SlideShare a Scribd company logo
1 of 83
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NA
BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ NA
BẢO ĐẢM TRANH TỤNG
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
Hà Nội – năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Thị Na
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO
ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ..................................... 7
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự ....................7
1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự......................19
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN
TÒA HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..... 27
2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng .27
2.2. Nguyên nhân những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng..................................................................47
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ............................................................. 55
3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong giai
đoạn hiện nay .......................................................................................................55
3.2. Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự...............................57
KẾT LUẬN..................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
TTHS: Tố tụng hình sự
VKS: Viện kiểm sát
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn xét xử, quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một
trong những nội dung quan trong trong hoạt động tố tụng hình sự của nươc ta.
Thực hiện tốt vấn đề về bảo đảm tranh tụng nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo dân chủ, sự công bằng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, đảm
bảo tốt tranh tụng còn là cơ sở để HĐXX đưa ra quyết định, bản án đúng người,
đúng tội, khách quan và đúng pháp luật.
Xuất phát từ lý luận cũng như thực tiễn trong quá trình xét xử, đánh giá
tầm quan trọng hoạt động bảo đảm tranh tụng tại phiên toa hình sự đã được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm, cụ thể các Nghị quyết về cải cách tư pháp kể đến
như: Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết 49/NQ-TW ngày
02/6/2005. Theo đó, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu “Nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp...” [7]; Nghị quyết 08/NQ-
TW nêu một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, như
“Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những
người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp
luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [6].. Vấn đề tranh tụng
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong thời gian gần đây. Hiến pháp năm
2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm” [23]; nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được
BLTTHS năm 2015 đã bổ sung, ghi nhận [22]. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử
được ghi nhận trong Bộ luật tô tụng hình sự là nguyên tắc, điều đó thể hiện áp
dụng tinh thần, bước tiến tiến bộ, trong quá trình xây dựng pháp luật của Nhà
nước ta, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp trong các nghị quyết đã đề ra.
2
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy hoạt động
tranh tụng tại các phiên toà hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn
thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có tiến bộ nhưng đánh giá chung vẫn còn nhiều
tồn tại, thiếu sót tạo, chưa đảm bảo đúng yêu cầu của cải cách tư pháp về bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều trường hợp Tòa án chưa giải quyết thỏa đáng
yêu cầu triệu tập người làm chứng, hoãn phiên Tòa. Có phiên tòa việc tranh luận
chỉ mang tính hình thức. Quyết định của bản án ở nhiêu tòa án còn thiếu sót chưa
căn cứ và diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa mặc dù đã có tranh luận.
Vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo tranh tụng là một đòi hỏi mà Đảng, nhà
nước và xã hội đặt ra cho các cơ quan tư pháp. Đối với Tòa án bảo đảm tranh
tụng tại phiên toà là vấn đề rất quan trọng, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp,
khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ
Toàn án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân sau đó mới
quy định tiếp bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức cá nhân” [23]. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp
uy tín, vai trò của ngành Tòa án nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm
thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng” làm
luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra trên cơ sở Nghị
quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, Quốc hội đã có kế hoạch và ban hành
nhiều văn bản, quy định pháp luật ở văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến
phóa, Bộ luật, Luật… liên quan đến vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự, đây là những quy định tiến bộ đảm bảo tranh tụng được thực hiện tốt
trong quá trình xét xử hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý có nhiều tác
giả nghiên cứu về vấn đề đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nhiều gốc
độ khác nhau: “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
3
thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Nguyên tắc tranh tụng
trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS” của GS.TSKH. Lê Cảm,
Đặc san Luật học số 6/2004; “Về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa
hình sự” của ThS. Ngô Hồng Phúc, Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2003;
“Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả
Phạm Hồng Hải năm 2009; “Vấn đề tranh tụng hình sự” của ThS. Nguyễn Đức
Mai, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995; Chuyên đề “Tiến tới xây dựng
TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng hình sự” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải,
Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 2003; Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng
hình sự Việt Nam và những vấn đề áp dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị
Thủy năm 2014; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, Dương Thanh Biểu, Nxb
Tư pháp, Hà Nội; “Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên qua các
phiên tòa rút kinh nghiệm ở Phú Thọ”, Đoàn Minh Hương, Tạp chí kiểm sát
năm 2014; “Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa hình sự” Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí kiểm sát, 2013; “Thực trạng và
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự”, Nguyễn Kim
Chi, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 191, năm 2011; “Bảo đảm quyền của bị
can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng”, Thanh Nghị, Cần nâng cao
năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm;
Nguyễn Văn Thuận (2014), Hiến pháp 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm quyền con người và định hướng sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, Kỷ
yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, PGS.TS
Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, số 08/2003; Phan Văn Sơn,
“Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm nâng cao chất lượng
tranh tụng của KSV tại các phiên tòa hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12
(06/2014); Lê Hữu Thể (2005), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao …
Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề về
4
tranh tụng như: Nguyên tắc tranh tụng, mô hình tranh tụng, tranh tụng tại phiên
tòa…Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa ở một địa phương như Thành phố Đà Nẵng. Những
công trình nghiên cứu trên có giá trị để học viên tham khảo nghiên cứu để hoàn
thành luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự góp phần
làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Bên
cạnh đó, đưa ra những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng, bảo đảm
tranh tụng, mô hình tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
- Nghiên cứu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành
phố Đà Nẵng.
- Yêu cầu và các giải pháp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự theo tinh thần cải các tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của Luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp
luật TTHS hiện hành liên quan đến tranh tụng và thực tiễn bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa ở Thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa theo Pháp
luật TTHS Việt Nam.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng.
- Số liệu thể hiện thực trạng công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành
5
phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật để giải quyết vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải, bình luận, so
sánh đối chiếu, khảo sát thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp
này được vận dụng đan xen để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài, cho phép rút
ra những kết luận khoa học, kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về
bảo đảm tranh tụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống về bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự. Việc nghiên cứu để tài có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ, những
những người quan tâm đến lĩnh vực này.
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn sẽ góp phần nghiên cứu sâu thêm những quy định pháp luật, cơ
sở khoa học, pháp lý về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, là cơ sở để sửa đổi bổ
sung những quy định còn bất cập, hạn chế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần mở rộng dân chủ trong TTHS, đảm bảo quyền con người của
bị can, bị cáo, phù hợp với xu thế dân chủ hóa của thời đại.
- Ngoài ra, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên
cứu vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu luận văn như sau, nội dung đề tài được bố cục thành 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại
phiên tòa hình sự.
Chương 2.Thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Toà án
6
nhân dân thành phố Đà Nẵng
Chương 3. Các giải phảp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa
hình sự.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH
TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự
1.1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Đến nay, vẫn chưa có văn bản nào nêu rõ khái niệm hay định nghĩa thế
nào là “tranh tụng”. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn
bản của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng
tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với
luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác", trong các tài
liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quy định tại
khoản 5 Điều 103: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” và Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 cũng chỉ có quy định về tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm được xem là nguyên tắc nhưng chưa có quy định hay giải thích thế nào
là “tranh tụng” [16, tr.32-38].
Theo Đại từ tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “Kiện tụng”
dùng để “kiện cáo nhau”.
Trong khoa học Pháp lý khái niệm tranh tụng hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng: Tranh tụng là những hoạt động tố tụng được bắt đầu từ
khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi có bản án, quyết định
của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ các giai
đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả
giai đoạn giám đốc thẩm, tại thẩm.
Theo nghĩa hẹp: Tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên trong
vụ án với nhau về chứng cứ, yêu cầu, phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó
nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối của mình
có căn cứ và hợp pháp.
8
Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, nhà xuất bản tư pháp
năm 2005 thì: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên
tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong
việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại
quan điểm và lợi ích của phía đối lập” [42].
Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của
hoạt động tố tụng? Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội,
bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự
thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Khi một nguời bị
bắt, bị áp dựng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị
can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào
chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa [9, tr.34-37]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khẳng định quá
trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn
khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã khái
quát đầy đủ quá trình tranh tụng.
So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa
xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình
tố tụng. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ
thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc
tội và bên bào chữa. Còn chức năng xét xử do chủ thể duy nhất là Toà án thực
hiện. Bên có thế mạnh là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nhân
danh quyền lực nhà nước và được sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành các
hoạt động tố tụng đối với “bên yếu thế” là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
“bên yếu thế” buộc phải chấp hành các biện pháp tố tụng mà những người tiến
hành tố tụng áp dụng [47, tr.214].
Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến
hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự điều
khiển của Tòa án… Chính vì vậy bản chất tranh tụng được thể hiện đầy đủ nhất
9
từ khi bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa
xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm
sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại , quá trình tranh tụng được tiến hành
thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội
đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét
xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết
quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Tranh tụng - xét dưới góc độ là một “nguyên tắc cơ bản” của tố tụng hình
sự: Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ
đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động
nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế
định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là
“những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và
được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận.
Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi
nhận là một nguyên tắc. Vấn đề là cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong
BLTTHS như thế nào? Nguyên tắc này có những nội dung gì? Phạm vi điều
chỉnh của nguyên tắc này?...là những vấn đề đang được nghiên cứu, xây dựng
BLTTHS sửa đổi, bổ sung.
Như vậy, Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các
bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với
nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ, trình bày ý kiến để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối
lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên
toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi
bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định
của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [24].
10
1.1.2. Khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo” và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều
26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Để hiểu thế nào là bảo đảm tranh tụng
tại phiên tòa, trước hết cần tìm hiểu thế nào là bảo đảm. Bảo đảm có thể được
hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ
những gì cần thiết” [42]. Đặt trong ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo
đảm, Từ điển luật học diễn giải: Nhà nước các trách nhiệm “bảo đảm cho các
quyền công dân đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều
kiện cho công dân hưởng các quyền đó” [42].
Trong tố tụng hình sự, việc xác định sự thật khách quan của vụ án được
trải qua các giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
và nghĩa vụ của mình theo luật định; mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý
nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Theo đó, để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các
bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu
và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Trong
các vụ án hình sự, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trên cơ sở chức năng
nhiệm vụ được giao thực hiện chức năng chứng minh tội phạm, vì vậy họ thường
chỉ thu thập những chứng cứ, bằng chứng mang tính chất buộc tội, việc thu thập
chứng cứ gỡ tội thường ít chú trọng, trong khi đó bị cáo và người bào chữa thì
hạn chế trong việc thu thập các chứng cứ gỡ tội. Thế cho nên, pháp luật tố tụng
hình sự cần có những quy định bảo đảm các bên tham gia tố tụng có thể chủ
động sử dụng các phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình
chứng cứ nhằm lập luận cho quan điểm của mình. Theo quy định của pháp luật,
các bên tham gia vào hoạt động tố tụng có nghĩa vụ pháp lý như nhau, trong quá
trình thu thập, đánh giá kiểm tra chứng cứ và được đánh giá trong trường hợp cụ
11
thể. Việc quyết định bản án, xác định sự thật của vụ án phải được căn cứ trên cơ
các kết quả, tranh tụng công khai tại phiên tòa giữa các bên.
Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo vệ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể
tham gia trong quá trình tố tụng được thực hiện đầy đủ các biện pháp, các
phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ chứng
minh cho quan điểm của mình; tranh tụng mở ra cơ hội và tạo điều kiện ngang
nhau cho các bên trình bày quan điểm, lý lẽ, cung cấp chứng cứ và phần tranh
luận của mình tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự phải thực hiện nhiệm
vụ, xác định sự thật vụ án, đảm bảo công bằng, để công lý được thực [20].
Từ những phân tích có thể đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa hình sự là đảm bảo các điều kiện cần và đủ về chủ thể, các quy định pháp
luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham gia tố tụng được đưa ra
quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng tỏ sự thật của vụ án,
làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa án đưa ra phán
quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý được thực hiện
đún với các quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Tranh tụng là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đây là nhiệm
vụ mà hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới. Trong quá trình
thực hiện tốt các phương thức tranh tụng với nhiệm vụ xác định sự thật khách
quan vụ án và cũng là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền con người, quyền công
dân, tranh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Có thể hiểu: “Tranh tụng là
việc các bên trong tham gia tố tụng được đưa ra các quan điểm, ý kiến, yêu cầu
của mình của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm
của phía bên kia”. Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự,
nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể
trong việc thực hiện quá trình tranh luận bình đẳng dựa trên chứng cứ.
Quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể
của bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng,
12
xem xét việc buộc tội, bào chữa và Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết
định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa. Từ đó, có thể khẳng định rằng tranh tụng tại phiên tòa là giai
đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và dưới sự điều
khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện đầy đủ nhất bản chất tranh tụng. Do vậy, đặc
điểm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự thể hiện ở những nội dung sau
đây:
Thứ nhất, có thể thấy rằng Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động
tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định
của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét
xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật
theo qui định của BLTTHS để các bên thực hiện tranh tụng.
Thứ hai, chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội)
và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện
hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội).
Các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được phân định rõ ràng, tuy xuất phát
từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan
điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Tòa án là cơ quan xét xử điều khiển
phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Người bào chữa, bị cáo, bị hại, được bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa
ra chứng cứ và tranh luận đối đáp tại phiên tòa. Pháp luật quy định rất rõ Kiểm
sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa
ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Thứ ba, hoạt động tranh tụng tại phiên toà thực hiện dưới sự điều khiển
của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng
điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa
13
phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng để trả lời những ý kiến
của phía bên kia đặt ra. Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền cắt bỏ ý kiến của các
bên tranh tụng nếu ý kiến đó trùng lặp hoặc không liên quan đến vụ án. Chủ tọa
phiên tòa phải tạo điều kiện để các bên tranh tụng bình đằng, dân chủ và không
được hạn chế thời gian tranh tụng.
Thứ tư, để hoạt động tố tụng đạt hiệu quả, HĐXX có trách nhiệm bảo đảm
điều kiện cần thiết cho tranh tụng. Đó là bảo đảm sự có mặt của những người
tham gia tố tụng, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, bảo đảm
các tài liệu chứng cứ mới đều được xem xét tại phiên tòa.
