SlideShare a Scribd company logo
1 of 93
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ NGỌC DUYÊN
PHI£N TßA H×NH Sù S¥ THÈM
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ NGỌC DUYÊN
PHI£N TßA H×NH Sù S¥ THÈM
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Ngọc Duyên
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................6
1.1. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm.......................................................6
1.2. Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................................11
1.2.1. Về phương diện pháp lý ...............................................................................11
1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội.................................................................12
1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô
hình tố tụng tụng tranh tụng.....................................................................14
1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng .......................14
1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn.........................17
1.4. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm ...........................................................21
1.4.1. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa......................................................................21
1.4.2. Phần thủ tục xét hỏi và tranh luận ................................................................21
1.4.3. Phần thủ tục nghị án và tuyên án ....................................................................24
Kết luận chương 1 ...................................................................................................25
Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.....26
2.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm ............................26
2.1.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm từ 1945 đến năm 1988....26
2.1.2. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS
năm 2003 ......................................................................................................30
2.1.3. Những điểm mới về phiên tòa hình sự sơ thẩm theo qui định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.....41
2.2. Thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh
Nam Định ....................................................................................................44
2.2.1. Thực tiễn phiên tòa sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định ............................46
2.2.2. Nhận xét về nguyên nhân hạn chế của phiên tòa hình sự sơ thẩm qua
thực tiễn xét xử.............................................................................................58
Kết luận chương 2 ...................................................................................................63
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .....64
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm...................................................64
3.2. Hoàn thiện pháp luật phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................65
3.3. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm.......69
3.3.1. Về kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư và
tổ chức, hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Đoàn Luật sư......................69
3.3.2. Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người
tiến hành tố tụng ...........................................................................................74
3.3.3. Tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân...............................................77
Kết luận chương 3 ...................................................................................................79
KẾT LUẬN..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
HSST: Hình sự sơ thẩm
HTND: Hội thẩm nhân dân
Nghị quyết 08: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới"
Nghị quyết 48: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020”;
Nghị quyết 49: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020"
TAND: Tòa án nhân dân
TTHS: Tố tụng hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Tình hình thụ lý giải quyết án hình sự 45
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải
quyết trong đó có hoạt động tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đề cập về vấn đề này Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị, đã nêu rõ: Nâng cao chất lượng xét xử
của Tòa án là khâu trung tâm, đột phá, thông qua việc nâng cao tính dân chủ, khách
quan trong tranh tụng tại phiên tòa. Hiến pháp 2013 cũng đã xác định "Bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng… nghiêm chỉnh chấp hành" [36, Điều 106].
Những năm gần đây, sau khi Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức TAND năm
2014 có hiệu lực, quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự về vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, việc áp dụng thủ tục, nội
hàm một số nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, các văn bản
ban hành tại phiên tòa… đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải đổi mới.
Thực tiễn thi hành phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn tỉnh
Nam Định trước yêu cầu cải cách tư pháp còn cho thấy còn nhiều tồn tại, hạn chế,
số bản án, quyết định của Tòa án thiếu căn cứ, vi phạm pháp luật bị hủy, sửa còn
tồn tại. Chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm chưa thật sự cao do nhiều nguyên
nhân; Trước hết, do trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng chưa
đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, tình trạng HĐXX không áp dụng đúng, đầy
đủ thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như pháp luật nội dung. Quy định về thủ tục
xét hỏi tại toà đã đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh lên vai HĐXX mà
chủ yếu là chủ toạ phiên toà, dẫn đến tình trạng tại phiên tòa chủ yếu do Chủ tọa
phiên tòa tiến hành, Kiểm sát viên chỉ có nhiệm vụ đọc cáo trạng và luận tội diễn ra
phổ biến. Trong hầu hết các phiên tòa không có “tranh tụng” bởi hầu hết không có
sự tham gia của người bào chữa, nếu có người bào chữa thì chất lượng bào chữa
2
cũng không cao, trong khi đó các bị cáo không có khả năng trình bày, tranh luận.
Thực tiễn thi hành về hình thức phiên tòa như việc bố trí chỗ ngồi tại phiên tòa,
quyền của bị cáo, người bào chữa cũng cho thấy sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội
và bên bị buộc tội; Ngoài ra, cơ sở vật chất cho việc tổ chức phiên tòa chưa được
đảm bảo dẫn đến không thể bố trí được phiên tòa đảm bảo tính uy nghiêm của chốn
“pháp đình”…. Tất cả những tồn tại phổ biến đã đề cập, cho thấy tính cấp thiết của
việc đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục.
Để làm rõ cơ sở lý luận, quy định pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ
thẩm, đánh giá đúng thực trạng phiên tòa sơ thẩm, hướng tới việc đổi mới, hoàn
thiện pháp luật, nâng cao chất lượng phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư
pháp, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự, gắn với địa bàn
công tác, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" làm Luận văn
Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo trong nước, các bài viết
trên các tạp chí về đề tài liên quan đến phiên tòa hình sự sơ thẩm; Tại Khoa luật- Đại
học Quốc gia Hà Nội có Luận văn thạc sỹ "Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm" của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang năm 2008, "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay" của tác giải
Nguyễn Hữu Tuấn năm 2009, "Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt
Nam- Những lý luận và thực tiễn" của tác giả Ngô Huyền Nhung năm 2012… Các
nghiên cứu này thường đề cập một nội dung về thủ tục phiên tòa như của tác giả
Nguyễn Quỳnh Trang và của tác giả Nguyễn Hữu Tuấn, hay toàn bộ giai đoạn xét xử
sơ thẩm như của tác giả Nguyễn Hồng Nhung… với thực trạng trong toàn quốc. Tuy
nhiên, từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu
lực, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu lý luận về phiên tòa hình sự sơ
thẩm gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản được áp
dụng, thủ tục tại phiên tòa cũng như thủ tục ban hành bản án, quyết định tại phiên tòa…
và trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Nam Định.
3
Ngoài ra các công trình nghiên cứu như đã đề cập đều được thực hiện trước
khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 có
hiệu lực khi các quy định pháp luật tố tụng hình sự cần có nhiều thay đổi.
2. Mục đích và nhiệm vụ và nghiên cứu của luận văn
2.1. Mục đích của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục phiên
tòa hình sự gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản
được áp dụng, trình tự, thủ tục tại phiên tòa, thủ tục ban hành bản án, quyết định tại
phiên tòa… trong tình hình mới.
- Đánh giá một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về thực trạng áp
dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự trong phiên tòa hình sự, sự tham gia
của các chủ thể tố tụng… tìm ra những nguyên nhân của những vướng mắc tồn tại.
- Đưa ra những kiến nghị giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm hoàn thiện
các quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm phục vụ nhiệm vụ cải cách tư
pháp ở nước ta trong tình hình mới.
2.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được những mục đích trên, cần phải giải quyết những nhiệm vụ
chính sau đây:
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quy định về phiên tòa hình
sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu khái quát sự hình thành và phát triển của quy định về phiên tòa
hình sự sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phiên tòa hình sự sơ thẩm để tìm ra một số
tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.
- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
về phiên tòa hình sự sơ thẩm, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
4
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận
văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như sau:
Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Phương pháp so sánh, để đối chiếu, so sánh với quy định của BLTTHS một số
nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm khi đưa ra đề xuất, kiến nghị.
Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm đưa
ra những nhận định và kết luận chung.
Phương pháp thống kê để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử làm cơ sở
cho việc đưa ra nhận xét, kết luận và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của
phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự; phiên tòa hình sự sơ thẩm ở mô
hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng; quy định pháp luật về phiên
tòa hình sự sơ thẩm; thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. Đánh
giá thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên phạm vi địa bàn tỉnh Nam Định
trong những năm gần đây để từ đó hoàn thiện BLTTHS nước ta về phiên tòa hình
sự sơ thẩm cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
của BLTTHS nước ta về phiên tòa hình sự sơ thẩm.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên
cứu về đề tài này và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định trong giai đoạn 05
năm (2011- 2015); Việc nghiên cứu đề tài có thể đạt được những kết quả mới như:
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm, gắn vị trí,
vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa với mô hình tố tụng, hoạt động tố tụng tại
phiên tòa.
5
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS, nghiên cứu việc thực thi
pháp luật tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn chỉ ra
những điểm bất cập của pháp luật, những vướng mắc trong quá trình áp dụng.
- Luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về
vấn phiên tòa hình sự sơ thẩm; một số giải đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013.
- Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất định
đối với việc nâng cao chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm. Thông qua kết quả
nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình
vào việc phát triển lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm; tránh xét xử oan, sai và
tránh bỏ lọt người phạm tội; giúp cho việc xét xử của Tòa án vụ án khách quan,
hiệu quả, khoa học bảo vệ quyền con người.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật tố tụng hình sự
nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Tòa án.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự.
Chương 2. Quy định pháp luật và thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3. Hoàn thiện quy định pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm
Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng phải
tuân thủ nhiều nguyên tắc cơ bản, trong đó nguyên tắc hai cấp xét xử được qui
định trong Luật TTHS các nước. Nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận trong
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảm”. Nội dung của nguyên tắc này có xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm,
trong đó xét xử sơ thẩm được coi là trọng tâm và có tính chất bắt buộc của quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
Để đảm bảo dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con người là một trong
những đặc điểm của nhà nước pháp quyền. Quá trình giải quyết vụ án phải trải qua
các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Khi một hành vi vi phạm pháp luật có
dấu hiệu tội phạm bị phát hiện sẽ diễn ra hoạt động khởi tố vụ án và điều tra để xác
định người thực hiện hành vi này, nếu có thực hiện thì phạm vào tội gì, thuộc điều
khoản nào của luật hình sự. Khi có kết quả điều tra, cơ quan công tố truy tố người bị
buộc tội bằng bản cáo trạng ra trước tòa để xét xử, Tòa án mở phiên tòa để phán
quyết đối với người bị buộc tội. Như vậy xét xử vụ án hình sự là giai đoạn cuối
cùng của hoạt động tố tụng hình sự, về nguyên tắc được kết thúc bởi phiên tòa.
Xét xử là một trong những chức năng của Nhà nước, đó là việc thực hiện
quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước để ra phán quyết, nhằm giải quyết xung đột,
trừng trị tội phạm qua đó bảo vệ, khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền lợi của
Nhà nước. Hoạt động xét xử hình sự xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ cùng với
sự xuất hiện của “tội phạm”- hành vi nguy hiểm được luật hình sự bảo vệ. Tuy
nhiên trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì không có tổ chức hệ thống Tòa
7
án có chức năng xét xử như ngày nay. Các Tòa án riêng biệt với chức năng xét xử
được thành lập ở mọi quốc gia.
Khái niệm xét xử, theo Từ điển luật học, “xét xử” là hành động xem xét,
đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức
độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc [52].
Theo GS.TSKH Lê Cảm thì:
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm
và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa
án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ
án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án,
đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên
(buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục
phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa
có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính
hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp
luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết
định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa
án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một
cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết
phục. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được
hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo
bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản
án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án [10].
Theo Từ điển Tiếng việt, sơ thẩm được hiểu là: “Xét xử một vụ án với tư
cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất”(53). Nghiên cứu pháp luật về phiên tòa ở
các quốc gia thấy để việc xét xử đảm bảo thận trọng, chính xác, khách quan, đúng
8
pháp luật nên đều thực hiện chế độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm và sơ
thẩm là cấp xét xử thấp nhất cũng là cấp xét xử đầu tiên. Xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là bước đầu tiên, chỉ khi xét xử sơ thẩm kết thúc có bản án quyết định được ban
hành và mới có căn cứ kháng cáo, kháng nghị để xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc
thẩm chỉ là quá trình xem xét bản án, quyết định sơ thẩm đã được Tòa án cấp sơ
thẩm ban hành nhưng chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
đưa ra khái niệm:
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự
trong đó, Tòa án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu
tiên đưa vụ án hình sự ra xem xét công khai trước phiên tòa nhằm xác
định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm
tội để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà
Viện kiểm sát đã truy tố [14].
Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự-TAND Tối cao thì:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn thể hiện tập trung và
quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tại phiên toà, sau
khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án
một cách công khai, Toà án sẽ ra phán quyết bị cáo có tội hoặc không có
tội, phạm tội gì và áp dụng điều khoản nào của Bộ luật hình sự để tuyên
phạt bị cáo [28, tr.7].
Những nội dung đã nêu cho thấy xét xử sơ thẩm hình sự là một phần chủ yếu
của giai đoạn xét xử- giai đoạn cuối trong tố tụng hình sự, song có vị trí trung tâm
mà thể hiện rõ nét nhất là ở phiên tòa có tính chất công khai để Tòa án nhân danh
Nhà nước ra phán quyết giải quyết vụ án hình sự.
Khái niệm xét xử đi liền với khái niệm “phiên tòa”, bởi hoạt động xét xử chủ
yếu là hoạt động tại phiên tòa, phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án” [53].
Dưới góc độ pháp lý, Từ điển luật học [52] phiên tòa được hiểu “là hình thức hoạt
động xét xử của Tòa án”.
Theo từ điển Pháp- Việt, phiên tòa là “phiên họp của Tòa án xét xử các tội
9
phạm. Thành phần có chủ tọa phiên tòa là các Thẩm phán chuyên nghiệp, các
HTND. Phiên tòa xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự. Trong trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội thì Tòa án xét xử
kín, nhưng khi tuyên án phải công khai”
Từ điển Tiếng Anh thì từ “Trial” có nghĩa là phiên tòa, được giải nghĩa là sự
xét xử một vụ... hình sự trước Tòa án có thẩm quyền, là phiên xử tại Tòa án có sự
tham gia của Thẩm phán hoặc Bồi thẩm đoàn để quyết định về vụ việc.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: phiên tòa là phiên họp theo trình tự
nhất định do cơ quan thực hiện quyền tư pháp là Tòa án tổ chức, trong đó người chủ
trì là Thẩm phán, có sự tham gia của HĐXX hoặc Bồi thẩm đoàn để xét xử vụ án. Tại
phiên toà diễn ra việc xem xét, thẩm tra chứng cứ một cách công khai mà đối tượng
chính là cáo trạng truy tố đối với người bị buộc tội do cơ quan Công tố đưa ra.
Phiên toà sơ thẩm là khâu cuối cùng của hoạt động xét xử sơ thẩm, sự kết
thúc bằng việc Tòa án ra bản án kết tội hoặc tuyên bố bị cáo vô tội. Dưới góc độ tố
tụng hình sự, xét xử sơ thẩm là hoạt động trung tâm trong đó phiên tòa là hoạt động
chủ yếu của hoạt động này.
Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều
tra chính thức thông qua tranh tụng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa
án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công
khai tại phiên tòa. Việc chứng minh bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ được các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau thực hiện một cách
bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh tụng.
Tại phiên tòa phiên tòa hình sự sơ thẩm có sự xuất hiện cả 3 chức năng của
tố tụng hình sự là: buộc tội, bào chữa và xét xử. Phiên tòa sơ thẩm xuất hiện đầy đủ
các bên tham gia tố tụng nhất, bên buộc tội là Kiểm sát viên đưa ra quan điểm truy
tố bằng bản cáo trạng, bị cáo cũng như người bào chữa cho bị cáo là bên gỡ tội.
Bản chất của phiên tòa hình sự cũng như của tố tụng hình sự là việc xử lý tội
phạm. Do đó, các bên tham gia phiên tòa bên buộc tội (cơ qua Công tố của Nhà
nước) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) không thể thỏa thuận với nhau về tội
10
danh và hình phạt để chấm dứt quá trình tố tụng. Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố
tụng và người bị buộc tội thường là quan hệ bất bình đẳng. Trong dân sự, nguyên
đơn có quyền thay đổi bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện;
HĐXX chỉ giải quyết trên yêu cầu được đưa ra tại phiên tòa và phụ thuộc vào quyền
tự định đoạt của các đương sự. Các đương sự tại phiên tòa dân sự tuyệt đối bình
đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án để chấm dứt quá trình tố tụng.
