SlideShare a Scribd company logo
1 of 131
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ PHƢƠNG LAN
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI §¸NH B¹C
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(TR£N C¥ Së sè liÖu thùc tiÔn §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Vũ Thị Phƣơng Lan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt trong luận văn
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI ĐÁNH BẠC....................................................................................7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC.................7
1.1.1. Khái niệm định tội danh....................................................................................7
1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh................................................... 11
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng............................. 15
1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc................ 16
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC.......... 21
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội đánh bạc......................... 21
1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội đánh bạc...................... 24
1.3. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI ĐÁNH BẠC THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM....................................................................... 26
1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 1999 ...................................................................................................... 30
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985............................................ 30
1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến
trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999............................................. 38
1.5. TỘI ĐÁNHBẠCTRONGPHÁP LUẬTHÌNHSỰMỘTSỐNƢỚC.........42
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ LOẠI
TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI............. 46
2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999.................................................................................... 46
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc .................................................... 46
2.1.2. Hình phạt ......................................................................................................... 51
2.1.3. Một số điểm mới sửa đổi, bổ sung................................................................ 55
2.2. ĐỊNH TỘI DANH TỘI ĐÁNH BẠC TẠI CẤP SƠ THẨM VÀ
CẤP PHÚC THẨM ....................................................................................... 58
2.2.1. Định tội danh tại cấp sơ thẩm........................................................................ 58
2.2.2. Định tội danh tội đánh bạc tại cấp phúc thẩm.............................................. 61
2.3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI ĐÁNH BẠC CỦA TÒA ÁN CÁC
CẤP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................... 61
2.3.1. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội đánh bạc........................................ 61
2.3.2. Một số tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tại cấp sơ thẩm ....................67
2.3.3. Nguyên nhân của các tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tội đánh
bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội......................................................93
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC................................................. 96
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
ĐÁNH BẠC.................................................................................................... 96
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
BLHS VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC
VĂN BẢN HƢỚNG DẪN ÁP DỤNG THỐNG NHẤT PHÁP
LUẬT VỀ TỘI PHẠM NÀY......................................................................100
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS về tội đánh bạc.................................100
3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể tại Điều 1 Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP hƣớng dẫn áp dụng quy định tại điều 248 Bộ
luật hình sự ....................................................................................................101
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC ...........................106
3.3.1. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ .........................................................106
3.3.2. Giải pháp về đạo đức nghề nghiệp..............................................................109
3.3.3. Giải pháp về tổ chức cán bộ.........................................................................109
3.3.4. Một số giải pháp khác ..................................................................................110
KẾT LUẬN...............................................................................................................121
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................122
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT: Cơ quan điều tra
CTTP: Cấu thành tội phạm
ĐTD: Định tội danh
PLHS: Pháp luật hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự
TP: Thành phố
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang
1 Bảng 2.1: Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh
bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian
từ năm 2010 đến 2013 62
2 Bảng 2.2: Phân tích hình phạt đƣợc áp dụng đối với các
bị cáo bị Tòa án xét xử về tội danh đánh bạc
từ thời gian 2010 đến 2013 63
3 Bảng 2.3: Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo bị
xét xử về tội đánh bạc 64
4 Bảng 2.4: Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh
bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử
trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian từ
năm 2008 đến 2013 64
5 Bảng 2.5: Hình phạt áp dụng 65
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Định tội danh (ĐTD) là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá
thể hoá hình phạt một cách công minh, chính xác đồng thời là cơ sở cho việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét
xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân. Việc ĐTD sai sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn,
đặc biệt là không đảm bảo đƣợc tính có căn cứ của hình phạt đƣợc tuyên, xét
xử không đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên
nhân của tình trạng oan sai đang tồn tại hiện nay.
Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nƣớc
ta, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội đạt đƣợc. Thì mặt
trái của sự phát triển này cũng đã và đang tác động sâu sắc tới đời sống xã hội
của đất nƣớc. Biểu hiện là các tội, tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức
tạp, trong số đó có tội phạm đánh bạc. Đánh bạc xuất phát từ các trò chơi,
nhƣng nó không mang mục đích giải trí thông thƣờng mà nhằm sát phạt nhau
về kinh tế, tác động tiêu cực đến xã hội. Trong những năm gần đây, mặc dù
công tác phòng chống tội đánh bạc đã thực sự đƣợc chú trọng, nhƣng thực sự
đƣợc chú trọng, nhƣng thực tế cho thấy tình hình tội đánh bạc diễn ra hết sức
phức tạp. Tội đánh bạc tồn tại dƣới nhiều hình tức với quy mô lớn nhỏ khác
nhau, tài sản là phƣơng tiện thanh toán việc đƣợc thua có giá trị không ngừng
tăng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế, những thủ đoạn mà các chủ thể sử
dụng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Gắn liền với những thông số đó, thiệt
hai mà tội đánh bạc gây ra cho xã hội cũng tăng lên đáng kể. Ở bình diện
2
rộng, chúng trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, ở bình diện hẹp, chúng
gây ra những thiệt hại nặng nề về cả vật chất và tinh thần cho gia đình ngƣời
phạm tội và bản thân những ngƣời đó. Các con bạc xuất hiện ở tất cả các tầng
lớp, ngành nghề trong xã hội, thậm chí không ít quan chức giữ những vị trí
quan trọng, then chốt trong bộ máy Nhà nƣớc cũng tham gia tệ nạn này. Thêm
vào đó là những sai phạm trong xử lý của các cơ quan tố tụng, hành vi tham
nhũng, bảo kê của một bộ phận không nhỏ của cơ quan lực lƣợng chức
năng… là những nguyên nhân khiến tệ nạn cờ bạc ngày càng nhức nhối, thách
thức chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân. Tội đánh bạc là loại tội
phạm nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội, xâm hại đến các
quan hệ xã hội, gây mất trật tự công cộng của xã hội. Loại tội phạm này còn
kéo theo sự phát triển của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác nhƣ tội tham
nhũng, tham ô, ma túy, mại dâm, trộm cắp, cƣớp tài sản...
Tội đánh bạc là tội phạm phổ biến, làm ảnh hƣởng đến nếp sống văn
minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức của một bộ phận dân cƣ, gây ra thiệt
hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình. Vì vậy, đấu tranh phòng chống,
tiến tới đẩy lùi tội phạm đánh bạc ra khỏi đời sống xã hội đã và đang đặt ra
những nhiệm vụ cấp bách cho toàn hệ thống chính trị của nƣớc ta. Thực tiễn
hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội đánh bạc trong giai đoạn hiện nay luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các địa phƣơng trên cả nƣớc, trong đó có Thành
phố Hà Nội.
Hiện nay tội, tệ nạn đánh bạc xuất hiện ở mọi nơi trên địa bàn Thành
phố Hà Nội có xu hƣớng tăng cao, đã gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực cho
xã hội và quá trình phát triển kinh tế của địa phƣơng. Thực trạng trên đòi hỏi
Đảng, Nhà nƣớc phải có biện pháp tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho
xã hội. Hiện nay tệ nạn đánh bạc đƣợc biến tƣớng theo rất nhiều hình thức
3
có thể đánh bạc, gá bạc, hay là tổ chức đánh bạc nên vấn đề ĐTD đối với
loại tội phạm này rất quan trong. Đây còn là lý do để chúng tôi quyết định
lựa chọn đề tài: “Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt
Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” làm luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội đánh bạc là tội phạm có tính chất phức tạp cao, đã đƣợc một số nhà
làm luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng Đại
học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1998; Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội; Bình luận khoa học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tƣ
pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1987 (tái bản năm 1992, 1997).
Sau khi ban Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, tội đánh bạc tiếp tục
đƣợc đề cập trong giáo trình Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng
Đại học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2000; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002; Bình luận khoa học BLHS năm 1999
NXB Công an nhân dân…
Ngoài ra còn có các công trình khoa học khác đã nghiên cứu đến tội
đánh bạc nhƣ: Các công trình nêu trên trong góc độ nào đó đã đề cập đến các
dấu hiệu của tội đánh bạc, tình hình đấu tranh, phòng chống trách nhiệm hình
sự đối với loại tội này… tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về việc ĐTD đối với tội đánh bạc.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội đánh bạc, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ
4
sở cho hoạt động ĐTD đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả
trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh bạc.
Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vƣớng mắc, tồn tại trong công tác
định tội, xử lý để đề xuất những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và
các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
(BLHS) Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đúng nhƣ tên gọi của nó "Định tội
danh tội đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội".
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tội đánh bạc dƣới góc độ pháp lý hình sự và thực
tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian 05 năm từ năm
2008 đến năm 2013.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam XHCN; những thành tựu của các khoa học:
triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học, những luận điểm
khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết
trên các tạp chí trong nƣớc.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
tội đánh bạc, các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân
(TAND) Thành phố Hà Nội về tội đánh bạc.
5
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VII, IX, X và các Nghị quyết số 8-
NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến
lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp
phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn
dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thông kê, điều tra xã hội học để
tổng hợp các tri thực khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc
nghiên cứu trong luận văn.
5. Những đóng góp mới về khoa học
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu tƣơng đối toàn diện, hệ
thống về việc định đối với tội đánh bạc trên cả phƣơng diện lý luận và thực
tiễn áp dụng tại Thành phố Hà Nội.
Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa
học của luận văn:
- Làm rõ đƣợc những vấn đề cơ bản của hoạt động định tội danh; khái
niệm tội đánh bạc và các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trƣng của tội phạm này
trong pháp luật hình sự hiện hành.
- Phân tích, đánh giá đúng thực tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn
Thành phố Hà Nội, phân tích, làm rõ những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn
xét xử tội đánh bạc và nguyên nhân của nó.
