SlideShare a Scribd company logo
1 of 90
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NGỌC LAN
CHÕ §ÞNH TR¶ Hå S¥ §Ó §IÒU TRA Bæ SUNG CñA TßA ¸N
TR£N C¥ Së THùC TIÔN CñA TßA ¸N THµNH PHè Hµ NéI
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Ngọc Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ
SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN....................................... 7
1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình
sự Việt Nam.......................................................................................... 7
1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự ................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam......................................... 9
1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố
tụng hình sự Việt Nam ....................................................................... 13
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự.................................. 13
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án................................................................................................. 20
Chương 2: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................... 26
2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án................................................................................................. 26
2.1.1. Một số quy định cụ thể....................................................................... 26
2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung.................................................. 29
2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung.................................................... 40
2.1.4. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ........................................... 42
2.1.5. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong trả hồ sơ để
điều tra bổ sung .................................................................................. 43
2.2. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn
thành phố Hà Nội ............................................................................... 47
2.2.1. Tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn
thành phố Hà Nội ............................................................................... 47
2.2.2. Lý do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung........................................ 49
2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung .......................... 60
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ
ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG................................... 66
3.1. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hƣớng hoàn thiện việc trả
hồ sơ điều tra bổ sung......................................................................... 66
3.2. Nâng cao ý thức công vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ
có chức danh tƣ pháp trong việc nghiên cứu vận dụng các quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hƣớng dẫn thi
hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung................................................. 71
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố
tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử .................................... 72
3.4. Tăng cƣờng quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án ........... 74
3.5. Tăng cƣờng công tác tập huấn và rút kinh nghiệm nghiệp vụ........... 76
3.6. Tăng cƣờng kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều
tra, truy tố .......................................................................................... 77
KẾT LUẬN.................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BKS: Biểm kiểm soát
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS: Tố tụng hình sƣ
TTLN: Thông tƣ liên ngành
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm
sát để điều tra bổ sung (từ năm 2009 đến năm 2013) 48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau trong đó xét xử vụ án hình sự đóng một vai trò quan trọng. Tại phiên
tòa, tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập đƣợc trong giai đoạn điều
tra, truy tố đều đƣợc đƣa ra xét xử công khai thông qua việc xét hỏi và tranh
luận. Trên cơ sở đó, Tòa án ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy
định của pháp luật. Việc xét xử công bằng, nghiêm minh sẽ góp phần bảo vệ
chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể;
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm. Thông qua việc xét xử, đặc biệt là các phiên tòa
công khai sẽ góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống
tội phạm cũng nhƣ các vi phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên không phải trƣờng hợp nào Tòa án cũng có thể xét xử phù
hợp với quy định của pháp luật nếu chỉ thông qua những tài liệu, chứng cứ
mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đƣợc, qua thẩm vấn công khai
tại phiên tòa mà có rất nhiều trƣờng hợp không thu thập đƣợc đầy đủ tài liệu
chứng cứ để kết luận về tội phạm, ngƣời phạm tội hoặc quá trình điều tra,
truy tố còn vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc có căn cứ
để khởi tố bị can về một tội phạm khác, có ngƣời đồng phạm khác. Do vậy,
Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm
khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ hạn chế
đƣợc oan, sai, bỏ lọt tội phạm, từ đó bảo đảm hơn nữa quyền con ngƣời,
quyền công dân.
2
Khi nghiên cứu chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành
cho thấy nhiều bất cập cần phải đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để thể
hiện rõ hơn chức năng của từng cơ quan tố tụng, để có sự nhận thức thống
nhất khi áp dụng pháp luật, tránh trƣờng hợp một hồ sơ vụ án hình sự bị trả đi
trả lại nhiều lần ảnh hƣởng đến thời hạn giải quyết vụ án hình sự, gây tốn kém
chi phí tố tụng, ảnh hƣởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách
tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hƣớng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và
các văn kiện khác của Đảng về cải cách tƣ pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong đó
có chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là rất cần thiết. Do vậy, việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định trả điều tra bổ sung của Tòa
án không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn
là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa
án thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định trả điều tra bổ sung nói chung và chế định trả điều tra bổ sung
của Tòa án nói riêng luôn thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng. Chế định này đƣợc nghiên cứu trong một số tác phẩm của một
số nhà khoa học, nghiên cứu dƣới dạng các bài viết, bài báo, chuyên đề…
Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt
Nam cho đến nay: GS. TSKH Lê Cảm – TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ
3
biên), “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền”; PGS.TS Võ Khánh Vinh, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình
sự”; PGS.TS. Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát
hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay”; Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối
cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc
Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp
chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên đề về
việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình
sự”; Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về
điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu Hậu,
“Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu
cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê
Ngọc Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ
sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác
giả Nguyễn Đình Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra
bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp
khắc phục việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số
2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ
điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ
và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, “Một số vấn đề về
hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử phúc thẩm”,
Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm, “Hoàn thiện quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ
sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc, “Bàn về chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Thái
Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về
yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 11/2013; Tác giả
4
Lê Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung đối với Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp
chí kiểm sát số 6/2013; Tác giả Lê Tấn Cƣờng, “Giải pháp để hạn chế việc
trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số
10/2014; Tác giả Đào Anh Tới, “Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ
sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014…
Các công trình trên, vấn đề trả điều tra bổ sung đƣợc đề cập đến ở các
mức độ khác nhau. Có những công trình đề cập đến ý nghĩa, nội dung của chế
định này trong Bộ luật TTHS. Nhƣng cũng có những công trình mà tác giả
không đồng tình với việc quy định việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Với những lập luận của các tác giả này thì xu hƣớng thiên về giữ nguyên chế
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có hạn chế một số điều kiện. Nhìn chung
các công trình nêu trên còn tản mạn, chƣa có công trình nào tập trung phân
tích đƣợc một cách cơ bản vai trò, ý nghĩa, hậu quả pháp lý của trả hồ sơ điều
tra bổ sung của Tòa án, chƣa giải đáp tổng thể về thực tiễn cũng nhƣ những
giải pháp thực hiện trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự mà hiện nay,
việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS đang tính đến, khi vị trí pháp lý của tòa
án đã khác so với trƣớc khi có Hiến pháp năm 2013.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến việc trả điều tra bổ sung của Tòa án. Đánh giá thực trạng,
nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
của chế định này trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
5
- Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của Tòa án trong hệ thống cơ quan tƣ
pháp hình sự và quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án.
- Nêu và phân tích thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội;
- Nêu giải pháp hoàn thiện, kiến nghị xung quanh tình trạng trả hồ sơ
để điều tra bổ sung.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa
hai cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án và Viện kiểm sát (trên địa bàn
thành phố Hà Nội);
- Số liệu và tƣ liệu về việc trả điều tra bổ sung của Tòa án từ năm 2009
đến năm 2013.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc ta về công tác tƣ pháp và cải cách tƣ pháp.
Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong nghiên cứu luận văn gồm:
- Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu tại chỗ;
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp;
- Phƣơng pháp so sánh;
- Phƣơng pháp thống kê hình sự;
- Phƣơng pháp khảo sát thực tế;
- Phƣơng pháp lịch sử…
5. Những điểm mới đóng góp của luận văn
- Luận văn nêu đƣợc một số điểm về cơ sở lý luận về trả hồ sơ điều tra
bổ sung trong cơ chế mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và Tòa án đƣợc xác
định là cơ quan xét xử thực hiện quyền tƣ pháp.
6
- Nêu đƣợc những bất cập của chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung qua
thực tiễn xét xử ở Hà Nội.
- Kiến nghị xung quanh chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ
sung của Tòa án
Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội
Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định trả hồ
sơ điều tra bổ sung
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ
ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN
1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình
sự Việt Nam
Để nghiên cứu chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong
tố tụng hình sự Việt Nam, cần xuất phát từ đặc trƣng của mô hình tố tụng
hình sự mà Việt nam đã áp dụng.
Mô hình tố tụng hình sự, theo cách hiểu chung nhất, là sự khái quát cao
những đặc trƣng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố
tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ
chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện
các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử) [26].
Nhƣ vậy, xem xét, đánh giá về mô hình tố tụng hình sự đƣợc tiến hành
trên các yếu tố cơ bản nhƣ: Địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực
hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; các mục tiêu, nhiệm vụ tố tụng
đặt ra cần hƣớng tới; phƣơng pháp, thủ tục tố tụng đƣợc áp dụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự
Trên thế giới trƣớc đây và hiện nay tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng
hình sự khác nhau trong đó có hai loại mô hình tố tụng chủ yếu là mô hình tố
tụng hình sự thẩm vấn (mô hình tố tụng hình sự xét hỏi) và mô hình tố tụng
hình sự tranh tụng. Ngoài ra còn tồn tại mô hình tố tụng hình sự kết hợp giữa
thẩm vấn và tranh tụng.
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là huy động các cơ
8
quan tố tụng chuyên trách của Nhà nƣớc (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát/
Viện Công tố, Toà án) vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, các cơ quan này
cùng đƣợc giao trách nhiệm chứng minh tội phạm. Thủ tục tố tụng không
nặng về buộc tội hay gỡ tội của một bên tranh tụng, do vậy sẽ tránh đƣợc xu
hƣớng che giấu sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm khả năng kiểm soát
tình hình tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. Hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đƣợc đánh giá là cao hơn so
với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng (đại diện của mô hình này là các nƣớc
theo hệ thống luật lục địa nhƣ Pháp, Italia, Đức…).
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là bảo đảm sự bình
đẳng giữa bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bào chữa (luật sƣ) trong suốt
quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Theo mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì
cơ quan công tố không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà đƣợc coi là một
bên tham gia tranh tụng. Công tố viên cũng nhƣ luật sƣ bào chữa là những
ngƣời có trong tay toàn bộ những chứng cứ của vụ án mà họ tự thu thập đƣợc.
Địa vị tố tụng của Công tố viên, bị cáo, ngƣời bào chữa tại phiên toà sơ thẩm
đƣợc xác định là các bên có quyền bình đẳng nhƣ nhau trong việc sử dụng tất
cả các nguồn lực và phƣơng tiện đƣợc pháp luật cho phép để thực hiện chức
năng của mình. Trong quá trình xét xử, công tố viên và luật sƣ bào chữa tranh
luận công khai, đóng vai trò chính trong việc thẩm vấn, đối đáp lẫn nhau. Các
quan toà chỉ tiếp cận thông tin về vụ án thông qua quá trình tranh tụng giữa
Công tố viên và luật sƣ bào chữa. Nguyên tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình
tố tụng hình sự, kể từ khi bắt đầu cuộc điều tra cho đến khi Toà án ra phán
quyết (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ
Anh, Hoa Kỳ, Canada, Ôxtraylia...)
Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự xét hỏi kết hợp với tranh tụng là
9
sự giao thoa, tiếp biến giữa các yếu tố tích cực, tiến bộ của mô hình tố tụng
hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng nhằm hƣớng tới việc xây
dựng mô hình tố tụng hình sự có khả năng giải quyết một cách tối ƣu nhiệm
vụ phát hiện và xử lý tội phạm, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền
con ngƣời, quyền công dân. Sự giao thoa giữa các mô hình tố tụng hình sự
đƣợc thực hiện theo hƣớng kết hợp những yếu tố tích cực của mô hình thẩm vấn
và mô hình tranh tụng. Sự kết hợp này theo tỷ lệ nhƣ thế nào giữa các yếu tố là
do sự lựa chọn của các nhà lập pháp trên cơ sở các điều kiện cụ thể về lịch sử,
chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia (điển hình của mô hình này là Liên
Bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…)
1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
Mỗi mô hình tố tụng hình sự trên đây đều có ƣu điểm nhƣợc điểm hạn
chế nhất định. Đối với Việt Nam, mô hình tố tụng hình sự trong quá trình phát
triển chịu ảnh hƣởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự Pháp và mô hình Xô viết
(hai mô hình tố tụng hình sự vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Âu lục
địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn.
Hệ thống pháp luật, hệ thống tƣ pháp của Pháp đã hiện diện ở nƣớc ta
trong khoảng 80 năm - bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tƣ pháp phong
kiến bản xứ - đã ảnh hƣởng sâu sắc đến truyền thống, tƣ duy pháp lý ở nƣớc ta.
Các Bộ luật tố tụng hình sự đƣợc ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc
là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ
Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ
thống cơ quan tƣ pháp và hệ thống pháp luật nƣớc ta chịu sự ảnh hƣởng mạnh
mẽ của mô hình Xô viết. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hƣởng này đƣợc
thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nƣớc ta ban hành
năm 1988 và vẫn tiếp tục ảnh hƣởng trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
10
Đến nay, tuy trong quá trình phát triển, Việt Nam đã tiếp thu một số hạt
nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, nhƣng mô hình tố tụng hình
sự ở nƣớc ta cho đến thời điểm ban hành Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn
là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự
hiện hành thể hiện ở một số điểm sau [26].
+ Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp,
xung đột pháp lý giữa các bên, điều này khác với mô hình tố tụng hình sự
tranh tụng. Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm hại tới trật tự công cộng,
lợi ích chung của xã hội và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm giải quyết, việc giải
quyết vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nƣớc. Các cơ
quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đại diện cho Nhà nƣớc
trong giải quyết vụ án hình sự, bị can, bị cáo có vai trò thụ động phụ thuộc rất
lớn vào các cơ quan tiến hành tố tụng và gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngƣời bị hại không có quyền lựa chọn cách
thức giải quyết vụ việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào
ý muốn của ngƣời bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
+ Mục tiêu tố tụng hình sự Việt Nam là tìm ra sự thật, chân lý khách
quan của sự việc, mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng nhƣ thẩm
quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Pháp luật trao trách nhiệm tìm
kiếm chứng cứ, xác định sự thật vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
ngƣời tiến hành tố tụng.
+ Tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng
phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên thực
hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ.
11
Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra
quyết định truy tố hoặc không truy tố ngƣời phạm tội. Tại phiên tòa áp dụng
chủ yếu phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn mà không phải là sự đối tụng giữa
bên buộc tội và bên bào chữa. Phƣơng pháp điều tra đƣợc thực hiện dƣới hình
thức xét hỏi. Hội đồng xét xử đặt những câu hỏi về từng tình tiết của vụ án
nhằm xác minh tính trung thực, tính đúng đắn của các chứng cứ có trong hồ
sơ vụ án; thẩm tra các nhân chứng; xem xét những vật chứng liên quan... Sau
việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của
Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự.
+ Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành
các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở mỗi
một giai đoạn thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và gắn với quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể nhƣng đều hƣớng tới mục tiêu chung là làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án. Các giai đoạn tố tụng đƣợc tiến hành gắn liền
và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trƣớc làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau,
giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt đƣợc của giai đoạn tố tụng
trƣớc đó. Việc phân chia các giai đoạn tố tụng gắn với quyền hạn, trách nhiệm
các chủ thể tiến hành tố tụng nhƣ vậy làm cho các hoạt động tố tụng có tính
chuyên nghiệp, tạo nên hiệu quả hoạt động tố tụng đáp ứng yêu cầu điều tra,
xử lý tội phạm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, hạn chế việc
vi phạm quyền của bị can, bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác.
+ Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai
loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Việc phân chia này
khác với mô hình tố tụng tranh tụng gồm bên buộc tội, bên gỡ tội và Tòa án
trung lập. Chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền chứng minh trong vụ án
hình sự, độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Những ngƣời tham gia tố
12
tụng không có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài
liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự,
cơ quan tiến hành tố tụng luôn ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh
giá các chứng cứ đến việc đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc
giải quyết vụ án. Đối lập với vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến
hành tố tụng là vai trò thụ động của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngƣời bị
tạm giữ, bị can, bị cáo không đƣợc xem là một bên trong quan hệ tố tụng nhƣ
trong mô hình tố tụng tranh tụng và trên thực tế, nhiều trƣờng hợp gần nhƣ là
đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng.
+ Việc thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam cũng
giống với mô hình tố tụng hình sự của nhiều nƣớc trên thế giới, tố tụng hình
sự Việt Nam quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng
buộc tội; chức năng bào chữa do ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và ngƣời bào
chữa của họ thực hiện; Tòa án thực hiện chức năng xét xử.
+ Trong tố tụng hình sự Việt Nam luôn tồn tại khái niệm “hồ sơ vụ án
hình sự”, điều này ngƣợc lại với mô hình tố tụng tranh tụng. Hồ sơ vụ án hình
sự đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra,
chứa đựng các tài liệu, chứng cứ về tội phạm và ngƣời phạm tội và đƣợc các
cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của
mình, đồng thời đƣợc bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng.
Với những đặc điểm nêu trên, mô hình tố tụng hình sự nƣớc ta thời gian
qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bƣớc đáp
ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
trong điều kiện trình độ dân trí cũng nhƣ kinh tế còn thấp.
13
1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình
tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự
Mang đặc điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn nên tồn tại hồ sơ vụ án
hình sự và sự phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn
tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự
theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát,
tòa án); ngƣời tiến hành tố tụng (thủ trƣởng, phó thủ trƣởng cơ quan
điều tra, điều tra viên; viện trƣởng, phó viện trƣởng viện kiểm sát,
kiểm sát viên; chánh án, phó chánh án tòa án, thẩm phán, hội thẩm
và thƣ kí tòa án); ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị
cáo; ngƣời bào chữa; ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời bảo vệ
quyền lợi của đƣơng sự; ngƣời làm chứng; ngƣời giám định và ngƣời
phiên dịch), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc
giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự [31, tr. 9].
Giai đoạn tố tụng hình sự là bƣớc của quá trình tố tụng hình sự tƣơng
ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tƣ pháp hình sự của từng loại
chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án
hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp
phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền hợp pháp của công
dân trong tƣ pháp hình sự [1]. Luật tố tụng hình sự chia quá trình tố tụng
thành các giai đoạn sau:
14
Khởi tố vụ án hình sự: là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, trong đó,
cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay
không để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự,
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể
để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung và về pháp luật về hình thức của
việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này đƣợc bắt đầu từ khi
nhận đƣợc những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết
thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có
liên quan đến hành vi đó.
Giai đoạn này có ý nghĩa: là sự phản ứng nhanh chóng của Nhà nƣớc
đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một
cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội, là một
giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cƣờng pháp chế, bảo
vệ các quyền và tự do của công dân trƣớc khi khởi tố bị can và áp dụng các
biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng
hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội
phạm trong toàn xã hội.
Điều tra vụ án hình sự: là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong
đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và dƣới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết
nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án
hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng nhƣ ngƣời có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời
bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và
trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc chuyển toàn
15
bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và
đề nghị truy tố bị can.
Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp
dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội
phạm và ngƣời phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng
thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp
khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này kể
từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ
quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trƣớc Tòa án hoặc
đình chỉ vụ án hình sự tƣơng ứng. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng, trực
tiếp chứng minh hành vi phạm tội thông qua các chứng cứ đã thu thập đƣợc,
ngăn chặn việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận
trọng, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
Giai đoạn truy tố: trong giai đoạn này Viện kiểm sát căn cứ vào các
quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm
đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao
gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra
chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trƣớc
Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự.
Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định
kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ
quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của
Viện kiểm sát đƣợc chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm
16
hình sự đúng tội, đúng ngƣời và đúng pháp luật. Đây là chức năng quan trọng
của Viện kiểm sát, góp phần loại trừ những hậu quả tiêu cực trong hai giai
đoạn trƣớc đó cũng nhƣ những hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do
việc xét xử thiếu công minh, không đúng pháp luật.
Giai đoạn xét xử: Ở giai đoạn này Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tƣ
pháp, căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có thẩm quyền
đƣa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để phán quyết về nội dung
vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai
bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục
phúc thẩm nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã đƣợc tuyên và chƣa có hiệu
lực pháp luật nhƣng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và
có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và
cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm
giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật,
có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Giai đoạn thi hành án: là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực
hiện bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử là giai đoạn
trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự và chức năng xét
xử thuộc về Tòa án. Tòa án với tính chất là trọng tài kiểm tra toàn diện, khách
quan các chứng cứ, tình tiết vụ án xác định tính chất tội phạm (hay không)
của hành vi, có tội hay không có tội của bị cáo. Đây cũng là giai đoạn quan
trọng để tăng cƣờng pháp chế bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong
17
các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tƣ pháp hình
sự của Nhà nƣớc nói chung. Một điều dễ dàng nhận ra là trong tố tụng thẩm
vấn, Toà án không giữ vai trò trọng tài nhƣ trong tố tụng tranh tụng, mà có vai
trò lớn hơn rất nhiều. Toà án trong tố tụng thẩm vấn đƣợc xem nhƣ cơ quan
thực thi chính sách tƣ pháp hình sự, do đó có sự hợp tác chặt chẽ với Cơ quan
công tố. Điều này lý giải vai trò của Thẩm phán giám sát trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự.
Vai trò chính của Toà án trong tố tụng thẩm vấn là chủ trì việc xem xét
công khai các kết quả của giai đoạn điều tra, truy tố đƣợc thể hiện trong hồ sơ
vụ án. Quá trình đó đƣợc xem nhƣ là việc kiểm tra lại nội dung hồ sơ vụ án.
Các Thẩm phán xét xử có trách nhiệm đọc, nghiên cứu kỹ lƣỡng hồ sơ vụ án
trƣớc khi xét xử, kiểm tra công khai bị cáo và các nhân chứng trên cơ sở các
tình tiết chứa đựng trong hồ sơ, chú ý đến những gì Công tố viên và Luật sƣ
bào chữa nêu về vụ án và sau đó đƣa ra phán quyết. Những nhận thức về nội
dung vụ án đƣợc hình thành trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có ảnh
hƣởng khá đậm nét với các Thẩm phán trong quá trình xét xử và ra phán
quyết tại phiên toà.
Chức năng xét xử chỉ có thể đạt đƣợc kết quả tốt khi có quá trình chuẩn
bị tốt. Công việc chuẩn bị phải tuân theo một trình tự, thủ tục bắt buộc theo
quy định của Bộ luật TTHS. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án phải thực
hiện một số công việc và trong một khoảng thời gian nhất định theo qui định
pháp luật. Qua quá trình chuẩn bị, tùy từng vụ án cụ thể, Tòa án sẽ có cách
thức giải quyết khác nhau: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết
định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Nhƣ
vậy, Tòa án chỉ quyết định đƣa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện, nếu chƣa
đủ các điều kiện theo quy định pháp luật, Tòa án có thể lùi lại một khoảng
18
thời gian nhất định; không phải vụ án nào Viện kiểm sát quyết định truy tố là
Tòa án đều phải đƣa ra xét xử. Đây chính là sự chế ƣớc cần thiết trong mối
quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Tại phiên tòa cũng vậy,
nếu có một trong các căn cứ: thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án,
phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay có căn cứ để cho rằng
bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác thì Tòa án có quyền yêu
cầu điều tra bổ sung.
TS. Lê Tiến Châu cho rằng về mặt lý luận, là chủ thể thực
hiện chức năng xét xử, Tòa án phải thật sự khách quan và vô tƣ
trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Tòa án phải là
“trọng tài” trung lập giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Viện kiểm
sát – cơ quan quyết định truy tố có trách nhiệm thu thập, đề xuất
chứng cứ làm cơ sở cho quyết định truy tố của mình và quyết định
cần có những chứng cứ gì, cần bao nhiêu chứng cứ là đủ để chứng
minh. Nếu chứng cứ không đầy đủ, Tòa án sau khi xem xét sự kiện
đã xảy ra cần tuyên bố bị cáo vô tội. Việc Bộ luật tố tụng hình sự
quy định Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh lỗi của bị cáo
bằng cách trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung khi cho rằng thiếu
chứng cứ quan trọng; bị can, bị cáo phạm tội khác là không phù hợp
với nội dung của chức năng xét xử, chƣa phù hợp với việc phân
định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện
chức năng tố tụng. Nhƣ vậy Tòa án lấn sân chức năng buộc tội, làm
thay công việc của công tố [2].
Tuy ý kiến nêu trên có những điểm hợp lý, nhƣng thƣờng áp dụng trong
mô hình tố tụng tranh tụng. Việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhƣ đã
tồn tại trong mô hình tố tụng thẩm vấn ở Việt Nam hiện nay luôn thể hiện
19
đƣợc vai trò tích cực và cho đến nay khi mà Hiến pháp 2013 ra đời thay thế
cho Hiến pháp 1992 thì chế định này càng thể hiện rõ nét hơn ý nghĩa của
mình trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung, và đối với Tòa án nói
riêng, cơ quan nhân danh Nhà nƣớc thực hiện chức năng xét xử.
Điều 102 Hiến pháp 2013 khẳng định “Tòa án là cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [23]. So
với Hiến pháp 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực
hiện quyền tƣ pháp. Về các nội dung cụ thể của “quyền tƣ pháp” cho đến hiện
nay vẫn chƣa đƣợc làm rõ nhƣng nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm quyền
tƣ pháp trƣớc hết là quyền xét xử, quyền xét xử là đỉnh cao nhất, hội tụ nhất
của quyền tƣ pháp. Có ý kiến cho rằng quyền tƣ pháp phải đƣợc thể hiện ở tất
cả các giai đoạn trƣớc, trong và sau xét xử, Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý
nên những vấn đề liên quan đến quyền con ngƣời, quyền công dân phải do
Tòa án quyết định. Tòa án: là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp. Khi
thực hiện quyền tƣ pháp, tòa án nhân danh Nhà nƣớc để xét xử, phán quyết
về một vi phạm pháp luật hay một tranh chấp. Phán quyết của tòa án không
phải là sự đánh giá hay phản ứng của hội đồng xét xử mà là hình thức biểu
lộ quan điểm của nhà nƣớc đối với vụ án đó. Đây là đặc trƣng có tính chất
cơ bản, cốt lõi, bao trùm nhất của tòa án, thể hiện tính chính danh của
quyền tƣ pháp. Từ đó, quyền tƣ pháp đƣợc thể hiện qua việc kiểm soát của
tòa án đối với hoạt động điều tra, truy tố, đó là việc thẩm định lại các
chứng cứ, các quyết định tƣ pháp của cơ quan điều tra, viện kiểm sát (quyết
định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ điều tra…). Là
cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, về nguyên tắc, tòa án có trách nhiệm
kiểm soát tính đúng đắn và hợp pháp của các quyết định của cơ quan điều
tra, viện kiểm sát liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân, quyền tài sản
của cá nhân, tổ chức trong hoạt động tƣ pháp.
20
Theo quan điểm của tác giả, với mô hình tố tụng đã tƣơng đối rõ ràng
của Việt Nam hiện nay, Tòa án không nhất thiết phải kiểm soát các hoạt động
tố tụng từ ngay các giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, Tòa án vẫn có thể kiểm
tra, giám sát bằng nhiều cách: khi hồ sơ đến Tòa thì vẫn kiểm tra, xem xét và
nếu cần thiết thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong khi xét xử cũng vậy, nếu
phát hiện sai sót thì Hội đồng xét xử trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Việc
kiểm sát hoạt động sau xét xử nên giữ nguyên nhƣ luật hiện hành quy định.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của
Tòa án
Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định lần
đầu tiên tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, đƣợc hƣớng dẫn cụ thể trong Thông
báo số 61/KT-LN năm 1996 của liên ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao và Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an) hƣớng dẫn thời hạn
điều tra bổ sung tại điểm c khoản 5 mục IV:
Trƣờng hợp Tòa án trả lại hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung
thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 1 tháng. Nếu vụ án có bị
can bị tạm giam nhƣng đã hết thời hạn tạm giam thì Viện kiểm
sát ra lệnh tạm giam tiếp 30 ngày.Việc điều tra bổ sung phải hoàn
thành trong thời gian trên dù hồ sơ vụ án ở Cơ quan điều tra hoặc
ở Viện kiểm sát [40] .
và Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân
dân tối cao hƣớng dẫn việc trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa. Đến thời
điểm hiện nay thì vấn đề này đƣợc thể hiện rõ ràng hơn trong Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 tại điều 179, điều 199 và điều 121, hƣớng dẫn cụ thể trong Nghị
quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05.11.2004 của Hội đồng thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba
21
“xét xử sơ thẩm” và Thông tƣ 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Toà án nhân dân tối cao ngày
27/8/2010 (gọi tắt là TTLT01/2010) hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Các văn bản này đều quy
định cụ thể, rõ ràng căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thời hạn trả
điều tra bổ sung và số lần trả điều tra bổ sung.
So sánh quy định về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
có thể thấy về cơ bản không có sự thay đổi gì về các căn cứ trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Những sửa đổi, bổ sung về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung
của Tòa án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chủ yếu mang tính kỹ
thuật, thể hiện ở tên điều luật, một số từ để đảm bảo tính khoa học và chặt
chẽ. Về cơ bản, chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hai bộ luật tố tụng
hình sự 1988 và 2003 này đã tạo ra sự thống nhất giữa Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, phù hợp với
mô hình tố tụng thẩm vấn của nƣớc ta và phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay.
