SlideShare a Scribd company logo
1 of 82
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ VĂN TÚ
NGUY£N T¾C B¶O §¶M QUYÒN B×NH §¼NG CñA MäI C¤NG D¢N
TR¦íC PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ VĂN TÚ
NGUY£N T¾C B¶O §¶M QUYÒN B×NH §¼NG CñA MäI C¤NG D¢N
TR¦íC PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS ĐỖ NGỌC QUANG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Vũ Văn Tú
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ............... 5
1.1. Những khái niệm có liên quan...................................................... 5
1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật ................................................................................ 5
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật.......................................................................... 9
1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng
hình sự.......................................................................................... 13
1.2.1. Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự ................ 13
1.2.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.............................. 16
Chương 2: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC
PHÁP LUẬT................................................................................ 25
2.1. Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật........25
2.1.1. Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật ........25
2.1.2. Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 36
2.2. Tình hình thực thi pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..... 43
2.2.1. Những kết quả trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 43
2.2.2. Những tồn tại trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 46
2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật........................................................................................ 55
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG
CỦA MỌI CÔNG DÂN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT .....59
3.1. Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật theo tinh thần cải cách tư pháp ....................... 59
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật..................................................................... 61
3.3. Các giải pháp khác...................................................................... 66
KẾT LUẬN................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 74
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ Luật hình sự
BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự
VKSNDTC: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự được điều tra, truy tố,
xét xử từ năm 2010 đến 2014 43
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (International
Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) đã ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài
phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai
bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập
ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong
các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó
trong các vụ kiện dân sự… [10].
Đây là cơ sở cao nhất về quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận
trong một trong những văn kiện quốc tế nền tảng về quyền con người. Trong
pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự là một nội dung của quyền bình đẳng trước pháp luật - một quyền đã
được Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm
2013. Quyền bình đẳng trước pháp luật và cụ thể là bình đẳng trong hoạt động
xét xử và tố tụng hình sự được hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các
chứng cứ, đưa ra các yêu cầu tranh luận trước tòa án và phải được tòa án tôn
trọng, tạo điều kiện. Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy
định về bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như sau:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án.
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Điều 19].
2
Để bảo đảm được quyền bình đẳng trước tòa án, trong quá trình xét xử, người
tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, điều khiển phiên tòa đúng quy định
của pháp luật, không được thiên vị hay gây trở ngại cho bất cứ bên nào. Tuy
nhiên những vụ việc gây xôn xao dư luận gần đây liên quan tới hành vi vi
phạm nguyên tắc hiến định này trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy thực
tiễn thực thi và kiểm sát tư pháp liên quan tới nguyên tắc này hiện nay vẫn còn
nhiều bất cập, chưa thực sự tạo ra niềm tin, tính thuyết phục của các phán quyết
của cơ quan xét xử và thực thi pháp luật. Với lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa
chọn đề tài luận văn: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, để tiến hành nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu khoa học có
ý nghĩa lý luận như: Luận án Tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn
Văn Hiển, Học viện Khoa học xã hội, năm 2011; Luận án Tiến sĩ Luật học
“Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam
hiện nay” của TS. Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2012; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của
người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của TS Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004…cùng nhiều công trình
nghiên cứu có giá trị khác.
Tuy nhiên, thực tế các công trình nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc
bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự hiện này còn hiếm
hoi, cơ sở dữ liệu lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của
đề tài sẽ góp phần đào sâu các nội dung lí luận liên quan để bổ sung vào kho
lí luận phong phú trong lĩnh vực tố tụng hình sự Việt Nam.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh lí luận về nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam thông qua quá trình phân tích, làm rõ nội dung nguyên
tắc trong từng giai đoạn tố tụng, áp dụng với từng đối tượng chủ thể tham gia
tố tụng, các quy định pháp luật cụ thể được áp dụng trong quy trình tố tụng.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và tham khảo các ví dụ thực tiễn liên quan, các
trường hợp vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật” trong quá trình tiến hành tố tụng cũng là một
mục đích của luận văn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các
tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và
phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn
đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau:
Một là, làm rõ những nội hàm lí luận của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Hai là, phân tích và làm rõ thực tiễn tố tụng áp dụng nguyên tắc “bảo
vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”.
Ba là, trên cơ sở lí luận và thực tiễn để khái quát các nội dung liên quan
và đề xuất các cơ chế để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các lí luận về nguyên tắc “bảo vệ quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự.
Đồng thời, luận văn cũng nhấn mạnh những quy định pháp luật tố tụng hình
4
sự liên quan tới các nội dung của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật”.
3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư
duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và
phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với cơ sở và thành quả lí luận và thực tiễn được nghiên cứu, luận văn
mong muốn đóng góp những kết quả khái qua tổng quan cũng như cung cấp
những khía cạnh lí luận mới liên quan tới nguyên tắc “bảo vệ quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu khoa học
tham khảo, tài liệu giảng dạy hoặc cơ sở tham khảo phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học hoặc tham vấn lập chính sách và xây dựng pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.
Chương 2. Tình hình xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự
theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật.
Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
trong tố tụng hình sự.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN
TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể
hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách như nhau,
công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân thuộc
các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong
một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.
Lý tưởng bình đẳng dựa trên nguyên lý căn bản là con người sinh ra
đều như nhau, đều có chung dòng máu đỏ và nước mắt mặn và đều xứng đáng
được hưởng quyền lợi như nhau. Mọi ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng
tộc, giới tính, trình độ, địa vị … không thể quyết định và thay đổi bản chất
bình đẳng giữa mọi người. Qua đó cho thấy “bình đẳng” là một nguyên lý căn
bản được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. “Bình đẳng” là một khái
niệm chung của cả nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang
nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Bình đẳng
là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tưởng chung
của mọi cuộc cách mạng trên thế giới. Bình đẳng có nghĩa là bình đẳng về cơ
hội, nghĩa là mọi người đều được tạo một cơ hội như nhau để phấn đấu và
vươn lên trong xã hội, nếu ai nỗ lực nhiều hơn, học giỏi hơn, làm việc hiệu
quả hơn, tất nhiên sẽ thu được nhiều lợi ích hơn. Hơn nữa, bình đẳng cũng
6
bao gồm cả việc tạo điều kiện cho những nhóm người có khó khăn hơn như
người nghèo, người già, trẻ em, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người ở vùng
sâu vùng xa… giảm bớt những khó khăn của họ. Bình đẳng, là nền tảng, cơ sở
và là nguyên lý cơ bản của mọi thiết chế xã hội, mọi quy định, luật lệ. Xã hội
càng tiến bộ thì tính bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Trong một xã hội
dân chủ pháp trị, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả tổng
thống, nếu vi phạm pháp luật cũng phải ra tòa như một thường dân. Bình đẳng
là mục tiêu ban đầu và lâu dài của mọi nỗ lực xây dựng xã hội, là thước đo
trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước. Theo Ths. Đinh Thế Hưng -
Viện Nhà nước và Pháp luật, bình đẳng là cội nguồn của tự do còn pháp luật
là sự giới hạn cần thiết cho cả tự do và bình đẳng. Bình đẳng được xét dưới
hai góc độ là bình đẳng thực tế và bình đẳng pháp lý. Mác đã nói: “Về bản
chất, pháp luật chỉ có thể là sự vận dụng một đại lượng ngang bằng với
những người khác nhau”. Đại lượng ngang bằng ở đây là pháp luật. Bởi lẽ,
các giá trị về bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống được xã hội thông
qua nhà nước và thể chế hóa thành pháp luật. Trong cùng một điều kiện như
nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý
như nhau. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là bất kỳ công dân nào vi phạm
pháp luật đều bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật. Như vậy
có thể hiểu, bình đẳng là sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công
dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Khi nói đến quyền bình đẳng của mọi công dân là nói đến sự ghi nhận
quyền này trong pháp luật. Pháp luật trở thành thước đo mang tính chuẩn mực
cho sự bình đẳng bởi đỉnh cao nhất của các hệ thống lập pháp quy gọn vào hai
mục tiêu: Tự do và bình đẳng. Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài
của nhân loại tiến bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau, là một quyền cơ bản
của mọi công dân, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản được thể chế
7
hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Điều 6 và Điều 7 Tuyên ngôn
nhân quyền năm 1948 tuyên bố “Mọi người đều có quyền được công nhận tư
cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”. “Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có
bất cứ sự phân biệt nào”. Điều 26 Công ước về quyền dân sự, chính trị năm
1966 của Liên Hợp quốc (Việt Nam gia nhập Công ước này ngày 24/9/1982)
cụ thể hóa hơn về cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật như sau:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được
pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự
phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và
có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da,
giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm
khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân
hoặc các địa vị khác [10, Điều 26].
Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước
pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có
quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quan hệ về bình đẳng chỉ được xác lập trên cơ sở
của tự do và tự nguyện. Khi giải thích về quyền bình đẳng trước pháp luật, Lênin
cho rằng: “Khi những người theo chủ nghĩa xã hội nói về bình đẳng thì có nghĩa
là sự bình đẳng mang tính xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ không phải sự
bình đẳng về khả năng thể chất hoặc tinh thần”. Từ đó có thể thấy, quyền bình
đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Ở Việt Nam, câu đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền
bình đẳng”. Ý tưởng về sự bình đẳng này được trích dẫn từ tuyên ngôn độc
8
lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng
Pháp. Thực tế, quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận nhất quán
trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 – đạo luật có giá trị
pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Điều 6, 7 Hiến pháp năm
1946 – bản hiến pháp đầu tiên sau ngày độc lập với nhiều tư tưởng lập hiến
tiến bộ của Hồ Chủ tịch có quy định:
Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”. “Tất cả công dân Việt Nam đều bình
đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc
kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình [13, Điều 6,7].
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 tiếp tục khẳng định “Công dân
có quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 51). Trước xu thế hội nhập quốc tế,
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp, với những
điểm mới quan trọng, nổi bật là đề cao quyền con người. Cụ thể Hiến pháp sửa
đổi năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và được
quy định tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy
định tại Điều 16 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”.