6
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất đƣợc nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa
tội đánh bạc và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn xét
xử trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nƣớc nói chung.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm
quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng ngừa tội phạm đánh bạc.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội đánh bạc
Chương 2: Những quy định về tội đánh bạc trong Bộ luật hình sự năm
1999 và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật
hình sự Việt Nam.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Một trong những hoạt động tố tụng quan trọng, xuyên suốt tất cả các
giai đoan tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử và có ý nghĩa quyết định đến toàn
bộ quá trình giải quyết vụ án, đó là hoạt động ĐTD. ĐTD đƣợc các cơ quan
tiến hành tố tụng thực hiện từ giai đoạn tiền khởi tố cho đến giai đoạn xét xử
phúc thẩm, thậm trí có thể xảy ra cả trong trƣờng hợp tái thẩm, giám đốc thẩm
nếu có căn cứ… nhằm tìm ra bản chất thật sự của hành vi phạm tội, từ đó áp
dụng đúng điều luật, đúng khung hình phạt đối với ngƣời phạm tội.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, có một số nhà khoa
học đã nghiên cứu về vấn đề này và đƣa ra những quan điểm nhƣ sau:
Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm: “ĐTD là một quá trình nhận
thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và
đƣợc tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập đƣợc
và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác
định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tƣơng ứng do luật
hình sự quy định” [3, tr.11].
Còn quan điểm của TS. Lê Văn Đệ, ông đƣa ra khái niệm ĐTD nhƣ
sau: “ĐTD là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác
giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dâu
hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [9, tr.108]
8
Về khái niệm này, TS Dƣơng Tuyết Miên cho rằng: “ĐTD là hoạt động
thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
để xác định một ngƣời có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo
điều luật nào của bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định
tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện". [21, tr. 9]
Cũng về khái niệm ĐTD, TS.Trịnh Quốc Toản cho rằng: “ĐTD là việc
xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp đồng nhất giữa các dấu hiệu của hành vi
nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã đƣợc thực hiện với các yếu tố cấu thành tội
phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong BLHS. Nói cách khác định tội là
việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu
của tội nào trong số các tội phạm đƣợc quy định trong BLHS” và “ĐTD là
một quá trình logic nhất định, là hoạt động tƣ duy do ngƣời tiến hành tố tụng
thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt
pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội đang đƣợc kiểm tra, xác định trong mối tƣơng quan với các quy phạm
pháp luật hình sự”. [33, tr.7 – 8]
Nhìn chung trong các khái niệm về ĐTD nêu trên, mặc dù các tác giả
xây dựng với những cách diễn đạt khác nhau nhƣng đều đã phản ánh đƣợc 3
yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, đó là: yếu tố về chủ thể của hoạt động
ĐTD; yếu tố về việc nhận thức (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội
và yếu tố về đối chiếu, so sánh kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật
hình sự. Nói cách khác, đó chính là: Chủ thể, chủ quan (nhận thức) và cơ sở
pháp lý của ĐTD. Bên cạnh việc đƣa ra khái niệm ĐTD, các tác giả nêu trên
còn đƣa ra những hình thức (dạng) của ĐTD, nhằm phân biệt hoạt động ĐTD
nào đó có giá trị pháp lý đƣợc pháp luật đảm bảo thi hành án (mang tính
cƣỡng chế bắt buộc), còn hoạt động ĐTD nào chỉ mang tính tham khảo,
không phát sinh tính pháp lý.
9
Theo GS.TSKH Lê Cảm, có hai hình thức ĐTD: ĐTD chính thức và
ĐTD không chính thức. Trong đó, ĐTD chính thức “là sự đánh giá về mặt
nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các
chủ thể đƣợc Nhà nƣớc ủy quyền thực hiện”. Còn ĐTD không chính thức “là
sự đánh giá không phải về mặt Nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một
hành vi phạm tội cụ thể” [5, tr.12-13]. Quan điểm của TS. Lê Văn Đệ và TS
Dƣơng Tuyết Miên cũng đồng nhất với GS.TSKH Lê Cảm về các hình thức
ĐTD nhƣ trên, đó là đều thừa nhận có hai hình thức ĐTD với những đặc điểm
về chủ thể và hậu quả pháp lý nhƣ sau:
- Một là ĐTD chính thức: Do các cơ quan tiến hành tố tụng và một số
cơ quan khác có thẩm quyền thực hiện, nhằm giải quyết vụ án cụ thể. Hình
thức này có giá trị pháp lý và đƣợc bảo đảm thực hiện.
- Hai là ĐTD không chính thức: Do các luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên
cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí… thực hiện, nhằm nêu lên những
quan điểm cá nhân về một hành vi có dấu hiệu tội phạm. Hình thức này không
có giá trị pháp lý để giải quyết vụ án.
Nhƣ vậy theo quan điểm trên, mỗi tác giả đã xây dựng một khái niệm
ĐTD riêng, mang bản sắc của mình. Trong đó, khái niệm ĐTD của TS. Lê
Văn Đệ mặc dù phần nào đã đề cập đến hai dạng ĐTD chính thức và không
chính thức, nhƣng nội dung còn chung chung, chƣa cụ thể và chƣa phản ánh
đƣợc các chủ thể của hoạt động ĐTD là ai. Bên cạnh đó, trong khái niệm
ĐTD của TS Lê Văn Đệ có nêu “các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể”,
nghĩa là ở đây ông đã khẳng định có “Tội phạm” xảy ra. Tuy nhiên trong thực
tiễn, bƣớc đầu tiên của ĐTD là xác định xem có tội phạm xảy ra hay không,
sau khi xác định có tội phạm xảy ra, mới đến bƣớc tiếp theo là xác định tội
phạm đó tên là gì, đƣợc quy định tại điều nào của BLHS.
Còn khái niệm ĐTD của TS Dƣơng Tuyết Miên, khái niệm này đã phản
ánh cụ thể hơn, sát với thực tiễn hơn và đã chỉ ra đƣợc chủ thể của hoạt động
10
ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm đáng lƣu ý trong khái niệm ĐTD
của TS. Dƣơng Tuyết Miên so với khái niệm ĐTD của TS. Lê Văn Đệ là bà
đã nêu ra đƣợc bƣớc đầu tiên của ĐTD, đó là “ xác định một ngƣời có phạm
tội hay không” (bƣớc định tội) và sau đó “ nếu phạm tội thì đó là tội gì” (bƣớc
ĐTD). Tuy nhiên, mặc dù bà đã thừa nhận có hai hình thức ĐTD là: ĐTD
chính thức và ĐTD không chính thức, nhƣng trong khái niệm của bà chỉ mới
đề cập đến ĐTD ở dạng chính thức, mà chƣa đề cập đến dạng không chính
thức. Điều này đƣợc thể hiện ở chỗ bà nêu rõ các chủ thể trong hoạt động
ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng và một số các cơ quan khác có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật – đây chỉ là chủ thể của dạng ĐTD chính
thức. Trong khi đó, chủ thể của dạng ĐTD không chính thức còn là những
luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí…
Khác với quan điểm của tác giả Lê Văn Đệ và Dƣơng Tuyết Miên về
ĐTD, PGS. TS Trịnh Quốc Toản đã nêu ra đƣợc những vấn đề mang tính bản
chất, những yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, trong đó về mặt quan điểm
khoa học, ông và GS.TSKH Lê Cảm đều có quan điểm đồng nhất đối với khái
niệm ĐTD này.
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi thấy cần đƣa ra một
khái niệm ĐTD bao quát đƣợc cả hai dạng: chính thức và không chính thức,
rồi sau đó đƣa ra một khái niệm riêng cho dạng ĐTD chính thức nhằm phân
biệt và làm rõ hơn về hoạt động của ĐTD này. Theo quan điểm của chúng tôi,
có thể khái niệm ĐTD chung nhƣ sau: “ĐTD là hoạt động nghiên cứu, phân
tích đánh giá một hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở các tài liệu, chứng
cứ thu thập đƣợc do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, nhằm xác định
hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì tội phạm đó
đƣợc quy định trong điều luật nào của BLHS hiện hành”
Về khái niệm ĐTD theo dạng chính thức, có thể xây dựng nhƣ sau:
“ĐTD là một hoạt động tố tụng chỉ của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng,
11
ngƣời tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định
của BLTTHS, bằng phƣơng pháp chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tìm ra
và “ đặt tên” cho một hành vi phạm tội.
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức ĐTD
chính thức do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Chính vì vậy, những
vấn đề liên quan đến khái niệm ĐTD đều đƣợc hiểu là tác giả đề cập đến dạng
“ĐTD chính thức”.
Khái niệm ĐTD nêu trên chỉ là việc ĐTD trong hoạt động tố tụng nói
chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại tội phạm. Còn
đối với việc ĐTD đối với tội đánh bạc là một hoạt động tố tụng cụ thể của các
cơ quan tiến hành tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện, mang ý
nghĩa thực tiễn. Trong đó, trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội
đánh bạc, các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo
quy định của BLTTHS) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội
đó có phải là hành vi đánh bạc hay không để từ đó ban hành các quyết định tố
tụng theo quy định của pháp luật.
Trong BLHS năm 1999, tại Điều 248 có tên gọi là “ Tội đánh bạc”.
Nhƣ vậy trên cơ sở lý luận về ĐTD, căn cứ theo quy định tại Điều 248 của
BLHS và các dấu hiệu đặc trƣng cấu thành tội đánh bạc, có thể đƣa ra khái
niệm về việc ĐTD đối với tội đánh bạc nhƣ sau: “ ĐTD tội đánh bạc là hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án) hoặc các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, nhằm
xem xét đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu
hiệu của tội đánh bạc hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của
Điều 248 BLHS”.
1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh
- ĐTD đối với tội đánh bạc là hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành
12
bởi cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và ngƣời tiến hành tố tụng
hình sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán).
+ ĐTD trong giai đoạn điều tra: ĐTD ở giai đoạn này do cơ quan điều
tra (bao gồm cả cơ quan đƣợc giao một số hoạt động điều tra đƣợc quy định
trong tổ chức điều tra hình sự) thực hiện.
