SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN DOÃN KHÔI
HO¹T §éNG THÈM TRA C¸C Dù ¸N LUËT, PH¸P LÖNH
CñA C¸C C¥ QUAN QUèC HéI, THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Doãn Khôi
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ
ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI .........10
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ..........................................10
1.1.1. Khái niệm hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh...............................10
1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh................................................................................................13
1.1.3. Vai trò của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh....................................16
1.2. Thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội trong thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh..............................................................................................22
1.3. Phân công cơ quan thẩm tra dự án luật, pháp lệnh .................................23
1.4. Nội dung thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh............................................29
1.5. Phương thức và trình tự thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh..................32
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh của các cơ quan của Quốc hội.............................................................39
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ ÁN
LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI Ở
VIỆT NAM............................................................................................................42
2.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam .......................................................42
2.1.1. Hiện trạng các quy định pháp luật về hoạt động thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.......................................................42
2.1.2. Những hạn chế, bất cập của hệ thống quy định hiện hành về hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội .............................52
2.2. Thực tiễn triển khai hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam .......................................................56
2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc.................................................................................56
2.2.2. Những hạn chế, bất cập và những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh ở Việt Nam....................................................61
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ
ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI .........72
3.1. Quan điểm đổi mới hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
các cơ quan của Quốc hội............................................................................72
3.1.1. Bảo đảm chất lƣợng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các
cơ quan Quốc hội trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc pháp quyền ......................72
3.1.2. Bảo đảm chất lƣợng hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của
Quốc hội đặt trong yêu cầu tổng thể về cải cách, nâng cao chất lƣợng
hoạt động lập pháp của Quốc hội...................................................................73
3.2. Một số giải pháp đổi mới hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh của các cơ quan của Quốc hội.............................................................76
3.2.1. Về nhận thức ..................................................................................................76
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của
các cơ quan của Quốc hội ..............................................................................81
3.2.3. Giải pháp về tổ chức ......................................................................................83
3.2.4. Các giải pháp hỗ trợ khác...............................................................................86
KẾT LUẬN .......................................................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................93
DANH MỤC BẢNG
Số bảng Tên bảng Trang
Bảng 1.1: Vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp 25
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu đồ 2.1: Số lƣợng văn bản luật đƣợc ban hành qua các nhiệm kỳ
Quốc hội 58
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội
(Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội) là một khâu trong quy trình
lập pháp, có vai trò quan trọng, nhằm bảo đảm chất lƣợng và hiệu quả của
hoạt động lập pháp của Quốc hội. Hiến pháp khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt
của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để giúp
Quốc hội thực hiện tốt vị trí, vai trò hiến định đó, thẩm tra các dự án luật,
pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội là hoạt động rất cần thiết.
Cùng với việc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, trong những năm vừa qua, hoạt động lập pháp của
Quốc hội đã từng bƣớc đƣợc cải tiến và có nhiều chuyển biến tích cực cả về
chất lƣợng và số lƣợng, cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu xây dựng, đổi mới, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đạt đƣợc vẫn chƣa đáp ứng
đƣợc mong đợi. Nhiều ý kiến khi đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt
Nam hiện nay cho rằng: pháp luật đi vào cuộc sống còn chậm, thiếu tính ổn
định; tình trạng văn bản luật cần sửa đổi, bổ sung chiếm tỷ lệ khá lớn trong
tổng số văn bản đƣợc ban hành. Điều này có nguyên nhân từ nhiều phía, trong
đó có những hạn chế, tồn tại trong công đoạn thẩm tra các dự án luật của các
cơ quan của Quốc hội. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là: bên cạnh việc tiếp tục đổi
mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nói
chung, trong đó có hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh cần đƣợc tiếp tục
nghiên cứu thấu đáo để có những cải tiến cho phù hợp hơn nữa với xu thế
phát triển của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay.
Hiến pháp năm 1992 xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nƣớc ta là Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu đẩy mạnh hơn nữa hoạt
2
động lập pháp của Quốc hội cũng cấp bách hơn, Quốc hội phải kịp thời ban
hành các văn bản luật không những đảm bảo về số lƣợng mà còn có chất
lƣợng tốt, làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng
yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Bên
cạnh đó, công cuộc đổi mới cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật
hơn nữa, bảo đảm xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, khả thi đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nƣớc, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này một lần nữa đặt ra yêu cầu tiếp
tục đổi mới, hoàn thiện công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ
quan Quốc hội.
Từ thực trạng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh hiện nay tuy đã đƣợc quan
tâm đổi mới, thiết thực, hiệu quả hơn trƣớc, các báo cáo thẩm tra đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lƣợng của dự án trƣớc khi trình Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội, nhƣng không vì vậy mà không còn những hạn
chế thiếu sót. Số lƣợng các dự án luật mà Chính phủ, các cơ quan soạn thảo
trình lên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội ngày càng nhiều trong khi dự
thảo, dự án trình không đảm bảo đúng thời hạn để các cơ quan của Quốc hội
có đủ thời gian, thông tin tiến hành thẩm tra theo luật định; việc tiến hành
phối hợp thẩm tra dự án luật còn chƣa nhịp nhàng; hình thức và hiệu lực của
báo cáo thẩm tra còn có những hạn chế nhất định… Những điều đó hạn chế
rất lớn đến hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, việc bảo đảm số lƣợng
và chất lƣợng các dự án luật, pháp lệnh là rất khó có thể thực hiện đƣợc. Vì
thế, đổi mới quy trình lập pháp nói chung, quy trình, thủ tục thẩm tra các dự
án luật, pháp lệnh nói riêng là hết sức cấp bách.
Trên phƣơng diện khoa học pháp lý, yêu cầu cải cách pháp luật, thực
hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và
3
hoạt động của cơ quan lập pháp, đổi mới thực hiện chức năng lập pháp, quy
trình lập pháp, hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của
Quốc hội phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, đầy đủ để tạo cơ sở khoa học
cho việc tiến hành đổi mới. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng trong một thời
gian dài và cho đến hiện nay việc đầu tƣ nghiên cứu, phát triển khoa học lập
pháp, trong đó có vấn đề nghiên cứu làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, thực
tiễn của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc
hội đã chƣa đƣợc chú ý đúng mức.
Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả luận văn
nhận thấy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục những tồn
tại trong hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc
hội đang là nhiệm vụ bức thiết, cấp bách, có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo
đảm hiệu lực, hiệu quả các luật do Quốc hội, pháp lệnh do Ủy ban thƣờng vụ
Quốc hội ban hành. Từ đó, tác giả chọn đề tài luận văn thạc sĩ là “Hoạt
động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, thực
trạng và giải pháp” nhƣ là một nội dung nghiên cứu mang ý nghĩa thời sự,
hết sức cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
Quốc hội, thực hiện các chức năng của Quốc hội luôn là một trong những
hƣớng ƣu tiên của nhiều nhà khoa học pháp lý. Có rất nhiều đề tài khoa học
cấp Bộ, cấp Nhà nƣớc, các sách, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về các
vấn đề này, từ các công trình trực tiếp đến gián tiếp liên quan đến đề tài luận
văn. Có thể kể đến một số công trình sau:
Đề tài nghiên cứu cấp bộ về “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp
của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, năm
2001, do đồng chí Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nguyên
4
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội làm chủ nhiệm. Đây là đề tài tập
trung nghiên cứu quy trình lập pháp mở rộng, trong đó có đề cập đến hoạt
động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội, tuy nhiên chƣa đƣợc
chú trọng nhiều, nội dung còn có tính khái quát cao.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Tăng cường năng lực lập pháp
của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, năm 2006, do PGS.TS Lê Văn Hòe làm chủ
nhiệm. Đây là đề tài nghiên cứu những vấn đề có đề cập đến các khía cạnh
khác nhau liên quan đến đề tài luận văn, song chỉ giới hạn ở việc đƣa ra khái
niệm năng lực lập pháp, các yếu tố tạo thành năng lực lập pháp, thực trạng và
giải pháp tăng cƣờng năng lực lập pháp của Quốc hội.
Cùng với đó, còn có một số công trình khoa học khác nhƣ luận án tiến
sĩ về “Cơ sở lý luận của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt
động của Quốc hội ở Việt Nam”, của NCS Lê Thanh Vân, bảo vệ năm 2003
tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận án tiến sĩ về “Hoàn thiện
quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay” của NCS Hoàng Văn Tú, bảo vệ
năm 2004 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sĩ về
“Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc
hội” của Đặng Đình Luyến, bảo vệ năm 2006 tại Viện Nhà nƣớc và Pháp
luật… Những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ này cũng đã nghiên cứu một số
vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn.
Bên cạnh đó còn có các sách và các bài viết đƣợc công bố trên các tạp
chí chuyên ngành liên quan đến đề tài, nhƣ sách: “Nhà nước và pháp luật của
chúng ta trong sự nghiệp đổi mới” của GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội - 1997. Đây là công trình khoa học nghiên cứu những vấn
đề lý luận về nhà nƣớc và pháp luật trong thời kỳ đổi mới; sách “Quốc hội
Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi mới” của PGS.TS Phan Trung Lý,
5
NXB Chính trị Quốc gia - 2010. Đây là cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về
tổ chức, hoạt động và phƣơng hƣớng đổi mới của Quốc hội Việt Nam; bài viết
“Nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh” của TS Phạm Tuấn Khải, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2004; bài viết “Quy trình lập pháp
Việt Nam: Từ soạn thảo và xin ý kiến đến quyết định chính sách, dịch chính
sách và thẩm định chính sách”, của TS Nguyễn Sĩ Dũng và Ths Hoàng Minh
Hiếu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13/2008; bài viết “Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và
tính thống nhất của hệ thống pháp luật” của TS. Hoàng Văn Tú; bài viết
“Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh” của TS. Vũ Đức Khiển; bài viết “Một số ý kiến về xây dựng báo
cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của Ths. Nguyễn Quang Minh; bài viết
“Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp” của GS. TS. Trần Ngọc Đƣờng; bài
viết “Vai trò thẩm tra các dự án luật của Thường trực Hội đồng Dân tộc,
Thường trực các Ủy ban của Quốc hội” của tác giả Trần Hồng Nguyên; bài
viết “Một số vấn đề đặt ra về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và
các Ủy ban của Quốc hội” của GS. TS. Bùi Xuân Đức; bài viết “Thực trạng
về Báo cáo thẩm tra và một số kiến nghị” của Ths Nguyễn Mạnh Cƣờng,...
Đây là những bài viết có đề cập đến các nội dung lý luận và thực tiễn trong tổ
chức và hoạt động của Quốc hội, có liên quan đến đề tài của luận văn.
Ngoài ra trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, tác giả Luận văn cũng
tham khảo một số tài liệu, sách là công trình khoa học của các tác giả nƣớc
ngoài có liên quan đến luận văn, nhƣ: Roger Davidson và Walter J.Olesfek:
“Quốc hội và các thành viên”, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2002…
Có thể khẳng định tất cả các công trình khoa học trên đều có đề cập ở
mức độ khác nhau những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận
6
văn, nhƣng không đầy đủ, chƣa có tính hệ thống; trong đó một số không còn
phù hợp với pháp luật hiện hành và yêu cầu mới đối với Quốc hội. Vì lẽ đó,
có thể khẳng định đề tài luận văn “Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
của các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp” không trùng với bất kỳ
công trình khoa học nào đã đƣợc công bố.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận,
khuôn khổ pháp lý và thực tiễn triển khai hoạt động thẩm tra các dự án luật,
pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam; hoạt động thẩm tra ở
Nghị viện một số nƣớc; những vấn đề về chủ trƣơng, chính sách của Đảng
trong việc nâng cao chất lƣợng thẩm tra dự án luật của các cơ quan Quốc hội.
Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội
là một công đoạn trong quy trình lập pháp, có quan hệ hữu cơ với các giai
đoạn khác của quy trình lập pháp. Tuy vậy, do khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ
tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn
hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội; đề
xuất các quan điểm và giải pháp tăng cƣờng chất lƣợng hoạt động này, nhằm
bảo đảm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của công tác thẩm tra; phát huy vai
trò của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội nƣớc ta hiện nay.
Để thực hiện tốt mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, và
mục đích của hoạt động thẩm tra; nội dung, các bƣớc của hoạt động thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
7
- Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, những ƣu điểm,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác thẩm tra
dự án luật của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay.
- Xem xét, phân tích hoạt động thẩm tra dự án luật ở một số nƣớc trên
thế giới và những điểm hợp lý có thể tham khảo ở Việt Nam.
- Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là cơ sở cho việc nhận
thức bản chất nội tại và các mối quan hệ biện chứng của các vấn đề cần
nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu
tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá qua các số liệu thu thập có
liên quan đến hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của cơ quan của
Quốc hội ở Việt Nam cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới nhằm làm sáng tỏ
những luận cứ khoa học và tính thuyết phục cao trong các đề xuất về quan
điểm, giải pháp tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả hoạt động thẩm tra của các
cơ quan Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là:
- Trong chƣơng 1, để giải quyết những vấn đề lý luận, luận văn chủ yếu
sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, luật học so sánh, từ đó làm
rõ các khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung, hình thức, vị trí, vai trò của
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh trong hoạt động lập pháp và các yếu tố ảnh
hƣởng đến chất lƣợng báo cáo thẩm tra.
- Trong chƣơng 2, luận văn sử dụng các phƣơng pháp lịch sử cụ thể,
phân tích và tổng hợp, xã hội học để đánh giá toàn diện, khách quan thực
trạng hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội.
- Trong chƣơng 3, luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp trên,
8
trong đó có tính đến những yêu cầu thực tiễn và những kiến nghị đổi mới
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.
6. Điểm mới của luận văn
Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về
hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, kết quả
nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, quan
điểm về hoạt động thẩm tra; đánh giá thực trạng và những hạn chế trong công
tác thẩm tra, kinh nghiệm của một số nƣớc về hoạt động thẩm tra các dự án
luật và trên cơ sở đó, đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp khắc phục hạn chế, bất
cập hiện nay trong công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan
của Quốc hội. Từ đó góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đồng bộ, nhất quán, có tính khả thi và hiệu lực pháp lý cao. Cụ thể:
- Luận văn đƣa ra các phƣơng pháp tiếp cận khác nhau về hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, từ đó làm rõ khái
niệm, bản chất, mục đích của hoạt động thẩm tra dự án luật.
- Chỉ rõ các bƣớc của hoạt động thẩm tra, nội dung và hình thức thẩm
tra, các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng báo cáo thẩm tra.
- Xác lập các quan điểm, đề xuất và dẫn giải các giải pháp nhằm tăng
cƣờng chất lƣợng của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ
quan của Quốc hội.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về cơ sở
lý luận và thực tiễn trong việc tiếp cận và hoàn thiện công tác thẩm tra các dự
án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, về chuyên ngành lý luận và
lịch sử nhà nƣớc và pháp luật ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hiện nay
ở Việt Nam.
9
Bên cạnh đó, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho đại biểu
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các nhà khoa học, nhà hoạt động thực
tiễn trong việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đổi
mới quy trình lập pháp và công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ
quan của Quốc hội, nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
bố cục gồm ba chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của
các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp đổi mới hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM TRA
CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN
CỦA QUỐC HỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội
1.1.1. Khái niệm hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh
Các cơ quan của Quốc hội gồm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban, do
Quốc hội thành lập. Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản
pháp luật hiện hành, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc và các Ủy
ban của Quốc hội đƣợc phân định thành ba lĩnh vực chính: thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh; giám sát việc thực hiện pháp luật và kiến nghị về các vấn đề
thuộc lĩnh vực hoạt động của mình. Cụ thể, các nhiệm vụ này gồm: thẩm tra,
kiến nghị về các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo
cáo đƣợc Quốc hội hoặc Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội,
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội ý kiến của cơ quan mình về chƣơng trình xây
dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 2, Quy chế hoạt động của
Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội). Mặc dù đƣợc quy định với 3
nhóm nhiệm vụ, nhƣng trong thực tiễn hoạt động của cơ quan mình, hoạt
động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh là nhiệm vụ đƣợc tiến hành chủ yếu
và thƣờng xuyên ở Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.
Theo Từ điển tiếng Việt, “thẩm” là xem xét; “tra” là tra khảo, tra
cứu, tra hỏi. “Thẩm tra” là điều tra, xem xét lại xem có đúng, có chính xác
không [30, tr. 922]
11
Nhƣ vậy, có thể hiểu rằng: hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh
trƣớc hết là hoạt động của một chủ thể đƣợc tiến hành nhằm kiểm tra, đánh
giá, xem xét mọi vấn đề của dự án luật, pháp lệnh theo những tiêu chí nhất
định. Tuy vậy, các tiêu chí này là gì; hình thức thể hiện của nó ra sao thì chƣa
đƣợc quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
Sản phẩm của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là báo cáo thẩm
tra. Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh chính là văn bản do các cơ quan
của Quốc hội báo cáo với Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, trong đó thể
hiện những quan điểm, đánh giá và đề xuất của những cơ quan đó về dự án
luật, pháp lệnh để làm cơ sở cho Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem
xét, thông qua. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định
nhƣ thế nào là báo cáo thẩm tra, cho nên việc xây dựng báo cáo thẩm tra phụ
thuộc rất nhiều vào nhận thức chủ quan của cơ quan thẩm tra, mà trƣớc hết là
nhận thức của Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và
Vụ chuyên môn giúp việc - những ngƣời vừa là “kiến trúc sƣ”, vừa là “thợ
xây” nên các báo cáo thẩm tra. Cũng do chƣa có quy định nên trên thực tế, để
trả lời cho câu hỏi: xây dựng báo cáo thẩm tra nhƣ thế nào?, không hiếm khi
câu trả lời sẽ là: Trƣớc kia (hoặc các Ủy ban khác) làm nhƣ thế nào thì bây
giờ cứ làm nhƣ thế.... Vì vậy, trên thực tế, xảy ra sự giống nhau một cách
nhàm chán cả về hình thức, ngôn từ sử dụng, cấu trúc, văn phong, đến nội
dung, và nhất là chất lƣợng còn chƣa cao của không ít báo cáo thẩm tra.
Xuất phát từ thực tiễn và nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành
về hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội,
tác giả luận văn cho rằng, cần xây dựng khái niệm về báo cáo thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh, trong đó quy định rõ nội dung, hình thức báo cáo. Đây là
điều rất cần thiết, vì nó là cơ sở nhận thức nền tảng cho việc xây dựng báo
cáo thẩm tra.
