Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ KIM CÚC
§Þa vÞ ph¸p lý
cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ KIM CÚC
§Þa vÞ ph¸p lý
cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và
hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận văn này. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Trần Thị Kim Cúc
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu................................................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: ......................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp mới của luận văn....................................................................... 5
7. Kết cấu của luận văn.................................................................................. 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ......................................................... 7
1.1. Những khái niệm có liên quan................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm hội thẩm............................................................................ 7
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự.......... 11
1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm trong tố
tụng hình sự Việt Nam................................................................................. 14
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988)................................................................................................... 14
1.2.2. Giai đoạn 1988 đến nay.................................................................... 21
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội
thẩm trong tố tụng hình sự........................................................................... 25
1.3.1 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong tố tụng hình
sự ................................................................................................................ 25
1.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của hội
thẩm khi tham gia tố tụng hình sự.............................................................. 27
5. Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI
THẨM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT................................................. 37
2.1. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của Hội thẩm......................................................................... 37
2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện qui định của pháp luật về
địa vị pháp lý của Hội thẩm ....................................................................... 37
2.1.2. Những tồn tại, thiếu sót của Hội thẩm trong thực hiện địa vị pháp
lý khi tham gia xét xử................................................................................. 45
2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu sót khi thực hiện địa vị
pháp lý của Hội thẩm ................................................................................. 57
2.2. Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm
trong tố tụng hình sự.................................................................................... 66
2.2.1. Cần nhận thức đúng về vai trò của Hội thẩm tham gia cùng Thẩm
phán Tòa án xét xử vụ án hình sự .............................................................. 66
2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến nâng cao địa vị pháp
lý của Hội thẩm .......................................................................................... 71
2.2.3. Những đề xuất, kiến nghị khác liên quan đến Hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử vụ án hình sự .................................................................... 76
KẾT LUẬN.................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS : Bộ luật hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hoạt động tố tụng hình sự, xét xử là giai đoạn cuối cùng để giải
quyết một vụ án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng. Bằng
hoạt động xét xử của mình, Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra phán quyết đối
với mỗi vụ án. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và quyết định hình phạt
đối với một con người. Không ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc xét xử của Tòa án được thực
hiện thông qua hoạt động của Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và các Hội
thẩm. Thẩm phán và các Hội thẩm là những người được Nhà nước trao cho
quyền thay mặt Nhà nước đưa ra bản án, quyết định đối với vụ án hình sự.
Việc ra bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải đảm bảo khách quan,
đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không được bỏ lọt tội phạm. Bản
án, quyết định hình sự của Hội đồng xét xử không chỉ liên quan đến quyền
sống, quyền tự do hay sinh mệnh chính trị của mỗi cá nhân trong xã hội mà
nó còn có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước. Cùng với Thẩm phán,
các Hội thẩm là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét
xử của mỗi vụ án. Hiến pháp năm 1992 quy định “Việc xét xử của Tòa án có
Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán” [25, Điều 129]. Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Việc xét xử sơ thẩm
của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ
tục rút gọn” [28, Điều 103]. Sự tham gia của Hội thẩm thể hiện sự tham gia
của nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử nhằm nói lên tiếng nói của nhân
dân đối với mỗi sự kiện pháp lý, đồng thời họ còn là những người giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy vị trí, vai trò của Hội thẩm trong hoạt
động tố tụng hình sự là rất quan trọng.
8. 2
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định “Khi
xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị
đơn.”
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng ghi rõ: “ Tòa án có vị trí trung tâm
và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: “ Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Bộ luật tố tụng hình sự được xây dựng theo hướng mở rộng dân chủ,
tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đề cao tính tranh tụng trong hoạt
động tố tụng. Vai trò của luật sư cũng được nâng cao và tôn trọng hơn. Đối
với hoạt động của Hội đồng xét xử, Bộ luật cũng có những quy định rõ rang
hơn về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong hoạt động tố
tụng. Trình tự thủ tục ra bản án, quyết định của Tòa án. Bên cạnh đó, việc ra
bản án, quyết định của Tòa án ngày càng được chú trọng đi vào chiều sâu,
khắc phục được nhiều tình trạng chủ quan duy ý chí, dựa vào hồ sơ khi ra
phán quyết, hạn chế được tình trạng oan, sai trong hoạt đông tố tụng… Tuy
vậy BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những thiếu sót và hạn chế như một số
nội dung quy định chưa rõ ràng, có những quy định chưa phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của Hội thẩm, chưa quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của
9. 3
nhưng người tiến hành tố tụng. Mặt khác, trong những năm qua chất lượng
đào tạo của Thẩm phán, Thư ký đã được quan tâm nhưng đội ngũ Hội thẩm
chưa được quan tâm đúng mức. Trong công tác xét xử vai trò của Hội thẩm là
rất lớn và bắt buộc có( Trong hoạt động xét xử sơ thẩm). Do vậy, cần quan
tâm đúng mức hơn mà cụ thể là cần có những quy định pháp luật để giải
quyết tốt vấn đề chất lượng của Hội thẩm.
Nghiên cứu về chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự nhằm làm rõ
khái niệm, vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong hoạt
động tố tụng hình sự; Thực trạng hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình
sự hiện nay; Xu hướng cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan đến chế
định Hội thẩm trong tố tụng hình sự là một việc làm rất cần thiết. Việc nghiên
cứu phải được tiến hành một cách nghiêm túc, có hệ thống nhằm làm rõ
những yếu tố tích cực của chế định này, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế
trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn hoạt động. Từ đó
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
Vì vậy tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự” để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay đã có một số luận văn, luận án nghiên cứu về địa vị
pháp lý của những chủ thể khác trong tố tụng hình sự như Thẩm phán, Kiểm
sát viên, điều tra viên, luật sư… nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên
cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay.
Cũng đã có một số tài liệu, bài viết về tiêu chuẩn của Hôi thẩm, quyền hạn,
trách nhiệm của Hội thẩm. Tuy nhiên các tài liệu, bài viết này thường chỉ
nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm theo pháp luật nói chung.
Không tập trung vào nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong
10. 4
tố tụng hình sự. Chưa có luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ nào nghiên cứu một
cách có hệ thống và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố
tụng hình sự sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành và cũng
chưa làm rõ được vị trí, vai trò của Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự là rất cần thiết, nhằm làm rõ vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của
pháp luật về vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố
tụng hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định đó trong
thực tiễn, tìm ra những bất cập, những hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp
dụng pháp luật của về hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự để từ đó
đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong
tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp
luật tố tụng hình sự về chế định này.
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật
có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và từ đó đưa ra những kiến nghị, giải
pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội
11. 5
thẩm trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định Hội thẩm.
Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vị trí, vai
trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm; cũng như nghiên cứu thực trạng
hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự hiện nay; xu hướng cải cách tư
pháp và những vấn đề liên quan đến chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của Hội thẩm qua các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và qua thực tiễn áp dụng các quy định đấy. Tập
trung làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong quá trình xét xử các
vụ án hình sự.
Luận văn không nghiên cứu hội thẩm nhân dân trong các hoạt động tố
tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn dựa trên quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách
tư pháp, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể là các phương pháp phân tích, tổng
hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê để làm rõ những vấn đề của
đối tượng nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn làm rõ khái niệm về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng
hình sự. Luận văn sẽ phân tích về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của
Hội thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng áp
dụng những quy định đó và chỉ ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật hiện
12. 6
tại từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
Vì vậy, luận văn có cả ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào hệ
thống lý luận luật tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những
người nghiên cứu, những người làm công tác xây dựng pháp luật, làm công
tác thực tiễn và học tập về những kiến thức pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm có hai chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong
tố tụng hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực thi những quy định của pháp luật về địa vị
pháp lý của Hội thẩm và các kiến nghị, đề xuất.
13. 7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm hội thẩm
Nghiên cứu các cuốn từ điển ở trong và ngoài nước (bao gồm cả từ điển
thông dụng và từ điển pháp lý chuyên ngành) có thể rút ra một nhận xét tương
đối khái quát là: trong ngôn ngữ tiếng Việt, khái niệm “hội thẩm” có thể được
diễn đạt bằng nhiều từ khác nhau (hội thẩm, phụ thẩm, bồi thẩm). Ngược lại,
trong tiếng nước ngoài, từ “hội thẩm” (assesseur) là được sử dụng như một từ
đa nghĩa với nhiều cách hiểu khác nhau, nhiều nghĩa khác nhau rất phức tạp.