Phiên tòa hình sự được đánh giá chất lượng tranh tụng cần có các tiêu chí
đánh giá sau đây:
+ Các bên tham gia tố tụng phải thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của
mình, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật, đảm bảo được thực hiện trên
thực tế một cách, công bằng, dân chủ. Các bên tham gia tranh tụng phải đảm bảo
thực hiện có trách nhiệm nhiệm vụ của mình, lập luận có căn cứ pháp luật, cần
tôn trọng ý kiến của nhau, có văn hóa và ứng xử đúng mực trong tranh luận.
+ Các bên tham gia tố tụng có quyền đưa ra quan điểm, cung cấp các chứng
cứ, buộc tội cũng như gỡ tội, việc đưa ra chứng cứ bảo đảm có căn cứ pháp luật,
được hội đồng xét xử chấp nhận những quan điểm của mình, nếu việc đưa ra
luận điểm, chứng cứ không được chấp nhận thì chất lượng tranh tụng chưa tốt.
+ Kết quả đánh giá chất lượng giải quyết các vụ án hình sự thể hiện xét xử
đúng người, đúng tội, không để xảy ra trường hợp oan sai. Hạn chế tình trạng xét
xử oan sai, làm cho các bản án bị cấp trên hủy, sửa.
+ Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện
tốt chức năng của mình, chủ động, tích cực, có kế hoạch trong việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án, đảm bảo tốt cho phiên tòa. Việc chuẩn bị tốt, có kế hoạch, đảm bảo
vụ án xét xử một cách toàn diện, các bên đưa ra quan điểm, bác bỏ quan điểm có
căn cứ, làm cơ sở Thẩm phán ra quyết định bản án, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, thông qua đó góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của được tốt.
14
1.1.4. Cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Với việc ghi nhận và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
đảm bảo tại Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đây là tư
tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ
thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng, bởi xét xử được
coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử
công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,
góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thực hiện trên thực tế thì cần bảo đảm sau:
Một là, đảm bảo về mặt pháp lý.
Thứ nhất, việc ghi nhận các nguyên tắc và quy định về nguyên tắc tranh
tụng trong xét được bảo đảm ở những văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến
pháp và Bộ luật là bước tiến bộ của lập pháp nước ta. Vì vậy, pháp luật cần có cụ
thể hóa, bằng các quy định đầy đủ, rõ ràng, về địa vị tố tụng của các chủ thể
tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có thể thực hiện được đầy đủ các nội dung
tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình, đảm bảo cho các chủ
thể được chủ động thu thập vật chứng, chứng cứ, được yêu cầu cung cấp các tài
liệu phục vụ cho qua trình xác định sự thật vụ án.
Thứ hai, pháp luật quy định rõ mối quan hệ, sự bình đẳng trước Tòa án
của giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong
việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách
quan của vụ án. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động
tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên
cơ sở các quy định về bảo đảm sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh
giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng tại phiên tòa mới thực chất. Do vậy, cần
mở rộng phạm vi các vụ án hình sự có sự tham gia bắt buộc của luật sư nhằm tạo
điều kiện cho tranh tụng được bảo đảm.
15
Hai là, bảo đảm về mặt tổ chức.
Cần có sự quy định rõ rằng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến
hành tố tụng đảm bảo đúng chức năng của tố tụng hình sự; quy định nhiệm vụ,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong quá trình hoạt động tố tụng tạo
điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực đảm bảo thực hiện tranh tụng
tại phiên tòa phù hợp với cơ chế tranh tụng. Cần có sự quan tâm cũng như hỗ trợ
của Nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các trung tâm tư vấn pháp
lý miễn phí, để cho người dân, những đối tượng thuộc diện khó khăn có điều
kiện được hưởng tư vấn pháp luật; mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc, thời
điểm tham gia bào chữa của luật sư trong vụ án để đảm bảo các vụ án hình sự có
người bào chữa được tham gia ngày càng nhiều.
Ba là, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng.
Hiện nay, việc áp dụng ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án
hình sự được quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA-
VKSNDTC-TANDTC-BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm
hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi
hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử do Bộ trưởng Bộ Công
an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành (có hiệu lực ngày 18/03/2018), đây là
một trong những quy định tiến bộ bảo đảm sự khách quan trong quá trình giải
quyết vụ án, hạn chế tình trạng, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình của các cơ
quan tố tụng. Vì vậy, cần có sự đảm bảo trang bị đầy đủ, hệ thống cơ sở vật chất
của các phòng hỏi cung, lấy lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. Đối với hội
trường xét xử cần có sự sắp xếp, cấu trúc đảm bảo phù hợp mô hình tranh tụng,
vị trí của các bên tham gia phiên tòa bảo đảm thể hiện sự bình đẳng, công bằng,
khách quan của bên buộc tội và bên bào chữa, gỡ tội. Hệ thống âm thanh, thiết bị
ghi âm, ghi hình rõ ràng, chất lượng để đảm bảo tính nghiêm minh của phiên tòa.
16
Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực của các chủ thể thực hiện nguyên
tắc tranh tụng tại phiên tòa.
Đối với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cần nâng
cao trình độ, năng lực công tác, cũng như những hiểu biết của những người tham
gia tố tụng, để họ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
Đối với các Thẩm phán, cán bộ công tác tại Tòa án, cần đảm bảo về số
lượng và chất lượng, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo
đức nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình được giao.
Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đáp ứng các yêu
cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, các Thẩm phán, Hội thẩm cần xác
định trách nhiệm, có nhận thức, đảm bảo thống nhất, xác định tầm quan trọng
tinh thần cải cách tư pháp về bảo đảm tranh tụng. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ của mình, Thẩm phán là người cầm cần nảy mực, nên đòi hỏi phải vô
tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, điều khiển phiên tòa đúng thủ
tục, trình tự đảm bảo công bằng, khách quan. Việc ra quyết định, bản án cần xem
xét một cách toàn diện trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa.
Viện kiểm sát các cấp quan tâm, có kế hoạch về đào tạo cán bộ, bồi dưỡng
nghiệp vụ đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác tranh tụng tại phiên tòa. Thường
xuyên học tập, tranh bị kỹ năng cần thiết, các kỹ năng nghiệp vụ nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp. Đối với kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần có sự
chuẩn bị kế hoạch chu đáo, dự lường những trường hợp phát sinh tại phiên tòa,
nhất là trong những vụ án có nhiều bị cáo, nhiều luật sư tham gia, đảm bảo tranh
tụng đúng mực, có căn cứ, tranh luận cần đi vào những nội dung trọng tâm của
vụ án.
Đối với tổ chức Luật sư tham gia tranh tụng cần tổ chức đào tạo bài bản,
đảm chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của xã
hội cần phát triển đội ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng, giỏi về chuyên
môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.
17
1.1.5. Ý nghĩa bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự
Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự mang nhiều ý nghĩa:
Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa chính trị
sâu sắc, thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ
trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan
tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề
này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Tiếp đó, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 [7]. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu:
“…Đặc biệt các chủ trương trên đã được thể chế hóa tại Khoản 5 Điều 103 của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật
TTHS năm 2015 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm” Điều 26.
Thứ hai, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả
về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được quy định cụ thể trong các văn bản
luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, nhận thức của các cán bộ, những người
tham gia tố tụng khi tham gia vào hoạt động tranh tụng. Với những quy định của
pháp luật được ghi nhận, trong hoạt động xét xử của Tòa án sẽ thay đổi cách
thwucs thực hiện, đổi mới đảm bảo tranh tụng để có một phiên tòa công bằng,
dân chủ.
Thứ ba, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Trong hoạt động tố tụng hình sự, một bên cơ quan tiến hành tố tụng với
đầy đủ trang thiết bị, chức năng nhiệm vụ, một bên là người bị buộc tội yếu thế
nên đây được xem là hoạt động nhạy cảm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
hiện quyền con người. Việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa được Quy định
trong Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự bằng các quy định đúng đắn, hợp lý,
18
khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế, trở thành mục tiêu
cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia.
Thứ tư, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo
được trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị cáo hoặc
người đại diện hợp pháp của họ không có điều kiện để mời Luật sư bào chữa
thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong chức năng, nhiệm vụ của mình yêu
cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ (nếu các vụ án thuộc trường hợp chỉ
định). Trong các trường hợp khác cần tạo điều kiện để người bào chữa và bị cáo
thực hiện các quyền đặc biệt là quyền thu thập, đánh giá chứng cứ tranh luận tại
phiên tòa, để đảm bảo quyền cho người được bào chữa.
Thứ năm, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa biểu hiện của việc thực hiện
bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tư pháp TTHS. Pháp luật quy định rõ mối
quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự
thật khách quan của vụ án đảm bảo bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các
chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình
khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh
giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi.
Thứ sáu, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa góp phần xác định sự thật
khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội
phạm, không để oan sai. Hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo
đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
của mình. Bản án của Toà án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên.”
Với quy định của nguyên tác tranh tụng góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế đến mức tối đa tình trạng bị oan, sai trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
19
1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc các quy định pháp
luật về mở rộng quyền dân chủ, đã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm,
nhằm đảm bảo công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật được thực thi.
Vấn đề đảm bảo quyền con người được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng,
đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Xác định được tầm quan trọng đó, đảng và
nhà nước ta có nhiều chính sách, chủ trương về công tác cải cách tư pháp, nâng
cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, chất lượng giải quyết các vụ án.
Các chính sách, quy định của tố tụng hình sự đảm bảo đầy đủ, công bằng
đảm bảo khách quan, chính xác, không bỏ lọt tội phạm cũng như không được
làm oan người vô tội được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và xem đây là một
trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp đã được Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 ghi rõ "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,
coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [7]; Nghị quyết 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác
tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên
toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác" [6]. Tuy nhiên, trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 (BLTTHS 2003) vẫn chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động tố tụng hình sự.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được ban
hành, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận
chính thức trong một văn bản pháp lý tối cao của Nhà nước. Hiến pháp 2013, tại
khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh
tụng trong BLTTHS. Ngày 27/12/2015 BLTTHS đã được Quốc hội thông qua,
nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:
20
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát
viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác
đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra
yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án….[22].
Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 có nhiều nội dung để cụ thể hóa, bảo đảm nguyên tắc này
được thực hiện trên thực tế:
- Một là: Quy định đầy đủ các quyền và các cơ chế để đảm bảo các quyền
của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác
bào chữa. Theo đó, người buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị
cáo), đã bổ sung một nhóm các quyền mới nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng
cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như: Quyền được các cơ quan
THTT cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội; Quyền được
trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội; Quyền đọc, ghi chép ban sao hoặc tài liệu đã
được đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao các tài liệu
khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; Quyền đưa ra chứng
cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay. Bị can quyền
đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc
tội, gỡ tội (Điều 60).
Để bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, tăng cường trách nhiệm của các cơ
quan trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, BLTTHS năm
2015 có rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể: Mở rộng chủ thể được
đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào
chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền
bào chữa (Điều 58);
21
Mở rộng và chính thức ghi nhận địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý
theo đó, BLTTHS năm 2015, Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện
của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; và Trợ giúp viên pháp lý trong
trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Mở rộng
diện người bào chữa theo chỉ định, theo đó cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc
phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử
hình như quy định của BLTTHS năm 2003; Bổ sung người thân thích của người
bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và
người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75);
- Hai là: Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm các quyền của
người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa
tham gia các hoạt động tố tụng hình sự.
Để bảo đảm tranh tụng dân chủ, cũng như đảm bảo quyền bào chữa cho bị
can, bị cáo, BLTTHS 2015 quy định cho người bào chữa có quyền thu thập
chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời,
quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng
cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
kiểm tra, đánh giá (Điều 73); BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào
chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi
có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83);
Nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh sự nhận thức không
chính xác rằng người người bào chữa tham gia tố tụng hoàn toàn phụ thuộc vào
sự chấp nhận hay không của cơ quan TTHS, BLTTHS năm 2015 đã quy định
chuyển đổi thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký
bào chữa”, đồng thời rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn
24h nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận vào quá trình
22
giải quyết vụ án. Văn bản thông báo người bào chữa (hình thức pháp lý công
nhận đủ điều kiện đăng ký bào chữa) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố
tụng, thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng như trước đây;
Nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại
tạm giam, tiếp cận ngay từ đầy với các chứng cứ buộc tội, gỡ tội trong hồ sơ vụ
án liên quan đến việc bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ trình tự, thủ
tục để người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, cụ thể: Để
gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào
chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ
giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Bổ
sung quy định về trách của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc bố
trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong
hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra khi người bào chữa có yêu cầu (Điều 82);
Bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông
báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố
tụng để người bào chữa tham gia theo quy định của pháp luật (Điều 79);
BLTTHS năm 2015 quy định về cách thức người bào chữa thu thập chứng
cứ, theo đó để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình
bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi,
nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào
chữa (Khoản 2 Điều 88).
- Ba là: Quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm
sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo
đảm việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa.
BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao vị trí, vai
trò của các cơ quan THTT, như Viện kiểm sát, kiểm sát viên thực hành quyền
công tố ngay từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm;
trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
23
hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra,
xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt
tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc
phục (Điều 145).
- Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại
phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử.
Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung nhiều quy định để bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa theo tinh
thần cải cách tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một điều luật về
giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279), trong đó quy định
rõ trách nhiệm của Tòa án đối với việc giải quyết yêu cầu của Kiểm sát viên, người
tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa.
Đây là quy định mới có ý nghĩa quan trọng trong việc sàng lọc các chứng cứ buộc
tội được thu thập không hợp pháp, việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội
liên quan việc đánh giá chứng cứ có cơ hội được thực hiện ngay trước khi mở phiên
tòa và bảo đảm các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được đưa đến Tòa án để xét xử phải
đầy đủ và hợp pháp, phiên tòa có đầy đủ các chủ thể tố tụng.
Thứ hai, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở
một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, do chỉ cho phép tối
đa hai Kiểm sát viên tham gia (Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003), Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi theo hướng Kiểm sát viên Viện kiểm sát
cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa.
Theo quy định mới của bộ luật tố tụng hình sự tron vụ án phức tạp có nhiều kiểm
sát viên tham gia. Việc căn cứ và tính chất vụ án và công việc, Viện trưởng
quyết định phân công số Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (Điều 289).
