SlideShare a Scribd company logo
1 of 147
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI ĐỨC TIẾN
THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI ĐỨC TIẾN
THùC HIÖN PH¸P LUËT
VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THẾ LIÊN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án bảo đảm độ tin cậy,
chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Bùi Đức Tiến
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 10
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra tiếp tục
nghiên cứu 25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 30
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự 30
2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật và hình thức thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự 46
2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự 55
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM 64
3.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 64
3.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự 86
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM 110
4.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở Việt Nam 110
4.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở Việt Nam 115
KẾT LUẬN 130
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 134
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan thi
hành án dân sự 88
Bảng 3.2: Kết quả về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự 91
Bảng 3.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền 92
Bảng 3.4: Thống kê các việc thi hành án dân sự phải tổ chức
cưỡng chế 93
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thi hành; đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước,
tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Đối với công tác thi hành án nói chung, công tác thi hành án dân sự nói
riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều
chủ trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật;
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường
pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự, trong đó dấu mốc lập pháp quan
trọng là Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009)
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014
(có hiệu lực từ ngày 01/7/2015).
Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,
hệ thống thi hành án dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần nâng
cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn công tác thi hành án dân
sự thời gian qua cho thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác
thi hành án dân sự cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, trong đó vấn đề
bức xúc hiện nay là tình trạng án tồn đọng, chưa tổ chức thi hành được. Tính
đến ngày 30/9/2017, tổng số việc các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn
quốc phải thi hành là 869.430 việc, đã thi hành xong là 549.415 việc, còn
320.015 việc (chiếm 20,75% tổng số việc phải thi hành) chưa thi hành được)
[72]. Đáng chú ý là để đảm bảo hiệu quả thi hành án, có nhiều vụ việc, cơ
quan thi hành án dân sự phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế do đương sự
2
không tự nguyện thi hành, cản trở, chống đối việc thi hành án (chỉ riêng trong
năm 2017, các cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế có huy
động lực lượng là 5.549 trường hợp) [72] . Như vậy, về nguyên tắc, quá trình
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự để thi hành bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật thì thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ
đặt ra khi đương sự không tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, từ thực tiễn công
tác thi hành án dân sự cho thấy rằng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự cũng còn những vướng mắc, bất cập cả về lý luận và thực tiễn
cần phải có sự nghiên cứu có hệ thống và toàn diện hơn. Ví dụ như: về mặt lý
luận, chưa làm rõ mối quan hệ giữa tự nguyện và cưỡng chế trong thi hành án
dân sự khi mà về nguyên tắc thì cưỡng chế chỉ đặt ra khi đương sự không tự
nguyện thi hành án nhưng sự tự nguyện của đương sự vẫn được khuyến khích
sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế; hoặc như
mối quan hệ giữa việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các biện pháp
cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Về mặt thực tiễn, trình tự, thủ tục cưỡng
chế thi hành án dân sự còn chồng chéo, kéo dài; trong nhiều việc thi hành án,
các chủ thể chưa thực hiện đúng quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự (người phải thi hành án cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án;
chấp hành viên chưa tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế; cá nhân, tổ
chức liên quan can thiệp trái pháp luật vào quá trình cưỡng chế…); các điều
kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự (kinh phí,
phương tiện làm việc, công cụ hỗ trợ…) chưa phù hợp với đặc thù của hoạt
động thi hành án dân sự và yêu cầu đảm bảo hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự…Thực trạng nêu trên đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, làm rõ
một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
và luận giải một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, từ đó, tác giả chọn đề tài: "Thực
3
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam" có ý nghĩa
cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác thi hành án dân sự hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự; thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự, (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn
chế, bất cập và nguyên nhân), luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp
đảm bảo hiệu quả đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án dân
sự ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận án thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án
dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; nội dung, vai
trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và những yếu tố
ảnh hưởng đến hoạt động này.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở Việt Nam từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu
lực đến nay.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án
dân sự.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và chính sách, pháp luật liên quan
đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu
hoạt động thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền
của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và mối quan hệ với cơ quan,
tổ chức có liên quan trên phạm vi toàn quốc (không bao gồm thực hiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của Thừa phát lại). Thời gian nghiên cứu
được giới hạn từ năm 2008 đến nay (thời điểm Quốc hội ban hành Luật Thi
hành án dân sự năm 2008).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu ở trên, luận án dựa trên cơ sở lý
luận và cơ sở thực tiễn sau đây:
- Về phương pháp luận, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật; các quan
điểm, đường lối của Đảng thể hiện trong các Nghị quyết, đặc biệt là các Nghị
quyết Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và Nghị quyết có đề cập đến vấn đề
xây dựng nhà nước pháp quyền của các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
các khóa và các nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp.
Về cơ sở thực tiễn: Luận án bám sát thực tiễn cải cách bộ máy nhà nước
và cải cách tư pháp, nhất là qua hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi
mới ở nước ta thời gian qua.
5
Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận án sẽ sử dụng các phương
pháp cụ thể tại các chương như sau:
- Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại
chương 2, nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa
thành những luận điểm, quan điểm làm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội
dung của luận án (ví dụ như: để nghiên cứu, làm rõ những đặc trưng của thực
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự so với thực hiện pháp luật nói
chung cũng như thực hiện pháp luật về cưỡng chế hình sự, cưỡng chế hành
chính; nghiên cứu quá trình hoàn thiện pháp luật là cơ sở cho thực hiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...).
- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng
nhằm làm rõ những nội dung của chương 3. Đây là chương đánh giá thực
trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với những ví dụ, số
liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở cho việc đề
xuất các giải pháp ở chương 4. Ngoài ra, phương pháp phân tích cũng được áp
dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những
vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án.
- Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại chương
4 để làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư
pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
5. Dự kiến những đóng góp mới của luận án
So với các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến thi hành án
dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự đã được công bố, Luận án này có dự
kiến có những đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, luận án phân tích, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò
của cưỡng chế thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự.
6
Thứ hai, bằng việc phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc biệt là áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự từ khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, luận án làm sáng
tỏ tính quyết định của áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đối
với các yêu cầu thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật.
Thứ ba, bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, luận án kiến nghị, đề xuất
hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng và luận giải các giải pháp đảm bảo
thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về lý luận, kết quả của luận án góp phần vào hoàn thiện lý luận về
thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói
riêng; chỉ rõ thực trạng và đề xuất giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Về thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào
tạo chức danh tư pháp.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền để đảm bảo công lý, công bằng trong xã hội luôn là một
trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, những nhà
lập pháp và thực thi pháp luật. Vì vậy, trong luận án, khi nghiên cứu thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tác giả sẽ nghiên cứu vấn đề này
đã được đề cập, nghiên cứu như thế nào ở các bình diện quốc tế và trong
nước, những vấn đề gì cần tiếp tục đặt ra giải quyết trong điều kiện thực tế
của Việt Nam. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra những kết quả nghiên cứu
mới về vấn đề này.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
Nghiên cứu pháp luật thi hành án của nhiều nước cho thấy mô hình tổ
chức hệ thống cơ quan thi hành án có chức năng tổ chức thi hành án nói
chung, cưỡng chế thi hành án nói riêng có sự khác biệt và tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm truyền thống pháp lý của mỗi nước. Có nước tổ
chức theo mô hình thi hành án công, có nước theo mô hình tổ chức thi hành
án bán công (cơ quan thi hành án có thể thuộc Tòa án hoặc cơ quan hành
chính nhà nước) và cũng có nước theo mô hình thi hành án tư nhân (ví dụ như
Thừa phát lại). Vì vậy, việc tổ chức thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành
án nói riêng cũng tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật khác nhau. Có thể đề cập
một số công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự ở một số nước trên thế giới như sau:
- Kỷ yếu hội thảo: "Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới" của
Nhà pháp luật Việt - Pháp [42]. Đây là tài liệu tập hợp các tham luận của một
số giáo sư, nhà khoa học, chuyên gia của một số nước nghiên cứu về những
8
vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới.
Cụ thể như trong kỷ yếu, các tác giả cho rằng thi hành án không phải là một
lĩnh vực độc lập nên không thể được tổ chức theo một mô hình thống nhất;
việc tổ chức mô hình thi hành án phụ thuộc vào các quy định của luật tố tụng
liên quan của mỗi nước (Giáo sư Claude Brenner, Đại học Panthéon-Assas
Cộng hoà Pháp). Việc thi hành án dân sự ở Pháp được giao cho Thừa phát lại;
Thừa phát lại được bảo đảm tính độc lập trong khi hành nghề, nếu có vi phạm
thì người phải thi hành có quyền khởi kiện trước Thẩm phán đặc trách về thi
hành án đối với những biện pháp mà người phải thi hành án bị áp dụng. Trong
quá trình thi hành án, Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp có tính
cưỡng chế như kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ, kê biên tiền
lương, kê biên động sản, kê biên tài sản vô hình ở Pháp (Nicolas Monacho
Duchene, Phó Chánh án Tòa án phúc thẩm Rennes Pháp). Ở Trung Quốc,
nếu người phạm tội bị áp dụng biện pháp phạt tiền thì việc thi hành án do
các Tòa án thực hiện; việc nộp phạt có thể thực hiện một lần đối với toàn
bộ số tiền phạt hoặc nộp thành nhiều lần theo thời hạn được quy định trong
bản án; nếu hết thời gian quy định mà người bị phạt tiền vẫn chưa nộp hết
khoản tiền phạt thì bị cưỡng chế nộp tiền; người phải thi hành án có thể bị
tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản của cá nhân, trừ các đồ dùng cần thiết
cho cuộc sống của người phải thi hành án và các thành viên gia đình sống
phụ thuộc vào người đó.
- "Enforcing U.S. Judgments in Canada: A Practical Guide" (Thi hành
các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa: Hướng dẫn thực tế) của M.D. Parrish
[1]. Bài viết khái quát việc thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài ở
Canađa, theo đó trước năm 1990 các phán quyết của tòa án nước ngoài không
được thi hành ở Canađa nếu bị đơn người Canađa không hiện diện tại Tòa án
nước ngoài tại thời điểm sự kiện pháp lý xảy ra hoặc không có mặt tại phiên
9
tòa. Tuy nhiên, sau năm 1990, pháp luật quy định phán quyết của Tòa án
nước ngoài có thể được thi hành ở Canađa, theo đó nếu người được thi
hành án ở nước ngoài muốn thi hành phán quyết ở Canađa thì họ phải tìm
hiểu, xác định người phải thi hành án có hiện diện và có tài sản ở Canada
hay không?; người có thẩm quyền phán quyết về tài sản và tài sản của
người đó ở đâu? Nếu không trả lời được các vấn đề trên thì bản án của tòa
án nước ngoài khó có thể được thi hành ở Canađa. Bởi vậy, việc cưỡng chế
tài sản để thi hành án cũng phải phụ thuộc vào việc người phải thi hành án
có tài sản ở Canađa hay không.
- "Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà" của tác giả
N.M.Duchene [44]. Tác giả tham luận thông tin cho biết: ở Pháp, để có cơ sở
thi hành án và cưỡng chế thì người được thi hành án, Thừa phát lại phải tìm
hiểu thông tin về người phải thi hành án; nếu không có được thông tin cần
thiết về người phải thi hành án thì Thừa phát lại có thể yêu cầu cơ quan công
tố cung cấp thông tin. Để đảm bảo thi hành án, Thừa phát lại có thể thực hiện
các biện pháp kê biên động sản, kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ,
kê biên tiền lương, kê biên tài sản vô hình ở Pháp. Đối với cưỡng chế trả nhà
thì phải có phán quyết của Thẩm phán; đồng thời trước khi có phán quyết của
Tòa án thì người được thi hành án phải đến gặp đại diện chính quyền địa
phương thông báo để chính quyền bố trí chỗ ở cho người phải di dời.
Từ việc tham khảo một số công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự
và cưỡng chế thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới, Luận án đưa ra
một số nhận xét sau đây:
Một là, mặc dù có sự khác biệt về pháp luật và mô hình tổ chức thi
hành án dân sự (công, bán công, tư nhân), nhưng pháp luật các nước đều có
quy định những vấn đề chung về cưỡng chế thi hành án dân sự như: việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được nhân danh quyền lực nhà
10
nước khi người phải thi hành án không tự nguyện; cơ quan có thẩm quyền
cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là Tòa án đã xét xử; Thừa phát lại, Cơ
quan thi hành pháp luật, Cảnh sát trưởng. Biện pháp cưỡng chế thường áp
dụng là cưỡng chế trả tiền, cưỡng chế giao tài sản, cưỡng chế trục xuất ra khỏi
nhà, cưỡng chế bán đấu giá tài sản, cưỡng chế quản lý, khai thác tài sản,
cưỡng chế thu tiền công, tiền lương...
Hai là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận
của việc thi hành án là xuất phát từ việc bảo đảm thực thi các bản án, quyết
định có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền, trong đó cơ sở quan trọng là đảm
bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình thi hành án. Hoạt động thi
hành án dân sự có đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng
quyền lực Nhà nước, do đó hoạt động thi hành án dân sự luôn làm phát sinh,
hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền cơ bản của công dân (quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản).