Điều này có nghĩa là: người Việt dùng nhiều từ để diễn đạt một khái niệm
trong khi người nước ngoài sử dụng một từ để chỉ nhiều khái niệm (nhiều
nghĩa hoàn toàn khác nhau). Có thể thấy rõ hiện tượng này qua một số cuốn
từ điển cụ thể dưới đây.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học
xã hội Việt Nam thì “hội thẩm” được hiểu là: “đại biểu nhân dân cùng ngồi
xử án với các thẩm phán” [46, tr.461]. Cũng theo Từ điển này, “bồi thẩm” là
“thẩm phán cùng ngồi xét xử với chánh án trong một phiên tòa”. Theo Từ
điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thì “hội thẩm
nhân dân” là “Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” [44, tr.387]. Từ
điển Hán Việt của Đào Duy Anh không đưa ra định nghĩa “hội thẩm” song có
giải thích nghĩa riêng rẽ của hai từ Hán Việt là “Hội” và “Thẩm”. Từ “Hội” có
nghĩa là: “Họp nhau - Cơ quan có nhiều người họp để làm việc - Gặp - Ý tứ
và sự lý hợp nhau - Bản lĩnh và sự tình hợp nhau” [2, tr.184]. Còn từ “Thẩm”
14. 8
được hiểu là “Biết rõ tình hình - Khảo xét kỹ càng - Xử đoán”. Căn cứ vào
nghĩa của từng từ riêng rẽ, có thể hiểu “hội thẩm” là người thấu suốt tình lý
tham gia vào việc xử án. Điểm đáng lưu ý là, mặc dù không định nghĩa về
“hội thẩm” nhưng Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh lại giải thích về bồi
thẩm và chế độ bồi thẩm. Theo ông Đào Duy Anh, “Bồi” là: “Theo cho có
bạn - Giúp thêm - Làm tôi - Ở hai bên người khác” và “Bồi thẩm” là “Những
người do công dân cử lên để tham dự vào việc thẩm phán ở Pháp đình”. Còn
“Bồi thẩm chế độ” là “Khi Pháp viện xét án dân sự, trừ pháp quan còn có
những người do công dân hợp cách cử ra để thẩm tra tình hình sự thực, pháp
quan cứ theo quyết nghị của mấy người ấy để phán quyết. Mấy người ấy gọi
là bồi thẩm. Chế độ ấy thịnh hành nhất ở Anh và Mỹ” [2, tr.35]. Trong các
cuốn từ điển ở Việt Nam hiện nay, không thấy có Từ điển nào giải thích
thuật ngữ “phụ thẩm”. Tuy nhiên, khái niệm “phụ thẩm” được sử dụng rất
phổ biến trong các văn bản pháp luật ban hành trước năm 1950 như Sắc lệnh
số 13/SL, Sắc lệnh số 33/SL và trong cả bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta
- Hiến pháp năm 1946.
Nghiên cứu tài liệu nước ngoài đề cập đến vấn đề hội thẩm, trước hết
cần chú ý đến Cuốn sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông (tập I) do tập thể các
nhà khoa học pháp lý Xô viết như I.A. Azovkin và các tác giả khác viết, Nhà
xuất bản “Sách pháp lý” xuất bản năm 1973, được dịch và công bố ở Việt
Nam vào năm 1986. Theo các tác giả của cuốn sách này ở mục “Hội thẩm
nhân dân” thì: “Việc xét xử các vụ án tại các tòa án cấp sơ thẩm do một thẩm
phán và hai hội thẩm nhân dân tiến hành. Công dân Liên xô có quyền bầu cử
và đủ 25 tuổi có thể được bầu làm hội thẩm nhân dân”. Với cách tiếp cận
này, có thể thấy chế định hội thẩm ở Liên xô (trước đây) cũng tương tự như ở
nước ta hiện nay.
15. 9
Mở rộng nguồn tài liệu nghiên cứu sang các tài liệu khoa học pháp lý
phương Tây, Từ điển pháp lý (dictionnaire juridique) của Pháp định nghĩa:
Trong ngôn ngữ pháp lý tố tụng, thuật ngữ Hội thẩm (Assesseur) được
sử dụng để chỉ những người có thẩm quyền, thành lập và hoạt động theo thể
thức tập thể, hỗ trợ thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thuật ngữ nói trên cũng còn
được dùng để chỉ tất cả những người nào tham gia vào việc đưa ra các quyết
định (phán quyết), bao gồm cả những thành viên không chuyên nghề xét xử
trong một số thiết chế tư pháp như Tòa án Thương mại, Tòa án về những vụ
việc liên quan đến an sinh xã hội hay Tòa án về những vấn đề nông thôn.
Từ điển Larousse giải thích nguồn gốc từ Hội thẩm (Assesseur) trong
tiếng Pháp bắt nguồn từ thuật ngữ “Assessor” của tiếng La tinh, có nghĩa là
“giúp đỡ hoặc đưa ra lời khuyên”. Các tác giả Từ điển Larousse cho rằng từ
“Hội thẩm” (Assesseur) trong tiếng Pháp có 4 nghĩa sau đây: 1) Là thẩm phán
giúp đỡ, hỗ trợ chủ tọa phiên tòa và nghị án cùng với ông ta; 2) Là danh từ
dùng để chỉ thành viên của một số thiết chế tư pháp đặc biệt (như Tòa án về
những vấn đề nông thôn hay Tòa thương mại liên quan đến các giao thương
trên biển) hoặc thành viên của các văn phòng bầu cử quốc gia; 3) Dưới thời
đế chế La Mã thống trị, hội thẩm (Assesseur) là những luật gia cố vấn có
nhiệm vụ hỗ trợ về mặt pháp lý cho các thẩm phán ra phán quyết; 4) Trong
chế độ cũ (trước cách mạng 1789 ở Pháp), hội thẩm là những người giúp đỡ
cho người đứng đầu các tổ chức tư pháp hoặc là những nhân viên tư pháp
tham dự hoạt động xét xử với các thẩm phán trong các phiên tòa hình sự.
Theo Từ điển phổ thông wikipedia.org trên mạng Internet thì:
Hội thẩm (Assesseur) là người ngồi bên cạnh một người khác để giúp
đỡ người này thực hiện chức năng, nhiệm vụ của họ và bổ sung, hỗ trợ họ khi
thấy cần thiết. Trong các quy định pháp luật, hội thẩm là người hoạt động
trong lĩnh vực tư pháp có chức năng hỗ trợ cho thẩm phán. Ở một nghĩa khác,
16. 10
thuật ngữ Assesseur (Hội thẩm) còn được dùng để chỉ những người có nhiệm
vụ bảo đảm cho các cuộc bầu cử diễn ra suôn sẻ, nhất là trong việc kiểm tra tư
cách cử tri hoặc tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Ở Thụy Sĩ, người ta còn gọi
là Assesseur (Hội thẩm) những người là thành viên không giữ chức vụ chủ
tịch, thư ký hay kế toán trưởng trong cơ quan điều hành của các tổ chức xã
hội.
Từ những điều đã trình bày trên, có thể thấy, ở nước ta, chế định Hội
thẩm chính thức chỉ xuất hiện từ năm 1945 trở lại đây với hai tên gọi thay thế
nhau theo thời gian là “phụ thẩm” và “hội thẩm”. Có thể nói “phụ thẩm” và
“hội thẩm” là hai thuật ngữ tương đương ngang nghĩa nhau song khái niệm
“phụ thẩm” được sử dụng trước năm 1950. Từ năm 1950 đến nay, chúng ta
thống nhất dùng thuật ngữ “hội thẩm”. So sánh với quan niệm của các nhà
khoa học pháp lý Liên Xô trước đây, có thể thấy quan niệm của giới nghiên
cứu luật học Việt Nam về “hội thẩm” chịu ảnh hưởng của trường phái pháp
luật Xô viết.
Mặt khác, sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong xét xử làm tăng
cường tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm nhân
dân là những người được Hội đồng nhân dân cùng cấp tín nhiệm bầu ra, thay
mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử các vụ án sơ thẩm, đảm bảo cho
hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Sự tham gia của
Hội thẩm trong xét xử vụ án tại Tòa án thể hiện sự tham gia của nhân dân vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động xét xử các vụ án của
Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp, để nhân dân tham gia
vào công việc của Nhà nước và xã hội, góp phần quan trọng trong việc đảm
bảo các bản án của Tòa án tuyên chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích,
nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Mặt khác, Hội thẩm là người sinh
sống trong các cụm dân cư, làm việc trong cơ quan, xí nghiệp trường học, đơn
17. 11
vị sản xuất… là người có kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan hệ khá
rộng với nhiều tầng lớp dân cư, nên có khả năng hiểu đặc điểm, hoàn cảnh,
tâm lý của người vi phạm pháp luật nói chung, người phạm tội nói riêng, từ
đó giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng
quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thông qua hoạt động của Hội thẩm nhân dân, Tòa án có điều kiện nắm bắt ý
kiến quần chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; giúp quần
chúng nhân dân hiểu rõ về hoạt động của Tòa án nói chung, hoạt động xét xử
nói riêng. Quần chúng nhân dân được nâng cao ý thức pháp luật, tự giác chấp
hành và bảo vệ pháp luật. Hội thẩm nhân dân còn góp phần tuyên truyền, phổ
biến pháp luật nói chung, kết quả xét xử các vụ án cho quần chúng nhân dân
nói riêng Là những người cùng sinh sống, làm việc trong các cụm dân cư, các
đơn vị sản xuất, các cơ quan hành chính, sự nghiệp; người có sự hiểu biết
pháp luật nhất định. Sau mỗi phiên tòa, Hội thẩm nhân dân trở về với dân cư
nơi sinh sống và nơi làm việc, nên Hội thẩm nhân dân có điều kiện phổ biến
pháp luật và kết quả xét xử vụ án của Tòa án cho quần chúng nhân dân [11].