24
Thứ ba, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, đồng thời nhấn mạnh đến
việc tôn trọng ý chí của bị cáo trong trường hợp bị cáo nhận thấy sự vắng mặt
của người bào chữa không ảnh hưởng đến quyền tự bào chữa và khắc phục tình
trạng phải hoãn phiên tòa nhiều lần do vắng mặt người bào chữa như hiện nay,
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi quy định về sự có mặt của người bào
chữa theo hướng trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất
khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì cần hoãn phiên tòa.
Thứ tư, khắc phục tình trạng trong thực tế trong nhiều phiên tòa, bị cáo
không nhận tội và cho rằng việc khai nhận tại Cơ quan điều tra là do bị ép, bức
cung, bảo đảm thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định sự có mặt của Điều tra
viên tại phiên tòa với tư cách là người đã điều tra vụ án (Điều 296) để góp phần
làm rõ những chứng cứ hoặc những vấn đề có liên quan đến vụ án, làm rõ trách
nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình
thụ lý, giải quyết vụ án, bảo đảm các chứng cứ được đưa ra có tính thuyết phục
cao hơn, có cơ sở chắc chắn xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ năm, để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán
quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ
đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ
sung quy định về giới hạn của việc xét xử trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo
về tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Tòa án trả hồ
sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại
diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh
đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó nhưng quá
trình xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và tuân thủ các quy định
khác của Bộ luật (Điều 298).
Thứ sáu, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm việc
tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong
phần xét hỏi, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên
25
tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa (Chương XX và Chương XXI của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003) thành “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V
Chương XXI – Xét xử sơ thẩm), coi đây là nội dung cốt lõi thể hiện nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo tinh thần Hiến pháp năm 2013.
Thứ bảy, đã đổi mới trình tự xét hỏi tại phiên. Các quy định mới của Bộ
luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung, quy định cụ thể việc tranh tụng
đảm bảo được thực hiện nhiều giai đoạn, ngay cả giai đoạn xét hỏi, đảm bảo làm
rõ đầy đủ các nội dung, và những người tố tụng tham gia. Luật cũng quy định rõ
việc Thẩm phán chủ tọa là người tiến hành điều hành việc hỏi, quy định cho
phép ai được hỏi trước, ai được hỏi sau nhằm đảm bảo quá trình hợp lý khi giải
quyết vụ án.
Thứ tám, để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa xét xử các vụ án hình
sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định nội dung luận tội của
Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những
chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân
và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều
của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều
kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Thứ chín, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ bản án phải căn cứ
vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa, theo đó bổ sung yêu cầu đối với bản án sơ thẩm là phải rõ ý kiến của người
bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập;
phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội,
chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị
hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ
đưa ra; phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra
viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
26
Kết luận Chương 1
Trong tranh tụng các bên tham gia tố tụng có lợi ích đối trọng nhau thực
hiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ
quan điểm của mình, phản bác quan điểm của phía đối lập nhằm làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án, được thực hiện chủ yếu giữa bên buộc tội, bên gỡ tội
trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhưng tranh tụng tại phiên tòa thể hiện đầy đủ
nhất vì được tiến hành công khai giữa các bên tham gia tố tụng bên buộc tội, bên
gỡ tội, bào chữa và Tòa án thực hiện chức năng xét xử, với vai trò trung gian,
trọng tài.
Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự là bảo các điều kiện cần và đủ về
chủ thể, các quy định pháp luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham
gia tố tụng được đưa ra quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng
tỏ sự thật của vụ án, làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa
án đưa ra phán quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý
được thực hiện đún với các quy định của pháp luật.
Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói
riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố
tụng nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo
đảm về pháp lý, về tổ chức, về cơ sở vật chất và trình độ, năng lực của các chủ
thể tham gia thực hiện nguyên tắc tranh tụng.
27
CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố
Đà Nẵng
2.1.1. Những kết quả đạt được về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình
sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội của Đà
Nẵng đã có những chuyển biến khá vững chắc, đời sống nhân dân ngày được
nâng cao. Công tác giữ gìn AN-TT đã thu được nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên
tình hình tội phạm vẫn tiếp tục có diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ nguy
hiểm và tinh vi. Theo thống kê, trung bình mỗi năm (từ năm 2014-2018) tại Đà
Nẵng xảy ra trên 1.000 vụ án hình sự. Đáng chú ý, tội phạm về giết người do
nguyên nhân xã hội tăng cao gây bất an lo lắng trong nhân dân. Tội phạm về tín
dụng đen diễn biến phức tạp tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hệ lụy xấu cho xã hội, làm
phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Tình trạng người nước ngoài vi
phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, trộm cắp, đánh bạc qua mạng, cướp giật, tổ
chức điều hành, hướng dẫn viên du lịch trái phép có xu hướng gia tăng nhưng
chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế,
chức vụ nổi lên trên lĩnh vực đất đai với hành vi chủ yếu, cố ý làm trái quy định
nhà nước, Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, làm giả các giấy tờ giao
dịch để giao dịch nhằm chiếm đoạt tài sản; tội phạm công nghệ cao lừa đảo
chiếm đoạt tài sản cũng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, tội phạm về ma túy
vẫn còn diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng nhanh chóng mà nguyên
nhân được xác định là sự xuất hiện của các loại ma tuý tổng hợp và chất gây
nghiện mới đã làm tăng số người nghiện ma tuý, nhất là người trong độ tuổi
chưa thành niên đã tạo ra nhiều khu vực mất an ninh trật tự, tiềm ẩn nguy cơ tội
28
phạm rất lớn. Ngoài ra, cùng quá trình đô thị hóa nhanh, tình hình vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực đất đai, tài chính đầu tư xây dựng, đô thị môi trường, an toàn
thực phẩm gây bức xúc dư luận, trong đó nổi lên là tình trạng xây dựng không
phép, sai phép, xả thải ra môi trường chưa qua xử lý, rò rỉ nước thải, chất thải
rắn không đúng quy định có xu hướng tăng trongg những năm gần đây. Kết quả
giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng qua Báo cáo
tổng kết công tác 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018 như sau:
Năm 2014: Tổng số án đã thụ lý là 1.050 vụ 1.793 bị cáo; giải quyết 1.051
vụ 1.778 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,8 % về số vụ và 99,4% số bị cáo. Tăng 07 vụ so với
năm công tác 2013. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 52 vụ. Trong đó Tòa
án thành phố trả hồ sơ điều tra bổ sung 12 vụ đều được Viện kiểm sát thành phố
chấp nhận, đạt tỷ lệ 100%. Tòa án nhân dân các quận huyện trả hồ sơ điều tra bổ
sung 40 vụ, Viện kiểm sát chấp nhận 25 vụ, không chấp nhận 15 vụ. Số án
bị hủy do sai là 3,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,33%, số án bị sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ
lệ 0,28% số án đã giải quyết [33].
Năm 2015: Tổng số án đã thụ lý là 990 vụ 1.637 bị cáo; giải quyết 987 vụ
1.626 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,7 % về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Giảm 58 vụ, 150
bị cáo so với năm công tác 2014. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 70 vụ
được Viện kiểm sát nhân dân chấp nhận 52 vụ, không chấp nhận 12 vụ còn lại
06 vụ chưa có kết quả. Số án bị hủy do sai là 2.5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,25%, số án bị
sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 0,5% số án đã giải quyết [34].
Năm 2016: Hai cấp Tòa án đã thụ lý tổng cộng 1.021 vụ 1.800 bị cáo
(Trong đó: Thụ lý theo trình tự sơ thẩm là 740 vụ, 1.407 bị cáo; theo trình tự
phúc thẩm là 281 vụ, 393 bị cáo). Đã giải quyết 1.004 vụ 1.750 bị cáo, đạt tỷ lệ
98,3% về số vụ và 97,2% về số bị cáo. Tăng 31 vụ, 163 bị cáo so với năm công
tác 2015. Trả hồ sơ điều tra bổ sung là 74 vụ được Viện kiểm sát nhân dân chấp
nhận 64 vụ, không chấp nhận 10 vụ. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là
0,64%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ quan là 0,54% so với số án đã giải quyết [35].
29
Năm 2017: Tổng thụ lý 1.085 vụ, 1.806 bị cáo. So với năm 2016 tăng 64
vụ, 77 bị cáo. Đã giải quyết 1.080 vụ, 1.789 bị cáo. Đạt tỷ lệ 99,5% về số vụ và
99,1% về số bị cáo. Còn lại 05 vụ, 17 bị cáo đang trong thời hạn giải quyết. Hai
cấp Tòa án đưa ra xét xử lưu động 227 vụ, tăng 61 vụ so với năm 2016, đạt tỷ lệ
21% trên tổng số án hình sự giải quyết. Trả hồ sơ điều tra bổ sung 94 vụ, Viện
kiểm sát nhận tiến hành điều tra lại 63 vụ; có 19 vụ quan điểm giữa Tòa án và
Viện kiểm sát còn khác nhau, căn cứ vào Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự quy
định về giới hạn của việc xét xử, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử; còn lại chưa có
kết quả. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là 0,47%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ
quan là 0,72% so với số án đã giải quyết [36].
Năm 2018: Tổng thụ lý 1.240 vụ, 2.130 bị cáo (theo trình tự sơ thẩm là
970 vụ, 1694 bị cáo, theo trình tự phúc thẩm là 270 vụ, 436 bị cáo). Đã giải
quyết 1.233 vụ, 2.116 bị cáo. Đưa ra xét xử lưu động 67 vụ, đạt tỷ lệ 5,4% trên
tổng số án đã giải quyết, xét xử; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung cơ bản đảm bảo
có căn cứ đúng pháp luật, Viện kiểm sát chấp nhận 57/74 vụ, tỷ lệ 77,02%, các
vụ việc còn lại là do quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau
chiếm 22,08%. Đạt tỷ lệ 99,4% về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Số bản án, quyết
định bị hủy do sai là 2,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,2%. Số bản án, quyết định bị sửa do
sai là 19 vụ, chiếm tỷ lệ 1,54% [37].
Qua Báo cáo công tác Tòa án các năm trên chúng tôi thấy rằng: Các vụ án
hình sự đều được giải quyết trong thời hạn luật định, Tòa án nhân dân hai cấp
thành phố Đà Nẵng đã nỗ lực rất lớn trong việc đưa ra xét xử, giải quyết kịp thời
các vụ án về hình sự, tỷ lệ giải quyết tiếp tục duy trì ở mức cao trên 99,8% số án
thụ lý đây là tỷ lệ cao so với các tòa án Thành phố và tỉnh khác; chất lượng giải
quyết các vụ án hình sự đạt kết quả cao, án bị hủy và bị sửa thấp chiếm tỷ lệ
0,2% đến 0,5% ; việc xét xử đảm bảo đúng pháp luật, không có trường hợp bị
kết án oan đảm bảo nghiêm minh, đúng pháp luật, được dư luận quần chúng
nhân dân đồng tình, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội
phạm của chính quyền địa phương và góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục ý
30
thức pháp luật trong nhân dân. Hình phạt được áp dụng tron các vụ án tương
xứng với mức độ của hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu trong đấu tranh phòng
ngừa tội phạm xảy ra. Đặc biệt các vụ án về tham nhũng đều xử mức án nghiêm
minh, không có trường hợp được hưởng án treo.
Quá trình công tác xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng
trong những năm qua, các cơ quan tố tụng của Thành phố Đà Nẵng về cơ bản đã
thực hiện đúng các quy định về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
thực hiện. Qua nghiên cứu các hồ sơ vụ án, các giai đoạn tiến hành tố tụng thì
thấy rằng ngay tại giai đoạn Điều tra, có nhiều vụ án Luật sư bào chữa tham gia,
đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện trong thủ tục đăng ký bào
chữa, việc thu thập cung cấp chứng cứ, giải quyết nhiều yêu cầu của Luật sư như
cung cấp nhiều chứng cứ mới gỡ tội được chấp nhận, yêu cầu trả hồ sơ để điều
tra bổ sung về thay đổi tội danh trong giai đoạn Điều tra, Truy tố đã được chấp
nhận trước khi chuyển đến Tòa án. Tỷ lệ Luật sư tham gia bào chữa trong các vụ
án hình sự qua các năm đạt tỷ lệ 30% đến 40% là tương đối cao so với các tỉnh
thành khác. Ở nước ta, tính trung bình cứ 20.500 dân mới có 1 luật sư, trong khi
tỷ lệ này ở Singapore là 1000 dân/1 luật sư, ở Thái Lan là 1.700 dân/1 luật sư, ở
Nhật Bản là 5.500 dân/1 luật sư. So với các nước phát triển, độ chênh của tỷ lệ
này còn thấp hơn nhiều. Ví dụ, ở Mỹ, cứ 270 dân có 1 luật sư, ở Pháp là 500
dân/1 luật sư. Như vậy, so với chỉ tiêu mà Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp đề ra
đến năm 2020 cố gắng nước ta có khoảng 18.000 luật sư thì con số luật sư hiện
có còn rất khiêm tốn. Nếu tính theo hoạt động của luật sư tham gia bào chữa ở
các phiên toà hình sự thì nước ta có tới 80% các vụ án chưa có luật sư tham gia
tố tụng. Thực trạng trên đã gây khó khăn cho cả luật sư lẫn các cơ quan tiến hành
tố tụng. Điều này khiến cho mục tiêu mà Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ
Chính trị đề ra là tranh trụng tại phiên phải đảm bảo dân chủ, bình đẳng và kết
quả xét xử phải dựa trên kết quả tranh tụng chưa được hiện thực nhanh chóng.
Trong quá trình chuẩn xét xử và tại phiên tòa, Tòa án luôn tạo điều kiện
cho Luật sư đảm bảo đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ không hạn chế thời gian
31
nghiên cứu. Tại phiên tòa hình sự, thủ tục bắt đầu phiên tòa, các yêu cầu của
Luật sư như triệu tập thêm Người làm chứng, Người giám định, Điều tra viên,
cung cấp thêm các chứng cứ mới…để đảm bảo quá trình tranh tụng hiệu quả đã
có nhiều phiên tòa Thẩm phán chủ Tọa phiên tòa đã cho tạm dừng phiên tòa
hoặc hoãn phiên tòa theo đúng quy định pháp luật để triệu tập thêm đầy đủ thành
phần. Quá trình xét hỏi Tòa án tạo điều kiện cho Luật sư thực hiện quyền xét hỏi
không giới hạn thời gian, không ngắt lời như một số phiên Tòa trước đây các
Luật sư phản ánh. Tòa án cũng tạo điều kiện cho Luật sư tham gia tranh luận với
Viện kiểm sát, nhiều phiên Tòa Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát phải đối
đáp lại các quan điểm của luật sư đưa ra, yêu cầu Đại diện viện kiểm sát đối đáp
rõ chấp nhận hoặc không chấp nhận, căn cứ pháp lý, đã hạn chế được tình trạng
Kiểm sát viên không đối đáp mà nêu bảo lưu quan điểm của mình tại Cáo trạng.