12
Về bản chất, báo cáo thẩm tra chính là sự thể hiện quan điểm của cơ
quan thẩm tra về dự án luật, pháp lệnh đƣợc thẩm tra dƣới hình thức một văn
bản pháp lý nằm trong một thủ tục pháp lý đƣợc pháp luật quy định, có tính
chất bắt buộc nhằm bảo đảm cho quy trình xây dựng luật, pháp lệnh đƣợc tiến
hành chặt chẽ, khoa học và có hiệu quả.
Nhƣ vậy, qua nghiên cứu các quy định pháp luật và hoạt động thẩm tra
những năm qua, có thể rút ra định nghĩa: Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp
lệnh là những văn bản (trường hợp cá biệt có thể là phát biểu miệng) do các
cơ quan có thẩm quyền của Quốc hội (mà hiện tại là Hội đồng Dân tộc và các
Ủy ban của Quốc hội) báo cáo với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội,
trong đó thể hiện những quan điểm, đánh giá và đề xuất của những cơ quan
đó về dự án luật, pháp lệnh làm cơ sở cho Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội xem xét, thông qua dự án.
Ở nƣớc ta, các cơ quan của Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong tổ
chức và hoạt động của Quốc hội. Trong công tác xây dựng pháp luật, các cơ
quan này đã phát huy đƣợc vai trò là cơ quan tham mƣu, “gác cổng” cho
Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội là cơ quan đƣợc Quốc hội giao phụ trách những lĩnh vực chuyên
môn nhất định, đƣợc giao chủ trì thẩm tra hoặc tham gia thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh trong phạm vi lĩnh vực mà mình phụ trách trƣớc khi trình
Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Với việc thể hiện quan điểm của cơ
quan thẩm tra thì báo cáo thẩm tra chính là văn bản đánh giá chất lƣợng của
dự án luật, pháp lệnh cả về nội dung và hình thức. Báo cáo thẩm tra còn là sự
kiểm tra trƣớc nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm khuyết có thể có trong
dự thảo và đƣa ra các giải pháp để khắc phục những vi phạm, khiếm khuyết
đó, làm cơ sở cho các đại biểu Quốc hội xem xét, thảo luận dự án luật, thành
viên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến dự án luật, xem xét,
thảo luận dự án pháp lệnh.
13
1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động thẩm tra các
dự án luật, pháp lệnh
1.1.2.1. Đặc điểm, yêu cầu
- Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một khâu trong quá trình chuẩn bị
dự án trƣớc khi trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Các dự án
luật, pháp lệnh chỉ đƣợc trình Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội sau
khi đã đƣợc cơ quan hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Việc thẩm tra đƣợc
xem xét cả về hình thức và nội dung của dự án, nhất là xem xét sự phù hợp,
nhất quán nội dung của dự thảo với chủ trƣơng, chính sách của Đảng và
Nhà nƣớc, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phạm vi điều chỉnh và
tính khả thi của dự án.
- Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải do các cơ quan của Quốc hội thực
hiện theo chức năng, nhiệm vụ và sự phân công của Ủy ban thƣờng vụ Quốc
hội. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dự án
luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội trƣớc khi trình Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội phải đƣợc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban hữu quan của Quốc hội
thẩm tra. Trong trƣờng hợp Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội trình dự án luật thì
Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để
thẩm tra dự án luật đó; đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết
do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trình, thì Uỷ ban thƣờng vụ
Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ
quan soạn thảo báo cáo về những vấn đề thuộc nội dung của dự án; tự mình
hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc
nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân đƣợc cơ quan thẩm tra yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông
tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo
14
nghị quyết. Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra, thì Uỷ ban
Pháp luật của Quốc hội tham gia thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp
pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Dự án luật, dự án pháp lệnh,
dự thảo nghị quyết có thể đƣợc thẩm tra một lần hoặc nhiều lần. Đối với dự
án luật, dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội để xin ý kiến, thì
phải đƣợc cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra sơ bộ. Đối với dự án luật, dự
thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Uỷ
ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, quyết định thông qua, thì phải đƣợc cơ quan
thẩm tra tiến hành thẩm tra chính thức.
- Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải tuân theo trình tự và phƣơng thức
luật định. Theo quy định, việc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải tuân theo
trình tự từ chuẩn bị thẩm tra, tiến hành thẩm tra và xây dựng, phê duyệt báo
cáo thẩm tra, đồng thời tuân theo phƣơng thức nhất định: thẩm tra sơ bộ đối
với dự án lần đầu cho ý kiến và thẩm tra chính thức khi cho ý kiến và xem xét
lần tiếp theo.
- Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải đảm bảo nội dung theo quy định.
Tại Điều 43 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về nội dung
thẩm tra là: Phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh của văn bản; Nội dung của dự thảo
văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Sự phù hợp của nội dung
dự thảo văn bản với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với Hiến
pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp
luật; Tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản.
1.1.2.1. Các nguyên tắc trong hoạt động thẩm tra
Trong hoạt động thẩm các dự án luật, pháp lệnh cần tuân thủ các
nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều
3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 là: 1) Bảo đảm tính
15
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong
hệ thống pháp luật; 2) Tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây
dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; 3) Bảo đảm tính công khai trong
quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trƣờng hợp văn
bản pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc; đảm bảo tính minh bạch
trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật; 4) Bảo đảm tính khả thi
của văn bản quy phạm pháp luật; và 5) Không làm cản trở việc thực hiện điều
ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, còn cần
tuân thủ các nguyên tắc:
- Nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công bằng:
Theo nguyên tắc này, tất cả thành viên cơ quan thẩm tra đều bình đẳng
trong việc thảo luận, kiến nghị, biểu quyết... tại cuộc họp, hội thảo liên quan
đến thẩm tra dự án. Việc thảo luận tại phiên họp toàn thể cơ quan thẩm tra
phải tuân theo các yêu cầu nhƣ: tất cả các thành viên của cơ quan thẩm tra đều
có quyền, nghĩa vụ nhƣ nhau trong quá trình thảo luận; các quy định về thủ
tục thảo luận phải đƣợc thực hiện một cách không thiên vị; vào bất kỳ thời
điểm nào, các thành viên của cơ quan này cũng đƣợc biết về vấn đề đang
đƣợc xem xét và vấn đề đó phải đƣợc nhắc lại trƣớc khi tiến hành biểu quyết;
không phát biểu lần thứ hai về cùng một vấn đề khi đang có ngƣời khác muốn
phát biểu về vấn đề đó; chủ tọa phiên họp phải điều khiển phiên họp một cách
công bằng và trung thực, hai luồng ý kiến phản đối và đồng ý đều có cơ hội
đƣợc thể hiện nhƣ nhau.
- Nguyên tắc quyết định theo đa số: Nguyên tắc này đƣợc thể hiện trên
hai phƣơng diện:
Thứ nhất là, cần đặt ra số lƣợng thành viên tối thiểu cần thiết có mặt tại
phiên họp thẩm tra để có thể biểu quyết. Đây là vấn đề quan trọng bởi không
thể thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh mà lại có một số ít thành viên cơ quan
tham gia bàn bạc, thông qua.
16
Thứ hai là, quyết định của Hội đồng, Ủy ban phải đƣợc đa số thành
viên Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội biểu quyết, tán thành mới có giá trị.
Chính vì vậy, nếu không đảm bảo số lƣợng quá nửa số thành viên Ủy ban
tham gia thì cuộc họp thẩm tra dự án không đƣợc tiến hành bởi không đảm
bảo quá nửa thành viên cơ quan này biểu quyết thông qua kết quả thẩm tra
(đối với phiên họp thẩm tra sơ bộ phải đảm bảo đầy đủ thƣờng trực cơ quan
này tham gia).
1.1.3. Vai trò của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
1.1.3.1. Vai trò đối với quy trình và chất lượng hoạt động lập pháp của
Quốc hội
Một trong những chức năng quan trọng của Quốc hội là chức năng
lập pháp. Việc thực hiện tốt chức năng lập pháp quyết định vị trí, vai trò
của Quốc hội trong bộ máy nhà nƣớc. Tuy nhiên, vị trí, vai trò đó của Quốc
hội có đƣợc khẳng định hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tham gia thực hiện chức năng lập
pháp của mình.
Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình lập pháp
của Quốc hội đƣợc quy định theo trình tự: 1) xây dựng chƣơng trình xây dựng
luật và pháp lệnh; 2) Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh; 3) Thẩm tra các dự án
luật, pháp lệnh; 4) Thảo luận và thông qua dự án luật tại kỳ họp
Quốc hội, dự án pháp lệnh tại phiên họp của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội; 5)
Công bố luật, pháp lệnh.
Các khâu của quy trình lập pháp trên nằm trong mối liên hệ biện chứng,
tác động qua lại tạo nên cơ chế đồng bộ trong hoạt động lập pháp. Thẩm tra
dự án luật, pháp lệnh trƣớc khi trình Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội
xem xét, thông qua đƣợc xem nhƣ là một hoạt động trung tâm của quy trình
lập pháp của Quốc hội, bởi thông thƣờng, phần lớn các dự án luật, pháp lệnh
17
do Chính phủ, các cơ quan, tổ chức xã hội trình. Hoạt động thẩm tra dự án
luật, pháp lệnh là “chốt” đầu tiên của cả quá trình xem xét, thông qua dự án
luật tại Quốc hội, dự án pháp lệnh tại Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Các đại
biểu Quốc hội, thành viên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội sẽ cảm thấy an tâm
hơn khi nhận đƣợc những thông tin đầy đủ và có tính thuyết phục từ các báo
cáo thẩm tra về dự án luật, pháp lệnh đƣợc trình ra Quốc hội, Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội. Nhƣ vậy, chất lƣợng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một trong
những khâu then chốt tạo nên chất lƣợng của dự án luật, pháp lệnh.
Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là cơ sở đảm bảo chất lƣợng trong hoạt
động xây dựng luật, pháp lệnh. Kết quả của hoạt động này đƣợc thể hiện bằng
hình thức báo cáo thẩm tra. Đây là cơ sở rất quan trọng để Quốc hội, Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội có căn cứ để xem xét, thông qua các dự án luật, pháp
lệnh một cách toàn diện, có chất lƣợng, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và
tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Báo cáo thẩm tra là kết quả có ý nghĩa quan trọng nhất của hoạt động
thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Trong điều kiện phần lớn đại biểu Quốc hội
hoạt động không chuyên trách, số lƣợng các dự án luật, pháp lệnh đƣa ra xem
xét, thông qua ngày một nhiều, nội dung ngày càng mang tính chuyên môn
sâu, phức tạp và chất lƣợng đòi hỏi ngày càng cao, trong khi thời gian mỗi kỳ
họp Quốc hội, phiên họp Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội rất hạn chế, thì các báo
cáo thẩm tra có ý nghĩa rất quan trọng giúp Quốc hội, Uỷ ban Thƣờng vụ
Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh bảo đảm đƣợc tiến độ, thời
gian cũng nhƣ chất lƣợng văn bản thông qua. Báo cáo thẩm tra tốt phản ánh
đƣợc quan điểm, nhận thức của cơ quan thẩm tra về dự án, giúp Quốc hội, Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội, cơ quan của Quốc hội tiếp cận đƣợc với dự án nhanh
nhất, sâu nhất, có trọng tâm nhất, thực sự giúp trả lời nhanh chóng, chính xác
và thoả đáng câu hỏi: đồng ý hay không đồng ý? đối với mỗi vấn đề của dự
18
án. Nếu phát biểu của đại biểu Quốc hội tại phiên họp Quốc hội, Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội là thể hiện rõ nhất chất lƣợng hoạt động của mỗi đại biểu
Quốc hội, thì các báo cáo thẩm tra cũng là sự thể hiện rõ nhất, tập trung nhất
chất lƣợng hoạt động của mỗi cơ quan của Quốc hội.
Việc trình báo cáo thẩm tra có chất lƣợng tốt ra trƣớc Quốc hội, Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận, thông qua
dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, dự án pháp lệnh tại phiên họp Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội. Báo cáo thẩm tra giúp cho các đại biểu Quốc hội có cơ sở lý
luận và thực tiễn để thảo luận một cách có hiệu quả về dự án luật, pháp lệnh;
đồng thời qua những lập luận mà báo cáo thẩm tra nêu ra, đại biểu Quốc hội
có thêm căn cứ để tỏ thái độ của mình đối với các vấn đề còn có ý kiến khác
nhau, giảm bớt đƣợc thời gian tranh luận và bảo đảm đƣợc tiến độ xem xét,
thông qua luật, pháp lệnh.
Hoạt động thẩm tra còn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quy
trình lập pháp. Thông qua hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, các
cơ quan của Quốc hội thay mặt nhân dân, đại diện cho nhân dân kiểm tra lại
các chính sách thể hiện trong dự án luật, pháp lệnh, chỉ ra những chính sách
chƣa đúng, chƣa phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, chƣa phù
hợp với thực tiễn cuộc sống, góp phần làm cho dự án luật, pháp lệnh sau khi
đƣợc Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội biểu quyết thông qua có nội
dung phù hợp ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Báo cáo thẩm tra
chỉ ra các luận cứ khoa học và thực tiễn về các chính sách trong dự án luật,
pháp lệnh phù hợp hay không phù hợp, đúng hay sai; đầy đủ, hoàn thiện hay
còn khiếm khuyết để Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội có cơ sở xem
xét, thảo luận, thông qua.
19
1.1.3.2. Vai trò đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức trình dự án
luật, pháp lệnh.
Có thể thấy rằng, vai trò của hoạt động thẩm tra trƣớc hết và tập trung
nhiều ở việc hỗ trợ hoạt động lập pháp của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc
hội. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là hoạt động thẩm tra của các cơ quan
của Quốc hội không có vai trò đối với các các cơ quan, tổ chức trình dự án
luật. Ở nhiều nƣớc, các Ủy ban của Quốc hội giữ vai trò then chốt trong hoạt
động lập pháp, nhƣ “người gác cổng” cho Quốc hội trong quy trình lập pháp.
Đặc biệt, ở Mỹ, nhƣ có tác giả nhận xét, các Ủy ban “là chỗ để chôn vùi hoặc
làm luật trước khi đưa ra toàn viện. Dự luật nào không ra khỏi Ủy ban được
là coi như chết. Nếu nhất trí, nó gần như sẽ được thông qua (tại Nghị viện)...
Các Ủy ban đã có tính quyết định như vậy nên người ta gọi đó là “cơ quan
lập pháp nhỏ” [18]. Vì vậy, ngƣời ta thƣờng gọi giai đoạn các Ủy ban thẩm
tra, chỉnh sửa dự án luật là “giai đoạn Ủy ban”, các Ủy ban đƣợc coi là những
“công xưởng làm luật” của Quốc hội.
Từ đó, xem xét một cách khách quan có thể thấy rằng, dù tiếp cận ở
góc độ nào, thì hoạt động thẩm tra đều mang tính tích cực, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc đảm bảo chất lƣợng và mức độ phù hợp của các dự án
luật của các chủ thể, cơ quan trình dự án luật. Các báo cáo thẩm tra có vai trò
“nhấn mạnh những lập luận ủng hộ dự luật, tóm tắt có chọn lọc các kết quả
nghiên cứu của các nhân viên và của các cuộc điều trần. Báo cáo là những
tài liệu rất đáng lưu ý. Dự luật tự bản thân nó có thể rất dài, nặng về kỹ thuật
và dễ gây lẫn lộn cho đa số người đọc. Một nhóm nhân viên của Quốc hội
nhận xét: “Vì thế, một báo cáo tốt không chỉ có tác dụng giải thích, mà còn
thuyết phục nữa”. Hơn nữa, các báo cáo có thể hướng dẫn cho các cơ quan
hành pháp và toà án liên bang hiểu được thứ ngôn ngữ không rõ ràng hoặc
phức tạp của văn bản pháp luật” [26]. Nhƣ vậy, báo cáo thẩm tra ở đây là văn
20
kiện giải thích, thuyết phục về những ý đồ lập pháp bằng các cơ sở lý luận và
thực tiễn, đồng thời là cơ sở để giải thích luật sau này. Điều này là đặc biệt có
ý nghĩa cho các cơ quan trình dự án luật, cũng thông thƣờng đồng thời là cơ
quan hành pháp.
Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, xem xét dự án luật tại Ủy ban của
Nghị viện là một khâu, một giai đoạn quan trọng trong quy trình lập pháp. Tại
Ủy ban chính là diễn đàn của các nghị sĩ có kiến thức chuyên sâu về ngành,
lĩnh vực với đại diện các nhóm lợi ích và các nhóm cử tri để phân tích, thảo
luận cả về nội dung chính sách và kỹ thuật lập pháp đƣợc thể hiện trong dự án
luật. Nói cách khác, “Ủy ban chính là nơi cung cấp cho Nghị viện những kiến
thức chuyên sâu nhất về chính sách đƣợc thể hiện trong dự luật và cũng chính
là nơi giải quyết những vấn đề kỹ thuật pháp lý của dự luật. Ủy ban tạo ra
những khoảng không gian và thời gian cần thiết để phân tích và thảo luận về
dự luật một cách hiệu quả hơn so với các phiên họp toàn thể của Nghị viện”
[11]. Chính vì vậy, việc duy trì một hệ thống Ủy ban hoạt động có hiệu quả sẽ
tác động rất lớn đến hiệu quả, chất lƣợng của hoạt động lập pháp. “Hệ thống
Ủy ban mạnh là điều kiện thiết yếu làm cho tác động của nghị viện vào quy
trình hoạch định chính sách có hiệu quả nhất” [35, tr.66].
Mặc dù là cơ quan tham vấn, tƣ vấn cho Nghị viện, nhƣng tác động của
Ủy ban đến dự án luật là rất lớn, đặc biệt là ở những nƣớc có hệ thống Ủy ban
mạnh. Điều này thể hiện vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp của Nghị
viện, vai trò này là khác nhau ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào việc Ủy ban thẩm
tra ở giai đoạn nào trong quy trình lập pháp và mức độ độc lập trong việc xem
xét dự án luật của Ủy ban.
Quy trình lập pháp của Nghị viện các nƣớc thông thƣờng đƣợc chia
thành ba lần đọc. Lần đọc thứ nhất nhằm giới thiệu dự án luật, lần đọc thứ hai
nhằm xem xét các nguyên tắc cơ bản của dự án luật và lần đọc thứ ba là để
xem xét, thông qua dự án luật.
