trò của thẩm phán trong việc xét xử, mặc dù rất quan trọng, nhưng lại là một vai trò tương đối thụ động. Thẩm phán không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào hay chủ động tham gia vào việc thẩm vấn nhân chứng. Thẩm phán được nhờ tới để giám sát trên cơ sở kiến nghị của công tố và luật sư bào chữa về loại bằng chứng được đưa ra và loại câu hỏi được dùng để hỏi nhân chứng. Trong một số khu vực tài phán, Thẩm phán được phép đặt những câu hỏi thực chất cho nhân chứng và cũng bình luận trước Bồi thẩm đoàn về mức độ tin cậy của bằng chứng đưa ra; ở những bang khác, Thẩm phán bị hạn chế khỏi
  • 43. 36 những hoạt động đó. Mặc dù vậy, truyền thống pháp lý của Mỹ cũng dành chỗ cho rất nhiều phong cách xét xử tư pháp tùy theo tư cách cá nhân, trình độ đào tạo và sự khôn ngoan của từng cá nhân Thẩm phán. Đầu tiên và trước hết, Thẩm phán được kỳ vọng sẽ đóng vai trò một bên tham gia không vụ lợi mà công việc chủ yếu là bảo đảm rằng cả hai bên được phép trình bày vụ án của mình càng đầy đủ càng tốt trong phạm vi luật định. Nếu các Thẩm phán không còn dáng vẻ thực hiện nhiệm vụ một cách công bằng và trung lập thì họ sẽ đi ngược lại với những nguyên lý căn bản của pháp luật Mỹ và phán quyết của họ có nguy cơ bị tòa phúc thẩm bác bỏ [37]. Thẩm phán phải chỉ dẫn cho các thành viên Bồi thẩm đoàn về ý nghĩa của luật pháp và luật pháp được áp dụng như thế nào Thẩm phán cũng phải nhắc nhở Bồi thẩm đoàn rằng gánh nặng bằng chứng là dành cho bang và rằng bị cáo được giả định là vô tội. Nếu sau khi xem xét tất cả bằng chứng mà Bồi thẩm đoàn vẫn có sự nghi ngờ hợp lý đối với tội danh của bị cáo thì Bồi thẩm đoàn phải đưa ra một phán quyết không có tội. Cuối cùng, Thẩm phán thường giúp các thành viên Bồi thẩm đoàn hiểu rất nhiều vấn đề về thủ tục, làm thế nào để liên lạc với Thẩm phán khi họ có câu hỏi, trật tự mà theo đó họ phải xem xét lời buộc tội nếu có nhiều hơn một lời buộc tội, ai phải ký những giấy tờ chính thức thể hiện phán quyết của Bồi thẩm đoàn. Sau phiên toà Thẩm phán đưa ra quyết định hình phạt. Hầu hết ở các bang quyết định hình phạt do Thẩm phán đưa ra, một số bang thì Thẩm phán cung Bồi thẩm đoàn quyết định hình phạt. Sau khi Thẩm phán công bố bản án, theo tập quán sẽ có một vài tuần tính từ lúc bị đơn bị xác minh và tuyên bố là có tội đến khi hình phạt được đưa ra. Khoảng thời gian này cho phép Thẩm phán nghe và xem xét những kiến nghị sau phiên tòa mà luật sư bào chữa có thể nêu ra (như kiến nghị một phiên
  • 44. 37 tòa mới) và cho phép một người quản chế tiến hành điều tra trước khi kết án. Bồi thẩm đoàn Bồi thẩm đoàn bàn bạc hoàn toàn kín đáo; không một người ngoài nào được quan sát hay tham gia vào việc bàn bạc này. Trong quá trình bàn bạc, các thành viên Bồi thẩm đoàn có thể yêu cầu làm rõ những câu hỏi pháp lý từ thẩm phán, và họ có thể xem từng bằng chứng hay những phần chọn lọc trong bản ghi vụ án. Khi đã đạt được một quyết định bằng việc bỏ phiếu của các thành viên, Bồi thẩm đoàn quay lại phòng xử án để công