Ba là, mặc dù các nước có hệ thống pháp luật và quy định về cưỡng
chế thi hành án dân sự khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép
tác giả có cơ sở khái quát về cưỡng chế thi hành án dân sự một cách đa chiều,
có tính so sánh và đối chiếu, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so sánh
với thực trạng thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
và luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
Dưới góc độ thực thi công lý, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở nước ta được xem xét và đề cập ở nhiều góc độ như: các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; các điều kiện thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự; trách nhiệm của các chủ thể thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự… Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục
11
vụ cho đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành các
nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự, gồm có:
- "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động
thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" của Nguyễn Đình Lộc [38]. Kết
quả nghiên cứu đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động
thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện
pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành
án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
- "Kỹ năng thi hành án dân sự" của Học viện Tư pháp [30]. Cuốn sách
tập trung phân tích, tổng hợp những quy định cơ bản và kỹ năng, nghiệp vụ
trong thi hành án dân sự rút ra từ thực tiễn thi hành án dân sự như: kỹ năng
kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; kỹ năng tiếp
công dân; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án... Tuy nhiên, cuốn sách với
ý nghĩa như cuốn cẩm nang cho chấp hành viên và công chức thi hành án dân
sự nên chỉ đề cập mang tính khái quát về các biện pháp cưỡng chế dưới góc
độ thể chế, các quy định về các biện pháp được chấp hành viên áp dụng trong
quá trình tổ chức thi hành án mà chưa đề cập đầy đủ các hình thức thực hiện
pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện bởi các chủ thể khác
nhau (như: tuân thủ pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, sử dụng pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của
cuốn sách cũng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc tiếp cận cưỡng chế
thi hành án dân sự cả ở góc độ thể chế và thực tiễn.
- "Sổ tay chấp hành viên" của tác giả Lê Thu Hà [24]. Cuốn sách khái
quát quy định pháp luật về thi hành án dân sự trên cơ sở Luật Thi hành án dân
sự 2008, theo đó phân tích các quy định pháp luật về thi hành án dân sự và
12
các kỹ năng cần thiết cho chấp hành viên trong quá trình thực hiện các trình
tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể như: việc nhận bản án, quyết định; thụ
lý yêu cầu thi hành án; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án; đôn đốc,
hướng dẫn đương sự tự nguyện hay thỏa thuận thi hành án; việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự...Mặc dù việc cưỡng chế thi hành án
dân sự được đề cập trong cuốn sách nhưng chỉ dừng ở phạm vi là những lưu ý
khi lựa chọn, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể mà
chưa đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân sự như là một chế định, một biện
pháp cơ bản trong thi hành án dân sự nhưng cũng có giá trị tham khảo cho
việc đánh giá thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ
quan thi hành án dân sự hiện nay.
- "Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật
về thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung
[64]. Cuốn sách phân tích, tổng hợp các tình huống phát sinh trong thực tiễn
thi hành án dân sự đòi hỏi có sự nhận thức thống nhất trong cách hiểu và áp
dụng các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó
chủ yếu là quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể như
vấn đề ra quyết định thi hành án, thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp
dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự... qua
đó giúp cho chấp hành viên nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan chặt chẽ và là nguồn tham
khảo quan trọng để nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành
án dân sự hiện nay.
- "Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt
Nam" của tác giả Lê Thu Hà [25]. Nội dung cơ bản của cuốn sách là phân
tích, hệ thống hóa khái quát quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
13
ở nước ta từ năm 1945 đến năm 2011, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng
những vướng mắc, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự theo Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các tác giả
phân tích, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về một số vấn đề cụ
thể, trong đó có cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu
tham khảo cho việc tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
nói riêng.
- "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của
tác giả Nguyễn Thanh Thủy [65]. Luận án đã phân tích, làm rõ một số vấn đề
lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như khái niệm, bản chất,
đặc điểm thi hành án dân sự; nội dung, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự. Đặc biệt là trên cơ sở khái quát quá trình hoàn
thiện và thực trạng pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta, tác giả đã đưa ra
một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có giá trị tham khảo quan trọng để tạo cơ
sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở nước ta hiện nay.
- "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Quang Thái [60]. Luận án đã phân
tích yêu cầu, phương hướng, giải pháp đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động
thi hành án dân sự, đó là: nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật về thi hành
án dân sự; xây dựng mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo ngành
dọc, giảm đầu mối; từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân
sự Mặc dù phạm vi nghiên cứu của luận án mới chỉ đề cập tới tăng cường
pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung song những kiến nghị
14
của tác giả về hoàn thiện pháp luật, mô hình tổ chức các cơ quan thi hành án
dân sự đã tạo tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự.
- "Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam"
của tác giả Đặng Đình Quyền [56]. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận về hiệu
quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, trong đó nêu bật
các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật
trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả áp dụng pháp
luật thi hành án dân sự, tác giả luận án đã phân tích một số giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, trong đó có những kiến nghị
về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự có nghĩa quan trọng cho việc
hoàn thiện cơ sở pháp lý để đảm bảo cưỡng chế thi hành án dân sự.
- "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp" của tác giả Trần Phương Hồng [31]. Tác giả luận văn đã phân tích
một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như: khái
niệm, vai trò, đặc điểm pháp luật thi hành án dân sự để từ đó đánh giá thực
trạng hệ thống pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách
tư pháp. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự, theo đó những đề xuất hoàn thiện pháp luật không chỉ
dừng ở việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp
luật về thi hành án dân sự, mà còn bao hàm cả việc bổ sung, sửa đổi các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan và các cơ chế phối hợp trong công tác thi
hành án dân sự. Kết quả luận văn có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu,
hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở cho việc nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- "Đánh giá các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành
trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật" của tác giả Lê Thị Hoàng Thanh
15
[59]. Bài viết của tác giả đã phân tích những vướng mắc, bất cập của mô hình
tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, qua đó kiến nghị các
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan như: hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý nhà
nước về thi hành án hành chính; hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004,
Bộ luật Dân sự năm 2005, đặc biệt là các quy định nhằm nâng cao tính minh
bạch trong việc quản lý tài sản, thu nhập của cá nhân nhằm đảm bảo hiệu quả
thi hành án dân sự, nhất là đối với việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và
cưỡng chế thi hành án dân sự.
- "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự
hiện nay" của tác giả Lê Hùng Cường [13]. Bài viết tập trung phân tích những
vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi
hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như:
vướng mắc, bất cập về xác minh điều kiện thi hành án; thực hiện thông báo
thi hành án; miễn, giảm trong thi hành án dân sự… Từ đó, tác giả đề xuất
một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự,
đó là: cần phải quy định rõ về người được thi hành án tự xác minh điều
kiện thi hành án của người phải thi hành án; cần sửa đổi quy định người
phải thi hành án "đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành,
nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch" là điều
kiện bắt buộc để xét miễn, giảm; hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng
dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự theo hướng đồng bộ, thống nhất, tạo
điều kiện thuận lợi để các chấp hành viên tổ chức thi hành án đạt hiệu quả
cao và cụ thể hóa các quy định của Luật Thi hành án dân sự về sự phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương trong công tác thi
hành án dân sự. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham
khảo cho việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
16
hiện pháp luật thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự.
- "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước Cộng hòa Pháp" của tác
giả Điền Đức Thành [61]. Trong vài viết này, tác giả thông tin về thẩm quyền
của Thừa phát lại đối với việc thi hành án dân sự, trong đó có thẩm quyền
cưỡng chế tài sản để thi hành án. Theo đó, Thừa phát lại được can thiệp bất kỳ
thời gian nào theo yêu cầu của người có quyền lợi bị xâm hại được pháp luật
công nhận và bảo vệ; trong quá trình thi hành án, Thừa phát lại có thể đề nghị
Thẩm phán đặc trách thi hành những án lệnh cần thiết hoặc trực tiếp yêu cầu
sự can thiệp của thẩm phán phụ trách thi hành án trong trường hợp khó khăn
khi tổ chức thi hành án. Ngoài ra, Thừa phát lại cũng là người duy nhất có
quyền yêu cầu sự trợ giúp của các lực lượng công quyền khi cần để kê biên tài
sản để xử lý theo pháp luật. Trường hợp người thuê nhà không trả được tiền
thuê, thì Thừa phát lại sẽ áp dụng biện pháp thu hồi tiền thuê và trục xuất
người thuê ra khỏi nơi thuê, hoặc trong lĩnh vực thương mại thì thực hiện các
biện pháp cưỡng chế thu hồi giấy tờ có giá như chi phiếu hoặc thương phiếu
chưa thanh toán.
- "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế
giới" của Chu Thị Hoa [29]. Trong bài viết này, tác giả tổng hợp và thông tin
về mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước, trong đó cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền thi hành án được quyền thực hiện các biện pháp thi
hành án và cưỡng chế thi hành án để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Tòa án. Cụ thể như:
+ Ở Indonesia, pháp luật quy định việc thi hành các quyết định của
Tòa án thuộc trách nhiệm của Tòa án trong các vụ án dân sự. Theo quy định
của pháp luật Indonesia thì sau khi có bản án bên thắng kiện (người được thi
hành án) có quyền đến Tòa án quận để đề nghị Tòa án ra lệnh thi hành án.
17
Trên cơ sở lệnh thi hành án của Tòa án, Thư ký Tòa án hoặc chấp hành viên
sẽ tổ chức thi hành lệnh thi hành án đó và khi cần thiết thì có quyền tổ chức
cưỡng chế với sự hỗ trợ của cảnh sát để đảm bảo thi hành đúng bản án/quyết
định của Tòa án.
+ Ở Singapore, việc tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự ở
Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Ở Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ
phận thi hành án, theo đó nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án,
vừa có nhiệm vụ tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi
hành án của Tòa án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Về thủ tục thi hành
án dân sự, pháp luật quy định: khi có bản án, người được thi hành đến gặp
người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải
thi hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án
muốn được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi
Toà án; người được thi hành án hoặc luật sư đại diện phải trực tiếp chỉ cho
nhân viên thi hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho
người được thi hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền
thì chỉ cho nhân viên thi hành án tài sản của người phải thi hành án để nhân
viên thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người
khác giữ.
+ Ở Liên bang Nga, pháp luật quy định việc thi hành án dân sự và
cưỡng chế thi hành án dân sự do Cục thi hành án Liên bang và các cơ quan
thi hành án địa phương chịu trách nhiệm thi hành. Cục thi hành án Liên
bang được giao nhiệm vụ bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi
hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật và
quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên và bán tài sản kê biên; truy tìm
con nợ và tài sản của họ; tham gia bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga với tư
cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản; hướng dẫn và giám sát
18
hoạt động của các cơ quan thi hành án địa phương thuộc Cục thi hành án
Liên bang; lập và duy trì ngân hàng dữ liệu về công tác thi hành án và các
nhiệm vụ tương tự khác…
+ Ở Hoa Kỳ, hoạt động thi hành án được tách biệt giữa cấp Liên bang
và cấp bang. Ở cấp Liên bang, Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành pháp luật là
Cơ quan thi hành pháp luật Liên bang (US Marshal Service), trong các nhiệm
vụ của cơ quan này có nhiệm vụ bắt giữ, đấu giá tài sản (bao gồm cả tài sản
liên quan tới tội phạm hình sự, tài sản liên quan tới thi hành án dân sự). Ở cấp
bang, đối với hoạt động thi hành pháp luật, chức danh quan trọng nhất là
Cảnh sát trưởng (sheriff). Tại hầu hết các bang ở Hoa Kỳ, Cảnh sát trưởng
chính là nhân viên thi hành pháp luật cao nhất (trong đó có nhiệm vụ thi hành
án); giúp việc cho Cảnh sát trưởng có đội ngũ nhân viên hoạt động chuyên
môn, được gọi là các nhân viên Văn phòng Cảnh sát trưởng (sheriff’s officer)
hoặc nhân viên thi hành pháp luật (sheriff’s deputy).
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm có:
- "Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam" của Trường Đại học
Luật Hà Nội [74]. Đây là cuốn giáo trình có tính chuyên ngành về thi hành án
dân sự, được sử dụng để giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung
giáo trình đề cập đến những kiến thức cơ bản về pháp luật thi hành án dân sự
trên cơ sở pháp luật hiện hành, phân tích cụ thể mô hình tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự; các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có nội
dung liên quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Giáo trình đã đưa ra khái niệm:
"Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự
dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ
thi hành án dân sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người
19
phải thi hành có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án", đồng
thời đưa ra các đặc điểm cơ bản của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự;
đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi
của người phải thi hành án; người phải thi hành án phải chịu chi phí cưỡng
chế thi hành án dân sự; nguyên tắc, vai trò, ý nghĩa của các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, giáo trình mới tiếp cận phân tích cưỡng
chế thi hành án dân sự dưới góc độ là các biện pháp được áp dụng theo quy
định của pháp luật mà chưa phân tích, đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân
sự với nghĩa là hoạt động thực tế nhằm tổ chức thực hiện các "quyết định
cưỡng chế" do chủ thể có thẩm quyền ban hành. Tuy vậy, những nội dung của
giáo trình có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đánh giá thực hiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
- "Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Văn
Luyện, Nguyễn Thanh Thủy [39]. Cuốn sách này phân tích, tổng hợp các quy
định pháp luật và kỹ năng thực tiễn giúp cho chấp hành viên, công chức thi
hành án dân sự có thể áp dụng, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ thi
hành án dân sự được giao, trong đó có các vấn đề lý luận và thực tiễn về
cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo tài liệu này, các tác giả quan niệm:
"Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do cơ quan thi hành án áp dụng
nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án) thực hiện nghĩa vụ về tài sản
hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật".