21
Ở một số nƣớc nhƣ Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Barxin,
Philippin, Hàn Quốc...., Ủy ban thẩm tra trƣớc phiên họp toàn thể (lần đọc thứ
hai của Nghị viện). Theo quy trình này, Ủy ban có toàn quyền quyết định việc
đƣa hoặc không đƣa một dự án luật ra xem xét trƣớc Nghị viện. Điều này có
nghĩa là, phải có chính kiến của Ủy ban thì dự án luật mới đƣợc đƣa ra xem
xét tại phiên họp toàn thể của Nghị viện, nếu không ủng hộ một dự án luật
nào đó thì Ủy ban có thể viện đủ mọi lý do để trì hoãn việc báo cáo về dự án
luật trƣớc Nghị viện. Nhƣ vậy, Ủy ban có vai trò quyết định số phận của dự
án luật đó [11]. Hơn nữa, với ƣu thế đƣợc xem xét trƣớc dự án luật trƣớc khi
trình ra phiên họp toàn thể Nghị viện, Ủy ban của Nghị viện một số nƣớc còn
có quyền chỉnh sửa, thậm chí viết lại dự án luật theo ý kiến của Ủy ban. Tức
là Ủy ban có quyền trình một dự án luật mới dựa trên cơ sở dự án luật do các
chủ thể khác đệ trình. Thông qua cơ chế này, dự án luật của Ủy ban sẽ đƣợc
ƣu tiên xem xét so với dự án luật gốc, và Ủy ban có thể chi phối lịch làm việc
của Nghị viện. Nhƣ vậy, Ủy ban hoàn toàn có thể chủ động trong quá trình
xem xét dự án luật, đồng thời cũng giúp cho Nghị viện có tiếng nói độc lập
hơn mà không phụ thuộc vào những nội dung của dự luật mà các chủ thể khác
đệ trình. Ingvar Mattson và Kaare Strom đã nhận xét: “nếu các Ủy ban không
thể chỉnh sửa các dự án luật của Chính phủ thì cơ quan lập pháp ở phạm vi
toàn viện cũng sẽ ở vào thế yếu so với cơ quan hành pháp” [11].
Ở một số nƣớc nhƣ Italia, Tây Ban Nha,... với vai trò đặc biệt của Ủy
ban trong hoạt động lập pháp, dự luật có thể đƣợc thông qua ngay trong giai
đoạn Ủy ban nếu đƣợc Nghị viện cho phép. Ở các nƣớc này, số lƣợng thành
viên của các Ủy ban đƣợc tính toán tỷ lệ với số đại biểu của các đảng chính trị
trong Nghị viện. Vì vậy, đối với một số vấn đề, tỷ lệ biểu quyết ở các Ủy ban
thƣờng tƣơng đƣơng với tỷ lệ biểu quyết ở phiên họp toàn thể của Nghị viện.
Điều này có nghĩa là quyết định của các Ủy ban cũng tƣơng tự nhƣ quyết định
22
của toàn thể Nghị viện. Tuy nhiên, một số nƣớc có quy định một số vấn đề
không đƣợc giao cho các Ủy ban quyết định. Chẳng hạn, theo khoản 3 Điều
75 Hiến pháp Tây Ban Nha thì các vấn đề về sửa đổi hiến pháp, quan hệ đối
ngoại, ngân sách nhà nƣớc và các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà
nƣớc không đƣợc giao cho các Ủy ban của Nghị viện quyết định [11].
Ở một số nƣớc nhƣ Anh, Canada, Australia,.. Ủy ban xem xét, thẩm tra
dự án đƣợc đặt giữa lần đọc thứ hai và lần đọc thứ ba với mục đích xem xét
chi tiết về dự án luật và chỉnh lý dự án luật theo những nguyên tắc đã đƣợc
phiên họp toàn thể của Nghị viện quyết định tại lần đọc thứ hai. Theo quy
trình này, thông thƣờng Ủy ban không có quyền bác bỏ dự án luật do Chính
phủ trình mà chỉ nghiên cứu để trình ra Nghị viện xem xét. Điều này có nghĩa
là, Ủy ban không có cơ hội chính thức để thể hiện chính kiến của mình về
những chính sách thể hiện trong dự án luật mà chỉ có thể bình luận về các giải
pháp mà cơ quan trình dự án nêu ra và tham gia chỉnh sửa về mặt kỹ thuật đối
với các dự án luật. Tuy nhiên, cơ chế này có điểm thuận lợi là Nghị viện
không phải mất thời gian để tranh cãi vô bổ cả về nội dung chính sách lẫn các
vấn đề về kỹ thuật lập pháp. Bởi vì, tại lần đọc thứ hai, Nghị viện chỉ thảo
luận và thông qua chính sách, nguyên tắc cơ bản của dự luật, còn các vấn đề
về mặt kỹ thuật lập pháp sẽ đƣợc xem xét tại các Ủy ban để đến lần đọc thứ
ba, Nghị viện sẽ thông qua một dự luật tƣơng đối hoàn thiện cả về mặt nội
dung lẫn kỹ thuật.
Theo thống kê, có khoảng 36 Nghị viện quy định các dự thảo luật do
Nghị viện xem xét trƣớc sau đó sẽ đƣợc chuyển đến các Ủy ban và 47 Nghị
viện quy định các dự thảo luật do Ủy ban xem xét trƣớc sau đó sẽ trình tại
phiên họp toàn thể của Nghị viện [3, tr.360].
1.2. Thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội trong thẩm tra dự
án luật, pháp lệnh
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội: chủ thể tiến hành hoạt động
23
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh là Hội đồng Dân tộc và 9 Ủy ban của
Quốc hội bao gồm: Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tƣ pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy
ban Tài chính - Ngân sách; Ủy ban Đối ngoại; Ủy ban về Các vấn đề xã hội;
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng; Ủy ban Quốc phòng - An ninh;
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Đây là
những cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội thành lập, làm việc theo chế độ tập
thể và quyết định theo đa số; có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Điều
21, Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của
Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh
và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban
Thường vụ Quốc hội giao” [37, tr.148 ]
1.3. Phân công cơ quan thẩm tra dự án luật, pháp lệnh
Hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội đƣợc
tiến hành sau khi có sự phân công của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội và kết thúc
khi Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trình báo cáo thẩm tra dự án luật
trƣớc Quốc hội, dự án pháp lệnh trƣớc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
Trƣớc khi ban hành Hiến pháp năm 1992, việc thẩm tra dự án luật đƣợc
thực hiện theo Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh năm 1988, Luật Tổ chức
Quốc hội và Hội đồng Nhà nƣớc năm 1981. Các văn bản này không quy định
cụ thể phạm vi, lĩnh vực các dự án luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền thẩm tra
của Hội đồng Dân tộc, từng Ủy ban của Quốc hội mà việc thẩm tra mỗi dự án
tùy thuộc vào sự phân công của Quốc hội, Hội đồng Nhà nƣớc. Thực tiễn thời
gian này cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định về nhiệm vụ thẩm tra của
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, nhƣng do Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội không có thành viên làm việc chuyên trách và không có bộ
phận thƣờng trực nên hầu hết các dự án luật, pháp lệnh đƣợc giao cho Ủy ban
Pháp luật thẩm tra.
24
Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Quốc hội năm
1992, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì nhiệm vụ
thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã đƣợc quy định cụ
thể hơn. Theo đó, thẩm quyền thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội đƣợc xác định theo phạm vi, lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân
tộc, từng Ủy ban của Quốc hội. Trong trƣờng hợp Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập
Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối với các dự án luật, pháp lệnh
do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trình thì Ủy ban thƣờng vụ
Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra. Ngoài việc thẩm tra các dự án thuộc
lĩnh vực hoạt động của mình, Ủy ban Pháp luật còn có nhiệm vụ thẩm tra các
dự án do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội thẩm tra nhằm bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có hiệu lực từ
ngày 01/01/2009 cũng quy định: Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có
trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách.
Trƣờng hợp một dự án, dự thảo liên quan đến phạm vi lĩnh vực do nhiều cơ
quan của Quốc hội phụ trách thì Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội sẽ
phân công cơ quan thẩm tra.
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham gia thẩm
tra đối với dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo
sự phân công của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Việc quy định trách nhiệm
tham gia thẩm tra là rất cần thiết, bởi vì, trong một dự án luật có thể có các
nội dung liên quan đến phạm vi lĩnh vực do Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban
khác của Quốc hội phụ trách. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, để có thể
thẩm tra đƣợc một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến dự án, dự thảo, cơ
quan chủ trì thẩm tra rất cần biết đƣợc quan điểm của Hội đồng Dân tộc hoặc
Ủy ban có liên quan.
25
Trên thế giới, thông thƣờng, Ủy ban đƣợc giao nhiệm vụ xem xét dự án
luật là Ủy ban phụ trách lĩnh vực phù hợp với dự án luật đó. Trƣờng hợp dự
án luật có nội dung thuộc phạm vi xem xét của nhiều Ủy ban hoặc khó xác
định Ủy ban chịu trách nhiệm xem xét, các nƣớc thƣờng thành lập Ủy ban có
tính chất đặc biệt hoặc gửi dự án luật đến xem xét ở hai hoặc nhiều Ủy ban.
Ngoài ra, ở một số nƣớc theo mô hình Nghị viện Anh, đối với các dự án luật
có liên quan đến ngân sách quốc gia, giai đoạn xem xét ở Ủy ban phải đƣợc
tiến hành qua hai bƣớc: xem xét ở Ủy ban thƣờng trực có thẩm quyền và xem
xét ở cuộc họp của Ủy ban toàn viện.
Ở một số nƣớc theo chính thể Cộng hoà Tổng thống, các Ủy ban của
Nghị viện không bắt buộc phải xem xét tất cả các dự án luật đã đƣợc chuyển
đến mà có toàn quyền quyết định những dự án luật nào sẽ đƣợc xem xét.
Trong khi đó, một số nƣớc quy định Ủy ban bắt buộc phải xem xét các dự án
luật do cơ quan hành pháp kiến nghị. Ở Chi-lê, cơ quan hành pháp còn có
quyền bắt buộc Nghị viện xem xét, thông qua các dự án luật trong một thời
hạn nhất định [3, tr.361] (Xem bảng 1.1).
Bảng 1.1: Vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp [42]
Quốc gia/Nghị viện Dự án luật có phải
trải qua giai đoạn
xem xét tại Ủy ban
để đƣợc Quốc hội
thông qua?
Dự án luật có đƣợc
mặc nhiên chuyển
đến xem xét tại Ủy
ban?
Quy định nào về
việc tham vấn công
chúng trong giai
đoạn Ủy ban?
ARGENTINA
Thƣợng viện
Hạ viện
Ở cả hai viện: Có
bắt buộc, trừ
những trƣờng hợp
đặc biệt khi Nghị
viện quyết định
xem xét, thông qua
khẩn cấp dự án luật
Ở cả hai viện: Có Ở cả hai viện:
Không có quy định
cụ thể nhƣng các
Ủy ban có thể thực
hiện việc tham vấn
26
BULGARIA
Quốc hội
Có bắt buộc Chủ tịch Quốc hội
quyết định Ủy ban
nào sẽ xem xét dự
án luật
Có quy định và
thƣờng xuyên đƣợc
thực hiện
CANADA
Thƣợng viện
Viện Dân biểu
Ở cả hai viện: Có
bắt buộc
Cả hai viện: Mặc
nhiên đối với tất cả
các dự án luật
Cả hai viện: Nội
quy trao cho các Ủy
ban quyền yêu cầu
nhân chứng, tài liệu
và biên bản cần
thiết để thực hiện
chức năng của mình
COSTA RICA
Viện lập pháp
Có bắt buộc Không áp dụng quy
trình mặc nhiên
Ủy ban có thể trƣng
cầu các bình luận
bằng miệng hoặc
bằng văn bản
EL SALVADOR
Viện lập pháp
Có bắt buộc Một số dự án đƣợc
chuyển trực tiếp
đến các Ủy ban
(nhƣ dự án ngân
sách), một số khác
theo sự phân công
Nội quy quy định
các Ủy ban có thể
tham vấn ý kiến các
cá nhân để làm rõ
các vấn đề cần xem
xét và yêu cầu
Chính phủ, các tổ
chức cung cấp tài
liệu liên quan
CH Pháp
Thƣợng viện
Hạ viện
Cả hai viện: Có bắt
buộc
Cả hai viện: Các dự
án luật đƣợc chuyển
đến Ủy ban tƣơng
ứng trừ trƣờng hợp
có thành lập các Ủy
ban đặc biệt
Cả hai viện: Không
có quy định về vấn
đề này
CHLB Đức
Hạ viện
Viện liên bang
Cả hai viện: Có bắt
buộc
Cả hai viện: Không
mặc nhiên
Cả hai viện: Có
quy định. Điều trần
để nghe ý kiến
chuyên gia
27
HUNGARI
Quốc hội
Có bắt buộc Mặc nhiên đối với
tất cả các dự luật
Không bắt buộc
nhƣng có thể sử
dụng
ẤN ĐỘ
Viện nhân dân
Viện Liên bang
Cả hai viện: Không
bắt buộc, giai đoạn
Ủy ban chỉ đƣợc
thực hiện theo yêu
cầu của Viện hoặc
Chủ tịch Viện
Cả hai viện: Không
mặc nhiên
Cả hai viện: Có thể
trƣng cầu chứng cứ
miệng hoặc văn bản
khi thấy cần thiết
IRELAND
Thƣợng viện
Hạ viện
Cả hai viện: Có bắt
buộc
Cả hai viện: Tất cả
các dự luật đều
đƣợc chuyển đến
Ủy ban mà thƣờng
là Ủy ban toàn viện
Cả hai viện: Ủy ban
đặc biệt có thể
trƣng cầu nhân
chứng và các văn
kiện cần thiết đối
với các dự luật. Ủy
ban có thể thực hiện
các báo cáo đặc biệt
về bất kỳ vấn đề khi
thấy cần thiết
NHẬT BẢN
Thƣợng viện
Hạ viện
Cả hai viện: Có bắt
buộc trừ trƣờng hợp
khẩn cấp
Cả hai viện: Có yêu
cầu
Cả hai viện: Nhìn
chung là không,
nhƣng đối với các
trƣờng hợp đặc biệt,
Ủy ban có thể tổ
chức các phiên điều
trần công khai
JORDAN
Thƣợng viện
Hạ viện
Có bắt buộc Mặc nhiên đối với
tất cả các dự án luật
Nội quy cho phép
Ủy ban triệu tập bất
kỳ nhân chứng nào
đến phiên họp khi
cần
NAMIBIA
Quốc hội
Không bắt buộc Không bắt buộc Không bắt buộc
28
BỒ ĐÀO NHA
Quốc hội
Có bắt buộc Có bắt buộc Có quy định, các
Ủy ban có quyền
tham vấn các
chuyên gia và các
tổ chức phi chính
phủ về bất kỳ vấn
đề gì
ROMANIA
Thƣợng viện
Hạ viện
Cả hai viện: Có bắt
buộc
Cả hai viện: Mặc
nhiên
Cả hai viện: Không
cấm Ủy ban thực
hiện điều này
LB Nga
Đuma Quốc gia
Viện Liên bang
Có bắt buộc
Có bắt buộc
Tại Đuma: Chuyển
đến Đuma trƣớc khi
chuyển đến các Ủy
ban
Có mặc nhiên
Cả hai viện: Có quy
định
SENEGAL
Quốc hội
Có bắt buộc Dự luật sẽ đƣợc
chuyển đến Ủy ban
có liên quan khi có
yêu cầu của đại
diện Tổng thống
Có quy định
THÁI LAN
Thƣợng viện
Hạ viện
Không bắt buộc
Có bắt buộc, thông
thƣờng là Ủy ban
lâm thời
Không mặc nhiên,
chỉ chuyển đến Ủy
ban khi có Nghị
quyết của Thƣợng
viện
Không mặc nhiên
Cả hai viện: Có quy
định
VƢƠNG QUỐC
ANH
Viện nguyên lão Tất cả các dự luật
đều đƣợc chuyển
Có quy định nhƣng
chỉ đối với những
29
Viện Dân biểu
đến một Ủy ban trừ
khi toàn Viện có
quyết định khác
Tất cả các dự luật
trừ những dự án có
liên quan đến chi
tiêu ngân sách
Các dự án luật công
đƣợc chuyển đến
Ủy ban thƣờng trực
trừ khi toàn viện có
quyết định khác
dự luật đƣợc
chuyển đến Ủy ban
lựa chọn
Có quy định nhƣng
chỉ đối với những
dự luật đƣợc
chuyển đến Ủy ban
lựa chọn
HOA KỲ
Thƣợng viện
Hạ viện
Cả hai viện: Ủy ban
thƣờng xem xét dự
luật nhƣng không
bắt buộc
Không mặc nhiên mà
theo quyết định của
Chủ tịch Hạ viện
Cả hai viện: Có quy
định
1.4. Nội dung thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh
Sau khi đƣợc phân công thẩm tra, cơ quan thẩm tra tiến hành các hoạt
động thẩm tra. Nội dung thẩm tra dự án luật, pháp lệnh gồm:
Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tập trung vào những vấn đề chủ
yếu, bao gồm: 1) phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh của văn bản; 2) nội dung của
dự thảo văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; 3) sự phù hợp của
nội dung dự thảo văn bản với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với
Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống
pháp luật; 4) tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản.
Việc xác định đối tƣợng và phạm vi điều chỉnh của một dự án luật,
pháp lệnh bảo đảm cho nội dung các quy định của dự án đó đƣợc thể hiện
theo đúng yêu cầu của văn bản, bao quát hết nội dung cần thực hiện, đồng
thời giữ cho văn bản không vƣợt ra ngoài những vấn đề cần giải quyết đối với
văn bản đó. Thẩm tra nội dung văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác
nhau, đây là phần quan trọng nhất, trọng tâm nhất của Báo cáo thẩm tra. Thực
chất, đây là việc thẩm tra xem chính sách đƣợc thể hiện trong dự án đã đúng
30
chƣa, đã hợp lý chƣa. Thẩm tra sự phù hợp của nội dung dự án với đƣờng lối,
chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật là việc cơ quan
thẩm tra cần quan tâm, xem xét cụ thể dự án này đƣợc xây dựng trên cơ sở thể
chế hóa chủ trƣơng, quan điểm của Đảng về vấn đề này ra sao? Dự án đã thể
hiện đúng tinh thần và nội dung của chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách đó hay
không? Nhiệm vụ thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong
hệ thống pháp luật đối với dự án đƣợc giao cho Ủy ban Pháp luật của Quốc
hội. Ủy ban Pháp luật thực hiện nhiệm vụ này bằng cách thẩm tra các dự án
do mình phụ trách và phối hợp thẩm tra với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban
khác của Quốc hội. Khi thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh, cơ quan thẩm tra
phải xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản đó, có nghĩa là những quy
định của dự án đang thẩm tra phù hợp với những quy định của Hiến pháp và
các dự án luật, pháp lệnh không đƣợc trái với Hiến pháp và pháp luật. Ngoài
những vấn đề trên, cơ quan thẩm tra cần xem xét việc tuân thủ trình tự, thủ
tục soạn thảo và tính khả thi của dự án; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau
trong dự án; đánh giá mức độ hoàn thiện của dự án có thể trình Ủy ban
Thƣờng vụ Quốc hội hoặc Quốc hội thông qua hay không.