Phiên tòa sơ thẩm hình sự là nơi công khai thực hiện chức năng của Tòa án,
phán quyết về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, sau khi Tòa án nghe (hoặc thẩm
tra) các tài liệu được đưa ra để buộc tội cũng như để gỡ tội cho bị cáo, đồng thời
làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe ý kiến trình bày của các đương sự,
những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, vật chứng. Chỉ sau khi
nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ
tại phiên tòa, mới có việc nghị án để ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án,
xác định một người bị buộc tội có tội hay không có tội? Tội đó là tội gì? Thuộc Khoản,
Điều luật nào của Luật hình sự cũng như giải quyết các vấn đề liên quan trong vụ án một
cách toàn diện.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm là phiên tòa đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình
sự, nó khác với phiên tòa phúc thẩm hoặc thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự việc xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xét xử ở cấp phúc
thẩm hay việc xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật (thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm). Nhằm đảm bảo tính thận trọng, chính xác, khách quan của việc xét xử sơ
thẩm, bản án sơ thẩm hình sự có thể xét xử theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo
của các đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. Xét xử phúc thẩm diễn ra khi
có kháng cáo, kháng nghị về bản án đã tuyên ở phiên tòa sơ thẩm, song thường không
xét xử toàn bộ mà chỉ xét xử nội dung bị kháng cáo, kháng nghị. Khi việc giải quyết
ở phiên tòa sơ thẩm hoàn toàn đúng đắn thì HĐXX phúc thẩm phải giữ nguyên bản
bản án sơ thẩm; nếu xét xử sơ thẩm có sai sót, vi phạm thì tùy từng trường hợp cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm; đặc biệt có thể hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm
11
lại từ đầu. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật
trong việc giải quyết tại cấp sơ thẩm, cũng như phúc thẩm, có thể giữ nguyên bản án
đã tuyên hoặc hủy bản án xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, phiên tòa hình sự sơ thẩm là một khâu trong tố tụng hình sự, là
hoạt động do Toà án tiến hành công khai ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh
giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án,
quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự.
1.2. Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm
1.2.1. Về phương diện pháp lý
Như đã đề cập, phiên tòa hình sự trong đó có phiên tòa sơ thẩm là hoạt động
trung tâm của tố tụng hình sự.
Quá trình giải quyết vụ án hình sự như đã nêu là việc các cơ quan có thẩm
quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong đó
xét xử nói chung, phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng là hoạt động mang tính chất
quyết định.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong
toàn bộ quá trình tố tụng trước đó được bộc lộ và được xem xét, đánh giá toàn diện,
trực tiếp công khai. Vì vậy, hoạt động tại phiên tòa chính là sự kiểm tra, đánh giá
chất lượng của các hoạt động trước đó ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố cũng
như việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm để có phán quyết chính xác, công minh đúng đắn.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi thực hiện quyền xét xử của Tòa án rõ nét
nhất trong các giai đoạn xét xử. Trong các giai đoạn tố tụng trước khi có phiên tòa,
không có cơ quan, cơ quan có thẩm quyền được quyền đưa ra phán quyết, giải quyết
vụ án. Khi đó quyền tư pháp, một quyền lực quan trọng trong bộ máy Nhà nước của
Tòa án mới được thể hiện. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 xác định:
“Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quyền tư pháp.... Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
12
Phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn
pháp luật. Qua các đề xuất của đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia
tố tụng về áp dụng pháp luật, HĐXX có trách nhiệm theo dõi, điều khiển việc tranh
tụng giữa các bên. Từ kết quả tranh tụng có thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật
chính xác nhất để giải quyết đúng đắn vụ án [41].
1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội
Phiên tòa sơ thẩm đưa ra phán quyết về việc giải quyết toàn bộ vụ án hình sự
đã góp phần đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Phiên tòa luôn đảm
bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được quy định và được
đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên
tòa công khai không thể có trường hợp vi phạm pháp luật như bức cung, ép cung,
dùng nhục hình v.v… Vì vậy, phiên tòa được tổ chức tốt là điều kiện để đưa ra phán
quyết bảo đảm quyền con người.
Xét xử trong đó có xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là hoạt động tố
tụng trung tâm và quan trọng để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của
công dân. Điều này, có ý nghĩa trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng
và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu
quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các
hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng
và chống tội phạm trong toàn xã hội; Đặc biệt đây là cơ sở để nâng cao niềm tin
công lý cho người dân.
Phiên tòa là sự thể hiện đầy đủ chính sách hình sự của mỗi quốc gia, cũng
như chính sách hình sự của quốc gia đó, thể hiện bản chất của chế độ và quyết định
giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân. Trong nhiều trường hợp, khi tham gia quan hệ xã hội, công dân do hiểu
biết pháp luật do đó hạn chế hoặc tư tưởng coi thường pháp luật dẫn đến phạm tội.
Phiên tòa sơ thẩm hình sự có nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, ra bản án, quyết định
để xác định một hành vi là nguy hiểm cho xã hội được xác định là tội phạm, buộc
người phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp lý với hành vi đó. Vì vậy, trên cơ sở
13
hành vi bị kết tội trong bản án, người bị kết tội nhận thức được tội, lỗi của họ cũng
như các công dân tham dự phiên tòa nhận thức được điều này; Qua đó, phiên tòa sơ
thẩm hình sự góp phần không nhỏ tạo nên ý thức pháp luật trong quản lý xã hội,
quản lý Nhà nước. Hiệu quả của phiên tòa chính là nơi thể hiện hiệu quả chủ yếu
của hoạt động tố tụng hình sự góp phần giáo dục phòng ngừa chung, giáo dục công
dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật cũng như các quy tắc ứng xử trong
xã hội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật.
Kết quả của phiên tòa hình sự nhất là phiên tòa hình sự sơ thẩm có vai trò
quan trọng bởi sản phẩm của phiên tòa là bản án, ảnh hưởng đến quyền con người
đặc biệt có thể tước đi tính mạng một người; cũng như lợi ích hợp pháp của bị cáo,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan. Trong trường hợp đặc biệt, nó còn quyết định đến quyền được sống của con
người. Nếu xét xử sơ thẩm đúng đắn thì phiên tòa phúc thẩm hay thủ tục giám đốc
thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm phải giữ nguyên bản án sơ thẩm. Như vậy, nó góp
phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo trật tự và công
bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân và hoạt động xét xử của Tòa án, bảo
đảm của cơ quan Tư pháp nói chung.
Như đã nêu, xét xử xét xử phúc thẩm dựa trên cơ sở xét xử sơ thẩm, nếu bản
án sơ thẩm công minh, đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao “tâm phục, khẩu
phục” sẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc kháng cáo, kháng nghị, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc chấp hành án đồng thời giảm chi phí cho người tham gia tố tụng
cũng như ngân sách Nhà nước.
Phiên tòa hình sự diễn ra việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án của
những người tiến hành tố tụng là chủ thể được Nhà nước giao quyền để giải quyết
vụ án. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của quốc gia nào thì thành phần tiến hành tố
tụng cũng có Thẩm phán và Công tố viên, những chức danh tố tụng quan trọng và
chủ yếu trong hoạt động xét xử hình sự. Vì vậy, thông qua thực tiễn thi hành phiên
tòa hình sự sơ thẩm sẽ đánh giá được trình độ chuyên môn của những người tiến
hành tố tụng này một cách rõ nét nhất. Ngoài ra nó cũng đánh giá trình độ của luật
sư bào chữa cũng như trình độ, ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng. Cũng
14
qua thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm, người tiến hành tố tụng, luật sư có thể tích
lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng xét xử bởi: Tại phiên tòa đòi hỏi người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ cao độ, xử lý các tình
huống linh hoạt nhanh chóng.
1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô
hình tố tụng tụng tranh tụng
Trong việc giải quyết vụ án, ở mỗi quốc gia thường có cách thức tổ chức
hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án theo các
thức đặc trưng của mình, cách thức này được gọi là “mô hình tố tụng”. Mỗi mô hình
tố tụng có đặc trưng riêng. Từ việc lựa chọn mô hình tố tụng mà trình tự, thủ tục
điều tra, truy tố, xét xử, địa vị tố tụng của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa và Thẩm
phán tại phiên tòa hình sự cũng khác nhau.
Trên thể giới có hai hệ thống pháp luật chủ yếu: hệ thống pháp luật án lệ và hệ
thống pháp luật dân sự (luật thực định). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật này là
hai mô hình tố tụng là mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn.
1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng
Tố tụng tranh tụng là mô hình được sử dụng trong các nước theo hệ thống
luật án lệ như Anh, Mỹ... Do theo hệ thống án lệ nên Tòa án có quyền xác định một
hành vi có phải là tội phạm hay không căn cứ vào bản án trước đó, không nhất thiết
phải căn cứ vào quy phạm pháp luật. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nói chung và tại phiên tòa
nói riêng bên buộc tội (công tố viên, người bị hại) và bên bị buộc tội (bị cáo, luật sư
bào chữa)có quyền và trách nhiệm như nhau trong việc thu thập, đánh giá, kiểm tra
chứng cứ. Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên bị buộc tội đều có quyền bình đẳng
trong trong việc kiểm tra chứng cứ và tranh luận.
Thứ hai, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Các hoạt động
khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là những hoạt động mang
tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật TTHS [18, tr.256]. Quá
15
trình “tranh tụng” thực sự được tiến hành thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa,
qua đó bên buộc buộc tội và luật sư bào chữa đưa ra các chứng cứ trước chủ thể có
chức năng xét xử là Tòa án. Tòa án gồm Bồi thẩm đoàn (đại diện nhân dân) được
tập hợp từ những người không bắt buộc phải có chuyên môn pháp luật và Thẩm
phán chuyên nghiệp (của Tòa án). Bồi thẩm đoàn chỉ có nhiệm vụ xác định bị cáo
có tội hay không có tội, còn việc áp dụng pháp luật và hình phạt đối với bị cáo
thuộc thẩm quyền của Thẩm phán.
Thứ ba, phiên tòa trong mô hình tố tụng này vẫn diễn biến theo sự điều khiển
của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa song hoạt động của Thẩm phán là mờ nhạt. Thẩm
phán cũng như Bồi thẩm đoàn, không tham gia vào quá trình thu thập chứng cứ và
không nghiên cứu hồ sơ vụ án trước; các tài liệu chứng cứ đều được bí mật trước
khi phiên tòa được mở.
Thứ tư, chứng cứ do các bên thu thập được đều được đưa ra để thẩm tra trước
tòa, đều do các bên trình bày bằng miệng, trong đó lời khai trực tiếp của người làm
chứng là một nhân tố quan trọng để chứng minh cho luận điểm của mỗi bên. Thẩm
phán chủ tọa phiên tòa có thể căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều
tra để quyết định, vì vậy tại phiên tòa sự tham gia của người làm chứng thường là
đông, có phiên tòa triệu tập tới 600 người [42]. Thông qua xét hỏi và tranh luận bình
đẳng giữa công tố viên và luật sư mà Tòa án xác định về sự thật khách quan và định
hình phạt. Việc kết tội căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và hình thành thông
qua thực tiễn xét xử qua các án lệ.
Thứ năm, ở nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố viên không thể tìm ra đủ
chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật
pháp có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ
quan công tố thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị
cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được
giảm hình phạt khi tòa án lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu,
mức giảm là một phần ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội
được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Tòa
16
án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án
và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố.
Như vậy, mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện sự công bằng của quy trình tố
tụng, đó thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân tại
phiên tòa cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác. Quá trình giải quyết vụ án
không chỉ dừng lại ở việc chứng minh, xử lý tội phạm mà còn thực hiện chức năng
sáng kiến pháp luật thể hiện vai trò chủ động của Thẩm phán và giám sát hoạt động
lập pháp của cơ quan tư pháp. Những đặc điểm này của mô hình tố tụng hình sự
tranh tụng đáp ứng và phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật Civil law.
Tuy nhiên, phiên tòa tại mô hình tranh tụng có nhược điểm đó là thành viên
đoàn bồi thẩm chỉ là những người không chuyên nghiệp, nhưng lại được quyền kết
luận về hành vi của bị cáo theo quan điểm chủ quan của mình. Chứng cứ các bên
đưa ra tại phiên tòa có thể không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án bởi
trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, bên bào chữa là gỡ tội, các bên thu thập
chứng cứ thì lẽ dĩ nhiên chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho mình để đưa ra phiên
tòa và hoàn thành trách nhiệm của mình thôi. Bên cạnh đó, việc quá đề cao sự đối
tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng không phản ánh được hết
tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính
điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn đến khả
năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội.
Để tranh tụng đạt hiệu quả thì luật sư bào chữa phải có chuyên môn cao,
đồng nghĩa với việc chi phí thuê luật sư cao. Do vậy, nếu không có tiền thuê luật sư
thì cơ hội chiến thắng của người bị buộc tội ít đi, điều này là thiệt thòi cho người
nghèo. Hơn nữa, phiên tòa trong mô hình tố tụng tranh tụng, các bên có thể bổ sung
chứng cứ. Vì người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên đối
tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên tòa để thuyết phục Bồi
thẩm nghe theo lập luận của mình. Đồng thời, việc quy định một trình tự thủ tục
chặt chẽ có thể khiến cho nhiều chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác
định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị loại bỏ vì vi phạm thủ tục, dẫn đến khó
17
khăn cho việc đấu tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức
với cách thức hoạt động tinh vi, phức tạp. Ngoài ra, đối với những vụ án nghiêm
trọng, phức tạp thì thời gian phiên tòa diễn ra rất dài do việc tranh luận về chứng cứ
và quan điểm áp dụng pháp luật giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Có những phiên
tòa kéo dài vài ba năm chưa kết thúc, thậm chí hàng chục năm.... Do đó, không đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời... [44, tr.123].
1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn
Mô hình tố tụng thẩm vấn hay còn gọi là tố tụng xét hỏi được sử dụng ở các
nước châu Âu lục địa, các nước Mỹ La tinh và một số nước ở Châu Á, châu Phi.
Đặc điểm của phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn như sau:
Thứ nhất, thẩm vấn là phương pháp được áp dụng trong tất cả các giai đoạn
điều tra tuy tố xét xử cũng như tại phiên tòa.
Thứ hai, việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả của cơ
quan điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà. Việc
xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả thẩm vấn là phù hợp với sự
tuân thủ pháp luật, đảm bảo pháp chế của hệ thống pháp luật Common Law.
Thứ ba, phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là sự cạnh tranh
quyết liệt giữa công tố viên và người bào chữa mà là sự tiếp lối của quá trình
điều tra. Thẩm phán xét hỏi, thẩm tra, xác minh các chứng cứ đã được cơ quan
điều tra thu thập.
Thứ tư, trong phiên tòa theo mô hình này, việc xét hỏi thuộc trách nhiệm
chính của Thẩm phán. Tòa án có trách nhiệm chứng minh và xử lý tội phạm chứ
không có quyền và trách nhiệm xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm
hay không. Do tội phạm và hình phạt quy định trong luật, hành vi của người nào đó
chỉ được coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo điều khoản
nào trong luật hình sự và xử lý trong phạm vi, giới hạn mà pháp luật đã qui định.
Vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng trong việc tìm kiếm sự thật của vụ
án. Mặc dù hiện nay ở nhiều quốc gia Châu Âu chức danh Thẩm phán điều tra (hạt
nhân của tố tụng thẩm vấn) đã bị bãi bỏ (Đức năm 1975, Italia năm 1987 hay Bồ
Đào Nha trở thành thủ tục lựa chọn năm 1988) và nhiệm vụ điều tra trước khi mở
18
phiên tòa giao hoàn toàn cho cơ quan điều tra và cơ quan công tố nhưng vai trò của
Thẩm phán vẫn không thay đổi nhiều, Thẩm phán là người chủ động, tích cực tìm
kiếm sự thật thông qua hoạt động thẩm vấn người tham gia tố tụng, thẩm tra các
chứng cứ trong hồ sơ vụ án [51]. Như vậy, kết quả của quá trình điều tra trước khi
mở phiên tòa có ý nghĩa to lớn đối với phán quyết của Thẩm phán.
Thứ năm, việc xem xét và đánh giá tính có căn cứ và tính hợp pháp của
chứng cứ đã được thu thập trước đó tại phiên tòa được coi là đặc trưng của tố tụng
thẩm vấn. Việc đặt nặng hoạt động điều tra ở giai đoạn tiền tố tụng trước khi mở
phiên tòa đòi hỏi các bên gồm cảnh sát điều tra, đại diện Viện công tố và đặc biệt là
Thẩm phán phải tập trung vào việc chứng minh tội phạm, do đó các chức năng tố
tụng không được phân định một cách rõ ràng, cụ thể mà chủ yếu tập trung vào Tòa
án. Tòa án vừa chi phối, giám sát hoạt động điều tra trước phiên tòa, vừa thực hiện
chức năng xét xử. Phiên tòa với bản chất của cuộc điều tra lại, điều tra tiếp được
tiến hành bởi Thẩm phán nên sự tham gia của Công tố viên và bên bào chữa trở nên
hình thức, dẫn đến quyền bào chữa của người bị cáo bị hạn chế. So với công tố
viên, vai trò của người bào chữa trong tố tụng thẩm vấn không được coi trọng. Công
tố viên thường xuất hiện trong vụ kiện sớm hơn so với luật sư bào chữa.
Trong mô hình này, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc tìm kiếm sự
thật, nên trong chừng mực nhất định, quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội luôn
được bảo vệ tốt hơn khi quyền đó xâm phạm bởi cá nhân người phạm tội. Với cách
thức thẩm tra truyền thống, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm.
Thứ sáu, do không đặt nặng về hình thức nên thủ tục phiên tòa ở mô hình
thẩm vấn đơn giản, nhanh chóng. Việc xét xử không nhất thiết phải có mặt đầy đủ
những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa
và gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận.