Trên cơ sở quan niệm trên, các tác giả cũng đưa ra các điều kiện áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như: người phải thi hành án có điều kiện
thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án; việc cưỡng chế phải căn cứ
vào bản án, quyết định; quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành
án dân sự, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài
sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
20
tạm thời của Tòa án….Mặc dù tác giả phân tích, đề cập đến một số vấn đề về
kỹ năng nghiệp vụ cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng chủ yếu chỉ tập trung
vào việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của chấp hành viên
(một trong 04 hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự)
và chưa đề cập đến các hình thức khác của thực hiện pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự, nhưng những kỹ năng nghiệp vụ được phân tích trong tài
liệu có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài luận án.
- "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả
Hoàng Thế Anh [1]. Luận án đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giám sát
thi hành án dân sự, theo đó đã làm rõ giám sát thi hành án dân sự với góc độ
là một cơ chế, biện pháp để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước đối với hoạt
động thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực thi hành. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả giám sát thi
hành án dân sự hiện nay, tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể để cải
cách, nâng cao hiệu quả giám sát thi hành án dân sự như: hoàn thiện mô hình
tổ chức bộ máy, thể chế giám sát…Vì vậy, kết quả nghiên cứu là cơ sở cho
việc xác định cơ chế giám sát thi hành án dân sự trong việc thực hiện các trình
tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có việc giám sát việc thực hiện các
quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- "Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu" của tác giả Lại Anh Thắng [62]. Tác giả luận văn phân tích một số vấn
đề lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự như khái niệm, vai trò,
đặc điểm của thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá
thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải pháp như: hoàn thiện pháp
luật về thi hành án dân sự; hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ cho cán
bộ, công chức thi hành án dân sự; tăng cường các biện pháp xử lý các vụ việc
21
thi hành án dân sự tồn đọng; đẩy mạnh việc kiểm tra, phối hợp thanh tra công
tác thi hành án dân sự nhằm tăng cường kỷ cương và nâng cao chất lượng
hiệu quả công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành án dân sự;
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp ở
tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu…Tuy luận văn chỉ đề cập đến thực hiện pháp luật về
thi hành án dân sự nói chung nhưng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc
nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều
kiện hiện nay.
- "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan
hữu quan trong thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [16]. Trong
bài viết, tác giả cho rằng sự phối hợp có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án
dân sự nói riêng. Bởi thực tế thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ
quan thi hành án dân sự, chấp hành viên gặp phải nhiều thách thức khi giữa
người được thi hành án và người phải thi hành án luôn có sự đối lập quyền và
lợi ích, do đó, mặc dù pháp luật quy định cơ quan thi hành án dân sự và chấp
hành viên có nhiều quyền nhưng cơ bản là các quyền đề nghị, kiến nghị nên
để đảm bảo hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân
sự cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan. Trên cơ sở phân
tích trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án dân sự,
tác giả đưa ra một số yêu cầu đối với chấp hành viên, công chức thi hành án
dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự
như: yêu cầu về kiến thức chuyên môn; nghệ thuật giao tiếp và tác phong làm
việc…. Mặc dù những phân tích, kiến nghị của tác giả về mối quan hệ phối
hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan hữu quan chỉ đề cập ở
bình diện chung nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài
luận án, bởi vì thực tiễn cho thấy rằng quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng
22
chế thi hành án dân sự là vấn đề mà cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều
thách thức, khó khăn nhất nên hiệu quả công tác này không thể thiếu sự phối
hợp hiệu quả của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
- "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành
án dân sự và một số khuyến nghị" của tác giả Trần Công Thịnh [63]. Tác giả
bài viết cho rằng hiệu quả của việc cưỡng chế kê biên tài sản là cơ sở, tiền đề
cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản khi đương sự
không tự nguyện thi hành. Qua nghiên cứu vấn đề này, tác giả chỉ ra những
vướng mắc gây cản trở cho việc cưỡng chế như: một bộ phận chấp hành viên,
công chức làm công tác thi hành án dân sự có trình độ chuyên môn chưa đáp
ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới; nhiều trường hợp chấp
hành viên chưa thực sự tích cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp,
khó khăn; ngại khó, ngại va chạm; cơ chế quản lý, hoạt động thi hành án dân
sự còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc cưỡng
chế còn chưa tốt; nhiều quy định của pháp luật về kê biên tài sản còn chưa
chặt chẽ, rõ ràng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự nói chung, hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế kê
biên tài sản nói riêng.
- "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về cưỡng chế
trả giấy tờ" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [15]. Tác giả bài viết cho rằng việc
thực hiện quy định về cưỡng chế trả giấy tờ chỉ được thực hiện khi không còn
giải pháp nào khác, vì thực tế việc cưỡng chế buộc thực hiện hành vi theo quy
định trên không mang lại hiệu quả đương sự không những không thực hiện
quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi mà còn không nộp phạt vi phạm
hành chính. Thậm chí, quy định về đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự nêu
trên thể hiện sự nghiêm khắc, nhưng thực tế không khả thi, vì hành lang pháp
lý để truy cứu hình sự đối với hành vi này chưa được hướng dẫn và chưa có
23
sự thống nhất giữa cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, đến nay
mặc dù pháp luật về thi hành án có quy định chế tài này nhưng cũng chưa có
trường hợp nào bị xử lý khi không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực
hiện hành vi của chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Những phân tích,
kiến nghị của tác giả mặc dù chỉ đề cập đến biện pháp cưỡng chế cụ thể là
"cưỡng chế giao, trả giấy tờ" nhưng có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện
pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự nói chung.
- "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng
đất nông nghiệp ở Đồng Tháp" của tác giả Bùi Văn Tấn [58]. Tác giả bài viết
phân tích những khó khăn trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất
nông nghiệp của người phải thi hành án ở Đồng Tháp thông qua một số vụ
việc cụ thể. Theo tác giả thì việc bán đấu giá khó khăn là do người có nhu cầu
mua đất để sản xuất, kinh doanh có tâm lý ngại mua tài sản do cơ quan thi
hành án dân sự bán đấu giá vì họ sợ mất lòng với chủ sở hữu cũ và ngại vấn
đề sẽ bị chủ cũ bao chiếm tài sản bị cưỡng chế nên ít có người tham gia đăng
ký mua tài sản; năng xuất, sản lượng sản phẩm nông nghiệp ở nông thôn hiện
nay có giá trị thấp, dẫn đến thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng
giảm theo. Bởi vậy, để đảm bảo hiệu quả thi hành án thì khi người được thi
hành án đề nghị kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất thì phải tạm ứng chi
phí cho việc đo đạc, kê biên, thẩm định giá và chi phí thông báo bán đấu giá;
trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể kê biên, bán đấu giá diện tích đất
phù hợp với tập quán canh tác và các quy định khác ở địa phương nhằm tạo
thuận lợi cho người có nhu cầu mua quyền sử dụng đất nông nghiệp bị cưỡng
chế kê biên, bán đấu giá.
- "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án
dân sự" của tác giả Hồ Quân Chính [4]. Bài viết đề cập đến việc thực hiện
24
quy định về lập kế hoạch cưỡng chế theo Điều 72 Luật Thi hành án dân sự,
tuy nhiên hiện nay vẫn có cách hiểu khác nhau về các trường hợp phải lập kế
hoạch cưỡng chế và trường hợp phải thực hiện cưỡng chế ngay. Tác giả cho
rằng yêu cầu phải lập kế hoạch trong trường hợp cưỡng chế đơn giản chỉ
mang tính thủ tục là không cần thiết và trường hợp phải cưỡng chế ngay thì
vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp cụ thể của từng cơ
quan hữu quan, nhất là trường hợp cưỡng chế theo quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, tác giả cho rằng cần có những quy định
hướng dẫn cụ thể để thi hành Điều 72 Luật Thi hành án dân sự trong việc
lập kế hoạch cưỡng chế để thống nhất cách hiểu, áp dụng giữa các cơ quan
trong việc lập kế hoạch và phối hợp thực hiện kế hoạch cưỡng chế thi hành
án dân sự. Tuy bài viết chỉ đặt vấn đề bất cập trong thủ tục lập kế hoạch
cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng có giá trị tham khảo quan trọng trong
việc đưa ra các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự.
- "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án
dân sự tại thành phố Huế" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng [27]. Bài viết
phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân
sự tại một địa bàn cụ thể là thành phố Huế, theo đó tác giả cho rằng các chấp
hành viên rất hạn chế áp dụng các biện pháp này bởi vì một số nguyên nhân
là: tình trạng chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành
án (bỏ đi khỏi nơi cư trú, không trở về địa phương sau khi chấp hành xong
hình phạt tù…); thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan;
chưa có cách hiểu thống nhất về việc áp dụng phong tỏa tài khoản (phong tỏa
đầu ra của tiền trong tài khoản hay cả đầu vào và đầu ra của tiền?); tính khả
thi của việc thực hiện việc áp dụng cưỡng chế trong thời hạn theo quy định tại
khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự; hoặc như khi áp dụng biện pháp
25
tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, thì chấp hành viên phải ra quyết định
tạm giữ tài sản hay chỉ cần lập biên bản tạm giữ (nếu ra quyết định tạm giữ
có đúng với luật định hay không, trường hợp không ra quyết định thì cơ sở
nào xác định biên bản tạm giữ có giá trị về mặt pháp lý?)….Từ những phân
tích như vậy, tác giả bài viết nêu một số kiến nghị như: mở rộng quyền của
chấp hành viên khi đã hết thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
theo luật định mà chấp hành viên chưa đủ căn cứ để tiến hành các bước tiếp
theo; khi áp dụng các biện pháp bảo đảm, pháp luật không nên giới hạn
thời hạn phải ra quyết định cưỡng chế như hiện nay; biện pháp bảo đảm
phong tỏa tài khoản chỉ nên quy định phong tỏa chiều ra của tiền trong tài
khoản. Nói chung, những phân tích, kiến nghị của tác giả bài viết chủ yếu
chỉ dừng ở biện pháp bảo đảm và cưỡng chế đối với tài khoản của người
phải thi hành án mà chưa đề cập tới các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự khác, tuy vậy cũng có giá trị tham khảo nhất định cho việc hoàn
thiện quy định pháp luật đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
cụ thể.
1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt
Nam nêu trên, Nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét sau đây:
1.3.1. Về những kết quả nghiên cứu đã đạt được
- Thứ nhất, thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, thực
hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Các
công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự đã công bố sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn, toàn
26
diện hơn về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay.
- Thứ hai, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dưới
góc độ khoa học pháp lý có thể tiếp cận theo từng biện pháp cưỡng chế (khấu
trừ tiền trong tài khoản; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên,
xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba
giữ….) hoặc đối tượng cưỡng chế (động sản, bất động sản, thực hiện hoặc
không được thực hiện công việc nhất định) hoặc kết hợp cả hai cách tiếp cận.
Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong
thời gian tới cần được tiếp cận theo xu hướng kết hợp này.
- Thứ ba, vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng đặc
biệt là cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ,
toàn diện, chuyên sâu, có hệ thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực
tiễn thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để bảo đảm thực thi
nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các công trình
nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ
chức và hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự nói chung (ví dụ như: mô
hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; hoàn thiện pháp luật về thi hành
án dân sự; trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự…). Việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
mới chỉ dừng ở góc độ thể chế (các nguyên tắc, biện pháp, điều kiện áp dụng
cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định pháp luật; những khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng), nhất là chỉ đề cập đến việc áp dụng các
quy định pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự mà chưa đề cập sâu vào các
hình thức thực hiện pháp luật khác như tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như áp dụng pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo từng biện pháp cưỡng chế cụ thể để
27
từ đó nhận diện những đặc thù của từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự. Đồng thời, các kiến nghị, khuyến nghị nêu ra chủ yếu về đổi mới tổ chức,
hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung mà chưa tập trung sâu vào
việc đánh giá thực trạng và kiến nghị các giải pháp thực hiện các quy định
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với nghĩa là các biện pháp bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự.
Từ đó, liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự, Nghiên cứu sinh thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: mối quan hệ
giữa cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền con người nói
chung, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự nói riêng; vai trò, ý nghĩa của các
hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự…Những
nghiên cứu này xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ
biến và cái đặc thù (cưỡng chế nói chung, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế
thi hành án dân sự nói riêng). Do đó, khi chưa làm rõ những vấn đề lý luận
này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức thuyết phục về
thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong
thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế hữu hiệu nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu
quả cưỡng chế thi hành án dân sự.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu như nêu trên và xuất phát từ thực tế
là một số công trình nghiên cứu được công bố vào những thời điểm trước đây
nên trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, cải cách
hành chính hiện nay, công tác thi hành án dân sự đứng trước nhiều yêu cầu mới,
vì vậy, Luận án tiếp tục nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Một là, nghiên cứu, làm sâu sắc hơn khái niệm, bản chất, đặc điểm,
vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
28
hành án dân sự và các hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự.
Hai là, phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng cũng như các điều
kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Ba là, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự hiện nay để từ đó xác định những yêu cầu cơ bản để nghiên cứu, đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và
bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam đáp
ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư
pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới.