So với các quy định của các bản Hiến pháp trước đây thì quy định Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy
đủ, cụ thể hơn. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định bình đẳng trước pháp
luật là quyền con người theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng
trước pháp luật; khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người
được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt đối
xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ
9
do “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (Điều 15 khoản
2). Công dân ở bất kỳ địa vị nào dù là cán bộ, công chức hay người lao động,
dù là người có chức, có quyền hay là một người dân bình thường đều phải
chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc
làm của mình. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Công
dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định
của pháp luật không phân biệt chức vụ, nghề nghiệp, tuổi tác và địa vị xã hội.
Như vậy, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình
đẳng về quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật, bao hàm
cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự phân
biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, lứa
tuổi, chức vụ, nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật
Nguyên tắc, theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “những quy định,
phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để làm việc, xem xét” [26]. Tuy nhiên nguyên
tắc trong tố tụng còn có những cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự là kinh chỉ nam
cho mọi hoạt động tố tụng và được quy định trực tiếp trong Bộ luật
tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nói đến nguyên tắc của luật tố tụng
hình sự phải hiểu đó là những nguyên tắc của một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những nguyên tắc này
không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, mà còn cho
hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn [24].
Do vậy, trong các giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số trường
luật và khoa luật đều đặt với cái tên là: "Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự.
10
Quan điểm khác không đồng ý với nội dung của quan điểm thứ nhất về
cách gọi những nguyên tắc này là:
Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, mà là Những
nguyên tắc của tố tụng hình sự, với lý do, trong thực tiễn và ngay cả
trong sách báo pháp lý, cho đến nay vẫn không ít người sử dụng
khái niệm các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Sự nhầm lẫn này
bắt nguồn từ việc coi tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là
một. Trong lúc đó thì chính nguyên tắc tố tụng hình sự lại chính là
tiền đề, là căn cứ để xây dựng luật pháp tố tụng hình sự chứ không
phải ngược lại [24].
Như vậy, đang tồn tại hai cách hiểu về "Những nguyên tắc cơ bản"
được quy định tại Chương 2 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để hiểu như
thế nào cho đúng về hệ thống những nguyên tắc cơ bản này cần thiết xác định
vị trí của các điều luật này trong Bộ luật tố tụng hình sự, với tư cách là một
văn bản pháp luật nói chung. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì,
trước tiên, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để
làm việc, xem xét. Những nguyên tắc trong pháp luật bao giờ cũng là sự thể
hiện hệ thống quan điểm của nhà nước về pháp luật nói chung. Dựa trên
những quan điểm này, các quy phạm pháp luật trong một văn bản luật được
soạn thảo nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Tiếp theo, hoạt động tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là hai
phạm trù khác nhau. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hoạt động khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng. Còn
pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống những văn bản pháp luật tố tụng bao
gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng của những
người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Điều đó có nghĩa rằng, hệ thống
11
những nguyên tắc cơ bản này có ý nghĩa trong xây dựng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự và có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung.
Cho nên, đây thực chất là những nguyên tắc trong tố tụng hình sự.
Cuối cùng, theo lý luận chung về pháp luật thì một văn bản luật (đạo
luật) chứa đựng nhiều quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một hoặc một
nhóm quan hệ xã hội có những đặc điểm chung giống nhau. Như vậy, một
trong những vấn đề cốt lõi nhất của quy phạm pháp luật nói chung là phải có
khả năng điều chỉnh quan hệ xã hội thông qua các hành vi của các chủ thể mà
pháp luật điều chỉnh. Do vậy, văn bản luật phải chứa đựng trong mình tính bắt
buộc phải thực hiện nhằm mục đích ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt đối với
những hành vi vi phạm pháp luật. Nếu những quy định trong một văn bản
pháp luật không thoả mãn những yêu cầu trên và không có khả năng điều
chỉnh những hành vi nhất định thì văn bản pháp luật đó thiếu tính khả thi và
không thể áp dụng được trong thực tế cuộc sống. Điều đó có nghĩa rằng, trước
khi xây dựng các quy phạm pháp luật trong một đạo luật nói chung, các nhà
làm luật phải đưa ra được những tiêu chí cần phải đạt được của văn bản luật
đó như: mục đích, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm, phương pháp điều
chỉnh v.v…, hay còn gọi là đưa ra những nguyên tắc để xây dựng quy phạm
pháp luật trong một văn bản pháp luật. Cho nên có thể hiểu, các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự là sự thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách
của Nhà nước ta; là những định hướng cơ bản trong xây dựng và áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự nhằm hoàn thiện quá trình tố tụng hình sự từ khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, được vận hành một cách thống
nhất, đồng bộ trong phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tổ chức, động viên
được các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và
đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự nói
riêng và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
12
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được đưa ra làm
định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và
thực thi các quy phạm pháp luật này trong thực tiễn liên quan đến quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên tắc này thể hiện sự bình đẳng về các
quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân trước nhà nước, pháp luật,
là một trong những quyền tắc của nền dân chủ. Trong hoạt động tố tụng hình
sự, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được chi phối toàn bộ
quá trình tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự
liên quan đến các chủ thể tố tụng hình sự (cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng) khi phát sinh và giải quyết vụ án
hình sự. Hay nói cách khác, nguyên tắc này bảo đảm cho việc thi hành
nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng hình sự đối với mọi công dân, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội và
không loại trừ bất kỳ một đối tượng, chủ thể phạm tội hình sự nào không phải
theo đuổi quá trình tố tụng hình sự theo quy định pháp luật. Người phạm tội
phải bị xử lý theo pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Có thể về trình tự, mỗi vụ án và mỗi
chủ thể có thể có những điểm đặc thù về trình tự tố tụng, có thể được rút ngắn
một hoặc một vài giai đoạn (tố tụng rút gọn) nhưng về cơ bản bất kỳ người
phạm tội hình sự phải bị xét xử theo một trình tự tố tụng hình sự luật định.
Mặt khác, nguyên tắc bảo đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật
điều chỉnh toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm
cho những người tham gia tố tụng có cùng tư cách pháp lý có quyền bình
đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý ngang nhau, không phân
biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Sự bình đẳng đối với các vụ án hình sự cũng như những cá nhân, tổ chức có
13
liên quan trong một vụ án hình sự còn thể hiện ở việc áp dụng một quy trình
giải quyết vụ án hình sự thống nhất theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật là tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự phải
bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân
tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, bất cứ
người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
1.2.1. Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Cơ sở, theo Từ điển tiếng Việt, là nền tảng để tồn tại và phát triển. Cơ sở
pháp lý là nền tảng pháp lý để xây dựng các quy phạm pháp luật. Nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình
sự cũng được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong
xây dựng các văn bản pháp luật nói chung và Luật tố tụng hình sự nói riêng.
Thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân vào Tháng Tám năm
1945 đưa đến việc hình thành Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước Công nông
đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long
trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả
mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất
cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
14
sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và
bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền
lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Có thể nói bản tuyên ngôn
độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc vào ngày 2/9/1945, mặc dù
không phải là văn bản pháp luật, nhưng là lời tuyên bố chính thức của Nhà
nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa trước toàn thể thế giới rằng, nước Việt
Nam là một nước độc lập và mọi người dân Việt Nam được sinh ra đều có
quyền bình đẳng, ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ như người dân của các
nước khác trên thế giới.
Để khẳng định bản chất của nhà nước công nông, Hiến pháp năm 1946,
văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước Việt Nam, đã quy định về quyền
bình đẳng của mọi người dân Việt Nam rằng:
Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền
binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân
biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh
tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp
luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ
theo tài năng và đức hạnh của mình. Đàn bà ngang quyền với đàn
ông về mọi phương diện [13].
Trên cơ sở Hiến pháp 1946, các Hiến pháp tiếp theo vào các năm 1959,
1980, 1992 và 2013 của Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lại quan
điểm mọi người dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Ví dụ, Điều 22,
Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật. Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị,
15
kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình” [14]. Điều 54 và Điều 55 Hiến pháp
1980 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các
quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà
nước và xã hội” [15].
Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định:
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn
nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ
của công dân do Hiến pháp và luật quy định. Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật [18].
Hiến pháp năm 2013 quy định:
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội [21].
Như vậy, cơ sở pháp lý để xây dựng nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự đều xuất phát
trên cơ sở những quy định Hiến pháp (Hiến định) với tư cách đạo luật cơ bản
của nhà nước ta trong các thời kỳ khác nhau để xây dựng những quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự mà điển
hình nhất là Bộ luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của
Nhà nước ta được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1980. Tại Điều 4 của Bộ
luật tố tụng hình sự này quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
16
công dân trước pháp luật với nội dung: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên
tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân
tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội
đều bị xử lý theo pháp luật” [16]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục
quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật cũng với nội dung, mặc dù câu chữ có được bổ sung, hoàn chỉnh: “Tố tụng
hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp
luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [20].
Điều này cho thấy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật trong tố tụng hình sự được xây dựng có căn cứ pháp lý là được
coi là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và
được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
1.2.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự
Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi: Bảo đảm quyền
bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và với nội dung:
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật,không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người
nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật [20, Điều 5].
Theo Điều luật này, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công
dân trước pháp có hai nội dung chính: Tố tụng hình sự được tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; và tố tụng hình sự
được tiến hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật.
Tuy nhiên, để hiểu rõ nội dung của nguyên tắc này cần hiểu rõ những
nội dung khác liên quan như: những vấn đề thuộc tố tụng hình sự và chủ thể
17
tiến hành tố tụng hình sự; tại sao tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu của tố tụng hình sự
tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là gì.
Điều 5 BLTTHS hình sự quy định: Tố tụng hình sự tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, tố tụng
hình sự là gì. Thực ra, tố tụng hình sự là thủ tục, hay cách thức tiến hành giải
quyết vụ án hình sự. Khác với các hình thức tố tụng khác, tố tụng hình sự là
hình thức tố tụng do cơ quan nhà nước, mà cụ thể là cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người đã gây nên những thiệt hại cho quyền lợi của nhà nước, xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng việc điều tra, xử lý về hình sự
đối với bất kỳ hành vi phạm tội của cá nhân nào. Do vậy, tố tụng hình sự
được phát sinh khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với
người có hành vi xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội
và công dân.