Như vậy, hội thẩm là người đại diện của nhân dân, được bầu hoặc cử
theo quy định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án để giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và
đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải
quyết tranh chấp trong xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “địa vị” là: “Vị trí
cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt
được coi trọng nhiều hay ít” [46, tr.321].
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người cho rằng con
người là một thực thể thống nhất giữa cái tâm sinh lý và cái xã hội. Sự tồn
tại của con người không tách được khỏi môi trường xã hội và xét về bản chất
18. 12
thì con người (ở nghĩa cá nhân) là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tính đa
dạng trong quan hệ xã hội của mỗi người tạo nên địa vị xã hội của họ. Xét ở
một khía cạnh nào đó, địa vi pháp lý cũng là một bộ phận nằm trong địa vị
xã hội của con người, xác định vị trí của con người trong mối quan hệ với
những người khác.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý trực thuộc Bộ Tư pháp
định nghĩa địa vị pháp lý là:
Vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp
luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp
luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua
đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của
mình. Ví dụ: địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành tổng thể
các quyền và nghĩa vụ của công dân được hiến pháp và pháp luật quy định.
Một sự kiện pháp lý như chết, thương tích do tai nạn…, một hành vi pháp lý
như mua, bán, tặng, cho, để lại thừa kế tạo ra một loạt quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm… cho một chủ thể nhất định. Thông qua địa vị pháp lý, có thể phân biệt
chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem
xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp
luật [44].
Như vậy, “địa vị pháp lý” luôn gắn với chủ thể quan hệ pháp luật. Khi
đề cập đến “địa vị pháp lý” là nói về quyền và nghĩa vụ của một chủ thể quan
hệ pháp luật cụ thể, không có địa vị pháp lý chung chung.
Đời sống xã hội phức tạp và đa dạng làm nảy sinh vô vàn các quan hệ
chồng chéo, phức tạp, muôn hình vạn trạng. Tham gia vào các quan hệ xã hội
đó, mỗi người (bao gồm cả cá nhân, tổ chức) đều có những lợi ích riêng. Lợi
ích của các chủ thể quan hệ xã xã hội có thể cùng chiều, thống nhất với nhau
nhưng cũng có thể mâu thuẫn, xung đột với nhau. Để sự mâu thuẫn, xung đột
19. 13
về mặt lợi ích không phá hoại sự ổn định xã hội, cần phải có sự điều chỉnh các
quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng nhiều loại quy phạm
xã hội khác nhau: quy pháp đạo đức, tôn giáo, quy phạm của các tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và quy phạm pháp luật. Các quan hệ xã hội
chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật được gọi là quy phạm pháp luật và
các bên tham gia vào quan hệ pháp luật được gọi là chủ thể quan hệ pháp luật.
Chủ thể quan hệ pháp luật luôn là những cá nhân, tổ chức cụ thể. Vị trí của cá
nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật trong mối quan hệ với các cá nhân,
tổ chức khác được gọi là địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức đó. Địa vị pháp
lý của cá nhân, tổ chức không tách rời khỏi cá nhân, tổ chức khi tham gia các
quan hệ pháp luật. Và ngược lại, chính qua địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức
thì cá nhân, tổ chức mới tồn tại với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật.
Hay nói cách khác, địa vi pháp lý của một cá nhân, tổ chức có được là do
pháp luật trao cho họ. Đây là điểm khác biệt quan trong giữa địa vị pháp lý
với địa vị xã hội nói chung. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua
việc thiết lập nên các quy tắc, mô hình hành vi chuẩn, hay nói cách khác,
pháp luật đưa ra các quy tắc xử sự chung buộc mọi người phải tuân theo. Pháp
luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể pháp luật. Toàn bộ
những quyền, nghĩa vụ pháp lý đó tạo thành địa vị pháp lý của chủ thể tham
gia quan hệ pháp luật mà quy phạm pháp luật điều chỉnh. Địa vị pháp lý của
chủ thể pháp luật là do Nhà nước, qua việc ban hành các quy phạm pháp luật,
tạo nên, thể hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy
định cho các chủ thể đó.
Trong quan hệ pháp luật, tương ứng với quyền pháp lý của chủ thể
pháp luật này là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật khác. Lý luận nhà
nước và pháp luật xác định: nghĩa vụ pháp lý của chủ thể quan hệ pháp luật là
hành vi xử sự bắt buộc mà quy phạm pháp luật quy định trước mà một bên
20. 14
của quan hệ pháp luật đó phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của các chủ thể
khác. Khác với quyền pháp lý, nghĩa vụ pháp lý không phải là khả năng xử sự
mà là sự cần thiết phải xử sự của chủ thể quan hệ pháp luật.
Như phần trên đã trình bày, hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo
quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án, nên địa vị pháp lý của hội thẩm và quyền và nghĩa vụ của
hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm, khi thực hiện nhiệm vụ xét
xử vụ án hình sự có những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật có liên quan. Bản chất
địa vị pháp lý của hội thẩm là các quyền pháp lý và nghĩa vụ pháp lý cụ thể
của hội thẩm khi tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự do pháp luật tố tụng
hình sự điều chỉnh.
Cho nên, có thể hiểu: Địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự
là nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của hội thẩm trong mối quan hệ với Tòa
án để cùng thẩm phán thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra
được những quyết định trong bản án hình sự phù hợp với những quy định của
pháp luật hiện hành
1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự năm 1988)
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong
những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các
lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói
năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như
không có gì phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ
21. 15
học vấn của nhân dân hầu như rất thấp, có tới 95% dân số toàn quốc hoàn
toàn mù chữ. Trong khi đó, nguy cơ ngoại xâm từ bên ngoài lấy danh nghĩa
đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Bắc, quân đội Tưởng Giới
Thạch tiến vào Hà Nội. Khoảng 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch mượn danh
nghĩa Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật. Tại miền Nam, quân đội Pháp
được quân Anh yểm trợ xâm lược chiếm Sài Gòn. Bên trong đất nước, bọn
phản động người Việt được sự trợ giúp của đế quốc ngoại bang và tàn quân
của chế độ cũ nổi dậy chống phá nhằm lật đổ chính quyền nhân dân non trẻ để
thành lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình
hình đó, nhân dân ta phải thực hiện ba nhiệm vụ lớn là diệt giặc đói, diệt giặc
dốt và diệt giặc ngoại xâm. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật nói chung, trong
đó có pháp luật tố tụng hình sự được xây dựng thời kỳ này chủ yếu tập trung
phục vụ ba nhiệm vụ nói trên. Nhưng do tình hình hết sức khẩn trương lúc
bấy giờ, nên không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật cũng
như các văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết. Do đó, ngày
10/10/1945, nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các
luật lệ cũ ở ba miền Bắc, Trung, Nam, nhưng không được xâm phạm vào nền
độc lập quốc gia. Sắc lệnh quy định:
Cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam,
các luật lệ hiện hành vẫn tạm giữ nguyên như cũ [6, Điều 1], với điều kiện Những
điều khoản trong luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này chỉ thi hành khi nào
không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa [6,
Điều 12].
Do tình hình đất nước lúc bấy giờ rất cấp bách trong bảo vệ nền độc lập
dân tộc nên vấn đề xây dựng pháp luật chưa có thời gian xây dựng, các văn
bản pháp luật được ban hành thường mang tính thời kỳ, phục vụ những nhiệm
vụ trước mắt. Tuy nhiên, hàng loạt văn bản liên quan đến hoạt động tư pháp
22. 16
được ban hành. Sắc lệnh 33C ngày 13/9/1945 của Chính phủ lâm thời về
thành lập tòa án quân sự; Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 và Sắc lệnh số 51
ngày 17/7/1946 về thành lập tòa án các cấp. Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946
khi xét xử có phụ thẩm nhân dân tham gia cùng thẩm phán. Các phụ thẩm
nhân dân có thể xin hồi tị với ông Chánh án, nếu có lý do chính đáng. Ông
Chán án có toàn quyền quyết định có nên cho hồi tị hay không (Điều 23). Hồi
tị là việc các thẩm phán hoặc hội thẩm nhân dân tự mình xin không tham gia
vào việc xét xử vụ án vì tự nhận thấy mình có quan hệ với vụ án có thể làm
cho việc xét xử không được công bằng. Đặc biệt, Hiến pháp 1946 đã quy
định: “khi xét xử việc hình thì phải có phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý
kiến nếu là việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là đại
hình” [21, Điều 65]. Như vậy, quy định về Phụ thẩm nhân dân (nay gọi là hội
thẩm nhân dân) tham gia cùng thẩm phán xét xử vụ án hình sự đã được quy
định ngay sau khi thành lập nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quan điểm về Hội thẩm tham gia xét xử vụ án tiếp tục được quy định
tại các văn bản pháp luật những năm tiếp theo. Ví dụ, Hiến pháp năm 1959
quy định: “Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia
theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán” [22, Điều 99]. Trên cơ sở Hiến pháp quy định, Luật tổ chức Tòa
án nhân dân 1960 quy định: “Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân tham gia. Hội thẩm nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội
thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán” [7, Điều 11].