Trong các bản án, áp dụng đúng nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa các yêu cầu,
lập luận của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát đa số đã được các Chủ tọa
phiên tòa phân tích trong các bản án.
Qua số liệu và phân tích trên thấy rằng, Tòa án nhân dân hai cấp thành
phố Đà Nẵng là địa phương có tỷ lệ án hình sự bị hủy, bị cải sửa do sai thấp so
với các địa phương khác cả nước. Cụ thể toàn ngành hằng năm tỷ lệ án hủy
khoảng 0,3% án đã giải quyết; án bị sửa do sai 0,62% số án đã giải quyết.
Án hình sự được xét xử trong hạn luật định, đạt 100% số án thụ lý. Quá
trình giải quyết các vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng
hình sự và tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng
thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình; phán quyết của Toà án căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà nên đảm bảo xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật; không để xảy ra tình trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
Về đảm bảo cơ sở vật chất, hội trường xét xử, chỗ ngồi của những người
tham gia tố tụng. BLTTHS 2015 là quy định về phòng xử án (Điều 257). Thực
hiện quy định của Nhà nước, các phòng xử án được bố trí, sắp xếp thể hiện sự
trang nghiêm, an toàn nhưng đảm bảo được sự bình đẳng giữa luật sư và người
32
thực hành quyền công tố. Điều luật cũng giao cho Chánh án TANDTC quy định
cụ thể về phòng xử án theo tinh thần trên.
Tại phiên tòa hoạt động tranh tụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp
phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, là căn cứ để HĐXX đưa ra phán
quyết. Do đó, để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng thì những chủ
thể có quyền tranh tụng phải có vị trí ngồi ngang bằng với nhau. Trong phiên tòa
hình sự Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố và Kiểm sát viên thực
hiện chức năng chứng minh hành vi phạm tội, họ phải có nghĩa vụ tranh trụng
với bị cáo, người bảo vệ quyền vào lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những
người tham gia tố tụng khác. Xét về quan hệ tranh tụng thì quyền và nghĩa vụ
của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng là ngang bằng nhau nên đại
diện Viện kiểm sát không thể có vị trí ngồi cao hơn những người tham gia tố
tụng.
Sau nhiều năm thực hiện theo mô hình trên, Tòa án nhân dân thành phố
Đà Nẵng nhận thấy việc bố trí ngồi như trên là không phù hợp với nền tư pháp
hiện đại, không đảm bảo đúng định hướng theo tinh thần cải cách tư pháp được
đề ra tại Nghị quyết 08 - NQ/TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị;
không đáp ứng được yêu cầu dân chủ, tiến bộ trong hoạt động xét xử, gây khó
khăn cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Việc bố đại diện Viện kiểm sát và
Thư ký phiên tòa ngồi ngang hàng với HĐXX khiến vai trò của mỗi chủ thể
không được thể hiện đúng, dẫn đến việc ngộ nhận về thẩm quyền, chức năng của
HĐXX và các chủ thể khác trong hoạt động xét xử .
Trước những hạn chế, bất cập đó, năm 2012, Tòa án nhân dân hai cấp
thành phố Đà Nẵng đã chủ động báo cáo với Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thành
phố, Thành ủy Đà Nẵng và đã thay đổi vị trí ngồi của những người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo mô hình mà hiện nay hầu hết
các nước trên thế giới đang áp dụng, kể cả các nước có chế độ chính trị tương
đồng với Việt Nam như Trung Quốc…. Theo đó, chỉ có Hội đồng xét xử mới
được ngồi ở vị trí cao nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường.
33
Ngồi phía dưới và ngay trước HĐXX là bàn của Thư ký phiên tòa. Cũng ngồi
phía dưới và bên tay phải HĐXX là bàn của đại diện Viện kiểm sát, bên tay trái,
đối diện với Viện kiểm sát là bàn của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự. Riêng những người tham gia tố tụng ngồi phía dưới, đối diện
với thư ký phiên tòa.
Như vậy, Phòng xử của TAND thành phố Đà Nẵng là Tòa án đầu tiên
trong cả nước thay đổi vị trí chỗ ngồi theo tinh thần Điều 257 BLTTHS 2015
trước khi bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực. Theo đó, HĐXX ngồi ở vị trí cao
nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường. Ngồi phía dưới và
ngay trước HĐXX là bàn Thư ký phiên tòa. Cũng phía dưới và bên tay phải
HĐXX là bàn của đại diện VKS, bên tay trái đối diện VKS là bàn của Luật sư,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố
tụng khác ngồi phía dưới đối diện với Thư ký phiên tòa. Đặc biệt, việc bố trí chổ
ngồi của KSV và LS ngang hàng và đối diện nhau là thể hiện sự bình đẳng theo
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Ngày
2/11/2015, tại Hà Nội, TANDTC đã tổ chức hội thảo về “Đề án đổi mới trang
phục của thẩm phán, hội thẩm và mô hình phòng xét xử”. Rất nhiều ý kiến ủng
hộ việc bố trí lại vị trí chỗ ngồi của KSV và LS để thể hiện sự bình đẳng, tạo tâm
lý thuận lợi cho LS khi tranh tụng. Cách thức bố trí vị trí ngồi tại phiên tòa của
Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã được các cấp ủy, chính quyền
thành phố đánh giá cao, các cơ quan tố tụng của thành phố ủng hộ và nhận được
đồng tình rất lớn của dư luận quần chúng nhân dân. Nhiều đoàn công tác của
Ban Chỉ đạo cải cách Trung ương, Ủy ban Pháp luật, Ủy Ban Tư pháp Quốc hội
đến làm việc và đánh giá cao về cách thức bố trí vị trí ngồi của Tòa án nhân dân
hai cấp thành phố Đà Nẵng. Nhiều đại biểu ủng hộ mô hình phòng xử của
TAND thành phố Đà Nẵng. Ngày 28/7/2017, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa
Bình đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC Quy định về phòng xử
án. Cách bố trí về mô hình phòng xử án cơ bản như các bố trí của Tòa án nhân
dân Thành phố Đà Nẵng đã áp dụng từ năm 2015. Cách bố trí mô hình này được
34
đánh giá là đáp ứng được tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp, đảm bảo thể hiện được vị trí, vai trò trung tâm của
HĐXX. Cách bố trí như trên cũng thể hiện sự linh động trong xét xử các loại vụ
án, vừa đáp ứng được tình hình thực tế của Tòa án trên cả nước hiện nay. Đây là
cơ sở Tòa án đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện trên
thực tế, là thực hiện tinh thần cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa giữa kiểm sát viên (bên buộc tội) và luật sư (bên gỡ tội)”.
Có thể thấy rằng, tại các phiên tòa hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp
Thành phố Đà Nẵng được tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp, nguyên tắc
tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013 được vận dụng trong thực tiễn xét xử.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử nghiên cứu kỹ hồ
sơ vụ án, các tình tiết, tài liệu mới hoặc có mâu thuẫn trong lời khai bị cáo,
người tham gia tố tụng đều được các bên tranh luận làm sáng tỏ, nếu không làm
rõ tại phiên tòa thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ để điều tra
tra bổ sung được đánh giá có căn cứ và được Viện kiểm sát cùng chấp nhận đạt
tỷ lệ cao.
Ngoài ra, qua công tác xét xử các năm, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố
Đà Nẵng, trong quá trình xét xử, thực hiện nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại
phiên tòa cho các bên, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chấp nhận đề nghị,
yêu cầu của Luật sư HĐXX, đã đề nghị khởi tố thêm bị can được, khởi tố thêm
tội danh được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chấp nhận như: bị can Nguyễn
Thanh Quang trong vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", truy tố thêm Nguyễn
Thanh Quang hoặc vụ án Trịnh Võ Tàu và đồng bọn bị Viện kiểm sát truy tố về
tội giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ; sau khi Tòa
án nhân dân thành phố nghiên cứu hồ sơ tiến hành xét xử đã trả hồ sơ đề nghị
Viện kiểm sát truy tố thêm bị cáo Thái Văn Vy về tội đe dọa giết người và được
Viện kiểm sát nhân dân thành phố chấp nhận hoặc vụ án Võ Thanh Dũng bị Viện
kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài,
Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung và
35
được Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án trả tự do cho bị cáo, hoặc trong
vụ án Lê Thị Ngọc Mai bị cấp sơ thẩm xét xử về tội "Cướp tài sản": qua xét hỏi
và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy chứng cứ buộc tội đối với bị cáo
chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề chưa được điều tra làm rõ nên đã hủy vụ án này
để điều tra, xét xử lại.
Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm qua vấn đề đảm bảo tranh
tụng đã cải thiện đáng kể, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Tòa án
nhân dân hai cấp Thành phố Đà Nẵng, đã nghiêm túc thực hiện chủ trương tranh
tụng, phiên tòa xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa.
2.1.2. Những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tòa
án nhân dân Thành phố Đà Nẵng
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình
sự của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng có rất nhiều nỗ lực nên đã đạt được
những thành quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn
nhiều hạn chế cần khắc phục.
Trong tố tụng hình sự, luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án với
tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định ở nhiều văn bản có giá trị
pháp lý cao như Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc điểm nổi bật trong giai
đoạn điều tra là: Cán bộ điều tra là người nắm quyền chủ động, dễ coi thường
người bị tình nghi phạm tội, thường không khách quan, toàn diện, phần lớn thiên
về hướng “quy tội”; Người bị “tình nghi phạm tội” là người yếu thế, bị động,
thường có tâm lý hoang mang, dao động, không ổn định trong lời khai (dễ có lời
khai khác nhau); Luật sư bào chữa đóng vai trò tư vấn pháp lý cho bị can, người
được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật
bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh,
sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy
36
định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra để minh oan cho người
bị “tình nghi phạm tội”.
Mặc dù pháp luật đã có nhiều quy định về đảm bảo về quyền bào chữa,
tham gia bào chữa của Luật sư. Vì vậy, mặc dù sau khi đăng ký bào chữa được
cơ quan điều tra chấp nhận thì việc tiếp cận bị can vẫn còn có thể gặp những khó
khăn mới nảy sinh. Việc gặp gỡ bị can trong giai đoạn này là hoạt động cần thiết
và được luật tố tụng hình sự cho phép, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư
muốn tiếp cận bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra
lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp
được bị can”… Quá trình lấy lời khai, hỏi cung ở những giai đoạn quan trọng
thường ít có sự chứng kiến của luật sư. Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công
an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư
trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Nhưng thực tế, có
những trường hợp luật sư bị hẹn sai giờ, không được thông báo hoặc thậm chí có
trường hợp bắt đầu hỏi cung bị can thì điều tra viên mới thông báo cho luật sư
biết nên luật sư không thế bố trí thời gian kịp để tham gia hỏi cung… Việc luật
sư tiếp cận tài liệu, chứng cứ của vụ án còn có phần hạn chế. Pháp luật tố tụng
hình sự cho phép luật sư được sao chụp hồ sơ vụ án, nhưng có nhiều vụ án luật
sư rất khó tiếp cận hồ sơ do cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn thiện,
vụ án có tính chất phức tạp, viện kiểm sát chưa phúc cung…dẫn đến kéo dài thời
gian không cho Luật sư nghiên cứu hồ sơ. Sau nay, giai đoạn xét xử khi được hỏi
lý do từ chối Luật sư có bị cáo đã khai rằng, trong quá trình điều tra Điều tra
viên đã ép buộc bị cáo từ chối luật sư bào chữa, với lý do nếu có luật sư tham tội
bị cáo sẽ bị nặng hơn. Vì vậy, khi được giải thích quyền của mình bị cáo đã yêu
cầu luật sư bào chữa, dẫn đến hoãn phiên tòa, hay hủy án làm vụ án kéo dài mất
thời gian, tốn kém.
Ví dụ: Vụ Nguyễn Hữu Tài cùng các bị cáo khác phạm tội “Cướp tài sản”
(Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân
quận Thanh Khê) bị hủy án để điều tra lại vì lý do: Quá trình điều tra đã vi phạm
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng

More Related Content

What's hot

What's hot (19)

Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên, HOT, 9đ
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Quyền của người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dânLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong cơ quan Tòa án Nhân dân
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOTLuận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng BìnhLuận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ ánVai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
Vai trò của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong xét xử vụ án
 

Similar to Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng

Similar to Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng (20)

Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.docThủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩmThẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Recently uploaded (20)

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NA BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ NA BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 838.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN Hà Nội – năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Thị Na
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ ..................................... 7 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự ....................7 1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự......................19 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG..... 27 2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng .27 2.2. Nguyên nhân những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng..................................................................47 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ............................................................. 55 3.1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự trong giai đoạn hiện nay .......................................................................................................55 3.2. Các giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự...............................57 KẾT LUẬN..................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử TTHS: Tố tụng hình sự VKS: Viện kiểm sát
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thực tiễn xét xử, quy định tranh tụng tại phiên tòa hình sự là một trong những nội dung quan trong trong hoạt động tố tụng hình sự của nươc ta. Thực hiện tốt vấn đề về bảo đảm tranh tụng nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ, sự công bằng giữa các chủ thể tham gia tố tụng, đảm bảo tốt tranh tụng còn là cơ sở để HĐXX đưa ra quyết định, bản án đúng người, đúng tội, khách quan và đúng pháp luật. Xuất phát từ lý luận cũng như thực tiễn trong quá trình xét xử, đánh giá tầm quan trọng hoạt động bảo đảm tranh tụng tại phiên toa hình sự đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, cụ thể các Nghị quyết về cải cách tư pháp kể đến như: Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002; Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005. Theo đó, Nghị quyết 49/NQ-TW nêu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp...” [7]; Nghị quyết 08/NQ- TW nêu một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, như “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” [6].. Vấn đề tranh tụng được Đảng và Nhà nước ta quan tâm trong thời gian gần đây. Hiến pháp năm 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [23]; nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” được BLTTHS năm 2015 đã bổ sung, ghi nhận [22]. Bảo đảm tranh tụng trong xét xử được ghi nhận trong Bộ luật tô tụng hình sự là nguyên tắc, điều đó thể hiện áp dụng tinh thần, bước tiến tiến bộ, trong quá trình xây dựng pháp luật của Nhà nước ta, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp trong các nghị quyết đã đề ra.