Chế định trả hồ sơ điều tra để điều tra bổ sung không đƣợc Bộ luật tố
tụng hình sự đặt ra trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm nên
trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến vấn đề trả hồ sơ để điều tra
bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm.
Cấn nhấn mạnh ý nghĩa chính trị - pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra
bổ sung thể hiện ở chỗ đây là một chế định pháp luật cần thiết, là hoạt động tố
tụng bình thƣờng nhƣng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động
điều tra, truy tố tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử
vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội tội phạm,
22
không làm oan ngƣời vô tội, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong
tố tụng hình sự. Qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, các cơ quan tiến hành
tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng đánh giá những nguyên nhân của
những vấn đề đã làm đƣợc và những tồn tại. Một mặt vừa kịp thời sửa chữa,
khắc phục những tồn tại đó, mặt khác tích lũy thêm những kinh nghiệm thực
tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án có một số đặc điểm sau:
- Chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung là Thẩm phán đƣợc phân công
nghiên cứu vụ án (ở giai đoạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (tại
phiên tòa) của Tòa án cấp sơ thẩm.
- Chủ thể nhận hồ sơ do Tòa án trả để điều tra bổ sung là Viện kiểm sát
nơi ra quyết định truy tố.
Chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung và chủ thể nhận hồ sơ điều tra bổ
sung trong giai đoạn xét xử khác với việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai
đoạn truy tố: chủ thể trả hồ sơ là Viện kiểm sát và chủ thể nhận là Cơ quan
điều tra nơi ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.
- Căn cứ trả: 03 căn cứ:
+ Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
không thể bổ sung tại phiên tòa đƣợc;
+ Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng
phạm khác;
+ Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Để cơ sở xem xét việc điều tra và truy tố có căn cứ và đúng pháp luật
hay không, thẩm phán có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hội đồng xét xử
có quyền yêu cầu điều tra bổ sung. Việc này đòi hỏi cần nghiên cứu thật kĩ hồ
sơ vụ án để phát hiện những vấn đề cần làm rõ. Việc trả hồ sơ điều tra bổ
23
sung khi cần làm rõ những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể
bổ sung tại phiên tòa đƣợc đòi hỏi đó là chứng cứ quan trọng tức là phải liên
quan đến việc xác định bị cáo có hay không có trách nhiệm hình sự, mức độ
thiệt hại do tội phạm gây ra, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự…có ảnh hƣởng lớn đến việc quyết định hình phạt, nhƣng nếu chỉ
thiếu những chứng cứ ít quan trọng có thể bổ sung tại phiên tòa đƣợc thì
không cần yêu cầu điều tra bổ sung.
Mục đích của điều tra bổ sung là để xác minh đầy đủ những tội phạm
và ngƣời phạm tội. Đó là các trƣờng hợp qua hồ sơ mà thấy rằng bị cáo còn
phạm tội khác hoặc cần định tội danh nặng hơn đối với tội đã bị truy tố hoặc
qua hồ sơ thấy có ngƣời khác phải truy cứu trách nhiệm trong vụ án. Vì vậy,
việc yêu cầu điều tra bổ sung nhằm trách việc đƣa ra xét xử vụ án mà bỏ sót
tội phạm và ngƣời phạm tội hoặc định tội danh không phù hợp với mức độ
nghiêm trọng của tội phạm.
Những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhƣ: không thay đổi kiểm
sát viên, điều tra viên, giám định viên trong những trƣờng hợp cần phải thay
đổi, không trƣng cầu giám định trong trƣờng hợp bắt buộc phải có giám định,
vi phạm quyền bào chữa của bị can…
- Thời hạn, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá một tháng. Quy định này khác với trƣờng hợp Viện kiểm sát trả hồ
sơ điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra, trƣờng hợp vụ án do Viện kiểm sát
trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng.
Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần.
- Hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung:
Khi Tòa án trả điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải bổ sung những
24
tài liệu, chứng cứ cần thiết theo yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án. Nếu kết
quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết
định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong trƣờng hợp Viện
kiểm sát không thực hiện đƣợc những yêu cầu điều tra bổ sung hoặc vẫn giữ
nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử vụ án.
Cho đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống khoa học pháp lý chƣa có
một khái niệm cụ thể về trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo quan điểm của tác
giả thì trả hồ sơ điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng bình thƣờng chứ
không phải một hoạt động hành chính tƣ pháp vì thứ nhất hoạt động này đƣợc
Luật tố tụng hình sự quy định một cách chặt chẽ, thứ hai mục đích của hoạt
động này cũng nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là xác định sự
thật khách quan của vụ án.
Nghiên cứu mục đích, ý nghĩa của chế định này, tác giả đƣa ra khái
niệm về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhƣ sau:
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án là một hoạt động tố tụng của
Tòa án trong giai đoạn xét xử hoặc tại phiên tòa trả lại hồ sơ cho Viện kiểm
sát đã ra quyết định truy tố theo các căn cứ được quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố
để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.
Ở các quốc gia theo mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hay mô hình kết
hợp tranh tụng và thẩm vấn cũng đều có quy định chế định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung. Ở Liên bang Nga, chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc
quy định rõ ràng và cụ thể. Thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện
kiểm sát nếu trong quá trình nghiên cứu nếu thấy cần phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung về tố tụng hoặc bị can bỏ trốn phải ra quyết định truy nã. Thẩm
phán cũng có thể trả theo yêu cầu của các bên tham gia tố tụng nếu có căn cứ
25
cho rằng việc lập cáo trạng có vi phạm. Khi trả hồ sơ cho Kiểm sát viên thì
Thẩm phán phải ra quyết định nêu rõ nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
giao trách nhiệm cho Kiểm sát viên trong thời hạn 05 ngày phải đảm bảo khắc
phục vi phạm đó. Ở Cộng hòa liên bang Đức, Luật tố tụng hình sự quy định
trƣớc khi Tòa án quyết định mở thủ tục chính thức, Tòa án có thể yêu cầu thu
thập chứng cứ riêng biệt để làm rõ vụ án. Quyết định này của Tòa án không bị
khiếu nại. Tuy nhiên khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Viện công tố
không trực tiếp tiến hành điều tra mà Viện công tố sẽ chỉ đạo lực lƣợng cảnh
sát tiến hành điều tra theo yêu cầu của Tòa án. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự
của Liên bang Đức không quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ tục và các căn
cứ để Tòa án trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung cho Viện công tố
cũng nhƣ quy định Viện công tố phải hoàn thành hồ sơ điều tra bổ sung.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án
2.1.1. Một số quy định cụ thể
Chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003 và một số văn bản hƣớng dẫn thi hành nhƣ Nghị
quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán – Tòa
án nhân dân tối cao về việc hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong Phần
thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Thông tƣ liên
tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Bộ công an, Toàn án nhân dân tối cao ngày 27/8/2010 (gọi tắt là
TTLT01/2010) hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Những năm trƣớc khi chƣa có TTLT01/2010,
các cơ quan tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc xác định nội hàm của
những quy định pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung, dẫn đến việc hiểu và
áp dụng không thống nhất trong việc xác định “chứng cứ quan trọng đối với
vụ án”; “có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có đồng
phạm khác” và “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”, dẫn đến tình trạng
trả hồ sơ một cách thiếu căn cứ, làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, giảm
hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Sau khi
TTLT01/2010 đƣợc ban hành, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã có chuyển biến tích
cực, chất lƣợng công tác giải quyết án hình sự đƣợc nâng lên rõ rệt, góp phần
hạn chế tỷ lệ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, đặc biệt là án trả hồ sơ điều
tra bổ sung do vi phạm thủ tục tố tụng. TTLT01/2010 đã quy định cụ thể hơn
27
các điều kiện trả hồ sơ điều tra bổ sung, quy định rõ trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc giao giải quyết vụ án
hình sự đã góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và ngƣời
tiến hành tố tụng trong công tác giải quyết án hình sự. Với các quy định của
pháp luật và quy định tại TTLT01/2010, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phối
hợp chặt chẽ từ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Kiểm sát viên và Thẩm phán
có sự chủ động trao đổi, thống nhất trƣớc đối với những vụ án dự kiến phải trả
hồ sơ, qua đó hạn chế những trƣờng hợp không cần thiết phải trả hồ sơ để
điều tra bổ sung.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, vấn đề Tòa án trả hồ sơ để điều tra
bổ sung đƣợc quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự (giai đoạn chuẩn
bị xét xử) và Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự (tại phiên tòa).
Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều
tra bổ sung trong những trƣờng hợp sau đây:
a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với
vụ án mà không thể bỏ sung tại phiên tòa đƣợc;
b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc
có đồng phạm khác;
c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải đƣợc nêu rõ trong
quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì
Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết.
Trong trƣờng hợp Viện kiểm sát không bổ sung đƣợc những
vấn đề Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy
tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án [22].
28
Nhƣ vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán đƣợc phân công
giải quyết vụ án tiến hành nghiên cứu hồ sơ, nếu có căn cứ để đƣa vụ án ra xét
xử thì Tòa án sẽ quyết định đƣa vụ án ra xét xử, nếu chƣa đủ căn cứ hoặc có
các tình tiết theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 179 BLTTHS và
đƣợc hƣớng dẫn cụ thể tại Thông tƣ liên tịch 01/2010 thì Tòa án trả hồ sơ cho
Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
Khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát thì Kiểm sát
viên đƣợc phân công nghiên cứu vụ án phải nghiên cứu kỹ các nội dung Tòa án
yêu cầu điều tra bổ sung, xác định căn cứ Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ
sung. Nếu việc trả lại hồ sơ của Tòa án là không có căn cứ hoặc các yêu cầu
của Tòa án không thể thực hiện đƣợc hay có thể thực hiện đƣợc tại phiên tòa
thì Kiểm sát viên chuyển hồ sơ cho Tòa án tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu việc trả
lại hồ sơ của Tòa án là có căn cứ và có thể tự mình bổ sung đƣợc thì Kiểm sát
viên phải bổ sung chứng cứ, trƣờng hợp Kiểm sát viên không thể tự mình bổ
sung đƣợc chứng cứ thì trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều
tra bổ sung. Sau khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung, tài liệu điều
tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trƣớc đây hoặc
không thể tiến hành theo yêu cầu của Tòa án thì Viện kiểm sát giữ nguyên quan
điểm truy tố, nếu tài liệu điều tra làm thay đổi nội dung quyết định truy tố (thay
đổi tội danh, xác định có đồng phạm khác, thay đổi điểm, khoản, áp dụng của
điều luật…) thì Viện kiểm sát phải có bản cáo trạng mới phù hợp với các
chứng cứ, tài liệu mới thu thập đƣợc thay thế bản cáo trạng ban đầu.
Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm
sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trƣờng hợp
Viện kiểm sát không bổ sung đƣợc những vấn đề Tòa án yêu cầu bổ sung và
vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử
29
làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự,
trong trƣờng hợp phát sinh những vấn đề mới hoặc phức tạp mà không bổ
sung đƣợc thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và ra quyết định yêu cầu điều
tra bổ sung, quyết định điều tra bổ sung trong giai đoạn này cần tuân thủ quy
định tại Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, quyết định đó phải đƣợc thảo
luận và thông qua tại phòng nghị án và phải đƣợc lập thành văn bản.
- Điều 199. Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án
1…
2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử,
Kiểm sát viên, Thƣ ký Tòa án, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch,
chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ
án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải đƣợc thảo luận
và thông qua tại phòng nghị án và phải đƣợc lập thành văn bản [22].
Tuy khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể
căn cứ của Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung, song trên thực tiễn áp
dụng cho thấy Điều 179 BLTTHS cũng chính là căn cứ để Hội đồng xét xử
trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc áp dụng các căn cứ quy định tại Điều 179
của Hội đồng xét xử là phù hợp với thực tế trong giải quyết vụ án hình sự. So
sánh với Điều 179 BLTTHS, tuy có những điểm giống và khác nhau về thời
điểm ra quyết định, điều luật áp dụng nhƣng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung
có mục đích chung là làm sáng tỏ nội dung vụ án.
2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung
- Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà
không thể bổ sung tại phiên tòa được
Việc chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án đòi hỏi
phải có các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các yếu tố
khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến ngƣời phạm
30
tội. Hay nói cách khác chứng cứ là phƣơng tiện duy nhất đƣợc cơ quan tiến
hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự. Thông qua các tài
liệu, chứng cứ các sự kiện thực tế đƣợc xác định, khẳng định và đồng thời
cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Khi giải quyết
vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội
phạm đang đƣợc tiến hành xem xét, cần phải khẳng định đƣợc rằng tội phạm
đã xảy ra, xác định đƣợc ngƣời cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu
trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. Tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án
phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm đƣợc điều đó, cơ quan tiến
hành tố tụng phải dựa vào chứng cứ. Thông qua chứng cứ, Kiểm sát viên thực
hành quyền công tố trƣớc toà án đƣa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn ngƣời
bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đƣa ra những tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc nghiên cứu, xác định các
sự kiện, tình tiết của vụ án đƣợc tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ
bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ đƣợc những vấn đề cần
chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét
và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ,
đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực
từ đó tìm ra chân lý khách quan.
Khoản 1 Điều 164 BLTTHS quy định:
Chứng cứ là những gì có thật, đƣợc thu thập theo trình tự, thủ
tục do bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
ngƣời thực hiện hành vi phạm tội cũng nhƣ những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [22].
31
Đồng thời BLTTHS 2003 cũng quy định chứng cứ đƣợc xác định bằng
vật chứng, lời khai của những ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời làm chứng,
ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo), kết luận
giám định, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
Nhƣ vậy việc thiếu sót một hay một số chứng cứ quan trọng sẽ không đảm
bảo giải quyết vụ án hình sự một cách toàn diện, khách quan.
Trong các nghiên cứu, bài viết về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung
trƣớc đây, các tác giả đều có quan điểm kiến nghị, sửa đổi, bổ sung BLTTHS
2003 về việc xác định rõ chứng cứ nào là chứng cứ quan trọng đối với vụ án
hình sự đƣợc quy định trong điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS tránh trƣờng
hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung thiếu căn cứ. Thông tƣ 01/2010 đã giải đáp
đƣợc phần lớn thắc mắc này, Điều 1 Thông tƣ 01/2010 quy định:
Chứng cứ quan trọng đối với vụ án quy định tại khoản 1
Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy
định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc
nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu
chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án đƣợc khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật [40].