+ Trong giai đoạn này việc ĐTD đƣợc tiến hành từ khi phát sinh các
căn cứ để khởi tố vụ án. Các căn cứ để khởi tố vụ án gồm:
* Tố giác của công dân: Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan
Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc với cơ quan khác của nhà nƣớc hoặc với
tổ chức xã hội. Việc tố giác có thể bằng miệng, nếu bằng miệng thì cơ quan tổ
chức phải lập văn bản và lấy chữ ký ngƣời đó. Ví dụ: có địa bàn thƣờng
xuyên xảy ra tệ nạn đánh bạc gây mất trật tự công cộng, an ninh địa phƣơng,
gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, nên đã có rất nhiều vụ án đánh bạc
đều đƣợc nhận tin báo của quần chúng nhân dân.
* Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội: Cơ quan tổ chức
khi phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân phải báo ngay tin về tội
phạm cho cơ quan điều tra bằng văn bản để cơ quan điều tra xem xét có dấu
hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Ví dụ:
thƣờng những vụ án đánh bạc đƣợc quần chúng nhân dân báo tin cho Ban
công an xã, phƣờng, sau đó đƣợc báo về Cơ quan điều tra.
* Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng: Khi có tin báo trên
các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ báo đài… thì các cơ quan có thẩm
quyền phải tiến hành thu thập,xác minh xem xét tin báo đó nếu thấy có dấu
hiệu của hành vi đánh bạc thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
* Người phạm tội tự thú: Đây là trƣờng hợp chƣa bị phát hiện nhƣng
ngƣời phạm tội đã chủ động ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về hành
13
vi của mình. Trên cơ sở việc tự thú, cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xác
định dấu hiệu về tội phạm tự thú đã thực hiện và tiến hành ra quyết định khởi
tố hình sự. Đối với hành vi đánh bạc thì trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú là
trƣờng hợp hiếm gặp, và hầu nhƣ không thấy.
Việc ĐTD cũng đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Đình chỉ điều tra,
đình chỉ vụ án thay đổi tội danh trong quá trình điều tra, phục hồi điều tra,
khởi tố bị can, kết luận điều tra. Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề cơ sở
cho hoạt động ĐTD ở giai đoạn truy tố và xét xử.
+ ĐTD trong giai đoạn truy tố: ĐTD ở giai đoạn này do Viện kiểm sát
thực hiện. Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Truy tố bị can,
đình chỉ điều tra, trả hồ sơ điều tra bổ sung.
Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề và cơ sở cho hoạt động ĐTD ở
giai đoạn xét xử và là cơ sở cho việc ĐTD lại ở giai đoạn điều tra nếu vụ án bị
trả hồ sơ để điều tra bổ xung.
+ ĐTD ở gia đoạn xét xử: ĐTD ở giai đoạn này do Tòa án quyết định.
Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Xét xử vụ án, đình chỉ vụ án,
trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ xung.
Việc ĐTD ở giai đoạn này là cơ sở cho việc kết luận vụ án hoặc là cơ
sở cho việc định danh lại của giai đoạn điều tra truy tố nếu vụ án bị trả hồ sơ
để tiến hành điều tra lại hoặc điều trả bổ sung.
- ĐTD đối với tội đánh bạc đƣợc tiến hành trên cơ sở áp dụng Pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự (luật về hình
thức) và pháp luật hình sự (luật về nội dung) đều là những căn cứ pháp lý để
ĐTD đối với tội đánh bạc.
Việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có thể xem là hình thức pháp lý
của hoạt động ĐTD. Ở tội Đánh bạc đó là việc ghi nhận vào biên bản bắt quả
tang phải thể hiện một cách khách quan, chính xác hay việc xử lý vật chứng,
14
phƣơng tiện phạm tội (quân bài, tiền, …) phải rõ ràng. Hay việc ra các quyết
định từ giai đoạn khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử, việc thay đổi hoặc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn giam giữ đối với đối tƣợng thuộc tội này
đều phải tuân thủ và đảm bảo trình tự của luật tố tụng hình sự.
Việc áp dụng LHS là nội dung pháp lý của hoạt động ĐTD. ĐTD đối
với tội đánh bạc. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội
phạm cụ thể với các dấu hiệu cơ bản của tội TP đang đƣợc sử dụng để ĐTD.
Ở tội đánh bạc căn cứ vào Điều 248 BLHS năm 1999, Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán số 01/2010/NQ- HĐTP hƣớng dẫn áp dụng điều 248, Luật số
37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 và một số các quy phạm khác.
- Hình thức của hoạt động ĐTD tội đánh bạc đƣợc thể hiện bằng việc
kết luận bằng văn bản. Mục đích cuối cùng của hoạt động ĐTD tội đánh bạc
là kết luận hành vi đánh bạc có xảy ra không? Ai là ngƣời phạm tội đánh bạc
và buộc họ phải chịu một hành vi tƣơng xứng với hành vi và tội phạm và họ
đã thực hiện. Hình thức kết luận đó về mặt pháp lý phải đƣợc thực hiện bằng
văn bản áp dụng pháp luật phù hợp với từng giai đoạn tố tụng và thẩm quyền
giải quyết vụ án đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng
hình sự. Các hình thức văn bản đối với ĐTD tội đánh bạc:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, quyết định áp
dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn (giam giữ, xử lý vật chứng..). kết
luận Điều tra, Cáo trạng,
Từ nội dung khái niệm về ĐTD của tội đánh bạc, chúng ta có thể nêu
lên những đặc điểm cơ bản của việc ĐTD đối với loại tội này.
Thứ nhất: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
đƣợc thực hiện có thỏa mãn với các dấu hiệu của CTTP tội đánh bạc hay
không? Trên cơ sở đó đƣa ra sự đánh giá nhất định về hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thể đã xẩy ra.
15
Thứ hai, định tôi danh tội đánh tội đánh bạc là hoạt động thực tiễn pháp
lý của các cơ quan tƣ pháp hình sự - các cơ quan Điều tra, truy tố, xét xử để
cụ thể hóa các quy định của Pháp luật, lựa chon đúng các quy phạm pháp luật
hình sự để áp dụng đối với hành vi đánh bạc đƣợc thực hiện.
Thứ ba, ĐTD tội đánh bạc chính là hoạt động đối chiếu sự phù hợp
giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của
cấu thành tội phạm đƣợc quy định tại Điều 248 BLHS.
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng
Hoạt động ĐTD của các chủ thể có thể theo 2 xu hƣớng. ĐTD đúng
hoặc ĐTD sai.
- Đối với hoạt động ĐTD đúng: ĐTD đúng làm tiền đề cho việc phân
hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh và có
căn cứ.
ĐTD đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ
đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc Pháp quyền nhƣ: nguyên tắc pháp chế, trách
nhiệm do lỗi, trách nhiệm do cá nhân, bình đẳng trƣớc pháp luật hình sự,
nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm.
ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam về thẩm quyền điều tra, xét xử
qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công
dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự.
- Đối với hoạt động ĐTD sai: ĐTD sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả
tiêu cực nhƣ: không đảm bảo đƣợc tính công minh có căn cứ đúng pháp luật,
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời vô tội, bỏ lọt ngƣời tội phạm tội,
xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân
là giá trị xã hội cao quý nhất đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc.
ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tƣ pháp, vi phạm pháp chế
XHCN, ảnh hƣởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm.
16
Đối với tội đánh bạc là hành một trong những tệ nạn xã hội làm cho
nhiều ngƣời mất nhà cửa, phát sinh mâu thuẫn dẫn đến gia đình tan nát và
đánh bạc còn đƣợc xem là một trong những nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã
hội khác và tội phạm. Chính vì vậy, bên cạnh việc xử lý hành chính pháp luật
còn quy định đánh bạc là tội phạm và những ngƣời vi phạm đáp ứng đƣợc các
yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.
Tuy nhiên do sự đa dạng của các hình thức đánh bạc nên việc xác định hành
vi nào cần phải xử lý hình sự không phải là việc đơn giản. Trong khoảng thời
gian ngắn từ năm 2003 đến năm 2010, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
Tối cao đã ba lần hƣớng dẫn đƣờng lối xử lý đối với loại tội phạm này cụ thể:
Nghị quyết số 03/2003/NQ – HĐTP ngày 17/4/2003; Nghị quyết số
01/2006/NQ – HĐTP ngày 12/5/2006; Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP
ngày 22/10/2010. Bên cạnh đó Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tổng cục
cảnh sát còn ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn để áp dụng cho phù hợp với
thực tế. Tuy vậy, hiện nay, việc điều tra, truy tố, xét xử tội đánh bạc dựa vào
quy định tại Điều 248 BLHS và Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hƣớng dẫn áp dụng một
số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS còn nhiều bất cập trong việc
xác định TNHS đối với những đối tƣợng phạm tội đánh bạc trái phép nhƣ: xác
định tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật
của ngƣời chơi đề, cá độ, chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc, quy định về việc
cộng dồn tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, việc phân chia hai trƣờng hợp
đánh bạc, vấn đề xác định đồng phạm đối với tội đánh bạc, vv...
Điều đó có thể thấy đƣợc ý nghĩa của việc ĐTD trong công tác đấu
tranh phòng ngừa riêng đối với loại tội này cũng nhƣ trong công tác phòng
ngừa chung các loại tội phạm khác.
1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc
Thứ nhất: Năng lực chuyên môn của ngƣời ĐTD: Năng lực chuyên
17
môn của ngƣời ĐTD là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu đảm
bảo cho việc ĐTD đƣợc đúng. Đây là điều kiện có tính chất nền tảng, là cái
gốc mà ngƣời ĐTD phải có năng lực chuyên môn sẽ đảm bảo cho ngƣời ĐTD
khi tiến hành hoạt động này có đủ sự tự tin cần thiết trong hoạt động nghề
nghiệp của mình. Để có năng lực chuyên môn vững vàng, trƣớc hết ngƣời
ĐTD cần phải là ngƣời đƣợc đào tại về cơ bản (phải có bằng đại học Luật
hoặc tƣơng đƣơng trở lên). Đồng thời, họ không chỉ là ngƣời nắm chắc kiến
thức đƣợc giảng dạy ở trƣờng đại học mà còn phải thƣờng xuyên trau rồi
chuyên môn, thƣờng xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, chịu khó học hỏi
kinh nghiệm của những thế hệ đi trƣớc. Trong thực tế, các vụ án xẩy ra rất đa
dạng muôn màu muôn vẻ. Ngay cả đối với một loại tội, các vụ án xẩy ra cũng
rất khác nhau về những tình tiết cũng nhƣ chứng cứ rất phức tạp trong vụ án.