Đối với hình thức tố tụng khác (dân sự, kinh tế, hành chính…) được
phát sinh chỉ khi có những tranh chấp giữa các bên có lợi ích hợp pháp khác
nhau cần phải được phân giải. Các chủ thể những tranh chấp này không tự
mình giải quyết được mà cần thiết phải có sự can thiệp của cơ quan tài phán
(toà án). Trên cơ sở nội dung tranh chấp về lợi ích và quy định của pháp luật
hiện hành, hoạt động tố tụng hướng vào việc phân định đúng sai để đưa ra các
quyết định phù hợp với quy định của pháp luật. Thế nhưng, đối với tố tụng
hình sự, không chỉ đơn thuần là việc việc giải quyết tranh chấp, mà Nhà nước
có trách nhiệm đứng ra giải quyết trên cơ sở pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi có
hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, gây nên
những thiệt hại nhất định theo quy định của pháp luật hình sự. Cơ quan điều
18
tra được Nhà nước giao nhiệm vụ thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và
người phạm tội; Viện Kiểm sát được nhà nước giao nhiệm vụ thực hành
quyền công tố, buộc tội đối với người phạm tội và Toà án với tư cách là một
bộ phận của cơ quan quyền lực tư pháp đưa ra kết luận cuối cùng về tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi, loại và mức hình phạt cần được áp dụng với
người thực hiện hành vi nguy hiểm đó. Những quyết định trong bản án của
Toà án đều nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tính
cưỡng chế nhà nước. Do vậy, hoạt động tố tụng hình sự chỉ được phát sinh
khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với người có hành vi
xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân.
Do tố tụng hình sự đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, xã hội và công dân mà hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi phải
là hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chính pháp luật nói chung và
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tố tụng
hình sự. Hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự phải tuân theo những quy
định của Hiến pháp, pháp luật. Chỉ khi tuân theo pháp luật mới có thể giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng là đặc biệt quan trọng
không chỉ có ý nghĩa xử lý công bằng vụ án hình sự, mà còn tạo dựng lòng tin
của nhân dân và xã hội vào hệ thống các cơ quan tư pháp. Mặt khác, hoạt
động tố tụng hình sự phải tuân thủ những quy tắc, trình tự rất chặt chẽ từ khi
bắt đầu cho đến khi kết thúc.
Những quy tắc, trình tự này được thể chế hoá bằng các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hình sự phải được tuân thủ một cách
nghiêm chỉnh mới đảm bảo thể hiện rõ đặc tính quyền lực nhà nước thực sự
dân chủ, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác và
19
đúng pháp luật. Không phải ngẫu nhiên, hoạt động tố tụng hình sự phải do các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được nhà nước giao thẩm
quyền thực hiện.
Đối với vụ án hình sự, việc giải quyết vụ án phải có sự tham gia của Cơ
quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án với những người tiến hành tố tụng là
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên và một số cơ quan bổ trợ tư pháp tiến hành. Hoạt động tố tụng
hình sự phải do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có
thẩm quyền tiến hành trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng do nhà
nước ban hành. Đồng thời để đảm bảo sự khách quan trong giải quyết vụ án,
pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định rất chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Từ tất cả những điều đã trình bày
có thể hiểu, tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm giải quyết vụ án hình sự theo đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng,
đảm bảo lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật
tự pháp luật, đảm bảo sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển
bền vững của xã hội.
Như phần trên đã trình bày, tố tụng hình sự là hình thức tố tụng không
giống như hình thức tố tụng khác ở chỗ, nhà nước giao cho các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án. Tuy nhiên,
nếu chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì không
thể giải quyết được vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ như tinh
thần Điều 10 của BLTTHS:
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi
biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
20
và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội [17, Điều 10].
Có sự tham gia của các chủ thể khác, mà trực tiếp là những người tham
gia tố tụng như: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự. Khi tham gia tố tụng hình sự, những người
tham gia tố tụng nêu trên cũng có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Họ
tham gia tố tụng hình sự không chỉ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng làm rõ sự thật vụ án, mà còn trực tiếp bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình trong các giai đoạn tố tụng từ điều tra đến truy tố, xét
xử. Bằng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, những người tham gia tố
tụng có thể đưa ra những chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo có tội hay
không có tội; họ có những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như thế nào; mức độ
thiệt hại của người bị hại, nguyên đơn dân sự đến đâu v.v.... Mặt khác, chính
sự tham gia của những người tham gia tố tụng vào hoạt động tố tụng hình sự
mới ngăn ngừa được sự phiến diện, một chiều, không khách quan của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cho nên, tố tụng hình sự phải
được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Điều 1 BLTTHS quy định:
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng;
nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố
21
tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các
cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự,
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố
tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm [17, Điều 1].
Như vậy, mục tiêu của tố tụng hình sự cần đạt được là nhằm chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý
công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm
oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Chính vì mục tiêu này
mà hoạt động tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng tiến hành phải bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp
luật. Người phạm tội phải bị xử lý; người bị tội phạm gây nên những thiệt hại
phải được bảo vệ, bồi thường. Việc này không phân biệt người phạm tội cũng
như người bị thiệt hại có thành phân dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo,
thành phần xã hội, địa vị xã hội như thế nào. Chỉ có như vậy mới có thể tạo
nên sự công bằng xã hội, mới có thể bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
22
Như vậy, những vấn đề thuộc tố tụng hình sự và chủ thể tiến hành tố
tụng hình sự; tại sao tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu của tố tụng hình sự tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là gì đã được làm rõ
nên nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp có hai
nội dung chính: Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật; và tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ
người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật. Thể hiện cụ thể nội dung của
nguyên tắc này được phân tích theo trình tự dưới đây:
Thứ nhất, tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật khi các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện tố tụng hình sự là những người tham
gia tố tụng. Họ là người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn
dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người
làm chứng; người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám
định; người phiên dịch. Ngoài ra, trong từng trường hợp cụ thể còn có những
người như: người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, của bị can, của bị
cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, của bị
đơn dân sự, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Quyền và nghĩa vụ của từng người tham gia tố tụng có sự khác biệt
nhưng được thống nhất áp dụng trong mọi vụ án hình sự. Sự thống nhất này
đảm bảo cho sự bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng trong các nội
dung của trình tự giải quyết vụ án. Ví dụ như, người bị tạm giữ, bị can hay bị
cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố
tụng khác nhau nên ngoài những quyền riêng có của từng đối tượng thì họ đều
có chung các quyền khi ở các giai đoạn khác nhau. Chẳng hạn, liên quan đến
23
những quyền riêng, người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ; quyền
của bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì. Việc pháp luật quy định bị can
được biết mình bị khởi tố về tội gì là biểu hiện sự công minh của pháp luật.
Quy định này buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải thận trọng và chỉ khi có đủ
căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự
(BLHS) ngăn cấm mới được ra quyết định khởi tố bị can. Ngoài các đối tượng
là người tham gia tố tụng kể trên, một nhóm đối tượng khác liên quan tới yêu
cầu dân sự trong một vụ án hình sự, bao gồm: nguyên đơn dân sự; bị đơn dân
sự; người có quyền và nghĩa vụ liên quan; phiên dịch… Các đối tượng này
tuy không tham gia sâu vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng có vai
trò là những đối tượng có lợi ích gắn liền với quá trình giải quyết vụ án.
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật đòi hỏi khi xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự cũng
như khi thực thi pháp luật tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho những người tham gia tố tụng có tư
cách pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt
dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Thứ hai, tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ người nào có hành
vi phạm tội để xử lý theo pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Xuất phát từ tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế
độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự
do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tội phạm bao giờ cũng gây nên
hậu quả nhất định cho nhà nước, xã hội, công dân. Do vậy, nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải phát hiện chính xác, nhanh
24
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội. Đây là yêu cầu cao nhất của tố tụng hình sự để bảo
đảm bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật.
Tuy nhiên, việc xử lý người có hành vi phạm tội trước pháp luật chỉ
được nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng. Hoạt động của cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát liên quan đến việc thu
thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội chính là thực hiện
chức năng buộc tội, thực hành quyền công tố. Các cơ quan thực hiện chức
năng buộc tội là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt nhà nước
tiến hành từ các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ đến ra quyết định truy
tố, đọc bản cáo trạng trước phiên toà, đề nghị toà án áp dụng loại và mức hình
phạt. Toàn bộ hoạt động liên quan đến chứng minh, buộc tội là hoạt động của
cơ quan công quyền: quyền chứng minh, buộc tội tại giai đoạn điều tra; và
quyền chứng minh, buộc tội trong giai đoạn xét xử. Cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát, Toà án và những người tiến hành tố tụng có quyền hạn và chịu
trách nhiệm trong giải quyết vụ án tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, khởi tố và bị xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Để làm được
điều này, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách
nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội, không phân
biệt người phạm tội thuộc dân tộc nào, nam hay nữ, theo tín ngưỡng, tôn giáo
nào; thành phần xã hội, địa vị xã hội cao hay thấp. Do vậy, tố tụng hình sự
Việt Nam đòi hỏi đối với người thực hiện hành vi phạm tội thì dù họ là ai,
thuộc dân tộc nào, có thành phần xã hội hoặc địa vị xã hội như thế nào đều bị
xử lý theo pháp luật. Có nghĩa, bất kỳ ai thực hiện hành vi phạm tội thì đều bị
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
25
Chương 2
TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN
BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC PHÁP LUẬT
2.1. Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
2.1.1. Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có
liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật khi tham gia tố tụng liên
quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Vị trí
pháp lý của những người tham gia tố tụng được quy định tại Chương IV của
Bộ luật tố tụng hình sự, theo đó, người tham gia tố tụng có thể chia làm 3
loại: Người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý; Người tham gia tố tụng có
nghĩa vụ pháp lý; và Người tham gia tố tụng đảm bảo công lý.