Điều 63 BLTTHS quy định về những vấn đề cần chứng minh trong vụ
án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sƣ, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không
có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sƣ hay
không; mục đích, động cơ phạm tội;
32
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hính sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị
can, bị cáo;
4. Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [22].
Trong thông tƣ cũng chỉ ra những trƣờng hợp thiếu chứng cứ sau đƣợc
coi là chứng cứ quan trọng đối với vụ án. Bao gồm: chứng cứ để chứng minh:
“có hành vi phạm tội xảy ra hay không”, “thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội”, “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội”,
“có lỗi hay không có lỗi”, “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không”,
“mục đích, động cơ phạm tội”, “tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo”, “đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo”,
“tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” và chứng cứ khác
để chứng minh một hay nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS.
Trên thực tế số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ chủ yếu.
Do vậy thông tƣ cũng hạn chế bằng quy định tại điểm c khoản 3 Điều 1
Thông tƣ 01/2010
Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhƣng nếu thiếu
cũng truy tố, xét xử đƣợc hoặc không thể thu thập đƣợc. Ví dụ 1:
Có 3 ngƣời làm chứng nhƣng chỉ xác định đƣợc 2 ngƣời. Ví dụ 2:
Hiện trƣờng đã bị thay đổi không thể xem xét lại đƣợc hay vật
chứng đã mất không thể tìm đƣợc.
- Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc
có đồng phạm khác [40].
Trƣớc đây trong thực tế áp dụng có nhiều cách hiểu khác nhau về căn
cứ bị cáo phạm “một tội khác”. Nhiều ngƣời đồng tình với quan điểm cho
rằng “tội khác” ở đây có thể là tội chƣa đƣợc Viện kiểm sát truy tố, cũng có
thể là tội đã đƣợc Viện kiểm sát truy tố nhƣng Tòa án thấy cần xét xử theo tội
33
danh nặng hơn bởi nó phù hợp với thực tiễn xét xử và phù hợp với quy định
của Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự và Mục 2 Phần II Nghị quyết số
04/2004/NQ-HĐTP ngày 15/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về giới hạn xét xử:
Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội
danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đƣa ra xét
xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện
kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố [22].
Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 15/11/2004 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ
hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi
mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
a) Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy
tố là trƣờng hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình
phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với hai tội phạm nhƣ nhau.
b) Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy
tố là trƣờng hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình
phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với
tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố [10].
Nhƣ vậy, Tòa án có thể xét xử theo một tội danh khác bằng hoặc nhẹ
hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố nên khái niệm “tội khác” trong căn
cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung này phải hiểu là tội nặng hơn so với tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố hoặc một tội khác nặng hơn ngoài tội danh Viện
kiểm sát đã truy tố.
34
Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, đƣợc
thể hiện trong một vụ án có nhiều ngƣời tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ
có nhiều ngƣời tham gia là đồng phạm, mà nhiều ngƣời tham gia đó phải cố ý
cùng thực hiện một tội phạm. So với tội phạm do một ngƣời thực hiện, đồng
phạm thƣờng nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm ngƣời cùng cố ý thực hiện
hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên
đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện,
phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình
sự đối với những ngƣời đồng phạm có một số điểm khác với những trƣờng
hợp phạm tội riêng lẻ. Việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những ngƣời
đồng phạm, một mặt phải căn cứ vào những nguyên tắc chung đƣợc áp dụng
cho tất cả những trƣờng hợp phạm tội, mặt khác phải tuân thủ những nguyên
tắc có tính đặc thù. Thứ nhất, những ngƣời đồng phạm phải chịu trách nhiệm
chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện; Thứ hai, khi xác định
trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm cần tuân thủ nguyên tắc cá
thể hóa trách nhiệm hình sự, những ngƣời đồng phạm phải chịu trách nhiệm
độc lập về việc đã cùng thực hiện tội phạm. Những ngƣời đồng phạm không
phải chịu trách nhiệm về hành vi vƣợt quá của những ngƣời đồng phạm khác
mà trƣớc đó không có sự bàn bạc và thống nhất với nhau cũng nhƣ không có
sự tiếp nhận mục đích của nhau. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn
trách nhiệm hình sự… đƣợc áp dụng riêng đối với từng ngƣời phạm tội.
Điều 20 Bộ luật hình sự quy định về đồng phạm:
1. Đồng phạm là trƣờng hợp có từ hai ngƣời trở lên cố ý cùng
thực hiện một tội phạm.
2. Ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành, ngƣời xúi giục, ngƣời
giúp sức đều là những ngƣời đồng phạm.
Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm.
35
Ngƣời tổ chức là ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy việc thực
hiện tội phạm.
Ngƣời xúi giục là ngƣời kích đồng, dụ dỗ, thúc đẩy ngƣời
khác thực hiện tội phạm.
Ngƣời giúp sức là ngƣời tạo những điều kiện tinh thần hoặc
vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
3. Phạm tội có tổ chức cũng là một hình thức đồng phạm nhƣng
có sự câu kết chặt chẽ giữa những ngƣời thực hiện tội phạm [21]
Theo quy định này, để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều
kiện sau đây: thứ nhất phải từ hai ngƣời trở lên, những ngƣời này phải có đủ
dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là điều kiện về năng lực trách nhiệm
hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; thứ
hai là cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi ngƣời trong đồng phạm
đều có hành vi tham gia vào thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi ngƣời đƣợc
thực hiện không biệt lập nhau mà trong sự liên kết với nhau, hành vi của
ngƣời này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của ngƣời khác và ngƣợc lại, hành vi
phạm tội của mỗi ngƣời đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với
mục đích chung là đạt đƣợc kết quả thực hiện tội phạm. Vì vậy, sẽ không
đƣợc coi là đồng phạm khi một số ngƣời đã cùng thực hiện một tội phạm và
cùng một thời gian, nhƣng giữa những ngƣời này không có sự bàn bạc, liên
hệ, ràng buộc, hỗ trợ nhau mà hành vi của từng ngƣời đều thực hiện độc lập
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì chỉ khi nào xác
định có đồng phạm khác Tòa án mới trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung.
Điều 3 Thông tƣ 01/2010 cũng đã hƣớng dẫn chi tiết căn cứ trả hồ sơ
điều tra bổ sung “Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc
có đồng phạm khác” loại bỏ các quan điểm khác nhau về “một tội khác” và
“đồng phạm khác” nhƣ sau:
36
1. Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có
đồng phạm khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của
BLTTHS khi thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây:
a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhƣng chứng
cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực
hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;
b) Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án
cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều
tội khác;
c) Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ
vụ án cho thấy còn có ngƣời đồng phạm khác hoặc có ngƣời phạm
tội khác liên quan đến vụ án, nhƣng chƣa đƣợc khởi tố bị can.
2. Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một
trong các trƣờng hợp sau đây:
a) Trƣờng hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều này, nhƣng chứng
cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can (bị cáo) về một
hay nhiều tội tƣơng ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can
(bị cáo) ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;
b) Đã có quyết định tách vụ án hoặc chƣa có quyết định tách
vụ án của Cơ quan điều tra nhƣng có căn cứ để tách vụ án theo quy
định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS [40].
Nhƣ vậy, quan điểm cho rằng “tội khác” ở đây có thể là tội chƣa đƣợc
Viện kiểm sát truy tố, cũng có thể là tội đã đƣợc viện kiểm sát truy tố nhƣng
tòa án thấy cần xét xử theo tội danh nặng hơn phù hợp với thông tƣ này. Còn
đối với căn cứ “đồng phạm khác”, ngoài trƣờng hợp chỉ khi nào xác định có
đồng phạm khác Tòa án mới trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì
Tòa án còn trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có ngƣời phạm tội khác liên quan
đến vụ án, nhƣng chƣa đƣợc khởi tố bị can.
37
- Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
Vi phạm thủ tục tố tụng là không thực hiện đúng các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự nhƣng không phải vi phạm nào cũng là vi phạm nghiêm
trọng. Chỉ những vi phạm mà hậu quả có nguy cơ ảnh hƣởng đến việc xác
định sự thật của vụ án mới xem là nghiêm trọng nhƣ: khởi tố, truy tố, xét xử
không đúng ngƣời, đúng tội, để lọt tội phạm hoặc làm oan ngƣời vô tội; xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
của công dân đƣợc pháp luật bảo vệ...
Tuy nhiên, xác định vi phạm tố tụng nào là nghiêm trọng không hề đơn
giản. Bởi lẽ, cùng một vi phạm, đối với vụ án này là nghiêm trọng nhƣng đối
với vụ án khác thì lại chƣa phải nghiêm trọng
Trƣớc đây Mục 4 Phần I Nghị quyết số 04/2004/ NQ-HĐTP ngày
5/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn:
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trƣờng hợp Bộ luật
tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải tiến hành theo thủ tục tố
tụng đó, nhƣng cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng
bỏ qua hoặc thực hiện không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến
quyền lợi của bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi liên quan đến vụ án hoặc làm cho
việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện [10].
Tuy nhiên chƣa quy định cụ thể “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng” nên khó phân biệt vi phạm nghiêm trọng và không nghiêm trọng, chủ
thể tiến hành tố tụng thƣờng mang tính chủ quan dẫn đến trả hồ sơ để điều
tra bổ sung tùy tiện.
Hiện nay đã có một khái niệm và hƣớng dẫn cụ thể hơn đƣợc quy định
trong khoản 1 Điều 4 Thông tƣ 01/2010 nhƣ sau:
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trong quá trình điều
38
tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình
tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến
việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án [40].
Để thống nhất nhận thức pháp luật về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng, khoản 2 Điều 4 Thông tƣ 01/2010 hƣớng dẫn:
Những trƣờng hợp sau đây đƣợc coi là vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng:
a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác
đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo
quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát,
nhƣng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh,
quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;
b) Không yêu cầu cử ngƣời bào chữa cho bị can, bị cáo theo
quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;
c) Xác định không đúng tƣ cách tham gia tố tụng của ngƣời
tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến
xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
d) Khởi tố vụ án hình sự nhƣng không có yêu cầu của ngƣời
bị hại hoặc của ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại theo quy
định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS;
đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với
quy định tại Điều 117 của BLTTHS;
e) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo
theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa
của bị can, bị cáo;
39
g) Chƣa điều tra, lập lý lịch của bị can; chƣa xác định đƣợc
những đặc điểm quan trọng về nhân thân của ngƣời có hành vi
phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo);
h) Không có ngƣời phiên dịch cho ngƣời tham gia tố tụng
trong trƣờng hợp họ không sử dụng đƣợc tiếng Việt hoặc họ là
ngƣời câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS;
i) Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi ngƣời tiến
hành tố tụng trong các trƣờng hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và
Điều 61 của BLTTHS;
k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án
không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có
giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;
l) Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã đƣợc thu
thập trong quá trình điều tra, truy tố nhƣng không đƣa vào hồ sơ vụ
án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án;
m) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trƣờng
hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;
n) Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục
hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của
bị can không đúng sự thật;
o) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những ngƣời tham
gia tố tụng khác không đƣợc giải quyết theo đúng quy định của
pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ;
p) Những trƣờng hợp khác đƣợc xác định theo hƣớng dẫn tại
khoản 1 Điều này nhƣng phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung [40].
Việc quy định các trƣờng hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
40
nhƣ trên đã đƣa lại sự thống nhất trong nhận thức của những ngƣời tiến hành
tố tụng trong vấn để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hạn chế việc áp dụng tùy
tiện bởi căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung này.
2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung
Để đảm bảo hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung và khắc phục tình
trạng kéo dài việc điều tra bổ sung, BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể số lần
và thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Điều 121. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1…
2. Trong trƣờng hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều
tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu
do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung
không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ đƣợc trả lại
hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ
sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu
cầu điều tra [22].
Có rất nhiều trƣờng hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra
bổ sung, nhƣng do Viện kiểm sát không đủ điều kiện hoặc không thể tự điều
tra bổ sung đƣợc nên phải trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để cơ quan này tiến
hành điều tra bổ sung. Luật Tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định thời hạn điều
tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều
tra, nên xảy ra nhiều tình trạng hồ sơ của Tòa án trả Viện kiểm sát bị giữ lại ở
Viện kiểm sát rất lâu sau đó mới chuyển cho Cơ quan điều tra. Mặt khác đối
với hồ sơ Tòa án trả Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, Luật tố tụng hình sự
cũng không quy định trong vòng bao nhiêu ngày Tòa án phải chuyển hồ sơ
sang Viện kiểm sát để điều tra bổ sung kể từ ngày ra quyết định trả hồ sơ điều
tra bổ sung nên một số ở một số đơn vị, Thẩm phán đã ra quyết định trả hồ sơ
41
điều tra bổ sung rồi để quên hồ sơ đến hết thời hạn tạm giam mới chuyển sang
Viện kiểm sát. Tình trạng này gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án, đây là
vấn đề cần hoàn thiện khi sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Để đảm bảo cho vụ án đƣợc giải quyết nhanh chóng, tránh tình trạng
điều tra bổ sung quá nhiều lần kéo dài thời gian, Điều 121 BLTTHS quy định
Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ không quá hai lần, có nhiều quan
điểm khác nhau về quy định này. Có ý kiến cho rằng Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ
điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa tối đa không quá
hai lần, quan điểm khác lại cho rằng số lần trả điều tra bổ sung chỉ có ý nghĩa
áp dụng đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trƣớc khi xét xử còn
đối với yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là do Hội đồng xét xử quyết định
nên không hạn chế về số lần quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Tác giả đồng
quan điểm với ý kiến thứ nhất bởi khi Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết
vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải nghiên
cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, những thiếu sót có thể khắc phục đƣợc thì
nên phối hợp với Viện kiểm sát để khắc phục, những tài liệu chứng cứ không
thể khắc phục đƣợc hoặc những vi phạm tốt tụng nghiêm trọng, có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm tội khác hoặc đồng phạm khác thì trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Thẩm phán phải có trách nhiệm đối với đối với những nội dung yêu cầu Viện
kiểm sát bổ sung. Mặt khác quá trình điều tra luôn có sự kiểm tra, giám sát của
Viện kiểm sát, chức năng của Tòa án là xét xử nên việc quy định Tòa án chỉ trả
hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần là hợp lý. Tuy nhiên nên có quy
định rõ ràng về việc mỗi chủ thể đƣợc phép trả nhƣ thế nào vì trong giai đoạn
xét xử, Thẩm phán trong giai đoan chuẩn bị xét xử và Hội đồng xét xử tại
phiên tòa đều đƣợc trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Để hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, khoản 2 Điều 5
Thông tƣ 01/2010 quy định
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật
Luận văn: Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luậtLuận văn: Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật
Luận văn: Giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo pháp luật
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sựLuận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOTLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Đề tài: Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của bộ luật tố tụng dâ...