Thứ bảy, với ưu thế nổi trội hơn trong suốt quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán nên giai đoạn xét xử tại phiên tòa là quá trình xác minh lại những gì đã
được chứng minh tại giai đoạn trước đó. Điều này không thể hiện sự vô tư, khách
quan, vì chứng cứ do Thẩm phán tập hợp và bảo vệ nên mang tính áp đặt, triệt tiêu
19
việc tranh luận tại phiên tòa, quyền con người trong tố tụng thẩm vấn bị buộc tội bị
ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù mục đích của tố tụng thẩm vấn là bảo vệ người bị
buộc tội chống lại những cáo buộc thiếu cơ sở, xong những tiềm tàng do sự lạm
dụng kéo dài của thủ tục tố tụng tiền xét xử là hiển nhiên. Trên thực tế, bị cáo có thể
phải trải qua một thời gian bị giam giữ, thiếu thốn những điều kiện cần thiết cho
việc bào chữa. Do đó, so với tố tụng tranh tụng, quyền bào chữa của người bị buộc
tội ở tố tụng thẩm vấn thực chất chỉ là quyền mang tính hình thức, vai trò của người
bào chữa bị coi nhẹ và quyền của người bị buộc tội không được bảo đảm. Điều này
làm mất ý nghĩa của tố tụng hình sự, tạo tiền đề cho sự lạm dụng quyền lực nhà
nước, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân.
Tóm lại, khi nghiên cứu về mô hình tố tụng hình sự trên thế giới với hai mô
hình tố tụng đặc trưng là mô hình tố tụng xét hỏi và mô hình tố tụng tranh tụng
thấy mỗi mô hình tố tụng có những ưu, nhược điểm riêng. Chính vì mỗi mô hình
tố tụng có những ưu, nhược điểm này và căn cứ vào điều kiện, mỗi quốc gia sẽ có
sự lựa chọn riêng cho mình một mô hình riêng, có thể là sự pha trộn của hai mô
hình tố tụng này và phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng được quy định dựa trên mô
hình tố tụng đó. Mọi mô hình tố tụng hình sự đều nhằm mục tiêu không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội và điều cốt lõi của tố tụng hình sự phải bảo
đảm quyền của các bên trong quá trình tố tụng...Vấn đề quan trọng hàng đầu là mô
hình tố tụng hình sự cần xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để có sự phối hợp, kiểm tra,
giám sát, chế ước lẫn nhau, bảo đảm tính công bằng, khách quan, chính xác khi
phát hiện và xử lý tội phạm [44, tr.124]. Mặc dù tư pháp hình sự ở các nước được
tổ chức rất khác nhau, thì phiên toà hình sự đều là cách thức tổ chức hoạt động xét xử
của Toà án, là thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng của các bên và Toà án nhằm
xác định sự thật về vụ án. Mục đích chính của tố tụng thẩm vấn là tìm ra sự thật và
đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm các giai đoạn: điều tra, truy tố và xét
xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố tụng tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự
thật chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều
20
tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước Toà. Mỗi bên sẽ trình
Toà "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định
xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh
thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao khía cạnh pháp [9, tr. 126]
Có thể thấy, Việt Nam hiện đang đi theo mô hình pha trộn thiên về thẩm
vấn. Nhiệm vụ xác định sự thật khách quan, trách nhiệm chứng minh tội phạm
được giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng đảm nhiệm. Người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo và người bào chữa của họ còn khá thụ động và trong nhiều trường hợp lệ
thuộc vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều tra, thẩm vấn là phương pháp chủ
yếu được áp dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng, thậm chí tại phiên tòa.
Tổng kết thực tiễn thi hành mô hình tố tụng hình sự ở nước ta thời gian qua
cho thấy, mô hình tố tụng hình sự hiện hành đã phát huy tác dụng tích cực trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và
từng bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Tuy nhiên, quá trình vận hành mô hình này đã bộc lộ một số
hạn chế, bất cập. Việc tổ chức các hoạt động tố tụng hình sự đang có sự chồng lấn,
mâu thuẫn giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Cùng một chủ thể
nhưng lại được giao nhiều chức năng tố tụng khác nhau. Tòa án có vai trò quá chủ
động, tích cực trong phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và đang được giao thực hiện
một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử (khởi tố vụ án, trả hồ sơ
cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung…). Vai trò của Viện kiểm sát tại phiên tòa
sơ thẩm còn khá mờ nhạt, không tạo cơ sở phát huy tính chủ động, tích cực và
trách nhiệm của cơ quan buộc tội. Đặc biệt, vai trò của người bào chữa còn yếu ớt;
chưa có những quy định để bảo vệ quyền của người bào chữa trong việc thực hiện
quyền tố tụng. Việc thu thập chứng cứ, yếu tố quan trọng nhất liên quan đến việc
định tội hoàn toàn do cơ quan nhà nước với những chức năng tố tụng khác nhau
hình thành nên hồ sơ vụ án có xu hướng thiên về chứng cứ buộc tội mà thiếu
chứng cứ gỡ tội, dẫn đến quyền suy đoán vô tội của bị cáo khó được tôn trọng một
cách thực sự. (46)
21
1.4. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm
Như đã nêu, phiên tòa hình sự sơ thẩm là khâu trong quá trình giải quyết vụ
án, thủ tục tố tụng tại phiên tòa được ghi nhận và điều chỉnh trong luật tố tụng hình
sự của mỗi nước. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống lập
pháp của mỗi quốc gia, theo mô hình tố tụng mà quốc gia lựa chọn mà thủ tục tố
tụng tại phiên tòa được quy định có những đặc điểm khác nhau. Tuy vậy, thủ tục
phiên tòa hình sự sơ thẩm có các bước sau: Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần thủ
tục xét hỏi, phần thủ tục tranh luận, phần nghị án và tuyên án.
1.4.1. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
Bắt đầu phiên tòa có nghĩa là khởi đầu phiên tòa bắt đầu bằng việc khai mạc
phiên tòa của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Trong phần này Chủ tọa phiên tòa giải
quyết tất cả các vấn đề mang tính thủ tục. Việc tổ chức và tiến hành xét xử phục
thuộc nhiều vào việc tiến hành đúng thủ tục bắt đầu phiên tòa hay không, nếu thực
hiện đúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo. Sau
đó là phần kiểm tra sự có mặt và lý lịch của người tham gia tố tụng, giải thích quyền
nghĩa vụ của Chủ tọa phiên tòa.
Như vậy bắt đầu phiên tòa là hoạt động nhằm thực hiện thủ tục bảo đảm cho
việc tiến hành xét xử nội dung vụ án được chính xác, khách quan và thuận lợi.
1.4.2. Phần thủ tục xét hỏi và tranh luận
1.4.2.1. Phần thủ tục xét hỏi
Xét hỏi được hiểu là xem xét, kiểm tra một vấn đề nào đó thông qua các câu
hỏi và câu trả lời. Trong mỗi phiên tòa thì phần xét hỏi là phần thủ tục chính quan
trọng bởi nó bộc lộ nội dung chính của vụ án, là hoạt động điều tra công khai thông
qua đó quyết định việc chứng minh bị cáo có thực hiện hành vi phạm tội hay không,
qua đó Tòa án mới có cơ sở để định tội danh hay xác định bị cáo không phạm tội
cũng như giải quyết các vấn đề khác trong vụ án. Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ
sơ được thẩm tra một cách toàn diện công khai tại phiên tòa qua thủ tục xét hỏi.
Việc xét hỏi ở các mô hình tố tụng khác nhau về cơ bản khác nhau ở vai trò của chủ
thể tham gia xét hỏi.
22
Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, phần thủ tục xét hỏi không được phân
biệt rõ với phần tranh luận, việc tiến hành các thủ tục tố tụng là trách nhiệm của bên
buộc tội và bên gỡ tội. Tuy nhiên, trong quá trình xét hỏi, Thẩm phán có quyền yêu
cầu người làm chứng trả lời các câu hỏi của Luật sư, cũng có thể hỏi những câu hỏi
để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án.
Tại phiên tòa theo mô hình tố tụng xét hỏi, do Thẩm phán đã nghiên cứu hồ
sơ sau khi bản cáo trạng được Kiểm sát viên thực hành quyền công tố công bố cáo
trạng, Thẩm phán có trách nhiệm chứng minh tội phạm nên có vai trò hỏi chính, giữ
vai trò chủ động, tích cực là người điều khiển phiên tòa nên Thẩm phán là người hỏi
chính. Tuy nhiên hiện nay, nhiều nước trên thế giới có mô hình xét hỏi đều có quy
định người giữ quyền công tố tại phiên tòa phải có trách nhiệm hỏi chính. Điều này
phù hợp và thuận lợi vì Kiểm sát viên thường đã tham gia vụ án ngay từ khi khởi tố
nên có sự am hiểu nội dung vụ án sâu sắc, hơn nữa vì họ có trách nhiệm bảo vệ cáo
trạng mà họ đã đưa ra. Đó là sự pha trộn của các mô hình tố tụng, sử dụng yếu tố
hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng vào mô hình tố tụng thẩm vấn.
Nhìn chung, xét hỏi có thể được xem là nền tảng của việc tranh tụng trong
mô hình tố tụng tranh tụng cũng như mô hình tố tụng pha trộn như đã nêu. Bởi vì,
thông qua xét hỏi mới có cơ sở để xác định đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa quan
trọng của vụ án. Từ đó, các chủ thể của bên buộc tội và bên gỡ tội có cơ sở để bảo
vệ quan điểm lập luận của mình. Việc xét hỏi đúng trọng tâm, cụ thể và chi tiết bao
nhiêu càng củng cố cho lập luận của các chủ thể vững chắc bấy nhiêu. Quan điểm
của các chủ thể tranh luận chỉ có sức thuyết phục khi nó được đặt nền móng bởi các
chứng cứ đã được đưa ra công khai qua xét hỏi tại phiên tòa và sẽ thiếu tính thuyết
phục nếu các chứng cứ đưa ra dựa trên "án tại hồ sơ” mà không được thẩm định
công khai tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập
luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận.
1.4.2.2. Phần thủ tục tranh luận
Theo Từ điển Luật học thì tranh luận tại phiên toà là “Hoạt động của những
người tham gia tố tụng (các bên) tại phiên toà, trong việc trao đổi, bàn cãi các ý kiến
23
về vụ án”. “Tranh luận trước Toà án là một phần xét xử vụ án tại phiên toà, trong đó
Công tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người
bào chữa (trường hợp không có người bào chữa thì bản thân bị cáo) phát biểu, phân
tích các chứng cứ được đưa ra xem xét, trình bày kết luận của mình về vụ án”. Như
vậy bản chất của việc tranh luận là việc đối đáp giữa các bên trong việc thực hiện
chức năng buộc tội và gỡ tội.
Tranh luận là sự thể hiện rõ nét nhất của việc bình đẳng giữa các bên trong
quá trình diễn biến phiên tòa hình sự sơ thẩm. Có thể thể xem tranh luận là giai
đoạn trung tâm của phiên tòa. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội,
trước sự chứng kiến của HĐXX, công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc
đưa ra các lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình.
Tranh luận là việc thể hiện của nguyên tắc tranh tụng, là nguyên tắc của tố
tụng hình sự và là một quá trình chứng minh để xác định sự thật của vụ án. Tranh
tụng được ghi nhận và sử dụng trong pháp luật của hầu hết các nước theo truyền
thống án lệ. Có thể thấy ở đây, tranh tụng đặt ra trong suốt quá trình giải quyết vụ
án, qua đó các thủ thể là hai bên buộc tội và gỡ tội có quyền bình đẳng thu thập
chứng cứ, đưa ra chứng cứ hoặc bác bỏ chứng cứ của bên còn lại. Vì vậy, tranh tụng
diễn ra từ khi hành vi bị buộc tội. Tại phiên tòa theo mô hình tranh tụng, tranh tụng
diễn ra từ khi bắt đầu phiên tòa chứ không riêng trong phần tranh luận song đây là
bước thể hiện rõ nét nhất sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trong
suốt quá trình tố tụng.
Việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là việc HĐXX xem xét cáo trạng,
cáo buộc của công tố viên hay chủ thể buộc tội đối với bị cáo, qua đó ra phán quyết
tội danh, về hình phạt cũng như trách nhiệm pháp lý của bị cáo. Vì vậy bên buộc tội
phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho việc buộc tội là có căn cứ và phù
hợp quy định pháp luật. Bên bị buộc tội đưa ra lý lẽ (trong mô hình tố tụng xét hỏi
thì đây không phải là nghĩa vụ bắt buộc) để chứng minh cho việc phản bác của mình
là có căn cứ. Chỉ có tranh luận thông qua việc đối đáp giữa các bên buộc tội với bên
bị buộc tội với nhau thì các quan điểm của các bên mới được thể hiện rõ nét, qua đó
24
mới có cơ sở đánh giá được các tình tiết của vụ án. Do đó thủ tục tranh luận thể hiện
rõ nét nhất nguyên tắc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Tranh luận là hoạt động cơ bản của các bên tham gia tố tụng, Tòa án chỉ giữ
vai trò “trọng tài” cầm cân công lý để xem xét quan điểm của các bên. Tuy nhiên
trong quá trình tranh luận, Tòa án điều hành cho việc tranh luận đi đúng nội dung và
trình tự, duy trì quá trình tranh luận, hướng tranh luận vào việc giải quyết các tình
tiết vụ án, căn cứ cho việc kết tội, quyết định hình phạt cũng như giải quyết các vấn
đề liên quan trong vụ án.
Các bên sử dụng quyền tranh luận như là phương tiện để phân tích, lập luận,
đưa ra các lý lẽ, căn cứ pháp lý nhằm làm sáng tỏ các tình tiết cần chứng minh của
vụ án, từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, thông
qua tranh luận các bên có điều kiện nhận thức rõ hơn quyền và nghĩa vụ của mình.
1.4.3. Phần thủ tục nghị án và tuyên án
Phiên tòa có thành phần xét xử là một Thẩm phán thì sau khi nghe tranh
luận, Thẩm phán tự ra phán quyết độc lập mà không phải nghị án. Phần thủ tục nghị
án được thực hiện khi phiên tòa được xét xử với HĐXX mà không phải là một
Thẩm phán. Nghị án là bước tiến hành tố tụng trong đó HĐXX thảo luận và thông
qua quyết định giải quyết vụ án sau khi đã nghe các bên trình bày tại phần xét hỏi
và tranh luận. Đây là hoạt động đánh giá chứng cứ tổng hợp mang tính quyết định
cuối cùng của xét xử sơ thẩm và phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Trên cơ sở nghị án với kết quả là bản án hoặc các quyết định được ban hành,
được HĐXX sẽ tuyên một cách công khai.
25
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thấy rõ đây
hoạt động trung tâm và quan trọng nhất trong tố tụng hình sự. Phiên tòa hình sự sơ
thẩm là hoạt động công khai do Tòa án tiến hành ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem
xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra
bản án, quyết định giả quyết toàn diện vụ án hình sự.
Phiên tòa hình sự sơ thẩm ở mỗi mô hình tố tụng tranh tụng hay mô hình tố
tụng thẩm vấn thường qua các bước: Bắt đầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận, nghị
án và tuyên án. Tuy nhiên phiên tòa ở mỗi mô hình có những đặc trưng khác nhau:
Đặc trưng của phiên tòa trong mô hình tố tụng tranh tụng là sự bình đẳng của bên
buộc tội và bên gỡ tội, Tòa án là trọng tài tại phiên tòa, đề cao việc tranh luận và thu
thập chứng cứ tại phiên tòa, được trình bày bằng miệng.... Phiên tòa hình sự sơ thẩm
trong tố tụng thẩm vấn bản chất là cuộc điều tra lại của Tòa án trên cơ sở tài liệu,
chứng cứ đã được thu thập trước đó, đề cao vai trò của Thẩm phán, hạn chế việc
tranh luận cũng như quyền bào chữa... Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp
luật của các quốc gia có xu hướng giảm bớt những yếu tố đặc thù của mỗi mô hình
tố tụng truyền thống. Đến nay không tồn tại mô hình tố tụng hình sự thuần túy là
thẩm vấn hay tranh tụng. Trong quá trình tồn tại, các mô hình tố tụng đã có sự
giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tiến bộ, tích cực của nhau để đáp ứng ngày càng
cao yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con người. Pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam không phải là ngoại lệ, sự pha trộn giữa hai mô hình tố
tụng tranh tụng và thẩm vấn đã tạo ra những đặc điểm riêng của phiên tòa hình sự
sơ thẩm ở nước ta.
26
Chương 2
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm
2.1.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm từ 1945 đến
năm 1988
2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945, nhân dân ta
đứng trước tình thế khó khăn về mọi mặt, vừa phải đấu tranh giữ chính quyền,
vừa phải xây dựng kinh tế từ một nên kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Trong thời gian
này, hoạt động tố tụng hình sự chủ yếu được thực hiện bởi các Sắc lệnh do Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Nhà nước ký ban hành để giải quyết tính thế cấp bách
trong chiến tranh.