1.3.3. Các câu hỏi đặt ra khi nghiên cứu
Với mục đích tiếp cận thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật; làm sâu sắc thêm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả thấy rằng cần phải làm rõ
mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với
hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Để giải quyết được vấn đề này, cần đặt
ra giả thuyết nghiên cứu như sau: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự ở Việt Nam chưa thực sự hiệu lực, hiệu quả do pháp luật chưa
được hoàn thiện, đồng bộ; chưa có được mô hình tổ chức thi hành án dân sự
phù hợp hoặc đã có nhưng hoạt động kém hiệu quả trên thực tế.
Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, tác giả thấy rằng luận án cần
nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi, cụ thể là: Khái niệm cưỡng
chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự?
Đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự?
Lịch sử pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự? Thực trạng thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam?; Các quan điểm, định
29
hướng đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong
giai đoạn hiện nay, tầm nhìn 2030? Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thực thi nghiêm chỉnh các bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật ở Việt Nam?
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương này, Luận án đã khái quát các kết quả của các công
trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự. Nội dung của chương nhấn mạnh việc đảm bảo
thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là yêu cầu
chung trong thi hành pháp luật của các nước. Để đảm bảo thực thi nghiêm
chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, pháp luật của các nước đều
quy định cụ thể về việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế nhân danh quyền lực Nhà nước khi người phải thi hành án, tổ chức, cá
nhân liên quan không tự nguyện thi hành án; quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể liên quan khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án và trình tự, thủ tục
tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo quyền con người, quyền
công dân.
Chương này cũng chỉ ra kết quả cơ bản của các công trình nghiên cứu
đã công bố, nhất là những công trình đã công bố ở Việt Nam và nhận thức
những kết quả này làm cơ sở cho việc tiếp tục phát triển theo hướng nghiên
cứu của Luận án; đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu
trong Luận án; giả thuyết nghiên cứu, những câu hỏi đặt ra và trở thành những
nội dung sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của Luận án.
30
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
2.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự
Trong đời sống xã hội, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính
bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và
được Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là cơ sở cho hành vi xử
sự của các chủ thể và đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện các hành vi hợp pháp
- hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có những chủ thể vi phạm pháp luật,
xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (lợi ích của Nhà nước,
xã hội, tổ chức và cá nhân) hoặc giữa các chủ thể có thể phát sinh các tranh
chấp. Khi hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình
sự và khi các tranh chấp phát sinh mà các bên không tự giải quyết được thì
việc xét xử, giải quyết tranh chấp được giải quyết bởi các cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền (Theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, hoạt động xét
xử, giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án, Trọng tài thương mại,
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) và kết quả của việc xét xử, giải quyết
tranh chấp được thể hiện là các bản án, quyết định, trong đó xác định cụ thể
trách nhiệm pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (hình phạt, nghĩa vụ
bồi thường thiệt hại ...).
Về nguyên tắc, các bản án, quyết định chỉ thể hiện kết quả về mặt pháp
lý, nếu không được thực thi trên thực tế thì không đạt được mục đích cuối
31
cùng của hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp. Do đó, để đảm bảo quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể trên thực tế thì các bản án, quyết định phải được
thi hành nghiêm chỉnh theo trình tự, thủ tục pháp luật về thi hành án. Hoạt
động thi hành án có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau
nhưng theo nghĩa chung nhất có thể quan niệm: thi hành án là hoạt động của
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục, trình tự được pháp
luật quy định nhằm đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ của cá nhân,
tổ chức theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành.
Về bản chất, thi hành án là quá trình thực tế hóa các quyền và nghĩa vụ
theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tùy theo tính chất của
bản án, quyết định, thì việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo các trình
tự, thủ tục có tính đặc thù nhất định. Theo quy định pháp luật hiện hành của
Việt Nam, các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành được thi hành theo
trình tự, thủ tục thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành
chính, trong đó cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên có thẩm quyền tổ
chức thi hành phần "dân sự" trong các bản án, quyết định theo trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự. Đó là: bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu
tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí
và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản
án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá
sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định
của Trọng tài thương mại (Điều 1, Luật Thi hành án dân sự).
Với phạm vi thi hành phần dân sự như trên nên thi hành án dân sự có
những nguyên tắc đặc thù nhất định so với thi hành án hình sự, thi hành án
hành chính. Ví dụ như: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt và sự thỏa
thuận của đương sự; khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; nguyên
32
tắc nhân đạo trong thi hành án dân sự; việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế
chỉ khi đương sự không tự nguyện thi hành án; bảo đảm sự phối hợp giữa các
cơ quan với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân...Những
nguyên tắc này cũng là cơ sở cho việc quy định trình tự, thủ tục tổ chức thi
hành án phù hợp với tính chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự. Vì
vậy, từ những khái quát, phân tích nêu trên, có thể khái niệm: thi hành án dân
sự là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân
sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định.
2.1.1.2. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
Khái niệm thi hành án dân sự nêu trên cho thấy về nguyên tắc khi bản
án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân
phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành, nếu không chấp hành thì sẽ bị áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng.
Cũng như cưỡng chế nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự cũng
xuất phát từ yêu cầu, nguyên tắc chung là dùng quyền lực nhà nước để buộc
cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm
đảm bảo tính phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục
người vi phạm; lập lại tình trạng như trước khi có hành vi vi phạm hay buộc
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả gây ra và các biện pháp khác pháp luật quy định.
Về nguyên tắc, cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự
không tự nguyện tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật, vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được tiếp cận
ở những góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân
sự là biện pháp được pháp luật quy định, thể hiện quyền lực của Nhà nước, do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, nhằm buộc người phải thi hành án
33
thi hành đúng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án [74,
tr.26]. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do
cơ quan thi hành án áp dụng nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện
nghĩa vụ về tài sản hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định
của pháp luật…
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng điểm chung nhất đều cho
rằng mục đích của cưỡng chế thi hành án dân sự là nhằm buộc người phải thi
hành án thi hành đúng nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án nếu họ có
điều kiện thi hành mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, để đảm
bảo ý nghĩa, hiệu quả của cưỡng chế thi hành án dân sự thì pháp luật cần quy
định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế
được áp dụng; trình tự, thủ tục cưỡng chế....Từ những phân tích như trên, có
thể khái niệm: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền
thực hiện biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để
bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực
thi hành.
Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện mục đích của
cưỡng chế thi hành án dân sự là đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của các
đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan trong các bản án, quyết định
dân sự có hiệu lực thi hành. Bởi vậy, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế
thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà
nước khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nhằm chấm dứt
quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khấu
trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án); hạn chế quyền sở hữu,
quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khi kê biên quyền sử
dụng đất của người phải thi hành án thì người phải thi hành án bị hạn chế
quyền chuyển quyền sử dụng đất cho người khác); buộc người phải thi hành
34
án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật (ví dụ: khi
áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người sử dụng lao động phải nhận người
lao động trở lại làm việc). Từ đó, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế thi
hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền sử dụng quyền lực
nhà nước làm chấm dứt, hạn chế quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử
dụng tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài sản của người phải thi hành
án đang do người thứ ba giữ) hoặc buộc người phải thi hành án thực hiện
hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật trên cơ sở bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực thi hành.
Với bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự như vậy cho thấy sự
khác biệt với các biện pháp có tính cưỡng chế khác như: biện pháp bảo đảm
thi hành án (phạm vi áp dụng biện pháp bảo đảm hẹp hơn so với phạm vi biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với bản chất là biện pháp có tính cưỡng chế
mang tính chất tạm thời như: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản; tạm dừng
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản); biện pháp cưỡng chế hành
chính (đây là biện pháp nằm ngoài trình tự xét xử của toà án, chủ yếu do cơ quan
quản lý hành chính nhà nước áp dụng nhằm ngăn ngừa, xử lý vi phạm hành
chính) và biện pháp cưỡng chế hình sự (với bản chất là hạn chế quyền tự do thân
thể, thậm chí tước đoạt tính mạng của người bị áp dụng hình phạt).
2.1.1.3. Khái niệm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Để quản lý nhà nước và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Nhà nước sử
dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau (pháp luật, đạo đức, tập quán...)
trong đó pháp luật được coi là công cụ quan trọng nhất - đó là hệ thống quy
phạm có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính
nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định và được Nhà
nước bảo đảm thực hiện.
35
Trong thi hành án dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo
cơ sở cho việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự
khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thi hành án. Vì
vậy, yêu cầu đặt ra là các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự phải được ban hành phù hợp và khả thi để điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể là
các nhóm quan hệ xã hội cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung
Nhóm này phản ánh những quan hệ về nội dung chấp hành các bản án,
quyết định dân sự có hiệu lực thi hành và quyết định cưỡng chế của chủ thể
có thẩm quyền. Ví dụ: mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự ra
quyết định cưỡng chế với người phải thi hành án, người được thi hành án
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát
nhân dân với cơ quan thi hành án dân sự trong việc kiểm sát việc thực hiện
các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự... Mục đích của
việc điều chỉnh các nhóm quan hệ này nhằm xác nhận giá trị pháp lý của
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế; quyền và nghĩa vụ của đương sự và cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định pháp luật trong cưỡng chế
thi hành án dân sự. Ví dụ như: người phải thi hành án thực hiện quyền
khiếu nại nếu cho rằng việc cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp
cưỡng chế là trái quy định pháp luật... Ngoài ra, những quan hệ về nội dung
còn làm phát sinh các mối quan hệ khác trong quá trình thực hiện việc
cưỡng chế thi hành án dân sự (ví dụ: cơ quan thi hành án dân sự có quyền
xử phạt vi phạm hành chính đối với người phải thi hành án nếu họ không
chấp hành quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự, thậm chí cơ quan thi
hành án dân sự còn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm hình sự
đối với người phải thi hành án.
36
Thứ hai, nhóm quan hệ mang tính tổ chức-quản lý đối với hoạt động
cưỡng chế thi hành án dân sự.
Các mối quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức;
quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của chủ thể có thẩm quyền
cưỡng chế thi hành án dân sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể
qua các mối quan hệ giữa chấp hành viên với cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong quản lý, chỉ đạo thi hành án dân sự. Ví dụ như: mối quan hệ
giữa Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự với chấp hành viên trong giải
quyết khiếu nại của người phải thi hành án đối với quyết định cưỡng chế
của chấp hành viên; mối quan hệ giữa Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự với
cơ quan thi hành án dân sự trong chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự... Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy rằng việc
giải quyết các mối quan hệ này thường phức tạp và cũng có những tồn tại,
hạn chế nhất định, ví dụ như: Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự có được chỉ
đạo hoãn cưỡng chế thi hành án dân sự hay không?; khi cơ quan thi hành
án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nếu không có đại diện Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia hay cơ quan Công an không tham gia
bảo vệ cưỡng chế thì chấp hành viên có được thực hiện cưỡng chế hay
không…). Do đó, việc quy định rõ thẩm quyền, mối quan hệ phối hợp giữa
các chủ thể liên quan trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
sẽ góp phần đảm bảo tính pháp chế và nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi
hành án dân sự.
Thứ ba, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các trình tự,
thủ tục về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành bản án, quyết định
dân sự có hiệu lực thi hành, đồng thời cũng là cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, tổ chức, cá nhân liên quan, do đó, hoạt động cưỡng
37
chế thi hành án dân sự phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật theo những
nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Việc thực hiện các nguyên tắc, trình tự,
thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự làm xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ
giữa các chủ thể liên quan. Đó là những quan hệ phát sinh từ việc thực hiện
các thủ tục về kê biên, bán đấu giá tài sản; thực hiện việc hoãn, tạm đình chỉ
cưỡng chế khi có yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị; Viện kiểm sát
nhân dân kiến nghị, kháng nghị đối với việc thực hiện trình tự, thủ tục tổ chức
thực hiện quyết định cưỡng chế của chấp hành viên...
Như vậy, để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cơ bản nêu trên trong
cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật
- các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và tổng hợp các
quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo thành pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, có thể khái niệm: Pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự bao gồm quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế; trình tự,
thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự.
Từ việc phân tích các khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự là cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực
hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các quy
định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có được thực hiện hiệu quả
trong thực tế hay không còn phụ thuộc vào nhận thức, hành vi hợp pháp của
các chủ thể, thậm chí phải có sự tác động của cơ quan có thẩm quyền để buộc
chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ pháp luật quy định. Hay nói cách khác là
các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có trở thành hiện thực
38
trong xã hội hay không còn phụ thuộc vào hoạt động thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự của các chủ thể liên quan.
Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, cũng như thực
hiện pháp luật nói chung, trước hết cũng là hoạt động có mục đích nhằm làm
cho các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực
hiện trong thực tế cuộc sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp
của các chủ thể pháp luật có liên quan. Tiếp đến, thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự còn xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án
dân sự, đó là quá trình thực hiện pháp luật chỉ khi người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành. Điều này cũng có
nghĩa là người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án là điều kiện tiên
quyết để cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự. Ngoài ra, quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự cũng phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu có tính đặc thù trong quá
trình thi hành án dân sự. Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự có thể được coi là một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo thi hành nghiêm
chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong đời sống xã hội và
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan trong quá trình thi hành án.
Từ những phân tích ở trên, có thể khái niệm: Thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích làm cho các quy định
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở thành
những hành vi thực tế của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan
trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật.