  • 7. 2 Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự trong thời gian qua cho thấy hoạt động tranh tụng tại các phiên toà hình sự trên phạm vi cả nước nói chung và địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, đã có tiến bộ nhưng đánh giá chung vẫn còn nhiều tồn tại, thiếu sót tạo, chưa đảm bảo đúng yêu cầu của cải cách tư pháp về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa. Nhiều trường hợp Tòa án chưa giải quyết thỏa đáng yêu cầu triệu tập người làm chứng, hoãn phiên Tòa. Có phiên tòa việc tranh luận chỉ mang tính hình thức. Quyết định của bản án ở nhiêu tòa án còn thiếu sót chưa căn cứ và diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên tòa mặc dù đã có tranh luận. Vì vậy, nâng cao chất lượng đảm bảo tranh tụng là một đòi hỏi mà Đảng, nhà nước và xã hội đặt ra cho các cơ quan tư pháp. Đối với Tòa án bảo đảm tranh tụng tại phiên toà là vấn đề rất quan trọng, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 đã đưa lên hàng đầu vai trò và nhiệm vụ Toàn án là “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân sau đó mới quy định tiếp bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân” [23]. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp uy tín, vai trò của ngành Tòa án nhân dân trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Với những chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra trên cơ sở Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp, Quốc hội đã có kế hoạch và ban hành nhiều văn bản, quy định pháp luật ở văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến phóa, Bộ luật, Luật… liên quan đến vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự, đây là những quy định tiến bộ đảm bảo tranh tụng được thực hiện tốt trong quá trình xét xử hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học pháp lý có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nhiều gốc độ khác nhau: “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và
  • 8. 3 thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS” của GS.TSKH. Lê Cảm, Đặc san Luật học số 6/2004; “Về nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự” của ThS. Ngô Hồng Phúc, Tạp chí Tòa án nhân dân năm 2003; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 2009; “Vấn đề tranh tụng hình sự” của ThS. Nguyễn Đức Mai, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995; Chuyên đề “Tiến tới xây dựng TTHS ở Việt Nam theo kiểu tranh tụng hình sự” của PGS.TS. Phạm Hồng Hải, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 2003; Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn đề áp dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy năm 2014; “Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp, Hà Nội; “Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên qua các phiên tòa rút kinh nghiệm ở Phú Thọ”, Đoàn Minh Hương, Tạp chí kiểm sát năm 2014; “Kỹ năng giao tiếp của Kiểm sát viên trong hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự” Nguyễn Đức Hạnh, Tạp chí kiểm sát, 2013; “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng trong phiên tòa hình sự”, Nguyễn Kim Chi, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 191, năm 2011; “Bảo đảm quyền của bị can, bị cáo trong phiên tòa mở rộng tranh tụng”, Thanh Nghị, Cần nâng cao năng lực và kỹ năng luận tội, tranh luận của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; Nguyễn Văn Thuận (2014), Hiến pháp 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người và định hướng sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự, Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí dân chủ và Pháp luật, số 08/2003; Phan Văn Sơn, “Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại các phiên tòa hình sự”, Tạp chí kiểm sát, số 12 (06/2014); Lê Hữu Thể (2005), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của Kiểm sát viên”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao … Những công trình nghiên cứu trên đã giải quyết được một số vấn đề về
  • 9. 4 tranh tụng như: Nguyên tắc tranh tụng, mô hình tranh tụng, tranh tụng tại phiên tòa…Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa ở một địa phương như Thành phố Đà Nẵng. Những công trình nghiên cứu trên có giá trị để học viên tham khảo nghiên cứu để hoàn thành luận văn của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự góp phần làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Bên cạnh đó, đưa ra những yêu cầu và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về tranh tụng, bảo đảm tranh tụng, mô hình tranh tụng tại phiên tòa hình sự. - Nghiên cứu bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng. - Yêu cầu và các giải pháp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo tinh thần cải các tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng của Luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định của pháp luật TTHS hiện hành liên quan đến tranh tụng và thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa ở Thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa theo Pháp luật TTHS Việt Nam. - Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng. - Số liệu thể hiện thực trạng công tác xét xử tại Tòa án nhân dân Thành
  • 10. 5 phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật để giải quyết vấn đề. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, diễn giải, bình luận, so sánh đối chiếu, khảo sát thực tế. Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp này được vận dụng đan xen để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài, cho phép rút ra những kết luận khoa học, kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm tranh tụng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Việc nghiên cứu để tài có ý nghĩa tham khảo cho cán bộ, những những người quan tâm đến lĩnh vực này. 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn sẽ góp phần nghiên cứu sâu thêm những quy định pháp luật, cơ sở khoa học, pháp lý về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, là cơ sở để sửa đổi bổ sung những quy định còn bất cập, hạn chế. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Góp phần mở rộng dân chủ trong TTHS, đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo, phù hợp với xu thế dân chủ hóa của thời đại. - Ngoài ra, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam. 7. Kết cấu của đề tài Kết cấu luận văn như sau, nội dung đề tài được bố cục thành 3 Chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự. Chương 2.Thực tiễn bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Toà án
  • 11. 6 nhân dân thành phố Đà Nẵng Chương 3. Các giải phảp tăng cường bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự.
  • 12. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự 1.1.1. Khái niệm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Đến nay, vẫn chưa có văn bản nào nêu rõ khái niệm hay định nghĩa thế nào là “tranh tụng”. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác", trong các tài liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quy định tại khoản 5 Điều 103: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng chỉ có quy định về tranh tụng trong xét xử được bảo đảm được xem là nguyên tắc nhưng chưa có quy định hay giải thích thế nào là “tranh tụng” [16, tr.32-38]. Theo Đại từ tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “Kiện tụng” dùng để “kiện cáo nhau”. Trong khoa học Pháp lý khái niệm tranh tụng hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng: Tranh tụng là những hoạt động tố tụng được bắt đầu từ khi các đương sự thực hiện quyền khởi kiện và kết thúc khi có bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ các giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giai đoạn giám đốc thẩm, tại thẩm. Theo nghĩa hẹp: Tranh tụng là sự đối đáp, đấu tranh giữa các bên trong vụ án với nhau về chứng cứ, yêu cầu, phản đối yêu cầu của mỗi bên để từ đó nhằm chứng minh cho đối phương và Tòa án rằng yêu cầu và phản đối của mình có căn cứ và hợp pháp.
  • 13. 8 Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý, nhà xuất bản tư pháp năm 2005 thì: “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên gỡ tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm và lợi ích của mình, phản bác lại quan điểm và lợi ích của phía đối lập” [42]. Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của hoạt động tố tụng? Trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản là buộc tội, bào chữa và xét xử. Ba chức năng này đan quyện qua lại với nhau và trong sự thống nhất của mình, chúng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án. Khi một nguời bị bắt, bị áp dựng biện pháp tạm giữ hoặc khi một người bị khởi tố với tư cách là bị can thì trong TTHS đồng thời xuất hiện chức năng buộc tội và chức năng bào chữa. Chính từ thời điểm này mới xuất hiện sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa [9, tr.34-37]. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Đây là quan điểm hợp lý, đã khái quát đầy đủ quá trình tranh tụng. So với chức năng xét xử, thì chức năng buộc tội và chức năng bào chữa xuất hiện sớm hơn, song song tồn tại và đối trọng với nhau trong suốt quá trình tố tụng. Chức năng buộc tội và chức năng bào chữa luôn đối lập nhau và các chủ thể tham gia thực hiện hai chức năng này tạo thành hai bên đối tụng: Bên buộc tội và bên bào chữa. Còn chức năng xét xử do chủ thể duy nhất là Toà án thực hiện. Bên có thế mạnh là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được nhân danh quyền lực nhà nước và được sử dụng quyền lực nhà nước để tiến hành các hoạt động tố tụng đối với “bên yếu thế” là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và “bên yếu thế” buộc phải chấp hành các biện pháp tố tụng mà những người tiến hành tố tụng áp dụng [47, tr.214]. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự điều khiển của Tòa án… Chính vì vậy bản chất tranh tụng được thể hiện đầy đủ nhất
  • 14. 9 từ khi bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại , quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tranh tụng - xét dưới góc độ là một “nguyên tắc cơ bản” của tố tụng hình sự: Theo quan niệm chung, nguyên tắc của tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động nhất định “ là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ các chế định pháp luật, các quy phạm pháp luật cụ thể về tố tụng hình sự”; hoặc đó là “những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự và được các văn bản pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận. Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc. Vấn đề là cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS như thế nào? Nguyên tắc này có những nội dung gì? Phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này?...là những vấn đề đang được nghiên cứu, xây dựng BLTTHS sửa đổi, bổ sung. Như vậy, Tranh tụng được hiểu là các hoạt động được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu nhập và đưa ra chứng cứ, trình bày ý kiến để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình và phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập. Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên toà xét xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài [24].
  • 15. 10 1.1.2. Khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định tại Điều 26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Để hiểu thế nào là bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, trước hết cần tìm hiểu thế nào là bảo đảm. Bảo đảm có thể được hiểu là: “Làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [42]. Đặt trong ngữ cảnh để hiểu rõ nội hàm khái niệm bảo đảm, Từ điển luật học diễn giải: Nhà nước các trách nhiệm “bảo đảm cho các quyền công dân đã được ghi trong các đạo luật phải được thực thi, phải tạo điều kiện cho công dân hưởng các quyền đó” [42]. Trong tố tụng hình sự, việc xác định sự thật khách quan của vụ án được trải qua các giai đoạn khác nhau, ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng sẽ thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định; mỗi giai đoạn tố tụng đều có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Theo đó, để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Trong các vụ án hình sự, các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao thực hiện chức năng chứng minh tội phạm, vì vậy họ thường chỉ thu thập những chứng cứ, bằng chứng mang tính chất buộc tội, việc thu thập chứng cứ gỡ tội thường ít chú trọng, trong khi đó bị cáo và người bào chữa thì hạn chế trong việc thu thập các chứng cứ gỡ tội. Thế cho nên, pháp luật tố tụng hình sự cần có những quy định bảo đảm các bên tham gia tố tụng có thể chủ động sử dụng các phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ nhằm lập luận cho quan điểm của mình. Theo quy định của pháp luật, các bên tham gia vào hoạt động tố tụng có nghĩa vụ pháp lý như nhau, trong quá trình thu thập, đánh giá kiểm tra chứng cứ và được đánh giá trong trường hợp cụ
  • 16. 11 thể. Việc quyết định bản án, xác định sự thật của vụ án phải được căn cứ trên cơ các kết quả, tranh tụng công khai tại phiên tòa giữa các bên. Bảo đảm tranh tụng nhằm bảo vệ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá trình tố tụng được thực hiện đầy đủ các biện pháp, các phương tiện được pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ chứng minh cho quan điểm của mình; tranh tụng mở ra cơ hội và tạo điều kiện ngang nhau cho các bên trình bày quan điểm, lý lẽ, cung cấp chứng cứ và phần tranh luận của mình tại phiên tòa. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự phải thực hiện nhiệm vụ, xác định sự thật vụ án, đảm bảo công bằng, để công lý được thực [20]. Từ những phân tích có thể đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự là đảm bảo các điều kiện cần và đủ về chủ thể, các quy định pháp luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham gia tố tụng được đưa ra quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng tỏ sự thật của vụ án, làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý được thực hiện đún với các quy định của pháp luật. 1.1.3. Đặc điểm đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tranh tụng là quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án, đây là nhiệm vụ mà hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới. Trong quá trình thực hiện tốt các phương thức tranh tụng với nhiệm vụ xác định sự thật khách quan vụ án và cũng là công cụ hữu hiệu bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tranh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Có thể hiểu: “Tranh tụng là việc các bên trong tham gia tố tụng được đưa ra các quan điểm, ý kiến, yêu cầu của mình của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hay toàn bộ quan điểm của phía bên kia”. Với ý nghĩa là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho các chủ thể trong việc thực hiện quá trình tranh luận bình đẳng dựa trên chứng cứ. Quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể của bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng,
  • 17. 12 xem xét việc buộc tội, bào chữa và Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Từ đó, có thể khẳng định rằng tranh tụng tại phiên tòa là giai đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện đầy đủ nhất bản chất tranh tụng. Do vậy, đặc điểm bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự thể hiện ở những nội dung sau đây: Thứ nhất, có thể thấy rằng Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các thành viên Hội đồng xét xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên thực hiện tranh tụng. Thứ hai, chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội) và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội). Các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng được phân định rõ ràng, tuy xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Tòa án là cơ quan xét xử điều khiển phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Người bào chữa, bị cáo, bị hại, được bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ và tranh luận đối đáp tại phiên tòa. Pháp luật quy định rất rõ Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Thứ ba, hoạt động tranh tụng tại phiên toà thực hiện dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa
  • 18. 13 phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng để trả lời những ý kiến của phía bên kia đặt ra. Chủ tọa phiên tòa cũng có quyền cắt bỏ ý kiến của các bên tranh tụng nếu ý kiến đó trùng lặp hoặc không liên quan đến vụ án. Chủ tọa phiên tòa phải tạo điều kiện để các bên tranh tụng bình đằng, dân chủ và không được hạn chế thời gian tranh tụng. Thứ tư, để hoạt động tố tụng đạt hiệu quả, HĐXX có trách nhiệm bảo đảm điều kiện cần thiết cho tranh tụng. Đó là bảo đảm sự có mặt của những người tham gia tố tụng, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, bảo đảm các tài liệu chứng cứ mới đều được xem xét tại phiên tòa. Phiên tòa hình sự được đánh giá chất lượng tranh tụng cần có các tiêu chí đánh giá sau đây: + Các bên tham gia tố tụng phải thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn của mình, thực hiện nghiêm các quy định pháp luật, đảm bảo được thực hiện trên thực tế một cách, công bằng, dân chủ. Các bên tham gia tranh tụng phải đảm bảo thực hiện có trách nhiệm nhiệm vụ của mình, lập luận có căn cứ pháp luật, cần tôn trọng ý kiến của nhau, có văn hóa và ứng xử đúng mực trong tranh luận. + Các bên tham gia tố tụng có quyền đưa ra quan điểm, cung cấp các chứng cứ, buộc tội cũng như gỡ tội, việc đưa ra chứng cứ bảo đảm có căn cứ pháp luật, được hội đồng xét xử chấp nhận những quan điểm của mình, nếu việc đưa ra luận điểm, chứng cứ không được chấp nhận thì chất lượng tranh tụng chưa tốt. + Kết quả đánh giá chất lượng giải quyết các vụ án hình sự thể hiện xét xử đúng người, đúng tội, không để xảy ra trường hợp oan sai. Hạn chế tình trạng xét xử oan sai, làm cho các bản án bị cấp trên hủy, sửa. + Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư thực hiện tốt chức năng của mình, chủ động, tích cực, có kế hoạch trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, đảm bảo tốt cho phiên tòa. Việc chuẩn bị tốt, có kế hoạch, đảm bảo vụ án xét xử một cách toàn diện, các bên đưa ra quan điểm, bác bỏ quan điểm có căn cứ, làm cơ sở Thẩm phán ra quyết định bản án, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thông qua đó góp phần bảo đảm chất lượng tranh tụng của được tốt.