Hệ thống Tòa án được thiết lập bởi Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945, Sắc lệnh
số 13 ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131 ngày
20/7/1946; Về cơ bản, quy định phiên tòa hình sự sơ thẩm ở nước ta thời kỳ này có
xu hướng theo mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn của nước Pháp, có hai loại Tòa:
“tiểu hình” và “đại hình”; Tòa “tiểu hình” xét xử “Khinh tội”, là loại tội có mức
hình phạt đến 10 năm tù, hoặc với sự giám sát, yêu cầu lao động công ích, hoặc bị
tước quyền về tài sản hoặc các đặc quyền. Phiên tòa sơ thẩm hình sự được tổ chức ở
Tòa sơ thẩm (bố trí theo địa bàn cấp huyện), cấp đệ nhị (theo địa bàn cấp tỉnh).
Thành phần phiên tòa sơ thẩm “tiểu hình” ở Tòa sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán
tham gia xét xử và được mở công khai, không có vai trò công tố buộc tội.
Tại phiên tòa sơ thẩm ở cấp đệ nhị xét xử án “tiểu hình”, HĐXX có thành
phần “Bồi thẩm nhân dân” do Hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra và tham gia phiên tòa
bằng hình thức rút thăm. Bồi thẩm không nghiên cứu trước hồ sơ và có quyền đóng
góp ý kiến cũng như đề nghị xét hỏi bị cáo. Chánh án Tòa án cấp đệ nhị là người
27
trực tiếp xét xử và quyết định về tội danh và hình phạt. Chánh án và Bồi thẩm nhân
dân phải tuyên thệ khi xét xử. Trong phiên tòa có vai trò của ông Biện lý giữ quyền
công tố như Kiểm sát viên hiện nay.
Theo Điều 28 Sắc lệnh 13 ngày 24/1/1946 thì Hội đồng xử “đại hình” tại Toà
đệ nhị cấp có: Chánh án Toà đệ nhị cấp ghế Chánh án; Hai Thẩm phán làm Phụ thẩm
chuyên môn và hai Phụ thẩm nhân dân rút thăm ở danh sách định trong điều thứ 18.
Thủ tục tố tụng phiên tòa sơ thẩm xét xử án “Đại hình” quy định tại Điều thứ 31:
Sau khi nghe các bị can, các người chứng, cáo trạng của ông Biện
lý, và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán
và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng xét xử về tất cả
các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt trường hợp tăng tội, và trường hợp
giảm tội. Nghị án song, Toà lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai
bản án [14, Điều thứ 31]. Điều thứ 32 quy định về thủ tục nghị án: Những
vấn đề bàn trong phòng nghị xử giải quyết theo đa số. Một người không
biểu quyết sẽ coi như là có ý kiến lợi cho bị can [15, Điều thứ 32].
Ngày 09/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã được thông qua- Hiến
pháp 1946, tại Điều 63 xác định cơ quan tư pháp gồm có: TAND tối cao, các Tòa án
phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và sơ cấp. Hiến pháp đã ghi nhận nhiều nguyên tắc
cơ bản về phiên tòa hình sự như nguyên tắc có phụ thẩm nhân dân tham gia, các
phiên tòa phải công khai, về quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư. Trong khi xét
xử, Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
Tuy vậy Hiến pháp 1946 chưa được thực thi do hoàn cảnh chiến tranh và bối cảnh
lịch sử thời điểm đó.
Sắc lệnh số 85 ngày 25/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp. Ngoài việc đổi
tên tòa sơ cấp thành tòa án nhân dân cấp huyện (quận), Tòa đệ nhị thành Tòa án
nhân dân tỉnh (thành phố). Phụ thẩm nhân dân được đổi thành HTND. Khác với Phụ
thẩm nhân dân trước đây, HTND khi xét xử có vai trò của HTND tham gia xét xử
ngang quyền với Thẩm phán chuyên môn, có quyền biểu quyết về tội danh cũng
như hình phạt.
28
Như vậy ở giai đoạn đầu từ sau khi cách mạng tháng tám thành công đến
năm 1954, những quy định về tổ chức tòa án, cơ quan công tố cũng như việc tổ
chức các phiên tòa trong đó có phiên tòa hình sự sơ thẩm theo xu hướng của mô
hình tố tụng thẩm vấn, đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
chứng minh tội phạm là Tòa án. Mặc dù, các quy định này chưa được luật hóa, một
số chưa được đưa ra thực hiện song đây là những nền tảng quan trọng đầu tiên cho
việc phát triển pháp luật tố tụng hình sự trong đó có chế định về phiên tòa hình sự
sơ thẩm ở nước ta.
2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975
Ở thời kỳ này, các quy định về tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, mối
quan hệ giữa các cơ quan này, cũng như các nguyên tắc xét xử cũng đã được pháp
luật quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân nhân năm 1960; Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960.
Thể chế hóa hiện pháp 1959, tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960
quy định: “Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa” [30, Điều 1]. Tòa án có 3 cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án
gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp
huyện; Ngoài rà còn có Tòa án nhân dân ở các khu vực tự trị và các Tòa án quân
sự. Thẩm phán và HTND được bầu theo nhiệm kỳ. Thực hiện xét xử theo chế độ
hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm.
Các nguyên tắc trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959, Luật
tổ chức tòa án năm 1960.
Về thành phần phiên tòa, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định “Khi
sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ,
giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND” [30, Điều 12].
Trong giai đoạn này, các nguyên tắc xét xử được quy định trong Hiến pháp
và Luật tổ chức Tòa án là căn cứ để tổ chức phiên tòa và thông qua việc tổng kết
kinh nghiệm cũng như hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 27/9/1974, Tòa án nhân dân tối cáo đã ban hành Thông tư số 16/TATC lần
29
đầu tiên các nội dung cơ bản của phiên tòa được quy định trong văn bản về trình tự
xét xử riêng.
2.1.1.3. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước năm 1988
Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981 tiếp tục có những
quy định về thành phần HĐXX, về các nguyên tắc trong xét xử hình sự như:
“Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán” “Việc xét xử tập thể, quyết
định theo đa số”.
Nhìn chung, các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm của nước ta từ khi
thành lập đến trước khi có BLTTHS năm 1988 đã từng bước được hoàn thiện. Các
văn bản pháp luật thời kỳ này đã quy định về thẩm quyền xét xử, thành phần HĐXX,
vai trò của HTND, của Viện kiểm sát, quyền bào chữa của bị cáo cùng những nguyên
tắc cơ bản của việc tiến hành phiên tòa hình sự sơ thẩm như nguyên tắc xét xử công
khai, độc lập khi xét xử. Các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm còn rất tản mạn,
chủ yếu do Tòa án nhân dân tối cao ban hành, nhiều thủ tục chưa có quy định chặt
chẽ và rõ ràng tuy nhiên đã từng bước được cải thiện đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội, bảo vệ lợi ích của con người. Điều này góp phần vào việc tạo tiền đề cho việc
hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và xây dựng BLTTHS.
2.1.1.4. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003
Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua BLTTHS. Đây là BLTTHS đầu tiên của
nước ta trong đó trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự được luật hóa một cách hệ thống và có hiệu lực cao nhất từ trước tới nay. Sau đó
BLTTHS có một số sửa đổi… các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS
được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990, ngày 22 tháng 12 năm 1992
và ngày 09 tháng 6 năm 2000. Các thủ tục về phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy
định tại chương 17, 18, 19, 20 từ Điều 159 đến Điều 200 của BLTTHS năm 1988.
Về cơ bản, các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS 1988 kế
thừa các quy định trước đây về nguyên tắc xét xử như xét xử trực tiếp, bằng lời nói
và liên tục, nguyên tắc thành phần HĐXX có Hội thẩm tham gia. Lần đầu tiên, trình
30
tự thủ tục tại tố tụng phiên tòa được quy định có 4 bước: thủ tục bắt đầu phiên tòa,
thủ tục xét hỏi, thủ tục tranh luận, thủ tục nghị án và tuyên án. Trong phần thủ tục
bắt đầu phiên tòa đã quy định chi tiết về việc khai mạc phiên tòa, kiểm tra căn cước,
giải thích quyền nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, việc thay đổi thành viên
HĐXX và những người tiến hành tố tụng khác, trường hợp hoãn phiên tòa khi có
người vắng mặt. Trình tự xét hỏi đã được quy định với vai trò nổi bật của Thẩm
phán trong việc xét hỏi, quyết định việc cần thiết trong xét hỏi và trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về trách nhiệm của HĐXX cùng Kiểm sát viên. Về thủ
tục tranh luận đã có những quy định về để đảm bảo tranh tụng như đảm bảo quyền
của bị cáo, người bào chữa trong tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên một cách
bình đẳng, không được hạn chế thời gian tranh luận. Về thủ tục nghị án và tuyên án,
Bộ luật đã xác định việc nghị án chỉ thuộc thẩm quyền của HĐXX; Bản án được
HĐXX thông qua tại phòng nghị án và được tuyên công khai.
Về giới hạn xét xử, Điều 170 BLTTHS năm 1988 quy định: Toà án chỉ xét
xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án
đã quyết định đưa ra xét xử.
2.1.2. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS
năm 2003
2.1.2.1. Quy định chung về phiên tòa
a. Quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Cơ sở pháp lý cho việc mở phiên tòa là Quyết định đưa vụ án ra xét xử do
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ban hành; Trong quyết định này thể hiện nội dung:
Bị cáo bị đưa ra xét xử, tội danh, điều khoản mà bị cáo bị truy tố, thành phần
những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán khác
nếu có, HTND, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên…), những người tham gia tố
tụng, về thời gian, địa điểm, vật chứng được đưa ra xem xét. Về thời gian, quyết
định đưa vụ án ra xét xử ấn định thời gian bắt đầu phiên tòa. Vì thực tế mỗi
phiên tòa có thời gian diễn ra tùy thuộc vào nội dung, diễn biến của phiên tòa
nên không có giới hạn về thời gian trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
31
b. Hoãn phiên tòa:
Việc hoãn phiên tòa được quy định tại Điều 194 BLTTHS năm 2003, theo
đó, HĐXX sẽ hoãn phiên tòa sơ thẩm hình sự trong thời hạn không quá 30 ngày khi
có một trong các căn cứ sau:
- Các trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các Điều 46, Điều 46
và Điều 47 BLTTHS khi phải thay đổi Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa án, Kiểm
sát viên. Tuy nhiên, không phải trường hợp thay đổi nào cũng phải hoãn phiên tòa
bởi tại phiên tòa nếu có Thẩm phán, HTND, Thư ký, Kiểm sát viên dự khuyết thì
không phải hoãn phiên tòa.
- Trường hợp bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng.
- Người bào chữa vắng mặt trong trường hợp pháp luật quy định phải có
người bào chữa. Đó là các trường hợp bị cáo bị truy tố về tội theo khung hình phạt
có mức án tử hình, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất. Trường hợp bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp cho bị cáo
từ chối người bào chữa thì không phải hoãn phiên tòa.
- Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại hiện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên tòa
mà việc vắng mặt của họ trở ngại cho việc xét xử.
- Người làm chứng về những vấn đề quan trọng (như về các nội dung cơ bản
của vụ án, về những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, lời khai của người
làm chứng trái với lời khai của bị cáo, người làm chứng khác cần phải đối chất tại
phiên tòa…) vắng mặt.
- Người giám định vắng mặt tại phiên tòa mà việc vắng mặt trở ngại cho
việc xét xử.
c. Giới hạn của việc xét xử:
Giới hạn của việc xét xử được quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003:
“Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát
truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo
khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về
một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”
32
Như vậy, Tòa án không được xét xử những người và hành vi không bị Viện
kiểm sát truy tố, không được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện
kiểm sát truy tố. Quy định này không giới hạn về khung hình phạt trong cùng một
điều luật và các tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên
sẽ xảy ra trường hợp, Tòa án cấp huyện xét xử vụ án mà bị cáo bị truy tố theo
khung hình phạt thuộc thẩm quyền song khung hình phạt trong điều luật có thể áp
dụng với bị cáo lại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh thì phải chuyển hồ sơ cho
Tòa án cấp tỉnh xét xử.
d. Những người tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm:
- HĐXX sơ thẩm:
Theo quy định tại Điều 185 BLTTHS năm 2003, thành phần HĐXX sơ thẩm
vụ án hình sự gồm một Thẩm phán và hai HTND, trong trường hợp vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp (như vụ án lớn có nhiều bị cáo, liên quan đến nhiều địa
phương đơn vị, các bị cáo phạm nhiều tội…) thì HĐXX có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị xét xử về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình thì HĐXX cũng gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Nếu bị cáo là người chưa thành niên thì thành phần HĐXX phải có HTND là
giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là quy định tiến
bộ bảo vệ người chưa thành niên bị xét xử bởi những thành viên HĐXX này hiểu rõ
hơn các đặc điểm, tâm sinh lý của người chưa thanh niên.
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa là người được Chánh án Tòa án phân công
xét xử và là người điều hành và giữ kỷ luật phiên tòa. Thẩm phán phải có trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm được tuyển chọn và bổ nhiệm theo quy trình rất chặt chẽ,
được Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm và được phân công làm việc tại một
đơn vị Tòa án nhất định.
HTND được Hội đồng nhân dân địa phương bầu ra, không bắt buộc phải có
chuyên môn và tham gia kim nhiệm, không thuộc biên chế Tòa án. Sự tham gia của
HTND vào phiên tòa là hình thức công dân tham gia xét xử, tăng cường việc giám
sát của Công dân đối với HTND chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm và do Chánh án Tòa án
33
cấp tỉnh hoặc cấp huyện quản lý, phân công xét xử. Điều 15 BLTTHS năm 2003
quy định “Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán”. Quy định này là sự kế
thừa nguyên tắc xét xử có HTND tham gia, xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Thành phần HTND là bắt buộc ở tất cả các phiên tòa xét xử sơ thẩm.Khi xem xét
các tình tiết của vụ án hình sự, các căn cứ pháp lý áp dụng cho việc xét xử vụ án và
thảo luận với các thành viên khác của HĐXX thì việc biểu quyết là ngang nhau.
HTND khi tham gia xét xử trực tiếp xét hỏi.
- Thư ký phiên tòa là cán bộ Tòa án được phân công ghi biên bản phiên tòa và
tiến hành các công việc cần thiết khác để tiến hành phiên tòa. Điều 41 BLTTHS năm
2003 quy định, nhiệm vụ của Thư ký Tòa án tại phiên tòa là: Phổ biến nội quy phiên
toà; Báo cáo với HĐXX danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; Ghi biên
bản phiên toà. Như vậy nhiệm vụ quan trọng nhất và chủ yếu của Thư ký Tòa án tham
gia phiên tòa là thể hiện tòa bộ nội dung phiên tòa bằng Biên bản phiên tòa.
- Kiểm sát viên là Đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia
phiên tòa. Sự tham gia của Kiểm sát viên là bắt buộc, đối với vụ án có tính chất
nghiêm trọng, phức tạp có thể có sự tham gia của hai Kiểm sát viên. Kiểm sát
viên đồng thời có hai vai trò: giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật tại phiên tòa.
- Bị cáo: Theo luật tố tụng hình sự, trong quá trình điều tra, truy tố và chuẩn
bị xét xử thì người bị buộc tội được gọi là bị can. Khái niệm bị cáo chỉ người bị Tòa
án quyết định đưa ra xét xử. Tại phiên tòa bị cáo được Tòa án bảo đảm quyền bình
đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ (theo quy định tại
Điều 19 BLTTHS năm 2003).
Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS năm 2003: bị cáo tham gia phiên tòa có
quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch;
đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; trình bày
ý kiến, tranh luận; nói lời sau cùng trước khi nghị án. Các quyền này được Chủ tọa
phiên tòa giải thích tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa; Quy định này nhằm đảm bảo
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luậtLuận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOTĐề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luậtLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOTĐề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 

Similar to Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT

Similar to Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT (20)

Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAYĐề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAYLuận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
Luận văn: Nguyên tắc giám đốc việc xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
Hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước huyện Tri Tôn – t...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 

Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ NGỌC DUYÊN PHI£N TßA H×NH Sù S¥ THÈM TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ NGỌC DUYÊN PHI£N TßA H×NH Sù S¥ THÈM TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Nam §Þnh) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Ngọc Duyên
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................6 1.1. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm.......................................................6 1.2. Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................................11 1.2.1. Về phương diện pháp lý ...............................................................................11 1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội.................................................................12 1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tụng tranh tụng.....................................................................14 1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng .......................14 1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn.........................17 1.4. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm ...........................................................21 1.4.1. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa......................................................................21 1.4.2. Phần thủ tục xét hỏi và tranh luận ................................................................21 1.4.3. Phần thủ tục nghị án và tuyên án ....................................................................24 Kết luận chương 1 ...................................................................................................25 Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH.....26 2.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm ............................26 2.1.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm từ 1945 đến năm 1988....26 2.1.2. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS năm 2003 ......................................................................................................30 2.1.3. Những điểm mới về phiên tòa hình sự sơ thẩm theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.....41
  • 5. 2.2. Thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định ....................................................................................................44 2.2.1. Thực tiễn phiên tòa sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định ............................46 2.2.2. Nhận xét về nguyên nhân hạn chế của phiên tòa hình sự sơ thẩm qua thực tiễn xét xử.............................................................................................58 Kết luận chương 2 ...................................................................................................63 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM .....64 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm...................................................64 3.2. Hoàn thiện pháp luật phiên tòa hình sự sơ thẩm ....................................65 3.3. Các giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm.......69 3.3.1. Về kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư và tổ chức, hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Đoàn Luật sư......................69 3.3.2. Đảm bảo cơ sở vật chất và chế độ đãi ngộ phù hợp với những người tiến hành tố tụng ...........................................................................................74 3.3.3. Tăng cường ý thức pháp luật trong nhân dân...............................................77 Kết luận chương 3 ...................................................................................................79 KẾT LUẬN..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................83
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử HSST: Hình sự sơ thẩm HTND: Hội thẩm nhân dân Nghị quyết 08: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" Nghị quyết 48: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết 49: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. Tình hình thụ lý giải quyết án hình sự 45
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết trong đó có hoạt động tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đề cập về vấn đề này Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" của Bộ Chính trị, đã nêu rõ: Nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án là khâu trung tâm, đột phá, thông qua việc nâng cao tính dân chủ, khách quan trong tranh tụng tại phiên tòa. Hiến pháp 2013 cũng đã xác định "Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng… nghiêm chỉnh chấp hành" [36, Điều 106]. Những năm gần đây, sau khi Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014 có hiệu lực, quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự về vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, việc áp dụng thủ tục, nội hàm một số nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, các văn bản ban hành tại phiên tòa… đã đặt ra nhiều vấn đề cần phải đổi mới. Thực tiễn thi hành phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại địa bàn tỉnh Nam Định trước yêu cầu cải cách tư pháp còn cho thấy còn nhiều tồn tại, hạn chế, số bản án, quyết định của Tòa án thiếu căn cứ, vi phạm pháp luật bị hủy, sửa còn tồn tại. Chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm chưa thật sự cao do nhiều nguyên nhân; Trước hết, do trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp, tình trạng HĐXX không áp dụng đúng, đầy đủ thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như pháp luật nội dung. Quy định về thủ tục xét hỏi tại toà đã đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh lên vai HĐXX mà chủ yếu là chủ toạ phiên toà, dẫn đến tình trạng tại phiên tòa chủ yếu do Chủ tọa phiên tòa tiến hành, Kiểm sát viên chỉ có nhiệm vụ đọc cáo trạng và luận tội diễn ra phổ biến. Trong hầu hết các phiên tòa không có “tranh tụng” bởi hầu hết không có sự tham gia của người bào chữa, nếu có người bào chữa thì chất lượng bào chữa
  • 9. 2 cũng không cao, trong khi đó các bị cáo không có khả năng trình bày, tranh luận. Thực tiễn thi hành về hình thức phiên tòa như việc bố trí chỗ ngồi tại phiên tòa, quyền của bị cáo, người bào chữa cũng cho thấy sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội; Ngoài ra, cơ sở vật chất cho việc tổ chức phiên tòa chưa được đảm bảo dẫn đến không thể bố trí được phiên tòa đảm bảo tính uy nghiêm của chốn “pháp đình”…. Tất cả những tồn tại phổ biến đã đề cập, cho thấy tính cấp thiết của việc đưa ra những giải pháp cụ thể để khắc phục. Để làm rõ cơ sở lý luận, quy định pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa sơ thẩm, đánh giá đúng thực trạng phiên tòa sơ thẩm, hướng tới việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự, gắn với địa bàn công tác, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định" làm Luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự. Đã có nhiều công trình nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo trong nước, các bài viết trên các tạp chí về đề tài liên quan đến phiên tòa hình sự sơ thẩm; Tại Khoa luật- Đại học Quốc gia Hà Nội có Luận văn thạc sỹ "Thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm" của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang năm 2008, "Hoàn thiện thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay" của tác giải Nguyễn Hữu Tuấn năm 2009, "Giai đoạn xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam- Những lý luận và thực tiễn" của tác giả Ngô Huyền Nhung năm 2012… Các nghiên cứu này thường đề cập một nội dung về thủ tục phiên tòa như của tác giả Nguyễn Quỳnh Trang và của tác giả Nguyễn Hữu Tuấn, hay toàn bộ giai đoạn xét xử sơ thẩm như của tác giả Nguyễn Hồng Nhung… với thực trạng trong toàn quốc. Tuy nhiên, từ khi Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 có hiệu lực, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản được áp dụng, thủ tục tại phiên tòa cũng như thủ tục ban hành bản án, quyết định tại phiên tòa… và trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Nam Định.
  • 10. 3 Ngoài ra các công trình nghiên cứu như đã đề cập đều được thực hiện trước khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức TAND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 có hiệu lực khi các quy định pháp luật tố tụng hình sự cần có nhiều thay đổi. 2. Mục đích và nhiệm vụ và nghiên cứu của luận văn 2.1. Mục đích của luận văn - Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận về thủ tục phiên tòa hình sự gắn vị trí vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa, các nguyên tắc cơ bản được áp dụng, trình tự, thủ tục tại phiên tòa, thủ tục ban hành bản án, quyết định tại phiên tòa… trong tình hình mới. - Đánh giá một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình sự trong phiên tòa hình sự, sự tham gia của các chủ thể tố tụng… tìm ra những nguyên nhân của những vướng mắc tồn tại. - Đưa ra những kiến nghị giải pháp cụ thể, có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về phiên toà hình sự sơ thẩm phục vụ nhiệm vụ cải cách tư pháp ở nước ta trong tình hình mới. 2.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được những mục đích trên, cần phải giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây: - Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu khái quát sự hình thành và phát triển của quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng phiên tòa hình sự sơ thẩm để tìm ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. - Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam về phiên tòa hình sự sơ thẩm, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
  • 11. 4 Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật trong việc nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu truyền thống như sau: Phương pháp phân tích nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phiên tòa hình sự sơ thẩm. Phương pháp so sánh, để đối chiếu, so sánh với quy định của BLTTHS một số nước trên thế giới nhằm tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm khi đưa ra đề xuất, kiến nghị. Phương pháp tổng hợp để tổng hợp các vấn đề đã được nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và kết luận chung. Phương pháp thống kê để thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử làm cơ sở cho việc đưa ra nhận xét, kết luận và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm. 4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Nghiên cứu khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự; phiên tòa hình sự sơ thẩm ở mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng; quy định pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm; thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm. Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. Đánh giá thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên phạm vi địa bàn tỉnh Nam Định trong những năm gần đây để từ đó hoàn thiện BLTTHS nước ta về phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLTTHS nước ta về phiên tòa hình sự sơ thẩm. 5. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu về đề tài này và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Nam Định trong giai đoạn 05 năm (2011- 2015); Việc nghiên cứu đề tài có thể đạt được những kết quả mới như: - Luận văn làm rõ cơ sở lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm, gắn vị trí, vai trò của chủ thể tham gia phiên tòa với mô hình tố tụng, hoạt động tố tụng tại phiên tòa.
  • 12. 5 - Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLTTHS, nghiên cứu việc thực thi pháp luật tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật, những vướng mắc trong quá trình áp dụng. - Luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn phiên tòa hình sự sơ thẩm; một số giải đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả phiên tòa sơ thẩm theo tinh thần cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013. - Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao chất lượng phiên tòa hình sự sơ thẩm. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc phát triển lý luận về phiên tòa hình sự sơ thẩm; tránh xét xử oan, sai và tránh bỏ lọt người phạm tội; giúp cho việc xét xử của Tòa án vụ án khách quan, hiệu quả, khoa học bảo vệ quyền con người. Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại Tòa án. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề chung về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự. Chương 2. Quy định pháp luật và thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Nam Định Chương 3. Hoàn thiện quy định pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm.
  • 13. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm phiên tòa hình sự sơ thẩm Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nhiều nguyên tắc cơ bản, trong đó nguyên tắc hai cấp xét xử được qui định trong Luật TTHS các nước. Nguyên tắc hai cấp xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013 “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Nội dung của nguyên tắc này có xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, trong đó xét xử sơ thẩm được coi là trọng tâm và có tính chất bắt buộc của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Để đảm bảo dân chủ, xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con người là một trong những đặc điểm của nhà nước pháp quyền. Quá trình giải quyết vụ án phải trải qua các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Khi một hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm bị phát hiện sẽ diễn ra hoạt động khởi tố vụ án và điều tra để xác định người thực hiện hành vi này, nếu có thực hiện thì phạm vào tội gì, thuộc điều khoản nào của luật hình sự. Khi có kết quả điều tra, cơ quan công tố truy tố người bị buộc tội bằng bản cáo trạng ra trước tòa để xét xử, Tòa án mở phiên tòa để phán quyết đối với người bị buộc tội. Như vậy xét xử vụ án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng hình sự, về nguyên tắc được kết thúc bởi phiên tòa. Xét xử là một trong những chức năng của Nhà nước, đó là việc thực hiện quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước để ra phán quyết, nhằm giải quyết xung đột, trừng trị tội phạm qua đó bảo vệ, khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền lợi của Nhà nước. Hoạt động xét xử hình sự xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ cùng với sự xuất hiện của “tội phạm”- hành vi nguy hiểm được luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì không có tổ chức hệ thống Tòa
  • 14. 7 án có chức năng xét xử như ngày nay. Các Tòa án riêng biệt với chức năng xét xử được thành lập ở mọi quốc gia. Khái niệm xét xử, theo Từ điển luật học, “xét xử” là hành động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc [52]. Theo GS.TSKH Lê Cảm thì: Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư và cuối cùng, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo trạng) do Viện kiểm sát chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án [10]. Theo Từ điển Tiếng việt, sơ thẩm được hiểu là: “Xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp xét xử thấp nhất”(53). Nghiên cứu pháp luật về phiên tòa ở các quốc gia thấy để việc xét xử đảm bảo thận trọng, chính xác, khách quan, đúng
  • 15. 8 pháp luật nên đều thực hiện chế độ hai cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm và sơ thẩm là cấp xét xử thấp nhất cũng là cấp xét xử đầu tiên. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là bước đầu tiên, chỉ khi xét xử sơ thẩm kết thúc có bản án quyết định được ban hành và mới có căn cứ kháng cáo, kháng nghị để xét xử phúc thẩm. Xét xử phúc thẩm chỉ là quá trình xem xét bản án, quyết định sơ thẩm đã được Tòa án cấp sơ thẩm ban hành nhưng chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra khái niệm: Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự trong đó, Tòa án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xem xét công khai trước phiên tòa nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện kiểm sát đã truy tố [14]. Theo Thạc sỹ Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự-TAND Tối cao thì: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn thể hiện tập trung và quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tại phiên toà, sau khi nghiên cứu khách quan, toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ án một cách công khai, Toà án sẽ ra phán quyết bị cáo có tội hoặc không có tội, phạm tội gì và áp dụng điều khoản nào của Bộ luật hình sự để tuyên phạt bị cáo [28, tr.7]. Những nội dung đã nêu cho thấy xét xử sơ thẩm hình sự là một phần chủ yếu của giai đoạn xét xử- giai đoạn cuối trong tố tụng hình sự, song có vị trí trung tâm mà thể hiện rõ nét nhất là ở phiên tòa có tính chất công khai để Tòa án nhân danh Nhà nước ra phán quyết giải quyết vụ án hình sự. Khái niệm xét xử đi liền với khái niệm “phiên tòa”, bởi hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động tại phiên tòa, phiên tòa là “lần họp để xét xử của Tòa án” [53]. Dưới góc độ pháp lý, Từ điển luật học [52] phiên tòa được hiểu “là hình thức hoạt động xét xử của Tòa án”. Theo từ điển Pháp- Việt, phiên tòa là “phiên họp của Tòa án xét xử các tội