2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án dân sự là giải pháp cuối cùng được áp dụng khi
đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của
39
mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, với mục đích
thi hành các nghĩa vụ dân sự nên thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự cũng có những đặc điểm có bản là:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo
tính độc lập và chủ động của chấp hành viên.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được
Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực
pháp luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân
theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc
biệt là khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì chấp hành
viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho
chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối hợp
theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản
trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự,
chấp hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Tính chủ động, độc lập của chấp hành viên được pháp luật quy định cụ
thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, theo đó bao gồm các thẩm quyền
như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về
thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp
dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự...
Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình cưỡng
chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải
thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản
đang do người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOTLuận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
Luận văn: Quy định về thỏa thuận trọng tài theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 

Similar to Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam

Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...OnTimeVitThu
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰOnTimeVitThu
 

Similar to Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam (20)

Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đLuận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền theo pháp luật, 9đ
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông NôLuận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
Luận Văn Thạc Sĩ Cưỡng Chế Thi Hành Án Dân Sự Trên Địa Bàn Huyện Krông Nô
 
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...
Luận Văn: Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự theo pháp luật việt nam ...
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, HAY
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tùQuyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
Quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân SựBáo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
Báo Cáo Thực Tập tại Chi Cục Thi Hành Án Dân Sự
 
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sựHoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành trong thi hành án dân sự
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng NamBện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
Bện pháp xử lý vi phạm hành chính tại Tòa án tỉnh Quảng Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 

Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam

  • 1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI ĐỨC TIẾN THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật HÀ NỘI - 2018
  • 2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH BÙI ĐỨC TIẾN THùC HIÖN PH¸P LUËT VÒ C¦ìNG CHÕ THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số: 62 38 01 01 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. HOÀNG THẾ LIÊN HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận án bảo đảm độ tin cậy, chính xác, trung thực và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Bùi Đức Tiến
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 7 1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 7 1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 10 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 25 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 30 2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 30 2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật và hình thức thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự 46 2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 55 Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM 64 3.1. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 64 3.2. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 86 Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM 110 4.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam 110 4.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam 115 KẾT LUẬN 130 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 134 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 3.1: Cơ cấu ngạch, bậc cán bộ, công chức các cơ quan thi hành án dân sự 88 Bảng 3.2: Kết quả về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự 91 Bảng 3.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền 92 Bảng 3.4: Thống kê các việc thi hành án dân sự phải tổ chức cưỡng chế 93
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra thi hành; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Đối với công tác thi hành án nói chung, công tác thi hành án dân sự nói riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật; đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự, trong đó dấu mốc lập pháp quan trọng là Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2015). Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, hệ thống thi hành án dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn công tác thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được thì công tác thi hành án dân sự cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định, trong đó vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng án tồn đọng, chưa tổ chức thi hành được. Tính đến ngày 30/9/2017, tổng số việc các cơ quan thi hành án dân sự trong toàn quốc phải thi hành là 869.430 việc, đã thi hành xong là 549.415 việc, còn 320.015 việc (chiếm 20,75% tổng số việc phải thi hành) chưa thi hành được) [72]. Đáng chú ý là để đảm bảo hiệu quả thi hành án, có nhiều vụ việc, cơ quan thi hành án dân sự phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế do đương sự
  • 7. 2 không tự nguyện thi hành, cản trở, chống đối việc thi hành án (chỉ riêng trong năm 2017, các cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định cưỡng chế có huy động lực lượng là 5.549 trường hợp) [72] . Như vậy, về nguyên tắc, quá trình thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự để thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự không tự nguyện thi hành án. Tuy nhiên, từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự cho thấy rằng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng còn những vướng mắc, bất cập cả về lý luận và thực tiễn cần phải có sự nghiên cứu có hệ thống và toàn diện hơn. Ví dụ như: về mặt lý luận, chưa làm rõ mối quan hệ giữa tự nguyện và cưỡng chế trong thi hành án dân sự khi mà về nguyên tắc thì cưỡng chế chỉ đặt ra khi đương sự không tự nguyện thi hành án nhưng sự tự nguyện của đương sự vẫn được khuyến khích sau khi cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế; hoặc như mối quan hệ giữa việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Về mặt thực tiễn, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự còn chồng chéo, kéo dài; trong nhiều việc thi hành án, các chủ thể chưa thực hiện đúng quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự (người phải thi hành án cản trở, chống đối việc cưỡng chế thi hành án; chấp hành viên chưa tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục cưỡng chế; cá nhân, tổ chức liên quan can thiệp trái pháp luật vào quá trình cưỡng chế…); các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự (kinh phí, phương tiện làm việc, công cụ hỗ trợ…) chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự và yêu cầu đảm bảo hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự…Thực trạng nêu trên đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và luận giải một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, từ đó, tác giả chọn đề tài: "Thực
  • 8. 3 hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam" có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân), luận án đề xuất các quan điểm và giải pháp đảm bảo hiệu quả đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận án thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - Phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; nội dung, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động này. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực đến nay. - Đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trước những yêu cầu mới của công tác thi hành án dân sự.
  • 9. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và chính sách, pháp luật liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật; nghiên cứu hoạt động thi hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và mối quan hệ với cơ quan, tổ chức có liên quan trên phạm vi toàn quốc (không bao gồm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của Thừa phát lại). Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2008 đến nay (thời điểm Quốc hội ban hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008). 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu ở trên, luận án dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn sau đây: - Về phương pháp luận, luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật; các quan điểm, đường lối của Đảng thể hiện trong các Nghị quyết, đặc biệt là các Nghị quyết Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và Nghị quyết có đề cập đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền của các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương các khóa và các nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Về cơ sở thực tiễn: Luận án bám sát thực tiễn cải cách bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp, nhất là qua hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta thời gian qua.
  • 10. 5 Trên cơ sở phương pháp luận nói trên, luận án sẽ sử dụng các phương pháp cụ thể tại các chương như sau: - Phương pháp lịch sử, phân tích, quy nạp được sử dụng chủ yếu tại chương 2, nêu lên các cơ sở lý thuyết của vấn đề đặt ra, từ đó khái quát hóa thành những luận điểm, quan điểm làm nền tảng lý thuyết xuyên suốt nội dung của luận án (ví dụ như: để nghiên cứu, làm rõ những đặc trưng của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự so với thực hiện pháp luật nói chung cũng như thực hiện pháp luật về cưỡng chế hình sự, cưỡng chế hành chính; nghiên cứu quá trình hoàn thiện pháp luật là cơ sở cho thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...). - Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm làm rõ những nội dung của chương 3. Đây là chương đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp ở chương 4. Ngoài ra, phương pháp phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận án. - Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại chương 4 để làm rõ những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 5. Dự kiến những đóng góp mới của luận án So với các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự đã được công bố, Luận án này có dự kiến có những đóng góp mới như sau: Thứ nhất, luận án phân tích, làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
  • 11. 6 Thứ hai, bằng việc phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, đặc biệt là áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, luận án làm sáng tỏ tính quyết định của áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với các yêu cầu thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Thứ ba, bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, luận án kiến nghị, đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng và luận giải các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về lý luận, kết quả của luận án góp phần vào hoàn thiện lý luận về thực hiện pháp luật nói chung, thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng; chỉ rõ thực trạng và đề xuất giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. - Về thực tiễn, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh tư pháp. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
  • 12. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để đảm bảo công lý, công bằng trong xã hội luôn là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, những nhà lập pháp và thực thi pháp luật. Vì vậy, trong luận án, khi nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tác giả sẽ nghiên cứu vấn đề này đã được đề cập, nghiên cứu như thế nào ở các bình diện quốc tế và trong nước, những vấn đề gì cần tiếp tục đặt ra giải quyết trong điều kiện thực tế của Việt Nam. Đây chính là cơ sở cho việc đưa ra những kết quả nghiên cứu mới về vấn đề này. 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI Nghiên cứu pháp luật thi hành án của nhiều nước cho thấy mô hình tổ chức hệ thống cơ quan thi hành án có chức năng tổ chức thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành án nói riêng có sự khác biệt và tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm truyền thống pháp lý của mỗi nước. Có nước tổ chức theo mô hình thi hành án công, có nước theo mô hình tổ chức thi hành án bán công (cơ quan thi hành án có thể thuộc Tòa án hoặc cơ quan hành chính nhà nước) và cũng có nước theo mô hình thi hành án tư nhân (ví dụ như Thừa phát lại). Vì vậy, việc tổ chức thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành án nói riêng cũng tuân thủ trình tự, thủ tục pháp luật khác nhau. Có thể đề cập một số công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở một số nước trên thế giới như sau: - Kỷ yếu hội thảo: "Các mô hình tổ chức thi hành án trên thế giới" của Nhà pháp luật Việt - Pháp [42]. Đây là tài liệu tập hợp các tham luận của một số giáo sư, nhà khoa học, chuyên gia của một số nước nghiên cứu về những
  • 13. 8 vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới. Cụ thể như trong kỷ yếu, các tác giả cho rằng thi hành án không phải là một lĩnh vực độc lập nên không thể được tổ chức theo một mô hình thống nhất; việc tổ chức mô hình thi hành án phụ thuộc vào các quy định của luật tố tụng liên quan của mỗi nước (Giáo sư Claude Brenner, Đại học Panthéon-Assas Cộng hoà Pháp). Việc thi hành án dân sự ở Pháp được giao cho Thừa phát lại; Thừa phát lại được bảo đảm tính độc lập trong khi hành nghề, nếu có vi phạm thì người phải thi hành có quyền khởi kiện trước Thẩm phán đặc trách về thi hành án đối với những biện pháp mà người phải thi hành án bị áp dụng. Trong quá trình thi hành án, Thừa phát lại có quyền áp dụng các biện pháp có tính cưỡng chế như kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ, kê biên tiền lương, kê biên động sản, kê biên tài sản vô hình ở Pháp (Nicolas Monacho Duchene, Phó Chánh án Tòa án phúc thẩm Rennes Pháp). Ở Trung Quốc, nếu người phạm tội bị áp dụng biện pháp phạt tiền thì việc thi hành án do các Tòa án thực hiện; việc nộp phạt có thể thực hiện một lần đối với toàn bộ số tiền phạt hoặc nộp thành nhiều lần theo thời hạn được quy định trong bản án; nếu hết thời gian quy định mà người bị phạt tiền vẫn chưa nộp hết khoản tiền phạt thì bị cưỡng chế nộp tiền; người phải thi hành án có thể bị tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản của cá nhân, trừ các đồ dùng cần thiết cho cuộc sống của người phải thi hành án và các thành viên gia đình sống phụ thuộc vào người đó. - "Enforcing U.S. Judgments in Canada: A Practical Guide" (Thi hành các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa: Hướng dẫn thực tế) của M.D. Parrish [1]. Bài viết khái quát việc thi hành phán quyết của tòa án nước ngoài ở Canađa, theo đó trước năm 1990 các phán quyết của tòa án nước ngoài không được thi hành ở Canađa nếu bị đơn người Canađa không hiện diện tại Tòa án nước ngoài tại thời điểm sự kiện pháp lý xảy ra hoặc không có mặt tại phiên
  • 14. 9 tòa. Tuy nhiên, sau năm 1990, pháp luật quy định phán quyết của Tòa án nước ngoài có thể được thi hành ở Canađa, theo đó nếu người được thi hành án ở nước ngoài muốn thi hành phán quyết ở Canađa thì họ phải tìm hiểu, xác định người phải thi hành án có hiện diện và có tài sản ở Canada hay không?; người có thẩm quyền phán quyết về tài sản và tài sản của người đó ở đâu? Nếu không trả lời được các vấn đề trên thì bản án của tòa án nước ngoài khó có thể được thi hành ở Canađa. Bởi vậy, việc cưỡng chế tài sản để thi hành án cũng phải phụ thuộc vào việc người phải thi hành án có tài sản ở Canađa hay không. - "Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà" của tác giả N.M.Duchene [44]. Tác giả tham luận thông tin cho biết: ở Pháp, để có cơ sở thi hành án và cưỡng chế thì người được thi hành án, Thừa phát lại phải tìm hiểu thông tin về người phải thi hành án; nếu không có được thông tin cần thiết về người phải thi hành án thì Thừa phát lại có thể yêu cầu cơ quan công tố cung cấp thông tin. Để đảm bảo thi hành án, Thừa phát lại có thể thực hiện các biện pháp kê biên động sản, kê biên khoản tiền do người thứ ba nắm giữ, kê biên tiền lương, kê biên tài sản vô hình ở Pháp. Đối với cưỡng chế trả nhà thì phải có phán quyết của Thẩm phán; đồng thời trước khi có phán quyết của Tòa án thì người được thi hành án phải đến gặp đại diện chính quyền địa phương thông báo để chính quyền bố trí chỗ ở cho người phải di dời. Từ việc tham khảo một số công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự của một số nước trên thế giới, Luận án đưa ra một số nhận xét sau đây: Một là, mặc dù có sự khác biệt về pháp luật và mô hình tổ chức thi hành án dân sự (công, bán công, tư nhân), nhưng pháp luật các nước đều có quy định những vấn đề chung về cưỡng chế thi hành án dân sự như: việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được nhân danh quyền lực nhà