Việc quy định thẩm tra kỹ các nội dung này nhằm bảo đảm để văn bản
luật sau khi đƣợc ban hành thể hiện đúng đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách
của Đảng, có tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả và bảo đảm tính thống nhất đối
với hệ thống pháp luật.
Bên cạnh đó, để hoạt động thẩm tra bảo đảm chất lƣợng, Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật quy định cơ quan chủ trì thẩm tra có trách nhiệm
mời đại diện cơ quan đƣợc phân công tham gia thẩm tra tham dự phiên họp
thẩm tra để phát biểu ý kiến về những nội dung của dự án, dự thảo liên quan
đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và những vấn đề khác thuộc nội dung
của dự án, dự thảo; đồng thời, có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên
31
quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tƣợng chịu sự tác động
trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến
về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Qua đó, cơ quan
chủ trì thẩm tra có những thông tin đa dạng từ nhiều phía. Những thông tin
này sẽ giúp ích cho cơ quan chủ trì thẩm tra trong việc đánh giá về sự cần
thiết, các chính sách, tính khả thi… của dự án.
Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh gửi cho cơ quan thẩm tra bao gồm các tài
liệu sau:
- Tờ trình dự án luật, pháp lệnh;
- Dự thảo luật, pháp lệnh;
- Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo;
- Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản;
- Báo cáo thẩm định đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình, ý kiến
của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình;
- Bản tổng hợp ý kiến góp ý về dự án, dự thảo;
- Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ
xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo;
- Các tài liệu khác nếu có.
Đây là các tài liệu cần phải có theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích để cơ quan thẩm tra có đầy đủ thông tin phục vụ cho công tác thẩm tra.
Ngoài ra, để có thêm thông tin cho hoạt động thẩm tra, cơ quan thẩm
tra còn có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự
thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Cơ
quan, tổ chức, cá nhân đƣợc yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài
liệu và đáp ứng các yêu cầu khác của cơ quan thẩm tra.
Ở hầu hết các nƣớc trên thế giới, việc xem xét dự án luật tại Ủy ban
đƣợc chính thức bắt đầu sau khi dự thảo luật đƣợc gửi đến. Phạm vi những
32
vấn đề đƣợc các Ủy ban xem xét thƣờng rất rộng, từ chính sách chung cho
đến các vấn đề chi tiết nhƣ ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản của từng điều luật.
1.5. Phương thức và trình tự thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh
Dự án luật có thể đƣợc thẩm tra một hoặc nhiều lần (đối với dự án pháp
lệnh thƣờng thẩm tra một lần). Phƣơng thức thẩm tra có thể là thẩm tra sơ bộ
và thẩm tra chính thức. Việc thẩm tra chính thức đƣợc tiến hành tại phiên họp
toàn thể của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Việc thẩm tra sơ bộ
đƣợc tiến hành tại phiên họp của Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng trực
Ủy ban. Việc quy định hình thức thẩm tra sơ bộ là nhằm đáp ứng yêu cầu bảo
đảm tiến độ xây dựng dự án luật trong điều kiện đa số thành viên Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm. Phƣơng thức thẩm tra
sơ bộ chỉ đƣợc áp dụng với những dự án luật trình Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội xin ý kiến. Đối với những dự án luật trình Quốc hội xem xét, thông qua
thì phải đƣợc thẩm tra chính thức. Việc thẩm tra chính thức nhằm bảo đảm
cho chất lƣợng thẩm tra đƣợc toàn diện hơn, thể hiện rõ chính kiến, quan
điểm của toàn thể Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội đối với từng vấn
đề của dự án trên cơ sở nguyên tắc làm việc tập thể và quyết định theo đa số.
Để thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh, cơ quan chủ trì thẩm tra phải tổ
chức phiên họp toàn thể để thẩm tra; đối với dự án luật trình Ủy ban Thƣờng
vụ Quốc hội cho ý kiến thì có thể tổ chức phiên họp Thƣờng trực Hội đồng
Dân tộc và Thƣờng trực Ủy ban để thẩm tra sơ bộ. Một dự án luật, pháp lệnh
có thể do một cơ quan là Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm
tra. Đối với dự án liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc do tính quan trọng, tính
phức tạp của nó mà có thể đƣợc giao cho Hội đồng Dân tộc hoặc một Ủy ban
của Quốc hội chủ trì thẩm tra. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp
thẩm tra với sự tham gia của đại diện cơ quan tham gia thẩm tra.
Chậm nhất là ba mƣơi ngày, trƣớc ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội
33
hoặc chậm nhất là hai mƣơi ngày, trƣớc ngày bắt đầu phiên họp Ủy ban
Thƣờng vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phải gửi
tờ trình, dự thảo luật và các tài liệu liên quan khác đến cơ quan thẩm tra để
tiến hành thẩm tra.
Để chuẩn bị cho việc thẩm tra, Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng
trực Ủy ban của Quốc hội thực hiện những công việc sau đây:
- Giao cho tiểu ban hoặc thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến;
- Yêu cầu cơ quan soạn thảo, cơ quan hữu quan trình bày những vấn đề
liên quan đến dự án;
- Tổ chức lấy ý kiến của chuyên gia về dự án;
- Tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát tình hình thực
tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án.
Thực tế cho thấy, việc tổ chức hoặc tham gia vào các hội nghị lấy ý
kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan và chuyên gia, khảo sát thực tế về dự
án luật, pháp lệnh là những công việc rất quan trọng mà cơ quan thẩm tra tiến
hành trong giai đoạn thẩm tra dự án. Để có thể nắm vững nội dung của dự án,
bảo đảm cho việc thẩm tra dự án có chất lƣợng, cơ quan thẩm tra có thể cử
thành viên của mình hoặc của Vụ chuyên môn trực tiếp giúp việc tham dự các
cuộc họp xây dựng dự án luật, pháp lệnh. Cơ quan thẩm tra có thể yêu cầu đại
diện các cơ quan, tổ chức hữu quan báo cáo về những vấn đề liên quan đến
nội dung của dự án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc cơ quan thẩm tra yêu cầu
có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm tra hoặc
trình bày những vấn đề liên quan đến dự án mà Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy
ban của Quốc hội xem xét, thẩm tra. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
tổ chức phiên họp thẩm tra dự án sau khi cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội
trình dự án gửi văn bản đến Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
34
Việc thẩm tra tại phiên họp đƣợc tiến hành theo trình tự sau đây:
- Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp
lệnh trình bày về dự án;
- Các đại biểu tham dự phiên họp nêu câu hỏi và đại diện cơ quan, tổ
chức, đại biểu Quốc hội trình dự án trình bày bổ sung;
- Đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban phát biểu ý kiến;
- Đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm
tra và đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
- Thành viên Hội đồng, Ủy ban thảo luận.
Trong quá trình thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc
hội trình dự án có thể trình bày ý kiến làm rõ vấn đề mà Hội đồng, Ủy
ban, đại biểu tham dự phiên họp nêu ra hoặc yêu cầu; Chủ tọa phiên họp
kết luận; đối với những vấn đề quan trọng và cần thiết thì Chủ tọa phiên
họp lấy biểu quyết.
Trong trƣờng hợp Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng trực Ủy ban
của Quốc hội thẩm tra sơ bộ dự án luật để trình Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội
cho ý kiến thì phiên họp thẩm tra sơ bộ cũng đƣợc tiến hành theo trình tự này.
Căn cứ vào ý kiến tại phiên họp thẩm tra, Thƣờng trực Hội đồng,
Thƣờng trực Ủy ban chuẩn bị báo cáo thẩm tra trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng
vụ Quốc hội. Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên
Hội đồng, Ủy ban; nêu chính kiến của Hội đồng, Ủy ban về những vấn đề
đƣợc nhất trí, không nhất trí hoặc còn có ý kiến khác nhau để Quốc hội, Ủy
ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Trong trƣờng hợp Hội đồng,
các Ủy ban khác đƣợc phân công tham gia thẩm tra thì báo cáo thẩm tra còn
phải phản ánh ý kiến của các cơ quan này; nếu không nhất trí với báo cáo của
cơ quan chủ trì thẩm tra thì cơ quan tham gia thẩm tra có quyền trình bày ý
kiến của mình với Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
35
Việc xem xét dự án luật tại Ủy ban của các nƣớc trên thế giới nhìn
chung đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục sau đây:
- Nghiên cứu, tìm kiếm thông tin, tài liệu về dự án luật thông qua các
kênh thông tin khác nhau, chẳng hạn nhƣ thông tin từ các bộ, ngành có liên
quan, từ các chuyên gia, cố vấn pháp lý, từ báo cáo đánh giá tác động của
dự án luật,...;
- Tổ chức các phiên điều trần để lấy ý kiến về dự án luật. Thông
thƣờng, các phiên điều trần của Ủy ban phải đƣợc tổ chức công khai, trừ
trƣờng hợp đa số thành viên Ủy ban biểu quyết họp kín. Tham dự phiên điều
trần có các nghị sĩ là thành viên Ủy ban, cơ quan trình dự án luật, các cơ quan
hữu quan, nhân chứng, đại diện các nhóm lợi ích liên quan và công dân. Việc
tổ chức các phiên điều trần công khai không chỉ cung cấp cho Ủy ban những
kinh nghiệm thực tế mà còn là diễn đàn để trao đổi, thể hiện ý kiến, quan
điểm của các nhóm lợi ích và công dân với các nhà hoạch định chính sách và
cũng là cơ hội để các nhà lập pháp đặt ra câu hỏi đối với các quan chức ngành
hành pháp. Thông qua các cuộc điều trần, Nghị viện, mà cụ thể là các Ủy ban
tuyên truyền đến nhân dân những vấn đề hiện tại, nổi cộm và bức xúc của đất
nƣớc cần phải giải quyết và qua đó làm tăng sự tin tƣởng của công chúng vào
một quy trình làm việc minh bạch của Nghị viện [35, tr.68]. Ở mô hình nghị
viện của các nƣớc Westminster, mặc dù không có các phiên điều trần liên
quan đến các dự án luật nhƣng các Ủy ban ở các Nghị viện này thƣờng tổ
chức các phiên điều trần về hoạt động của các bộ trong Chính phủ. Do vậy,
các Ủy ban vẫn có đầy đủ các tài liệu điều tra liên quan đến những nội dụng
cụ thể về hoạt động của ngành hành pháp;
- Họp phiên toàn thể của Ủy ban để thảo luận về từng điều khoản cụ thể
của dự án luật và đƣa ra các đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Kết thúc
phiên họp, Ủy ban biểu quyết thông qua báo cáo của Ủy ban để trình ra Nghị
viện, đồng thời chỉ định một báo cáo viên.
36
Báo cáo của Ủy ban phải thể hiện đầy đủ các quan điểm của thành viên
về dự án luật và những kiến nghị, bình luận về từng điều khoản cụ thể. Ở
những nƣớc có Ủy ban mạnh nhƣ Hoa Kỳ, báo cáo của Ủy ban thể hiện rõ
quan điểm đối với dự án luật nhƣ ủng hộ hoàn toàn, ủng hộ với điều kiện có
sửa đổi, bổ sung, không tán thành dự luật, không có bình luận gì hoặc kiến
nghị trì hoãn vô hạn định việc xem xét dự luật; trƣờng hợp Ủy ban tán thành
trình dự luật nhƣng có sửa đổi, bổ sung thì Ủy ban báo cáo Hạ viện về dự luật
gốc cùng với bản sửa đổi, bổ sung theo ý kiến của Ủy ban. Nhiều nƣớc cho
phép gửi kèm trong báo cáo của Ủy ban những ý kiến khác với quan điểm
chung của Ủy ban. Những quan điểm thiểu số này đƣợc bảo lƣu và có thể
đƣợc đƣa ra xem xét trong các phiên thảo luận của Nghị viện ở lần đọc sau.
Sau khi Ủy ban hoàn thành việc xem xét dự án luật, báo cáo của Ủy
ban sẽ đƣợc trình ra Nghị viện bởi một báo cáo viên. Báo cáo viên có thể là
thành viên hoặc là Chủ nhiệm Ủy ban, chịu trách nhiệm chuẩn bị tờ trình chi
tiết, những kết luận cụ thể và bảo vệ kết luận đó trƣớc Nghị viện. Khi chỉ định
báo cáo viên, Ủy ban quán triệt lập trƣờng có tính nguyên tắc đối với dự thảo
luật và nêu rõ định hƣớng kết luận của Ủy ban.
Báo cáo của Ủy ban thƣờng đƣợc Nghị viện các nƣớc xem là cơ sở để
nghị viện tiến hành thảo luận, thông qua dự án luật. Tuy nhiên, một số nƣớc
nhƣ Ca-mơ-run, Cu-Ba, Đan Mạch, Ấn Độ,… dự thảo luật ban đầu lại đƣợc
xem là cơ sở thảo luận chính, còn báo cáo của Ủy ban chỉ là kiến nghị về các
vấn đề cần sửa đổi, bổ sung.
Về việc phối hợp thẩm tra
Trong trƣờng hợp dự án luật, pháp lệnh đƣợc giao cho Hội đồng Dân
tộc và nhiều Ủy ban của Quốc hội phối hợp thẩm tra thì cơ quan chủ trì thẩm
tra tổ chức phiên họp với Thƣờng trực hoặc đại diện Thƣờng trực Hội đồng,
Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm tra. Khi tham gia phiên họp, đại diện
37
Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban có trách nhiệm báo cáo ý kiến
của Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban hoặc của Hội đồng, Ủy ban
tham gia thẩm tra và có quyền trình bày ý kiến của mình. Hội đồng, Ủy ban
tham gia thẩm tra cũng có thể gửi ý kiến của mình cho Hội đồng, Ủy ban chủ
trì thẩm tra.
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội chủ trì thẩm tra có trách nhiệm
báo cáo trƣớc Quốc hội về những vấn đề nhất trí, không nhất trí, những vấn
đề còn có ý kiến khác nhau giữa Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra với Hội
đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra. Trong trƣờng hợp không nhất trí với báo cáo
thẩm tra của Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra hoặc cần bổ sung ý kiến thì
Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra có thể có báo cáo riêng.
Thực tế cho thấy, trong điều kiện, phƣơng thức hoạt động và cơ cấu tổ
chức của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội nhƣ hiện nay thì việc tham
gia thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thƣờng do Thƣờng
trực hoặc đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm
tra thực hiện. Điều này dẫn đến tình trạng báo cáo thẩm tra chƣa phản ánh đầy
đủ ý kiến của đa số thành viên của Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra.
Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp
luật là một yêu cầu quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật. Để thực
hiện đƣợc nhiệm vụ này, cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan, tổ
chức trong cả quy trình lập pháp từ khi soạn thảo, thẩm tra cho đến khi xem
xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh. Đồng thời, để bảo đảm hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật đƣợc thống nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn nhau
thì cần có một cơ quan tham gia vào các công đoạn của quy trình lập pháp đối
với tất cả các dự án luật, pháp lệnh. Vì vậy, pháp luật quy định Ủy ban Pháp
luật (trong trƣờng hợp Ủy ban Pháp luật không phải là Ủy ban chủ trì thẩm
tra) tham gia thẩm tra tất cả các dự án nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp
và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
38
Việc thẩm tra dự án luật của Ủy ban lâm thời
Để bảo đảm khách quan trong việc thẩm tra dự án luật, trong trƣờng
hợp Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ quan trình dự án thì Quốc hội chỉ định
cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra. Tại kỳ họp thứ
hai, Quốc hội khóa XI đã ban hành Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban lâm
thời để thẩm tra dự án Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội là dự án luật do
Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội trình.
Việc Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban lâm thời đƣợc tiến hành
nhƣ sau:
- Khi xét thấy cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội tự mình hoặc theo
đề nghị của Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Ủy
ban lâm thời của Quốc hội;
- Trong thời hạn ba mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc đề nghị về việc
thành lập Ủy ban lâm thời, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội có trách nhiệm xem
xét và thông báo cho cơ quan, cá nhân đã đề nghị biết ý kiến của Ủy ban
thƣờng vụ Quốc hội về vấn đề này. Trong trƣờng hợp quyết định trình Quốc
hội thành lập Ủy ban lâm thời thì Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội dự kiến cơ cấu
tổ chức, số lƣợng thành viên, nhiệm vụ, quyền hạn và thời gian hoạt động của
Ủy ban lâm thời của Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Đây là trình tự, thủ tục đƣợc áp dụng chung cho cả việc thành lập Ủy
ban lâm thời để thẩm tra dự án luật, điều tra về một vấn đề nhất định hoặc
thực hiện một nhiệm vụ cụ thể khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi đƣợc thành lập, Ủy ban lâm thời tiến hành nghiên cứu, thẩm tra
dự án luật và trình Quốc hội báo cáo thẩm tra về dự án luật đó. Pháp luật hiện
hành chƣa có quy định về trình tự, thủ tục, phƣơng thức thẩm tra dự án luật
của Ủy ban lâm thời. Trên thực tế, trình tự, thủ tục tiến hành thẩm tra dự án
39
luật của Ủy ban lâm thời đƣợc tiến hành tƣơng tự nhƣ trình tự, thủ tục thẩm
tra dự án luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Ủy ban lâm thời
chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao.
1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra dự án luật,
pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội
Nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh đòi hỏi phải
xem xét đến các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới chất lƣợng báo cáo
thẩm tra. Những yếu tố tác động tới chất lƣợng báo cáo thẩm tra bao gồm:
Một là, cơ cấu, thành phần của các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng
Dân tộc và các Ủy ban). Một tập thể Hội đồng, Ủy ban mạnh gồm những đại
biểu Quốc hội có trình độ chuyên môn sâu, tận tụy với công việc, có điều kiện
tham dự đầy đủ các phiên họp thẩm tra sẽ là yếu tố quan trọng để Hội đồng,
Ủy ban có những Báo cáo thẩm tra có chất lƣợng.
Hai là, phƣơng thức tiến hành hoạt động thẩm tra. Để có đƣợc một báo
cáo thẩm tra tốt thì phải có cách làm tốt - cách làm khoa học, hiệu quả. Cơ
quan thẩm tra có thể cử thành viên tham gia nghiên cứu dự án; yêu cầu cơ
quan soạn thảo trình bày những vấn đề liên quan đến dự án; tổ chức họp lấy ý
kiến của chuyên gia và đi khảo sát tình hình thực tế tại địa phƣơng, cơ sở về
những nội dung liên quan đến dự án. Việc tổ chức hoặc tham gia vào các hội
nghị lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, khảo sát thực tế là những
công việc rất quan trọng và cần thiết mà cơ quan thẩm tra phải tiến hành để có
thể có đƣợc một Báo cáo thẩm tra có chất lƣợng.