  • 16. 9 phạm. Thành phần có chủ tọa phiên tòa là các Thẩm phán chuyên nghiệp, các HTND. Phiên tòa xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước hoặc giữ gìn đạo đức xã hội thì Tòa án xét xử kín, nhưng khi tuyên án phải công khai” Từ điển Tiếng Anh thì từ “Trial” có nghĩa là phiên tòa, được giải nghĩa là sự xét xử một vụ... hình sự trước Tòa án có thẩm quyền, là phiên xử tại Tòa án có sự tham gia của Thẩm phán hoặc Bồi thẩm đoàn để quyết định về vụ việc. Từ khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: phiên tòa là phiên họp theo trình tự nhất định do cơ quan thực hiện quyền tư pháp là Tòa án tổ chức, trong đó người chủ trì là Thẩm phán, có sự tham gia của HĐXX hoặc Bồi thẩm đoàn để xét xử vụ án. Tại phiên toà diễn ra việc xem xét, thẩm tra chứng cứ một cách công khai mà đối tượng chính là cáo trạng truy tố đối với người bị buộc tội do cơ quan Công tố đưa ra. Phiên toà sơ thẩm là khâu cuối cùng của hoạt động xét xử sơ thẩm, sự kết thúc bằng việc Tòa án ra bản án kết tội hoặc tuyên bố bị cáo vô tội. Dưới góc độ tố tụng hình sự, xét xử sơ thẩm là hoạt động trung tâm trong đó phiên tòa là hoạt động chủ yếu của hoạt động này. Phiên tòa là nơi Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực hiện cuộc điều tra chính thức thông qua tranh tụng để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại phiên tòa. Việc chứng minh bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ được các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh tụng. Tại phiên tòa phiên tòa hình sự sơ thẩm có sự xuất hiện cả 3 chức năng của tố tụng hình sự là: buộc tội, bào chữa và xét xử. Phiên tòa sơ thẩm xuất hiện đầy đủ các bên tham gia tố tụng nhất, bên buộc tội là Kiểm sát viên đưa ra quan điểm truy tố bằng bản cáo trạng, bị cáo cũng như người bào chữa cho bị cáo là bên gỡ tội. Bản chất của phiên tòa hình sự cũng như của tố tụng hình sự là việc xử lý tội phạm. Do đó, các bên tham gia phiên tòa bên buộc tội (cơ qua Công tố của Nhà nước) và bên gỡ tội (bị cáo, người bào chữa) không thể thỏa thuận với nhau về tội
  • 17. 10 danh và hình phạt để chấm dứt quá trình tố tụng. Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và người bị buộc tội thường là quan hệ bất bình đẳng. Trong dân sự, nguyên đơn có quyền thay đổi bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; HĐXX chỉ giải quyết trên yêu cầu được đưa ra tại phiên tòa và phụ thuộc vào quyền tự định đoạt của các đương sự. Các đương sự tại phiên tòa dân sự tuyệt đối bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án để chấm dứt quá trình tố tụng. Phiên tòa sơ thẩm hình sự là nơi công khai thực hiện chức năng của Tòa án, phán quyết về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, sau khi Tòa án nghe (hoặc thẩm tra) các tài liệu được đưa ra để buộc tội cũng như để gỡ tội cho bị cáo, đồng thời làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe ý kiến trình bày của các đương sự, những người tham gia tố tụng khác, xem xét các tài liệu, vật chứng. Chỉ sau khi nghe ý kiến của người tham gia tố tụng và kiểm tra, đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, mới có việc nghị án để ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án, xác định một người bị buộc tội có tội hay không có tội? Tội đó là tội gì? Thuộc Khoản, Điều luật nào của Luật hình sự cũng như giải quyết các vấn đề liên quan trong vụ án một cách toàn diện. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là phiên tòa đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình sự, nó khác với phiên tòa phúc thẩm hoặc thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc xét xử sơ thẩm là cơ sở cho việc xét xử ở cấp phúc thẩm hay việc xem xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật (thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Nhằm đảm bảo tính thận trọng, chính xác, khách quan của việc xét xử sơ thẩm, bản án sơ thẩm hình sự có thể xét xử theo thủ tục phúc thẩm khi có kháng cáo của các đương sự hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát. Xét xử phúc thẩm diễn ra khi có kháng cáo, kháng nghị về bản án đã tuyên ở phiên tòa sơ thẩm, song thường không xét xử toàn bộ mà chỉ xét xử nội dung bị kháng cáo, kháng nghị. Khi việc giải quyết ở phiên tòa sơ thẩm hoàn toàn đúng đắn thì HĐXX phúc thẩm phải giữ nguyên bản bản án sơ thẩm; nếu xét xử sơ thẩm có sai sót, vi phạm thì tùy từng trường hợp cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm; đặc biệt có thể hủy bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm
  • 18. 11 lại từ đầu. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết tại cấp sơ thẩm, cũng như phúc thẩm, có thể giữ nguyên bản án đã tuyên hoặc hủy bản án xét xử sơ thẩm lại. Như vậy, phiên tòa hình sự sơ thẩm là một khâu trong tố tụng hình sự, là hoạt động do Toà án tiến hành công khai ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định giải quyết toàn diện vụ án hình sự. 1.2. Ý nghĩa của phiên tòa hình sự sơ thẩm 1.2.1. Về phương diện pháp lý Như đã đề cập, phiên tòa hình sự trong đó có phiên tòa sơ thẩm là hoạt động trung tâm của tố tụng hình sự. Quá trình giải quyết vụ án hình sự như đã nêu là việc các cơ quan có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, trong đó xét xử nói chung, phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng là hoạt động mang tính chất quyết định. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong toàn bộ quá trình tố tụng trước đó được bộc lộ và được xem xét, đánh giá toàn diện, trực tiếp công khai. Vì vậy, hoạt động tại phiên tòa chính là sự kiểm tra, đánh giá chất lượng của các hoạt động trước đó ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố cũng như việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm để có phán quyết chính xác, công minh đúng đắn. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi thực hiện quyền xét xử của Tòa án rõ nét nhất trong các giai đoạn xét xử. Trong các giai đoạn tố tụng trước khi có phiên tòa, không có cơ quan, cơ quan có thẩm quyền được quyền đưa ra phán quyết, giải quyết vụ án. Khi đó quyền tư pháp, một quyền lực quan trọng trong bộ máy Nhà nước của Tòa án mới được thể hiện. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 xác định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.... Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
  • 19. 12 Phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng đắn pháp luật. Qua các đề xuất của đại diện cơ quan tiến hành tố tụng, các bên tham gia tố tụng về áp dụng pháp luật, HĐXX có trách nhiệm theo dõi, điều khiển việc tranh tụng giữa các bên. Từ kết quả tranh tụng có thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật chính xác nhất để giải quyết đúng đắn vụ án [41]. 1.2.2. Về phương diện chính trị - xã hội Phiên tòa sơ thẩm đưa ra phán quyết về việc giải quyết toàn bộ vụ án hình sự đã góp phần đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền. Phiên tòa luôn đảm bảo quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được quy định và được đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng trực tiếp, công khai. Tại phiên tòa công khai không thể có trường hợp vi phạm pháp luật như bức cung, ép cung, dùng nhục hình v.v… Vì vậy, phiên tòa được tổ chức tốt là điều kiện để đưa ra phán quyết bảo đảm quyền con người. Xét xử trong đó có xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là hoạt động tố tụng trung tâm và quan trọng để cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân. Điều này, có ý nghĩa trong các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội, cùng với các hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội; Đặc biệt đây là cơ sở để nâng cao niềm tin công lý cho người dân. Phiên tòa là sự thể hiện đầy đủ chính sách hình sự của mỗi quốc gia, cũng như chính sách hình sự của quốc gia đó, thể hiện bản chất của chế độ và quyết định giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Trong nhiều trường hợp, khi tham gia quan hệ xã hội, công dân do hiểu biết pháp luật do đó hạn chế hoặc tư tưởng coi thường pháp luật dẫn đến phạm tội. Phiên tòa sơ thẩm hình sự có nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, ra bản án, quyết định để xác định một hành vi là nguy hiểm cho xã hội được xác định là tội phạm, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp lý với hành vi đó. Vì vậy, trên cơ sở
  • 20. 13 hành vi bị kết tội trong bản án, người bị kết tội nhận thức được tội, lỗi của họ cũng như các công dân tham dự phiên tòa nhận thức được điều này; Qua đó, phiên tòa sơ thẩm hình sự góp phần không nhỏ tạo nên ý thức pháp luật trong quản lý xã hội, quản lý Nhà nước. Hiệu quả của phiên tòa chính là nơi thể hiện hiệu quả chủ yếu của hoạt động tố tụng hình sự góp phần giáo dục phòng ngừa chung, giáo dục công dân tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật cũng như các quy tắc ứng xử trong xã hội, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, vi phạm pháp luật. Kết quả của phiên tòa hình sự nhất là phiên tòa hình sự sơ thẩm có vai trò quan trọng bởi sản phẩm của phiên tòa là bản án, ảnh hưởng đến quyền con người đặc biệt có thể tước đi tính mạng một người; cũng như lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp đặc biệt, nó còn quyết định đến quyền được sống của con người. Nếu xét xử sơ thẩm đúng đắn thì phiên tòa phúc thẩm hay thủ tục giám đốc thẩm xem xét lại bản án sơ thẩm phải giữ nguyên bản án sơ thẩm. Như vậy, nó góp phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo trật tự và công bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân và hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm của cơ quan Tư pháp nói chung. Như đã nêu, xét xử xét xử phúc thẩm dựa trên cơ sở xét xử sơ thẩm, nếu bản án sơ thẩm công minh, đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao “tâm phục, khẩu phục” sẽ hạn chế đến mức thấp nhất việc kháng cáo, kháng nghị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp hành án đồng thời giảm chi phí cho người tham gia tố tụng cũng như ngân sách Nhà nước. Phiên tòa hình sự diễn ra việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng là chủ thể được Nhà nước giao quyền để giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của quốc gia nào thì thành phần tiến hành tố tụng cũng có Thẩm phán và Công tố viên, những chức danh tố tụng quan trọng và chủ yếu trong hoạt động xét xử hình sự. Vì vậy, thông qua thực tiễn thi hành phiên tòa hình sự sơ thẩm sẽ đánh giá được trình độ chuyên môn của những người tiến hành tố tụng này một cách rõ nét nhất. Ngoài ra nó cũng đánh giá trình độ của luật sư bào chữa cũng như trình độ, ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng. Cũng
  • 21. 14 qua thực tiễn phiên tòa hình sự sơ thẩm, người tiến hành tố tụng, luật sư có thể tích lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng xét xử bởi: Tại phiên tòa đòi hỏi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ cao độ, xử lý các tình huống linh hoạt nhanh chóng. 1.3. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tụng tranh tụng Trong việc giải quyết vụ án, ở mỗi quốc gia thường có cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án theo các thức đặc trưng của mình, cách thức này được gọi là “mô hình tố tụng”. Mỗi mô hình tố tụng có đặc trưng riêng. Từ việc lựa chọn mô hình tố tụng mà trình tự, thủ tục điều tra, truy tố, xét xử, địa vị tố tụng của Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa và Thẩm phán tại phiên tòa hình sự cũng khác nhau. Trên thể giới có hai hệ thống pháp luật chủ yếu: hệ thống pháp luật án lệ và hệ thống pháp luật dân sự (luật thực định). Tương ứng với hai hệ thống pháp luật này là hai mô hình tố tụng là mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn. 1.3.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng tranh tụng Tố tụng tranh tụng là mô hình được sử dụng trong các nước theo hệ thống luật án lệ như Anh, Mỹ... Do theo hệ thống án lệ nên Tòa án có quyền xác định một hành vi có phải là tội phạm hay không căn cứ vào bản án trước đó, không nhất thiết phải căn cứ vào quy phạm pháp luật. Phiên tòa trong tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau: Thứ nhất, trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nói chung và tại phiên tòa nói riêng bên buộc tội (công tố viên, người bị hại) và bên bị buộc tội (bị cáo, luật sư bào chữa)có quyền và trách nhiệm như nhau trong việc thu thập, đánh giá, kiểm tra chứng cứ. Tại phiên tòa, bên buộc tội và bên bị buộc tội đều có quyền bình đẳng trong trong việc kiểm tra chứng cứ và tranh luận. Thứ hai, điều tra tại phiên tòa là điều tra chính thức và chủ yếu. Các hoạt động khác như điều tra của cảnh sát, truy tố của công tố viên chỉ là những hoạt động mang tính hành chính - tư pháp không được điều chỉnh bởi Luật TTHS [18, tr.256]. Quá
  • 22. 15 trình “tranh tụng” thực sự được tiến hành thông qua hoạt động xét xử tại phiên tòa, qua đó bên buộc buộc tội và luật sư bào chữa đưa ra các chứng cứ trước chủ thể có chức năng xét xử là Tòa án. Tòa án gồm Bồi thẩm đoàn (đại diện nhân dân) được tập hợp từ những người không bắt buộc phải có chuyên môn pháp luật và Thẩm phán chuyên nghiệp (của Tòa án). Bồi thẩm đoàn chỉ có nhiệm vụ xác định bị cáo có tội hay không có tội, còn việc áp dụng pháp luật và hình phạt đối với bị cáo thuộc thẩm quyền của Thẩm phán. Thứ ba, phiên tòa trong mô hình tố tụng này vẫn diễn biến theo sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa song hoạt động của Thẩm phán là mờ nhạt. Thẩm phán cũng như Bồi thẩm đoàn, không tham gia vào quá trình thu thập chứng cứ và không nghiên cứu hồ sơ vụ án trước; các tài liệu chứng cứ đều được bí mật trước khi phiên tòa được mở. Thứ tư, chứng cứ do các bên thu thập được đều được đưa ra để thẩm tra trước tòa, đều do các bên trình bày bằng miệng, trong đó lời khai trực tiếp của người làm chứng là một nhân tố quan trọng để chứng minh cho luận điểm của mỗi bên. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể căn cứ lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra để quyết định, vì vậy tại phiên tòa sự tham gia của người làm chứng thường là đông, có phiên tòa triệu tập tới 600 người [42]. Thông qua xét hỏi và tranh luận bình đẳng giữa công tố viên và luật sư mà Tòa án xác định về sự thật khách quan và định hình phạt. Việc kết tội căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và hình thành thông qua thực tiễn xét xử qua các án lệ. Thứ năm, ở nhiều vụ án cơ quan cảnh sát và công tố viên không thể tìm ra đủ chứng cứ để có thể “thắng” tại phiên tòa khi họ muốn truy tố một bị cáo, nên luật pháp có những quy định khuyến khích bị cáo nhận tội hoặc cho phép cảnh sát và cơ quan công tố thỏa thuận để bị cáo nhận tội, khai báo hay cung cấp thông tin về bị cáo khác. Đổi lại, bị cáo có thể được miễn truy tố về một hoặc một số tội hay được giảm hình phạt khi tòa án lượng hình (ví dụ, nếu bị cáo nhận tội trong giai đoạn đầu, mức giảm là một phần ba mức hình phạt thông thường). Việc thỏa thuận thú tội được diễn ra giữa cơ quan cảnh sát, viện công tố và bị cáo cùng Luật sư của họ. Tòa
  • 23. 16 án không tham gia vào thủ tục này vì Tòa án chỉ có thẩm quyền xét xử những vụ án và bị cáo do cơ quan công tố hay cảnh sát đưa ra truy tố. Như vậy, mô hình tố tụng tranh tụng thể hiện sự công bằng của quy trình tố tụng, đó thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân tại phiên tòa cũng như trong các giai đoạn tố tụng khác. Quá trình giải quyết vụ án không chỉ dừng lại ở việc chứng minh, xử lý tội phạm mà còn thực hiện chức năng sáng kiến pháp luật thể hiện vai trò chủ động của Thẩm phán và giám sát hoạt động lập pháp của cơ quan tư pháp. Những đặc điểm này của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng đáp ứng và phù hợp với yêu cầu của hệ thống pháp luật Civil law. Tuy nhiên, phiên tòa tại mô hình tranh tụng có nhược điểm đó là thành viên đoàn bồi thẩm chỉ là những người không chuyên nghiệp, nhưng lại được quyền kết luận về hành vi của bị cáo theo quan điểm chủ quan của mình. Chứng cứ các bên đưa ra tại phiên tòa có thể không phản ánh được sự thật khách quan của vụ án bởi trách nhiệm của bên công tố là buộc tội, bên bào chữa là gỡ tội, các bên thu thập chứng cứ thì lẽ dĩ nhiên chỉ dùng những chứng cứ có lợi cho mình để đưa ra phiên tòa và hoàn thành trách nhiệm của mình thôi. Bên cạnh đó, việc quá đề cao sự đối tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mô hình tranh tụng không phản ánh được hết tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích công cộng trong các vụ án hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội dẫn đến khả năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội. Để tranh tụng đạt hiệu quả thì luật sư bào chữa phải có chuyên môn cao, đồng nghĩa với việc chi phí thuê luật sư cao. Do vậy, nếu không có tiền thuê luật sư thì cơ hội chiến thắng của người bị buộc tội ít đi, điều này là thiệt thòi cho người nghèo. Hơn nữa, phiên tòa trong mô hình tố tụng tranh tụng, các bên có thể bổ sung chứng cứ. Vì người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên đối tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên tòa để thuyết phục Bồi thẩm nghe theo lập luận của mình. Đồng thời, việc quy định một trình tự thủ tục chặt chẽ có thể khiến cho nhiều chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác định sự thật khách quan nhưng lại có thể bị loại bỏ vì vi phạm thủ tục, dẫn đến khó
  • 24. 17 khăn cho việc đấu tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức với cách thức hoạt động tinh vi, phức tạp. Ngoài ra, đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp thì thời gian phiên tòa diễn ra rất dài do việc tranh luận về chứng cứ và quan điểm áp dụng pháp luật giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Có những phiên tòa kéo dài vài ba năm chưa kết thúc, thậm chí hàng chục năm.... Do đó, không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm kịp thời... [44, tr.123]. 1.3.2. Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn Mô hình tố tụng thẩm vấn hay còn gọi là tố tụng xét hỏi được sử dụng ở các nước châu Âu lục địa, các nước Mỹ La tinh và một số nước ở Châu Á, châu Phi. Đặc điểm của phiên tòa hình sự sơ thẩm trong mô hình tố tụng thẩm vấn như sau: Thứ nhất, thẩm vấn là phương pháp được áp dụng trong tất cả các giai đoạn điều tra tuy tố xét xử cũng như tại phiên tòa. Thứ hai, việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả của cơ quan điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án và việc xét hỏi bị cáo tại phiên toà. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án dựa trên kết quả thẩm vấn là phù hợp với sự tuân thủ pháp luật, đảm bảo pháp chế của hệ thống pháp luật Common Law. Thứ ba, phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn không phải là sự cạnh tranh quyết liệt giữa công tố viên và người bào chữa mà là sự tiếp lối của quá trình điều tra. Thẩm phán xét hỏi, thẩm tra, xác minh các chứng cứ đã được cơ quan điều tra thu thập. Thứ tư, trong phiên tòa theo mô hình này, việc xét hỏi thuộc trách nhiệm chính của Thẩm phán. Tòa án có trách nhiệm chứng minh và xử lý tội phạm chứ không có quyền và trách nhiệm xác định một hành vi nào đó có phải là tội phạm hay không. Do tội phạm và hình phạt quy định trong luật, hành vi của người nào đó chỉ được coi là tội phạm khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm theo điều khoản nào trong luật hình sự và xử lý trong phạm vi, giới hạn mà pháp luật đã qui định. Vai trò của Thẩm phán là rất quan trọng trong việc tìm kiếm sự thật của vụ án. Mặc dù hiện nay ở nhiều quốc gia Châu Âu chức danh Thẩm phán điều tra (hạt nhân của tố tụng thẩm vấn) đã bị bãi bỏ (Đức năm 1975, Italia năm 1987 hay Bồ Đào Nha trở thành thủ tục lựa chọn năm 1988) và nhiệm vụ điều tra trước khi mở