  • 19. 14 1.1.4. Cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Với việc ghi nhận và bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo tại Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đây là tư tưởng, quan điểm có tính chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và đã được cụ thể trong các thủ tục tố tụng nói chung, thủ tục xét xử nói riêng, bởi xét xử được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm thực hiện trên thực tế thì cần bảo đảm sau: Một là, đảm bảo về mặt pháp lý. Thứ nhất, việc ghi nhận các nguyên tắc và quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét được bảo đảm ở những văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp và Bộ luật là bước tiến bộ của lập pháp nước ta. Vì vậy, pháp luật cần có cụ thể hóa, bằng các quy định đầy đủ, rõ ràng, về địa vị tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có thể thực hiện được đầy đủ các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi ích của mình, đảm bảo cho các chủ thể được chủ động thu thập vật chứng, chứng cứ, được yêu cầu cung cấp các tài liệu phục vụ cho qua trình xác định sự thật vụ án. Thứ hai, pháp luật quy định rõ mối quan hệ, sự bình đẳng trước Tòa án của giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở các quy định về bảo đảm sự bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng tại phiên tòa mới thực chất. Do vậy, cần mở rộng phạm vi các vụ án hình sự có sự tham gia bắt buộc của luật sư nhằm tạo điều kiện cho tranh tụng được bảo đảm.
  • 20. 15 Hai là, bảo đảm về mặt tổ chức. Cần có sự quy định rõ rằng về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo đúng chức năng của tố tụng hình sự; quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong quá trình hoạt động tố tụng tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực đảm bảo thực hiện tranh tụng tại phiên tòa phù hợp với cơ chế tranh tụng. Cần có sự quan tâm cũng như hỗ trợ của Nhà nước đối với các tổ chức hành nghề luật sư, các trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí, để cho người dân, những đối tượng thuộc diện khó khăn có điều kiện được hưởng tư vấn pháp luật; mở rộng phạm vi bào chữa bắt buộc, thời điểm tham gia bào chữa của luật sư trong vụ án để đảm bảo các vụ án hình sự có người bào chữa được tham gia ngày càng nhiều. Ba là, bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng. Hiện nay, việc áp dụng ghi âm, ghi hình có âm thanh trong điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch 03/2018/TTLT-BCA- VKSNDTC-TANDTC-BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử do Bộ trưởng Bộ Công an - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành (có hiệu lực ngày 18/03/2018), đây là một trong những quy định tiến bộ bảo đảm sự khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, hạn chế tình trạng, bức cung, mớm cung, dùng nhục hình của các cơ quan tố tụng. Vì vậy, cần có sự đảm bảo trang bị đầy đủ, hệ thống cơ sở vật chất của các phòng hỏi cung, lấy lời khai trong quá trình điều tra, truy tố. Đối với hội trường xét xử cần có sự sắp xếp, cấu trúc đảm bảo phù hợp mô hình tranh tụng, vị trí của các bên tham gia phiên tòa bảo đảm thể hiện sự bình đẳng, công bằng, khách quan của bên buộc tội và bên bào chữa, gỡ tội. Hệ thống âm thanh, thiết bị ghi âm, ghi hình rõ ràng, chất lượng để đảm bảo tính nghiêm minh của phiên tòa.
  • 21. 16 Bốn là, nâng cao trình độ, năng lực của các chủ thể thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Đối với những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cần nâng cao trình độ, năng lực công tác, cũng như những hiểu biết của những người tham gia tố tụng, để họ thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Đối với các Thẩm phán, cán bộ công tác tại Tòa án, cần đảm bảo về số lượng và chất lượng, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình được giao. Trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, các Thẩm phán, Hội thẩm cần xác định trách nhiệm, có nhận thức, đảm bảo thống nhất, xác định tầm quan trọng tinh thần cải cách tư pháp về bảo đảm tranh tụng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, Thẩm phán là người cầm cần nảy mực, nên đòi hỏi phải vô tư, khách quan trong quá trình giải quyết vụ án, điều khiển phiên tòa đúng thủ tục, trình tự đảm bảo công bằng, khách quan. Việc ra quyết định, bản án cần xem xét một cách toàn diện trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa. Viện kiểm sát các cấp quan tâm, có kế hoạch về đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nghiệp vụ đội ngũ Kiểm sát viên làm công tác tranh tụng tại phiên tòa. Thường xuyên học tập, tranh bị kỹ năng cần thiết, các kỹ năng nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đối với kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần có sự chuẩn bị kế hoạch chu đáo, dự lường những trường hợp phát sinh tại phiên tòa, nhất là trong những vụ án có nhiều bị cáo, nhiều luật sư tham gia, đảm bảo tranh tụng đúng mực, có căn cứ, tranh luận cần đi vào những nội dung trọng tâm của vụ án. Đối với tổ chức Luật sư tham gia tranh tụng cần tổ chức đào tạo bài bản, đảm chất lượng hoạt động của đội ngũ Luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của xã hội cần phát triển đội ngũ Luật sư cả về số lượng và chất lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp.
  • 22. 17 1.1.5. Ý nghĩa bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự mang nhiều ý nghĩa: Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa có ý nghĩa chính trị sâu sắc, thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp.Từ trước tới nay vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề này, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [7]. Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “…Đặc biệt các chủ trương trên đã được thể chế hóa tại Khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015 khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” Điều 26. Thứ hai, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong việc xét xử. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng được quy định cụ thể trong các văn bản luật, tạo chuyển biến mạnh mẽ về ý thức, nhận thức của các cán bộ, những người tham gia tố tụng khi tham gia vào hoạt động tranh tụng. Với những quy định của pháp luật được ghi nhận, trong hoạt động xét xử của Tòa án sẽ thay đổi cách thwucs thực hiện, đổi mới đảm bảo tranh tụng để có một phiên tòa công bằng, dân chủ. Thứ ba, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong hoạt động tố tụng hình sự, một bên cơ quan tiến hành tố tụng với đầy đủ trang thiết bị, chức năng nhiệm vụ, một bên là người bị buộc tội yếu thế nên đây được xem là hoạt động nhạy cảm ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền con người. Việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa được Quy định trong Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự bằng các quy định đúng đắn, hợp lý,
  • 23. 18 khả thi và đảm bảo thực hiện các quy định đó trên thực tế, trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở các quốc gia. Thứ tư, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa thể hiện tính nhân văn, nhân đạo được trong những trường hợp theo quy định của pháp luật, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không có điều kiện để mời Luật sư bào chữa thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong chức năng, nhiệm vụ của mình yêu cầu đoàn luật sư cử người bào chữa cho họ (nếu các vụ án thuộc trường hợp chỉ định). Trong các trường hợp khác cần tạo điều kiện để người bào chữa và bị cáo thực hiện các quyền đặc biệt là quyền thu thập, đánh giá chứng cứ tranh luận tại phiên tòa, để đảm bảo quyền cho người được bào chữa. Thứ năm, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa biểu hiện của việc thực hiện bình đẳng, dân chủ trong hoạt động tư pháp TTHS. Pháp luật quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án đảm bảo bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi. Thứ sáu, bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm, không để oan sai. Hoạt động tố tụng với các thủ tục xét xử công khai, bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bản án của Toà án chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên.” Với quy định của nguyên tác tranh tụng góp phần khắc phục tình trạng để xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế đến mức tối đa tình trạng bị oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đảm bảo Tòa án ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
  • 24. 19 1.2. Quy định pháp luật về bảo đảm tranh tụng phiên tòa hình sự Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, việc các quy định pháp luật về mở rộng quyền dân chủ, đã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nhằm đảm bảo công bằng xã hội, sự nghiêm minh của pháp luật được thực thi. Vấn đề đảm bảo quyền con người được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chú trọng, đặc biệt trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Xác định được tầm quan trọng đó, đảng và nhà nước ta có nhiều chính sách, chủ trương về công tác cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, chất lượng giải quyết các vụ án. Các chính sách, quy định của tố tụng hình sự đảm bảo đầy đủ, công bằng đảm bảo khách quan, chính xác, không bỏ lọt tội phạm cũng như không được làm oan người vô tội được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và xem đây là một trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp đã được Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ghi rõ "nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [7]; Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp đề cập "nâng cao chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác" [6]. Tuy nhiên, trước đây Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) vẫn chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được ban hành, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nguyên tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý tối cao của Nhà nước. Hiến pháp 2013, tại khoản 5 Điều 103 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc tranh tụng trong BLTTHS. Ngày 27/12/2015 BLTTHS đã được Quốc hội thông qua, nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 như sau:
  • 25. 20 “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án….[22]. Trên cơ sở bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều nội dung để cụ thể hóa, bảo đảm nguyên tắc này được thực hiện trên thực tế: - Một là: Quy định đầy đủ các quyền và các cơ chế để đảm bảo các quyền của người bị buộc tội, nhất là quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Theo đó, người buộc tội (người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo), đã bổ sung một nhóm các quyền mới nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như: Quyền được các cơ quan THTT cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội; Quyền được trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; Quyền đọc, ghi chép ban sao hoặc tài liệu đã được đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao các tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; Quyền đưa ra chứng cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra các tài liệu, đồ vật như hiện nay. Bị can quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội (Điều 60). Để bảo đảm quyền tự bào chữa, quyền nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan trong việc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 có rất nhiều sự sửa đổi, bổ sung quan trọng, cụ thể: Mở rộng chủ thể được đảm bảo quyền bào chữa, theo đó, ngoài 03 chủ thể đã được bảo đảm quyền bào chữa: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được đảm bảo quyền bào chữa (Điều 58);
  • 26. 21 Mở rộng và chính thức ghi nhận địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý theo đó, BLTTHS năm 2015, Người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; và Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Mở rộng diện người bào chữa theo chỉ định, theo đó cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải chỉ định người bào chữa cho bị can, bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà BLHS quy định mức cao nhất là 20 năm tù, thay vì mức cao nhất là tử hình như quy định của BLTTHS năm 2003; Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa, thay vì chỉ có người bị buộc tội và người đại diện hợp pháp của họ có quyền mời người bào chữa (Điều 75); - Hai là: Quy định đầy đủ các quyền và cơ chế bảo đảm các quyền của người bào chữa, tạo sự bình đẳng và các điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng hình sự. Để bảo đảm tranh tụng dân chủ, cũng như đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, BLTTHS 2015 quy định cho người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ thay vì chỉ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật như hiện nay; đồng thời, quy định người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá (Điều 73); BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (kể từ khi có người bị bắt) thay vì tham gia từ khi có quyết định tạm giữ như hiện nay (Điều 74). Đồng thời, ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, luật sư có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83); Nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tránh sự nhận thức không chính xác rằng người người bào chữa tham gia tố tụng hoàn toàn phụ thuộc vào sự chấp nhận hay không của cơ quan TTHS, BLTTHS năm 2015 đã quy định chuyển đổi thủ tục “cấp giấy chứng nhận người bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, đồng thời rút ngắn thời gian đăng ký bào chữa từ 03 ngày xuống còn 24h nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận vào quá trình
  • 27. 22 giải quyết vụ án. Văn bản thông báo người bào chữa (hình thức pháp lý công nhận đủ điều kiện đăng ký bào chữa) có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng, thay vì chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng như trước đây; Nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, tiếp cận ngay từ đầy với các chứng cứ buộc tội, gỡ tội trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ trình tự, thủ tục để người bào chữa được gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam, cụ thể: Để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Bổ sung quy định về trách của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc bố trí thời gian, địa điểm để người bào chữa đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra khi người bào chữa có yêu cầu (Điều 82); Bổ sung và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng để người bào chữa tham gia theo quy định của pháp luật (Điều 79); BLTTHS năm 2015 quy định về cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, theo đó để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa (Khoản 2 Điều 88). - Ba là: Quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên và các trình tự, thủ tục trong giai đoạn điều tra, truy tố để bảo đảm việc buộc tội, tranh tụng tại phiên tòa. BLTTHS năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan THTT, như Viện kiểm sát, kiểm sát viên thực hành quyền công tố ngay từ khi cơ quan điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường
  • 28. 23 hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục (Điều 145). - Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án và các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm việc tranh tụng trong xét xử. Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung nhiều quy định để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Cụ thể như sau: Thứ nhất, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung một điều luật về giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279), trong đó quy định rõ trách nhiệm của Tòa án đối với việc giải quyết yêu cầu của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng về việc cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa. Đây là quy định mới có ý nghĩa quan trọng trong việc sàng lọc các chứng cứ buộc tội được thu thập không hợp pháp, việc tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội liên quan việc đánh giá chứng cứ có cơ hội được thực hiện ngay trước khi mở phiên tòa và bảo đảm các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được đưa đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp, phiên tòa có đầy đủ các chủ thể tố tụng. Thứ hai, nhằm khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở một số phiên tòa có đông bị cáo, có nhiều luật sư tham gia, do chỉ cho phép tối đa hai Kiểm sát viên tham gia (Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003), Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi theo hướng Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa. Theo quy định mới của bộ luật tố tụng hình sự tron vụ án phức tạp có nhiều kiểm sát viên tham gia. Việc căn cứ và tính chất vụ án và công việc, Viện trưởng quyết định phân công số Kiểm sát viên tham gia phiên tòa (Điều 289).