Người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý là những người tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến
hành tố tụng. Đó là: người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mỗi người khác nhau trong tố tụng hình
sự mà họ có quyền và nghĩa vụ khác nhau. Trong Bộ luật tố tụng hình sự
không có quy định nào phân biệt quyền, nghĩa vụ của mỗi người tham gia tố
tụng liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành
phần xã hội, địa vị xã hội. Cụ thể:
Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ là tên gọi khác nhau qua
từng giai đoạn tố tụng khi họ bị nghi thực hiện tội phạm. Điều 48 BLTTHS
quy định, Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
26
tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú,
đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Đối với một người không bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc không bị bắt phạm tội quả tang; không bị
bắt theo quyết định truy nã hoặc không phải người phạm tội tự thú, đầu thú thì
đối với họ không thể có quyết định tạm giữ và tất nhiên, họ không thể được
gọi là người bị tạm giữ với tư cách người tham gia tố tụng. Khi tham gia tố
tụng, bất kỳ người bị tạ giữ nào không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau là: Được
biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày
lời khai; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực
hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp người bị tạm giữ có quyết định khởi tố bị can (bị
khởi tố về hình sự) thì bất kỳ bị can nào, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau
là: Được biết mình bị khởi tố về tội gì; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ
luật này; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Được nhận quyết định
khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản
kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình
chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố
tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị can phải có mặt
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp
vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị
truy nã (Điều 49 BLTTHS).
27
Trong trường hợp bị can có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì được gọi
là bị cáo. Bất kỳ bị cáo nào, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau là: Được
nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của
Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự; Tham gia phiên toà; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Đề nghị thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa; Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà; Nói lời sau cùng
trước khi nghị án; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; Khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị
cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt
không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Như vậy, với tư cách là người bị tạm giữ, hoặc là bị can, bị cáo, pháp
luật tố tụng hình sự không có quy định này thể hiện có sự phân biệt liên quan
đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội khi quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ khi tham gia tố tụng.
Đối với người tham gia tố tụng với tư cách người bị hại; nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, pháp
luật tố tụng hình sự cũng không có một quy định nào thể hiện có sự phân biệt
liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã
hội, địa vị xã hội khi quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ khi tham gia
tố tụng. Cụ thể, theo Điều 51 BLTTHS:
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản
do tội phạm gây ra. Khi tham gia tố tụng, người bị hại có quyền: Đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo về kết quả điều tra; Đề
28
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị mức bồi thường và các
biện pháp bảo đảm bồi thường; Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến,
tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà
án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Trong
trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy
định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Người bị
hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì
có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình
sự. Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp
của họ có những quyền quy định tại Điều này [17, Điều 51].
Khác với người bị hại, nguyên đơn dân sự, theo Điều 52 BLTTHS quy định:
Là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra
và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự hoặc
người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật,
yêu cầu; Được thông báo về kết quả điều tra; Đề nghị thay đổi
người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này; Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp
bảo đảm bồi thường; Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh
luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của
Toà án về phần bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự phải có
29
mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án
và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi
thường thiệt hại [17, Điều 52].
Khi đã có nguyên đơn dân sự thì phải có bị đơn dân sự. Bị đơn dân sự,
theo quy định tại Điều 53 BLTTHS:
Là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu
trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự; Đưa ra tài
liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo kết quả điều tra có liên quan
đến việc đòi bồi thường; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường
thiệt hại. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và trình bày trung thực những tình
tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại [17, Điều 53].
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Bộ luật tố tụng hình
sự không quy định cụ thể. Nhưng họ là người có trách nhiệm pháp lý liên
quan đến giải quyết vụ án như trách nhiệm đối với tiền, tài sản có liên quan
đến tội phạm và người phạm tội. Ví dụ, họ là người cho người phạm tội mượn
tài sản; được người phạm tội cho tài sản hoặc họ giữ hộ tài sản của người
phạm tội mà họ không biết tài sản đó do phạm tội mà có. Khi tham gia tố
tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện
hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tham gia phiên
30
toà; phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những vấn đề
trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; Khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và trình bày trung thực những tình
tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.
Như vậy, đối với người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý, pháp luật
tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi loại người có tư cách
pháp lý giống nhau thì có quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt dân
tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
Người tham gia tố tụng có nghĩa vụ pháp lý là những người có trách
nhiệm tham gia tố tụng để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ
những tình tiết của vụ án. Đó là: người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mỗi người tham gia tố tụng có
nghĩa vụ pháp lý khác nhau trong tố tụng hình sự mà họ có quyền và nghĩa vụ
khác nhau. Trong Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định nào phân biệt
quyền, nghĩa vụ của mỗi người tham gia tố tụng này liên quan đến các yếu tố
dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Cụ
thể: Người làm chứng, theo Điều 55 BLTTHS, là người biết được những tình
tiết liên quan đến vụ án và được Cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến làm
chứng. Khi tham gia tố tụng, người làm chứng có quyền:
Yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của
mình khi tham gia tố tụng; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Được cơ quan triệu
tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của
31
pháp luật. Người làm chứng có nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý
không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ
gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. Người
làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do
chính đáng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ
luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 55].
Người giám định, theo Điều 60 BLTTHS, là người có kiến thức cần
thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo
quy định của pháp luật. Khi tham gia tố tụng Người giám định có quyền:
Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải
giám định; Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài
liệu cần thiết cho việc kết luận; Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời
khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám
định; Từ chối việc thực hiện giám định trong trường hợp thời gian
không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ
hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt
quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình; Ghi riêng ý kiến kết
luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết
luận chung trong trường hợp giám định do một nhóm người giám
định tiến hành. Người giám định phải có mặt theo giấy triệu tập của
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; không được tiết lộ bí mật
điều tra mà họ biết được khi tham gia tố tụng với tư cách là người
giám định. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có
lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của
32
Bộ luật hình sự. Người giám định kết luận gian dối thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 60].
Việc bảo đảm tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự. Do
tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt nên những người
tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Trong
trường hợp người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt thì các cơ quan tiến
hành tố tụng phải có phiên dịch cho họ (Điều 24 BLTTHS).
Người phiên dịch, Điều 61 BLTTHS quy định, do Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố
tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch phải có mặt theo giấy
triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và phải dịch trung thực;
không được tiết lộ bí mật điều tra; nếu dịch gian dối thì người phiên dịch phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 61].
Như vậy, việc xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng có nghĩa vụ
pháp lý (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) không có quy
định nào phân biệt tư cách pháp lý có liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam
nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Cùng với tư cách
pháp lý là người làm chứng thì họ có quyền và nghĩa vụ như nhau. Tương tự
như thế đối với người giám định, người phiên dịch.
Người tham gia tố tụng đảm bảo công lý là những người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý.
Đó là: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Người bào chữa là người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng.
Điều 56 BLTTHS quy đinh, Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại
diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.
33
Điều 58 BLTTHS quy định, khi tham gia tố tụng, Người bào chữa có quyền:
Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị
can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị
can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên
bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định
tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Đề nghị Cơ quan
điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có
mặt khi hỏi cung bị can; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người
này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật
công tác; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Gặp người bị tạm giữ; gặp
bị can, bị cáo đang bị tạm giam; Đọc, ghi chép và sao chụp những
tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết
thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Tham gia hỏi, tranh luận
tại phiên toà; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết
định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [17, Điều 58].
Người bào chữa có nghĩa vụ:
Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ
34
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ
vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được
lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này; Giúp người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không
có lý do chính đáng; Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được
mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối,
cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện
việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Người bào
chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị
thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại
thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [17].
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự, theo Điều 59 BLTTHS, có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân
hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận.
Khi tham gia tố tụng, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền:
Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đọc, ghi chép và sao chụp
những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi
của đương sự sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên toà;
35
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định
của Bộ luật này. Đối với đương sự là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi
của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai
của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của
Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo
vệ. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ: Sử dụng mọi
biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ
án; Giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ [17].
Như vậy, trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan
đến người tham gia tố tụng để bảo đảm công lý không có quy định nào phân
biệt tư cách pháp lý có liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng,
tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, cho dù người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự có thể là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân hoặc người khác
được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận.
Để bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật, pháp luật tố
tụng hình sự quy định trình tự giải quyết vụ án qua các giai đoạn tố tụng từ
khi khởi tố điều tra vụ án đến xét xử vụ án hình sự. Tuân thủ nguyên tắc bảo
đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật về việc tố tụng hình sự được tiến
hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật, Bộ luật tố tụng
hình sự đã quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử từ
chương VIII đến Chương XXXV đối với người có hành vi phạm tội.
36
Nói chung tại các chương này, trình tự, thủ tục khởi tố,điều tra, truy tố,
xét xử đối với người có hành vi phạm tội không có quy định nào thể hiện có
sự phân biệt đối xử đối với người phạm tội theo các yếu tố dân tộc, nam nữ,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội và đều thể hiện rõ quan
điểm bất cứ người nào phạm tội đều có thể bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
để xử lý theo pháp luật.
2.1.2. Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật có những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, Điều 5 BLTTHS quy định, Tố tụng hình sự tiến hành theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân
tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội [17, Điều 5].
Tuy nhiên, tố tụng hình sự tiến hành dường như chỉ đặt ra sự bình đẳng của
các công dân là những người tham gia tố tụng. Còn những công dân là những
người tiến hành tố tụng lại không được nêu một cách cụ thể, rõ ràng. Ví dụ,
nếu cho rằng, tố tụng hình sự có 3 chức năng chính: chức năng buộc tội (chủ
yếu là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, điều tra viên, kiểm sát viên), chức năng
gỡ tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư bào chữa cho họ) và chức năng
xét xử (tòa án, thẩm phán, hội thẩm). Nếu vậy, giữa những công dân có chức
năng buộc tội và những công dân có chức năng gỡ tội có bình đẳng với nhau
về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm không; ai sẽ là người bảo đảm sự bình đẳng
của các công dân này. Đây có thẻ coi là điều hết sức vô lý khi quy định về
quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
Thứ hai, đối với bị can, bị cáo, những quy định về việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn, cụ thể là biện pháp tạm giam đã có sự phân biệt. Cụ thể,
Điều 88 BLTTHS quy định:
37
Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong
những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình
phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc
cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba
mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư
trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt
theo lệnh truy nã; Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến
việc điều tra, truy tố, xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an
ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với
họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Tương tự như thế, Điều
303 BLTTHS quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể
bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80,
81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường
hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm
giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86,
88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm
tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng [17, Điều 88].