  • 15. 10 nước khi người phải thi hành án không tự nguyện; cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự có thể là Tòa án đã xét xử; Thừa phát lại, Cơ quan thi hành pháp luật, Cảnh sát trưởng. Biện pháp cưỡng chế thường áp dụng là cưỡng chế trả tiền, cưỡng chế giao tài sản, cưỡng chế trục xuất ra khỏi nhà, cưỡng chế bán đấu giá tài sản, cưỡng chế quản lý, khai thác tài sản, cưỡng chế thu tiền công, tiền lương... Hai là, các công trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích cơ sở lý luận của việc thi hành án là xuất phát từ việc bảo đảm thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án có thẩm quyền, trong đó cơ sở quan trọng là đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quá trình thi hành án. Hoạt động thi hành án dân sự có đặc thù là mang tính cưỡng chế và được đảm bảo bằng quyền lực Nhà nước, do đó hoạt động thi hành án dân sự luôn làm phát sinh, hạn chế hoặc chấm dứt một số quyền cơ bản của công dân (quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản). Ba là, mặc dù các nước có hệ thống pháp luật và quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự khác nhau nhưng tổng quan các tài liệu này cho phép tác giả có cơ sở khái quát về cưỡng chế thi hành án dân sự một cách đa chiều, có tính so sánh và đối chiếu, từ đó giúp tác giả có cơ sở để nghiên cứu so sánh với thực trạng thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam và luận giải đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới. 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM Dưới góc độ thực thi công lý, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở nước ta được xem xét và đề cập ở nhiều góc độ như: các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; các điều kiện thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự; trách nhiệm của các chủ thể thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự… Trong quá trình nghiên cứu tài liệu phục
  • 16. 11 vụ cho đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh giá các tài liệu thành các nhóm cơ bản sau đây: Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm có: - "Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" của Nguyễn Đình Lộc [38]. Kết quả nghiên cứu đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. - "Kỹ năng thi hành án dân sự" của Học viện Tư pháp [30]. Cuốn sách tập trung phân tích, tổng hợp những quy định cơ bản và kỹ năng, nghiệp vụ trong thi hành án dân sự rút ra từ thực tiễn thi hành án dân sự như: kỹ năng kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; kỹ năng tiếp công dân; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án... Tuy nhiên, cuốn sách với ý nghĩa như cuốn cẩm nang cho chấp hành viên và công chức thi hành án dân sự nên chỉ đề cập mang tính khái quát về các biện pháp cưỡng chế dưới góc độ thể chế, các quy định về các biện pháp được chấp hành viên áp dụng trong quá trình tổ chức thi hành án mà chưa đề cập đầy đủ các hình thức thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện bởi các chủ thể khác nhau (như: tuân thủ pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, sử dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự...). Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của cuốn sách cũng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc tiếp cận cưỡng chế thi hành án dân sự cả ở góc độ thể chế và thực tiễn. - "Sổ tay chấp hành viên" của tác giả Lê Thu Hà [24]. Cuốn sách khái quát quy định pháp luật về thi hành án dân sự trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự 2008, theo đó phân tích các quy định pháp luật về thi hành án dân sự và
  • 17. 12 các kỹ năng cần thiết cho chấp hành viên trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Cụ thể như: việc nhận bản án, quyết định; thụ lý yêu cầu thi hành án; kỹ năng xác minh điều kiện thi hành án; đôn đốc, hướng dẫn đương sự tự nguyện hay thỏa thuận thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự...Mặc dù việc cưỡng chế thi hành án dân sự được đề cập trong cuốn sách nhưng chỉ dừng ở phạm vi là những lưu ý khi lựa chọn, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể mà chưa đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân sự như là một chế định, một biện pháp cơ bản trong thi hành án dân sự nhưng cũng có giá trị tham khảo cho việc đánh giá thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành án dân sự hiện nay. - "Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung [64]. Cuốn sách phân tích, tổng hợp các tình huống phát sinh trong thực tiễn thi hành án dân sự đòi hỏi có sự nhận thức thống nhất trong cách hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó chủ yếu là quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể như vấn đề ra quyết định thi hành án, thi hành biện pháp khẩn cấp tạm thời; áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự... qua đó giúp cho chấp hành viên nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan chặt chẽ và là nguồn tham khảo quan trọng để nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các cơ quan thi hành án dân sự hiện nay. - "Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả Lê Thu Hà [25]. Nội dung cơ bản của cuốn sách là phân tích, hệ thống hóa khái quát quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
  • 18. 13 ở nước ta từ năm 1945 đến năm 2011, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng những vướng mắc, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, các tác giả phân tích, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về một số vấn đề cụ thể, trong đó có cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, cuốn sách là tài liệu tham khảo cho việc tiếp tục nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. - "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy [65]. Luận án đã phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như khái niệm, bản chất, đặc điểm thi hành án dân sự; nội dung, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự. Đặc biệt là trên cơ sở khái quát quá trình hoàn thiện và thực trạng pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự, trong đó có pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có giá trị tham khảo quan trọng để tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay. - "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Quang Thái [60]. Luận án đã phân tích yêu cầu, phương hướng, giải pháp đảm bảo tính pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự, đó là: nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự; xây dựng mô hình tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo ngành dọc, giảm đầu mối; từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự Mặc dù phạm vi nghiên cứu của luận án mới chỉ đề cập tới tăng cường pháp chế trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung song những kiến nghị
  • 19. 14 của tác giả về hoàn thiện pháp luật, mô hình tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự đã tạo tiền đề cho việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Đặng Đình Quyền [56]. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận về hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam, trong đó nêu bật các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật trong công tác thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, tác giả luận án đã phân tích một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, trong đó có những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự có nghĩa quan trọng cho việc hoàn thiện cơ sở pháp lý để đảm bảo cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Trần Phương Hồng [31]. Tác giả luận văn đã phân tích một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như: khái niệm, vai trò, đặc điểm pháp luật thi hành án dân sự để từ đó đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, theo đó những đề xuất hoàn thiện pháp luật không chỉ dừng ở việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự, mà còn bao hàm cả việc bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan và các cơ chế phối hợp trong công tác thi hành án dân sự. Kết quả luận văn có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Đánh giá các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật" của tác giả Lê Thị Hoàng Thanh
  • 20. 15 [59]. Bài viết của tác giả đã phân tích những vướng mắc, bất cập của mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, qua đó kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như: hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý nhà nước về thi hành án hành chính; hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, Bộ luật Dân sự năm 2005, đặc biệt là các quy định nhằm nâng cao tính minh bạch trong việc quản lý tài sản, thu nhập của cá nhân nhằm đảm bảo hiệu quả thi hành án dân sự, nhất là đối với việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện nay" của tác giả Lê Hùng Cường [13]. Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như: vướng mắc, bất cập về xác minh điều kiện thi hành án; thực hiện thông báo thi hành án; miễn, giảm trong thi hành án dân sự… Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, đó là: cần phải quy định rõ về người được thi hành án tự xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; cần sửa đổi quy định người phải thi hành án "đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch" là điều kiện bắt buộc để xét miễn, giảm; hoàn thiện hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự theo hướng đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi để các chấp hành viên tổ chức thi hành án đạt hiệu quả cao và cụ thể hóa các quy định của Luật Thi hành án dân sự về sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương trong công tác thi hành án dân sự. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
  • 21. 16 hiện pháp luật thi hành án dân sự và thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước Cộng hòa Pháp" của tác giả Điền Đức Thành [61]. Trong vài viết này, tác giả thông tin về thẩm quyền của Thừa phát lại đối với việc thi hành án dân sự, trong đó có thẩm quyền cưỡng chế tài sản để thi hành án. Theo đó, Thừa phát lại được can thiệp bất kỳ thời gian nào theo yêu cầu của người có quyền lợi bị xâm hại được pháp luật công nhận và bảo vệ; trong quá trình thi hành án, Thừa phát lại có thể đề nghị Thẩm phán đặc trách thi hành những án lệnh cần thiết hoặc trực tiếp yêu cầu sự can thiệp của thẩm phán phụ trách thi hành án trong trường hợp khó khăn khi tổ chức thi hành án. Ngoài ra, Thừa phát lại cũng là người duy nhất có quyền yêu cầu sự trợ giúp của các lực lượng công quyền khi cần để kê biên tài sản để xử lý theo pháp luật. Trường hợp người thuê nhà không trả được tiền thuê, thì Thừa phát lại sẽ áp dụng biện pháp thu hồi tiền thuê và trục xuất người thuê ra khỏi nơi thuê, hoặc trong lĩnh vực thương mại thì thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu hồi giấy tờ có giá như chi phiếu hoặc thương phiếu chưa thanh toán. - "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế giới" của Chu Thị Hoa [29]. Trong bài viết này, tác giả tổng hợp và thông tin về mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước, trong đó cơ quan, tổ chức có thẩm quyền thi hành án được quyền thực hiện các biện pháp thi hành án và cưỡng chế thi hành án để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án. Cụ thể như: + Ở Indonesia, pháp luật quy định việc thi hành các quyết định của Tòa án thuộc trách nhiệm của Tòa án trong các vụ án dân sự. Theo quy định của pháp luật Indonesia thì sau khi có bản án bên thắng kiện (người được thi hành án) có quyền đến Tòa án quận để đề nghị Tòa án ra lệnh thi hành án.
  • 22. 17 Trên cơ sở lệnh thi hành án của Tòa án, Thư ký Tòa án hoặc chấp hành viên sẽ tổ chức thi hành lệnh thi hành án đó và khi cần thiết thì có quyền tổ chức cưỡng chế với sự hỗ trợ của cảnh sát để đảm bảo thi hành đúng bản án/quyết định của Tòa án. + Ở Singapore, việc tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự ở Singapore do Tòa án đảm nhiệm. Ở Tòa án tối cao và Tòa cấp dưới có bộ phận thi hành án, theo đó nhân viên thi hành án vừa có nhiệm vụ thi hành án, vừa có nhiệm vụ tống đạt giấy tờ, thực hiện các lệnh bắt giữ. Nhân viên thi hành án của Tòa án nào thì thi hành bản án của Tòa án đó. Về thủ tục thi hành án dân sự, pháp luật quy định: khi có bản án, người được thi hành đến gặp người phải thi hành để xem xét khả năng thi hành của họ và yêu cầu họ phải thi hành. Nếu người phải thi hành án không thi hành, người được thi hành án muốn được thi hành phải có đơn yêu cầu thi hành án (theo mẫu in sẵn) gửi Toà án; người được thi hành án hoặc luật sư đại diện phải trực tiếp chỉ cho nhân viên thi hành án những tài sản mà người phải thi hành án phải trả cho người được thi hành án, hoặc trong trường hợp thi hành các bản án về trả tiền thì chỉ cho nhân viên thi hành án tài sản của người phải thi hành án để nhân viên thi hành án kiểm kê, dán niêm phong hoặc chuyển giao tài sản cho người khác giữ. + Ở Liên bang Nga, pháp luật quy định việc thi hành án dân sự và cưỡng chế thi hành án dân sự do Cục thi hành án Liên bang và các cơ quan thi hành án địa phương chịu trách nhiệm thi hành. Cục thi hành án Liên bang được giao nhiệm vụ bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật và quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên và bán tài sản kê biên; truy tìm con nợ và tài sản của họ; tham gia bảo vệ lợi ích của Liên bang Nga với tư cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản; hướng dẫn và giám sát
  • 23. 18 hoạt động của các cơ quan thi hành án địa phương thuộc Cục thi hành án Liên bang; lập và duy trì ngân hàng dữ liệu về công tác thi hành án và các nhiệm vụ tương tự khác… + Ở Hoa Kỳ, hoạt động thi hành án được tách biệt giữa cấp Liên bang và cấp bang. Ở cấp Liên bang, Cơ quan chịu trách nhiệm thi hành pháp luật là Cơ quan thi hành pháp luật Liên bang (US Marshal Service), trong các nhiệm vụ của cơ quan này có nhiệm vụ bắt giữ, đấu giá tài sản (bao gồm cả tài sản liên quan tới tội phạm hình sự, tài sản liên quan tới thi hành án dân sự). Ở cấp bang, đối với hoạt động thi hành pháp luật, chức danh quan trọng nhất là Cảnh sát trưởng (sheriff). Tại hầu hết các bang ở Hoa Kỳ, Cảnh sát trưởng chính là nhân viên thi hành pháp luật cao nhất (trong đó có nhiệm vụ thi hành án); giúp việc cho Cảnh sát trưởng có đội ngũ nhân viên hoạt động chuyên môn, được gọi là các nhân viên Văn phòng Cảnh sát trưởng (sheriff’s officer) hoặc nhân viên thi hành pháp luật (sheriff’s deputy). Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, gồm có: - "Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam" của Trường Đại học Luật Hà Nội [74]. Đây là cuốn giáo trình có tính chuyên ngành về thi hành án dân sự, được sử dụng để giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung giáo trình đề cập đến những kiến thức cơ bản về pháp luật thi hành án dân sự trên cơ sở pháp luật hiện hành, phân tích cụ thể mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có nội dung liên quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Giáo trình đã đưa ra khái niệm: "Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người
  • 24. 19 phải thi hành có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành án", đồng thời đưa ra các đặc điểm cơ bản của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự; đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc hành vi của người phải thi hành án; người phải thi hành án phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự; nguyên tắc, vai trò, ý nghĩa của các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, giáo trình mới tiếp cận phân tích cưỡng chế thi hành án dân sự dưới góc độ là các biện pháp được áp dụng theo quy định của pháp luật mà chưa phân tích, đề cập đến cưỡng chế thi hành án dân sự với nghĩa là hoạt động thực tế nhằm tổ chức thực hiện các "quyết định cưỡng chế" do chủ thể có thẩm quyền ban hành. Tuy vậy, những nội dung của giáo trình có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đánh giá thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. - "Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thanh Thủy [39]. Cuốn sách này phân tích, tổng hợp các quy định pháp luật và kỹ năng thực tiễn giúp cho chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự có thể áp dụng, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ thi hành án dân sự được giao, trong đó có các vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự. Theo tài liệu này, các tác giả quan niệm: "Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do cơ quan thi hành án áp dụng nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án) thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật". Trên cơ sở quan niệm trên, các tác giả cũng đưa ra các điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự như: người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành án; việc cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết định; quyết định thi hành án, quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