  • 29. 24 Thứ ba, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, đồng thời nhấn mạnh đến việc tôn trọng ý chí của bị cáo trong trường hợp bị cáo nhận thấy sự vắng mặt của người bào chữa không ảnh hưởng đến quyền tự bào chữa và khắc phục tình trạng phải hoãn phiên tòa nhiều lần do vắng mặt người bào chữa như hiện nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi quy định về sự có mặt của người bào chữa theo hướng trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì cần hoãn phiên tòa. Thứ tư, khắc phục tình trạng trong thực tế trong nhiều phiên tòa, bị cáo không nhận tội và cho rằng việc khai nhận tại Cơ quan điều tra là do bị ép, bức cung, bảo đảm thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa với tư cách là người đã điều tra vụ án (Điều 296) để góp phần làm rõ những chứng cứ hoặc những vấn đề có liên quan đến vụ án, làm rõ trách nhiệm của Điều tra viên, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, bảo đảm các chứng cứ được đưa ra có tính thuyết phục cao hơn, có cơ sở chắc chắn xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thứ năm, để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định về giới hạn của việc xét xử trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh khác nặng hơn tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó nhưng quá trình xét xử phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và tuân thủ các quy định khác của Bộ luật (Điều 298). Thứ sáu, nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm việc tranh tụng không chỉ thể hiện ở phần tranh luận mà còn được thể hiện ngay trong phần xét hỏi, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi tại phiên
  • 30. 25 tòa với thủ tục tranh luận tại phiên tòa (Chương XX và Chương XXI của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) thành “Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa” (Mục V Chương XXI – Xét xử sơ thẩm), coi đây là nội dung cốt lõi thể hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm theo tinh thần Hiến pháp năm 2013. Thứ bảy, đã đổi mới trình tự xét hỏi tại phiên. Các quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung, quy định cụ thể việc tranh tụng đảm bảo được thực hiện nhiều giai đoạn, ngay cả giai đoạn xét hỏi, đảm bảo làm rõ đầy đủ các nội dung, và những người tố tụng tham gia. Luật cũng quy định rõ việc Thẩm phán chủ tọa là người tiến hành điều hành việc hỏi, quy định cho phép ai được hỏi trước, ai được hỏi sau nhằm đảm bảo quá trình hợp lý khi giải quyết vụ án. Thứ tám, để có cơ sở tranh luận dân chủ tại phiên tòa xét xử các vụ án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quy định nội dung luận tội của Kiểm sát viên phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Thứ chín, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ bản án phải căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, theo đó bổ sung yêu cầu đối với bản án sơ thẩm là phải rõ ý kiến của người bào chữa, bị hại, đương sự, người khác tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập; phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, bị hại, đương sự và người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đưa ra; phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
  • 31. 26 Kết luận Chương 1 Trong tranh tụng các bên tham gia tố tụng có lợi ích đối trọng nhau thực hiện, dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình, phản bác quan điểm của phía đối lập nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, được thực hiện chủ yếu giữa bên buộc tội, bên gỡ tội trong tất cả các giai đoạn tố tụng, nhưng tranh tụng tại phiên tòa thể hiện đầy đủ nhất vì được tiến hành công khai giữa các bên tham gia tố tụng bên buộc tội, bên gỡ tội, bào chữa và Tòa án thực hiện chức năng xét xử, với vai trò trung gian, trọng tài. Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự là bảo các điều kiện cần và đủ về chủ thể, các quy định pháp luật, cơ chế thực hiện nhằm đảm bảo để các chủ tham gia tố tụng được đưa ra quan điểm, chứng cứ, luận điểm để tranh luận nhằm sáng tỏ sự thật của vụ án, làm cho kết quả tranh tụng đạt hiệu quả cao; là căn cứ để tòa án đưa ra phán quyết có tính thuyết phục, đảm bảo pháp chế, đảm bảo công lý được thực hiện đún với các quy định của pháp luật. Tranh tụng là nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Để đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng nhằm giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng, cần thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về pháp lý, về tổ chức, về cơ sở vật chất và trình độ, năng lực của các chủ thể tham gia thực hiện nguyên tắc tranh tụng.
  • 32. 27 CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng 2.1.1. Những kết quả đạt được về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, tình hình kinh tế - xã hội của Đà Nẵng đã có những chuyển biến khá vững chắc, đời sống nhân dân ngày được nâng cao. Công tác giữ gìn AN-TT đã thu được nhiều kết quả nổi bật. Tuy nhiên tình hình tội phạm vẫn tiếp tục có diễn biến phức tạp với tính chất, mức độ nguy hiểm và tinh vi. Theo thống kê, trung bình mỗi năm (từ năm 2014-2018) tại Đà Nẵng xảy ra trên 1.000 vụ án hình sự. Đáng chú ý, tội phạm về giết người do nguyên nhân xã hội tăng cao gây bất an lo lắng trong nhân dân. Tội phạm về tín dụng đen diễn biến phức tạp tiềm ẩn nhiều nguy cơ, hệ lụy xấu cho xã hội, làm phức tạp tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Tình trạng người nước ngoài vi phạm pháp luật về xuất nhập cảnh, trộm cắp, đánh bạc qua mạng, cướp giật, tổ chức điều hành, hướng dẫn viên du lịch trái phép có xu hướng gia tăng nhưng chưa có giải pháp ngăn chặn hiệu quả. Tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, chức vụ nổi lên trên lĩnh vực đất đai với hành vi chủ yếu, cố ý làm trái quy định nhà nước, Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, làm giả các giấy tờ giao dịch để giao dịch nhằm chiếm đoạt tài sản; tội phạm công nghệ cao lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt, tội phạm về ma túy vẫn còn diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng nhanh chóng mà nguyên nhân được xác định là sự xuất hiện của các loại ma tuý tổng hợp và chất gây nghiện mới đã làm tăng số người nghiện ma tuý, nhất là người trong độ tuổi chưa thành niên đã tạo ra nhiều khu vực mất an ninh trật tự, tiềm ẩn nguy cơ tội
  • 33. 28 phạm rất lớn. Ngoài ra, cùng quá trình đô thị hóa nhanh, tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, tài chính đầu tư xây dựng, đô thị môi trường, an toàn thực phẩm gây bức xúc dư luận, trong đó nổi lên là tình trạng xây dựng không phép, sai phép, xả thải ra môi trường chưa qua xử lý, rò rỉ nước thải, chất thải rắn không đúng quy định có xu hướng tăng trongg những năm gần đây. Kết quả giải quyết các vụ án hình sự của Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng qua Báo cáo tổng kết công tác 5 năm từ năm 2014 đến năm 2018 như sau: Năm 2014: Tổng số án đã thụ lý là 1.050 vụ 1.793 bị cáo; giải quyết 1.051 vụ 1.778 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,8 % về số vụ và 99,4% số bị cáo. Tăng 07 vụ so với năm công tác 2013. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 52 vụ. Trong đó Tòa án thành phố trả hồ sơ điều tra bổ sung 12 vụ đều được Viện kiểm sát thành phố chấp nhận, đạt tỷ lệ 100%. Tòa án nhân dân các quận huyện trả hồ sơ điều tra bổ sung 40 vụ, Viện kiểm sát chấp nhận 25 vụ, không chấp nhận 15 vụ. Số án bị hủy do sai là 3,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,33%, số án bị sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 0,28% số án đã giải quyết [33]. Năm 2015: Tổng số án đã thụ lý là 990 vụ 1.637 bị cáo; giải quyết 987 vụ 1.626 bị cáo, đạt tỷ lệ 99,7 % về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Giảm 58 vụ, 150 bị cáo so với năm công tác 2014. Số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung là 70 vụ được Viện kiểm sát nhân dân chấp nhận 52 vụ, không chấp nhận 12 vụ còn lại 06 vụ chưa có kết quả. Số án bị hủy do sai là 2.5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,25%, số án bị sửa do sai là 03 vụ, chiếm tỷ lệ 0,5% số án đã giải quyết [34]. Năm 2016: Hai cấp Tòa án đã thụ lý tổng cộng 1.021 vụ 1.800 bị cáo (Trong đó: Thụ lý theo trình tự sơ thẩm là 740 vụ, 1.407 bị cáo; theo trình tự phúc thẩm là 281 vụ, 393 bị cáo). Đã giải quyết 1.004 vụ 1.750 bị cáo, đạt tỷ lệ 98,3% về số vụ và 97,2% về số bị cáo. Tăng 31 vụ, 163 bị cáo so với năm công tác 2015. Trả hồ sơ điều tra bổ sung là 74 vụ được Viện kiểm sát nhân dân chấp nhận 64 vụ, không chấp nhận 10 vụ. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là 0,64%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ quan là 0,54% so với số án đã giải quyết [35].
  • 34. 29 Năm 2017: Tổng thụ lý 1.085 vụ, 1.806 bị cáo. So với năm 2016 tăng 64 vụ, 77 bị cáo. Đã giải quyết 1.080 vụ, 1.789 bị cáo. Đạt tỷ lệ 99,5% về số vụ và 99,1% về số bị cáo. Còn lại 05 vụ, 17 bị cáo đang trong thời hạn giải quyết. Hai cấp Tòa án đưa ra xét xử lưu động 227 vụ, tăng 61 vụ so với năm 2016, đạt tỷ lệ 21% trên tổng số án hình sự giải quyết. Trả hồ sơ điều tra bổ sung 94 vụ, Viện kiểm sát nhận tiến hành điều tra lại 63 vụ; có 19 vụ quan điểm giữa Tòa án và Viện kiểm sát còn khác nhau, căn cứ vào Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về giới hạn của việc xét xử, Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử; còn lại chưa có kết quả. Tỷ lệ bản án bị hủy do lỗi chủ quan là 0,47%, tỷ lệ bản án bị sửa do chủ quan là 0,72% so với số án đã giải quyết [36]. Năm 2018: Tổng thụ lý 1.240 vụ, 2.130 bị cáo (theo trình tự sơ thẩm là 970 vụ, 1694 bị cáo, theo trình tự phúc thẩm là 270 vụ, 436 bị cáo). Đã giải quyết 1.233 vụ, 2.116 bị cáo. Đưa ra xét xử lưu động 67 vụ, đạt tỷ lệ 5,4% trên tổng số án đã giải quyết, xét xử; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung cơ bản đảm bảo có căn cứ đúng pháp luật, Viện kiểm sát chấp nhận 57/74 vụ, tỷ lệ 77,02%, các vụ việc còn lại là do quan điểm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau chiếm 22,08%. Đạt tỷ lệ 99,4% về số vụ và 99,3% về số bị cáo. Số bản án, quyết định bị hủy do sai là 2,5 vụ, chiếm tỷ lệ 0,2%. Số bản án, quyết định bị sửa do sai là 19 vụ, chiếm tỷ lệ 1,54% [37]. Qua Báo cáo công tác Tòa án các năm trên chúng tôi thấy rằng: Các vụ án hình sự đều được giải quyết trong thời hạn luật định, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã nỗ lực rất lớn trong việc đưa ra xét xử, giải quyết kịp thời các vụ án về hình sự, tỷ lệ giải quyết tiếp tục duy trì ở mức cao trên 99,8% số án thụ lý đây là tỷ lệ cao so với các tòa án Thành phố và tỉnh khác; chất lượng giải quyết các vụ án hình sự đạt kết quả cao, án bị hủy và bị sửa thấp chiếm tỷ lệ 0,2% đến 0,5% ; việc xét xử đảm bảo đúng pháp luật, không có trường hợp bị kết án oan đảm bảo nghiêm minh, đúng pháp luật, được dư luận quần chúng nhân dân đồng tình, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của chính quyền địa phương và góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục ý
  • 35. 30 thức pháp luật trong nhân dân. Hình phạt được áp dụng tron các vụ án tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội, đáp ứng yêu cầu trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm xảy ra. Đặc biệt các vụ án về tham nhũng đều xử mức án nghiêm minh, không có trường hợp được hưởng án treo. Quá trình công tác xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng trong những năm qua, các cơ quan tố tụng của Thành phố Đà Nẵng về cơ bản đã thực hiện đúng các quy định về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện. Qua nghiên cứu các hồ sơ vụ án, các giai đoạn tiến hành tố tụng thì thấy rằng ngay tại giai đoạn Điều tra, có nhiều vụ án Luật sư bào chữa tham gia, đã được các cơ quan tiến hành tố tụng tạo điều kiện trong thủ tục đăng ký bào chữa, việc thu thập cung cấp chứng cứ, giải quyết nhiều yêu cầu của Luật sư như cung cấp nhiều chứng cứ mới gỡ tội được chấp nhận, yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung về thay đổi tội danh trong giai đoạn Điều tra, Truy tố đã được chấp nhận trước khi chuyển đến Tòa án. Tỷ lệ Luật sư tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự qua các năm đạt tỷ lệ 30% đến 40% là tương đối cao so với các tỉnh thành khác. Ở nước ta, tính trung bình cứ 20.500 dân mới có 1 luật sư, trong khi tỷ lệ này ở Singapore là 1000 dân/1 luật sư, ở Thái Lan là 1.700 dân/1 luật sư, ở Nhật Bản là 5.500 dân/1 luật sư. So với các nước phát triển, độ chênh của tỷ lệ này còn thấp hơn nhiều. Ví dụ, ở Mỹ, cứ 270 dân có 1 luật sư, ở Pháp là 500 dân/1 luật sư. Như vậy, so với chỉ tiêu mà Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp đề ra đến năm 2020 cố gắng nước ta có khoảng 18.000 luật sư thì con số luật sư hiện có còn rất khiêm tốn. Nếu tính theo hoạt động của luật sư tham gia bào chữa ở các phiên toà hình sự thì nước ta có tới 80% các vụ án chưa có luật sư tham gia tố tụng. Thực trạng trên đã gây khó khăn cho cả luật sư lẫn các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này khiến cho mục tiêu mà Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đề ra là tranh trụng tại phiên phải đảm bảo dân chủ, bình đẳng và kết quả xét xử phải dựa trên kết quả tranh tụng chưa được hiện thực nhanh chóng. Trong quá trình chuẩn xét xử và tại phiên tòa, Tòa án luôn tạo điều kiện cho Luật sư đảm bảo đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ không hạn chế thời gian