Ở tội Đánh bạc có tính đa dạng, các hình thức biểu hiện của hành vi đánh bạc
thƣờng bao gồm: Lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết (đánh lô đề), xóc đĩa, tá lả,
liêng, sâm, chắn, cá độ, bán độ,… Điển hình vừa qua Công an tỉnh Ninh Bình
khởi tố 2 cầu thủ là Trần Mạnh Dũng và Nguyễn Mạnh Dũng đã có hành vi cá
độ và dàn xếp tỷ số ở CLB V. Ninh Bình. CQĐT Công an tỉnh Ninh Bình đã
khởi tố 2 đối tƣợng trên tội Đánh bạc theo Điều 248 BLHS.
Nhƣ vậy, chỉ với khả năng chuyên môn vững vàng của mình, ngƣời
ĐTD mới có điều kiện cân nhắc, đánh giá toàn bộ các tình tiết vụ án thông
qua chác chứng cứ xác thực, đối chiếu hành vi đã thực hiện với quy định của
BLHS để từ đó xác định hành vi đó phạm tội gì tƣơng ứng với điều luật nào
của BLHS. Năng lực chuyên môn là yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến việc ĐTD.
Ngƣời ĐTD cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tinh công tác nhƣng nếu
không có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công tác của mình
đƣợc (trong hoạt động ĐTD) và trong quan hệ công tác với cấp trên, đồng
nghiệp, họ khó có thể là ngƣời độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động
18
nghề nghiệp của mình. Và nhƣ chúng ta đã biết ĐTD là hoạt tƣ duy có tính
logic chặt chẽ nhƣng đồng thời đây cũng là hoạt động trí tuệ có tính sáng tạo.
Ngƣời ĐTD phải biết vận dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, nhƣng
linh hoạt chứ không phải là những roobot dập khuôn máy móc. Đời sống xã
hội nƣớc ta biến đổi không ngừng dẫn tới các văn bản pháp luật cũng thƣờng
xuyên đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Trƣớc đây ở Nghị
Quyết số 01/2006/NQ-HĐTP về cách xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật
của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc thì: nếu tiền đặt cƣợc là A, tỷ lệ đặt
cƣợc là B thì giá trị tang vật là A + A x B. Với cách tính này theo Nghị Quyết
này trong thời gian qua đã gây ra nhiều khó khăn và không có lợi cho bị can
và số tiền để truy cứu TNHS chỉ là số tiền “ ảo” không có thực. Còn theo
điểm mới của Nghị Quyết 01/2010/NQ – HĐTP thì việc xác định số tiền hoặc
giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh
bạc dƣới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa nhƣ sau: Xác
định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc:
Trƣờng hợp ngƣời chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cƣợc cá độ thì số
tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ
cộng với số tiền thực tế mà họ nhận đƣợc từ chủ đề, chủ cá độ. Còn trong
trƣờng hợp nếu ngƣời chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cƣợc
cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trƣớc khi có kết quả mở thƣởng thì số tiền
mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ đó…
Việc ngƣời ĐTD cập nhật văn bản pháp luật thƣờng xuyên theo những lần
sửa đổi bổ xung giúp cho ngƣời ĐTD đánh giá đƣợc tính chất mức độ phạm
tội của hành vi từ đó giúp cho việc ĐTD đƣợc đúng đắn. Chỉ trên cơ sở có
kiến thức chuyên môn vững vàng, độc lập,sáng tạo trong hoạt động nghề
nghiệp, ngƣời ĐTD mới có thể độc lập trong quan điểm và dám bảo vệ quan
điểm của mình, không bị chi phối bởi những quan điểm của cấp trên hay của
19
đồng nghiệp. Đồng thời ý thức cầu thì, ham học hỏi, sự vƣơn lên trong hoạt
động nghề nghiệp cũng là phẩm chất cần học hỏi đối với năng lực chuyên
môn của ngƣời ĐTD. Riêng với đội ngũ Hội thẩm nhân dân cần thiết phải lựa
chọn những ngƣời có trình độ, những ngƣời làm công tác liên quan đến Pháp
luật nhƣ giáo viên dạy Luật, Cán bộ Điều tra đã về hƣu..
Thứ hai: Đạo đức nghề nghiệp của ngƣời ĐTD: Có thể nói, đây là một
trong những điều kiện quan trọng hàng đâu đảm bảo cho việc ĐTD đƣợc
đúng. Nếu nhƣ năng lực chuyên môn là điều kiện cần thiết thì đạo đức nghề
nghiệp là điều kiện đủ. Hai điều kiện này bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau giúp
cho ngƣời ĐTD có thể ĐTD đúng. Trên cơ sở năng lực chuyên môn vững
vàng ngƣời ĐTD trƣớc hết phải là ngƣời tuân thủ Pháp luật cũng nhƣ trong
việc gƣơng mẫu chấp hành pháp luật, là ngƣời có trách nhiệm và lƣơng tâm
trong hoạt động nghề nghiệp, là ngƣời chiến sỹ kiên cƣờng, dũng cảm trên
mặt trận phòng chống tội phạm, bảo về công bằng, xã hội, đồng thời họ còn
có thái độ làm việc thật khách quan, vô tƣ trong công việc nhằm bảo vệ công
lý. Ngƣời ĐTD là ngƣời nhân danh Nhà nƣớc để xác định một ngƣời là có tội
hay không có tội. Ngƣời ĐTD phải là ngƣời có bản lĩnh, dũng cảm, thực sự là
ngƣời chiến sỹ tiên phong trong mặt trận chống tiêu cực bảo vệ công bằng xã
hội. Hiện nay ở loại tội Đánh bạc nhóm các đối tƣợng thuộc loại tội này đa
dạng đủ mọi thành phần xã hội từ cán bộ có vị trí chức vụ cao, những ngƣời
đứng trong hàng ngũ Đảng thuộc cơ quan Nhà nƣớc, Doanh nghiệp nên việc
sẵn sàng bỏ rất nhiều tiền để hối lộ CQ ĐT nhằm thoát tội, có những vụ án
đánh bạc lên đến vài chục tỷ đồng thậm chí hơn thì đòi hỏi ngƣời ĐTD phải
có một lập trƣờng vững vàng, có lƣơng tâm nghề nghiệp, có thái độ làm việc
khách quan. Hay tội Đánh bạc thƣờng bắt quả tang, số tiền trên chiếu bạc sẽ
là mức giới hạn cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, nhiều trƣờng hợp số
tiền đánh bạc của các con bạc lớn hơn rất nhiều so với mức đủ để xử lý hình
20
sự thì cán bộ điều tra bỏ ngoài biên bản quả tang thu giữ tang vật chỉ để dừng
lại ở mức xử phạt hành chính đối với các đối tƣợng, hoặc sẽ dừng lại ở việc
truy tố ở điều khoản thấp nhất mà đáng lẽ ra phải ở điều khoản với mức hình
phạt nặng hơn. Thái độ làm việc khách quan vô tƣ là yếu tố cần thiết và đảm
bảo cho việc ĐTD nhất là đối với tội Đánh bạc. Hơn nữa, thái độ bao che cần
phải đƣợc loại bỏ trong quá trình ĐTD trong quá trình xét xử. Có một thực tế
trong quá trình xét xử tội Đánh bạc, do nhận thức của con bạc cho rằng đây là
loại tội ít nghiêm trọng, xảy ra là bình thƣờng nên các bị cáo đứng trƣớc vành
móng ngựa có thái độ rất coi thƣờng, thậm chí cợt nhả, vì biết trƣớc có sự ƣu
ái từ Thẩm phán (do có tiêu cực) điều này gây phản cảm cho ngƣời tham dự
phiên tòa, làm mất đi tính chất trang nghiêm của Hội đồng xét xử. Nên vấn đề
quan trọng là ngƣời ĐTD phải có thái độ đúng mực, nghiêm túc trong mọi
hoàn cảnh, và quá trình xác định một hành vi có phạm tội không tội đó là tội
gì phải đúng theo quy định của Pháp luật. Có nhƣ vậy mới đủ sức thuyết
phục, mang tính răn đe, giúp cho ngƣời phạm tội thấy rõ sự sai trái của minh
từ đó tự giác chấp hành bản án, chấp hành pháp luật. Đồng thời tăng cƣờng
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là loại tội Đánh bạc đang có
chiều hƣớng gia tăng và biến tƣớng dƣới mọi hình thức.
Thứ ba: Hệ thống Pháp luật hình sự hoàn chỉnh: Năng lực chuyên môn,
đạo đức nghề nghiệp là những nhân tố vô cùng quan trọng để đảm bảo cho
hoạt động ĐTD đúng. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì chƣa thể có điều
kiện tốt để ngƣời ĐTD phát huy đƣợc năng lực chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp của mình. Chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật mà trƣớc hết là hệ thống
pháp luật hình sự hoàn chỉnh, ngƣời tiến hành ĐTD mới có điều kiện phát huy
đƣợc khả năng làm việc của mình. Khó có thể nó đến sự hiệu quả thực sự
trong hoạt động ĐTD khi mà pháp luật nƣớc ta còn nhiều chồng chéo. Quy
định về cách tính tiền phạt hoặc hiện vật Đánh bạc tại các khoản 2,3,4 và Điều
21
5 Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP và thực tiễn khởi tố, điều tra truy tố xét
xử tội Đánh bạc so với quy định về đồng phạm tại Điều 20 có sự không thống
nhất. Tội Đánh bạc đã có rất nhiều lần sửa đổi bổ sung về mức xử lý, hay chỉ
dẫn về “ Thuật ngữ” nhƣ Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 về sửa đổi bổ
xung một số điều của BLHS năm 2009 và Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP;
hay Nghị quyết số 01/2006/NQ – ƣHĐTP. Qua các lần sửa đổi bổ sung cho
thấy sự thiếu xót, hạn chế cũng nhƣ vƣớng mắc trong việc áp dụng của nhà làm
luật cũng ngƣời nhƣ ngƣời áp dụng pháp luật, mà ở đây là ngƣời ĐTD.