Ba là, việc phân công thẩm tra và phối hợp thẩm tra. Việc phân công
hợp lý, đúng chức năng, chuyên môn của cơ quan thẩm tra cũng là một trong
những yếu tố quan trọng bảo đảm chất lƣợng Báo cáo thẩm tra. Thẩm quyền
thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã đƣợc quy định
trong Luật Tổ chức Quốc hội. Đây là cơ sở pháp lý để Ủy ban thƣờng vụ
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAYLuận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
Luận văn: Quốc triều hình luật - các giá trị nhân văn, HAY
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễnLuận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
Luận văn: Chế độ bầu cử ở nước ta - vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAYTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAYLuận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
Luận văn: Kỹ thuật lập pháp trong Quốc triều hình luật, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 

Similar to Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT

Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt NamLuận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt NamViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT (20)

Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAYLuận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
Luận án: Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAYLuận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
Luận văn: Mối quan hệ giữa hoạt động công tố và xét xử, HAY
 
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAYLuận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
Luận văn: Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội, HAY
 
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAYLuận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
Luận án: Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, HAY
 
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến phápLuận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp
 
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt NamLuận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Luận án: Chế định Viện kiểm sát nhân dân qua các bản Hiến pháp Việt Nam
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của UBND tỉnh Bến Tre - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư phápXây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
Xây dựng ý thức pháp luật của Thẩm phán trong cải cách tư pháp
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOTĐề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
Đề tài: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân, HOT
 
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰVAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VAI TRÒ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp, 9đ
 
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chínhVai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
Vai trò của tòa án cấp huyện trong giải quyết các vụ án hành chính
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩmLuận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
Luận văn: Xét hỏi của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN DOÃN KHÔI HO¹T §éNG THÈM TRA C¸C Dù ¸N LUËT, PH¸P LÖNH CñA C¸C C¥ QUAN QUèC HéI, THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật Mã số: 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Doãn Khôi
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng Danh mục biểu đồ MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI .........10 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ..........................................10 1.1.1. Khái niệm hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh...............................10 1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh................................................................................................13 1.1.3. Vai trò của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh....................................16 1.2. Thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội trong thẩm tra dự án luật, pháp lệnh..............................................................................................22 1.3. Phân công cơ quan thẩm tra dự án luật, pháp lệnh .................................23 1.4. Nội dung thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh............................................29 1.5. Phương thức và trình tự thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh..................32 1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.............................................................39 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM............................................................................................................42 2.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam .......................................................42 2.1.1. Hiện trạng các quy định pháp luật về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.......................................................42
  • 4. 2.1.2. Những hạn chế, bất cập của hệ thống quy định hiện hành về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội .............................52 2.2. Thực tiễn triển khai hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam .......................................................56 2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc.................................................................................56 2.2.2. Những hạn chế, bất cập và những vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh ở Việt Nam....................................................61 Chương 3: GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI .........72 3.1. Quan điểm đổi mới hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội............................................................................72 3.1.1. Bảo đảm chất lƣợng hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc pháp quyền ......................72 3.1.2. Bảo đảm chất lƣợng hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội đặt trong yêu cầu tổng thể về cải cách, nâng cao chất lƣợng hoạt động lập pháp của Quốc hội...................................................................73 3.2. Một số giải pháp đổi mới hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.............................................................76 3.2.1. Về nhận thức ..................................................................................................76 3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ..............................................................................81 3.2.3. Giải pháp về tổ chức ......................................................................................83 3.2.4. Các giải pháp hỗ trợ khác...............................................................................86 KẾT LUẬN .......................................................................................................................89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................93
  • 5. DANH MỤC BẢNG Số bảng Tên bảng Trang Bảng 1.1: Vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp 25
  • 6. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Số biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu đồ 2.1: Số lƣợng văn bản luật đƣợc ban hành qua các nhiệm kỳ Quốc hội 58
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội) là một khâu trong quy trình lập pháp, có vai trò quan trọng, nhằm bảo đảm chất lƣợng và hiệu quả của hoạt động lập pháp của Quốc hội. Hiến pháp khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Để giúp Quốc hội thực hiện tốt vị trí, vai trò hiến định đó, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội là hoạt động rất cần thiết. Cùng với việc nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, trong những năm vừa qua, hoạt động lập pháp của Quốc hội đã từng bƣớc đƣợc cải tiến và có nhiều chuyển biến tích cực cả về chất lƣợng và số lƣợng, cơ bản đáp ứng đƣợc yêu cầu xây dựng, đổi mới, phát triển và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, những kết quả đạt đƣợc vẫn chƣa đáp ứng đƣợc mong đợi. Nhiều ý kiến khi đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cho rằng: pháp luật đi vào cuộc sống còn chậm, thiếu tính ổn định; tình trạng văn bản luật cần sửa đổi, bổ sung chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số văn bản đƣợc ban hành. Điều này có nguyên nhân từ nhiều phía, trong đó có những hạn chế, tồn tại trong công đoạn thẩm tra các dự án luật của các cơ quan của Quốc hội. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là: bên cạnh việc tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội nói chung, trong đó có hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu thấu đáo để có những cải tiến cho phù hợp hơn nữa với xu thế phát triển của Quốc hội trong giai đoạn hiện nay. Hiến pháp năm 1992 xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, yêu cầu đẩy mạnh hơn nữa hoạt
  • 8. 2 động lập pháp của Quốc hội cũng cấp bách hơn, Quốc hội phải kịp thời ban hành các văn bản luật không những đảm bảo về số lƣợng mà còn có chất lƣợng tốt, làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật hơn nữa, bảo đảm xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nƣớc, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này một lần nữa đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới, hoàn thiện công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội. Từ thực trạng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh hiện nay tuy đã đƣợc quan tâm đổi mới, thiết thực, hiệu quả hơn trƣớc, các báo cáo thẩm tra đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lƣợng của dự án trƣớc khi trình Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội, nhƣng không vì vậy mà không còn những hạn chế thiếu sót. Số lƣợng các dự án luật mà Chính phủ, các cơ quan soạn thảo trình lên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội ngày càng nhiều trong khi dự thảo, dự án trình không đảm bảo đúng thời hạn để các cơ quan của Quốc hội có đủ thời gian, thông tin tiến hành thẩm tra theo luật định; việc tiến hành phối hợp thẩm tra dự án luật còn chƣa nhịp nhàng; hình thức và hiệu lực của báo cáo thẩm tra còn có những hạn chế nhất định… Những điều đó hạn chế rất lớn đến hiệu quả hoạt động lập pháp của Quốc hội, việc bảo đảm số lƣợng và chất lƣợng các dự án luật, pháp lệnh là rất khó có thể thực hiện đƣợc. Vì thế, đổi mới quy trình lập pháp nói chung, quy trình, thủ tục thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh nói riêng là hết sức cấp bách. Trên phƣơng diện khoa học pháp lý, yêu cầu cải cách pháp luật, thực hiện mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và
  • 9. 3 hoạt động của cơ quan lập pháp, đổi mới thực hiện chức năng lập pháp, quy trình lập pháp, hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên, đầy đủ để tạo cơ sở khoa học cho việc tiến hành đổi mới. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng trong một thời gian dài và cho đến hiện nay việc đầu tƣ nghiên cứu, phát triển khoa học lập pháp, trong đó có vấn đề nghiên cứu làm sáng tỏ những cơ sở lý luận, thực tiễn của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội đã chƣa đƣợc chú ý đúng mức. Xuất phát từ những nội dung trình bày trên, bản thân tác giả luận văn nhận thấy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục những tồn tại trong hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội đang là nhiệm vụ bức thiết, cấp bách, có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả các luật do Quốc hội, pháp lệnh do Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội ban hành. Từ đó, tác giả chọn đề tài luận văn thạc sĩ là “Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp” nhƣ là một nội dung nghiên cứu mang ý nghĩa thời sự, hết sức cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức Quốc hội, thực hiện các chức năng của Quốc hội luôn là một trong những hƣớng ƣu tiên của nhiều nhà khoa học pháp lý. Có rất nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nƣớc, các sách, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về các vấn đề này, từ các công trình trực tiếp đến gián tiếp liên quan đến đề tài luận văn. Có thể kể đến một số công trình sau: Đề tài nghiên cứu cấp bộ về “Đổi mới và hoàn thiện quy trình lập pháp của Quốc hội và ban hành pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội”, năm 2001, do đồng chí Vũ Mão, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nguyên
  • 10. 4 Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội làm chủ nhiệm. Đây là đề tài tập trung nghiên cứu quy trình lập pháp mở rộng, trong đó có đề cập đến hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội, tuy nhiên chƣa đƣợc chú trọng nhiều, nội dung còn có tính khái quát cao. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ về “Tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, năm 2006, do PGS.TS Lê Văn Hòe làm chủ nhiệm. Đây là đề tài nghiên cứu những vấn đề có đề cập đến các khía cạnh khác nhau liên quan đến đề tài luận văn, song chỉ giới hạn ở việc đƣa ra khái niệm năng lực lập pháp, các yếu tố tạo thành năng lực lập pháp, thực trạng và giải pháp tăng cƣờng năng lực lập pháp của Quốc hội. Cùng với đó, còn có một số công trình khoa học khác nhƣ luận án tiến sĩ về “Cơ sở lý luận của việc đổi mới cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội ở Việt Nam”, của NCS Lê Thanh Vân, bảo vệ năm 2003 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận án tiến sĩ về “Hoàn thiện quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay” của NCS Hoàng Văn Tú, bảo vệ năm 2004 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận văn Thạc sĩ về “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội” của Đặng Đình Luyến, bảo vệ năm 2006 tại Viện Nhà nƣớc và Pháp luật… Những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ này cũng đã nghiên cứu một số vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn. Bên cạnh đó còn có các sách và các bài viết đƣợc công bố trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến đề tài, nhƣ sách: “Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới” của GS.TSKH. Đào Trí Úc, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội - 1997. Đây là công trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận về nhà nƣớc và pháp luật trong thời kỳ đổi mới; sách “Quốc hội Việt Nam - Tổ chức, hoạt động và đổi mới” của PGS.TS Phan Trung Lý,
  • 11. 5 NXB Chính trị Quốc gia - 2010. Đây là cuốn sách chuyên khảo nghiên cứu về tổ chức, hoạt động và phƣơng hƣớng đổi mới của Quốc hội Việt Nam; bài viết “Nâng cao chất lượng dự án luật, pháp lệnh” của TS Phạm Tuấn Khải, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2004; bài viết “Quy trình lập pháp Việt Nam: Từ soạn thảo và xin ý kiến đến quyết định chính sách, dịch chính sách và thẩm định chính sách”, của TS Nguyễn Sĩ Dũng và Ths Hoàng Minh Hiếu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 13/2008; bài viết “Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật” của TS. Hoàng Văn Tú; bài viết “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của TS. Vũ Đức Khiển; bài viết “Một số ý kiến về xây dựng báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh” của Ths. Nguyễn Quang Minh; bài viết “Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội - Thực trạng và giải pháp” của GS. TS. Trần Ngọc Đƣờng; bài viết “Vai trò thẩm tra các dự án luật của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các Ủy ban của Quốc hội” của tác giả Trần Hồng Nguyên; bài viết “Một số vấn đề đặt ra về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội” của GS. TS. Bùi Xuân Đức; bài viết “Thực trạng về Báo cáo thẩm tra và một số kiến nghị” của Ths Nguyễn Mạnh Cƣờng,... Đây là những bài viết có đề cập đến các nội dung lý luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, có liên quan đến đề tài của luận văn. Ngoài ra trong phạm vi của đề tài nghiên cứu, tác giả Luận văn cũng tham khảo một số tài liệu, sách là công trình khoa học của các tác giả nƣớc ngoài có liên quan đến luận văn, nhƣ: Roger Davidson và Walter J.Olesfek: “Quốc hội và các thành viên”, Nxb Chính trị Quốc gia, năm 2002… Có thể khẳng định tất cả các công trình khoa học trên đều có đề cập ở mức độ khác nhau những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận
  • 12. 6 văn, nhƣng không đầy đủ, chƣa có tính hệ thống; trong đó một số không còn phù hợp với pháp luật hiện hành và yêu cầu mới đối với Quốc hội. Vì lẽ đó, có thể khẳng định đề tài luận văn “Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, thực trạng và giải pháp” không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã đƣợc công bố. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những vấn đề lý luận, khuôn khổ pháp lý và thực tiễn triển khai hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam; hoạt động thẩm tra ở Nghị viện một số nƣớc; những vấn đề về chủ trƣơng, chính sách của Đảng trong việc nâng cao chất lƣợng thẩm tra dự án luật của các cơ quan Quốc hội. Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội là một công đoạn trong quy trình lập pháp, có quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khác của quy trình lập pháp. Tuy vậy, do khuôn khổ có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội; đề xuất các quan điểm và giải pháp tăng cƣờng chất lƣợng hoạt động này, nhằm bảo đảm nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của công tác thẩm tra; phát huy vai trò của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội nƣớc ta hiện nay. Để thực hiện tốt mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích làm sáng tỏ khái niệm, vai trò, và mục đích của hoạt động thẩm tra; nội dung, các bƣớc của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
  • 13. 7 - Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động thẩm tra, những ƣu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong công tác thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. - Xem xét, phân tích hoạt động thẩm tra dự án luật ở một số nƣớc trên thế giới và những điểm hợp lý có thể tham khảo ở Việt Nam. - Đề xuất, kiến nghị những quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là cơ sở cho việc nhận thức bản chất nội tại và các mối quan hệ biện chứng của các vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá qua các số liệu thu thập có liên quan đến hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam cũng nhƣ một số nƣớc trên thế giới nhằm làm sáng tỏ những luận cứ khoa học và tính thuyết phục cao trong các đề xuất về quan điểm, giải pháp tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả hoạt động thẩm tra của các cơ quan Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể là: - Trong chƣơng 1, để giải quyết những vấn đề lý luận, luận văn chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, luật học so sánh, từ đó làm rõ các khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung, hình thức, vị trí, vai trò của thẩm tra dự án luật, pháp lệnh trong hoạt động lập pháp và các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng báo cáo thẩm tra. - Trong chƣơng 2, luận văn sử dụng các phƣơng pháp lịch sử cụ thể, phân tích và tổng hợp, xã hội học để đánh giá toàn diện, khách quan thực trạng hoạt động thẩm tra dự án luật của các cơ quan của Quốc hội. - Trong chƣơng 3, luận văn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp trên,
  • 14. 8 trong đó có tính đến những yêu cầu thực tiễn và những kiến nghị đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. 6. Điểm mới của luận văn Là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, kết quả nghiên cứu của Đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, quan điểm về hoạt động thẩm tra; đánh giá thực trạng và những hạn chế trong công tác thẩm tra, kinh nghiệm của một số nƣớc về hoạt động thẩm tra các dự án luật và trên cơ sở đó, đề xuất phƣơng hƣớng, giải pháp khắc phục hạn chế, bất cập hiện nay trong công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. Từ đó góp phần xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, nhất quán, có tính khả thi và hiệu lực pháp lý cao. Cụ thể: - Luận văn đƣa ra các phƣơng pháp tiếp cận khác nhau về hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, từ đó làm rõ khái niệm, bản chất, mục đích của hoạt động thẩm tra dự án luật. - Chỉ rõ các bƣớc của hoạt động thẩm tra, nội dung và hình thức thẩm tra, các yếu tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng báo cáo thẩm tra. - Xác lập các quan điểm, đề xuất và dẫn giải các giải pháp nhằm tăng cƣờng chất lƣợng của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc tiếp cận và hoàn thiện công tác thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, về chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật ở các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hiện nay ở Việt Nam.
  • 15. 9 Bên cạnh đó, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho đại biểu Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn trong việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đổi mới quy trình lập pháp và công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội, nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc bố cục gồm ba chƣơng: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội. Chương 2: Thực trạng hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội ở Việt Nam. Chương 3: Giải pháp đổi mới hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội.
  • 16. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM TRA CÁC DỰ ÁN LUẬT, PHÁP LỆNH CỦA CÁC CƠ QUAN CỦA QUỐC HỘI 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội 1.1.1. Khái niệm hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh Các cơ quan của Quốc hội gồm Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban, do Quốc hội thành lập. Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản pháp luật hiện hành, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội đƣợc phân định thành ba lĩnh vực chính: thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh; giám sát việc thực hiện pháp luật và kiến nghị về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của mình. Cụ thể, các nhiệm vụ này gồm: thẩm tra, kiến nghị về các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo đƣợc Quốc hội hoặc Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội giao; trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội ý kiến của cơ quan mình về chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh; thực hiện quyền giám sát; kiến nghị với Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những vấn đề trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình (Điều 2, Quy chế hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội). Mặc dù đƣợc quy định với 3 nhóm nhiệm vụ, nhƣng trong thực tiễn hoạt động của cơ quan mình, hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh là nhiệm vụ đƣợc tiến hành chủ yếu và thƣờng xuyên ở Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Theo Từ điển tiếng Việt, “thẩm” là xem xét; “tra” là tra khảo, tra cứu, tra hỏi. “Thẩm tra” là điều tra, xem xét lại xem có đúng, có chính xác không [30, tr. 922]
  • 17. 11 Nhƣ vậy, có thể hiểu rằng: hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh trƣớc hết là hoạt động của một chủ thể đƣợc tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá, xem xét mọi vấn đề của dự án luật, pháp lệnh theo những tiêu chí nhất định. Tuy vậy, các tiêu chí này là gì; hình thức thể hiện của nó ra sao thì chƣa đƣợc quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Sản phẩm của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là báo cáo thẩm tra. Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh chính là văn bản do các cơ quan của Quốc hội báo cáo với Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, trong đó thể hiện những quan điểm, đánh giá và đề xuất của những cơ quan đó về dự án luật, pháp lệnh để làm cơ sở cho Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, thông qua. Hiện nay, chƣa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định nhƣ thế nào là báo cáo thẩm tra, cho nên việc xây dựng báo cáo thẩm tra phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức chủ quan của cơ quan thẩm tra, mà trƣớc hết là nhận thức của Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Vụ chuyên môn giúp việc - những ngƣời vừa là “kiến trúc sƣ”, vừa là “thợ xây” nên các báo cáo thẩm tra. Cũng do chƣa có quy định nên trên thực tế, để trả lời cho câu hỏi: xây dựng báo cáo thẩm tra nhƣ thế nào?, không hiếm khi câu trả lời sẽ là: Trƣớc kia (hoặc các Ủy ban khác) làm nhƣ thế nào thì bây giờ cứ làm nhƣ thế.... Vì vậy, trên thực tế, xảy ra sự giống nhau một cách nhàm chán cả về hình thức, ngôn từ sử dụng, cấu trúc, văn phong, đến nội dung, và nhất là chất lƣợng còn chƣa cao của không ít báo cáo thẩm tra. Xuất phát từ thực tiễn và nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan Quốc hội, tác giả luận văn cho rằng, cần xây dựng khái niệm về báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh, trong đó quy định rõ nội dung, hình thức báo cáo. Đây là điều rất cần thiết, vì nó là cơ sở nhận thức nền tảng cho việc xây dựng báo cáo thẩm tra.