Vậy, có phải đã có sự không bình đẳng trước pháp luật tố tụng hình sự,
hay nói cách khác đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
công dân trước pháp luật khi có những quy định liên quan đến việc không áp
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trịLuận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Luận văn: Pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình ĐịnhLuận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
Luận văn: Thực hiện pháp luật về giáo dục và đào tạo ở Bình Định
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOTTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, HOT
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dânBảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
Bảo đảm quyền trẻ em trong các vụ án xâm hại tình dục tại Viện Kiểm sát nhân dân
 
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Pháp luật về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đLuận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 

Similar to Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

Similar to Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật (20)

Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAYLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạtBảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAYLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử sơ thẩm, HAY
 
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.docBảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tộiBảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội
 
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOTĐề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Recently uploaded (20)

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 

Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ VĂN TÚ NGUY£N T¾C B¶O §¶M QUYÒN B×NH §¼NG CñA MäI C¤NG D¢N TR¦íC PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ VĂN TÚ NGUY£N T¾C B¶O §¶M QUYÒN B×NH §¼NG CñA MäI C¤NG D¢N TR¦íC PH¸P LUËT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Văn Tú
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ............... 5 1.1. Những khái niệm có liên quan...................................................... 5 1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật ................................................................................ 5 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.......................................................................... 9 1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.......................................................................................... 13 1.2.1. Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự ................ 13 1.2.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.............................. 16 Chương 2: TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC PHÁP LUẬT................................................................................ 25
  • 5. 2.1. Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật........25 2.1.1. Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật ........25 2.1.2. Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 36 2.2. Tình hình thực thi pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..... 43 2.2.1. Những kết quả trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 43 2.2.2. Những tồn tại trong thực thi pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.... 46 2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật........................................................................................ 55 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHÁP LUẬT .....59 3.1. Quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật theo tinh thần cải cách tư pháp ....................... 59 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..................................................................... 61 3.3. Các giải pháp khác...................................................................... 66 KẾT LUẬN................................................................................................. 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 74
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ Luật hình sự BLTTHS: Bộ Luật tố tụng hình sự VKSNDTC: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Số lượng vụ án hình sự được điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2010 đến 2014 43
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) đã ghi nhận: Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người đó trong các vụ kiện dân sự… [10]. Đây là cơ sở cao nhất về quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận trong một trong những văn kiện quốc tế nền tảng về quyền con người. Trong pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự là một nội dung của quyền bình đẳng trước pháp luật - một quyền đã được Hiến pháp Việt Nam ghi nhận tại Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp năm 2013. Quyền bình đẳng trước pháp luật và cụ thể là bình đẳng trong hoạt động xét xử và tố tụng hình sự được hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, đưa ra các yêu cầu tranh luận trước tòa án và phải được tòa án tôn trọng, tạo điều kiện. Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án như sau: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [17, Điều 19].
  • 9. 2 Để bảo đảm được quyền bình đẳng trước tòa án, trong quá trình xét xử, người tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, điều khiển phiên tòa đúng quy định của pháp luật, không được thiên vị hay gây trở ngại cho bất cứ bên nào. Tuy nhiên những vụ việc gây xôn xao dư luận gần đây liên quan tới hành vi vi phạm nguyên tắc hiến định này trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy thực tiễn thực thi và kiểm sát tư pháp liên quan tới nguyên tắc này hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo ra niềm tin, tính thuyết phục của các phán quyết của cơ quan xét xử và thực thi pháp luật. Với lý do trên, tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài luận văn: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”, để tiến hành nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan tới nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự, có thể kể tới một số công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận như: Luận án Tiến sĩ Luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Nguyễn Văn Hiển, Học viện Khoa học xã hội, năm 2011; Luận án Tiến sĩ Luật học “Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trong xét xử hình sự ở Việt Nam hiện nay” của TS. Hoàng Hùng Hải, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của người bào chữa trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS Đỗ Đình Nghĩa, năm 2004…cùng nhiều công trình nghiên cứu có giá trị khác. Tuy nhiên, thực tế các công trình nghiên cứu trực tiếp về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự hiện này còn hiếm hoi, cơ sở dữ liệu lí luận và thực tiễn còn hạn chế nên phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần đào sâu các nội dung lí luận liên quan để bổ sung vào kho lí luận phong phú trong lĩnh vực tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 10. 3 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh lí luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thông qua quá trình phân tích, làm rõ nội dung nguyên tắc trong từng giai đoạn tố tụng, áp dụng với từng đối tượng chủ thể tham gia tố tụng, các quy định pháp luật cụ thể được áp dụng trong quy trình tố tụng. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và tham khảo các ví dụ thực tiễn liên quan, các trường hợp vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong quá trình tiến hành tố tụng cũng là một mục đích của luận văn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau: Một là, làm rõ những nội hàm lí luận của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Hai là, phân tích và làm rõ thực tiễn tố tụng áp dụng nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”. Ba là, trên cơ sở lí luận và thực tiễn để khái quát các nội dung liên quan và đề xuất các cơ chế để thực hiện nghiêm túc nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời gian tới. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các lí luận về nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự. Đồng thời, luận văn cũng nhấn mạnh những quy định pháp luật tố tụng hình
  • 11. 4 sự liên quan tới các nội dung của nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật”. 3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Với cơ sở và thành quả lí luận và thực tiễn được nghiên cứu, luận văn mong muốn đóng góp những kết quả khái qua tổng quan cũng như cung cấp những khía cạnh lí luận mới liên quan tới nguyên tắc “bảo vệ quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu khoa học tham khảo, tài liệu giảng dạy hoặc cơ sở tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu khoa học hoặc tham vấn lập chính sách và xây dựng pháp luật. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có 3 chương: Chương 1. Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự. Chương 2. Tình hình xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Chương 3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự.
  • 12. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm bình đẳng và quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy phạm pháp luật về quyền được đối xử một cách như nhau, công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Lý tưởng bình đẳng dựa trên nguyên lý căn bản là con người sinh ra đều như nhau, đều có chung dòng máu đỏ và nước mắt mặn và đều xứng đáng được hưởng quyền lợi như nhau. Mọi ranh giới như: giai cấp, màu da, chủng tộc, giới tính, trình độ, địa vị … không thể quyết định và thay đổi bản chất bình đẳng giữa mọi người. Qua đó cho thấy “bình đẳng” là một nguyên lý căn bản được chấp nhận bởi mọi quốc gia, mọi dân tộc. “Bình đẳng” là một khái niệm chung của cả nhân loại, nó hướng đến việc khẳng định quyền lợi ngang nhau của mọi người, mọi đối tượng, mọi nhóm người trong xã hội. Bình đẳng là mục tiêu phấn đấu của mọi dân tộc, mọi xã hội tiến bộ và là lý tưởng chung của mọi cuộc cách mạng trên thế giới. Bình đẳng có nghĩa là bình đẳng về cơ hội, nghĩa là mọi người đều được tạo một cơ hội như nhau để phấn đấu và vươn lên trong xã hội, nếu ai nỗ lực nhiều hơn, học giỏi hơn, làm việc hiệu quả hơn, tất nhiên sẽ thu được nhiều lợi ích hơn. Hơn nữa, bình đẳng cũng
  • 13. 6 bao gồm cả việc tạo điều kiện cho những nhóm người có khó khăn hơn như người nghèo, người già, trẻ em, người tàn tật, dân tộc thiểu số, người ở vùng sâu vùng xa… giảm bớt những khó khăn của họ. Bình đẳng, là nền tảng, cơ sở và là nguyên lý cơ bản của mọi thiết chế xã hội, mọi quy định, luật lệ. Xã hội càng tiến bộ thì tính bình đẳng giữa mọi công dân càng cao. Trong một xã hội dân chủ pháp trị, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, kể cả tổng thống, nếu vi phạm pháp luật cũng phải ra tòa như một thường dân. Bình đẳng là mục tiêu ban đầu và lâu dài của mọi nỗ lực xây dựng xã hội, là thước đo trình độ văn minh và tiến bộ của một đất nước. Theo Ths. Đinh Thế Hưng - Viện Nhà nước và Pháp luật, bình đẳng là cội nguồn của tự do còn pháp luật là sự giới hạn cần thiết cho cả tự do và bình đẳng. Bình đẳng được xét dưới hai góc độ là bình đẳng thực tế và bình đẳng pháp lý. Mác đã nói: “Về bản chất, pháp luật chỉ có thể là sự vận dụng một đại lượng ngang bằng với những người khác nhau”. Đại lượng ngang bằng ở đây là pháp luật. Bởi lẽ, các giá trị về bình đẳng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống được xã hội thông qua nhà nước và thể chế hóa thành pháp luật. Trong cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Bình đẳng về trách nhiệm pháp lí là bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lí bằng các chế tài theo quy định của pháp luật. Như vậy có thể hiểu, bình đẳng là sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ của mọi công dân trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Khi nói đến quyền bình đẳng của mọi công dân là nói đến sự ghi nhận quyền này trong pháp luật. Pháp luật trở thành thước đo mang tính chuẩn mực cho sự bình đẳng bởi đỉnh cao nhất của các hệ thống lập pháp quy gọn vào hai mục tiêu: Tự do và bình đẳng. Quyền bình đẳng là thành quả đấu tranh lâu dài của nhân loại tiến bộ qua các thời kì lịch sử khác nhau, là một quyền cơ bản của mọi công dân, cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản được thể chế