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC
1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội đánh bạc
* Bộ luật hình sự – cơ sở pháp lý trực tiếp của việc ĐTD nói chung và
Điều 248 là cơ sở pháp lý trực tiếp của việc ĐTD đối với tội đánh bạc nói
riêng. Nhƣ vậy trong quá trình ĐTD nếu hiểu theo nghĩa hẹp (chỉ về nội
dung) thì BLHS có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò
là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc ĐTD. Sự khẳng định nhƣ vậy là
vì có những lý do đứng đắn nhƣ sau:
Hiện nay theo pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam, thì BLHS năm
1999 hiện hành đƣợc coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ
hệ thống các qui phạm PLHS đƣợc áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng
và chống tội phạm nói chung, cũng nhƣ quá trình ĐTD và quyết định hình
phạt nói riêng.
Bản chất của việc ĐTD tội đánh bạc là so sánh, đối chiếu và kiểm tra
để xác định xem các dấu hiệu của hành vi đánh bạc đƣợc thực hiện trong thực
tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tƣơng ứng của Điều 248 đƣợc qui
định trong Phần riêng BLHS hay không.
Nhà làm luật khi xây dựng hệ thống các qui phạm của Phần các tội
phạm BLHS – trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
22
– đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trƣng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay
đƣợc lặp đi lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hóa và
qui định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tƣơng ứng
của các cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể (CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng,
CTTP đặc biệt tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) để các cơ quan tƣ pháp hình
sự dùng làm mô hình pháp lý của ĐTD.
BLHS qui định và liệt kê tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội
thƣờng xảy ra trong thực tế bị nhà làm luật nhân danh Nhà nƣớc coi là tội
phạm. Nói một cách khác, BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất của
việc ĐTD chứa đựng những mẫu (mô hình) pháp lý của các tội phạm, mà dựa
vào đó những ngƣời có thẩm quyền tiến hành việc ĐTD xác định sự phù hợp
của các dấu hiệu của những hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể tƣơng ứng
đƣợc thực hiện.
BLHS bao gồm hệ thống các nhóm qui phạm pháp luật đƣợc nhà làm
luật sắp xếp thành hai Phần – Phần chung và Phần các tội phạm, – mà những
ngƣời có thẩm quyền tiến hành việc ĐTD đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội đƣợc thực hiện trong thực tế khách quan phải đồng thời dựa vào cả hai
nhóm qui phạm PLHS này bởi các lý do nhƣ sau:
Hai nhóm qui phạm PLHS này có mối liên quan chặt chẽ, thống nhất
và hữu cơ với nhau trong quá trình ĐTD – xác định CTTP tƣơng ứng đƣợc
luật quy định để làm căn cứ pháp lý cho việc giải quyết vấn đề TNHS của
ngƣời có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể.
Chẳng hạn, khi tìm các quy phạm PLHS để ĐTD đối với những hành vi
nguy hiểm cho xã hội nhƣ bạo loạn và hoạt động phỉ, thì không thể áp dụng
các điều 82-83 tại Phần các tội phạm BLHS năm 1999 (quy định hai tội
phạm tƣơng ứng với những hành vi này), mà còn phải áp dụng Điều 20 tại
Phần chung BLHS đó (đề cập đến chế định đồng phạm) để xác định mức độ
23
TNHS khác nhau của các loại ngƣời đồng phạm cùng tham gia vào việc thực
hiện tội phạm cụ thể tƣơng ứng.
Trong quá trình ĐTD nếu các quy phạm PLHS tại Phần các tội phạm
quy định TNHS đối với tội phạm tƣơng ứng giúp cho chúng ta xác định sự
giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể
đƣợc thực hiện, thì các quy phạm PLHS tại Phần chung về lỗi, các giai đoạn
thực hiện tội phạm, đồng phạm, v.v... giúp cho chúng ta nhận biết đƣợc một
cách nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu của CTTP cụ thể (CTTP cơ bản,
CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ) của tội phạm
tƣơng ứng đó.
* Bộ luật tố tụng hình sự – cơ sở pháp lý gián tiếp của việc ĐTD. Trong
quá trình ĐTD khi hiểu theo nghĩa rộng, nếu các quy phạm BLHS đóng vai
trò là cơ sở pháp lý duy nhất trực tiếp (về nội dung), thì các quy phạm
PLTTHS (dĩ nhiên không phải là tất cả mà chỉ có một số quy phạm) – là cơ sở
pháp lý gián tiếp (về hình thức) không kém quan trọng. Bởi lẽ:
Mặc dù các quy phạm PLTTHS ở một chừng mực nhất định có ý nghĩa
gián tiếp (bổ trợ) trong việc ĐTD, nhƣng chúng có ý nghĩa pháp lý quan trọng
đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp
hình sự, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay. Chẳng hạn, Tòa án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm sau khi
đã nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ mọi chứng
cứ thu thập đƣợc trong vụ án hình sự cụ thể nhận thấy rằng: tội danh mà bị
cáo bị Tòa án cấp dƣới xét xử là không có căn cứ – các dấu hiệu của hành vi
phạm tội tương ứng với các dấu hiệu của CTTP cơ bản mà trong bản án của
Tòa án cấp dƣới lại định tội theo các dấu hiệu của CTTP tăng nặng, thì theo
các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988 (các khoản 1 và 2 Điều 221, Điều
257) Toà án hai cấp này có quyền sửa lại bản án đã tuyên của Tòa án cấp dƣới
24
để áp dụng điều khoản BLHS về tội danh nhẹ hơn, tức là tiến hành việc định
lại tội danh.
1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội đánh bạc
Việc nghiên cứu những vấn đề về CTTP, chính vì thế, có ý nghĩa pháp
lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình ĐTD, vì ĐTD chính xác tức là xác
định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã
hội nhất định nào đó đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tƣơng ứng –
các dấu hiệu đƣợc quy định tại một quy phạm PLHS cụ thể của Phần các tội
phạm BLHS. Nhƣ vậy, trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay
để có đầy đủ căn cứ xác đáng và đảm bảo sức thuyết phụ trong việc khẳng
định cho luận điểm đúng đắn rằng: CTTP là cơ sở khoa học của việc ĐTD.
Vai trò của CTTP. Xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
quy phạm PLHS về ĐTD, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của CTTP thể
hiện rõ trên năm bình diện nhƣ sau:
CTTP là một trong những điều kiện chung và quan trọng nhất để ĐTD
chính xác – vì nếu nhƣ trong hành vi nguy hiểm cho xã hội không có đầy đủ
các dấu hiệu của một CTTP nào đó đƣợc quy định trong PLHS thực định, thì
không thể đặt ra việc ĐTD.
CTTP là một khái niệm khoa học và là sự trừu tƣợng về mặt pháp lý –
vì một loạt các thuật ngữ và phạm trù đƣợc sử dụng Có liên quan đến CTTP
(nhƣ: “khách thể”, “chủ thể”, “mặt chủ quan”, “mặt chủ quan”, v.v...) đều
đƣợc cá nhà lý luận soạn thảo ra trong khoa học luật hình sự, còn nếu nhƣ
chúng có đƣợc quy định trong luật thực định đi chăng nữa thì cũng là dƣới
dạng các quy phạm PLHS trừu tƣợng.
CTTP là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu TNHS ngƣời phạm tội – vì
khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của một
25
CTTP tƣơng ứng nào đó đƣợc quy định trong Phần các tội phạm BLHS, thì
cũng có nghĩa là các cơ quan tƣ pháp hình sự đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để
truy cứu TNHS người phạm tội.
CTTP là căn cứ để Tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với
người bị kết án – vì nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa các dấu hiệu của
một CTTP cụ thể (nhƣ: CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng
nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) mà trong đó ghi nhận khung hình phạt tƣơng ứng
(với loại và mức cụ thể) tại một Điều (hoặc khoản của một Điều) trong Phần
các tội phạm BLHS, thì Tòa án cũng không thể có căn cứ để lựa chọn loại và
mức hình phạt để áp dụng đối với ngƣời bị kết án.
CTTP là yếu tố để đảm bảo các quyền và tự do của công dân trong lĩnh
vực tƣ pháp hình sự, đồng thời hỗ trợ cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp
chế và củng cố trật tự pháp luật trong NNPQ – vì với tất cả sự thể hiện trên
bốn bình diện trên đây đã cho phép khẳng định vai trò có tính chất tổng hợp
này của CTTP.
Yếu tố của CTTP có thể đƣợc định nghĩa là bộ phận hợp thành của cấu
trúc trong cấu thành ấy và bao gồm một nhóm các dấu hiệu tương ứng với
các phương diện (các mặt) của hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm (tức là hành vi bị nhà làm luật coi là tội phạm). Quan điểm truyền thống
đƣợc thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự là: CTTP có bốn yếu tố –
khách thể (1), mặt khách quan (2), chủ thể (3) và mặt chủ quan (4) của tội
phạm. Nhƣ vậy ở tội Đánh bạc chúng ta có thể thấy 4 yếu tố CTTP gồm:
- Khách thể của tội phạm – đó là quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ
tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhƣng bị tội phạm xâm hại đến
và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
- Mặt khách quan của tội phạm – đó là mặt bên ngoài của sự xâm hại
nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể đƣợc bảo vệ bằng PLHS, tức là
26
sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
- Chủ thể của tội phạm – đó là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định (ngoài ra, trong một số trƣờng hợp
cụ thể còn là có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm PLHS tƣơng
ứng quy định).
- Mặt chủ quan của tội phạm – đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy
hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể đƣợc bảo vệ bằng PLHS lỗi, tức là
thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của
hành vi đó (lỗi).
1.3. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI ĐÁNH BẠC
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Tội phạm là hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội, tội phạm "xuất hiện cùng
với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia
thành giai cấp đối kháng" [6, tr.287]. Vì vậy để bảo vệ đặc quyền của của giai
cấp thống trị, Nhà nƣớc đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào
là tội phạm và áp dụng TNHS đối với những ngƣời nào thực hiện các hành vi
đó. Do vậy, tội phạm mang bản chất là một hiện tƣợng có tính chất pháp lý.