Tuy nhiên, trong những năm đầu tiên sau khi giải phòng Miền Bắc
(1954), việc lựa chọn và sử dụng hội thẩm nhân dân để cùng thẩm phán tham
gia xét xử vụ án hình sự có nhiều vấn đề như. Trong Thông tư số 1671-HCTP
ngày 11/9/1956 của Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp về chấn chỉnh thực hiện chế độ
hội thẩm nhân dân đã nêu rõ: nhiều Ủy ban hành chính và Tòa án chưa chú ý
23. 17
đúng mức đến việc thực hiện chế định hội thẩm nhân dân. Do đó, những hội
thẩm nhân dân thường trực đã điều động đi công tác khác hoặc những hội
thẩm nhân dân đã rơi rụng qua phát động giảm tô và cải cách ruộng đất,các
Ủy ban và Tòa án đều không cử người thay thế. Mỗi khi mở phiên tòa, thường
phải mời một số cán bộ chính quyền và đoàn thể làm hội thẩm nhân dân, việc
mời thường gặp nhiều khó khăn, có khi phải hoãn phiên tòa vì hội thẩm
nhân dân bận không đến được. Số hội thẩm nhân dân khu và tỉnh còn quá ít
mà số việc đưa ra xét xử lại nhiều, hội thẩm nhân dân lại bận luôn nên
không đảm bảo được chu đáo nhiệm vụ của mình. Do vậy, cần mở rộng
danh sách hội thẩm nhân dân nhằm phát triển việc nhân dân tham gia tư
pháp, đồng thời đảm bảo cho Tòa án được dễ dàng trong việc mời hội thẩm
nhân dân tham gia xét xử nhưng cũng chú trọng chất lượng của hội thẩm
nhân dân để đảm bảo cho việc xét xử được tốt, nâng cao được tác dụng của
hội thẩm nhân dân trong Tòa án.
Tiếp tục quan điểm nêu trên, Hiến pháp 1959 về Hội thẩm nhân dân
tham gia xét xử vụ án hình sự, Hiến pháp 1980, Luật tổ chức Tòa án nhân dân
1981; Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 đều quy định rất
rõ vấn đề này. Ví dụ, Điều 130 Hiến pháp năm 1980 quy định:
Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo
quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm
phán. Chế độ bầu cử Hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Tòa án nhân dân các
cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi;
nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân địa phương là hai năm [23,
Điều 130].
Trên cơ sở Hiến pháp và Luật tổ chức Tòa án, các văn bản pháp luật tố
tụng hình sự đều quy định vị trí vai trò của Hội thẩm nhân dân tham gia vào
xét xử vụ án hình sự. Thông tư 377-TC ngày 25/4/1961 hướng dẫn việc tổ
24. 18
chức bầu cử hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương nêu rõ,
Để thực hiện Điều 99 của Hiến pháp 1959 và điều 11 của Luật tổ chức
tòa án nhân dân 1960 quy định rằng việc xét xử các ở tòa án nhân dân có hội
thẩm nhân dân tham gia. Việc bầu cử hội thẩm nhân dân nhằm thực hiện sự
tham gia của nhân dân trong công tác xét xử để tăng cường tính chất nhân dân
trong tổ chức của tòa án nhân dân và để thắt chặt quan hệ giữa tòa án và nhân
dân. Chế độ hội thẩm nhân dân là một hình thức tham gia quản lý công việc
Nhà nước của đông đảo quần chúng. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân làm
cho tòa án xét xử được tốt vì các hội thẩm nhân dân sinh hoạt trong nhân dân,
hiểu rõ được những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán của nhân dân, cho
nên với sự tham gia xét xử của hội thẩm nhân dân, tòa án xét xử được sát thực
tế và sát với nguyện vọng của nhân dân. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã
có một kinh nghiệm lớn là: nơi nào mà hội thẩm nhân dân tích cực tham gia
công tác tư pháp, thì công tác xét xử của tòa án rất tốt, công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật làm được nhiều, tư pháp xã hòa giải, dàn xếp được rất
nhiều việc xích mích, tranh chấp trong nhân dân, và do đó công việc của tòa
án cũng bớt đi được rất nhiều. Muốn thực hiện tốt chế độ hội thẩm nhân dân,
trước tiên phải thực hiện tốt việc bầu cử hội thẩm nhân dân.
Thông tư số 2421-TC ngày 29/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn việc thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân có nêu: những việc xử vi
cảnh không phải có hội thẩm nhân dân tham gia vì những việc này là những
việc nhỏ, sự việc rõ ràng thuộc về công tác quản lý trị an chứ không phải là
một tội phạm. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án nhân dân phải xét về bản chất sự
việc, cslaf xem xét bị cáo có phạm pháp không, trách nhiệm của bị can trong
việc phạm pháp nặng hay nhẹ v.v.... Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong
việc xét xử rất cần thiết vì hội thẩm nhân dân sát với thực tế, có thể góp phần
quan trọng làm cho việc xét xử của Tòa án được chính xác. Vì vậy, Điều 11
25. 19
Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định là:
Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia. Hội thẩm
nhân dân do nhân dân bầu ra. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với
thẩm phán; Điều 12 lại quy định cụ thể thêm: Khi sơ thẩm, Tòa án nhân dân
gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ,
giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có thể xử không có hội thẩm
nhân dân.
Nói chung, Hội thẩm nhân dân chỉ tham gia vào xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự mà không tham gia vào xét xử phúc thẩm. Tuy nhiên, Điều 12 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân có quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, khi xử phúc
thẩm Tòa án cũng có thể có thêm hội thẩm nhân dân”. Thông tư số 2421-TC
ngày 29/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thực hiện chế
độ hội thẩm nhân dân có quy định: để khắc phục tình trạng thiếu thẩm phán,
các Tòa án nhân dân nào thiếu thẩm phán có thể mời hội thẩm nhân dân ngồi
xử thay cho thẩm phán vắng mặt khi Tòa án xét xử phúc thẩm, nhưng phải
bảo đảm cho số thẩm phán chuyên trách nhiều hơn số hội thẩm nhân dân, tức
là Tòa án phải gồm có hai thẩm phán và một hội thẩm nhân dân.
Khi tham gia xét xử, Điều 19 Pháp lệnh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
năm 1961 quy định: “Hội thẩm nhân dân có trách nhiệm đến Tòa án để làm
nhiệm vụ của mình theo đúng ngày giờ mà Tòa án đã ấn định”. Tòa án phải
nhắc nhở các hội thẩm nhân dân thi hành nghiêm chỉnh quy định nói trên vì
nếu hội thẩm nhân dân không đến Tòa án hoặc đến Tòa án không đúng ngày
giờ mà Tòa án đã định sẽ làm trở ngại cho việc xét xử, gây thêm tổn phí cho
nhà nước và cho nhân dân. Thông tư số 2421-TC ngày 29/12/1961 của Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn việc thực hiện chế độ hội thẩm nhân dân có quy
định: hội thẩm nhân dân cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án mà mình có nhiệm vụ
tham gia xét xử; hội thẩm nhân dân phải giữ bí mật việc thảo luận ở Tòa án về
26. 20
vụ án; sau khi xét xử về kể lại cho nhân dân về vụ án để thông qua đó giáo dục
nhân dân tuân thủ pháp luật. Khi hội thẩm tham gia xét xử, thẩm phán có họp
trước với hội thẩm nhân dân để chuẩn bị cho việc xét xử. Trong cuộc họp này
hội thẩm nhân dân có quyền cùng thẩm phán quyết định những vấn đề như: đề
nghị viện kiểm sát điều tra thêm, tạm tha cho bị cáo bị giam cứu, bắt bị cáo đã
bị truy tố nhưng còn được tại ngoại, xử công khai hay xử kín, có chỉ định người
bào chữa cho bị cáo hay không, những nhân chứng nào cần mời đến phiên tòa,
thời gian và địa điểm phiên tòa v.v.... Trong phiên tòa, hội thẩm nhân dân có
quyền đề nghị với thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi thêm đương sự, bị cáo v.v...
về một số điểm hoặc để cho mình hỏi thêm một số điểm. Trong phòng nghị án,
hội thẩm nhân dân có quyền cùng với thẩm phán quyết định việc định tội,
lượng hình, chủ trương xét xử, hoặc quyết định hoãn phiên tòa v.v....
Tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn: khi xét xử sơ thẩm, hội đồng xử án gồm một thẩm phán và hai hội
thẩm nhân dân. Tại các khu tự trị Việt Bắc và Tây bắc thì khi xét xử sơ thẩm
vụ án có những bị cáo thuộc ác thành phần dân tộc khác nhau, hội đồng xử án
có thể gồm một thẩm phán và bốn hội thẩm nhân dân. Đối với những vụ án
quan trọng, phức tạp, phải xét xử trong nhiều ngày, để bảo đảm sức khỏe cho
các thẩm phán phải chủ trì cuộc thẩm vấn, hội đồng xử án có thể gồm hai
thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Để đề phòng những trường hợp hội thẩm
nhân dân có thể không tham dự được hết phiên tòa, ngoài số hội thẩm nhân
dân tham gia hội đồng xử án, cũng có thể mời một số hội thẩm nhân dân dự
khuyết. Các hội thẩm nhân dân dự khuyết theo dõi liên tục vụ án ở phòng xử
án để nếu cần phải thay thế hội thẩm nhân dân chính thức thì sẽ tham gia ngay
hội đồng xử án. Nếu không thay thế hội thẩm nhân dân chính thức thì hội
thẩm nhân dân dự khuyết chỉ tham dự phiên tòa mà không tham gia nghị án.
Tùy theo tình hình cụ thể của mỗi vụ án, các hội thẩm nhân dân có thể được
phân công xét hỏi về một số vấn đề nhất định. Hội đồng xử án quyết định theo
27. 21
đa số trên nguyên tắc là các thẩm phán và hội thẩm nhân dân ngang quyền
nhau. Tuy nhiên, thẩm phán là người đã được bồi dưỡng nhiều về pháp luật,
đường lối, chính sách và đã có nhiều kinh nghiệm xét xử, cho nên thẩm phán
phải giúp đỡ các hội thẩm nhân dân nắm được pháp luật, đường lối, chính
sách, đồng thời phải tích cực phát huy tác dụng của các hội thẩm nhân dân.
Cũng ngay tại Thông tư số 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn về xét xử phúc thẩm có hội thẩm nhân dân tham gia là:
Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án nhân dân khu tự trị, Tòa án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, xử phúc thẩm mà thiếu thẩm phán chuyên
trách, thì Ủy ban thẩm phán của Tòa án nhân dân thiếu thẩm phán có thể
quyết định mời hội thẩm nhân dân đồng cấp ngồi xử thay cho thẩm phán vắng
mặt. Nhưng số thẩm phán chuyên trách phải nhiều hơn số hội thẩm nhân dân,
tức là Tòa án nhân dân phải gồm hai thẩm phán và một hội thẩm nhân dân.
Trong trường hợp đặc biệt những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn, xảy ra ở
vùng thiên chúa giáo tập trung và ở miền núi, hội đồng xử án gồm ba thẩm
phán chuyên trách và hai hội thẩm nhân dân. Đối với Tòa án nhân dân khu tự
trị và Tòa án nhân dân tỉnh thuộc khu tự trị, số hội thẩm nhân dân có thể hoặc
là hai, hoặc là bốn, nhưng số thẩm phán chuyên trách vẫn là ba. Đối với Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, khi phúc thẩm những bản án, những
quyết định bị chống án hoặc bị kháng nghị, thành phần hội đồng xử án là ba
hoặc năm thẩm phán và không có vấn đề thay thế thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao bằng hội thẩm nhân dân.
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn từ năm 1945 đến 1987 quy
định rất cụ thể sự tham gia của hội thẩm nhân dân khi xét xử vụ án hình sự
1.2.2. Giai đoạn 1988 đến nay
Với chiến thắng năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất nước ta
hoàn toàn thống nhất. Cả nước bắt tay vào khắc phục những hậu quả của
28. 22
chiến tranh và tiến hành xây dựng đất nước, khôi phục kinh tế, thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1981;
Hiến pháp 1992, Luật tổ chức Tòa án nhân dân 1992 và nhiều văn bản pháp
luật tố tụng đều quy định sự tham gia của hội thẩm trong xét xử vụ án hình sự.
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật tố tụng quy định địa vị pháp lý của
hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự được quy định ở nhiều văn bản khác
nhau gây rất nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn thực thi pháp luật. Điều
này đặt ra yêu cầu cần pháp điển hóa bằng một bộ luật tố tụng hình sự để áp
dụng thống nhất trong toàn quốc không chỉ quá trình điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án, mà còn sự tham gia của hội thẩm nhân dân khi xét xử vụ án
hình sự. Lần đầu tiên, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) được Quốc hội
thông qua ngày 28/6/1988. Điều 16 và Điều 17 BLTTHS 1988 quy định:
“Việc xét xử ở Tòa án có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ
luật này. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. Khi xét
xử, thẩn phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” [24].
Vì vậy, tại Điều 27 BLTTHS quy định, hội thẩm nhân dân có tư cách là người
tiến hành tố tụng.
Do là người tiến hành tố tụng nên hội thẩm nhân dân phải tuân thủ Điều
28, Điều 30 BLTTHS năm 1988 về những trường hợp phải thay đổi người
tiến hành tố tụng: hội thẩm nhân dân phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay
đổi nếu họ đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người
thân tích của người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đã tham gia với tư cách là
người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong
vụ án đó; có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi
làm nhiệm vụ; họ cùng trong một hội đồng xét xử và là người thân tích với
29. 23
nhau; họ đã tham gia xét sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc đã tiến hành tố tụng
trong vụ án đó với tư cách là điều tra viên, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa.
Việc thay đổi hội thẩm nhân dân trước khi mở phiên tòa do Chánh án Tòa án
quyết định. Việc thay đổi hội thẩm nhân dân tại phiên tòa do hội đồng xét xử
quyết định trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách biểu quyết tại phòng nghị án.
Khi xem xét thay đổi hội thẩm nhân dân thì hội thẩm nhân dân được trình bày
ý kiến của mình. Hội đồng quyết định theo đa số. Việc cử hội thẩm nhân dân
của hội đồng xét xử do Chánh án Tòa án quyết định.
Qua quá trình thực hiện những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 liên quan đến hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hình sự cho
thấy không có vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp phải thay đổi hội
thẩm nhân dân tại phiên tòa thì hội đồng xét xử phải ra quyết định hoãn phiên
tòa chứ không thể tiếp tục phiên tòa.
Hiến pháp năm 1992 được ban hành, chế định Hội thẩm nhân dân đã
được quy định khá cụ thể trong văn bản pháp lý có giá trị cao nhất. Trên cơ sở
Hiến pháp năm 1992, Quốc hội tiếp tục ban hành Luật tổ chức Tòa án nhân
dân (2002); Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (2002); kế tiếp theo
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ và Ủy ban trung ương mặt trận tổ quốc
Việt Nam đã phối hợp ban hành Quy chế hoạt động của Hội thẩm nhân dân
(2005), trong đó quy định rõ việc bầu cử, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ,
tổ chức hoạt động của đoàn Hội thẩm và những đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
của Hội thẩm.
Có thể thấy, chế định Hội thẩm nhân dân trong hệ thống pháp luật là
một trong những chế định mang tính bắt buộc, không chỉ có tính quyết định
đến các bản án sơ thẩm mà còn thể hiện quyền lực nhà nước là quyền lực của
nhân dân trong giám sát hoạt động xét xử của Tòa án theo tinh thần “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
30. 24
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức”. Nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, hay
quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân. Tòa án thực hiện chức năng
xét xử là thực hiện một bộ phận quyền lực của nhân dân, nhân dân có quyền
giám sát việc thực hiện quyền lực đó. Quá trình tham gia hoạt động xét xử các
vụ án sơ thẩm của Hội thẩm nhân dân cũng là quá trình Hội thẩm nhân dân
giám sát hoạt động của Tòa án.
Ở nước ta, chế định hội thẩm chính thức xuất hiện sau ngày chính
quyền nhân dân thành lập. Cách mạng tháng Tám đã giải phóng nhân dân ta
khỏi ách đô hộ của ngoại bang ngót một trăm năm, đồng thời cũng lật nhào
thể chế quân chủ chuyên chế trên dưới gần một nghìn năm mà lập nên chế độ
dân chủ cộng hòa. Tham gia các công việc của Nhà nước đã trở thành một
quyền của công dân. Điều 55 Hiến pháp quy định: “Công dân có quyền tham
gia quản lý Nhà nước và xã hội”. Công dân tham gia quản lý Nhà nước và xã
hội không chỉ thông qua hoạt động bầu cử đại diện của mình trong các cơ
quan quyền lực Nhà nước các cấp (Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh,
huyện, xã) mà còn tham gia vào hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và xét xử người phạm tội qua vai trò của Hội thẩm với tư cách là người
tiến hành tố tụng.
Có thể thấy, hội thẩm không tham gia vào tất cả các quan hệ tố tụng mà
chỉ tham gia vào quan hệ tố tụng phát sinh do hoạt động xét xử của Tòa án.
Địa vị pháp lý của hội thẩm được giới hạn bởi chính hoạt động xét xử này.
Khác với các loại hình tố tụng khác, xét xử trong tố tụng hình sự chủ yếu dựa
trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong các giai đoạn trước đó
(giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình sự). Nhiệm vụ của người tiến hành tố
tụng trong giai đoạn xét xử không giống với nhiệm vụ của người tiến hành tố
31. 25
tụng trong các giai đoạn tố tụng khác, nhất là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Khi tham gia vào hoạt động xét xử, hội thẩm có mối quan hệ công tác với
thẩm phán. Thẩm phán là nhân viên nhà nước đại diện cho công quyền được
đào tạo một cách chuyên nghiệp và thực hiện chức năng xét xử như một nghề.