  • 14. 7 hóa trong nhiều văn kiện quốc tế và quốc gia. Điều 6 và Điều 7 Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 tuyên bố “Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi”. “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất cứ sự phân biệt nào”. Điều 26 Công ước về quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc (Việt Nam gia nhập Công ước này ngày 24/9/1982) cụ thể hóa hơn về cơ chế bảo vệ quyền bình đẳng trước pháp luật như sau: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hoặc các địa vị khác [10, Điều 26]. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quan hệ về bình đẳng chỉ được xác lập trên cơ sở của tự do và tự nguyện. Khi giải thích về quyền bình đẳng trước pháp luật, Lênin cho rằng: “Khi những người theo chủ nghĩa xã hội nói về bình đẳng thì có nghĩa là sự bình đẳng mang tính xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ không phải sự bình đẳng về khả năng thể chất hoặc tinh thần”. Từ đó có thể thấy, quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Ở Việt Nam, câu đầu tiên trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng”. Ý tưởng về sự bình đẳng này được trích dẫn từ tuyên ngôn độc
  • 15. 8 lập của Mỹ và Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp. Thực tế, quyền bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận nhất quán trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 – đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp lý Việt Nam. Điều 6, 7 Hiến pháp năm 1946 – bản hiến pháp đầu tiên sau ngày độc lập với nhiều tư tưởng lập hiến tiến bộ của Hồ Chủ tịch có quy định: Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”. “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình [13, Điều 6,7]. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 tiếp tục khẳng định “Công dân có quyền bình đẳng trước pháp luật” (Điều 51). Trước xu thế hội nhập quốc tế, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp, với những điểm mới quan trọng, nổi bật là đề cao quyền con người. Cụ thể Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã quy định quyền con người tách khỏi quyền công dân và được quy định tại Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Theo đó, nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 16 “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. So với các quy định của các bản Hiến pháp trước đây thì quy định Hiến pháp sửa đổi năm 2013 về quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện đầy đủ, cụ thể hơn. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định bình đẳng trước pháp luật là quyền con người theo hướng mở rộng đối tượng có quyền bình đẳng trước pháp luật; khẳng định quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi người được công nhận trong tất cả lĩnh vực, bao gồm đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với mọi người trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ
  • 16. 9 do “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác” (Điều 15 khoản 2). Công dân ở bất kỳ địa vị nào dù là cán bộ, công chức hay người lao động, dù là người có chức, có quyền hay là một người dân bình thường đều phải chịu trách nhiệm trước nhà nước, trước pháp luật về mỗi hành vi, mỗi việc làm của mình. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật. Công dân có hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài theo quy định của pháp luật không phân biệt chức vụ, nghề nghiệp, tuổi tác và địa vị xã hội. Như vậy, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là bình đẳng về quyền, nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật, bao hàm cả việc bình đẳng về trách nhiệm pháp lý của công dân mà không có sự phân biệt về giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, lứa tuổi, chức vụ, nghề nghiệp. 1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật Nguyên tắc, theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để làm việc, xem xét” [26]. Tuy nhiên nguyên tắc trong tố tụng còn có những cách hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự là kinh chỉ nam cho mọi hoạt động tố tụng và được quy định trực tiếp trong Bộ luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nói đến nguyên tắc của luật tố tụng hình sự phải hiểu đó là những nguyên tắc của một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Những nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, mà còn cho hoạt động xây dựng pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn [24]. Do vậy, trong các giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số trường luật và khoa luật đều đặt với cái tên là: "Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự.
  • 17. 10 Quan điểm khác không đồng ý với nội dung của quan điểm thứ nhất về cách gọi những nguyên tắc này là: Những nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, mà là Những nguyên tắc của tố tụng hình sự, với lý do, trong thực tiễn và ngay cả trong sách báo pháp lý, cho đến nay vẫn không ít người sử dụng khái niệm các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Sự nhầm lẫn này bắt nguồn từ việc coi tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là một. Trong lúc đó thì chính nguyên tắc tố tụng hình sự lại chính là tiền đề, là căn cứ để xây dựng luật pháp tố tụng hình sự chứ không phải ngược lại [24]. Như vậy, đang tồn tại hai cách hiểu về "Những nguyên tắc cơ bản" được quy định tại Chương 2 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để hiểu như thế nào cho đúng về hệ thống những nguyên tắc cơ bản này cần thiết xác định vị trí của các điều luật này trong Bộ luật tố tụng hình sự, với tư cách là một văn bản pháp luật nói chung. Chúng tôi đồng ý với quan điểm thứ hai vì, trước tiên, nguyên tắc là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở để làm việc, xem xét. Những nguyên tắc trong pháp luật bao giờ cũng là sự thể hiện hệ thống quan điểm của nhà nước về pháp luật nói chung. Dựa trên những quan điểm này, các quy phạm pháp luật trong một văn bản luật được soạn thảo nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Tiếp theo, hoạt động tố tụng hình sự và pháp luật tố tụng hình sự là hai phạm trù khác nhau. Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của những người tiến hành tố tụng. Còn pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống những văn bản pháp luật tố tụng bao gồm những quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Điều đó có nghĩa rằng, hệ thống
  • 18. 11 những nguyên tắc cơ bản này có ý nghĩa trong xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và có ý nghĩa trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung. Cho nên, đây thực chất là những nguyên tắc trong tố tụng hình sự. Cuối cùng, theo lý luận chung về pháp luật thì một văn bản luật (đạo luật) chứa đựng nhiều quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh một hoặc một nhóm quan hệ xã hội có những đặc điểm chung giống nhau. Như vậy, một trong những vấn đề cốt lõi nhất của quy phạm pháp luật nói chung là phải có khả năng điều chỉnh quan hệ xã hội thông qua các hành vi của các chủ thể mà pháp luật điều chỉnh. Do vậy, văn bản luật phải chứa đựng trong mình tính bắt buộc phải thực hiện nhằm mục đích ngăn ngừa, răn đe, trừng phạt đối với những hành vi vi phạm pháp luật. Nếu những quy định trong một văn bản pháp luật không thoả mãn những yêu cầu trên và không có khả năng điều chỉnh những hành vi nhất định thì văn bản pháp luật đó thiếu tính khả thi và không thể áp dụng được trong thực tế cuộc sống. Điều đó có nghĩa rằng, trước khi xây dựng các quy phạm pháp luật trong một đạo luật nói chung, các nhà làm luật phải đưa ra được những tiêu chí cần phải đạt được của văn bản luật đó như: mục đích, nhiệm vụ, nguyên tắc, phương châm, phương pháp điều chỉnh v.v…, hay còn gọi là đưa ra những nguyên tắc để xây dựng quy phạm pháp luật trong một văn bản pháp luật. Cho nên có thể hiểu, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là sự thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách của Nhà nước ta; là những định hướng cơ bản trong xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nhằm hoàn thiện quá trình tố tụng hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ trong phạm vi toàn quốc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; tổ chức, động viên được các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự nói riêng và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
  • 19. 12 Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được đưa ra làm định hướng cho việc xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự và thực thi các quy phạm pháp luật này trong thực tiễn liên quan đến quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên tắc này thể hiện sự bình đẳng về các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mọi công dân trước nhà nước, pháp luật, là một trong những quyền tắc của nền dân chủ. Trong hoạt động tố tụng hình sự, quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật được chi phối toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự liên quan đến các chủ thể tố tụng hình sự (cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng) khi phát sinh và giải quyết vụ án hình sự. Hay nói cách khác, nguyên tắc này bảo đảm cho việc thi hành nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng hình sự đối với mọi công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội và không loại trừ bất kỳ một đối tượng, chủ thể phạm tội hình sự nào không phải theo đuổi quá trình tố tụng hình sự theo quy định pháp luật. Người phạm tội phải bị xử lý theo pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Có thể về trình tự, mỗi vụ án và mỗi chủ thể có thể có những điểm đặc thù về trình tự tố tụng, có thể được rút ngắn một hoặc một vài giai đoạn (tố tụng rút gọn) nhưng về cơ bản bất kỳ người phạm tội hình sự phải bị xét xử theo một trình tự tố tụng hình sự luật định. Mặt khác, nguyên tắc bảo đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho những người tham gia tố tụng có cùng tư cách pháp lý có quyền bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ pháp lý ngang nhau, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Sự bình đẳng đối với các vụ án hình sự cũng như những cá nhân, tổ chức có
  • 20. 13 liên quan trong một vụ án hình sự còn thể hiện ở việc áp dụng một quy trình giải quyết vụ án hình sự thống nhất theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật là tư tưởng chủ đạo chi phối toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự phải bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. 1.2. Cơ sở pháp lý và nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự 1.2.1. Cơ sở pháp lý hình thành nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự Cơ sở, theo Từ điển tiếng Việt, là nền tảng để tồn tại và phát triển. Cơ sở pháp lý là nền tảng pháp lý để xây dựng các quy phạm pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự cũng được xây dựng trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng các văn bản pháp luật nói chung và Luật tố tụng hình sự nói riêng. Thắng lợi của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân vào Tháng Tám năm 1945 đưa đến việc hình thành Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
  • 21. 14 sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Có thể nói bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc vào ngày 2/9/1945, mặc dù không phải là văn bản pháp luật, nhưng là lời tuyên bố chính thức của Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa trước toàn thể thế giới rằng, nước Việt Nam là một nước độc lập và mọi người dân Việt Nam được sinh ra đều có quyền bình đẳng, ngang nhau về quyền lợi và nghĩa vụ như người dân của các nước khác trên thế giới. Để khẳng định bản chất của nhà nước công nông, Hiến pháp năm 1946, văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước Việt Nam, đã quy định về quyền bình đẳng của mọi người dân Việt Nam rằng: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo. Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá. Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình. Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện [13]. Trên cơ sở Hiến pháp 1946, các Hiến pháp tiếp theo vào các năm 1959, 1980, 1992 và 2013 của Nhà nước Việt Nam tiếp tục khẳng định lại quan điểm mọi người dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật. Ví dụ, Điều 22, Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật. Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị,
  • 22. 15 kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình” [14]. Điều 54 và Điều 55 Hiến pháp 1980 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” [15]. Điều 51 và Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định: Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật [18]. Hiến pháp năm 2013 quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội [21]. Như vậy, cơ sở pháp lý để xây dựng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự đều xuất phát trên cơ sở những quy định Hiến pháp (Hiến định) với tư cách đạo luật cơ bản của nhà nước ta trong các thời kỳ khác nhau để xây dựng những quy phạm pháp luật tố tụng hình sự trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự mà điển hình nhất là Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước ta được xây dựng trên cơ sở Hiến pháp năm 1980. Tại Điều 4 của Bộ luật tố tụng hình sự này quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi
  • 23. 16 công dân trước pháp luật với nội dung: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [16]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tiếp tục quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật cũng với nội dung, mặc dù câu chữ có được bổ sung, hoàn chỉnh: “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [20]. Điều này cho thấy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự được xây dựng có căn cứ pháp lý là được coi là phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận. 1.2.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật trong tố tụng hình sự Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi: Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và với nội dung: Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật [20, Điều 5]. Theo Điều luật này, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp có hai nội dung chính: Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; và tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, để hiểu rõ nội dung của nguyên tắc này cần hiểu rõ những nội dung khác liên quan như: những vấn đề thuộc tố tụng hình sự và chủ thể
  • 24. 17 tiến hành tố tụng hình sự; tại sao tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu của tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là gì. Điều 5 BLTTHS hình sự quy định: Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, tố tụng hình sự là gì. Thực ra, tố tụng hình sự là thủ tục, hay cách thức tiến hành giải quyết vụ án hình sự. Khác với các hình thức tố tụng khác, tố tụng hình sự là hình thức tố tụng do cơ quan nhà nước, mà cụ thể là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã gây nên những thiệt hại cho quyền lợi của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bằng việc điều tra, xử lý về hình sự đối với bất kỳ hành vi phạm tội của cá nhân nào. Do vậy, tố tụng hình sự được phát sinh khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với người có hành vi xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Đối với hình thức tố tụng khác (dân sự, kinh tế, hành chính…) được phát sinh chỉ khi có những tranh chấp giữa các bên có lợi ích hợp pháp khác nhau cần phải được phân giải. Các chủ thể những tranh chấp này không tự mình giải quyết được mà cần thiết phải có sự can thiệp của cơ quan tài phán (toà án). Trên cơ sở nội dung tranh chấp về lợi ích và quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động tố tụng hướng vào việc phân định đúng sai để đưa ra các quyết định phù hợp với quy định của pháp luật. Thế nhưng, đối với tố tụng hình sự, không chỉ đơn thuần là việc việc giải quyết tranh chấp, mà Nhà nước có trách nhiệm đứng ra giải quyết trên cơ sở pháp luật về bảo vệ quyền lợi của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi có hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, gây nên những thiệt hại nhất định theo quy định của pháp luật hình sự. Cơ quan điều
  • 25. 18 tra được Nhà nước giao nhiệm vụ thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội; Viện Kiểm sát được nhà nước giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố, buộc tội đối với người phạm tội và Toà án với tư cách là một bộ phận của cơ quan quyền lực tư pháp đưa ra kết luận cuối cùng về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, loại và mức hình phạt cần được áp dụng với người thực hiện hành vi nguy hiểm đó. Những quyết định trong bản án của Toà án đều nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có tính cưỡng chế nhà nước. Do vậy, hoạt động tố tụng hình sự chỉ được phát sinh khi có sự gây thiệt hại đến mức phải xử lý về hình sự đối với người có hành vi xâm hại vào quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân. Do tố tụng hình sự đụng chạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân mà hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi phải là hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chính pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động tố tụng hình sự. Hoạt động của các chủ thể tố tụng hình sự phải tuân theo những quy định của Hiến pháp, pháp luật. Chỉ khi tuân theo pháp luật mới có thể giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng là đặc biệt quan trọng không chỉ có ý nghĩa xử lý công bằng vụ án hình sự, mà còn tạo dựng lòng tin của nhân dân và xã hội vào hệ thống các cơ quan tư pháp. Mặt khác, hoạt động tố tụng hình sự phải tuân thủ những quy tắc, trình tự rất chặt chẽ từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc. Những quy tắc, trình tự này được thể chế hoá bằng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hình sự phải được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh mới đảm bảo thể hiện rõ đặc tính quyền lực nhà nước thực sự dân chủ, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác và
  • 26. 19 đúng pháp luật. Không phải ngẫu nhiên, hoạt động tố tụng hình sự phải do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được nhà nước giao thẩm quyền thực hiện. Đối với vụ án hình sự, việc giải quyết vụ án phải có sự tham gia của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án với những người tiến hành tố tụng là Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và một số cơ quan bổ trợ tư pháp tiến hành. Hoạt động tố tụng hình sự phải do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiến hành trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng do nhà nước ban hành. Đồng thời để đảm bảo sự khách quan trong giải quyết vụ án, pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định rất chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Từ tất cả những điều đã trình bày có thể hiểu, tố tụng hình sự là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết vụ án hình sự theo đúng pháp luật, phù hợp với lẽ công bằng, đảm bảo lòng tin của nhân dân và xã hội vào pháp luật, góp phần duy trì trật tự pháp luật, đảm bảo sự an toàn pháp lý cho cá nhân, sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội. Như phần trên đã trình bày, tố tụng hình sự là hình thức tố tụng không giống như hình thức tố tụng khác ở chỗ, nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án. Tuy nhiên, nếu chỉ có các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì không thể giải quyết được vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ như tinh thần Điều 10 của BLTTHS: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội
  • 27. 20 và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội [17, Điều 10]. Có sự tham gia của các chủ thể khác, mà trực tiếp là những người tham gia tố tụng như: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Khi tham gia tố tụng hình sự, những người tham gia tố tụng nêu trên cũng có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Họ tham gia tố tụng hình sự không chỉ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng làm rõ sự thật vụ án, mà còn trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giai đoạn tố tụng từ điều tra đến truy tố, xét xử. Bằng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, những người tham gia tố tụng có thể đưa ra những chứng cứ chứng minh bị can, bị cáo có tội hay không có tội; họ có những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như thế nào; mức độ thiệt hại của người bị hại, nguyên đơn dân sự đến đâu v.v.... Mặt khác, chính sự tham gia của những người tham gia tố tụng vào hoạt động tố tụng hình sự mới ngăn ngừa được sự phiến diện, một chiều, không khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cho nên, tố tụng hình sự phải được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Điều 1 BLTTHS quy định: Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố
  • 28. 21 tụng; quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [17, Điều 1]. Như vậy, mục tiêu của tố tụng hình sự cần đạt được là nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Chính vì mục tiêu này mà hoạt động tố tụng hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành phải bảo đảm cho mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Người phạm tội phải bị xử lý; người bị tội phạm gây nên những thiệt hại phải được bảo vệ, bồi thường. Việc này không phân biệt người phạm tội cũng như người bị thiệt hại có thành phân dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội như thế nào. Chỉ có như vậy mới có thể tạo nên sự công bằng xã hội, mới có thể bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
  • 29. 22 Như vậy, những vấn đề thuộc tố tụng hình sự và chủ thể tiến hành tố tụng hình sự; tại sao tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và mục tiêu của tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là gì đã được làm rõ nên nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp có hai nội dung chính: Tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; và tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật. Thể hiện cụ thể nội dung của nguyên tắc này được phân tích theo trình tự dưới đây: Thứ nhất, tố tụng hình sự được tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Mọi công dân bình đẳng trước pháp luật khi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện tố tụng hình sự là những người tham gia tố tụng. Họ là người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định; người phiên dịch. Ngoài ra, trong từng trường hợp cụ thể còn có những người như: người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, của bị can, của bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, của bị đơn dân sự, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Quyền và nghĩa vụ của từng người tham gia tố tụng có sự khác biệt nhưng được thống nhất áp dụng trong mọi vụ án hình sự. Sự thống nhất này đảm bảo cho sự bình đẳng giữa những người tham gia tố tụng trong các nội dung của trình tự giải quyết vụ án. Ví dụ như, người bị tạm giữ, bị can hay bị cáo chỉ là các tên gọi khác nhau của cùng một người khi ở các giai đoạn tố tụng khác nhau nên ngoài những quyền riêng có của từng đối tượng thì họ đều có chung các quyền khi ở các giai đoạn khác nhau. Chẳng hạn, liên quan đến
  • 30. 23 những quyền riêng, người bị tạm giữ được biết lý do mình bị tạm giữ; quyền của bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì. Việc pháp luật quy định bị can được biết mình bị khởi tố về tội gì là biểu hiện sự công minh của pháp luật. Quy định này buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải thận trọng và chỉ khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự (BLHS) ngăn cấm mới được ra quyết định khởi tố bị can. Ngoài các đối tượng là người tham gia tố tụng kể trên, một nhóm đối tượng khác liên quan tới yêu cầu dân sự trong một vụ án hình sự, bao gồm: nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền và nghĩa vụ liên quan; phiên dịch… Các đối tượng này tuy không tham gia sâu vào quá trình giải quyết vụ án hình sự nhưng có vai trò là những đối tượng có lợi ích gắn liền với quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật đòi hỏi khi xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự cũng như khi thực thi pháp luật tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho những người tham gia tố tụng có tư cách pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Thứ hai, tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ người nào có hành vi phạm tội để xử lý theo pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Xuất phát từ tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tội phạm bao giờ cũng gây nên hậu quả nhất định cho nhà nước, xã hội, công dân. Do vậy, nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải phát hiện chính xác, nhanh
  • 31. 24 chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đây là yêu cầu cao nhất của tố tụng hình sự để bảo đảm bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, việc xử lý người có hành vi phạm tội trước pháp luật chỉ được nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Hoạt động của cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát liên quan đến việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội chính là thực hiện chức năng buộc tội, thực hành quyền công tố. Các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội là những cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay mặt nhà nước tiến hành từ các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ đến ra quyết định truy tố, đọc bản cáo trạng trước phiên toà, đề nghị toà án áp dụng loại và mức hình phạt. Toàn bộ hoạt động liên quan đến chứng minh, buộc tội là hoạt động của cơ quan công quyền: quyền chứng minh, buộc tội tại giai đoạn điều tra; và quyền chứng minh, buộc tội trong giai đoạn xét xử. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Toà án và những người tiến hành tố tụng có quyền hạn và chịu trách nhiệm trong giải quyết vụ án tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, khởi tố và bị xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội. Để làm được điều này, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội, không phân biệt người phạm tội thuộc dân tộc nào, nam hay nữ, theo tín ngưỡng, tôn giáo nào; thành phần xã hội, địa vị xã hội cao hay thấp. Do vậy, tố tụng hình sự Việt Nam đòi hỏi đối với người thực hiện hành vi phạm tội thì dù họ là ai, thuộc dân tộc nào, có thành phần xã hội hoặc địa vị xã hội như thế nào đều bị xử lý theo pháp luật. Có nghĩa, bất kỳ ai thực hiện hành vi phạm tội thì đều bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội.