  • 25. 20 tạm thời của Tòa án….Mặc dù tác giả phân tích, đề cập đến một số vấn đề về kỹ năng nghiệp vụ cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng chủ yếu chỉ tập trung vào việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự của chấp hành viên (một trong 04 hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự) và chưa đề cập đến các hình thức khác của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, nhưng những kỹ năng nghiệp vụ được phân tích trong tài liệu có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu đề tài luận án. - "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng Thế Anh [1]. Luận án đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giám sát thi hành án dân sự, theo đó đã làm rõ giám sát thi hành án dân sự với góc độ là một cơ chế, biện pháp để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước đối với hoạt động thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả giám sát thi hành án dân sự hiện nay, tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể để cải cách, nâng cao hiệu quả giám sát thi hành án dân sự như: hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy, thể chế giám sát…Vì vậy, kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc xác định cơ chế giám sát thi hành án dân sự trong việc thực hiện các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có việc giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu" của tác giả Lại Anh Thắng [62]. Tác giả luận văn phân tích một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự như khái niệm, vai trò, đặc điểm của thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải pháp như: hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ cho cán bộ, công chức thi hành án dân sự; tăng cường các biện pháp xử lý các vụ việc
  • 26. 21 thi hành án dân sự tồn đọng; đẩy mạnh việc kiểm tra, phối hợp thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm tăng cường kỷ cương và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành án dân sự; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu…Tuy luận văn chỉ đề cập đến thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung nhưng có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện hiện nay. - "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [16]. Trong bài viết, tác giả cho rằng sự phối hợp có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Bởi thực tế thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên gặp phải nhiều thách thức khi giữa người được thi hành án và người phải thi hành án luôn có sự đối lập quyền và lợi ích, do đó, mặc dù pháp luật quy định cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên có nhiều quyền nhưng cơ bản là các quyền đề nghị, kiến nghị nên để đảm bảo hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự cần có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan. Trên cơ sở phân tích trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có liên quan trong thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một số yêu cầu đối với chấp hành viên, công chức thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự như: yêu cầu về kiến thức chuyên môn; nghệ thuật giao tiếp và tác phong làm việc…. Mặc dù những phân tích, kiến nghị của tác giả về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan hữu quan chỉ đề cập ở bình diện chung nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đề tài luận án, bởi vì thực tiễn cho thấy rằng quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng
  • 27. 22 chế thi hành án dân sự là vấn đề mà cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều thách thức, khó khăn nhất nên hiệu quả công tác này không thể thiếu sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan, tổ chức có liên quan. - "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị" của tác giả Trần Công Thịnh [63]. Tác giả bài viết cho rằng hiệu quả của việc cưỡng chế kê biên tài sản là cơ sở, tiền đề cho sự thành công và hiệu quả của một vụ thi hành án về tài sản khi đương sự không tự nguyện thi hành. Qua nghiên cứu vấn đề này, tác giả chỉ ra những vướng mắc gây cản trở cho việc cưỡng chế như: một bộ phận chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án dân sự có trình độ chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tình hình mới; nhiều trường hợp chấp hành viên chưa thực sự tích cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, ngại va chạm; cơ chế quản lý, hoạt động thi hành án dân sự còn chồng chéo; sự phối hợp giữa các cơ quan tổ chức trong việc cưỡng chế còn chưa tốt; nhiều quy định của pháp luật về kê biên tài sản còn chưa chặt chẽ, rõ ràng. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng. - "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện quy định về cưỡng chế trả giấy tờ" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên [15]. Tác giả bài viết cho rằng việc thực hiện quy định về cưỡng chế trả giấy tờ chỉ được thực hiện khi không còn giải pháp nào khác, vì thực tế việc cưỡng chế buộc thực hiện hành vi theo quy định trên không mang lại hiệu quả đương sự không những không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi mà còn không nộp phạt vi phạm hành chính. Thậm chí, quy định về đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự nêu trên thể hiện sự nghiêm khắc, nhưng thực tế không khả thi, vì hành lang pháp lý để truy cứu hình sự đối với hành vi này chưa được hướng dẫn và chưa có
  • 28. 23 sự thống nhất giữa cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Vì vậy, đến nay mặc dù pháp luật về thi hành án có quy định chế tài này nhưng cũng chưa có trường hợp nào bị xử lý khi không thực hiện quyết định cưỡng chế buộc thực hiện hành vi của chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Những phân tích, kiến nghị của tác giả mặc dù chỉ đề cập đến biện pháp cưỡng chế cụ thể là "cưỡng chế giao, trả giấy tờ" nhưng có giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung. - "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Đồng Tháp" của tác giả Bùi Văn Tấn [58]. Tác giả bài viết phân tích những khó khăn trong việc kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất nông nghiệp của người phải thi hành án ở Đồng Tháp thông qua một số vụ việc cụ thể. Theo tác giả thì việc bán đấu giá khó khăn là do người có nhu cầu mua đất để sản xuất, kinh doanh có tâm lý ngại mua tài sản do cơ quan thi hành án dân sự bán đấu giá vì họ sợ mất lòng với chủ sở hữu cũ và ngại vấn đề sẽ bị chủ cũ bao chiếm tài sản bị cưỡng chế nên ít có người tham gia đăng ký mua tài sản; năng xuất, sản lượng sản phẩm nông nghiệp ở nông thôn hiện nay có giá trị thấp, dẫn đến thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng giảm theo. Bởi vậy, để đảm bảo hiệu quả thi hành án thì khi người được thi hành án đề nghị kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất thì phải tạm ứng chi phí cho việc đo đạc, kê biên, thẩm định giá và chi phí thông báo bán đấu giá; trường hợp cần thiết, chấp hành viên có thể kê biên, bán đấu giá diện tích đất phù hợp với tập quán canh tác và các quy định khác ở địa phương nhằm tạo thuận lợi cho người có nhu cầu mua quyền sử dụng đất nông nghiệp bị cưỡng chế kê biên, bán đấu giá. - "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự" của tác giả Hồ Quân Chính [4]. Bài viết đề cập đến việc thực hiện
  • 29. 24 quy định về lập kế hoạch cưỡng chế theo Điều 72 Luật Thi hành án dân sự, tuy nhiên hiện nay vẫn có cách hiểu khác nhau về các trường hợp phải lập kế hoạch cưỡng chế và trường hợp phải thực hiện cưỡng chế ngay. Tác giả cho rằng yêu cầu phải lập kế hoạch trong trường hợp cưỡng chế đơn giản chỉ mang tính thủ tục là không cần thiết và trường hợp phải cưỡng chế ngay thì vẫn chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp cụ thể của từng cơ quan hữu quan, nhất là trường hợp cưỡng chế theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Vì vậy, tác giả cho rằng cần có những quy định hướng dẫn cụ thể để thi hành Điều 72 Luật Thi hành án dân sự trong việc lập kế hoạch cưỡng chế để thống nhất cách hiểu, áp dụng giữa các cơ quan trong việc lập kế hoạch và phối hợp thực hiện kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy bài viết chỉ đặt vấn đề bất cập trong thủ tục lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đưa ra các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. - "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế" của tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng [27]. Bài viết phân tích thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án dân sự tại một địa bàn cụ thể là thành phố Huế, theo đó tác giả cho rằng các chấp hành viên rất hạn chế áp dụng các biện pháp này bởi vì một số nguyên nhân là: tình trạng chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án (bỏ đi khỏi nơi cư trú, không trở về địa phương sau khi chấp hành xong hình phạt tù…); thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan, ban, ngành liên quan; chưa có cách hiểu thống nhất về việc áp dụng phong tỏa tài khoản (phong tỏa đầu ra của tiền trong tài khoản hay cả đầu vào và đầu ra của tiền?); tính khả thi của việc thực hiện việc áp dụng cưỡng chế trong thời hạn theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án dân sự; hoặc như khi áp dụng biện pháp
  • 30. 25 tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự, thì chấp hành viên phải ra quyết định tạm giữ tài sản hay chỉ cần lập biên bản tạm giữ (nếu ra quyết định tạm giữ có đúng với luật định hay không, trường hợp không ra quyết định thì cơ sở nào xác định biên bản tạm giữ có giá trị về mặt pháp lý?)….Từ những phân tích như vậy, tác giả bài viết nêu một số kiến nghị như: mở rộng quyền của chấp hành viên khi đã hết thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo luật định mà chấp hành viên chưa đủ căn cứ để tiến hành các bước tiếp theo; khi áp dụng các biện pháp bảo đảm, pháp luật không nên giới hạn thời hạn phải ra quyết định cưỡng chế như hiện nay; biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản chỉ nên quy định phong tỏa chiều ra của tiền trong tài khoản. Nói chung, những phân tích, kiến nghị của tác giả bài viết chủ yếu chỉ dừng ở biện pháp bảo đảm và cưỡng chế đối với tài khoản của người phải thi hành án mà chưa đề cập tới các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khác, tuy vậy cũng có giá trị tham khảo nhất định cho việc hoàn thiện quy định pháp luật đối với từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự cụ thể. 1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU Qua nghiên cứu một số công trình nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam nêu trên, Nghiên cứu sinh rút ra một số nhận xét sau đây: 1.3.1. Về những kết quả nghiên cứu đã đạt được - Thứ nhất, thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đã công bố sẽ là nền tảng để tác giả tiếp cận sâu hơn, toàn
  • 31. 26 diện hơn về thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay. - Thứ hai, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự dưới góc độ khoa học pháp lý có thể tiếp cận theo từng biện pháp cưỡng chế (khấu trừ tiền trong tài khoản; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ….) hoặc đối tượng cưỡng chế (động sản, bất động sản, thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định) hoặc kết hợp cả hai cách tiếp cận. Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới cần được tiếp cận theo xu hướng kết hợp này. - Thứ ba, vẫn còn "khoảng trống" trong nghiên cứu với đối tượng đặc biệt là cưỡng chế thi hành án dân sự, cụ thể là: chưa có nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, chuyên sâu, có hệ thống cả về lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự để bảo đảm thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Các công trình nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của hệ thống thi hành án dân sự nói chung (ví dụ như: mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự…). Việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự mới chỉ dừng ở góc độ thể chế (các nguyên tắc, biện pháp, điều kiện áp dụng cưỡng chế thi hành án dân sự theo quy định pháp luật; những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng), nhất là chỉ đề cập đến việc áp dụng các quy định pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự mà chưa đề cập sâu vào các hình thức thực hiện pháp luật khác như tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như áp dụng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo từng biện pháp cưỡng chế cụ thể để
  • 32. 27 từ đó nhận diện những đặc thù của từng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Đồng thời, các kiến nghị, khuyến nghị nêu ra chủ yếu về đổi mới tổ chức, hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự nói chung mà chưa tập trung sâu vào việc đánh giá thực trạng và kiến nghị các giải pháp thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với nghĩa là các biện pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Từ đó, liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, Nghiên cứu sinh thấy cần phải làm rõ một số vấn đề như: mối quan hệ giữa cưỡng chế thi hành án dân sự với việc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự nói riêng; vai trò, ý nghĩa của các hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự…Những nghiên cứu này xuất phát từ mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù (cưỡng chế nói chung, cưỡng chế hành chính, cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng). Do đó, khi chưa làm rõ những vấn đề lý luận này thì tất yếu không thể có những đánh giá khoa học, có sức thuyết phục về thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong thực tiễn và đề ra biện pháp, cơ chế hữu hiệu nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Từ tổng quan tình hình nghiên cứu như nêu trên và xuất phát từ thực tế là một số công trình nghiên cứu được công bố vào những thời điểm trước đây nên trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay, công tác thi hành án dân sự đứng trước nhiều yêu cầu mới, vì vậy, Luận án tiếp tục nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề sau đây: Một là, nghiên cứu, làm sâu sắc hơn khái niệm, bản chất, đặc điểm, vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
  • 33. 28 hành án dân sự và các hình thức thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Hai là, phân tích, đánh giá các yếu tố ảnh hưởng cũng như các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Ba là, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự hiện nay để từ đó xác định những yêu cầu cơ bản để nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và bảo đảm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới. 1.3.3. Các câu hỏi đặt ra khi nghiên cứu Với mục đích tiếp cận thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; làm sâu sắc thêm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cả về phương diện lý luận và thực tiễn, tác giả thấy rằng cần phải làm rõ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự với hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Để giải quyết được vấn đề này, cần đặt ra giả thuyết nghiên cứu như sau: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam chưa thực sự hiệu lực, hiệu quả do pháp luật chưa được hoàn thiện, đồng bộ; chưa có được mô hình tổ chức thi hành án dân sự phù hợp hoặc đã có nhưng hoạt động kém hiệu quả trên thực tế. Từ giả thuyết nghiên cứu nêu trên, tác giả thấy rằng luận án cần nghiên cứu và giải đáp có hệ thống các câu hỏi, cụ thể là: Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự; thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự? Đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự? Lịch sử pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự? Thực trạng thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam?; Các quan điểm, định
  • 34. 29 hướng đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay, tầm nhìn 2030? Các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật ở Việt Nam? KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong Chương này, Luận án đã khái quát các kết quả của các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Nội dung của chương nhấn mạnh việc đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là yêu cầu chung trong thi hành pháp luật của các nước. Để đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, pháp luật của các nước đều quy định cụ thể về việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhân danh quyền lực Nhà nước khi người phải thi hành án, tổ chức, cá nhân liên quan không tự nguyện thi hành án; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án và trình tự, thủ tục tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Chương này cũng chỉ ra kết quả cơ bản của các công trình nghiên cứu đã công bố, nhất là những công trình đã công bố ở Việt Nam và nhận thức những kết quả này làm cơ sở cho việc tiếp tục phát triển theo hướng nghiên cứu của Luận án; đồng thời cũng chỉ ra những vấn đề tiếp tục cần nghiên cứu trong Luận án; giả thuyết nghiên cứu, những câu hỏi đặt ra và trở thành những nội dung sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của Luận án.