Địa vị pháp lý của thẩm phán, do vậy, rất khác địa vị pháp lý của hội thẩm.
Trong hoạt động xét xử, nếu hội thẩm chỉ phải chịu trách nhiệm trước xã hội
về hành vi pháp lý của mình thì thẩm phán, ngoài trách nhiệm trước xã hội,
họ còn phải chịu trách nhiệm trước cấp trên của họ nữa. Điều này cho thấy,
địa vị pháp lý của hội thẩm được giới hạn thuần túy trong quan hệ tố tụng do
pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh.
1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
Hội thẩm trong tố tụng hình sự
1.3.1 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong tố tụng
hình sự
Trong tổ chức hoạt động của Tòa án, việc đại diện của nhân dân tham
gia vào xét xử là cần thiết. Trong những năm qua, chế định Hội thẩm luôn
luôn tồn tại và phát huy tác dụng tích cực của mình, góp phần vào hoạt động
xét xử của Tòa án, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, của
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Có thể nói, việc pháp luật tố tụng hình sự quy định Hội thẩm tham gia
xét xử án hình sự là thể hiện tư tưởng “ lấy dân làm gốc” trong hoạt động tư
pháp. Bởi lẽ tính chất nhân dân của Tòa án, tính chất dân chủ của Tòa án
trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa như Hồ Chủ Tịch đã dậy, không chỉ thể hiện
ở việc cán bộ tư pháp “ phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” mà còn thể
hiện bằng một Tòa án : “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” có nghĩa là
Tòa án phải thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia trực tiếp vào
việc xét xử và giám sát hoạt động xét xử, phát huy quyền làm chủ của mình
32. 26
trong hoạt động xét xử. Hội thẩm là những người không chuyên, tham gia mọi
việc xét xử của Tòa án chính là để thực hiện quyền làm chủ của mình, là thể
hiện được tư tưởng “ lấy dân làm gốc” trong hoạt động xét xử, thể hiện bản
chất dân chủ của Nhà nước ta và theo xu hướng đó, ngày càng thu hút đông
đảo nhân dân lao động tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Thứ hai, hoạt động xét xử của Tòa án cần phải có sự giám sát thường
xuyên và có hiệu quả từ phía cơ quan Nhà nước và từ phía nhân dân. Để xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì cách thức tổ chức của Tòa án phải
làm sao cho xã hội có điều kiện giám sát hoạt động này thường xuyên. Có
như vậy mới giữ gìn được kỷ cương, trật tự, không để cho lợi ích của Nhà
nước, của xã hội và lợi ích chính đáng của công dân bị xâm phạm. Để thực
hiện mục tiêu đó, rất cần đến những làm công tác xét xử chuyên nghiệp. Với
trình độ chuyên môn pháp lý và nghiệp vụ xét xử đã được đào tạo cơ bản, với
nguyên tắc dân chủ mà pháp luật quy định trong tố tụng hình sự, Thẩm phán
sẽ cùng với người đại diện cho dân đưa ra các phán quyết những vấn đề có
liên quan tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của một con
người. Hội thẩm tham gia xét xử sẽ bổ sung cho Thẩm phán chuyên nghiệp
những kinh nghiệm xã hội, kiến thức xã hội, vốn sống thực tế phong phú và
đa dạng bởi họ đại diện cho nhiều ngành, giới, tầng lớp, lứa tuổi, địa vị xã hội
khác nhau. Mặt khác, sự tham gia của Hội thẩm sẽ tạo điều kiện loại trừ một
số hạn chế của những người xét xử “ chuyên nghiệp” như định kiến, bang
quan, thơ ơ trước số phận của con người, chế độ “ báo cáo án”; “họp án ba
ngành” ảnh hưởng đến phán quyết của Tòa án. Hội thẩm tham gia xét xử sẽ
mang tới một cách tiếp cận mới cho vụ án, không bị phụ thuộc vào ý kiến chỉ
đạo của cấp trên hay của bất kỳ cơ quan nào khác. Họ sẽ đem tới cho phiên
tòa hình sự những ý niệm, quan niệm đạo đức chung của xã hội, những phạm
trù công bằng, thiện ác, tốt, xấu…
33. 27
Về sự tham gia của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, trong giới khoa học
cũng có những ý kiến khác nhau. Có tác giả cho rằng đó là những người đại
diện trực tiếp của xã hội, của nhân dân trong xét xử các vụ án hình sự, có tác
giả lại cho rằng Hội thẩm là một chế định vừa mang tính Nhà nước, vừa mang
tính xã hội. Lại có ý kiến cho rằng, sự tham gia của Hội thẩm ở Việt Nam
giống như sự tham gia của Bồi thẩm đoàn ở các nước theo hệ thống “
Commonlaw”. Về vấn đề này, có thể thấy: Thoạt nhìn, tưởng rằng bồi thẩm
đoàn (jury) hay hội thẩm nhân dân (lay judge/schoeffen) được thiết kế ra
nhằm mang sự phán xét của người bình dân vào tòa án. Nhưng phân tích kỹ,
chế độ bồi thẩm đoàn ở các nước theo hệ thống “common law” khác căn bản
với chế độ hội thẩm nhân dân hiện hành ở Việt Nam ở ba điểm căn bản: (1)
Một bên lựa chọn đậm chất bình dân phổ thông và ngẫu nhiên vào danh sách
ứng viên làm bồi thẩm, một bên mang tính cơ cấu để tham gia danh sách hội
thẩm nhân dân; (2) Một bên tham gia một vụ án cụ thể bằng cách rút thăm,
một bên được chánh án lựa chọn theo ý chí của chánh án; (3) Một bên chỉ
được quyền tham gia bày tỏ cảm nhận của người bình dân vào công đoạn đầu
của quá trình xét xử, một bên được tham gia toàn bộ quá trình xét xử như một
thẩm phán thực thụ.
Do vậy việc quy định địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự
có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó sẽ quyết định vai trò, phạm vi thẩm
quyền, mối quan hệ của Hội thẩm với Thẩm phán, với các cử tri đã bầu ra Hội
thẩm.
1.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
hội thẩm khi tham gia tố tụng hình sự
Hội thẩm nhân dân khi tham gia tố tụng hình sự có địa vị pháp lý giống
như hội thẩm nhân dân tham gia tố tụng nói chung như đã giới thiệu ở phần
trên. Có nghĩa, Hội thẩm nhân dân khi tham gia tố tụng hình sự có chức năng,
34. 28
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm chung như hội thẩm nhân dân tham gia tố
tụng dân dự, tố tụng hành chính để xét xử các vụ án dân sự, kinh tế thương
mại, lao động, hôn nhân và gia đình, hành chính v.v.... Tuy nhiên, tố tụng
hình sự có những đặc điểm riêng khác với các hình thức tố tụng khác ở chỗ,
các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng hoạt động tố
tụng trên danh nghĩa thay mặt nhà nước để buộc tội, xét xử đối với người
phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự. Do vậy, địa vị pháp lý của hội
thẩm nhân dân tham gia tố tụng hình sự có những đặc điểm riêng vì những
quyết định của Hội thẩm nhân dân đưa ra liên quan trực tiếp đến những quyền
cơ bản về chính trị, kinh tế, quyền tự do của công dân, thậm chí liên quan trực
tiếp đến quyền được sống, được làm việc, được tự do của người bị kết án.
Những quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của Hội thẩm được thể hiện ở
những điểm sau:
Thứ nhất, Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Cụ thể: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về nguyên tắc:
“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”
(Điều 16).
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Tòa án
khi xét xử, là cơ sở để bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự. Nếu thiếu nguyên tắc này hoạt động tư pháp trở nên vô nghĩa.
Sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được xem là sự độc lập trên thực
tế đối với các yếu tố bên ngoài với những yếu tố chủ quan của Hội thẩm và
Thẩm phán trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm độc lập xét xử
cũng có nghĩa là để tuân theo pháp luật thể hiện ở chỗ khi xét xử án hình sự
Hội thẩm chỉ căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, xem xét các ý kiến tranh luận để quyết định tội danh và hình
35. 29
phạt mà không lệ thuộc vào ý kiến của bất kỳ cơ quan, cá nhân nào. Không
một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào vì bất cứ lý do gì được can thiệp vào việc
xét xử của Hội đồng xét xử. Sự độc lập của Hội thẩm còn thể hiện trong mối
quan hệ giữa Hội đồng xét xử với Tòa án cấp trên. Xét về mặt tổ chức, mối
quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới là mối quan hệ tố tụng
không có quan hệ hành chính mệnh lệnh. Đó là đặc điểm của tổ chức Tòa án
theo thẩm quyền ở nước ta hiện nay. Do đó, Tòa án cấp trên không có quyền
ra chỉ thị, mệnh lệnh cho Tòa án cấp dưới phải xét xử theo hình phạt và tội
danh mà Tòa cấp trên chỉ định. Khi xét xử giữa Thẩm phán và Hội thẩm cũng
có sự độc lập với nhau, Thẩm phán không được lấy kiến thức chuyên môn để
áp đặt ý kiến với Hội thẩm ngược lại Hội thẩm không được thụ động mà phải
dùng bản lĩnh cũng như kinh nghiệm của mình để đưa ra những quyết định
đúng đắn, phù hợp.