  • 25. 18 phiên tòa giao hoàn toàn cho cơ quan điều tra và cơ quan công tố nhưng vai trò của Thẩm phán vẫn không thay đổi nhiều, Thẩm phán là người chủ động, tích cực tìm kiếm sự thật thông qua hoạt động thẩm vấn người tham gia tố tụng, thẩm tra các chứng cứ trong hồ sơ vụ án [51]. Như vậy, kết quả của quá trình điều tra trước khi mở phiên tòa có ý nghĩa to lớn đối với phán quyết của Thẩm phán. Thứ năm, việc xem xét và đánh giá tính có căn cứ và tính hợp pháp của chứng cứ đã được thu thập trước đó tại phiên tòa được coi là đặc trưng của tố tụng thẩm vấn. Việc đặt nặng hoạt động điều tra ở giai đoạn tiền tố tụng trước khi mở phiên tòa đòi hỏi các bên gồm cảnh sát điều tra, đại diện Viện công tố và đặc biệt là Thẩm phán phải tập trung vào việc chứng minh tội phạm, do đó các chức năng tố tụng không được phân định một cách rõ ràng, cụ thể mà chủ yếu tập trung vào Tòa án. Tòa án vừa chi phối, giám sát hoạt động điều tra trước phiên tòa, vừa thực hiện chức năng xét xử. Phiên tòa với bản chất của cuộc điều tra lại, điều tra tiếp được tiến hành bởi Thẩm phán nên sự tham gia của Công tố viên và bên bào chữa trở nên hình thức, dẫn đến quyền bào chữa của người bị cáo bị hạn chế. So với công tố viên, vai trò của người bào chữa trong tố tụng thẩm vấn không được coi trọng. Công tố viên thường xuất hiện trong vụ kiện sớm hơn so với luật sư bào chữa. Trong mô hình này, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc tìm kiếm sự thật, nên trong chừng mực nhất định, quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội luôn được bảo vệ tốt hơn khi quyền đó xâm phạm bởi cá nhân người phạm tội. Với cách thức thẩm tra truyền thống, sự thật nhanh chóng được tìm kiếm. Thứ sáu, do không đặt nặng về hình thức nên thủ tục phiên tòa ở mô hình thẩm vấn đơn giản, nhanh chóng. Việc xét xử không nhất thiết phải có mặt đầy đủ những người tham gia tố tụng, chứng cứ thu thập chỉ cần thẩm tra lại tại phiên tòa và gánh nặng xét hỏi do Tòa án đảm nhận. Thứ bảy, với ưu thế nổi trội hơn trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán nên giai đoạn xét xử tại phiên tòa là quá trình xác minh lại những gì đã được chứng minh tại giai đoạn trước đó. Điều này không thể hiện sự vô tư, khách quan, vì chứng cứ do Thẩm phán tập hợp và bảo vệ nên mang tính áp đặt, triệt tiêu
  • 26. 19 việc tranh luận tại phiên tòa, quyền con người trong tố tụng thẩm vấn bị buộc tội bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Mặc dù mục đích của tố tụng thẩm vấn là bảo vệ người bị buộc tội chống lại những cáo buộc thiếu cơ sở, xong những tiềm tàng do sự lạm dụng kéo dài của thủ tục tố tụng tiền xét xử là hiển nhiên. Trên thực tế, bị cáo có thể phải trải qua một thời gian bị giam giữ, thiếu thốn những điều kiện cần thiết cho việc bào chữa. Do đó, so với tố tụng tranh tụng, quyền bào chữa của người bị buộc tội ở tố tụng thẩm vấn thực chất chỉ là quyền mang tính hình thức, vai trò của người bào chữa bị coi nhẹ và quyền của người bị buộc tội không được bảo đảm. Điều này làm mất ý nghĩa của tố tụng hình sự, tạo tiền đề cho sự lạm dụng quyền lực nhà nước, ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân. Tóm lại, khi nghiên cứu về mô hình tố tụng hình sự trên thế giới với hai mô hình tố tụng đặc trưng là mô hình tố tụng xét hỏi và mô hình tố tụng tranh tụng thấy mỗi mô hình tố tụng có những ưu, nhược điểm riêng. Chính vì mỗi mô hình tố tụng có những ưu, nhược điểm này và căn cứ vào điều kiện, mỗi quốc gia sẽ có sự lựa chọn riêng cho mình một mô hình riêng, có thể là sự pha trộn của hai mô hình tố tụng này và phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng được quy định dựa trên mô hình tố tụng đó. Mọi mô hình tố tụng hình sự đều nhằm mục tiêu không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội và điều cốt lõi của tố tụng hình sự phải bảo đảm quyền của các bên trong quá trình tố tụng...Vấn đề quan trọng hàng đầu là mô hình tố tụng hình sự cần xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng để có sự phối hợp, kiểm tra, giám sát, chế ước lẫn nhau, bảo đảm tính công bằng, khách quan, chính xác khi phát hiện và xử lý tội phạm [44, tr.124]. Mặc dù tư pháp hình sự ở các nước được tổ chức rất khác nhau, thì phiên toà hình sự đều là cách thức tổ chức hoạt động xét xử của Toà án, là thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng của các bên và Toà án nhằm xác định sự thật về vụ án. Mục đích chính của tố tụng thẩm vấn là tìm ra sự thật và đạt được sự công bằng trong tố tụng (bao gồm các giai đoạn: điều tra, truy tố và xét xử). Trong khi đó mục đích của hệ tố tụng tranh tụng lại khác ở chỗ việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu từ giai đoạn xét xử. Mọi thông tin thu thập được trong quá trình điều
  • 27. 20 tra đều chưa được xem xét cho đến khi được trình bày trước Toà. Mỗi bên sẽ trình Toà "sự thật của phía mình” và Thẩm phán cùng với bồi thẩm đoàn sẽ quyết định xem "sự thật” nào có tính thuyết phục hơn... Hệ thẩm vấn chú trọng đến khía cạnh thực tế, còn hệ tranh tụng lại đánh giá cao khía cạnh pháp [9, tr. 126] Có thể thấy, Việt Nam hiện đang đi theo mô hình pha trộn thiên về thẩm vấn. Nhiệm vụ xác định sự thật khách quan, trách nhiệm chứng minh tội phạm được giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng đảm nhiệm. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ còn khá thụ động và trong nhiều trường hợp lệ thuộc vào các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều tra, thẩm vấn là phương pháp chủ yếu được áp dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng, thậm chí tại phiên tòa. Tổng kết thực tiễn thi hành mô hình tố tụng hình sự ở nước ta thời gian qua cho thấy, mô hình tố tụng hình sự hiện hành đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bước đáp ứng được yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, quá trình vận hành mô hình này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Việc tổ chức các hoạt động tố tụng hình sự đang có sự chồng lấn, mâu thuẫn giữa các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Cùng một chủ thể nhưng lại được giao nhiều chức năng tố tụng khác nhau. Tòa án có vai trò quá chủ động, tích cực trong phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và đang được giao thực hiện một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử (khởi tố vụ án, trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung…). Vai trò của Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm còn khá mờ nhạt, không tạo cơ sở phát huy tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của cơ quan buộc tội. Đặc biệt, vai trò của người bào chữa còn yếu ớt; chưa có những quy định để bảo vệ quyền của người bào chữa trong việc thực hiện quyền tố tụng. Việc thu thập chứng cứ, yếu tố quan trọng nhất liên quan đến việc định tội hoàn toàn do cơ quan nhà nước với những chức năng tố tụng khác nhau hình thành nên hồ sơ vụ án có xu hướng thiên về chứng cứ buộc tội mà thiếu chứng cứ gỡ tội, dẫn đến quyền suy đoán vô tội của bị cáo khó được tôn trọng một cách thực sự. (46)
  • 28. 21 1.4. Thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm Như đã nêu, phiên tòa hình sự sơ thẩm là khâu trong quá trình giải quyết vụ án, thủ tục tố tụng tại phiên tòa được ghi nhận và điều chỉnh trong luật tố tụng hình sự của mỗi nước. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội, truyền thống lập pháp của mỗi quốc gia, theo mô hình tố tụng mà quốc gia lựa chọn mà thủ tục tố tụng tại phiên tòa được quy định có những đặc điểm khác nhau. Tuy vậy, thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm có các bước sau: Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần thủ tục xét hỏi, phần thủ tục tranh luận, phần nghị án và tuyên án. 1.4.1. Phần thủ tục bắt đầu phiên tòa Bắt đầu phiên tòa có nghĩa là khởi đầu phiên tòa bắt đầu bằng việc khai mạc phiên tòa của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Trong phần này Chủ tọa phiên tòa giải quyết tất cả các vấn đề mang tính thủ tục. Việc tổ chức và tiến hành xét xử phục thuộc nhiều vào việc tiến hành đúng thủ tục bắt đầu phiên tòa hay không, nếu thực hiện đúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các giai đoạn tiếp theo. Sau đó là phần kiểm tra sự có mặt và lý lịch của người tham gia tố tụng, giải thích quyền nghĩa vụ của Chủ tọa phiên tòa. Như vậy bắt đầu phiên tòa là hoạt động nhằm thực hiện thủ tục bảo đảm cho việc tiến hành xét xử nội dung vụ án được chính xác, khách quan và thuận lợi. 1.4.2. Phần thủ tục xét hỏi và tranh luận 1.4.2.1. Phần thủ tục xét hỏi Xét hỏi được hiểu là xem xét, kiểm tra một vấn đề nào đó thông qua các câu hỏi và câu trả lời. Trong mỗi phiên tòa thì phần xét hỏi là phần thủ tục chính quan trọng bởi nó bộc lộ nội dung chính của vụ án, là hoạt động điều tra công khai thông qua đó quyết định việc chứng minh bị cáo có thực hiện hành vi phạm tội hay không, qua đó Tòa án mới có cơ sở để định tội danh hay xác định bị cáo không phạm tội cũng như giải quyết các vấn đề khác trong vụ án. Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra một cách toàn diện công khai tại phiên tòa qua thủ tục xét hỏi. Việc xét hỏi ở các mô hình tố tụng khác nhau về cơ bản khác nhau ở vai trò của chủ thể tham gia xét hỏi.
  • 29. 22 Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, phần thủ tục xét hỏi không được phân biệt rõ với phần tranh luận, việc tiến hành các thủ tục tố tụng là trách nhiệm của bên buộc tội và bên gỡ tội. Tuy nhiên, trong quá trình xét hỏi, Thẩm phán có quyền yêu cầu người làm chứng trả lời các câu hỏi của Luật sư, cũng có thể hỏi những câu hỏi để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Tại phiên tòa theo mô hình tố tụng xét hỏi, do Thẩm phán đã nghiên cứu hồ sơ sau khi bản cáo trạng được Kiểm sát viên thực hành quyền công tố công bố cáo trạng, Thẩm phán có trách nhiệm chứng minh tội phạm nên có vai trò hỏi chính, giữ vai trò chủ động, tích cực là người điều khiển phiên tòa nên Thẩm phán là người hỏi chính. Tuy nhiên hiện nay, nhiều nước trên thế giới có mô hình xét hỏi đều có quy định người giữ quyền công tố tại phiên tòa phải có trách nhiệm hỏi chính. Điều này phù hợp và thuận lợi vì Kiểm sát viên thường đã tham gia vụ án ngay từ khi khởi tố nên có sự am hiểu nội dung vụ án sâu sắc, hơn nữa vì họ có trách nhiệm bảo vệ cáo trạng mà họ đã đưa ra. Đó là sự pha trộn của các mô hình tố tụng, sử dụng yếu tố hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng vào mô hình tố tụng thẩm vấn. Nhìn chung, xét hỏi có thể được xem là nền tảng của việc tranh tụng trong mô hình tố tụng tranh tụng cũng như mô hình tố tụng pha trộn như đã nêu. Bởi vì, thông qua xét hỏi mới có cơ sở để xác định đầy đủ các tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ án. Từ đó, các chủ thể của bên buộc tội và bên gỡ tội có cơ sở để bảo vệ quan điểm lập luận của mình. Việc xét hỏi đúng trọng tâm, cụ thể và chi tiết bao nhiêu càng củng cố cho lập luận của các chủ thể vững chắc bấy nhiêu. Quan điểm của các chủ thể tranh luận chỉ có sức thuyết phục khi nó được đặt nền móng bởi các chứng cứ đã được đưa ra công khai qua xét hỏi tại phiên tòa và sẽ thiếu tính thuyết phục nếu các chứng cứ đưa ra dựa trên "án tại hồ sơ” mà không được thẩm định công khai tại phiên tòa. Kết quả tranh tụng trong giai đoạn xét hỏi là cơ sở cho lập luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án trong phần tranh luận. 1.4.2.2. Phần thủ tục tranh luận Theo Từ điển Luật học thì tranh luận tại phiên toà là “Hoạt động của những người tham gia tố tụng (các bên) tại phiên toà, trong việc trao đổi, bàn cãi các ý kiến
  • 30. 23 về vụ án”. “Tranh luận trước Toà án là một phần xét xử vụ án tại phiên toà, trong đó Công tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của họ, người bào chữa (trường hợp không có người bào chữa thì bản thân bị cáo) phát biểu, phân tích các chứng cứ được đưa ra xem xét, trình bày kết luận của mình về vụ án”. Như vậy bản chất của việc tranh luận là việc đối đáp giữa các bên trong việc thực hiện chức năng buộc tội và gỡ tội. Tranh luận là sự thể hiện rõ nét nhất của việc bình đẳng giữa các bên trong quá trình diễn biến phiên tòa hình sự sơ thẩm. Có thể thể xem tranh luận là giai đoạn trung tâm của phiên tòa. Bởi vì, trong phần này các bên buộc tội và gỡ tội, trước sự chứng kiến của HĐXX, công khai thực hiện chức năng của mình bằng việc đưa ra các lý lẽ và lập luận để bảo vệ quan điểm của mình. Tranh luận là việc thể hiện của nguyên tắc tranh tụng, là nguyên tắc của tố tụng hình sự và là một quá trình chứng minh để xác định sự thật của vụ án. Tranh tụng được ghi nhận và sử dụng trong pháp luật của hầu hết các nước theo truyền thống án lệ. Có thể thấy ở đây, tranh tụng đặt ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án, qua đó các thủ thể là hai bên buộc tội và gỡ tội có quyền bình đẳng thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ hoặc bác bỏ chứng cứ của bên còn lại. Vì vậy, tranh tụng diễn ra từ khi hành vi bị buộc tội. Tại phiên tòa theo mô hình tranh tụng, tranh tụng diễn ra từ khi bắt đầu phiên tòa chứ không riêng trong phần tranh luận song đây là bước thể hiện rõ nét nhất sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trong suốt quá trình tố tụng. Việc xét xử tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là việc HĐXX xem xét cáo trạng, cáo buộc của công tố viên hay chủ thể buộc tội đối với bị cáo, qua đó ra phán quyết tội danh, về hình phạt cũng như trách nhiệm pháp lý của bị cáo. Vì vậy bên buộc tội phải đưa ra chứng cứ, lý lẽ để chứng minh cho việc buộc tội là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật. Bên bị buộc tội đưa ra lý lẽ (trong mô hình tố tụng xét hỏi thì đây không phải là nghĩa vụ bắt buộc) để chứng minh cho việc phản bác của mình là có căn cứ. Chỉ có tranh luận thông qua việc đối đáp giữa các bên buộc tội với bên bị buộc tội với nhau thì các quan điểm của các bên mới được thể hiện rõ nét, qua đó
  • 31. 24 mới có cơ sở đánh giá được các tình tiết của vụ án. Do đó thủ tục tranh luận thể hiện rõ nét nhất nguyên tắc tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tranh luận là hoạt động cơ bản của các bên tham gia tố tụng, Tòa án chỉ giữ vai trò “trọng tài” cầm cân công lý để xem xét quan điểm của các bên. Tuy nhiên trong quá trình tranh luận, Tòa án điều hành cho việc tranh luận đi đúng nội dung và trình tự, duy trì quá trình tranh luận, hướng tranh luận vào việc giải quyết các tình tiết vụ án, căn cứ cho việc kết tội, quyết định hình phạt cũng như giải quyết các vấn đề liên quan trong vụ án. Các bên sử dụng quyền tranh luận như là phương tiện để phân tích, lập luận, đưa ra các lý lẽ, căn cứ pháp lý nhằm làm sáng tỏ các tình tiết cần chứng minh của vụ án, từ đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, thông qua tranh luận các bên có điều kiện nhận thức rõ hơn quyền và nghĩa vụ của mình. 1.4.3. Phần thủ tục nghị án và tuyên án Phiên tòa có thành phần xét xử là một Thẩm phán thì sau khi nghe tranh luận, Thẩm phán tự ra phán quyết độc lập mà không phải nghị án. Phần thủ tục nghị án được thực hiện khi phiên tòa được xét xử với HĐXX mà không phải là một Thẩm phán. Nghị án là bước tiến hành tố tụng trong đó HĐXX thảo luận và thông qua quyết định giải quyết vụ án sau khi đã nghe các bên trình bày tại phần xét hỏi và tranh luận. Đây là hoạt động đánh giá chứng cứ tổng hợp mang tính quyết định cuối cùng của xét xử sơ thẩm và phiên tòa hình sự sơ thẩm. Trên cơ sở nghị án với kết quả là bản án hoặc các quyết định được ban hành, được HĐXX sẽ tuyên một cách công khai.
  • 32. 25 Kết luận chương 1 Qua nghiên cứu về thủ tục tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm thấy rõ đây hoạt động trung tâm và quan trọng nhất trong tố tụng hình sự. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động công khai do Tòa án tiến hành ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện các chứng cứ, các tài liệu của vụ án hình sự, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định giả quyết toàn diện vụ án hình sự. Phiên tòa hình sự sơ thẩm ở mỗi mô hình tố tụng tranh tụng hay mô hình tố tụng thẩm vấn thường qua các bước: Bắt đầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận, nghị án và tuyên án. Tuy nhiên phiên tòa ở mỗi mô hình có những đặc trưng khác nhau: Đặc trưng của phiên tòa trong mô hình tố tụng tranh tụng là sự bình đẳng của bên buộc tội và bên gỡ tội, Tòa án là trọng tài tại phiên tòa, đề cao việc tranh luận và thu thập chứng cứ tại phiên tòa, được trình bày bằng miệng.... Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong tố tụng thẩm vấn bản chất là cuộc điều tra lại của Tòa án trên cơ sở tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trước đó, đề cao vai trò của Thẩm phán, hạn chế việc tranh luận cũng như quyền bào chữa... Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, pháp luật của các quốc gia có xu hướng giảm bớt những yếu tố đặc thù của mỗi mô hình tố tụng truyền thống. Đến nay không tồn tại mô hình tố tụng hình sự thuần túy là thẩm vấn hay tranh tụng. Trong quá trình tồn tại, các mô hình tố tụng đã có sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tiến bộ, tích cực của nhau để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con người. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam không phải là ngoại lệ, sự pha trộn giữa hai mô hình tố tụng tranh tụng và thẩm vấn đã tạo ra những đặc điểm riêng của phiên tòa hình sự sơ thẩm ở nước ta.