Đề tài: Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của bộ luật tố tụng dâ...Đề tài: Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của bộ luật tố tụng dâ...
Đề tài: Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn theo quy định của bộ luật tố tụng dâ...
 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụngNguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
 

Similar to Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY

Similar to Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY (20)

Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAYTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩmThẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi truy tố tại Hà Nội, 9đ
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi truy tố tại Hà Nội, 9đLuận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi truy tố tại Hà Nội, 9đ
Luận văn: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi truy tố tại Hà Nội, 9đ
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích thực trạng hoạt động bán hàng tại Công ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdfNghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
 

Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC LAN CHÕ §ÞNH TR¶ Hå S¥ §Ó §IÒU TRA Bæ SUNG CñA TßA ¸N TR£N C¥ Së THùC TIÔN CñA TßA ¸N THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ngọc Lan
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN....................................... 7 1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam.......................................................................................... 7 1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự ................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam......................................... 9 1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam ....................................................................... 13 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự.................................. 13 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án................................................................................................. 20 Chương 2: THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................... 26 2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án................................................................................................. 26 2.1.1. Một số quy định cụ thể....................................................................... 26 2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung.................................................. 29 2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung.................................................... 40 2.1.4. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung ........................................... 42
  • 4. 2.1.5. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong trả hồ sơ để điều tra bổ sung .................................................................................. 43 2.2. Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................... 47 2.2.1. Tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................... 47 2.2.2. Lý do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung........................................ 49 2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung .......................... 60 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG................................... 66 3.1. Sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự theo hƣớng hoàn thiện việc trả hồ sơ điều tra bổ sung......................................................................... 66 3.2. Nâng cao ý thức công vụ và trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ có chức danh tƣ pháp trong việc nghiên cứu vận dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hƣớng dẫn thi hành về trả hồ sơ để điều tra bổ sung................................................. 71 3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn của những ngƣời tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử .................................... 72 3.4. Tăng cƣờng quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án ........... 74 3.5. Tăng cƣờng công tác tập huấn và rút kinh nghiệm nghiệp vụ........... 76 3.6. Tăng cƣờng kinh phí, cơ sở vật chất phục vụ công tác điều tra, truy tố .......................................................................................... 77 KẾT LUẬN.................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 81
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BKS: Biểm kiểm soát BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TTHS: Tố tụng hình sƣ TTLN: Thông tƣ liên ngành
  • 6. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án tòa án trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung (từ năm 2009 đến năm 2013) 48
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình giải quyết một vụ án hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó xét xử vụ án hình sự đóng một vai trò quan trọng. Tại phiên tòa, tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập đƣợc trong giai đoạn điều tra, truy tố đều đƣợc đƣa ra xét xử công khai thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Trên cơ sở đó, Tòa án ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Việc xét xử công bằng, nghiêm minh sẽ góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ tài sản của Nhà nƣớc, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Thông qua việc xét xử, đặc biệt là các phiên tòa công khai sẽ góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống, nâng cao ý thức đấu tranh phòng chống tội phạm cũng nhƣ các vi phạm pháp luật khác. Tuy nhiên không phải trƣờng hợp nào Tòa án cũng có thể xét xử phù hợp với quy định của pháp luật nếu chỉ thông qua những tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đƣợc, qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa mà có rất nhiều trƣờng hợp không thu thập đƣợc đầy đủ tài liệu chứng cứ để kết luận về tội phạm, ngƣời phạm tội hoặc quá trình điều tra, truy tố còn vi phạm quy định của pháp luật tố tụng hình sự hoặc có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác, có ngƣời đồng phạm khác. Do vậy, Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót trong giai đoạn điều tra, truy tố để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Việc trả hồ sơ điều tra bổ sung sẽ hạn chế đƣợc oan, sai, bỏ lọt tội phạm, từ đó bảo đảm hơn nữa quyền con ngƣời, quyền công dân.
  • 8. 2 Khi nghiên cứu chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành cho thấy nhiều bất cập cần phải đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để thể hiện rõ hơn chức năng của từng cơ quan tố tụng, để có sự nhận thức thống nhất khi áp dụng pháp luật, tránh trƣờng hợp một hồ sơ vụ án hình sự bị trả đi trả lại nhiều lần ảnh hƣởng đến thời hạn giải quyết vụ án hình sự, gây tốn kém chi phí tố tụng, ảnh hƣởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 48-NQ-TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 và các văn kiện khác của Đảng về cải cách tƣ pháp thì việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trong đó có chế định Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung là rất cần thiết. Do vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài: “Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trên cơ sở thực tiễn của Tòa án thành phố Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Chế định trả điều tra bổ sung nói chung và chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án nói riêng luôn thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Chế định này đƣợc nghiên cứu trong một số tác phẩm của một số nhà khoa học, nghiên cứu dƣới dạng các bài viết, bài báo, chuyên đề… Một số công trình nghiên cứu về vấn đề trả điều tra bổ sung ở Việt Nam cho đến nay: GS. TSKH Lê Cảm – TS. Nguyễn Ngọc Chí (Đồng chủ
  • 9. 3 biên), “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền”; PGS.TS Võ Khánh Vinh, “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự”; PGS.TS. Trần Văn Độ, “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay”; Vụ 1A Viện kiểm sát nhân dân tối cao 2008, “Chuyên đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung”; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Một số vấn đề về việc Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2008; Tạp chí kiểm sát, số 6/2008, “Chuyên đề về việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự”; Tác giả Nguyễn Hải Ninh, “Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về điều tra bổ sung”, Tạp chí Luật học, số 7/2008; Tác giả Nguyễn Hữu Hậu, “Thẩm quyền của Viện kiểm sát và của Kiểm sát viên trong việc đề ra các yêu cầu điều tra và điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 16/2009; Tác giả Lê Ngọc Huấn, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng”, Tạp chí kiểm sát số 10/2009; Tác giả Nguyễn Đình Huề, “Một số vấn đề về trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 4/2009; Tác giả Trần Vi Dân, “Một số giải pháp khắc phục việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại”, Tạp chí kiểm sát số 2/2010; Tác giả Nguyễn Ngọc Kiện, “Hoàn thiện chế định Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 7/2012; Tác giả Nguyễn Thị Phƣơng Thảo, “Một số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của Viện kiểm sát ở giai đoạn xét xử phúc thẩm”, Tạp chí kiểm sát số 6/2012; Tác giả Vũ Gia Lâm, “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc Tòa án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Nguyễn Quang Lộc, “Bàn về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung”, Tạp chí Tòa án số 8/2013; Tác giả Thái Chí Bình, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2013 về yêu cầu điều tra bổ sung”, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 11/2013; Tác giả
  • 10. 4 Lê Ngọc Duy, “Một số giải pháp nhằm hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung đối với Viện kiểm sát nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, Tạp chí kiểm sát số 6/2013; Tác giả Lê Tấn Cƣờng, “Giải pháp để hạn chế việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố”, Tạp chí kiểm sát số 10/2014; Tác giả Đào Anh Tới, “Hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung”, Tạp chí kiểm sát số 13/2014… Các công trình trên, vấn đề trả điều tra bổ sung đƣợc đề cập đến ở các mức độ khác nhau. Có những công trình đề cập đến ý nghĩa, nội dung của chế định này trong Bộ luật TTHS. Nhƣng cũng có những công trình mà tác giả không đồng tình với việc quy định việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Với những lập luận của các tác giả này thì xu hƣớng thiên về giữ nguyên chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, có hạn chế một số điều kiện. Nhìn chung các công trình nêu trên còn tản mạn, chƣa có công trình nào tập trung phân tích đƣợc một cách cơ bản vai trò, ý nghĩa, hậu quả pháp lý của trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, chƣa giải đáp tổng thể về thực tiễn cũng nhƣ những giải pháp thực hiện trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự mà hiện nay, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS đang tính đến, khi vị trí pháp lý của tòa án đã khác so với trƣớc khi có Hiến pháp năm 2013. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận liên quan đến việc trả điều tra bổ sung của Tòa án. Đánh giá thực trạng, nguyên nhân Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của chế định này trong hoạt động tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
  • 11. 5 - Nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của Tòa án trong hệ thống cơ quan tƣ pháp hình sự và quyền trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án. - Nêu và phân tích thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội; - Nêu giải pháp hoàn thiện, kiến nghị xung quanh tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung. 3.3. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu việc trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa hai cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án và Viện kiểm sát (trên địa bàn thành phố Hà Nội); - Số liệu và tƣ liệu về việc trả điều tra bổ sung của Tòa án từ năm 2009 đến năm 2013. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về công tác tƣ pháp và cải cách tƣ pháp. Các phƣơng pháp cụ thể đƣợc sử dụng trong nghiên cứu luận văn gồm: - Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu tại chỗ; - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp; - Phƣơng pháp so sánh; - Phƣơng pháp thống kê hình sự; - Phƣơng pháp khảo sát thực tế; - Phƣơng pháp lịch sử… 5. Những điểm mới đóng góp của luận văn - Luận văn nêu đƣợc một số điểm về cơ sở lý luận về trả hồ sơ điều tra bổ sung trong cơ chế mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và Tòa án đƣợc xác định là cơ quan xét xử thực hiện quyền tƣ pháp.
  • 12. 6 - Nêu đƣợc những bất cập của chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung qua thực tiễn xét xử ở Hà Nội. - Kiến nghị xung quanh chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án Chương 2: Thực trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung
  • 13. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN 1.1. Mô hình tố tụng hình sự và đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự Việt Nam Để nghiên cứu chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong tố tụng hình sự Việt Nam, cần xuất phát từ đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự mà Việt nam đã áp dụng. Mô hình tố tụng hình sự, theo cách hiểu chung nhất, là sự khái quát cao những đặc trƣng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự, cách thức tìm đến sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử) [26]. Nhƣ vậy, xem xét, đánh giá về mô hình tố tụng hình sự đƣợc tiến hành trên các yếu tố cơ bản nhƣ: Địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự; các mục tiêu, nhiệm vụ tố tụng đặt ra cần hƣớng tới; phƣơng pháp, thủ tục tố tụng đƣợc áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.1.1. Khái quát các mô hình tố tụng hình sự Trên thế giới trƣớc đây và hiện nay tồn tại nhiều loại mô hình tố tụng hình sự khác nhau trong đó có hai loại mô hình tố tụng chủ yếu là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn (mô hình tố tụng hình sự xét hỏi) và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Ngoài ra còn tồn tại mô hình tố tụng hình sự kết hợp giữa thẩm vấn và tranh tụng. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là huy động các cơ
  • 14. 8 quan tố tụng chuyên trách của Nhà nƣớc (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát/ Viện Công tố, Toà án) vào quá trình đi tìm sự thật của vụ án, các cơ quan này cùng đƣợc giao trách nhiệm chứng minh tội phạm. Thủ tục tố tụng không nặng về buộc tội hay gỡ tội của một bên tranh tụng, do vậy sẽ tránh đƣợc xu hƣớng che giấu sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm khả năng kiểm soát tình hình tội phạm, không bỏ lọt tội phạm. Hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đƣợc đánh giá là cao hơn so với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống luật lục địa nhƣ Pháp, Italia, Đức…). Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội (cơ quan công tố) và bên bào chữa (luật sƣ) trong suốt quá trình đi tìm sự thật của vụ án. Theo mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thì cơ quan công tố không phải là cơ quan tiến hành tố tụng mà đƣợc coi là một bên tham gia tranh tụng. Công tố viên cũng nhƣ luật sƣ bào chữa là những ngƣời có trong tay toàn bộ những chứng cứ của vụ án mà họ tự thu thập đƣợc. Địa vị tố tụng của Công tố viên, bị cáo, ngƣời bào chữa tại phiên toà sơ thẩm đƣợc xác định là các bên có quyền bình đẳng nhƣ nhau trong việc sử dụng tất cả các nguồn lực và phƣơng tiện đƣợc pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình. Trong quá trình xét xử, công tố viên và luật sƣ bào chữa tranh luận công khai, đóng vai trò chính trong việc thẩm vấn, đối đáp lẫn nhau. Các quan toà chỉ tiếp cận thông tin về vụ án thông qua quá trình tranh tụng giữa Công tố viên và luật sƣ bào chữa. Nguyên tắc tranh tụng xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự, kể từ khi bắt đầu cuộc điều tra cho đến khi Toà án ra phán quyết (đại diện của mô hình này là các nƣớc theo hệ thống thông luật nhƣ Anh, Hoa Kỳ, Canada, Ôxtraylia...) Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự xét hỏi kết hợp với tranh tụng là
  • 15. 9 sự giao thoa, tiếp biến giữa các yếu tố tích cực, tiến bộ của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng nhằm hƣớng tới việc xây dựng mô hình tố tụng hình sự có khả năng giải quyết một cách tối ƣu nhiệm vụ phát hiện và xử lý tội phạm, đồng thời bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân. Sự giao thoa giữa các mô hình tố tụng hình sự đƣợc thực hiện theo hƣớng kết hợp những yếu tố tích cực của mô hình thẩm vấn và mô hình tranh tụng. Sự kết hợp này theo tỷ lệ nhƣ thế nào giữa các yếu tố là do sự lựa chọn của các nhà lập pháp trên cơ sở các điều kiện cụ thể về lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội của từng quốc gia (điển hình của mô hình này là Liên Bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…) 1.1.2. Đặc điểm mô hình tố tụng hình sự Việt Nam Mỗi mô hình tố tụng hình sự trên đây đều có ƣu điểm nhƣợc điểm hạn chế nhất định. Đối với Việt Nam, mô hình tố tụng hình sự trong quá trình phát triển chịu ảnh hƣởng lớn từ mô hình tố tụng hình sự Pháp và mô hình Xô viết (hai mô hình tố tụng hình sự vốn bắt nguồn từ truyền thống luật Châu Âu lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mô hình tố tụng thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tƣ pháp của Pháp đã hiện diện ở nƣớc ta trong khoảng 80 năm - bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tƣ pháp phong kiến bản xứ - đã ảnh hƣởng sâu sắc đến truyền thống, tƣ duy pháp lý ở nƣớc ta. Các Bộ luật tố tụng hình sự đƣợc ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc là sự sao chép cơ bản Bộ luật tố tụng hình sự của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tƣ pháp và hệ thống pháp luật nƣớc ta chịu sự ảnh hƣởng mạnh mẽ của mô hình Xô viết. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, sự ảnh hƣởng này đƣợc thể hiện đậm nét trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nƣớc ta ban hành năm 1988 và vẫn tiếp tục ảnh hƣởng trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
  • 16. 10 Đến nay, tuy trong quá trình phát triển, Việt Nam đã tiếp thu một số hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, nhƣng mô hình tố tụng hình sự ở nƣớc ta cho đến thời điểm ban hành Hiến pháp năm 2013 về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn. Đặc trƣng của mô hình tố tụng hình sự hiện hành thể hiện ở một số điểm sau [26]. + Tố tụng hình sự Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên, điều này khác với mô hình tố tụng hình sự tranh tụng. Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm hại tới trật tự công cộng, lợi ích chung của xã hội và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm giải quyết, việc giải quyết vụ án hình sự hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của Nhà nƣớc. Các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đại diện cho Nhà nƣớc trong giải quyết vụ án hình sự, bị can, bị cáo có vai trò thụ động phụ thuộc rất lớn vào các cơ quan tiến hành tố tụng và gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. Ngƣời bị hại không có quyền lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc. Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào ý muốn của ngƣời bị hại, mà hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. + Mục tiêu tố tụng hình sự Việt Nam là tìm ra sự thật, chân lý khách quan của sự việc, mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng nhƣ thẩm quyền của các chủ thể trong tố tụng hình sự. Pháp luật trao trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ, xác định sự thật vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. + Tố tụng hình sự Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ.