  • 36. 31 nghiên cứu. Tại phiên tòa hình sự, thủ tục bắt đầu phiên tòa, các yêu cầu của Luật sư như triệu tập thêm Người làm chứng, Người giám định, Điều tra viên, cung cấp thêm các chứng cứ mới…để đảm bảo quá trình tranh tụng hiệu quả đã có nhiều phiên tòa Thẩm phán chủ Tọa phiên tòa đã cho tạm dừng phiên tòa hoặc hoãn phiên tòa theo đúng quy định pháp luật để triệu tập thêm đầy đủ thành phần. Quá trình xét hỏi Tòa án tạo điều kiện cho Luật sư thực hiện quyền xét hỏi không giới hạn thời gian, không ngắt lời như một số phiên Tòa trước đây các Luật sư phản ánh. Tòa án cũng tạo điều kiện cho Luật sư tham gia tranh luận với Viện kiểm sát, nhiều phiên Tòa Hội đồng xét xử yêu cầu Viện kiểm sát phải đối đáp lại các quan điểm của luật sư đưa ra, yêu cầu Đại diện viện kiểm sát đối đáp rõ chấp nhận hoặc không chấp nhận, căn cứ pháp lý, đã hạn chế được tình trạng Kiểm sát viên không đối đáp mà nêu bảo lưu quan điểm của mình tại Cáo trạng. Trong các bản án, áp dụng đúng nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa các yêu cầu, lập luận của Luật sư, quan điểm của Viện kiểm sát đa số đã được các Chủ tọa phiên tòa phân tích trong các bản án. Qua số liệu và phân tích trên thấy rằng, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng là địa phương có tỷ lệ án hình sự bị hủy, bị cải sửa do sai thấp so với các địa phương khác cả nước. Cụ thể toàn ngành hằng năm tỷ lệ án hủy khoảng 0,3% án đã giải quyết; án bị sửa do sai 0,62% số án đã giải quyết. Án hình sự được xét xử trong hạn luật định, đạt 100% số án thụ lý. Quá trình giải quyết các vụ án được thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự và tinh thần cải cách tư pháp, đảm bảo cho những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình; phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà nên đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để xảy ra tình trạng oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Về đảm bảo cơ sở vật chất, hội trường xét xử, chỗ ngồi của những người tham gia tố tụng. BLTTHS 2015 là quy định về phòng xử án (Điều 257). Thực hiện quy định của Nhà nước, các phòng xử án được bố trí, sắp xếp thể hiện sự trang nghiêm, an toàn nhưng đảm bảo được sự bình đẳng giữa luật sư và người
  • 37. 32 thực hành quyền công tố. Điều luật cũng giao cho Chánh án TANDTC quy định cụ thể về phòng xử án theo tinh thần trên. Tại phiên tòa hoạt động tranh tụng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, là căn cứ để HĐXX đưa ra phán quyết. Do đó, để đảm bảo nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng thì những chủ thể có quyền tranh tụng phải có vị trí ngồi ngang bằng với nhau. Trong phiên tòa hình sự Viện kiểm sát là cơ quan thực hiện quyền công tố và Kiểm sát viên thực hiện chức năng chứng minh hành vi phạm tội, họ phải có nghĩa vụ tranh trụng với bị cáo, người bảo vệ quyền vào lợi ích hợp pháp của bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác. Xét về quan hệ tranh tụng thì quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng là ngang bằng nhau nên đại diện Viện kiểm sát không thể có vị trí ngồi cao hơn những người tham gia tố tụng. Sau nhiều năm thực hiện theo mô hình trên, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nhận thấy việc bố trí ngồi như trên là không phù hợp với nền tư pháp hiện đại, không đảm bảo đúng định hướng theo tinh thần cải cách tư pháp được đề ra tại Nghị quyết 08 - NQ/TW và Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị; không đáp ứng được yêu cầu dân chủ, tiến bộ trong hoạt động xét xử, gây khó khăn cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Việc bố đại diện Viện kiểm sát và Thư ký phiên tòa ngồi ngang hàng với HĐXX khiến vai trò của mỗi chủ thể không được thể hiện đúng, dẫn đến việc ngộ nhận về thẩm quyền, chức năng của HĐXX và các chủ thể khác trong hoạt động xét xử . Trước những hạn chế, bất cập đó, năm 2012, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã chủ động báo cáo với Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố, Thành ủy Đà Nẵng và đã thay đổi vị trí ngồi của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa theo mô hình mà hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đang áp dụng, kể cả các nước có chế độ chính trị tương đồng với Việt Nam như Trung Quốc…. Theo đó, chỉ có Hội đồng xét xử mới được ngồi ở vị trí cao nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường.
  • 38. 33 Ngồi phía dưới và ngay trước HĐXX là bàn của Thư ký phiên tòa. Cũng ngồi phía dưới và bên tay phải HĐXX là bàn của đại diện Viện kiểm sát, bên tay trái, đối diện với Viện kiểm sát là bàn của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Riêng những người tham gia tố tụng ngồi phía dưới, đối diện với thư ký phiên tòa. Như vậy, Phòng xử của TAND thành phố Đà Nẵng là Tòa án đầu tiên trong cả nước thay đổi vị trí chỗ ngồi theo tinh thần Điều 257 BLTTHS 2015 trước khi bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực. Theo đó, HĐXX ngồi ở vị trí cao nhất, riêng biệt, dưới Quốc huy và chính giữa hội trường. Ngồi phía dưới và ngay trước HĐXX là bàn Thư ký phiên tòa. Cũng phía dưới và bên tay phải HĐXX là bàn của đại diện VKS, bên tay trái đối diện VKS là bàn của Luật sư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người tham gia tố tụng khác ngồi phía dưới đối diện với Thư ký phiên tòa. Đặc biệt, việc bố trí chổ ngồi của KSV và LS ngang hàng và đối diện nhau là thể hiện sự bình đẳng theo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được quy định tại Hiến pháp năm 2013. Ngày 2/11/2015, tại Hà Nội, TANDTC đã tổ chức hội thảo về “Đề án đổi mới trang phục của thẩm phán, hội thẩm và mô hình phòng xét xử”. Rất nhiều ý kiến ủng hộ việc bố trí lại vị trí chỗ ngồi của KSV và LS để thể hiện sự bình đẳng, tạo tâm lý thuận lợi cho LS khi tranh tụng. Cách thức bố trí vị trí ngồi tại phiên tòa của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng đã được các cấp ủy, chính quyền thành phố đánh giá cao, các cơ quan tố tụng của thành phố ủng hộ và nhận được đồng tình rất lớn của dư luận quần chúng nhân dân. Nhiều đoàn công tác của Ban Chỉ đạo cải cách Trung ương, Ủy ban Pháp luật, Ủy Ban Tư pháp Quốc hội đến làm việc và đánh giá cao về cách thức bố trí vị trí ngồi của Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng. Nhiều đại biểu ủng hộ mô hình phòng xử của TAND thành phố Đà Nẵng. Ngày 28/7/2017, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã ban hành Thông tư số 01/2017/TT-TANDTC Quy định về phòng xử án. Cách bố trí về mô hình phòng xử án cơ bản như các bố trí của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng đã áp dụng từ năm 2015. Cách bố trí mô hình này được
  • 39. 34 đánh giá là đáp ứng được tinh thần của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, đảm bảo thể hiện được vị trí, vai trò trung tâm của HĐXX. Cách bố trí như trên cũng thể hiện sự linh động trong xét xử các loại vụ án, vừa đáp ứng được tình hình thực tế của Tòa án trên cả nước hiện nay. Đây là cơ sở Tòa án đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được thực hiện trên thực tế, là thực hiện tinh thần cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa giữa kiểm sát viên (bên buộc tội) và luật sư (bên gỡ tội)”. Có thể thấy rằng, tại các phiên tòa hình sự của Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Đà Nẵng được tổ chức theo tinh thần cải cách tư pháp, nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013 được vận dụng trong thực tiễn xét xử. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, các tình tiết, tài liệu mới hoặc có mâu thuẫn trong lời khai bị cáo, người tham gia tố tụng đều được các bên tranh luận làm sáng tỏ, nếu không làm rõ tại phiên tòa thì trả hồ sơ điều tra bổ sung. Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ để điều tra tra bổ sung được đánh giá có căn cứ và được Viện kiểm sát cùng chấp nhận đạt tỷ lệ cao. Ngoài ra, qua công tác xét xử các năm, Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Đà Nẵng, trong quá trình xét xử, thực hiện nguyên tắc đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa cho các bên, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chấp nhận đề nghị, yêu cầu của Luật sư HĐXX, đã đề nghị khởi tố thêm bị can được, khởi tố thêm tội danh được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chấp nhận như: bị can Nguyễn Thanh Quang trong vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", truy tố thêm Nguyễn Thanh Quang hoặc vụ án Trịnh Võ Tàu và đồng bọn bị Viện kiểm sát truy tố về tội giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ; sau khi Tòa án nhân dân thành phố nghiên cứu hồ sơ tiến hành xét xử đã trả hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát truy tố thêm bị cáo Thái Văn Vy về tội đe dọa giết người và được Viện kiểm sát nhân dân thành phố chấp nhận hoặc vụ án Võ Thanh Dũng bị Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn truy tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung và
  • 40. 35 được Viện Kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án trả tự do cho bị cáo, hoặc trong vụ án Lê Thị Ngọc Mai bị cấp sơ thẩm xét xử về tội "Cướp tài sản": qua xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, xét thấy chứng cứ buộc tội đối với bị cáo chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề chưa được điều tra làm rõ nên đã hủy vụ án này để điều tra, xét xử lại. Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm qua vấn đề đảm bảo tranh tụng đã cải thiện đáng kể, góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Tòa án nhân dân hai cấp Thành phố Đà Nẵng, đã nghiêm túc thực hiện chủ trương tranh tụng, phiên tòa xét xử theo yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. 2.1.2. Những hạn chế về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng Nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự của TAND hai cấp thành phố Đà Nẵng có rất nhiều nỗ lực nên đã đạt được những thành quả nhất định, tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Trong tố tụng hình sự, luật sư tham gia vào nhiều giai đoạn của vụ án với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đã được pháp luật quy định ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý cao như Hiến pháp, Bộ luật tố tụng hình sự. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn điều tra là: Cán bộ điều tra là người nắm quyền chủ động, dễ coi thường người bị tình nghi phạm tội, thường không khách quan, toàn diện, phần lớn thiên về hướng “quy tội”; Người bị “tình nghi phạm tội” là người yếu thế, bị động, thường có tâm lý hoang mang, dao động, không ổn định trong lời khai (dễ có lời khai khác nhau); Luật sư bào chữa đóng vai trò tư vấn pháp lý cho bị can, người được tiếp cận bị can với tư cách người bào chữa, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ, có trách nhiệm giải thích cho bị can về những quyền được pháp luật bảo đảm, chuẩn bị tâm lý để từ đó giúp người bị “tình nghi phạm tội” bình tĩnh, sáng suốt trong quá trình khai báo, trung thực, khách quan, toàn diện, đúng quy
  • 41. 36 định của pháp luật và xem xét toàn bộ nội dung điều tra để minh oan cho người bị “tình nghi phạm tội”. Mặc dù pháp luật đã có nhiều quy định về đảm bảo về quyền bào chữa, tham gia bào chữa của Luật sư. Vì vậy, mặc dù sau khi đăng ký bào chữa được cơ quan điều tra chấp nhận thì việc tiếp cận bị can vẫn còn có thể gặp những khó khăn mới nảy sinh. Việc gặp gỡ bị can trong giai đoạn này là hoạt động cần thiết và được luật tố tụng hình sự cho phép, tuy nhiên nhiều trường hợp khi luật sư muốn tiếp cận bị can thì thường không thực hiện được do cơ quan điều tra đưa ra lý do là “điều tra viên đang bận công tác khác” hoặc “án phức tạp nên chưa gặp được bị can”… Quá trình lấy lời khai, hỏi cung ở những giai đoạn quan trọng thường ít có sự chứng kiến của luật sư. Thông tư 70/2011/TT-BCA của Bộ Công an quy định điều tra viên phải thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung cho luật sư trước 24 giờ hoặc trước 48 giờ với người bào chữa ở xa. Nhưng thực tế, có những trường hợp luật sư bị hẹn sai giờ, không được thông báo hoặc thậm chí có trường hợp bắt đầu hỏi cung bị can thì điều tra viên mới thông báo cho luật sư biết nên luật sư không thế bố trí thời gian kịp để tham gia hỏi cung… Việc luật sư tiếp cận tài liệu, chứng cứ của vụ án còn có phần hạn chế. Pháp luật tố tụng hình sự cho phép luật sư được sao chụp hồ sơ vụ án, nhưng có nhiều vụ án luật sư rất khó tiếp cận hồ sơ do cơ quan điều tra trả lời hồ sơ chưa được hoàn thiện, vụ án có tính chất phức tạp, viện kiểm sát chưa phúc cung…dẫn đến kéo dài thời gian không cho Luật sư nghiên cứu hồ sơ. Sau nay, giai đoạn xét xử khi được hỏi lý do từ chối Luật sư có bị cáo đã khai rằng, trong quá trình điều tra Điều tra viên đã ép buộc bị cáo từ chối luật sư bào chữa, với lý do nếu có luật sư tham tội bị cáo sẽ bị nặng hơn. Vì vậy, khi được giải thích quyền của mình bị cáo đã yêu cầu luật sư bào chữa, dẫn đến hoãn phiên tòa, hay hủy án làm vụ án kéo dài mất thời gian, tốn kém. Ví dụ: Vụ Nguyễn Hữu Tài cùng các bị cáo khác phạm tội “Cướp tài sản” (Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2016/HSST ngày 15/4/2016 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê) bị hủy án để điều tra lại vì lý do: Quá trình điều tra đã vi phạm