  • 18. 12 Về bản chất, báo cáo thẩm tra chính là sự thể hiện quan điểm của cơ quan thẩm tra về dự án luật, pháp lệnh đƣợc thẩm tra dƣới hình thức một văn bản pháp lý nằm trong một thủ tục pháp lý đƣợc pháp luật quy định, có tính chất bắt buộc nhằm bảo đảm cho quy trình xây dựng luật, pháp lệnh đƣợc tiến hành chặt chẽ, khoa học và có hiệu quả. Nhƣ vậy, qua nghiên cứu các quy định pháp luật và hoạt động thẩm tra những năm qua, có thể rút ra định nghĩa: Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là những văn bản (trường hợp cá biệt có thể là phát biểu miệng) do các cơ quan có thẩm quyền của Quốc hội (mà hiện tại là Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội) báo cáo với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, trong đó thể hiện những quan điểm, đánh giá và đề xuất của những cơ quan đó về dự án luật, pháp lệnh làm cơ sở cho Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án. Ở nƣớc ta, các cơ quan của Quốc hội đóng vai trò quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Trong công tác xây dựng pháp luật, các cơ quan này đã phát huy đƣợc vai trò là cơ quan tham mƣu, “gác cổng” cho Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội là cơ quan đƣợc Quốc hội giao phụ trách những lĩnh vực chuyên môn nhất định, đƣợc giao chủ trì thẩm tra hoặc tham gia thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh trong phạm vi lĩnh vực mà mình phụ trách trƣớc khi trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Với việc thể hiện quan điểm của cơ quan thẩm tra thì báo cáo thẩm tra chính là văn bản đánh giá chất lƣợng của dự án luật, pháp lệnh cả về nội dung và hình thức. Báo cáo thẩm tra còn là sự kiểm tra trƣớc nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm khuyết có thể có trong dự thảo và đƣa ra các giải pháp để khắc phục những vi phạm, khiếm khuyết đó, làm cơ sở cho các đại biểu Quốc hội xem xét, thảo luận dự án luật, thành viên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến dự án luật, xem xét, thảo luận dự án pháp lệnh.
  • 19. 13 1.1.2. Đặc điểm, yêu cầu và nguyên tắc của hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh 1.1.2.1. Đặc điểm, yêu cầu - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một khâu trong quá trình chuẩn bị dự án trƣớc khi trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Các dự án luật, pháp lệnh chỉ đƣợc trình Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội, Quốc hội sau khi đã đƣợc cơ quan hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Việc thẩm tra đƣợc xem xét cả về hình thức và nội dung của dự án, nhất là xem xét sự phù hợp, nhất quán nội dung của dự thảo với chủ trƣơng, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, phạm vi điều chỉnh và tính khả thi của dự án. - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải do các cơ quan của Quốc hội thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ và sự phân công của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, dự án luật, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội trƣớc khi trình Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội phải đƣợc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban hữu quan của Quốc hội thẩm tra. Trong trƣờng hợp Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trình, thì Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo về những vấn đề thuộc nội dung của dự án; tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc cơ quan thẩm tra yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo
  • 20. 14 nghị quyết. Đối với dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra, thì Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội tham gia thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Dự án luật, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết có thể đƣợc thẩm tra một lần hoặc nhiều lần. Đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội để xin ý kiến, thì phải đƣợc cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra sơ bộ. Đối với dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, quyết định thông qua, thì phải đƣợc cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra chính thức. - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải tuân theo trình tự và phƣơng thức luật định. Theo quy định, việc thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải tuân theo trình tự từ chuẩn bị thẩm tra, tiến hành thẩm tra và xây dựng, phê duyệt báo cáo thẩm tra, đồng thời tuân theo phƣơng thức nhất định: thẩm tra sơ bộ đối với dự án lần đầu cho ý kiến và thẩm tra chính thức khi cho ý kiến và xem xét lần tiếp theo. - Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh phải đảm bảo nội dung theo quy định. Tại Điều 43 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về nội dung thẩm tra là: Phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh của văn bản; Nội dung của dự thảo văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; Sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; Tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản. 1.1.2.1. Các nguyên tắc trong hoạt động thẩm tra Trong hoạt động thẩm các dự án luật, pháp lệnh cần tuân thủ các nguyên tắc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định tại Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 là: 1) Bảo đảm tính
  • 21. 15 hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật; 2) Tuân thủ thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; 3) Bảo đảm tính công khai trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trừ trƣờng hợp văn bản pháp luật có nội dung thuộc bí mật nhà nƣớc; đảm bảo tính minh bạch trong các quy định của văn bản quy phạm pháp luật; 4) Bảo đảm tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật; và 5) Không làm cản trở việc thực hiện điều ƣớc quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, còn cần tuân thủ các nguyên tắc: - Nguyên tắc bình đẳng, dân chủ, công bằng: Theo nguyên tắc này, tất cả thành viên cơ quan thẩm tra đều bình đẳng trong việc thảo luận, kiến nghị, biểu quyết... tại cuộc họp, hội thảo liên quan đến thẩm tra dự án. Việc thảo luận tại phiên họp toàn thể cơ quan thẩm tra phải tuân theo các yêu cầu nhƣ: tất cả các thành viên của cơ quan thẩm tra đều có quyền, nghĩa vụ nhƣ nhau trong quá trình thảo luận; các quy định về thủ tục thảo luận phải đƣợc thực hiện một cách không thiên vị; vào bất kỳ thời điểm nào, các thành viên của cơ quan này cũng đƣợc biết về vấn đề đang đƣợc xem xét và vấn đề đó phải đƣợc nhắc lại trƣớc khi tiến hành biểu quyết; không phát biểu lần thứ hai về cùng một vấn đề khi đang có ngƣời khác muốn phát biểu về vấn đề đó; chủ tọa phiên họp phải điều khiển phiên họp một cách công bằng và trung thực, hai luồng ý kiến phản đối và đồng ý đều có cơ hội đƣợc thể hiện nhƣ nhau. - Nguyên tắc quyết định theo đa số: Nguyên tắc này đƣợc thể hiện trên hai phƣơng diện: Thứ nhất là, cần đặt ra số lƣợng thành viên tối thiểu cần thiết có mặt tại phiên họp thẩm tra để có thể biểu quyết. Đây là vấn đề quan trọng bởi không thể thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh mà lại có một số ít thành viên cơ quan tham gia bàn bạc, thông qua.
  • 22. 16 Thứ hai là, quyết định của Hội đồng, Ủy ban phải đƣợc đa số thành viên Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội biểu quyết, tán thành mới có giá trị. Chính vì vậy, nếu không đảm bảo số lƣợng quá nửa số thành viên Ủy ban tham gia thì cuộc họp thẩm tra dự án không đƣợc tiến hành bởi không đảm bảo quá nửa thành viên cơ quan này biểu quyết thông qua kết quả thẩm tra (đối với phiên họp thẩm tra sơ bộ phải đảm bảo đầy đủ thƣờng trực cơ quan này tham gia). 1.1.3. Vai trò của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh 1.1.3.1. Vai trò đối với quy trình và chất lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội Một trong những chức năng quan trọng của Quốc hội là chức năng lập pháp. Việc thực hiện tốt chức năng lập pháp quyết định vị trí, vai trò của Quốc hội trong bộ máy nhà nƣớc. Tuy nhiên, vị trí, vai trò đó của Quốc hội có đƣợc khẳng định hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội tham gia thực hiện chức năng lập pháp của mình. Theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình lập pháp của Quốc hội đƣợc quy định theo trình tự: 1) xây dựng chƣơng trình xây dựng luật và pháp lệnh; 2) Soạn thảo dự án luật, pháp lệnh; 3) Thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh; 4) Thảo luận và thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, dự án pháp lệnh tại phiên họp của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội; 5) Công bố luật, pháp lệnh. Các khâu của quy trình lập pháp trên nằm trong mối liên hệ biện chứng, tác động qua lại tạo nên cơ chế đồng bộ trong hoạt động lập pháp. Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh trƣớc khi trình Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội xem xét, thông qua đƣợc xem nhƣ là một hoạt động trung tâm của quy trình lập pháp của Quốc hội, bởi thông thƣờng, phần lớn các dự án luật, pháp lệnh
  • 23. 17 do Chính phủ, các cơ quan, tổ chức xã hội trình. Hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là “chốt” đầu tiên của cả quá trình xem xét, thông qua dự án luật tại Quốc hội, dự án pháp lệnh tại Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội, thành viên Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội sẽ cảm thấy an tâm hơn khi nhận đƣợc những thông tin đầy đủ và có tính thuyết phục từ các báo cáo thẩm tra về dự án luật, pháp lệnh đƣợc trình ra Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Nhƣ vậy, chất lƣợng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một trong những khâu then chốt tạo nên chất lƣợng của dự án luật, pháp lệnh. Thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là cơ sở đảm bảo chất lƣợng trong hoạt động xây dựng luật, pháp lệnh. Kết quả của hoạt động này đƣợc thể hiện bằng hình thức báo cáo thẩm tra. Đây là cơ sở rất quan trọng để Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội có căn cứ để xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh một cách toàn diện, có chất lƣợng, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Báo cáo thẩm tra là kết quả có ý nghĩa quan trọng nhất của hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Trong điều kiện phần lớn đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách, số lƣợng các dự án luật, pháp lệnh đƣa ra xem xét, thông qua ngày một nhiều, nội dung ngày càng mang tính chuyên môn sâu, phức tạp và chất lƣợng đòi hỏi ngày càng cao, trong khi thời gian mỗi kỳ họp Quốc hội, phiên họp Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội rất hạn chế, thì các báo cáo thẩm tra có ý nghĩa rất quan trọng giúp Quốc hội, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, pháp lệnh bảo đảm đƣợc tiến độ, thời gian cũng nhƣ chất lƣợng văn bản thông qua. Báo cáo thẩm tra tốt phản ánh đƣợc quan điểm, nhận thức của cơ quan thẩm tra về dự án, giúp Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội, cơ quan của Quốc hội tiếp cận đƣợc với dự án nhanh nhất, sâu nhất, có trọng tâm nhất, thực sự giúp trả lời nhanh chóng, chính xác và thoả đáng câu hỏi: đồng ý hay không đồng ý? đối với mỗi vấn đề của dự
  • 24. 18 án. Nếu phát biểu của đại biểu Quốc hội tại phiên họp Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội là thể hiện rõ nhất chất lƣợng hoạt động của mỗi đại biểu Quốc hội, thì các báo cáo thẩm tra cũng là sự thể hiện rõ nhất, tập trung nhất chất lƣợng hoạt động của mỗi cơ quan của Quốc hội. Việc trình báo cáo thẩm tra có chất lƣợng tốt ra trƣớc Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận, thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, dự án pháp lệnh tại phiên họp Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Báo cáo thẩm tra giúp cho các đại biểu Quốc hội có cơ sở lý luận và thực tiễn để thảo luận một cách có hiệu quả về dự án luật, pháp lệnh; đồng thời qua những lập luận mà báo cáo thẩm tra nêu ra, đại biểu Quốc hội có thêm căn cứ để tỏ thái độ của mình đối với các vấn đề còn có ý kiến khác nhau, giảm bớt đƣợc thời gian tranh luận và bảo đảm đƣợc tiến độ xem xét, thông qua luật, pháp lệnh. Hoạt động thẩm tra còn có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong quy trình lập pháp. Thông qua hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, các cơ quan của Quốc hội thay mặt nhân dân, đại diện cho nhân dân kiểm tra lại các chính sách thể hiện trong dự án luật, pháp lệnh, chỉ ra những chính sách chƣa đúng, chƣa phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân, chƣa phù hợp với thực tiễn cuộc sống, góp phần làm cho dự án luật, pháp lệnh sau khi đƣợc Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội biểu quyết thông qua có nội dung phù hợp ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, có khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Báo cáo thẩm tra chỉ ra các luận cứ khoa học và thực tiễn về các chính sách trong dự án luật, pháp lệnh phù hợp hay không phù hợp, đúng hay sai; đầy đủ, hoàn thiện hay còn khiếm khuyết để Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội có cơ sở xem xét, thảo luận, thông qua.
  • 25. 19 1.1.3.2. Vai trò đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức trình dự án luật, pháp lệnh. Có thể thấy rằng, vai trò của hoạt động thẩm tra trƣớc hết và tập trung nhiều ở việc hỗ trợ hoạt động lập pháp của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là hoạt động thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội không có vai trò đối với các các cơ quan, tổ chức trình dự án luật. Ở nhiều nƣớc, các Ủy ban của Quốc hội giữ vai trò then chốt trong hoạt động lập pháp, nhƣ “người gác cổng” cho Quốc hội trong quy trình lập pháp. Đặc biệt, ở Mỹ, nhƣ có tác giả nhận xét, các Ủy ban “là chỗ để chôn vùi hoặc làm luật trước khi đưa ra toàn viện. Dự luật nào không ra khỏi Ủy ban được là coi như chết. Nếu nhất trí, nó gần như sẽ được thông qua (tại Nghị viện)... Các Ủy ban đã có tính quyết định như vậy nên người ta gọi đó là “cơ quan lập pháp nhỏ” [18]. Vì vậy, ngƣời ta thƣờng gọi giai đoạn các Ủy ban thẩm tra, chỉnh sửa dự án luật là “giai đoạn Ủy ban”, các Ủy ban đƣợc coi là những “công xưởng làm luật” của Quốc hội. Từ đó, xem xét một cách khách quan có thể thấy rằng, dù tiếp cận ở góc độ nào, thì hoạt động thẩm tra đều mang tính tích cực, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo chất lƣợng và mức độ phù hợp của các dự án luật của các chủ thể, cơ quan trình dự án luật. Các báo cáo thẩm tra có vai trò “nhấn mạnh những lập luận ủng hộ dự luật, tóm tắt có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các nhân viên và của các cuộc điều trần. Báo cáo là những tài liệu rất đáng lưu ý. Dự luật tự bản thân nó có thể rất dài, nặng về kỹ thuật và dễ gây lẫn lộn cho đa số người đọc. Một nhóm nhân viên của Quốc hội nhận xét: “Vì thế, một báo cáo tốt không chỉ có tác dụng giải thích, mà còn thuyết phục nữa”. Hơn nữa, các báo cáo có thể hướng dẫn cho các cơ quan hành pháp và toà án liên bang hiểu được thứ ngôn ngữ không rõ ràng hoặc phức tạp của văn bản pháp luật” [26]. Nhƣ vậy, báo cáo thẩm tra ở đây là văn
  • 26. 20 kiện giải thích, thuyết phục về những ý đồ lập pháp bằng các cơ sở lý luận và thực tiễn, đồng thời là cơ sở để giải thích luật sau này. Điều này là đặc biệt có ý nghĩa cho các cơ quan trình dự án luật, cũng thông thƣờng đồng thời là cơ quan hành pháp. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, xem xét dự án luật tại Ủy ban của Nghị viện là một khâu, một giai đoạn quan trọng trong quy trình lập pháp. Tại Ủy ban chính là diễn đàn của các nghị sĩ có kiến thức chuyên sâu về ngành, lĩnh vực với đại diện các nhóm lợi ích và các nhóm cử tri để phân tích, thảo luận cả về nội dung chính sách và kỹ thuật lập pháp đƣợc thể hiện trong dự án luật. Nói cách khác, “Ủy ban chính là nơi cung cấp cho Nghị viện những kiến thức chuyên sâu nhất về chính sách đƣợc thể hiện trong dự luật và cũng chính là nơi giải quyết những vấn đề kỹ thuật pháp lý của dự luật. Ủy ban tạo ra những khoảng không gian và thời gian cần thiết để phân tích và thảo luận về dự luật một cách hiệu quả hơn so với các phiên họp toàn thể của Nghị viện” [11]. Chính vì vậy, việc duy trì một hệ thống Ủy ban hoạt động có hiệu quả sẽ tác động rất lớn đến hiệu quả, chất lƣợng của hoạt động lập pháp. “Hệ thống Ủy ban mạnh là điều kiện thiết yếu làm cho tác động của nghị viện vào quy trình hoạch định chính sách có hiệu quả nhất” [35, tr.66]. Mặc dù là cơ quan tham vấn, tƣ vấn cho Nghị viện, nhƣng tác động của Ủy ban đến dự án luật là rất lớn, đặc biệt là ở những nƣớc có hệ thống Ủy ban mạnh. Điều này thể hiện vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp của Nghị viện, vai trò này là khác nhau ở mỗi quốc gia tùy thuộc vào việc Ủy ban thẩm tra ở giai đoạn nào trong quy trình lập pháp và mức độ độc lập trong việc xem xét dự án luật của Ủy ban. Quy trình lập pháp của Nghị viện các nƣớc thông thƣờng đƣợc chia thành ba lần đọc. Lần đọc thứ nhất nhằm giới thiệu dự án luật, lần đọc thứ hai nhằm xem xét các nguyên tắc cơ bản của dự án luật và lần đọc thứ ba là để xem xét, thông qua dự án luật.