bố phán quyết đó. Nếu đến chập tối mà không đạt được quyết định thì các thành viên Bồi thẩm đoàn được đưa về nhà với những chỉ dẫn kiên quyết không được trao đổi vụ án với người khác hay đọc về vụ án trên báo. Trong những vụ án cực kỳ quan trọng hoặc tai tiếng, Bồi thẩm đoàn có thể bị Thẩm phán tách riêng ra, nghĩa là các thành viên của Bồi thẩm đoàn sẽ ở một khách sạn địa phương suốt đêm để tránh sự soi mói của công chúng. Nếu Bồi thẩm đoàn bị bế tắc và không thể đi đến một phán quyết thì có thể báo cáo sự việc lên Thẩm phán. Trong trường hợp như vậy, Thẩm phán có thể yêu cầu Bồi thẩm đoàn vẫn tiếp tục nỗ lực để đạt được phán quyết. Hoặc, nếu bị thuyết phục rằng Bồi thẩm đoàn trên thực tế bị bế tắc một cách vô vọng, thì Thẩm phán có thể giải tán bồi thẩm đoàn và triệu tập một phiên tòa xét xử mới. Khi những thành viên của Bồi thẩm đoàn cuối cùng cũng đi đến quyết định, họ quay trở lại phòng xử án và phán quyết của họ được công bố công khai, thường là do chủ tịch Bồi thẩm đoàn công bố. Nếu phán quyết của Bồi thẩm đoàn là vô tội thì bị cáo được tuyên bố tha tại chỗ và được tự do rời khỏi phòng xử án. Phương thức bầu Thẩm phán: Điển hình cho việc áp dụng phương thức
  • 45. 38 bầu Thẩm phán là Hoa Kỳ. Trừ Thẩm phán liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và được Thượng viện bỏ phiếu phê chuẩn, còn lại hầu hết Thẩm phán các bang đều được bầu. Hệ thống bổ nhiệm này dựa trên niềm tin rằng công dân có quyền lực chọn thẩm phán của mình và có thể lựa chọn người khác trong lần bầu tiếp theo nếu không hài lòng với hiệu quả công tác của những người này trong nhiệm kỳ của họ. Những người phê phán cơ chế tuyển dụng này cho rằng Thẩm phán được lựa chọn theo hệ thống này khó bảo đảm được sự độc lập trong xét xử. Việc đứng ra tranh cử và huy động tiền để tranh cử sẽ biến Thẩm phán mang màu sắc chính trị hơn là người giữ cán cân công lý. Để khắc phục các ý kiến quan ngại nêu trên, một số bang thường thành lập các Hội đồng, bao gồm đại diện của các nhóm đối tượng khác nhau như luật sư, luật gia và thường dân, và họ sẽ là người trình Thống đốc bang danh sách các luật sư đủ điều kiện. Thống đốc sau đó bổ nhiệm một người trong số đó làm Thẩm phán và sau một nhiệm kỳ vài năm, vị Thẩm phán này sẽ phải ra "tái cử" không ai có quyền tranh cãi. Tuy nhiên, cả cách làm nói trên cũng để lại những ý kiến chỉ trích về cơ chế bầu chọn Thẩm phán, đó là việc thiếu thông tin đáng tin cậy để các cử tri đưa ra các lựa chọn 1.3.2. Thẩm phánmộtsố nước khác Phương thức bổ nhiệm hoặc bầu cử Thẩm phán Đa số các nước trên thế giới áp dụng phương thức bổ nhiệm Thẩm phán, một số ít nước áp dụng phương thức bầu cử Thẩm phán, cũng có nước sử dụng đồng thời cả hai phương thức bổ nhiệm và bầu cử Thẩm phán. Phương thức bổ nhiệm Thẩm phán: Truyền thống chung của các nước theo hệ thống thông luật là Thẩm phán được lựa chọn trong số các luật sư hoặc luật gia có kinh nghiệm, sau đó được cơ quan hành pháp có thẩm quyền bổ nhiệm. Trong những thập niên gần đây, nhiều