  • 17. 11 Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố hoặc không truy tố ngƣời phạm tội. Tại phiên tòa áp dụng chủ yếu phƣơng pháp điều tra, thẩm vấn mà không phải là sự đối tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Phƣơng pháp điều tra đƣợc thực hiện dƣới hình thức xét hỏi. Hội đồng xét xử đặt những câu hỏi về từng tình tiết của vụ án nhằm xác minh tính trung thực, tính đúng đắn của các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; thẩm tra các nhân chứng; xem xét những vật chứng liên quan... Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm sát viên, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự. + Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở mỗi một giai đoạn thực hiện bởi các chủ thể khác nhau và gắn với quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể nhƣng đều hƣớng tới mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Các giai đoạn tố tụng đƣợc tiến hành gắn liền và kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trƣớc làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt đƣợc của giai đoạn tố tụng trƣớc đó. Việc phân chia các giai đoạn tố tụng gắn với quyền hạn, trách nhiệm các chủ thể tiến hành tố tụng nhƣ vậy làm cho các hoạt động tố tụng có tính chuyên nghiệp, tạo nên hiệu quả hoạt động tố tụng đáp ứng yêu cầu điều tra, xử lý tội phạm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, hạn chế việc vi phạm quyền của bị can, bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác. + Tố tụng hình sự Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Việc phân chia này khác với mô hình tố tụng tranh tụng gồm bên buộc tội, bên gỡ tội và Tòa án trung lập. Chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền chứng minh trong vụ án hình sự, độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Những ngƣời tham gia tố
  • 18. 12 tụng không có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung cấp tài liệu, đồ vật, đƣa ra yêu cầu. Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng luôn ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh giá các chứng cứ đến việc đƣa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối lập với vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng là vai trò thụ động của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo không đƣợc xem là một bên trong quan hệ tố tụng nhƣ trong mô hình tố tụng tranh tụng và trên thực tế, nhiều trƣờng hợp gần nhƣ là đối tƣợng xem xét của các cơ quan tiến hành tố tụng. + Việc thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam cũng giống với mô hình tố tụng hình sự của nhiều nƣớc trên thế giới, tố tụng hình sự Việt Nam quy định Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội; chức năng bào chữa do ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo và ngƣời bào chữa của họ thực hiện; Tòa án thực hiện chức năng xét xử. + Trong tố tụng hình sự Việt Nam luôn tồn tại khái niệm “hồ sơ vụ án hình sự”, điều này ngƣợc lại với mô hình tố tụng tranh tụng. Hồ sơ vụ án hình sự đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra, chứa đựng các tài liệu, chứng cứ về tội phạm và ngƣời phạm tội và đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của mình, đồng thời đƣợc bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng. Với những đặc điểm nêu trên, mô hình tố tụng hình sự nƣớc ta thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bƣớc đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện trình độ dân trí cũng nhƣ kinh tế còn thấp.
  • 19. 13 1.2. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong tố tụng hình sự Mang đặc điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn nên tồn tại hồ sơ vụ án hình sự và sự phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai đoạn tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án); ngƣời tiến hành tố tụng (thủ trƣởng, phó thủ trƣởng cơ quan điều tra, điều tra viên; viện trƣởng, phó viện trƣởng viện kiểm sát, kiểm sát viên; chánh án, phó chánh án tòa án, thẩm phán, hội thẩm và thƣ kí tòa án); ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo; ngƣời bào chữa; ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự; ngƣời làm chứng; ngƣời giám định và ngƣời phiên dịch), của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự [31, tr. 9]. Giai đoạn tố tụng hình sự là bƣớc của quá trình tố tụng hình sự tƣơng ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tƣ pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền hợp pháp của công dân trong tƣ pháp hình sự [1]. Luật tố tụng hình sự chia quá trình tố tụng thành các giai đoạn sau:
  • 20. 14 Khởi tố vụ án hình sự: là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, trong đó, cơ quan có thẩm quyền xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Với tính chất là một giai đoạn độc lập và đầu tiên của tố tụng hình sự, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung và về pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này đƣợc bắt đầu từ khi nhận đƣợc những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó. Giai đoạn này có ý nghĩa: là sự phản ứng nhanh chóng của Nhà nƣớc đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra và xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội, là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cƣờng pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trƣớc khi khởi tố bị can và áp dụng các biện pháp nghiệp vụ của giai đoạn điều tra, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Điều tra vụ án hình sự: là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dƣới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng nhƣ ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thƣờng thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc chuyển toàn
  • 21. 15 bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và ngƣời phạm tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm bắt đầu của giai đoạn này kể từ khi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trƣớc Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tƣơng ứng. Đây là giai đoạn hết sức quan trọng, trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội thông qua các chứng cứ đã thu thập đƣợc, ngăn chặn việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Giai đoạn truy tố: trong giai đoạn này Viện kiểm sát căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do Cơ quan điều tra chuyển đến và trên cơ sở đó Viện kiểm sát ra quyết định: Truy tố bị can trƣớc Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự. Giai đoạn này có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà cơ quan Điều tra có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của Viện kiểm sát đƣợc chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm
  • 22. 16 hình sự đúng tội, đúng ngƣời và đúng pháp luật. Đây là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát, góp phần loại trừ những hậu quả tiêu cực trong hai giai đoạn trƣớc đó cũng nhƣ những hậu quả tiêu cực tiếp theo có thể xảy ra do việc xét xử thiếu công minh, không đúng pháp luật. Giai đoạn xét xử: Ở giai đoạn này Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, có thẩm quyền đƣa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để phán quyết về nội dung vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã đƣợc tuyên và chƣa có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Giai đoạn thi hành án: là một giai đoạn của tố tụng hình sự nhằm thực hiện bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự thì giai đoạn xét xử là giai đoạn trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự và chức năng xét xử thuộc về Tòa án. Tòa án với tính chất là trọng tài kiểm tra toàn diện, khách quan các chứng cứ, tình tiết vụ án xác định tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội hay không có tội của bị cáo. Đây cũng là giai đoạn quan trọng để tăng cƣờng pháp chế bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong
  • 23. 17 các giai đoạn xét xử của Tòa án nói riêng và toàn bộ hoạt động tƣ pháp hình sự của Nhà nƣớc nói chung. Một điều dễ dàng nhận ra là trong tố tụng thẩm vấn, Toà án không giữ vai trò trọng tài nhƣ trong tố tụng tranh tụng, mà có vai trò lớn hơn rất nhiều. Toà án trong tố tụng thẩm vấn đƣợc xem nhƣ cơ quan thực thi chính sách tƣ pháp hình sự, do đó có sự hợp tác chặt chẽ với Cơ quan công tố. Điều này lý giải vai trò của Thẩm phán giám sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Vai trò chính của Toà án trong tố tụng thẩm vấn là chủ trì việc xem xét công khai các kết quả của giai đoạn điều tra, truy tố đƣợc thể hiện trong hồ sơ vụ án. Quá trình đó đƣợc xem nhƣ là việc kiểm tra lại nội dung hồ sơ vụ án. Các Thẩm phán xét xử có trách nhiệm đọc, nghiên cứu kỹ lƣỡng hồ sơ vụ án trƣớc khi xét xử, kiểm tra công khai bị cáo và các nhân chứng trên cơ sở các tình tiết chứa đựng trong hồ sơ, chú ý đến những gì Công tố viên và Luật sƣ bào chữa nêu về vụ án và sau đó đƣa ra phán quyết. Những nhận thức về nội dung vụ án đƣợc hình thành trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có ảnh hƣởng khá đậm nét với các Thẩm phán trong quá trình xét xử và ra phán quyết tại phiên toà. Chức năng xét xử chỉ có thể đạt đƣợc kết quả tốt khi có quá trình chuẩn bị tốt. Công việc chuẩn bị phải tuân theo một trình tự, thủ tục bắt buộc theo quy định của Bộ luật TTHS. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án phải thực hiện một số công việc và trong một khoảng thời gian nhất định theo qui định pháp luật. Qua quá trình chuẩn bị, tùy từng vụ án cụ thể, Tòa án sẽ có cách thức giải quyết khác nhau: quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, quyết định đƣa vụ án ra xét xử. Nhƣ vậy, Tòa án chỉ quyết định đƣa vụ án ra xét xử khi có đủ điều kiện, nếu chƣa đủ các điều kiện theo quy định pháp luật, Tòa án có thể lùi lại một khoảng
  • 24. 18 thời gian nhất định; không phải vụ án nào Viện kiểm sát quyết định truy tố là Tòa án đều phải đƣa ra xét xử. Đây chính là sự chế ƣớc cần thiết trong mối quan hệ giữa chức năng buộc tội và chức năng xét xử. Tại phiên tòa cũng vậy, nếu có một trong các căn cứ: thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án, phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác thì Tòa án có quyền yêu cầu điều tra bổ sung. TS. Lê Tiến Châu cho rằng về mặt lý luận, là chủ thể thực hiện chức năng xét xử, Tòa án phải thật sự khách quan và vô tƣ trong khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Tòa án phải là “trọng tài” trung lập giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Viện kiểm sát – cơ quan quyết định truy tố có trách nhiệm thu thập, đề xuất chứng cứ làm cơ sở cho quyết định truy tố của mình và quyết định cần có những chứng cứ gì, cần bao nhiêu chứng cứ là đủ để chứng minh. Nếu chứng cứ không đầy đủ, Tòa án sau khi xem xét sự kiện đã xảy ra cần tuyên bố bị cáo vô tội. Việc Bộ luật tố tụng hình sự quy định Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh lỗi của bị cáo bằng cách trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung khi cho rằng thiếu chứng cứ quan trọng; bị can, bị cáo phạm tội khác là không phù hợp với nội dung của chức năng xét xử, chƣa phù hợp với việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng. Nhƣ vậy Tòa án lấn sân chức năng buộc tội, làm thay công việc của công tố [2]. Tuy ý kiến nêu trên có những điểm hợp lý, nhƣng thƣờng áp dụng trong mô hình tố tụng tranh tụng. Việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhƣ đã tồn tại trong mô hình tố tụng thẩm vấn ở Việt Nam hiện nay luôn thể hiện
  • 25. 19 đƣợc vai trò tích cực và cho đến nay khi mà Hiến pháp 2013 ra đời thay thế cho Hiến pháp 1992 thì chế định này càng thể hiện rõ nét hơn ý nghĩa của mình trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự nói chung, và đối với Tòa án nói riêng, cơ quan nhân danh Nhà nƣớc thực hiện chức năng xét xử. Điều 102 Hiến pháp 2013 khẳng định “Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [23]. So với Hiến pháp 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tƣ pháp. Về các nội dung cụ thể của “quyền tƣ pháp” cho đến hiện nay vẫn chƣa đƣợc làm rõ nhƣng nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm quyền tƣ pháp trƣớc hết là quyền xét xử, quyền xét xử là đỉnh cao nhất, hội tụ nhất của quyền tƣ pháp. Có ý kiến cho rằng quyền tƣ pháp phải đƣợc thể hiện ở tất cả các giai đoạn trƣớc, trong và sau xét xử, Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý nên những vấn đề liên quan đến quyền con ngƣời, quyền công dân phải do Tòa án quyết định. Tòa án: là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tƣ pháp. Khi thực hiện quyền tƣ pháp, tòa án nhân danh Nhà nƣớc để xét xử, phán quyết về một vi phạm pháp luật hay một tranh chấp. Phán quyết của tòa án không phải là sự đánh giá hay phản ứng của hội đồng xét xử mà là hình thức biểu lộ quan điểm của nhà nƣớc đối với vụ án đó. Đây là đặc trƣng có tính chất cơ bản, cốt lõi, bao trùm nhất của tòa án, thể hiện tính chính danh của quyền tƣ pháp. Từ đó, quyền tƣ pháp đƣợc thể hiện qua việc kiểm soát của tòa án đối với hoạt động điều tra, truy tố, đó là việc thẩm định lại các chứng cứ, các quyết định tƣ pháp của cơ quan điều tra, viện kiểm sát (quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, quyết định đình chỉ điều tra…). Là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp, về nguyên tắc, tòa án có trách nhiệm kiểm soát tính đúng đắn và hợp pháp của các quyết định của cơ quan điều tra, viện kiểm sát liên quan đến quyền nhân thân của cá nhân, quyền tài sản của cá nhân, tổ chức trong hoạt động tƣ pháp.