Tuy nhiên cần phải hiểu sự độc lập trong sự thống nhất với việc chỉ
tuân theo pháp luật. Độc lập không có nghĩa là thoát ly khỏi những quy định
của pháp luật và tuân theo pháp luật mà không có sự độc lập thì chỉ là sự tuân
theo một cách hình thức, không có hiệu quả. Độc lập nhưng phải trên cơ sở
những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản án, quyết định của Hội
đồng xét xử trong đó có Hội thẩm phải phù hợp với các tình tiết khách quan
của vụ án. Bản án phải xác định đúng người phạm tội, đúng hành vi phạm tội,
đúng thiệt hại do tội phạm gây ra. Không được kết luận dựa trên ý chí chủ
quan, cảm tính của cá nhân mỗi thành viên của Hội đồng xét xử. Nếu các
thành viên của Hội đồng xét xử không có sự độc lập với nhau dễ dẫn đến việc
xét xử theo sự áp đặt của Thẩm phán, sự lệ thuộc, ỷ lại của Hội thẩm, sự tác
động từ bên ngoài vào Hội đông xét xử và sẽ dẫn đến quyết định của bản án
không chính xác và thiếu khách quan.
Thứ hai: Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán khi giải quyết mọi
36. 30
vấn đề phát sinh tại phiên tòa và trong việc ra bản án
Một trong những đảm bảo về mặt tố tụng cho việc thực hiện nguyên tắc
độc lập xét xử của Hội thẩm là: Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán, đây là một nguyên tắc được quy định tại Điều 15 Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003. Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội
thẩm trong xét xử trên bình diện quyền năng của mỗi người, nguyên tắc này
gắn liền với nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Việc
xét xử ở các cấp Tòa án đều được thực hiện theo chế độ Hội đồng chứ không
phải do cá nhân Thẩm phán hay Hội thẩm nào. Chế độ này đảm bảo cho mọi
quyết định của Tòa án đều được thông qua theo nguyên tắc đa số các thành
viên ngang quyền với nhau để giữ được sự ngang quyền của Hội thẩm và
Thẩm phán cần xác định rõ tính chất mối quan hệ của họ ở giai đoạn nghiên
cứu hồ sơ và trong giai đoạn xét xử của Tòa án.
Trong giai đoạn nghiên cứu hồ sơ, mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội
thẩm mang tính chất hỗ trợ và hướng dẫn. Thẩm phán nên hướng dẫn cho Hội
thẩm cách nghiên cứu hồ sơ để đem lại kết quả nhanh chóng và chính xác
ngược lại Hội thẩm cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu hồ sơ trước khi mở
phiên tòa.
Hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án của Hội thẩm rất quan trọng để Hội
thẩm nhân dân biết trước được những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đối
chiếu, so sánh với quy định của pháp luật xem cần phải làm rõ những chứng
cứ nào thêm; xác định tính xác thực của chứng cứ; chuẩn bị trước những câu
hỏi để hỏi những người tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự. Khi tiếp xúc
hồ sơ vụ án, nếu thấy hồ sơ phức tạp, không thể nghiên cứu, xem xét hết
trong khoảng thời gian đã ấn định thì Hội thẩm có thể đề nghị Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa cho kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử để nghiên cứu nắm
vững hồ sơ vụ án. Việc giải quyết vụ án hình sự gắn liền với việc quyết định
37. 31
các vấn đề liên quan đến quan hệ giữa con người với nhau, với sự đánh giá
các sự kiện, tình tiết trong vụ án, đánh giá nhân thân người phạm tội. Vì vậy,
Hội thẩm cần phải biết cách tiếp xúc và nghiên cứu hồ sơ để hiểu đúng và áp
dụng đúng pháp luật. Nếu không nghiên cứu kỹ hồ sơ thì chắc chắn tại phiên
tòa, Hội thẩm sẽ lúng túng và sẽ đặt những câu hỏi không có trọng tâm,
thiếu chính xác.
Khi nghiên cứu hồ sơ, nếu Hội thẩm phát hiện thấy trong hồ sơ thiếu
bút lục (do đánh số nhầm hoặc bỏ quên hay bị mất) thì cần trao đổi với đại
diện Tòa án (bộ phận hành chính) để giải quyết. Còn thấy nếu thiếu nhiều tài
liệu quan trọng như: các giấy tờ có tính bắt buộc trong việc xác định sự thật
của vụ án (như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản hỏi cung bị can,
kết luận giám định….) thì phải báo cáo cho Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa
biết để có biện pháp giải quyết. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Hội thẩm cần
làm rõ những vấn đề sau:
- Xác định thẩm quyền xét xử, xem vụ án có thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án mà Hội thẩm được mời tham gia xét xử không?
- Thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố đã đúng và đủ chưa?
- Đã có đủ tài liệu, chứng cứ làm sáng tỏ vụ án hay chưa? Hành vi của
bị cáo cáo cấu thành tội phạm hay không?
- Việc định tội, việc dẫn pháp luật trong bản cáo trạng đã đúng chưa?
- Có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung, tạm định chỉ hoặc đình chỉ vụ
án hay không?
Về trình tự nghiên cứu hồ sơ, Hội thẩm cần tìm hiểu trước bản kết luận
điều tra của cơ quan điều tra và cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát để hình
dung được diễn biến và nội dung chính của vụ án theo sự xác định ban đầu
của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, từ đó đối chiếu giữa bản kết luận điều
tra và bản cáo trạng, phát hiện những điểm khác nhau cơ bản giữa chúng. Sau
38. 32
đó, tìm hiểu xem xét toàn bộ chứng cứ khẳng định tính có căn cứ của việc
truy tố bị can ra tòa.
Sau khi hình dung được diễn biến và nội dung vụ án, Hội thẩm cần tiếp
tục đi vào nghiên cứu hồ sơ chi tiết để xác định sự thật của vụ án, xem những
vấn đề về tội danh, điều luật đã phù hợp hay chưa. Khi đọc hồ sơ vụ án, Hội
thẩm phải ghi chép tỉ mỉ theo từng vấn đề và từng sự việc. Tuy nhiên, Hội
thẩm cần hết sức tránh thái độ tâm lý có tính chất “ấn tượng” ban đầu đối với
hành vi phạm tội của bị cáo, vì điều đó dễ ảnh hưởng đến quyết định sau này
của Hội thẩm khi xét xử tại phiên tòa.
Giai đoạn xét xử tại phiên tòa đây là thời điểm thể hiện rõ nhất tính
trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm:
Điều 207 BLTTHS quy định:
Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và
về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý. Khi xét hỏi từng người,
chủ tọa phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự [27, Điều 207].
Do vậy, tại phiên tòa, Hội thẩm phải chú ý lắng nghe và ghi chép
những câu hỏi của Chủ tọa phiên tòa và câu trả lời của những người bị đưa ra
xét hỏi (bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm
chứng, người giám định, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
v.v...). Việc lắng nghe và ghi chép các câu hỏi, câu trả lời giúp cho Hội thẩm
nhân dân tránh được việc đặt các câu hỏi lặp lại đã được Chủ tọa phiên tòa hỏi
hoặc đã được những người tham gia tố tụng trả lời trước đó.
Hội thẩm phải xác định những vấn đề Chủ tọa phiên tòa chưa hỏi hoặc
những vấn đề liên quan đến vụ án hình sự chưa được làm rõ tại phiên tòa;
hoặc khi cần xác định lại tính chân thực, khách quan của những chứng cứ đã
thu thập được, sau khi Chủ tọa phiên tòa hỏi xong thì Hội thẩm đặt ra các câu
39. 33
hỏi để những người tham gia tố tụng trả lời;
Ngay tại phiên tòa, Hội thẩm đưa ra những đề nghị đối với Chủ tọa
phiên tòa liên quan đến việc triệu tập thêm hoặc hỏi thêm những người tham
gia tố tụng; xem xét chứng cứ là những vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác
nhận vật chứng được đưa ra để xem xét tại phiên toà; công bố lời khai của
những người tham gia tố tụng tại Cơ quan điều tra khi lời khai của họ có mâu
thuẫn; cách ly bị cáo, người làm chứng khi thấy cần thiết; xem xét tại chỗ
những vật chứng không thể đưa đến phiên toà được v.v....
Những việc làm nêu trên tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự thể hiện rõ
nhất địa vị pháp lý của Hội thẩm khi cùng thẩm phán tham gia xét xử.
Thứ ba: Hội thẩm có thể bị thay đổi trong trường hợp pháp luật tố
tụng hình sự quy định.