  • 27. 21 Ở một số nƣớc nhƣ Đức, Italia, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ, Barxin, Philippin, Hàn Quốc...., Ủy ban thẩm tra trƣớc phiên họp toàn thể (lần đọc thứ hai của Nghị viện). Theo quy trình này, Ủy ban có toàn quyền quyết định việc đƣa hoặc không đƣa một dự án luật ra xem xét trƣớc Nghị viện. Điều này có nghĩa là, phải có chính kiến của Ủy ban thì dự án luật mới đƣợc đƣa ra xem xét tại phiên họp toàn thể của Nghị viện, nếu không ủng hộ một dự án luật nào đó thì Ủy ban có thể viện đủ mọi lý do để trì hoãn việc báo cáo về dự án luật trƣớc Nghị viện. Nhƣ vậy, Ủy ban có vai trò quyết định số phận của dự án luật đó [11]. Hơn nữa, với ƣu thế đƣợc xem xét trƣớc dự án luật trƣớc khi trình ra phiên họp toàn thể Nghị viện, Ủy ban của Nghị viện một số nƣớc còn có quyền chỉnh sửa, thậm chí viết lại dự án luật theo ý kiến của Ủy ban. Tức là Ủy ban có quyền trình một dự án luật mới dựa trên cơ sở dự án luật do các chủ thể khác đệ trình. Thông qua cơ chế này, dự án luật của Ủy ban sẽ đƣợc ƣu tiên xem xét so với dự án luật gốc, và Ủy ban có thể chi phối lịch làm việc của Nghị viện. Nhƣ vậy, Ủy ban hoàn toàn có thể chủ động trong quá trình xem xét dự án luật, đồng thời cũng giúp cho Nghị viện có tiếng nói độc lập hơn mà không phụ thuộc vào những nội dung của dự luật mà các chủ thể khác đệ trình. Ingvar Mattson và Kaare Strom đã nhận xét: “nếu các Ủy ban không thể chỉnh sửa các dự án luật của Chính phủ thì cơ quan lập pháp ở phạm vi toàn viện cũng sẽ ở vào thế yếu so với cơ quan hành pháp” [11]. Ở một số nƣớc nhƣ Italia, Tây Ban Nha,... với vai trò đặc biệt của Ủy ban trong hoạt động lập pháp, dự luật có thể đƣợc thông qua ngay trong giai đoạn Ủy ban nếu đƣợc Nghị viện cho phép. Ở các nƣớc này, số lƣợng thành viên của các Ủy ban đƣợc tính toán tỷ lệ với số đại biểu của các đảng chính trị trong Nghị viện. Vì vậy, đối với một số vấn đề, tỷ lệ biểu quyết ở các Ủy ban thƣờng tƣơng đƣơng với tỷ lệ biểu quyết ở phiên họp toàn thể của Nghị viện. Điều này có nghĩa là quyết định của các Ủy ban cũng tƣơng tự nhƣ quyết định
  • 28. 22 của toàn thể Nghị viện. Tuy nhiên, một số nƣớc có quy định một số vấn đề không đƣợc giao cho các Ủy ban quyết định. Chẳng hạn, theo khoản 3 Điều 75 Hiến pháp Tây Ban Nha thì các vấn đề về sửa đổi hiến pháp, quan hệ đối ngoại, ngân sách nhà nƣớc và các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nƣớc không đƣợc giao cho các Ủy ban của Nghị viện quyết định [11]. Ở một số nƣớc nhƣ Anh, Canada, Australia,.. Ủy ban xem xét, thẩm tra dự án đƣợc đặt giữa lần đọc thứ hai và lần đọc thứ ba với mục đích xem xét chi tiết về dự án luật và chỉnh lý dự án luật theo những nguyên tắc đã đƣợc phiên họp toàn thể của Nghị viện quyết định tại lần đọc thứ hai. Theo quy trình này, thông thƣờng Ủy ban không có quyền bác bỏ dự án luật do Chính phủ trình mà chỉ nghiên cứu để trình ra Nghị viện xem xét. Điều này có nghĩa là, Ủy ban không có cơ hội chính thức để thể hiện chính kiến của mình về những chính sách thể hiện trong dự án luật mà chỉ có thể bình luận về các giải pháp mà cơ quan trình dự án nêu ra và tham gia chỉnh sửa về mặt kỹ thuật đối với các dự án luật. Tuy nhiên, cơ chế này có điểm thuận lợi là Nghị viện không phải mất thời gian để tranh cãi vô bổ cả về nội dung chính sách lẫn các vấn đề về kỹ thuật lập pháp. Bởi vì, tại lần đọc thứ hai, Nghị viện chỉ thảo luận và thông qua chính sách, nguyên tắc cơ bản của dự luật, còn các vấn đề về mặt kỹ thuật lập pháp sẽ đƣợc xem xét tại các Ủy ban để đến lần đọc thứ ba, Nghị viện sẽ thông qua một dự luật tƣơng đối hoàn thiện cả về mặt nội dung lẫn kỹ thuật. Theo thống kê, có khoảng 36 Nghị viện quy định các dự thảo luật do Nghị viện xem xét trƣớc sau đó sẽ đƣợc chuyển đến các Ủy ban và 47 Nghị viện quy định các dự thảo luật do Ủy ban xem xét trƣớc sau đó sẽ trình tại phiên họp toàn thể của Nghị viện [3, tr.360]. 1.2. Thẩm quyền của các cơ quan của Quốc hội trong thẩm tra dự án luật, pháp lệnh Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội: chủ thể tiến hành hoạt động
  • 29. 23 thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh là Hội đồng Dân tộc và 9 Ủy ban của Quốc hội bao gồm: Ủy ban Pháp luật; Ủy ban Tƣ pháp; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính - Ngân sách; Ủy ban Đối ngoại; Ủy ban về Các vấn đề xã hội; Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng; Ủy ban Quốc phòng - An ninh; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng. Đây là những cơ quan của Quốc hội, do Quốc hội thành lập, làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số; có nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Điều 21, Luật Tổ chức Quốc hội quy định: “Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra những báo cáo được Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao” [37, tr.148 ] 1.3. Phân công cơ quan thẩm tra dự án luật, pháp lệnh Hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội đƣợc tiến hành sau khi có sự phân công của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội và kết thúc khi Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trình báo cáo thẩm tra dự án luật trƣớc Quốc hội, dự án pháp lệnh trƣớc Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Trƣớc khi ban hành Hiến pháp năm 1992, việc thẩm tra dự án luật đƣợc thực hiện theo Quy chế xây dựng luật, pháp lệnh năm 1988, Luật Tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nƣớc năm 1981. Các văn bản này không quy định cụ thể phạm vi, lĩnh vực các dự án luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, từng Ủy ban của Quốc hội mà việc thẩm tra mỗi dự án tùy thuộc vào sự phân công của Quốc hội, Hội đồng Nhà nƣớc. Thực tiễn thời gian này cho thấy, mặc dù pháp luật có quy định về nhiệm vụ thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, nhƣng do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội không có thành viên làm việc chuyên trách và không có bộ phận thƣờng trực nên hầu hết các dự án luật, pháp lệnh đƣợc giao cho Ủy ban Pháp luật thẩm tra.
  • 30. 24 Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức Quốc hội năm 1992, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 thì nhiệm vụ thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã đƣợc quy định cụ thể hơn. Theo đó, thẩm quyền thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đƣợc xác định theo phạm vi, lĩnh vực hoạt động của Hội đồng Dân tộc, từng Ủy ban của Quốc hội. Trong trƣờng hợp Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội trình dự án luật thì Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật đó; đối với các dự án luật, pháp lệnh do Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trình thì Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định cơ quan thẩm tra. Ngoài việc thẩm tra các dự án thuộc lĩnh vực hoạt động của mình, Ủy ban Pháp luật còn có nhiệm vụ thẩm tra các dự án do Hội đồng Dân tộc, Ủy ban khác của Quốc hội thẩm tra nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 cũng quy định: Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm chủ trì thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực do mình phụ trách. Trƣờng hợp một dự án, dự thảo liên quan đến phạm vi lĩnh vực do nhiều cơ quan của Quốc hội phụ trách thì Quốc hội, Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội sẽ phân công cơ quan thẩm tra. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham gia thẩm tra đối với dự án, dự thảo do cơ quan khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra theo sự phân công của Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội. Việc quy định trách nhiệm tham gia thẩm tra là rất cần thiết, bởi vì, trong một dự án luật có thể có các nội dung liên quan đến phạm vi lĩnh vực do Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban khác của Quốc hội phụ trách. Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, để có thể thẩm tra đƣợc một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến dự án, dự thảo, cơ quan chủ trì thẩm tra rất cần biết đƣợc quan điểm của Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban có liên quan.
  • 31. 25 Trên thế giới, thông thƣờng, Ủy ban đƣợc giao nhiệm vụ xem xét dự án luật là Ủy ban phụ trách lĩnh vực phù hợp với dự án luật đó. Trƣờng hợp dự án luật có nội dung thuộc phạm vi xem xét của nhiều Ủy ban hoặc khó xác định Ủy ban chịu trách nhiệm xem xét, các nƣớc thƣờng thành lập Ủy ban có tính chất đặc biệt hoặc gửi dự án luật đến xem xét ở hai hoặc nhiều Ủy ban. Ngoài ra, ở một số nƣớc theo mô hình Nghị viện Anh, đối với các dự án luật có liên quan đến ngân sách quốc gia, giai đoạn xem xét ở Ủy ban phải đƣợc tiến hành qua hai bƣớc: xem xét ở Ủy ban thƣờng trực có thẩm quyền và xem xét ở cuộc họp của Ủy ban toàn viện. Ở một số nƣớc theo chính thể Cộng hoà Tổng thống, các Ủy ban của Nghị viện không bắt buộc phải xem xét tất cả các dự án luật đã đƣợc chuyển đến mà có toàn quyền quyết định những dự án luật nào sẽ đƣợc xem xét. Trong khi đó, một số nƣớc quy định Ủy ban bắt buộc phải xem xét các dự án luật do cơ quan hành pháp kiến nghị. Ở Chi-lê, cơ quan hành pháp còn có quyền bắt buộc Nghị viện xem xét, thông qua các dự án luật trong một thời hạn nhất định [3, tr.361] (Xem bảng 1.1). Bảng 1.1: Vai trò của Ủy ban trong quy trình lập pháp [42] Quốc gia/Nghị viện Dự án luật có phải trải qua giai đoạn xem xét tại Ủy ban để đƣợc Quốc hội thông qua? Dự án luật có đƣợc mặc nhiên chuyển đến xem xét tại Ủy ban? Quy định nào về việc tham vấn công chúng trong giai đoạn Ủy ban? ARGENTINA Thƣợng viện Hạ viện Ở cả hai viện: Có bắt buộc, trừ những trƣờng hợp đặc biệt khi Nghị viện quyết định xem xét, thông qua khẩn cấp dự án luật Ở cả hai viện: Có Ở cả hai viện: Không có quy định cụ thể nhƣng các Ủy ban có thể thực hiện việc tham vấn
  • 32. 26 BULGARIA Quốc hội Có bắt buộc Chủ tịch Quốc hội quyết định Ủy ban nào sẽ xem xét dự án luật Có quy định và thƣờng xuyên đƣợc thực hiện CANADA Thƣợng viện Viện Dân biểu Ở cả hai viện: Có bắt buộc Cả hai viện: Mặc nhiên đối với tất cả các dự án luật Cả hai viện: Nội quy trao cho các Ủy ban quyền yêu cầu nhân chứng, tài liệu và biên bản cần thiết để thực hiện chức năng của mình COSTA RICA Viện lập pháp Có bắt buộc Không áp dụng quy trình mặc nhiên Ủy ban có thể trƣng cầu các bình luận bằng miệng hoặc bằng văn bản EL SALVADOR Viện lập pháp Có bắt buộc Một số dự án đƣợc chuyển trực tiếp đến các Ủy ban (nhƣ dự án ngân sách), một số khác theo sự phân công Nội quy quy định các Ủy ban có thể tham vấn ý kiến các cá nhân để làm rõ các vấn đề cần xem xét và yêu cầu Chính phủ, các tổ chức cung cấp tài liệu liên quan CH Pháp Thƣợng viện Hạ viện Cả hai viện: Có bắt buộc Cả hai viện: Các dự án luật đƣợc chuyển đến Ủy ban tƣơng ứng trừ trƣờng hợp có thành lập các Ủy ban đặc biệt Cả hai viện: Không có quy định về vấn đề này CHLB Đức Hạ viện Viện liên bang Cả hai viện: Có bắt buộc Cả hai viện: Không mặc nhiên Cả hai viện: Có quy định. Điều trần để nghe ý kiến chuyên gia
  • 33. 27 HUNGARI Quốc hội Có bắt buộc Mặc nhiên đối với tất cả các dự luật Không bắt buộc nhƣng có thể sử dụng ẤN ĐỘ Viện nhân dân Viện Liên bang Cả hai viện: Không bắt buộc, giai đoạn Ủy ban chỉ đƣợc thực hiện theo yêu cầu của Viện hoặc Chủ tịch Viện Cả hai viện: Không mặc nhiên Cả hai viện: Có thể trƣng cầu chứng cứ miệng hoặc văn bản khi thấy cần thiết IRELAND Thƣợng viện Hạ viện Cả hai viện: Có bắt buộc Cả hai viện: Tất cả các dự luật đều đƣợc chuyển đến Ủy ban mà thƣờng là Ủy ban toàn viện Cả hai viện: Ủy ban đặc biệt có thể trƣng cầu nhân chứng và các văn kiện cần thiết đối với các dự luật. Ủy ban có thể thực hiện các báo cáo đặc biệt về bất kỳ vấn đề khi thấy cần thiết NHẬT BẢN Thƣợng viện Hạ viện Cả hai viện: Có bắt buộc trừ trƣờng hợp khẩn cấp Cả hai viện: Có yêu cầu Cả hai viện: Nhìn chung là không, nhƣng đối với các trƣờng hợp đặc biệt, Ủy ban có thể tổ chức các phiên điều trần công khai JORDAN Thƣợng viện Hạ viện Có bắt buộc Mặc nhiên đối với tất cả các dự án luật Nội quy cho phép Ủy ban triệu tập bất kỳ nhân chứng nào đến phiên họp khi cần NAMIBIA Quốc hội Không bắt buộc Không bắt buộc Không bắt buộc
  • 34. 28 BỒ ĐÀO NHA Quốc hội Có bắt buộc Có bắt buộc Có quy định, các Ủy ban có quyền tham vấn các chuyên gia và các tổ chức phi chính phủ về bất kỳ vấn đề gì ROMANIA Thƣợng viện Hạ viện Cả hai viện: Có bắt buộc Cả hai viện: Mặc nhiên Cả hai viện: Không cấm Ủy ban thực hiện điều này LB Nga Đuma Quốc gia Viện Liên bang Có bắt buộc Có bắt buộc Tại Đuma: Chuyển đến Đuma trƣớc khi chuyển đến các Ủy ban Có mặc nhiên Cả hai viện: Có quy định SENEGAL Quốc hội Có bắt buộc Dự luật sẽ đƣợc chuyển đến Ủy ban có liên quan khi có yêu cầu của đại diện Tổng thống Có quy định THÁI LAN Thƣợng viện Hạ viện Không bắt buộc Có bắt buộc, thông thƣờng là Ủy ban lâm thời Không mặc nhiên, chỉ chuyển đến Ủy ban khi có Nghị quyết của Thƣợng viện Không mặc nhiên Cả hai viện: Có quy định VƢƠNG QUỐC ANH Viện nguyên lão Tất cả các dự luật đều đƣợc chuyển Có quy định nhƣng chỉ đối với những
  • 35. 29 Viện Dân biểu đến một Ủy ban trừ khi toàn Viện có quyết định khác Tất cả các dự luật trừ những dự án có liên quan đến chi tiêu ngân sách Các dự án luật công đƣợc chuyển đến Ủy ban thƣờng trực trừ khi toàn viện có quyết định khác dự luật đƣợc chuyển đến Ủy ban lựa chọn Có quy định nhƣng chỉ đối với những dự luật đƣợc chuyển đến Ủy ban lựa chọn HOA KỲ Thƣợng viện Hạ viện Cả hai viện: Ủy ban thƣờng xem xét dự luật nhƣng không bắt buộc Không mặc nhiên mà theo quyết định của Chủ tịch Hạ viện Cả hai viện: Có quy định 1.4. Nội dung thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh Sau khi đƣợc phân công thẩm tra, cơ quan thẩm tra tiến hành các hoạt động thẩm tra. Nội dung thẩm tra dự án luật, pháp lệnh gồm: Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra tập trung vào những vấn đề chủ yếu, bao gồm: 1) phạm vi, đối tƣợng điều chỉnh của văn bản; 2) nội dung của dự thảo văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau; 3) sự phù hợp của nội dung dự thảo văn bản với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật và tính thống nhất của dự thảo văn bản với hệ thống pháp luật; 4) tính khả thi của các quy định trong dự thảo văn bản. Việc xác định đối tƣợng và phạm vi điều chỉnh của một dự án luật, pháp lệnh bảo đảm cho nội dung các quy định của dự án đó đƣợc thể hiện theo đúng yêu cầu của văn bản, bao quát hết nội dung cần thực hiện, đồng thời giữ cho văn bản không vƣợt ra ngoài những vấn đề cần giải quyết đối với văn bản đó. Thẩm tra nội dung văn bản và những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, đây là phần quan trọng nhất, trọng tâm nhất của Báo cáo thẩm tra. Thực chất, đây là việc thẩm tra xem chính sách đƣợc thể hiện trong dự án đã đúng
  • 36. 30 chƣa, đã hợp lý chƣa. Thẩm tra sự phù hợp của nội dung dự án với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, với Hiến pháp, pháp luật là việc cơ quan thẩm tra cần quan tâm, xem xét cụ thể dự án này đƣợc xây dựng trên cơ sở thể chế hóa chủ trƣơng, quan điểm của Đảng về vấn đề này ra sao? Dự án đã thể hiện đúng tinh thần và nội dung của chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách đó hay không? Nhiệm vụ thẩm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật đối với dự án đƣợc giao cho Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Ủy ban Pháp luật thực hiện nhiệm vụ này bằng cách thẩm tra các dự án do mình phụ trách và phối hợp thẩm tra với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban khác của Quốc hội. Khi thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh, cơ quan thẩm tra phải xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản đó, có nghĩa là những quy định của dự án đang thẩm tra phù hợp với những quy định của Hiến pháp và các dự án luật, pháp lệnh không đƣợc trái với Hiến pháp và pháp luật. Ngoài những vấn đề trên, cơ quan thẩm tra cần xem xét việc tuân thủ trình tự, thủ tục soạn thảo và tính khả thi của dự án; những vấn đề còn có ý kiến khác nhau trong dự án; đánh giá mức độ hoàn thiện của dự án có thể trình Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội hoặc Quốc hội thông qua hay không. Việc quy định thẩm tra kỹ các nội dung này nhằm bảo đảm để văn bản luật sau khi đƣợc ban hành thể hiện đúng đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, có tính khả thi, hiệu lực, hiệu quả và bảo đảm tính thống nhất đối với hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, để hoạt động thẩm tra bảo đảm chất lƣợng, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cơ quan chủ trì thẩm tra có trách nhiệm mời đại diện cơ quan đƣợc phân công tham gia thẩm tra tham dự phiên họp thẩm tra để phát biểu ý kiến về những nội dung của dự án, dự thảo liên quan đến lĩnh vực do cơ quan đó phụ trách và những vấn đề khác thuộc nội dung của dự án, dự thảo; đồng thời, có thể mời đại diện cơ quan, tổ chức có liên