Với thuộc tính là hiện tƣợng mang tính xã hội - pháp lý, tội phạm luôn chứa
đựng đặc tính chống lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, làm ảnh hƣởng tiêu
cực tới lợi ích chung của cộng đồng, xâm phạm tới quyền, tự do, các lợi ích
hợp pháp của con ngƣời, xâm phạm tới trật tự an toàn xã hội.
Tội phạm có nguồn gốc xã hội, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử tồn
tại và phát triển của xã hội loài ngƣời. Do đó tội phạm mang tính lịch sử.
Nhìn nhận và đánh giá về tội phạm, nhà Luật học Larry J. Siegel đã đƣa ra
khái niệm tội phạm nhƣ sau:
27
... Tội phạm là một hành vi vi phạm các nguyên tắc xã hội
đƣợc giải thích và quy định trong một đạo luật hình sự do những
ngƣời nắm giữ quyền lực chính trị và xã hội tạo ra. Những cá nhân
vi phạm các nguyên tắc này là đối tƣợng sẽ bị trừng phạt bởi các cơ
quan có thẩm quyền... [36, tr.20]
Nghiên cứu khái niệm tội phạm dƣới góc độ khoa học luật hình sự cho
thấy khái niệm tội phạm đƣợc các nhà luật học trong và ngoài nƣớc nghiên
cứu rất kỹ, nhiều quốc gia đã đƣa vào BLHS định nghĩa lập pháp của khái
niệm này nhƣ: Trung Quốc, Liên bang Nga, Thụy Điển, v.v...
Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ
nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng nhƣ pháp lý
của luật hình sự mỗi nƣớc...Vì vậy, nghiên cứu khái niệm tội phạm
luôn luôn là chủ đề nóng hổi trong khoa học pháp lý hình sự trên thế
giới nói chung và ở nƣớc ta nói riêng. [11, tr.157-158]
Nghiên cứu BLHS Việt Nam năm 1999 (đã đƣợc sửa đổi bổ sung năm
2009) nhà làm luật nƣớc ta đã ghi nhận định nghĩa tội phạm tại Điều 8 nhƣ sau:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa. [27, tr.11]
Tuy nhiên, khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập pháp đƣợc các nhà
làm luật nƣớc ta ghi nhận trong BLHS năm 1999 mới bao gồm bốn dấu hiệu
28
(đặc điểm) cơ bản, mà theo GS.TSKH Lê Cảm, khái niệm này còn thiếu một
dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản là tội phạm do ngƣời đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Đặc điểm này cùng với các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm đã đƣợc
các nhà làm luật nƣớc ta ghi nhận mới thể hiện đƣợc đầy đủ cả ba bình diện
tƣơng ứng với năm dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của tội phạm đó là: 1) Bình
diện khách quan (nội dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1); 2)
Bình diện pháp lý (hình thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (2)
và; 3) Bình diện chủ quan - tội phạm là hành vi do ngƣời có năng lực TNHS (3)
và đủ tuổi chịu TNHS (4) thực hiện một cách có lỗi (5) [6, tr.289]. Qua nghiên
cứu lý luận và thực tiễn chúng tôi hoàn toàn tán thành với quan điểm này.
Về khái niệm tội phạm cụ thể - tội đánh bạc là sự cụ thể hóa khái niệm
tội phạm (chung), hiện nay trong khoa học luật hình sự nƣớc ta còn nhiều
quan điểm khác nhau, cụ thể:
Quan điểm: Đánh bạc là đƣợc thua bằng tiền hay lợi ích khác
trên cơ sở một kết quả không hiển nhiên hoặc một biến cố sẽ xảy ra
trong tƣơng lai. Thông thƣờng, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết
đƣợc rõ ràng, trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đánh bạc cũng đƣợc hiểu
khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử. [37]
Quan điểm cho khác lại rằng:
Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi đƣợc tổ chức bất
hợp pháp mà sự đƣợc (hoặc thua) kèm theo việc đƣợc (hoặc mất)
lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản
khác). Đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh
hƣởng xấu đến gia đình và cá nhân ngƣời chơi mà còn có thể là
nguyên nhân của tệ nạn xã hội và tội phạm khác. [10, tr.227]
Chúng tôi cho rằng quan điểm này có ƣu điểm là đã nêu bật đƣợc khách
thể của tội phạm xâm phạm đến, nhƣng vẫn chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội
và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
29
Tóm lại, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội đánh bạc cần
thể hiện đƣợc đầy đủ cả ba bình diện tƣơng ứng với năm đặc điểm (dấu hiệu)
tƣơng ứng cơ bản của tội phạm nhƣ đã nêu trên. Do đó khái niệm tội phạm
này đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi trái phép dƣới bất kỳ hình
thức nào đƣợc thua bằng tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên, gây thiệt
hại cho trật tự an toàn công cộng, do ngƣời có năng lực TNHS và đủ tuổi
chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; hoặc dƣới hai triệu đồng nhƣng
đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, chƣa đƣợc xóa
án tích mà còn vi phạm.
Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tội đánh
bạc nhƣ sau:
Một là, tội đánh bạc nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng,
do đó xâm phạm đến trật tự công cộng. Trật tự công cộng là một trong những
tiêu chí để đánh giá sự ổn định, phát triển, văn minh, dân chủ của một quốc
gia. Để có trật tự công cộng - một trạng thái xã hội lành mạnh, có tổ chức, có
kỷ luật và ổn định đòi hỏi Nhà nƣớc, các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
trong xã hội đều phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy
tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội. Đi ngƣợc lại điều này là xâm phạm đến trật tự công cộng và sẽ bị xử lý
theo quy định của pháp luật hình sự nếu sự vi phạm đó có đủ các yếu tố cấu
thành tội phạm.
Hai là, tội đánh bạc là hành vi tham gia các trò chơi đƣợc thua bằng
tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên dƣới nhiều hình thức khác nhau một
cách trái pháp luật, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, hoặc dƣới hai
triệu đồng nhƣng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc,
chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm.
30
Ba là, tội đánh bạc do ngƣời có đủ năng lực TNHS thực hiện và đủ tuổi
chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi với hình thức cố ý trực tiếp. Ngƣời thực
hiện tội đánh bạc trái phép không có mục đích chống chính quyền nhân dân.
1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC CHO ĐẾN
TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, Nhà nƣớc Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời. Chính phủ mới đƣợc thành lập đã nhận thức rõ sự nguy
hiểm của các hành vi cờ bạc đối với xã hội và sự phát triển bền vững của
chính quyền mới. Trong thời kỳ này một vấn đề đặt ra gắn liền với những
hành vi cờ bạc là quân dịch và những thành phần thuộc giai cấp bóc lột lúc
bấy giờ chƣa bị thủ tiêu, chúng lợi dụng cờ bạc để nhằm mục đích phá hoại,
đầu độc bóc lột nhân dân, làm cho một bộ phận nhân dân ta quên đi nhiệm
vụ cách mạng.
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của các hành vi cờ bạc và để đấu
tranh, xử lý, ngăn chặn những hệ lụy nguy hại cho xã hội và an ninh quốc gia,
Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 168/SL ngày
14/4/1948 - Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên đƣợc nhà nƣớc ta quy định về
tội cờ bạc. Sắc lệnh này thể hiện đƣờng lối xử lí cứng rắn, thái độ nghiêm
khắc của nhà nƣớc ta đối với loại tội phạm này, đặc biệt đối với những đối
tƣợng đánh bạc.
Tại Điều 1 của Sắc lệnh 168/SL quy định về hành vi đánh bạc nhƣ sau:
- Hành vi đánh bạc bao gồm: "Tất cả các trò chơi cờ bạc dù có tính chất
may rủi hay là có dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền đều coi là
tội đánh bạc " [30, tr 497]; hoặc những cuộc đánh đố nhau vì tiền, những cuộc
31
xổ số vì tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép
trƣớc thì đều đƣợc coi là hành vi đánh cờ bạc không cứ ở nơi nào.
- Tại Điều 2 Sắc lệnh 168/SL cũng quy định hành vi tổ chức đánh bạc
với nội dung là tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi đã đƣợc nêu
tại điều I của Sắc lệnh mà không phụ thuộc vào địa điểm thực hiện hành vi.
- Sắc lệnh chƣa đƣợc quy định về hành vi gá bạc nhƣng quy định đối
với những ngƣời mà cho mƣợn tiền mƣợn địa điểm để tổ chức đánh bạc
không cần biết có thu lợi hay không đều bị xử lý nhƣ ngƣời tổ chức đánh bạc
- Sắc lệnh 168/SL cũng quy định:
Những ngƣời giúp, ngƣời khác tổ chức những cuộc chơi nói
trên, những ngƣời quản lý ngƣời làm cái, lấy hồ, những ngƣời làm
công khác giúp việc trực tiếp vào cuộc chơi đều bị coi là tòng phạm
của ngƣời tổ chức đánh bạc và bị phạt tù từ 2 - 5 năm tù và phạt
bằng tiền từ 10.000đ đến 100.000đ. [30, tr. 497]
Bên cạnh việc xác định phạm vi những đối tƣợng bị xử lý về hình sự
Sắc lệnh 168/SL cũng quy định chế tài xử lý nghiêm khắc đƣợc áp dụng đối
với ngƣời phạm tội đánh bạc:
- Điều 2 của Sắc lệnh 168/SL quy định hình phạt đối với ngƣời phạm
tội đánh bạc là tù từ 1 năm đến 3 năm và phạt bạc (phạt tiền) từ 5000 đến
50000 đồng.
- Ngoài hình phạt chính, điều luật còn quy định hình phạt bổ sung có
thể áp dụng đối với ngƣời phạm tội là bị quản thúc từ 1 năm đến 5 năm. Văn
bản cũng quy định các dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, tiền nong bắt đƣợc
trên bàn hay trên chiếu bạc đều bị tịch thu.
Ngoài ra Điều IV của Sắc lệnh thể hiện thái độ rất nghiêm khắc của
Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa trong việc xử lý những ngƣời thực hiện
hành vi cờ bạc.