  • 33. 26 Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 2.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm 2.1.1. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm từ 1945 đến năm 1988 2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954 Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 02/9/1945, nhân dân ta đứng trước tình thế khó khăn về mọi mặt, vừa phải đấu tranh giữ chính quyền, vừa phải xây dựng kinh tế từ một nên kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Trong thời gian này, hoạt động tố tụng hình sự chủ yếu được thực hiện bởi các Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Nhà nước ký ban hành để giải quyết tính thế cấp bách trong chiến tranh. Hệ thống Tòa án được thiết lập bởi Sắc lệnh số 33c ngày 13/9/1945, Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946, Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946; Về cơ bản, quy định phiên tòa hình sự sơ thẩm ở nước ta thời kỳ này có xu hướng theo mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn của nước Pháp, có hai loại Tòa: “tiểu hình” và “đại hình”; Tòa “tiểu hình” xét xử “Khinh tội”, là loại tội có mức hình phạt đến 10 năm tù, hoặc với sự giám sát, yêu cầu lao động công ích, hoặc bị tước quyền về tài sản hoặc các đặc quyền. Phiên tòa sơ thẩm hình sự được tổ chức ở Tòa sơ thẩm (bố trí theo địa bàn cấp huyện), cấp đệ nhị (theo địa bàn cấp tỉnh). Thành phần phiên tòa sơ thẩm “tiểu hình” ở Tòa sơ thẩm chỉ có một Thẩm phán tham gia xét xử và được mở công khai, không có vai trò công tố buộc tội. Tại phiên tòa sơ thẩm ở cấp đệ nhị xét xử án “tiểu hình”, HĐXX có thành phần “Bồi thẩm nhân dân” do Hội đồng nhân dân tỉnh bầu ra và tham gia phiên tòa bằng hình thức rút thăm. Bồi thẩm không nghiên cứu trước hồ sơ và có quyền đóng góp ý kiến cũng như đề nghị xét hỏi bị cáo. Chánh án Tòa án cấp đệ nhị là người
  • 34. 27 trực tiếp xét xử và quyết định về tội danh và hình phạt. Chánh án và Bồi thẩm nhân dân phải tuyên thệ khi xét xử. Trong phiên tòa có vai trò của ông Biện lý giữ quyền công tố như Kiểm sát viên hiện nay. Theo Điều 28 Sắc lệnh 13 ngày 24/1/1946 thì Hội đồng xử “đại hình” tại Toà đệ nhị cấp có: Chánh án Toà đệ nhị cấp ghế Chánh án; Hai Thẩm phán làm Phụ thẩm chuyên môn và hai Phụ thẩm nhân dân rút thăm ở danh sách định trong điều thứ 18. Thủ tục tố tụng phiên tòa sơ thẩm xét xử án “Đại hình” quy định tại Điều thứ 31: Sau khi nghe các bị can, các người chứng, cáo trạng của ông Biện lý, và sau cùng nghe lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị xử để cùng xét xử về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt trường hợp tăng tội, và trường hợp giảm tội. Nghị án song, Toà lại họp và ông Chánh án tuyên đọc công khai bản án [14, Điều thứ 31]. Điều thứ 32 quy định về thủ tục nghị án: Những vấn đề bàn trong phòng nghị xử giải quyết theo đa số. Một người không biểu quyết sẽ coi như là có ý kiến lợi cho bị can [15, Điều thứ 32]. Ngày 09/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước ta đã được thông qua- Hiến pháp 1946, tại Điều 63 xác định cơ quan tư pháp gồm có: TAND tối cao, các Tòa án phúc thẩm, các Tòa đệ nhị cấp và sơ cấp. Hiến pháp đã ghi nhận nhiều nguyên tắc cơ bản về phiên tòa hình sự như nguyên tắc có phụ thẩm nhân dân tham gia, các phiên tòa phải công khai, về quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư. Trong khi xét xử, Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp. Tuy vậy Hiến pháp 1946 chưa được thực thi do hoàn cảnh chiến tranh và bối cảnh lịch sử thời điểm đó. Sắc lệnh số 85 ngày 25/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp. Ngoài việc đổi tên tòa sơ cấp thành tòa án nhân dân cấp huyện (quận), Tòa đệ nhị thành Tòa án nhân dân tỉnh (thành phố). Phụ thẩm nhân dân được đổi thành HTND. Khác với Phụ thẩm nhân dân trước đây, HTND khi xét xử có vai trò của HTND tham gia xét xử ngang quyền với Thẩm phán chuyên môn, có quyền biểu quyết về tội danh cũng như hình phạt.
  • 35. 28 Như vậy ở giai đoạn đầu từ sau khi cách mạng tháng tám thành công đến năm 1954, những quy định về tổ chức tòa án, cơ quan công tố cũng như việc tổ chức các phiên tòa trong đó có phiên tòa hình sự sơ thẩm theo xu hướng của mô hình tố tụng thẩm vấn, đề cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm là Tòa án. Mặc dù, các quy định này chưa được luật hóa, một số chưa được đưa ra thực hiện song đây là những nền tảng quan trọng đầu tiên cho việc phát triển pháp luật tố tụng hình sự trong đó có chế định về phiên tòa hình sự sơ thẩm ở nước ta. 2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975 Ở thời kỳ này, các quy định về tổ chức các cơ quan tiến hành tố tụng, mối quan hệ giữa các cơ quan này, cũng như các nguyên tắc xét xử cũng đã được pháp luật quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân nhân năm 1960; Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Thể chế hóa hiện pháp 1959, tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định: “Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” [30, Điều 1]. Tòa án có 3 cấp Tòa án trong hệ thống Tòa án gồm: Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện; Ngoài rà còn có Tòa án nhân dân ở các khu vực tự trị và các Tòa án quân sự. Thẩm phán và HTND được bầu theo nhiệm kỳ. Thực hiện xét xử theo chế độ hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Các nguyên tắc trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức tòa án năm 1960. Về thành phần phiên tòa, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định “Khi sơ thẩm, TAND gồm một Thẩm phán và hai HTND; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì TAND có thể xử không có HTND” [30, Điều 12]. Trong giai đoạn này, các nguyên tắc xét xử được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án là căn cứ để tổ chức phiên tòa và thông qua việc tổng kết kinh nghiệm cũng như hướng dẫn công tác xét xử của Tòa án nhân dân tối cao. Ngày 27/9/1974, Tòa án nhân dân tối cáo đã ban hành Thông tư số 16/TATC lần
  • 36. 29 đầu tiên các nội dung cơ bản của phiên tòa được quy định trong văn bản về trình tự xét xử riêng. 2.1.1.3. Giai đoạn sau năm 1975 đến trước năm 1988 Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức TAND năm 1981 tiếp tục có những quy định về thành phần HĐXX, về các nguyên tắc trong xét xử hình sự như: “Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán” “Việc xét xử tập thể, quyết định theo đa số”. Nhìn chung, các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm của nước ta từ khi thành lập đến trước khi có BLTTHS năm 1988 đã từng bước được hoàn thiện. Các văn bản pháp luật thời kỳ này đã quy định về thẩm quyền xét xử, thành phần HĐXX, vai trò của HTND, của Viện kiểm sát, quyền bào chữa của bị cáo cùng những nguyên tắc cơ bản của việc tiến hành phiên tòa hình sự sơ thẩm như nguyên tắc xét xử công khai, độc lập khi xét xử. Các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm còn rất tản mạn, chủ yếu do Tòa án nhân dân tối cao ban hành, nhiều thủ tục chưa có quy định chặt chẽ và rõ ràng tuy nhiên đã từng bước được cải thiện đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, bảo vệ lợi ích của con người. Điều này góp phần vào việc tạo tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và xây dựng BLTTHS. 2.1.1.4. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, đã thông qua BLTTHS. Đây là BLTTHS đầu tiên của nước ta trong đó trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được luật hóa một cách hệ thống và có hiệu lực cao nhất từ trước tới nay. Sau đó BLTTHS có một số sửa đổi… các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 6 năm 1990, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 09 tháng 6 năm 2000. Các thủ tục về phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy định tại chương 17, 18, 19, 20 từ Điều 159 đến Điều 200 của BLTTHS năm 1988. Về cơ bản, các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS 1988 kế thừa các quy định trước đây về nguyên tắc xét xử như xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, nguyên tắc thành phần HĐXX có Hội thẩm tham gia. Lần đầu tiên, trình
  • 37. 30 tự thủ tục tại tố tụng phiên tòa được quy định có 4 bước: thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục xét hỏi, thủ tục tranh luận, thủ tục nghị án và tuyên án. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa đã quy định chi tiết về việc khai mạc phiên tòa, kiểm tra căn cước, giải thích quyền nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, việc thay đổi thành viên HĐXX và những người tiến hành tố tụng khác, trường hợp hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt. Trình tự xét hỏi đã được quy định với vai trò nổi bật của Thẩm phán trong việc xét hỏi, quyết định việc cần thiết trong xét hỏi và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về trách nhiệm của HĐXX cùng Kiểm sát viên. Về thủ tục tranh luận đã có những quy định về để đảm bảo tranh tụng như đảm bảo quyền của bị cáo, người bào chữa trong tranh luận, đối đáp với Kiểm sát viên một cách bình đẳng, không được hạn chế thời gian tranh luận. Về thủ tục nghị án và tuyên án, Bộ luật đã xác định việc nghị án chỉ thuộc thẩm quyền của HĐXX; Bản án được HĐXX thông qua tại phòng nghị án và được tuyên công khai. Về giới hạn xét xử, Điều 170 BLTTHS năm 1988 quy định: Toà án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Toà án đã quyết định đưa ra xét xử. 2.1.2. Qui định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm của BLTTHS năm 2003 2.1.2.1. Quy định chung về phiên tòa a. Quyết định đưa vụ án ra xét xử: Cơ sở pháp lý cho việc mở phiên tòa là Quyết định đưa vụ án ra xét xử do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa ban hành; Trong quyết định này thể hiện nội dung: Bị cáo bị đưa ra xét xử, tội danh, điều khoản mà bị cáo bị truy tố, thành phần những người tiến hành tố tụng (Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán khác nếu có, HTND, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên…), những người tham gia tố tụng, về thời gian, địa điểm, vật chứng được đưa ra xem xét. Về thời gian, quyết định đưa vụ án ra xét xử ấn định thời gian bắt đầu phiên tòa. Vì thực tế mỗi phiên tòa có thời gian diễn ra tùy thuộc vào nội dung, diễn biến của phiên tòa nên không có giới hạn về thời gian trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
  • 38. 31 b. Hoãn phiên tòa: Việc hoãn phiên tòa được quy định tại Điều 194 BLTTHS năm 2003, theo đó, HĐXX sẽ hoãn phiên tòa sơ thẩm hình sự trong thời hạn không quá 30 ngày khi có một trong các căn cứ sau: - Các trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định tại các Điều 46, Điều 46 và Điều 47 BLTTHS khi phải thay đổi Thẩm phán, HTND, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên. Tuy nhiên, không phải trường hợp thay đổi nào cũng phải hoãn phiên tòa bởi tại phiên tòa nếu có Thẩm phán, HTND, Thư ký, Kiểm sát viên dự khuyết thì không phải hoãn phiên tòa. - Trường hợp bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng. - Người bào chữa vắng mặt trong trường hợp pháp luật quy định phải có người bào chữa. Đó là các trường hợp bị cáo bị truy tố về tội theo khung hình phạt có mức án tử hình, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Trường hợp bị cáo cũng như người đại diện hợp pháp cho bị cáo từ chối người bào chữa thì không phải hoãn phiên tòa. - Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại hiện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên tòa mà việc vắng mặt của họ trở ngại cho việc xét xử. - Người làm chứng về những vấn đề quan trọng (như về các nội dung cơ bản của vụ án, về những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, lời khai của người làm chứng trái với lời khai của bị cáo, người làm chứng khác cần phải đối chất tại phiên tòa…) vắng mặt. - Người giám định vắng mặt tại phiên tòa mà việc vắng mặt trở ngại cho việc xét xử. c. Giới hạn của việc xét xử: Giới hạn của việc xét xử được quy định tại Điều 196 BLTTHS năm 2003: “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”
  • 39. 32 Như vậy, Tòa án không được xét xử những người và hành vi không bị Viện kiểm sát truy tố, không được xét xử bị cáo theo tội danh nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát truy tố. Quy định này không giới hạn về khung hình phạt trong cùng một điều luật và các tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên sẽ xảy ra trường hợp, Tòa án cấp huyện xét xử vụ án mà bị cáo bị truy tố theo khung hình phạt thuộc thẩm quyền song khung hình phạt trong điều luật có thể áp dụng với bị cáo lại thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh thì phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp tỉnh xét xử. d. Những người tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm: - HĐXX sơ thẩm: Theo quy định tại Điều 185 BLTTHS năm 2003, thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án hình sự gồm một Thẩm phán và hai HTND, trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp (như vụ án lớn có nhiều bị cáo, liên quan đến nhiều địa phương đơn vị, các bị cáo phạm nhiều tội…) thì HĐXX có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối với vụ án mà bị cáo bị xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX cũng gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Nếu bị cáo là người chưa thành niên thì thành phần HĐXX phải có HTND là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là quy định tiến bộ bảo vệ người chưa thành niên bị xét xử bởi những thành viên HĐXX này hiểu rõ hơn các đặc điểm, tâm sinh lý của người chưa thanh niên. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa là người được Chánh án Tòa án phân công xét xử và là người điều hành và giữ kỷ luật phiên tòa. Thẩm phán phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm được tuyển chọn và bổ nhiệm theo quy trình rất chặt chẽ, được Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm và được phân công làm việc tại một đơn vị Tòa án nhất định. HTND được Hội đồng nhân dân địa phương bầu ra, không bắt buộc phải có chuyên môn và tham gia kim nhiệm, không thuộc biên chế Tòa án. Sự tham gia của HTND vào phiên tòa là hình thức công dân tham gia xét xử, tăng cường việc giám sát của Công dân đối với HTND chỉ có ở cấp xét xử sơ thẩm và do Chánh án Tòa án
  • 40. 33 cấp tỉnh hoặc cấp huyện quản lý, phân công xét xử. Điều 15 BLTTHS năm 2003 quy định “Khi xét xử, HTND ngang quyền với Thẩm phán”. Quy định này là sự kế thừa nguyên tắc xét xử có HTND tham gia, xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Thành phần HTND là bắt buộc ở tất cả các phiên tòa xét xử sơ thẩm.Khi xem xét các tình tiết của vụ án hình sự, các căn cứ pháp lý áp dụng cho việc xét xử vụ án và thảo luận với các thành viên khác của HĐXX thì việc biểu quyết là ngang nhau. HTND khi tham gia xét xử trực tiếp xét hỏi. - Thư ký phiên tòa là cán bộ Tòa án được phân công ghi biên bản phiên tòa và tiến hành các công việc cần thiết khác để tiến hành phiên tòa. Điều 41 BLTTHS năm 2003 quy định, nhiệm vụ của Thư ký Tòa án tại phiên tòa là: Phổ biến nội quy phiên toà; Báo cáo với HĐXX danh sách những người được triệu tập đến phiên toà; Ghi biên bản phiên toà. Như vậy nhiệm vụ quan trọng nhất và chủ yếu của Thư ký Tòa án tham gia phiên tòa là thể hiện tòa bộ nội dung phiên tòa bằng Biên bản phiên tòa. - Kiểm sát viên là Đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia phiên tòa. Sự tham gia của Kiểm sát viên là bắt buộc, đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp có thể có sự tham gia của hai Kiểm sát viên. Kiểm sát viên đồng thời có hai vai trò: giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa. - Bị cáo: Theo luật tố tụng hình sự, trong quá trình điều tra, truy tố và chuẩn bị xét xử thì người bị buộc tội được gọi là bị can. Khái niệm bị cáo chỉ người bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tại phiên tòa bị cáo được Tòa án bảo đảm quyền bình đẳng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ (theo quy định tại Điều 19 BLTTHS năm 2003). Theo quy định tại Điều 50 BLTTHS năm 2003: bị cáo tham gia phiên tòa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; trình bày ý kiến, tranh luận; nói lời sau cùng trước khi nghị án. Các quyền này được Chủ tọa phiên tòa giải thích tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa; Quy định này nhằm đảm bảo