  • 37. 31 quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tƣợng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Qua đó, cơ quan chủ trì thẩm tra có những thông tin đa dạng từ nhiều phía. Những thông tin này sẽ giúp ích cho cơ quan chủ trì thẩm tra trong việc đánh giá về sự cần thiết, các chính sách, tính khả thi… của dự án. Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh gửi cho cơ quan thẩm tra bao gồm các tài liệu sau: - Tờ trình dự án luật, pháp lệnh; - Dự thảo luật, pháp lệnh; - Bản thuyết minh chi tiết về dự án, dự thảo; - Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo văn bản; - Báo cáo thẩm định đối với dự án, dự thảo do Chính phủ trình, ý kiến của Chính phủ đối với dự án, dự thảo không do Chính phủ trình; - Bản tổng hợp ý kiến góp ý về dự án, dự thảo; - Báo cáo tổng kết việc thi hành pháp luật, đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến nội dung chính của dự án, dự thảo; - Các tài liệu khác nếu có. Đây là các tài liệu cần phải có theo quy định của pháp luật nhằm mục đích để cơ quan thẩm tra có đầy đủ thông tin phục vụ cho công tác thẩm tra. Ngoài ra, để có thêm thông tin cho hoạt động thẩm tra, cơ quan thẩm tra còn có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án, dự thảo báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án, dự thảo. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu và đáp ứng các yêu cầu khác của cơ quan thẩm tra. Ở hầu hết các nƣớc trên thế giới, việc xem xét dự án luật tại Ủy ban đƣợc chính thức bắt đầu sau khi dự thảo luật đƣợc gửi đến. Phạm vi những
  • 38. 32 vấn đề đƣợc các Ủy ban xem xét thƣờng rất rộng, từ chính sách chung cho đến các vấn đề chi tiết nhƣ ngôn ngữ, kỹ thuật văn bản của từng điều luật. 1.5. Phương thức và trình tự thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh Dự án luật có thể đƣợc thẩm tra một hoặc nhiều lần (đối với dự án pháp lệnh thƣờng thẩm tra một lần). Phƣơng thức thẩm tra có thể là thẩm tra sơ bộ và thẩm tra chính thức. Việc thẩm tra chính thức đƣợc tiến hành tại phiên họp toàn thể của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Việc thẩm tra sơ bộ đƣợc tiến hành tại phiên họp của Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng trực Ủy ban. Việc quy định hình thức thẩm tra sơ bộ là nhằm đáp ứng yêu cầu bảo đảm tiến độ xây dựng dự án luật trong điều kiện đa số thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm. Phƣơng thức thẩm tra sơ bộ chỉ đƣợc áp dụng với những dự án luật trình Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội xin ý kiến. Đối với những dự án luật trình Quốc hội xem xét, thông qua thì phải đƣợc thẩm tra chính thức. Việc thẩm tra chính thức nhằm bảo đảm cho chất lƣợng thẩm tra đƣợc toàn diện hơn, thể hiện rõ chính kiến, quan điểm của toàn thể Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội đối với từng vấn đề của dự án trên cơ sở nguyên tắc làm việc tập thể và quyết định theo đa số. Để thẩm tra một dự án luật, pháp lệnh, cơ quan chủ trì thẩm tra phải tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra; đối với dự án luật trình Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội cho ý kiến thì có thể tổ chức phiên họp Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc và Thƣờng trực Ủy ban để thẩm tra sơ bộ. Một dự án luật, pháp lệnh có thể do một cơ quan là Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra. Đối với dự án liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc do tính quan trọng, tính phức tạp của nó mà có thể đƣợc giao cho Hội đồng Dân tộc hoặc một Ủy ban của Quốc hội chủ trì thẩm tra. Cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp thẩm tra với sự tham gia của đại diện cơ quan tham gia thẩm tra. Chậm nhất là ba mƣơi ngày, trƣớc ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội
  • 39. 33 hoặc chậm nhất là hai mƣơi ngày, trƣớc ngày bắt đầu phiên họp Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội, cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án phải gửi tờ trình, dự thảo luật và các tài liệu liên quan khác đến cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra. Để chuẩn bị cho việc thẩm tra, Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng trực Ủy ban của Quốc hội thực hiện những công việc sau đây: - Giao cho tiểu ban hoặc thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội nghiên cứu và chuẩn bị ý kiến; - Yêu cầu cơ quan soạn thảo, cơ quan hữu quan trình bày những vấn đề liên quan đến dự án; - Tổ chức lấy ý kiến của chuyên gia về dự án; - Tự mình hoặc cùng cơ quan soạn thảo tổ chức khảo sát tình hình thực tế về những vấn đề thuộc nội dung của dự án. Thực tế cho thấy, việc tổ chức hoặc tham gia vào các hội nghị lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan và chuyên gia, khảo sát thực tế về dự án luật, pháp lệnh là những công việc rất quan trọng mà cơ quan thẩm tra tiến hành trong giai đoạn thẩm tra dự án. Để có thể nắm vững nội dung của dự án, bảo đảm cho việc thẩm tra dự án có chất lƣợng, cơ quan thẩm tra có thể cử thành viên của mình hoặc của Vụ chuyên môn trực tiếp giúp việc tham dự các cuộc họp xây dựng dự án luật, pháp lệnh. Cơ quan thẩm tra có thể yêu cầu đại diện các cơ quan, tổ chức hữu quan báo cáo về những vấn đề liên quan đến nội dung của dự án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc cơ quan thẩm tra yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc thẩm tra hoặc trình bày những vấn đề liên quan đến dự án mà Hội đồng Dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội xem xét, thẩm tra. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức phiên họp thẩm tra dự án sau khi cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án gửi văn bản đến Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
  • 40. 34 Việc thẩm tra tại phiên họp đƣợc tiến hành theo trình tự sau đây: - Đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án luật, pháp lệnh trình bày về dự án; - Các đại biểu tham dự phiên họp nêu câu hỏi và đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án trình bày bổ sung; - Đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban phát biểu ý kiến; - Đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm tra và đại diện cơ quan, tổ chức hữu quan tham dự phiên họp phát biểu ý kiến; - Thành viên Hội đồng, Ủy ban thảo luận. Trong quá trình thẩm tra, đại diện cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình dự án có thể trình bày ý kiến làm rõ vấn đề mà Hội đồng, Ủy ban, đại biểu tham dự phiên họp nêu ra hoặc yêu cầu; Chủ tọa phiên họp kết luận; đối với những vấn đề quan trọng và cần thiết thì Chủ tọa phiên họp lấy biểu quyết. Trong trƣờng hợp Thƣờng trực Hội đồng Dân tộc, Thƣờng trực Ủy ban của Quốc hội thẩm tra sơ bộ dự án luật để trình Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội cho ý kiến thì phiên họp thẩm tra sơ bộ cũng đƣợc tiến hành theo trình tự này. Căn cứ vào ý kiến tại phiên họp thẩm tra, Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban chuẩn bị báo cáo thẩm tra trình Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội. Báo cáo thẩm tra phải phản ánh đầy đủ ý kiến của thành viên Hội đồng, Ủy ban; nêu chính kiến của Hội đồng, Ủy ban về những vấn đề đƣợc nhất trí, không nhất trí hoặc còn có ý kiến khác nhau để Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Trong trƣờng hợp Hội đồng, các Ủy ban khác đƣợc phân công tham gia thẩm tra thì báo cáo thẩm tra còn phải phản ánh ý kiến của các cơ quan này; nếu không nhất trí với báo cáo của cơ quan chủ trì thẩm tra thì cơ quan tham gia thẩm tra có quyền trình bày ý kiến của mình với Quốc hội, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội.
  • 41. 35 Việc xem xét dự án luật tại Ủy ban của các nƣớc trên thế giới nhìn chung đƣợc tiến hành theo trình tự, thủ tục sau đây: - Nghiên cứu, tìm kiếm thông tin, tài liệu về dự án luật thông qua các kênh thông tin khác nhau, chẳng hạn nhƣ thông tin từ các bộ, ngành có liên quan, từ các chuyên gia, cố vấn pháp lý, từ báo cáo đánh giá tác động của dự án luật,...; - Tổ chức các phiên điều trần để lấy ý kiến về dự án luật. Thông thƣờng, các phiên điều trần của Ủy ban phải đƣợc tổ chức công khai, trừ trƣờng hợp đa số thành viên Ủy ban biểu quyết họp kín. Tham dự phiên điều trần có các nghị sĩ là thành viên Ủy ban, cơ quan trình dự án luật, các cơ quan hữu quan, nhân chứng, đại diện các nhóm lợi ích liên quan và công dân. Việc tổ chức các phiên điều trần công khai không chỉ cung cấp cho Ủy ban những kinh nghiệm thực tế mà còn là diễn đàn để trao đổi, thể hiện ý kiến, quan điểm của các nhóm lợi ích và công dân với các nhà hoạch định chính sách và cũng là cơ hội để các nhà lập pháp đặt ra câu hỏi đối với các quan chức ngành hành pháp. Thông qua các cuộc điều trần, Nghị viện, mà cụ thể là các Ủy ban tuyên truyền đến nhân dân những vấn đề hiện tại, nổi cộm và bức xúc của đất nƣớc cần phải giải quyết và qua đó làm tăng sự tin tƣởng của công chúng vào một quy trình làm việc minh bạch của Nghị viện [35, tr.68]. Ở mô hình nghị viện của các nƣớc Westminster, mặc dù không có các phiên điều trần liên quan đến các dự án luật nhƣng các Ủy ban ở các Nghị viện này thƣờng tổ chức các phiên điều trần về hoạt động của các bộ trong Chính phủ. Do vậy, các Ủy ban vẫn có đầy đủ các tài liệu điều tra liên quan đến những nội dụng cụ thể về hoạt động của ngành hành pháp; - Họp phiên toàn thể của Ủy ban để thảo luận về từng điều khoản cụ thể của dự án luật và đƣa ra các đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Kết thúc phiên họp, Ủy ban biểu quyết thông qua báo cáo của Ủy ban để trình ra Nghị viện, đồng thời chỉ định một báo cáo viên.
  • 42. 36 Báo cáo của Ủy ban phải thể hiện đầy đủ các quan điểm của thành viên về dự án luật và những kiến nghị, bình luận về từng điều khoản cụ thể. Ở những nƣớc có Ủy ban mạnh nhƣ Hoa Kỳ, báo cáo của Ủy ban thể hiện rõ quan điểm đối với dự án luật nhƣ ủng hộ hoàn toàn, ủng hộ với điều kiện có sửa đổi, bổ sung, không tán thành dự luật, không có bình luận gì hoặc kiến nghị trì hoãn vô hạn định việc xem xét dự luật; trƣờng hợp Ủy ban tán thành trình dự luật nhƣng có sửa đổi, bổ sung thì Ủy ban báo cáo Hạ viện về dự luật gốc cùng với bản sửa đổi, bổ sung theo ý kiến của Ủy ban. Nhiều nƣớc cho phép gửi kèm trong báo cáo của Ủy ban những ý kiến khác với quan điểm chung của Ủy ban. Những quan điểm thiểu số này đƣợc bảo lƣu và có thể đƣợc đƣa ra xem xét trong các phiên thảo luận của Nghị viện ở lần đọc sau. Sau khi Ủy ban hoàn thành việc xem xét dự án luật, báo cáo của Ủy ban sẽ đƣợc trình ra Nghị viện bởi một báo cáo viên. Báo cáo viên có thể là thành viên hoặc là Chủ nhiệm Ủy ban, chịu trách nhiệm chuẩn bị tờ trình chi tiết, những kết luận cụ thể và bảo vệ kết luận đó trƣớc Nghị viện. Khi chỉ định báo cáo viên, Ủy ban quán triệt lập trƣờng có tính nguyên tắc đối với dự thảo luật và nêu rõ định hƣớng kết luận của Ủy ban. Báo cáo của Ủy ban thƣờng đƣợc Nghị viện các nƣớc xem là cơ sở để nghị viện tiến hành thảo luận, thông qua dự án luật. Tuy nhiên, một số nƣớc nhƣ Ca-mơ-run, Cu-Ba, Đan Mạch, Ấn Độ,… dự thảo luật ban đầu lại đƣợc xem là cơ sở thảo luận chính, còn báo cáo của Ủy ban chỉ là kiến nghị về các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung. Về việc phối hợp thẩm tra Trong trƣờng hợp dự án luật, pháp lệnh đƣợc giao cho Hội đồng Dân tộc và nhiều Ủy ban của Quốc hội phối hợp thẩm tra thì cơ quan chủ trì thẩm tra tổ chức phiên họp với Thƣờng trực hoặc đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm tra. Khi tham gia phiên họp, đại diện
  • 43. 37 Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban có trách nhiệm báo cáo ý kiến của Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban hoặc của Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra và có quyền trình bày ý kiến của mình. Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra cũng có thể gửi ý kiến của mình cho Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội chủ trì thẩm tra có trách nhiệm báo cáo trƣớc Quốc hội về những vấn đề nhất trí, không nhất trí, những vấn đề còn có ý kiến khác nhau giữa Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra với Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra. Trong trƣờng hợp không nhất trí với báo cáo thẩm tra của Hội đồng, Ủy ban chủ trì thẩm tra hoặc cần bổ sung ý kiến thì Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra có thể có báo cáo riêng. Thực tế cho thấy, trong điều kiện, phƣơng thức hoạt động và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội nhƣ hiện nay thì việc tham gia thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội thƣờng do Thƣờng trực hoặc đại diện Thƣờng trực Hội đồng, Thƣờng trực Ủy ban tham gia thẩm tra thực hiện. Điều này dẫn đến tình trạng báo cáo thẩm tra chƣa phản ánh đầy đủ ý kiến của đa số thành viên của Hội đồng, Ủy ban tham gia thẩm tra. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật là một yêu cầu quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ này, cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều cơ quan, tổ chức trong cả quy trình lập pháp từ khi soạn thảo, thẩm tra cho đến khi xem xét, thông qua các dự án luật, pháp lệnh. Đồng thời, để bảo đảm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đƣợc thống nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì cần có một cơ quan tham gia vào các công đoạn của quy trình lập pháp đối với tất cả các dự án luật, pháp lệnh. Vì vậy, pháp luật quy định Ủy ban Pháp luật (trong trƣờng hợp Ủy ban Pháp luật không phải là Ủy ban chủ trì thẩm tra) tham gia thẩm tra tất cả các dự án nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
  • 44. 38 Việc thẩm tra dự án luật của Ủy ban lâm thời Để bảo đảm khách quan trong việc thẩm tra dự án luật, trong trƣờng hợp Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội là cơ quan trình dự án thì Quốc hội chỉ định cơ quan thẩm tra hoặc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra. Tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XI đã ban hành Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội là dự án luật do Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội trình. Việc Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban lâm thời đƣợc tiến hành nhƣ sau: - Khi xét thấy cần thiết, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc, Thủ tƣớng Chính phủ, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội trình Quốc hội quyết định thành lập Ủy ban lâm thời của Quốc hội; - Trong thời hạn ba mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc đề nghị về việc thành lập Ủy ban lâm thời, Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội có trách nhiệm xem xét và thông báo cho cơ quan, cá nhân đã đề nghị biết ý kiến của Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội về vấn đề này. Trong trƣờng hợp quyết định trình Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời thì Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội dự kiến cơ cấu tổ chức, số lƣợng thành viên, nhiệm vụ, quyền hạn và thời gian hoạt động của Ủy ban lâm thời của Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định. Đây là trình tự, thủ tục đƣợc áp dụng chung cho cả việc thành lập Ủy ban lâm thời để thẩm tra dự án luật, điều tra về một vấn đề nhất định hoặc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể khác theo quy định của pháp luật. Sau khi đƣợc thành lập, Ủy ban lâm thời tiến hành nghiên cứu, thẩm tra dự án luật và trình Quốc hội báo cáo thẩm tra về dự án luật đó. Pháp luật hiện hành chƣa có quy định về trình tự, thủ tục, phƣơng thức thẩm tra dự án luật của Ủy ban lâm thời. Trên thực tế, trình tự, thủ tục tiến hành thẩm tra dự án
  • 45. 39 luật của Ủy ban lâm thời đƣợc tiến hành tƣơng tự nhƣ trình tự, thủ tục thẩm tra dự án luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội. Ủy ban lâm thời chấm dứt hoạt động sau khi hoàn thành nhiệm vụ đƣợc giao. 1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra dự án luật, pháp lệnh của các cơ quan của Quốc hội Nâng cao hiệu quả hoạt động thẩm tra dự án luật, pháp lệnh đòi hỏi phải xem xét đến các yếu tố tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới chất lƣợng báo cáo thẩm tra. Những yếu tố tác động tới chất lƣợng báo cáo thẩm tra bao gồm: Một là, cơ cấu, thành phần của các cơ quan của Quốc hội (Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban). Một tập thể Hội đồng, Ủy ban mạnh gồm những đại biểu Quốc hội có trình độ chuyên môn sâu, tận tụy với công việc, có điều kiện tham dự đầy đủ các phiên họp thẩm tra sẽ là yếu tố quan trọng để Hội đồng, Ủy ban có những Báo cáo thẩm tra có chất lƣợng. Hai là, phƣơng thức tiến hành hoạt động thẩm tra. Để có đƣợc một báo cáo thẩm tra tốt thì phải có cách làm tốt - cách làm khoa học, hiệu quả. Cơ quan thẩm tra có thể cử thành viên tham gia nghiên cứu dự án; yêu cầu cơ quan soạn thảo trình bày những vấn đề liên quan đến dự án; tổ chức họp lấy ý kiến của chuyên gia và đi khảo sát tình hình thực tế tại địa phƣơng, cơ sở về những nội dung liên quan đến dự án. Việc tổ chức hoặc tham gia vào các hội nghị lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, khảo sát thực tế là những công việc rất quan trọng và cần thiết mà cơ quan thẩm tra phải tiến hành để có thể có đƣợc một Báo cáo thẩm tra có chất lƣợng. Ba là, việc phân công thẩm tra và phối hợp thẩm tra. Việc phân công hợp lý, đúng chức năng, chuyên môn của cơ quan thẩm tra cũng là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm chất lƣợng Báo cáo thẩm tra. Thẩm quyền thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã đƣợc quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội. Đây là cơ sở pháp lý để Ủy ban thƣờng vụ