  • 26. 20 Theo quan điểm của tác giả, với mô hình tố tụng đã tƣơng đối rõ ràng của Việt Nam hiện nay, Tòa án không nhất thiết phải kiểm soát các hoạt động tố tụng từ ngay các giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, Tòa án vẫn có thể kiểm tra, giám sát bằng nhiều cách: khi hồ sơ đến Tòa thì vẫn kiểm tra, xem xét và nếu cần thiết thì trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong khi xét xử cũng vậy, nếu phát hiện sai sót thì Hội đồng xét xử trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Việc kiểm sát hoạt động sau xét xử nên giữ nguyên nhƣ luật hiện hành quy định. 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định lần đầu tiên tại Bộ luật tố tụng hình sự 1988, đƣợc hƣớng dẫn cụ thể trong Thông báo số 61/KT-LN năm 1996 của liên ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ nội vụ (nay là Bộ Công an) hƣớng dẫn thời hạn điều tra bổ sung tại điểm c khoản 5 mục IV: Trƣờng hợp Tòa án trả lại hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 1 tháng. Nếu vụ án có bị can bị tạm giam nhƣng đã hết thời hạn tạm giam thì Viện kiểm sát ra lệnh tạm giam tiếp 30 ngày.Việc điều tra bổ sung phải hoàn thành trong thời gian trên dù hồ sơ vụ án ở Cơ quan điều tra hoặc ở Viện kiểm sát [40] . và Công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 của Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn việc trả hồ sơ điều tra bổ sung tại phiên tòa. Đến thời điểm hiện nay thì vấn đề này đƣợc thể hiện rõ ràng hơn trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 tại điều 179, điều 199 và điều 121, hƣớng dẫn cụ thể trong Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05.11.2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba
  • 27. 21 “xét xử sơ thẩm” và Thông tƣ 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Toà án nhân dân tối cao ngày 27/8/2010 (gọi tắt là TTLT01/2010) hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Các văn bản này đều quy định cụ thể, rõ ràng căn cứ Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thời hạn trả điều tra bổ sung và số lần trả điều tra bổ sung. So sánh quy định về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có thể thấy về cơ bản không có sự thay đổi gì về các căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Những sửa đổi, bổ sung về chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chủ yếu mang tính kỹ thuật, thể hiện ở tên điều luật, một số từ để đảm bảo tính khoa học và chặt chẽ. Về cơ bản, chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong hai bộ luật tố tụng hình sự 1988 và 2003 này đã tạo ra sự thống nhất giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, phù hợp với mô hình tố tụng thẩm vấn của nƣớc ta và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam hiện nay. Chế định trả hồ sơ điều tra để điều tra bổ sung không đƣợc Bộ luật tố tụng hình sự đặt ra trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm nên trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ đề cập đến vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm. Cấn nhấn mạnh ý nghĩa chính trị - pháp lý của việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung thể hiện ở chỗ đây là một chế định pháp luật cần thiết, là hoạt động tố tụng bình thƣờng nhƣng có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố tuân thủ theo các quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử vụ án hình sự đúng đắn, khách quan, toàn diện, không bỏ lọt tội tội phạm,
  • 28. 22 không làm oan ngƣời vô tội, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong tố tụng hình sự. Qua việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, các cơ quan tiến hành tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng đánh giá những nguyên nhân của những vấn đề đã làm đƣợc và những tồn tại. Một mặt vừa kịp thời sửa chữa, khắc phục những tồn tại đó, mặt khác tích lũy thêm những kinh nghiệm thực tiễn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Chế định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án có một số đặc điểm sau: - Chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung là Thẩm phán đƣợc phân công nghiên cứu vụ án (ở giai đoạn chuẩn bị xét xử) hoặc Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) của Tòa án cấp sơ thẩm. - Chủ thể nhận hồ sơ do Tòa án trả để điều tra bổ sung là Viện kiểm sát nơi ra quyết định truy tố. Chủ thể trả hồ sơ điều tra bổ sung và chủ thể nhận hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử khác với việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố: chủ thể trả hồ sơ là Viện kiểm sát và chủ thể nhận là Cơ quan điều tra nơi ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. - Căn cứ trả: 03 căn cứ: + Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa đƣợc; + Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; + Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Để cơ sở xem xét việc điều tra và truy tố có căn cứ và đúng pháp luật hay không, thẩm phán có quyền trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hội đồng xét xử có quyền yêu cầu điều tra bổ sung. Việc này đòi hỏi cần nghiên cứu thật kĩ hồ sơ vụ án để phát hiện những vấn đề cần làm rõ. Việc trả hồ sơ điều tra bổ
  • 29. 23 sung khi cần làm rõ những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa đƣợc đòi hỏi đó là chứng cứ quan trọng tức là phải liên quan đến việc xác định bị cáo có hay không có trách nhiệm hình sự, mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự…có ảnh hƣởng lớn đến việc quyết định hình phạt, nhƣng nếu chỉ thiếu những chứng cứ ít quan trọng có thể bổ sung tại phiên tòa đƣợc thì không cần yêu cầu điều tra bổ sung. Mục đích của điều tra bổ sung là để xác minh đầy đủ những tội phạm và ngƣời phạm tội. Đó là các trƣờng hợp qua hồ sơ mà thấy rằng bị cáo còn phạm tội khác hoặc cần định tội danh nặng hơn đối với tội đã bị truy tố hoặc qua hồ sơ thấy có ngƣời khác phải truy cứu trách nhiệm trong vụ án. Vì vậy, việc yêu cầu điều tra bổ sung nhằm trách việc đƣa ra xét xử vụ án mà bỏ sót tội phạm và ngƣời phạm tội hoặc định tội danh không phù hợp với mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhƣ: không thay đổi kiểm sát viên, điều tra viên, giám định viên trong những trƣờng hợp cần phải thay đổi, không trƣng cầu giám định trong trƣờng hợp bắt buộc phải có giám định, vi phạm quyền bào chữa của bị can… - Thời hạn, số lần trả hồ sơ điều tra bổ sung: Hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Quy định này khác với trƣờng hợp Viện kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra, trƣờng hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng. Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. - Hậu quả pháp lý của việc trả hồ sơ điều tra bổ sung: Khi Tòa án trả điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát phải bổ sung những
  • 30. 24 tài liệu, chứng cứ cần thiết theo yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong trƣờng hợp Viện kiểm sát không thực hiện đƣợc những yêu cầu điều tra bổ sung hoặc vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn phải tiến hành xét xử vụ án. Cho đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống khoa học pháp lý chƣa có một khái niệm cụ thể về trả hồ sơ điều tra bổ sung. Theo quan điểm của tác giả thì trả hồ sơ điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng bình thƣờng chứ không phải một hoạt động hành chính tƣ pháp vì thứ nhất hoạt động này đƣợc Luật tố tụng hình sự quy định một cách chặt chẽ, thứ hai mục đích của hoạt động này cũng nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là xác định sự thật khách quan của vụ án. Nghiên cứu mục đích, ý nghĩa của chế định này, tác giả đƣa ra khái niệm về trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án nhƣ sau: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án là một hoạt động tố tụng của Tòa án trong giai đoạn xét xử hoặc tại phiên tòa trả lại hồ sơ cho Viện kiểm sát đã ra quyết định truy tố theo các căn cứ được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm khắc phục những thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật. Ở các quốc gia theo mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn hay mô hình kết hợp tranh tụng và thẩm vấn cũng đều có quy định chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ở Liên bang Nga, chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định rõ ràng và cụ thể. Thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nếu trong quá trình nghiên cứu nếu thấy cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung về tố tụng hoặc bị can bỏ trốn phải ra quyết định truy nã. Thẩm phán cũng có thể trả theo yêu cầu của các bên tham gia tố tụng nếu có căn cứ
  • 31. 25 cho rằng việc lập cáo trạng có vi phạm. Khi trả hồ sơ cho Kiểm sát viên thì Thẩm phán phải ra quyết định nêu rõ nội dung trả hồ sơ để điều tra bổ sung và giao trách nhiệm cho Kiểm sát viên trong thời hạn 05 ngày phải đảm bảo khắc phục vi phạm đó. Ở Cộng hòa liên bang Đức, Luật tố tụng hình sự quy định trƣớc khi Tòa án quyết định mở thủ tục chính thức, Tòa án có thể yêu cầu thu thập chứng cứ riêng biệt để làm rõ vụ án. Quyết định này của Tòa án không bị khiếu nại. Tuy nhiên khi Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Viện công tố không trực tiếp tiến hành điều tra mà Viện công tố sẽ chỉ đạo lực lƣợng cảnh sát tiến hành điều tra theo yêu cầu của Tòa án. Tuy nhiên, luật tố tụng hình sự của Liên bang Đức không quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ tục và các căn cứ để Tòa án trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung cho Viện công tố cũng nhƣ quy định Viện công tố phải hoàn thành hồ sơ điều tra bổ sung.
  • 32. 26 Chương 2 THỰC TRẠNG TRẢ HỒ SƠ ĐIỀU TRA BỔ SUNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Quy định của pháp luật về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án 2.1.1. Một số quy định cụ thể Chế định trả điều tra bổ sung của Tòa án đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và một số văn bản hƣớng dẫn thi hành nhƣ Nghị quyết 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao về việc hƣớng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Thông tƣ liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ công an, Toàn án nhân dân tối cao ngày 27/8/2010 (gọi tắt là TTLT01/2010) hƣớng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Những năm trƣớc khi chƣa có TTLT01/2010, các cơ quan tố tụng đã gặp không ít khó khăn trong việc xác định nội hàm của những quy định pháp luật về trả hồ sơ điều tra bổ sung, dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất trong việc xác định “chứng cứ quan trọng đối với vụ án”; “có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có đồng phạm khác” và “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”, dẫn đến tình trạng trả hồ sơ một cách thiếu căn cứ, làm kéo dài thời hạn giải quyết vụ án, giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Sau khi TTLT01/2010 đƣợc ban hành, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán đã có chuyển biến tích cực, chất lƣợng công tác giải quyết án hình sự đƣợc nâng lên rõ rệt, góp phần hạn chế tỷ lệ án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, đặc biệt là án trả hồ sơ điều tra bổ sung do vi phạm thủ tục tố tụng. TTLT01/2010 đã quy định cụ thể hơn
  • 33. 27 các điều kiện trả hồ sơ điều tra bổ sung, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc giao giải quyết vụ án hình sự đã góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng trong công tác giải quyết án hình sự. Với các quy định của pháp luật và quy định tại TTLT01/2010, các cơ quan tiến hành tố tụng đã phối hợp chặt chẽ từ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Kiểm sát viên và Thẩm phán có sự chủ động trao đổi, thống nhất trƣớc đối với những vụ án dự kiến phải trả hồ sơ, qua đó hạn chế những trƣờng hợp không cần thiết phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003, vấn đề Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đƣợc quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự (giai đoạn chuẩn bị xét xử) và Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự (tại phiên tòa). Điều 179 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong những trƣờng hợp sau đây: a) Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bỏ sung tại phiên tòa đƣợc; b) Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; c) Khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải đƣợc nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. 2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trong trƣờng hợp Viện kiểm sát không bổ sung đƣợc những vấn đề Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án [22].
  • 34. 28 Nhƣ vậy, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án tiến hành nghiên cứu hồ sơ, nếu có căn cứ để đƣa vụ án ra xét xử thì Tòa án sẽ quyết định đƣa vụ án ra xét xử, nếu chƣa đủ căn cứ hoặc có các tình tiết theo quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 179 BLTTHS và đƣợc hƣớng dẫn cụ thể tại Thông tƣ liên tịch 01/2010 thì Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Khi Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát thì Kiểm sát viên đƣợc phân công nghiên cứu vụ án phải nghiên cứu kỹ các nội dung Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung, xác định căn cứ Tòa án trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu việc trả lại hồ sơ của Tòa án là không có căn cứ hoặc các yêu cầu của Tòa án không thể thực hiện đƣợc hay có thể thực hiện đƣợc tại phiên tòa thì Kiểm sát viên chuyển hồ sơ cho Tòa án tiếp tục đề nghị truy tố. Nếu việc trả lại hồ sơ của Tòa án là có căn cứ và có thể tự mình bổ sung đƣợc thì Kiểm sát viên phải bổ sung chứng cứ, trƣờng hợp Kiểm sát viên không thể tự mình bổ sung đƣợc chứng cứ thì trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra tiến hành việc điều tra bổ sung. Sau khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung, tài liệu điều tra bổ sung không làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trƣớc đây hoặc không thể tiến hành theo yêu cầu của Tòa án thì Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, nếu tài liệu điều tra làm thay đổi nội dung quyết định truy tố (thay đổi tội danh, xác định có đồng phạm khác, thay đổi điểm, khoản, áp dụng của điều luật…) thì Viện kiểm sát phải có bản cáo trạng mới phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mới thu thập đƣợc thay thế bản cáo trạng ban đầu. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho Tòa án biết. Trƣờng hợp Viện kiểm sát không bổ sung đƣợc những vấn đề Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử
  • 35. 29 làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, trong trƣờng hợp phát sinh những vấn đề mới hoặc phức tạp mà không bổ sung đƣợc thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa và ra quyết định yêu cầu điều tra bổ sung, quyết định điều tra bổ sung trong giai đoạn này cần tuân thủ quy định tại Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, quyết định đó phải đƣợc thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải đƣợc lập thành văn bản. - Điều 199. Việc ra bản án và các quyết định của Tòa án 1… 2. Quyết định về việc thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thƣ ký Tòa án, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải đƣợc thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải đƣợc lập thành văn bản [22]. Tuy khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể căn cứ của Hội đồng xét xử yêu cầu điều tra bổ sung, song trên thực tiễn áp dụng cho thấy Điều 179 BLTTHS cũng chính là căn cứ để Hội đồng xét xử trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc áp dụng các căn cứ quy định tại Điều 179 của Hội đồng xét xử là phù hợp với thực tế trong giải quyết vụ án hình sự. So sánh với Điều 179 BLTTHS, tuy có những điểm giống và khác nhau về thời điểm ra quyết định, điều luật áp dụng nhƣng việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung có mục đích chung là làm sáng tỏ nội dung vụ án. 2.1.2. Căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung - Khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được Việc chứng minh tội phạm, làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án đòi hỏi phải có các thông tin, tài liệu phản ánh sự kiện phạm tội, phản ánh các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm và các yếu tố liên quan đến ngƣời phạm
  • 36. 30 tội. Hay nói cách khác chứng cứ là phƣơng tiện duy nhất đƣợc cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để chứng minh trong tố tụng hình sự. Thông qua các tài liệu, chứng cứ các sự kiện thực tế đƣợc xác định, khẳng định và đồng thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Khi giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm đang đƣợc tiến hành xem xét, cần phải khẳng định đƣợc rằng tội phạm đã xảy ra, xác định đƣợc ngƣời cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện. Tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm đƣợc điều đó, cơ quan tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng cứ. Thông qua chứng cứ, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố trƣớc toà án đƣa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn ngƣời bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đƣa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án đƣợc tiến hành trên cơ sở của các chứng cứ và chỉ bằng cách dựa vào các chứng cứ mới làm sáng tỏ đƣợc những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan. Khoản 1 Điều 164 BLTTHS quy định: Chứng cứ là những gì có thật, đƣợc thu thập theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, ngƣời thực hiện hành vi phạm tội cũng nhƣ những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [22].