Xét xử vô tư khách quan là một trong những yếu tố rất quan trọng đối
với những thành viên của Hội đồng xét xử. Điều 46 Bộ luật tố tụng hình sự
quy định những trường hợp Thẩm phán và Hội thẩm phải từ chối tham gia xét
xử, bị thay đổi theo đề nghị của những người tiến hành tố tụng hoặc những
người tham gia tố tụng. Cụ thể: Điều 46 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
“1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi,
nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 42 của Bộ luật
này;
b) Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
c) Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng
trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án”
Về thủ tục thay đổi Hội thẩm: Nếu trước khi mở phiên tòa thì việc thay
đổi do Chánh án tòa án quyết định, nếu tại phiên tòa Chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi
Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng có đề nghị thay đổi Thẩm phán
40. 34
hay Hội thẩm không nếu có thì sẽ do Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Người đã đề nghị thay đổi Hội thẩm phải nêu rõ lý do mà mình yêu cầu thay
đổi. Hội thẩm bị yêu cầu thay đổi có quyền trình bày để phản bác những lý do
đề nghị thay đổi họ. Kiểm sát viên sẽ phát biểu kết luận đối với yêu cầu thay
đổi. Việc thay đổi Hội thẩm do Hội đồng xét xử quyết định trong phòng nghị
án bằng cách biểu quyết theo đa số. Hội thẩm bị đề nghị thay đổi hoặc từ chối
tham gia xét xử được trình bày ý kiến về lý do thay đổi và cùng tham gia biểu
quyết với các thành viên khác của Hội đồng xét xử. Nếu phải cử thành viên
mới của Hội đồng xét xử thì Chánh án tòa án sẽ là người quyết định. Điều 186
quy định trong quá trình xét xử nếu có Hội thẩm không tiếp tục tham gia xét
xử được thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu có Hội thẩm dự khuyết và Hội
thẩm dự khuyết phải có mặt từ đầu thì mới được tham gia xét xử. Họ và tên
của Hội thẩm dự khuyết cũng phải được thông báo cho bị cáo, người đại diện
hợp pháp của bị cáo và người bào chữa trong quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp không có Hội thẩm dự khuyết để thay thế thì vụ án hình sự
phải được xét xử lại từ đầu.
Thứ tư: Hội thẩm có quyền tham gia xét xử sơ thẩm mọi vụ án hình
sự
Điều 185 Bộ luật tố tụng hình sự quy định về thành phần Hội đồng xét
xử sơ thẩm như sau:
“Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong
trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có
thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội
thẩm”
Như vậy theo quy định trên thì Hội thẩm chỉ tham gia xét xử bắt buộc ở
41. 35
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án còn giai đoạn xét xử phúc thẩm thì không bắt
buộc. Đối với những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp như có nhiều
bị cáo, nhiều bị hại, nhiều người làm chứng, nhiều chứng cứ cần xem xét thì
Hội đồng xét xử có thể gồm 03 Thẩm phán và 02 Hội thẩm để đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện. Những vụ án có liên quan
đến chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo trong thành phần Hội đồng xét xử
cần có Hội thẩm là những người trong dân tộc, trong tôn giáo. Khi xét xử các
vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên thì Hội đồng xét xử phải có Hội
thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không bắt buộc phải có sự tham gia
của Hội thẩm bởi lẽ việc xét xử phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp xem
xét lại việc giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm theo đơn kháng cáo của
bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố tụng khác có quyền kháng cáo
bản án sơ thẩm, vì vậy đòi hỏi phải có sự chuyên sâu về nghiệp vụ của các
thành viên trong Hội đồng xét xử nên thành phần Hội đồng xét xử là 03 Thẩm
phán mà không có Hội thẩm.
Thứ năm, Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những
hành vi và quyết định của mình khi tham gia xét xử vụ án hình sự.
Trách nhiệm trước pháp luật thể hiện rất rõ ở chỗ những quyết định của
Hội thẩm trong suốt quá trình xét xử vụ án hình sự phải có căn cứ, phải dựa
trên những cơ sở của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự. Trong trường hợp
đưa ra những quyết định sai lầm, gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì tùy theo mức độ hậu quả
mà phải chịu trách nhiệm hành chính, kỷ luật, hoặc có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Không chỉ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và
quyết định của mình khi tham gia xét xử vụ án hình sự, Hội thẩm còn phải
42. 36
chịu trách nhiệm ngay trong giai đoạn chuẩn bị xét xử khi có những vi phạm
trong khi nghiên cứu hồ sơ vụ án. Trong trường hợp vi phạm, Điều 24 Quy
chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm Tòa án nhân dân được Ban hành
(như nghiêm cấm Hội thẩm nhân dân tư vấn cho bị can, báo cáo, đương sự
làm cho việc giải quyết vụ án không đúng quy định của pháp luật; Can thiệp
trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác
động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án; Đem hồ sơ vụ án hoặc tài
liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan Tòa án; Tiếp bị can, bị cáo, đương sự
hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà mình được phân công tham
gia xét xử ngoài nơi quy định) mà Hội thẩm vi phạm những điều cấm này thì
cũng bị thay đổi và không được tiếp tục tham gia Hội đồng xét xử vụ án hình
sự. Ngay khoản 2 Điều 41 Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm Tòa án nhân dân
quy định: “Hội thẩm bị bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc
có hành vi vi phạm pháp luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm” [42]. Khi
thực hiện nhiệm vụ của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi Hội thẩm đó
thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây
thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.
43. 37
Chương 2
THỰC TIỄN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘI THẨM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
2.1. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật tố tụng hình
sự về địa vị pháp lý của Hội thẩm
2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện qui định của pháp
luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm
Theo Báo cáo ngày 19/12/2013 của Tòa án nhân dân tối cao về Tổng
kết thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự
năm 2002, đến nay, tổng số Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương
(nhiệm kỳ 2011-2016) đã bầu được 15.630 người, trong đó Hội thẩm Toà án
nhân dân cấp tỉnh là 1.771 người và Hội thẩm Toà án nhân dân cấp huyện là
13.859 người. Về chất lượng, Hội thẩm nhân dân có trình độ cử nhân luật là
2.887 người (chiếm 18,5%); cử nhân chuyên ngành khác là 8.253 người
(chiếm 52,8%); còn lại 4.490 người có trình độ dưới đại học (chiếm 28,7%).
Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự (nhiệm kỳ 2009-2014) đã cử được 398
người, trong đó Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự cấp quân khu là 136
người và Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực là 262 người. Về chất
lượng, Hội thẩm quân nhân có trình độ Cử nhân luật là 68 người (chiếm
17%); cử nhân chuyên ngành khác là 330 người (chiếm 83%) [42]. Theo đánh
giá của các cấp Tòa án, sự tham gia của Hội thẩm trong tố tụng hình sự những
năm qua đã đạt được những kết quả sau đây:
Thứ nhất, hầu hết các Hội thẩm đã hoàn thành tốt nhiệm vụ khi được
Chánh án Tòa án phân công xét xử. Hầu hết các hội thẩm đều sắp xếp công
44. 38
việc tham gia xét xử khi được phân công, trường hợp không tham gia được thì
kịp thời báo lại để xử lý phân công hội thẩm khác nên trong xét xử không xảy
ra tình trạng bị động vì lý do không có hội thẩm tham gia.
Sự tham gia của Hội thẩm vào việc xét xử vụ án hình sự đã tạo được
niềm tin từ quần chúng nhân dân, đóng góp có hiệu quả vào thành tích xét
xử của Tòa án nhân dân 2 cấp (tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp quân khu và
Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự cấp khu vực) nhằm bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà
nước, của tập thể, tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân,
góp phần vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng
và an ninh của đất nước.
Theo Báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, trong những năm gần đây,
số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án liên tục tăng
mạnh, trung bình mỗi năm tăng khoảng 15% làm cho công việc của các Tòa
án ngày càng quá tải. Riêng năm 2012, tổng số các loại vụ án mà Tòa án các
cấp thụ lý, xét xử là 332.868 vụ (tăng 33.559 vụ so với năm 2011). Về chất
lượng xét xử, tính trung bình mỗi năm có khoảng trên dưới 4% các bản án,
quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị sửa và khoảng 1,19% các
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị hủy. Riêng năm
2012, tỷ lệ các bản án, quyết định hình sự bị hủy là 0,5%, bị sửa là 4,9%; tỷ lệ
các bản án, quyết định dân sự bị hủy là 1,3%, bị sửa là 1,7%; tỷ lệ các bản án,
quyết định hành chính bị hủy là 3,5%, bị sửa là 3,1% [42].
Về xét xử vụ án hình sự, thống kê trên cho thấy trung bình mỗi năm
ngành Tòa án các cấp cả nước đưa ra xét xử hình sự sơ thẩm khoảng từ
60.000 đến 70.000 vụ án hình sự. Trong tất cả các vụ án xét xử hình sự sơ
thẩm đều có sự tham gia của Hội thẩm. Với số lượng án lớn như vậy, đội ngũ
Hội thẩm đã có rất nhiều cố gắng để cùng với Thẩm phán xét xử kịp thời,