  • 35. 30 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự 2.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Trong đời sống xã hội, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được Nhà nước bảo đảm thực hiện, vì vậy pháp luật là cơ sở cho hành vi xử sự của các chủ thể và đòi hỏi các chủ thể phải thực hiện các hành vi hợp pháp - hành vi phù hợp với pháp luật, có ích cho xã hội. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn có những chủ thể vi phạm pháp luật, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ (lợi ích của Nhà nước, xã hội, tổ chức và cá nhân) hoặc giữa các chủ thể có thể phát sinh các tranh chấp. Khi hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và khi các tranh chấp phát sinh mà các bên không tự giải quyết được thì việc xét xử, giải quyết tranh chấp được giải quyết bởi các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh) và kết quả của việc xét xử, giải quyết tranh chấp được thể hiện là các bản án, quyết định, trong đó xác định cụ thể trách nhiệm pháp lý, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể (hình phạt, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ...). Về nguyên tắc, các bản án, quyết định chỉ thể hiện kết quả về mặt pháp lý, nếu không được thực thi trên thực tế thì không đạt được mục đích cuối
  • 36. 31 cùng của hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp. Do đó, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trên thực tế thì các bản án, quyết định phải được thi hành nghiêm chỉnh theo trình tự, thủ tục pháp luật về thi hành án. Hoạt động thi hành án có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng theo nghĩa chung nhất có thể quan niệm: thi hành án là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục, trình tự được pháp luật quy định nhằm đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Về bản chất, thi hành án là quá trình thực tế hóa các quyền và nghĩa vụ theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, tuy nhiên, tùy theo tính chất của bản án, quyết định, thì việc tổ chức thi hành án được thực hiện theo các trình tự, thủ tục có tính đặc thù nhất định. Theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam, các bản án, quyết định có hiệu lực thi hành được thi hành theo trình tự, thủ tục thi hành án hình sự, thi hành án dân sự và thi hành án hành chính, trong đó cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên có thẩm quyền tổ chức thi hành phần "dân sự" trong các bản án, quyết định theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Đó là: bản án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (Điều 1, Luật Thi hành án dân sự). Với phạm vi thi hành phần dân sự như trên nên thi hành án dân sự có những nguyên tắc đặc thù nhất định so với thi hành án hình sự, thi hành án hành chính. Ví dụ như: nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt và sự thỏa thuận của đương sự; khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; nguyên
  • 37. 32 tắc nhân đạo trong thi hành án dân sự; việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế chỉ khi đương sự không tự nguyện thi hành án; bảo đảm sự phối hợp giữa các cơ quan với việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, cá nhân...Những nguyên tắc này cũng là cơ sở cho việc quy định trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án phù hợp với tính chất, đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự. Vì vậy, từ những khái quát, phân tích nêu trên, có thể khái niệm: thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. 2.1.1.2. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự Khái niệm thi hành án dân sự nêu trên cho thấy về nguyên tắc khi bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành, nếu không chấp hành thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự tương ứng. Cũng như cưỡng chế nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự cũng xuất phát từ yêu cầu, nguyên tắc chung là dùng quyền lực nhà nước để buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, giáo dục người vi phạm; lập lại tình trạng như trước khi có hành vi vi phạm hay buộc chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả gây ra và các biện pháp khác pháp luật quy định. Về nguyên tắc, cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự không tự nguyện tuân thủ các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, vì vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp được pháp luật quy định, thể hiện quyền lực của Nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, nhằm buộc người phải thi hành án
  • 38. 33 thi hành đúng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án [74, tr.26]. Có quan điểm cho rằng cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp do cơ quan thi hành án áp dụng nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ về tài sản hoặc hành vi để thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật… Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng điểm chung nhất đều cho rằng mục đích của cưỡng chế thi hành án dân sự là nhằm buộc người phải thi hành án thi hành đúng nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án nếu họ có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, để đảm bảo ý nghĩa, hiệu quả của cưỡng chế thi hành án dân sự thì pháp luật cần quy định cụ thể về cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế được áp dụng; trình tự, thủ tục cưỡng chế....Từ những phân tích như trên, có thể khái niệm: Cưỡng chế thi hành án dân sự là việc chủ thể có thẩm quyền thực hiện biện pháp cưỡng chế theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực thi hành. Khái niệm về cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện mục đích của cưỡng chế thi hành án dân sự là đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của các đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan trong các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Bởi vậy, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là việc cơ quan thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành nhằm chấm dứt quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án); hạn chế quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (ví dụ: khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án thì người phải thi hành án bị hạn chế quyền chuyển quyền sử dụng đất cho người khác); buộc người phải thi hành
  • 39. 34 án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật (ví dụ: khi áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc). Từ đó, có thể nhận diện bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm quyền sử dụng quyền lực nhà nước làm chấm dứt, hạn chế quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ) hoặc buộc người phải thi hành án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi trái pháp luật trên cơ sở bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Với bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự như vậy cho thấy sự khác biệt với các biện pháp có tính cưỡng chế khác như: biện pháp bảo đảm thi hành án (phạm vi áp dụng biện pháp bảo đảm hẹp hơn so với phạm vi biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự với bản chất là biện pháp có tính cưỡng chế mang tính chất tạm thời như: phong tỏa tài khoản; tạm giữ tài sản; tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản); biện pháp cưỡng chế hành chính (đây là biện pháp nằm ngoài trình tự xét xử của toà án, chủ yếu do cơ quan quản lý hành chính nhà nước áp dụng nhằm ngăn ngừa, xử lý vi phạm hành chính) và biện pháp cưỡng chế hình sự (với bản chất là hạn chế quyền tự do thân thể, thậm chí tước đoạt tính mạng của người bị áp dụng hình phạt). 2.1.1.3. Khái niệm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự Để quản lý nhà nước và đảm bảo trật tự an toàn xã hội, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau (pháp luật, đạo đức, tập quán...) trong đó pháp luật được coi là công cụ quan trọng nhất - đó là hệ thống quy phạm có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
  • 40. 35 Trong thi hành án dân sự, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo cơ sở cho việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định dân sự khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thi hành án. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự phải được ban hành phù hợp và khả thi để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Cụ thể là các nhóm quan hệ xã hội cơ bản sau đây: Thứ nhất, nhóm quan hệ mang tính chất nội dung Nhóm này phản ánh những quan hệ về nội dung chấp hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành và quyết định cưỡng chế của chủ thể có thẩm quyền. Ví dụ: mối quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế với người phải thi hành án, người được thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với cơ quan thi hành án dân sự trong việc kiểm sát việc thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự... Mục đích của việc điều chỉnh các nhóm quan hệ này nhằm xác nhận giá trị pháp lý của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế; quyền và nghĩa vụ của đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan theo quy định pháp luật trong cưỡng chế thi hành án dân sự. Ví dụ như: người phải thi hành án thực hiện quyền khiếu nại nếu cho rằng việc cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế là trái quy định pháp luật... Ngoài ra, những quan hệ về nội dung còn làm phát sinh các mối quan hệ khác trong quá trình thực hiện việc cưỡng chế thi hành án dân sự (ví dụ: cơ quan thi hành án dân sự có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với người phải thi hành án nếu họ không chấp hành quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự, thậm chí cơ quan thi hành án dân sự còn đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý trách nhiệm hình sự đối với người phải thi hành án.
  • 41. 36 Thứ hai, nhóm quan hệ mang tính tổ chức-quản lý đối với hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự. Các mối quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của chủ thể có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể qua các mối quan hệ giữa chấp hành viên với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong quản lý, chỉ đạo thi hành án dân sự. Ví dụ như: mối quan hệ giữa Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự với chấp hành viên trong giải quyết khiếu nại của người phải thi hành án đối với quyết định cưỡng chế của chấp hành viên; mối quan hệ giữa Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự với cơ quan thi hành án dân sự trong chỉ đạo, phối hợp tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự... Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy rằng việc giải quyết các mối quan hệ này thường phức tạp và cũng có những tồn tại, hạn chế nhất định, ví dụ như: Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự có được chỉ đạo hoãn cưỡng chế thi hành án dân sự hay không?; khi cơ quan thi hành án dân sự tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự nếu không có đại diện Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp tham gia hay cơ quan Công an không tham gia bảo vệ cưỡng chế thì chấp hành viên có được thực hiện cưỡng chế hay không…). Do đó, việc quy định rõ thẩm quyền, mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể liên quan trong quá trình tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự sẽ góp phần đảm bảo tính pháp chế và nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự. Thứ ba, nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện các trình tự, thủ tục về cưỡng chế thi hành án dân sự. Cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành, đồng thời cũng là cơ chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tổ chức, cá nhân liên quan, do đó, hoạt động cưỡng
  • 42. 37 chế thi hành án dân sự phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục nhất định. Việc thực hiện các nguyên tắc, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự làm xuất hiện hàng loạt các mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan. Đó là những quan hệ phát sinh từ việc thực hiện các thủ tục về kê biên, bán đấu giá tài sản; thực hiện việc hoãn, tạm đình chỉ cưỡng chế khi có yêu cầu của người có thẩm quyền kháng nghị; Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị, kháng nghị đối với việc thực hiện trình tự, thủ tục tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế của chấp hành viên... Như vậy, để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội cơ bản nêu trên trong cưỡng chế thi hành án dân sự, Nhà nước phải ban hành các quy định pháp luật - các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và tổng hợp các quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tạo thành pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, có thể khái niệm: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự bao gồm quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế; trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự. Từ việc phân tích các khái niệm nêu trên, có thể thấy rằng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là cơ sở cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có được thực hiện hiệu quả trong thực tế hay không còn phụ thuộc vào nhận thức, hành vi hợp pháp của các chủ thể, thậm chí phải có sự tác động của cơ quan có thẩm quyền để buộc chủ thể phải thực hiện các nghĩa vụ pháp luật quy định. Hay nói cách khác là các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có trở thành hiện thực
  • 43. 38 trong xã hội hay không còn phụ thuộc vào hoạt động thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự của các chủ thể liên quan. Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, cũng như thực hiện pháp luật nói chung, trước hết cũng là hoạt động có mục đích nhằm làm cho các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự được thực hiện trong thực tế cuộc sống và trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật có liên quan. Tiếp đến, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự còn xuất phát từ bản chất của cưỡng chế thi hành án dân sự, đó là quá trình thực hiện pháp luật chỉ khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành. Điều này cũng có nghĩa là người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án là điều kiện tiên quyết để cơ quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. Ngoài ra, quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng phải tuân thủ những nguyên tắc, yêu cầu có tính đặc thù trong quá trình thi hành án dân sự. Vì vậy, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự có thể được coi là một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong đời sống xã hội và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong quá trình thi hành án. Từ những phân tích ở trên, có thể khái niệm: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động có mục đích làm cho các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở thành những hành vi thực tế của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong thi hành án dân sự nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. 2.1.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự Cưỡng chế thi hành án dân sự là giải pháp cuối cùng được áp dụng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của
  • 44. 39 mình theo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, với mục đích thi hành các nghĩa vụ dân sự nên thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự cũng có những đặc điểm có bản là: Thứ nhất, thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đảm bảo tính độc lập và chủ động của chấp hành viên. Trong hoạt động thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật, do đó khi thi hành nhiệm vụ, về nguyên tắc chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ, đặc biệt là khi phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì chấp hành viên phải chịu nhiều áp lực trong thực thi nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo cho chấp hành viên thực hiện đúng các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự thì các cơ quan, tổ chức và cá nhân phải có trách nhiệm phối hợp theo đúng phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình; mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Tính chủ động, độc lập của chấp hành viên được pháp luật quy định cụ thể tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự, theo đó bao gồm các thẩm quyền như: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự... Đặc biệt là tính độc lập của chấp hành viên được đề cao trong quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự khi pháp luật cho phép được lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phù hợp (ví dụ như: Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ...). Trong quá trình thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, tính độc lập của chấp hành viên được thể hiện rõ nhất