  • 37. 31 Đồng thời BLTTHS 2003 cũng quy định chứng cứ đƣợc xác định bằng vật chứng, lời khai của những ngƣời tham gia tố tụng (ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo), kết luận giám định, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Nhƣ vậy việc thiếu sót một hay một số chứng cứ quan trọng sẽ không đảm bảo giải quyết vụ án hình sự một cách toàn diện, khách quan. Trong các nghiên cứu, bài viết về vấn đề trả hồ sơ để điều tra bổ sung trƣớc đây, các tác giả đều có quan điểm kiến nghị, sửa đổi, bổ sung BLTTHS 2003 về việc xác định rõ chứng cứ nào là chứng cứ quan trọng đối với vụ án hình sự đƣợc quy định trong điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS tránh trƣờng hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung thiếu căn cứ. Thông tƣ 01/2010 đã giải đáp đƣợc phần lớn thắc mắc này, Điều 1 Thông tƣ 01/2010 quy định: Chứng cứ quan trọng đối với vụ án quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án đƣợc khách quan, toàn diện, đúng pháp luật [40]. Điều 63 BLTTHS quy định về những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sƣ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh: 1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; 2. Ai là ngƣời thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sƣ hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
  • 38. 32 3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hính sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; 4. Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [22]. Trong thông tƣ cũng chỉ ra những trƣờng hợp thiếu chứng cứ sau đƣợc coi là chứng cứ quan trọng đối với vụ án. Bao gồm: chứng cứ để chứng minh: “có hành vi phạm tội xảy ra hay không”, “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội”, “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội”, “có lỗi hay không có lỗi”, “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không”, “mục đích, động cơ phạm tội”, “tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”, “đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo”, “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” và chứng cứ khác để chứng minh một hay nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS. Trên thực tế số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung chiếm tỷ lệ chủ yếu. Do vậy thông tƣ cũng hạn chế bằng quy định tại điểm c khoản 3 Điều 1 Thông tƣ 01/2010 Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhƣng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử đƣợc hoặc không thể thu thập đƣợc. Ví dụ 1: Có 3 ngƣời làm chứng nhƣng chỉ xác định đƣợc 2 ngƣời. Ví dụ 2: Hiện trƣờng đã bị thay đổi không thể xem xét lại đƣợc hay vật chứng đã mất không thể tìm đƣợc. - Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác [40]. Trƣớc đây trong thực tế áp dụng có nhiều cách hiểu khác nhau về căn cứ bị cáo phạm “một tội khác”. Nhiều ngƣời đồng tình với quan điểm cho rằng “tội khác” ở đây có thể là tội chƣa đƣợc Viện kiểm sát truy tố, cũng có thể là tội đã đƣợc Viện kiểm sát truy tố nhƣng Tòa án thấy cần xét xử theo tội
  • 39. 33 danh nặng hơn bởi nó phù hợp với thực tiễn xét xử và phù hợp với quy định của Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự và Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 15/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về giới hạn xét xử: Điều 196 Bộ luật tố tụng hình sự: Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đƣa ra xét xử. Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố [22]. Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 15/11/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố, có nghĩa là với những hành vi mà Viện kiểm sát truy tố, Toà án có thể xét xử bị cáo về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. a) Tội phạm khác bằng tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trƣờng hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với hai tội phạm nhƣ nhau. b) Tội phạm khác nhẹ hơn tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố là trƣờng hợp điều luật quy định về trách nhiệm hình sự (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) đối với tội phạm khác nhẹ hơn so với tội phạm mà Viện kiểm sát đã truy tố [10]. Nhƣ vậy, Tòa án có thể xét xử theo một tội danh khác bằng hoặc nhẹ hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố nên khái niệm “tội khác” trong căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung này phải hiểu là tội nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố hoặc một tội khác nặng hơn ngoài tội danh Viện kiểm sát đã truy tố.
  • 40. 34 Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, đƣợc thể hiện trong một vụ án có nhiều ngƣời tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều ngƣời tham gia là đồng phạm, mà nhiều ngƣời tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm. So với tội phạm do một ngƣời thực hiện, đồng phạm thƣờng nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm ngƣời cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện, phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những ngƣời đồng phạm có một số điểm khác với những trƣờng hợp phạm tội riêng lẻ. Việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những ngƣời đồng phạm, một mặt phải căn cứ vào những nguyên tắc chung đƣợc áp dụng cho tất cả những trƣờng hợp phạm tội, mặt khác phải tuân thủ những nguyên tắc có tính đặc thù. Thứ nhất, những ngƣời đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện; Thứ hai, khi xác định trách nhiệm hình sự của những ngƣời đồng phạm cần tuân thủ nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, những ngƣời đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc đã cùng thực hiện tội phạm. Những ngƣời đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vƣợt quá của những ngƣời đồng phạm khác mà trƣớc đó không có sự bàn bạc và thống nhất với nhau cũng nhƣ không có sự tiếp nhận mục đích của nhau. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự… đƣợc áp dụng riêng đối với từng ngƣời phạm tội. Điều 20 Bộ luật hình sự quy định về đồng phạm: 1. Đồng phạm là trƣờng hợp có từ hai ngƣời trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. 2. Ngƣời tổ chức, ngƣời thực hành, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức đều là những ngƣời đồng phạm. Ngƣời thực hành là ngƣời trực tiếp thực hiện tội phạm.
  • 41. 35 Ngƣời tổ chức là ngƣời chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Ngƣời xúi giục là ngƣời kích đồng, dụ dỗ, thúc đẩy ngƣời khác thực hiện tội phạm. Ngƣời giúp sức là ngƣời tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. 3. Phạm tội có tổ chức cũng là một hình thức đồng phạm nhƣng có sự câu kết chặt chẽ giữa những ngƣời thực hiện tội phạm [21] Theo quy định này, để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều kiện sau đây: thứ nhất phải từ hai ngƣời trở lên, những ngƣời này phải có đủ dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; thứ hai là cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi ngƣời trong đồng phạm đều có hành vi tham gia vào thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi ngƣời đƣợc thực hiện không biệt lập nhau mà trong sự liên kết với nhau, hành vi của ngƣời này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của ngƣời khác và ngƣợc lại, hành vi phạm tội của mỗi ngƣời đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt đƣợc kết quả thực hiện tội phạm. Vì vậy, sẽ không đƣợc coi là đồng phạm khi một số ngƣời đã cùng thực hiện một tội phạm và cùng một thời gian, nhƣng giữa những ngƣời này không có sự bàn bạc, liên hệ, ràng buộc, hỗ trợ nhau mà hành vi của từng ngƣời đều thực hiện độc lập Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS thì chỉ khi nào xác định có đồng phạm khác Tòa án mới trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung. Điều 3 Thông tƣ 01/2010 cũng đã hƣớng dẫn chi tiết căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung “Khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” loại bỏ các quan điểm khác nhau về “một tội khác” và “đồng phạm khác” nhƣ sau:
  • 42. 36 1. Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTHS khi thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây: a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhƣng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác; b) Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác; c) Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có ngƣời đồng phạm khác hoặc có ngƣời phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhƣng chƣa đƣợc khởi tố bị can. 2. Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây: a) Trƣờng hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều này, nhƣng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội tƣơng ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can (bị cáo) ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố; b) Đã có quyết định tách vụ án hoặc chƣa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra nhƣng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS [40]. Nhƣ vậy, quan điểm cho rằng “tội khác” ở đây có thể là tội chƣa đƣợc Viện kiểm sát truy tố, cũng có thể là tội đã đƣợc viện kiểm sát truy tố nhƣng tòa án thấy cần xét xử theo tội danh nặng hơn phù hợp với thông tƣ này. Còn đối với căn cứ “đồng phạm khác”, ngoài trƣờng hợp chỉ khi nào xác định có đồng phạm khác Tòa án mới trả hồ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung thì Tòa án còn trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có ngƣời phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhƣng chƣa đƣợc khởi tố bị can.
  • 43. 37 - Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng Vi phạm thủ tục tố tụng là không thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhƣng không phải vi phạm nào cũng là vi phạm nghiêm trọng. Chỉ những vi phạm mà hậu quả có nguy cơ ảnh hƣởng đến việc xác định sự thật của vụ án mới xem là nghiêm trọng nhƣ: khởi tố, truy tố, xét xử không đúng ngƣời, đúng tội, để lọt tội phạm hoặc làm oan ngƣời vô tội; xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và của công dân đƣợc pháp luật bảo vệ... Tuy nhiên, xác định vi phạm tố tụng nào là nghiêm trọng không hề đơn giản. Bởi lẽ, cùng một vi phạm, đối với vụ án này là nghiêm trọng nhƣng đối với vụ án khác thì lại chƣa phải nghiêm trọng Trƣớc đây Mục 4 Phần I Nghị quyết số 04/2004/ NQ-HĐTP ngày 5/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn: Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trƣờng hợp Bộ luật tố tụng hình sự quy định bắt buộc phải tiến hành theo thủ tục tố tụng đó, nhƣng cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ngƣời có quyền lợi liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện [10]. Tuy nhiên chƣa quy định cụ thể “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” nên khó phân biệt vi phạm nghiêm trọng và không nghiêm trọng, chủ thể tiến hành tố tụng thƣờng mang tính chủ quan dẫn đến trả hồ sơ để điều tra bổ sung tùy tiện. Hiện nay đã có một khái niệm và hƣớng dẫn cụ thể hơn đƣợc quy định trong khoản 1 Điều 4 Thông tƣ 01/2010 nhƣ sau: Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trong quá trình điều
  • 44. 38 tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hƣởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án [40]. Để thống nhất nhận thức pháp luật về vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, khoản 2 Điều 4 Thông tƣ 01/2010 hƣớng dẫn: Những trƣờng hợp sau đây đƣợc coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhƣng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền; b) Không yêu cầu cử ngƣời bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS; c) Xác định không đúng tƣ cách tham gia tố tụng của ngƣời tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ; d) Khởi tố vụ án hình sự nhƣng không có yêu cầu của ngƣời bị hại hoặc của ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS; đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của BLTTHS; e) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;
  • 45. 39 g) Chƣa điều tra, lập lý lịch của bị can; chƣa xác định đƣợc những đặc điểm quan trọng về nhân thân của ngƣời có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo); h) Không có ngƣời phiên dịch cho ngƣời tham gia tố tụng trong trƣờng hợp họ không sử dụng đƣợc tiếng Việt hoặc họ là ngƣời câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS; i) Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng trong các trƣờng hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS; k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự; l) Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã đƣợc thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhƣng không đƣa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án; m) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trƣờng hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể; n) Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật; o) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những ngƣời tham gia tố tụng khác không đƣợc giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ; p) Những trƣờng hợp khác đƣợc xác định theo hƣớng dẫn tại khoản 1 Điều này nhƣng phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung [40]. Việc quy định các trƣờng hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
  • 46. 40 nhƣ trên đã đƣa lại sự thống nhất trong nhận thức của những ngƣời tiến hành tố tụng trong vấn để trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hạn chế việc áp dụng tùy tiện bởi căn cứ trả hồ sơ để điều tra bổ sung này. 2.1.3. Thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung Để đảm bảo hạn chế trả hồ sơ để điều tra bổ sung và khắc phục tình trạng kéo dài việc điều tra bổ sung, BLTTHS 2003 đã quy định cụ thể số lần và thời hạn trả hồ sơ điều tra bổ sung. Điều 121. Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại 1… 2. Trong trƣờng hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ đƣợc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra [22]. Có rất nhiều trƣờng hợp Tòa án trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, nhƣng do Viện kiểm sát không đủ điều kiện hoặc không thể tự điều tra bổ sung đƣợc nên phải trả hồ sơ cho cơ quan điều tra để cơ quan này tiến hành điều tra bổ sung. Luật Tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra, nên xảy ra nhiều tình trạng hồ sơ của Tòa án trả Viện kiểm sát bị giữ lại ở Viện kiểm sát rất lâu sau đó mới chuyển cho Cơ quan điều tra. Mặt khác đối với hồ sơ Tòa án trả Viện kiểm sát để điều tra bổ sung, Luật tố tụng hình sự cũng không quy định trong vòng bao nhiêu ngày Tòa án phải chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát để điều tra bổ sung kể từ ngày ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung nên một số ở một số đơn vị, Thẩm phán đã ra quyết định trả hồ sơ
  • 47. 41 điều tra bổ sung rồi để quên hồ sơ đến hết thời hạn tạm giam mới chuyển sang Viện kiểm sát. Tình trạng này gây kéo dài thời gian giải quyết vụ án, đây là vấn đề cần hoàn thiện khi sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Để đảm bảo cho vụ án đƣợc giải quyết nhanh chóng, tránh tình trạng điều tra bổ sung quá nhiều lần kéo dài thời gian, Điều 121 BLTTHS quy định Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ không quá hai lần, có nhiều quan điểm khác nhau về quy định này. Có ý kiến cho rằng Tòa án chỉ đƣợc trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa tối đa không quá hai lần, quan điểm khác lại cho rằng số lần trả điều tra bổ sung chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với những vụ án trả hồ sơ để điều tra bổ sung trƣớc khi xét xử còn đối với yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa là do Hội đồng xét xử quyết định nên không hạn chế về số lần quyết định yêu cầu điều tra bổ sung. Tác giả đồng quan điểm với ý kiến thứ nhất bởi khi Thẩm phán đƣợc phân công giải quyết vụ án ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì Thẩm phán phải nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, những thiếu sót có thể khắc phục đƣợc thì nên phối hợp với Viện kiểm sát để khắc phục, những tài liệu chứng cứ không thể khắc phục đƣợc hoặc những vi phạm tốt tụng nghiêm trọng, có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác hoặc đồng phạm khác thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Thẩm phán phải có trách nhiệm đối với đối với những nội dung yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung. Mặt khác quá trình điều tra luôn có sự kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát, chức năng của Tòa án là xét xử nên việc quy định Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần là hợp lý. Tuy nhiên nên có quy định rõ ràng về việc mỗi chủ thể đƣợc phép trả nhƣ thế nào vì trong giai đoạn xét xử, Thẩm phán trong giai đoan chuẩn bị xét xử và Hội đồng xét xử tại phiên tòa đều đƣợc trả hồ sơ điều tra bổ sung. Để hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, khoản 2 Điều 5 Thông tƣ 01/2010 quy định