  • 32. 25 Chương 2 TÌNH HÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA MỌI CÔNG DÂN TRƯỚC PHÁP LUẬT 2.1. Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự theo nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật 2.1.1. Những kết quả trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật khi tham gia tố tụng liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng. Vị trí pháp lý của những người tham gia tố tụng được quy định tại Chương IV của Bộ luật tố tụng hình sự, theo đó, người tham gia tố tụng có thể chia làm 3 loại: Người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý; Người tham gia tố tụng có nghĩa vụ pháp lý; và Người tham gia tố tụng đảm bảo công lý. Người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý là những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng. Đó là: người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mỗi người khác nhau trong tố tụng hình sự mà họ có quyền và nghĩa vụ khác nhau. Trong Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định nào phân biệt quyền, nghĩa vụ của mỗi người tham gia tố tụng liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Cụ thể: Đối với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ là tên gọi khác nhau qua từng giai đoạn tố tụng khi họ bị nghi thực hiện tội phạm. Điều 48 BLTTHS quy định, Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm
  • 33. 26 tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Đối với một người không bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc không bị bắt phạm tội quả tang; không bị bắt theo quyết định truy nã hoặc không phải người phạm tội tự thú, đầu thú thì đối với họ không thể có quyết định tạm giữ và tất nhiên, họ không thể được gọi là người bị tạm giữ với tư cách người tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, bất kỳ người bị tạ giữ nào không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau là: Được biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp người bị tạm giữ có quyết định khởi tố bị can (bị khởi tố về hình sự) thì bất kỳ bị can nào, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau là: Được biết mình bị khởi tố về tội gì; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã (Điều 49 BLTTHS).
  • 34. 27 Trong trường hợp bị can có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì được gọi là bị cáo. Bất kỳ bị cáo nào, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, đều có quyền ngang nhau là: Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ án; bản án, quyết định của Toà án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; Tham gia phiên toà; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà; Nói lời sau cùng trước khi nghị án; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Như vậy, với tư cách là người bị tạm giữ, hoặc là bị can, bị cáo, pháp luật tố tụng hình sự không có quy định này thể hiện có sự phân biệt liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội khi quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ khi tham gia tố tụng. Đối với người tham gia tố tụng với tư cách người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, pháp luật tố tụng hình sự cũng không có một quy định nào thể hiện có sự phân biệt liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội khi quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của họ khi tham gia tố tụng. Cụ thể, theo Điều 51 BLTTHS: Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Khi tham gia tố tụng, người bị hại có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo về kết quả điều tra; Đề
  • 35. 28 nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà. Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự. Trong trường hợp người bị hại chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại Điều này [17, Điều 51]. Khác với người bị hại, nguyên đơn dân sự, theo Điều 52 BLTTHS quy định: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo về kết quả điều tra; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường; Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại. Nguyên đơn dân sự phải có
  • 36. 29 mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại [17, Điều 52]. Khi đã có nguyên đơn dân sự thì phải có bị đơn dân sự. Bị đơn dân sự, theo quy định tại Điều 53 BLTTHS: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn dân sự; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Được thông báo kết quả điều tra có liên quan đến việc đòi bồi thường; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại [17, Điều 53]. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể. Nhưng họ là người có trách nhiệm pháp lý liên quan đến giải quyết vụ án như trách nhiệm đối với tiền, tài sản có liên quan đến tội phạm và người phạm tội. Ví dụ, họ là người cho người phạm tội mượn tài sản; được người phạm tội cho tài sản hoặc họ giữ hộ tài sản của người phạm tội mà họ không biết tài sản đó do phạm tội mà có. Khi tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Tham gia phiên
  • 37. 30 toà; phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và trình bày trung thực những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Như vậy, đối với người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý, pháp luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi loại người có tư cách pháp lý giống nhau thì có quyền và nghĩa vụ như nhau, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Người tham gia tố tụng có nghĩa vụ pháp lý là những người có trách nhiệm tham gia tố tụng để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Đó là: người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Tùy thuộc vào vị trí pháp lý của mỗi người tham gia tố tụng có nghĩa vụ pháp lý khác nhau trong tố tụng hình sự mà họ có quyền và nghĩa vụ khác nhau. Trong Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định nào phân biệt quyền, nghĩa vụ của mỗi người tham gia tố tụng này liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Cụ thể: Người làm chứng, theo Điều 55 BLTTHS, là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án và được Cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Khi tham gia tố tụng, người làm chứng có quyền: Yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của
  • 38. 31 pháp luật. Người làm chứng có nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; Khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 55]. Người giám định, theo Điều 60 BLTTHS, là người có kiến thức cần thiết về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định của pháp luật. Khi tham gia tố tụng Người giám định có quyền: Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến đối tượng phải giám định; Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp những tài liệu cần thiết cho việc kết luận; Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định; Từ chối việc thực hiện giám định trong trường hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi hiểu biết chuyên môn của mình; Ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định do một nhóm người giám định tiến hành. Người giám định phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà họ biết được khi tham gia tố tụng với tư cách là người giám định. Người giám định từ chối kết luận giám định mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của
  • 39. 32 Bộ luật hình sự. Người giám định kết luận gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 60]. Việc bảo đảm tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự. Do tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt nên những người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Trong trường hợp người tham gia tố tụng không biết tiếng Việt thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải có phiên dịch cho họ (Điều 24 BLTTHS). Người phiên dịch, Điều 61 BLTTHS quy định, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt. Người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án và phải dịch trung thực; không được tiết lộ bí mật điều tra; nếu dịch gian dối thì người phiên dịch phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự [17, Điều 61]. Như vậy, việc xây dựng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng có nghĩa vụ pháp lý (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) không có quy định nào phân biệt tư cách pháp lý có liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Cùng với tư cách pháp lý là người làm chứng thì họ có quyền và nghĩa vụ như nhau. Tương tự như thế đối với người giám định, người phiên dịch. Người tham gia tố tụng đảm bảo công lý là những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý. Đó là: người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Người bào chữa là người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn tố tụng. Điều 56 BLTTHS quy đinh, Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.
  • 40. 33 Điều 58 BLTTHS quy định, khi tham gia tố tụng, Người bào chữa có quyền: Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất [17, Điều 58]. Người bào chữa có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ
  • 41. 34 quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này; Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án; Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật [17]. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự, theo Điều 59 BLTTHS, có thể là luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận. Khi tham gia tố tụng, Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền: Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem biên bản phiên toà;
  • 42. 35 Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này. Đối với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; Giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ [17]. Như vậy, trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến người tham gia tố tụng để bảo đảm công lý không có quy định nào phân biệt tư cách pháp lý có liên quan đến các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội, cho dù người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể là Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận. Để bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự quy định trình tự giải quyết vụ án qua các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố điều tra vụ án đến xét xử vụ án hình sự. Tuân thủ nguyên tắc bảo đảm mọi công dân bình đẳng trước pháp luật về việc tố tụng hình sự được tiến hành với bất cứ người nào phạm tội để xử lý theo pháp luật, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử từ chương VIII đến Chương XXXV đối với người có hành vi phạm tội.
  • 43. 36 Nói chung tại các chương này, trình tự, thủ tục khởi tố,điều tra, truy tố, xét xử đối với người có hành vi phạm tội không có quy định nào thể hiện có sự phân biệt đối xử đối với người phạm tội theo các yếu tố dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội và đều thể hiện rõ quan điểm bất cứ người nào phạm tội đều có thể bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử để xử lý theo pháp luật. 2.1.2. Những tồn tại trong xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật Tình hình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự có liên quan đến bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật có những vấn đề sau đây: Thứ nhất, Điều 5 BLTTHS quy định, Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội [17, Điều 5]. Tuy nhiên, tố tụng hình sự tiến hành dường như chỉ đặt ra sự bình đẳng của các công dân là những người tham gia tố tụng. Còn những công dân là những người tiến hành tố tụng lại không được nêu một cách cụ thể, rõ ràng. Ví dụ, nếu cho rằng, tố tụng hình sự có 3 chức năng chính: chức năng buộc tội (chủ yếu là cơ quan điều tra, viện kiểm sát, điều tra viên, kiểm sát viên), chức năng gỡ tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, luật sư bào chữa cho họ) và chức năng xét xử (tòa án, thẩm phán, hội thẩm). Nếu vậy, giữa những công dân có chức năng buộc tội và những công dân có chức năng gỡ tội có bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm không; ai sẽ là người bảo đảm sự bình đẳng của các công dân này. Đây có thẻ coi là điều hết sức vô lý khi quy định về quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Thứ hai, đối với bị can, bị cáo, những quy định về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, cụ thể là biện pháp tạm giam đã có sự phân biệt. Cụ thể, Điều 88 BLTTHS quy định:
  • 44. 37 Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Tương tự như thế, Điều 303 BLTTHS quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng [17, Điều 88]. Vậy, có phải đã có sự không bình đẳng trước pháp luật tố tụng hình sự, hay nói cách khác đã vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật khi có những quy định liên quan đến việc không áp