32
Dù rằng Tòa án có xét xử tình trạng nên giảm, cũng bắt buộc
áp dụng hình phạt tối thiểu về tù và tiền nói trong Điều II và Điều
III trên đây. Tòa án phải phạt vừa tù và tiền mà không cho bị can
hƣởng án treo. Nếu có trƣờng hợp tái phạm, các hình phạt sẽ tăng
gấp đôi. [30, tr.497]
Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/ 04 /1948, mặc dù chƣa phân biệt rõ các
hành vi cờ bạc, nhƣng trong quy định đã có phân hóa để xử lý đối với những
đối tƣợng tổ chức đánh bạc, gá bạc và những ngƣời đánh bạc. Hình phạt đƣợc
áp dụng đối với các tội phạm về cờ bạc là rất nghiêm khắc, đặc biệt đối với
những ngƣời đánh bạc bao gồm hình phạt chính gồm cả phạt tù và phạt tiền,
hình phạt bổ sung là bị quản thúc từ 1 năm đến 5 năm. Ngoài ra còn áp dụng
biện pháp tịch thu tất cả các đồ vật, tiền dùng để đánh bạc.
Sau khi ra ban hành và áp dụng một thời gian, Sắc lệnh 168/SL là cơ sở
pháp lý quan trọng phục vụ cho việc phòng chống các tội cờ bạc nói chung và
tội đánh bạc nói riêng. Tuy nhiên sự biến đổi sâu sắc của kinh tế, chính trị - xã
hội miền Bắc qua công cuộc cải tạo XHCN, thì một số quy định của Sắc lệnh
đã không còn phù hợp và cần thiết phải tiến hành những sửa đổi.
Thông tƣ 301/VHH-HS ngày 14/2/1957 và thông tƣ 2098/VHH-HS
ngày 31/5/1957 của Bộ Tƣ pháp về việc bài trừ tệ nạn cờ bạc đã giải quyết
một phần những vƣớng mắc của Sắc lệnh 168/SL.
Tại thông tƣ 301/VHH-HS, với phƣơng châm “lấy giáo dục làm chính”
đƣờng lối xử lý các tội cờ bạc của Nhà nƣớc ta đã có sự giảm nhẹ. Thông tƣ
301/VHH - HS cũng đƣa ra đƣờng lối xử lý của các cơ quan tƣ pháp đối với
việc đánh bạc, đó là: Không nhất thiết phải bắt đƣợc quả tang đánh bạc mới
có thể truy tố đƣợc. Có thể việc chứng bằng bất kì hình thức nào để chứng
minh là bị can đã đánh bạc nhƣng phải thận trọng trong trƣờng hợp này. Có
bằng chứng rõ ràng thì mới truy tố, không nên suy luận hoặc chỉ dựa vào lời
khai của một vài nhân chứng (Phần B mục I).
33
Thông tƣ này cũng xác định chỉ truy tố đối với các đối tƣợng:
- Bọn tổ chức, bọn chứa gá, bọn sóc cái, bọn hồ lỳ, bọn canh gác
chuyên sống về nghề cờ bạc.
- Bọn con bạc chuyên sống về nghề cờ bạc hoặc đã đƣợc cảnh cáo rồi
mà vẫn tiếp tục chơi coi thƣờng pháp luật.
Quy định này đã thu hẹp về đối tƣợng bị xử lý về tội cờ bạc, bao gồm
các đối tƣợng tham gia vào tổ chức, chứa gá bạc và ngƣời đánh bạc là đối
tƣợng có kèm theo những đặc điểm về nhân thân thì mới xem xét để truy tố.
Thông tƣ 301/VHH-HS cũng quy định đƣờng lối phân hóa trong chính
sách hình phạt đối với các đối tƣợng phạm tội. Cụ thể là: “đối với những bọn
trên thì xử phạt mức tối thiểu, trường phạt phạm tội nặng mới phạt trên mức tối
thiểu” [2]. So với đƣờng lối xử phạt của Sắc lệnh 168/SL, đƣờng lối xử lý trong
thông tƣ này đã giảm nhẹ đáng kể đối với những đối tƣợng tham gia cờ bạc.
Tại thông tƣ số 2098 ngày 31/5/1957 một lần nữa lại nêu ra cách vận
dụng Sắc lệnh 168/SL trong điều kiện và tình hình xã hội mới. Thông tƣ này
xác định những nội dung chính sau:
- Về mức hình phạt: Đối với những trƣờng hợp phạm tội nhẹ mà nếu
phạt bị can ở mức tối thiểu là 1 năm tù thì nặng quá nhƣng nếu chỉ cảnh cáo
ở phòng công tố thì nhẹ quá. Thông tƣ này cũng nêu đƣờng lối xử lý là phải
cân nhắc kĩ giữa truy tố và không truy tố. Nếu thấy truy tố là cần thiết để
làm hậu thuẫn cho việc giáo dục thì cứ đƣa ra truy tố đề nghị với Tòa án xử
phạt mức tối thiểu. Nếu xét thấy không cần thiết phải truy tố thì cảnh cáo ở
phòng công tố rồi tha cho bị can. Mức phạt tiền vẫn giữ nguyên theo quy
định của Sắc lệnh 168/SL.
- Về vấn đề thu tang vật: Thông tƣ số 2098 ngày 31/5/1957 khẳng định
rõ thêm quy định của Sắc lệnh 168/SL: Chỉ tịch thu số tiền trên bàn hoặc trên
chiếu bạc mà không tịch thu tiền trong túi các con bạc, để tránh tình trạng lạm
34
dụng tịch thu cả tiền không phải để dùng để đánh bạc hoặc đƣợc bạc, cũng
không tịch thu đồ vật do tiền đƣợc bạc mua đƣợc.
- Về vấn đề quản thúc: Thông tƣ nêu tinh thần mới là đối với các đối
tƣợng phạm tội cờ bạc thì không cần thiết xử phạt thêm quản thúc.
Kế tiếp sau hai thông tƣ nói trên, ngày 8/1/1968, TAND tối cao đƣa ra
bản tổng kết số 9/NCPL hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử các tội cờ bạc.
Nội dung quan trọng mà bản tổng kết số 9/NCPL nêu ra là giới hạn
giữa những hành vi cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự và những hành vi
không cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự. Trong phần này khái niệm về
các hành vi cờ bạc đƣợc nêu lên: "Hành vi đánh bạc là hành vi chơi có được
thua bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt nhưng thanh toán với nhau bằng
tiền, tuy nhiên phải có động cơ mục đích sát phạt nhau" [30, tr.498]
Qua các khái niệm sơ lƣợc trên đây, bản tổng kết số 9/NCPL đã chỉ rõ
ranh giới những trƣờng hợp cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự và những
trƣờng hợp không cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự. Theo đó đối với
hành vi đánh bạc phải có động cơ mục đích sát phạt nhau, có đƣợc thua đáng
kể hay tƣơng đối đáng kể thì mới cần thiết phải xử lý về hình sự vì khi đó tính
chất hành vi bóc lột lẫn nhau trái với chế độ XHCN, tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đánh bạc mới thể hiện rõ nét.
Có thể nhận thấy rằng điểm tiến bộ quan trọng trong đƣờng lối xét xử
của bản tổng kết số 9/NCPL là chính sách phân hóa rõ rệt các đối tƣợng bị xử
lý hình sự theo tinh thần:
Mức độ xử lý nặng nhẹ căn cứ vào tính chất của hành vi và
nhân thân bị cáo; hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc nguy hiểm hơn
hành vi đánh bạc,những đám bạc to nguy hiểm hơn những đám bạc
ít sát phạt nhau. Những ngƣời chuyên sống hay gần nhƣ chuyên
sống về nghề cờ bạc nguy hiểm hơn những ngƣời cờ bạc máu mê,
35
những ngƣời cờ bạc máu mê nguy hiểm hơn những con bạc cơ hội;
những phần tử xấu cần xử lý nghiêm khắc hơn những ngƣời thuộc
thành phần nhân dân lao động...[30, tr.499]
Tại văn bản này lần đầu tiên quy định hình thức xử phạt tù và cho
hƣởng án treo đƣợc quy định đối với những ngƣời phạm tội cờ bạc thuộc
những trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng.
Về hình phạt này vẫn dựa trên tinh thần của Sắc lệnh 168/SL, tuy nhiên
có hƣớng dẫn xử lý đối với hình phạt tiền, xử phạt quản chế và xử lý tang vật.
Vấn đề phạt tiền: Bản tổng kết số 9/NCPL xác định phạt tiền có thể là
hình phạt chính hoặc phụ, tuy nhiên hình phạt này chỉ nên áp dụng với tƣ cách
là hình phạt chính trong những trƣờng hợp cá biệt nhƣ tội phạm nhẹ, hoàn
cảnh bản thân hoặc gia đình đáng chiếu cố đặc biệt (tuổi già, bệnh tật, v.v....)
Bản tổng kết cũng đƣa ra quan điểm đó là Tòa án phải xử phạt tiền
nặng đối với những đối tƣợng cờ bạc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp,
những tên cờ bạc gian lận, những ngƣời tổ chức, thu hồ, những tên cờ bạc sát
phạt nhau lớn. Tuy nhiên, mức tiền phạt phải tùy thuộc vào tính chất, hành vi
của đối tƣợng, đồng thời cần xét đến khả năng kinh tế hiện tại của từng bị cáo
để bản án có thể thi hành đƣợc và việc phạt tiền không ảnh hƣởng đến sinh
hoạt của gia đình họ.
Cơ sở pháp lý của hình phạt tiền có Điều 2 Sắc lệnh 168-SL
ngày 14/04/1948 cho phép xử phạt đến 50đ đối với con bạc, đến
100đ đối với ngƣời tổ chức, chứa gá nhƣ chỉ thị 1183 của TAND tối
cao hƣớng dẫn; lại có Điều 4 của Sắc lệnh ấy cho phạt bạc gấp đôi
trong trƣờng hợp tái phạm.
Ngoài Sắc lệnh số 168- SL và sau sắc lệnh này còn có Nghị
định số 32 ngày 06/04/1952 của Bộ tƣ pháp quy định tại điều 7.
Riêng tội đánh bạc, tiền phạt ấn định ở Điều 2 Sắc lệnh 168 - SL
36
bằng giá 200 kg gạo đến 1000 kg gạo đối với ngƣời tổ chức, và
bằng 100kg gạo đến 500kg gạo đối với con bạc. Theo giá gạo Nhà
nƣớc quy định hiện nay (40đ/tạ) ngƣời tổ chức có thể bị phạt tới
400đ và con bạc có thể bị phạt đến 200đ. Nếu tái phạm vận dụng
thêm Điều 4 Sắc lệnh 168 - SL, ngƣời tổ chức có thể bị phạt đến
800đ và con bạc có thể bị phạt đến 400đ.[30, tr.501]
Về hình thức xử phạt quản chế, bản tổng kết nêu ra đƣờng lối chung đó
là "Không xử phạt quản chế đối với nhân dân lao động và nói chung chỉ xử
phạt hình thức quản chế đối với những người có nhân thân xấu, chỉ vì máu
mê hay cơ hội mà phạm tội cờ bạc." [30, tr.502]. Đồng thời cần phải xử phạt
quản chế đối với các đối tƣợng địa chủ cƣờng hào có tội nhẹ, bọn đã làm gián
điệp, tham gia các đảng phái nói chung, bọn đã làm tay sai cho địch tội nhẹ
mà nay chƣa thực sự hối cải.
Về vấn đề xử lý tang vật, bản tổng kết tiếp tục khẳng định nguyên tắc
tịch thu những phƣơng tiện thƣờng xuyên dùng để đánh bạc, tịch thu toàn bộ
tiền dùng để phạm pháp và tiền do phạm pháp mà có.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ngày 15/3/1976, Hội đồng
Chính phủ Cách mạng lâm thời ban hành Sắc luật số 03- SL/76 quy định các
tội phạm và hình phạt. Văn bản này ra đời trong hoàn cảnh miền Nam đã hoàn
toàn giải phóng, trật tự cách mạng đã đƣợc thiết lập, tình hình trị an xã hội
bƣớc đầu đã có chuyển biến tốt nhƣng vẫn còn phức tạp. Nhiều loại tội phạm,
trong đó có tội cờ bạc vẫn xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý xã hội. Vì
vậy, những quy định về tội cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 cũng thể hiện thái
độ nghiêm khắc của Nhà nƣớc đối với các hành vi phạm tội này.
Tại Điều 9 của Sắc luật, tội cờ bạc đƣợc quy định với mức hình phạt là
tù từ 3 tháng đến 5 tháng, trƣờng hợp nghiêm trọng thì phạt tù đến 15 năm.
Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời phạm tội có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng
37
Ngân hàng. Ngoài ra quy định tại Điều 11 về hình phạt phụ, ngƣời phạm tội
có thể bị tịch thu 1 phần hoặc toàn bộ tài sản, trƣờng hợp phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp còn có thể bị phạt quản chế hoặc cấm lƣu trú ở một số địa
phƣơng từ 1 năm đến 5 năm tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù.
Theo tinh thần của chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của TAND tối
cao hƣớng dẫn việc thi hành pháp luật thì hình phạt tối đã đƣợc quy định đối
với các tội phạm về cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 là quá cao, không phù
hợp với tình hình tội phạm này ở miền Bắc. Chính vì vậy, giai đoạn này miền
Bắc vẫn áp dụng đƣờng lối xét xử đã đƣợc hƣớng dẫn tại bản tổng kết số 9-
NCPL ngày 8/1/1968 và Sắc luật 03-SL/76 chỉ áp dụng tại miền Nam.
Nghiên cứu lịch sử xây dựng pháp luật hình sự ở nƣớc ta về tội cờ bạc
nói chung, tội phạm đánh bạc nói riêng, trƣớc khi ban hành BLHS năm 1985
có thể thấy những điểm chính nhƣ sau:
1. Ngay sau khi giành đƣợc độc lập từ Thực dân Pháp và thành lập Nhà
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa (Năm 1945), Nhà nƣớc ra đã xác định cờ
bạc là hành vi có tính nguy hiểm đến trật tự an toàn xã hội, là công cụ để các
thế lực xấu lợi dụng, phá hoại, đầu độc, bóc lột nhân dân, làm một số ngƣời
sao nhãng nhiệm vụ cách mạng. Sắc lệnh 168/SL, Sắc luật 03-SL/76 và các
văn bản hƣớng dẫn đã đƣợc quan tâm kịp thời ban hành để phục vụ cho hoạt
động đấu tranh với các loại tội phạm về cờ bạc. Tại các văn bản này đã nêu ra
những khái niệm, phân hóa một cách tƣơng đối rõ về các hành vi thuộc tội
phạm cờ bạc. Phƣơng châm xử lý về hình sự đó là “Mức độ nặng nhẹ căn cứ
vào tính chất của hành vi và nhân thân bị cáo, hành vi tổ chức, chứa gá cờ
bạc nguy hiểm hơn hành vi đánh bạc, những đám bạc to nguy hiểm hơn đám
bạc nhỏ” [2. tr.45]. Do vậy, xác định đƣợc hành vi đánh bạc và đƣa ra mức
hình phạt rất nghiêm khắc và hƣớng xử lý là hình phạt ngày càng mang tính
chất giáo dục là chính.
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đLuận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đNhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản tỉnh Bình Dương, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAYLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sựLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 

Similar to Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT

Similar to Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT (20)

Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOTLuận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu, HOT
 
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợiTội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
Tội lợi dụng chức vụ gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, HAY
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, HAYLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, HAY
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ trong khi thi hành công vụ, HAY
 
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sựLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự
 
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội phá hoại chính sách đoàn kết trong Luật hình sự, HAY
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Đề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAY
Đề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAYĐề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAY
Đề tài: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước theo pháp Luật, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm bí mật nhà nước trong Luật Hình sự
 
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sựLuận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
Luận văn: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự
 
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOTĐề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
Đề tài: Người giúp sức trong đồng phạm theo luật hình sự, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 

Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ PHƢƠNG LAN §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (TR£N C¥ Së sè liÖu thùc tiÔn §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Phƣơng Lan
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt trong luận văn Danh mục các bảng MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC....................................................................................7 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC.................7 1.1.1. Khái niệm định tội danh....................................................................................7 1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh................................................... 11 1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng............................. 15 1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc................ 16 1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC.......... 21 1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội đánh bạc......................... 21 1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội đánh bạc...................... 24 1.3. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM....................................................................... 26 1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ...................................................................................................... 30 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985............................................ 30
  • 4. 1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999............................................. 38 1.5. TỘI ĐÁNHBẠCTRONGPHÁP LUẬTHÌNHSỰMỘTSỐNƢỚC.........42 Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ LOẠI TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI............. 46 2.1. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999.................................................................................... 46 2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc .................................................... 46 2.1.2. Hình phạt ......................................................................................................... 51 2.1.3. Một số điểm mới sửa đổi, bổ sung................................................................ 55 2.2. ĐỊNH TỘI DANH TỘI ĐÁNH BẠC TẠI CẤP SƠ THẨM VÀ CẤP PHÚC THẨM ....................................................................................... 58 2.2.1. Định tội danh tại cấp sơ thẩm........................................................................ 58 2.2.2. Định tội danh tội đánh bạc tại cấp phúc thẩm.............................................. 61 2.3. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI ĐÁNH BẠC CỦA TÒA ÁN CÁC CẤP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI......................................... 61 2.3.1. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội đánh bạc........................................ 61 2.3.2. Một số tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tại cấp sơ thẩm ....................67 2.3.3. Nguyên nhân của các tồn tại, vƣớng mắc trong xét xử tội đánh bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội......................................................93 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC................................................. 96 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC.................................................................................................... 96
  • 5. 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLHS VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CÁC VĂN BẢN HƢỚNG DẪN ÁP DỤNG THỐNG NHẤT PHÁP LUẬT VỀ TỘI PHẠM NÀY......................................................................100 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS về tội đánh bạc.................................100 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung một số quy định cụ thể tại Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP hƣớng dẫn áp dụng quy định tại điều 248 Bộ luật hình sự ....................................................................................................101 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC ...........................106 3.3.1. Giải pháp về chuyên môn, nghiệp vụ .........................................................106 3.3.2. Giải pháp về đạo đức nghề nghiệp..............................................................109 3.3.3. Giải pháp về tổ chức cán bộ.........................................................................109 3.3.4. Một số giải pháp khác ..................................................................................110 KẾT LUẬN...............................................................................................................121 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................122
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CTTP: Cấu thành tội phạm ĐTD: Định tội danh PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TP: Thành phố XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1 Bảng 2.1: Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2010 đến 2013 62 2 Bảng 2.2: Phân tích hình phạt đƣợc áp dụng đối với các bị cáo bị Tòa án xét xử về tội danh đánh bạc từ thời gian 2010 đến 2013 63 3 Bảng 2.3: Phân tích đặc điểm nhân thân các bị cáo bị xét xử về tội đánh bạc 64 4 Bảng 2.4: Tổng số vụ, số bị cáo đã xét xử về tội đánh bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đƣa ra xét xử trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian từ năm 2008 đến 2013 64 5 Bảng 2.5: Hình phạt áp dụng 65
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài Định tội danh (ĐTD) là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt một cách công minh, chính xác đồng thời là cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Việc ĐTD sai sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn, đặc biệt là không đảm bảo đƣợc tính có căn cứ của hình phạt đƣợc tuyên, xét xử không đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên nhân của tình trạng oan sai đang tồn tại hiện nay. Nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nƣớc ta, bên cạnh những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội đạt đƣợc. Thì mặt trái của sự phát triển này cũng đã và đang tác động sâu sắc tới đời sống xã hội của đất nƣớc. Biểu hiện là các tội, tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, trong số đó có tội phạm đánh bạc. Đánh bạc xuất phát từ các trò chơi, nhƣng nó không mang mục đích giải trí thông thƣờng mà nhằm sát phạt nhau về kinh tế, tác động tiêu cực đến xã hội. Trong những năm gần đây, mặc dù công tác phòng chống tội đánh bạc đã thực sự đƣợc chú trọng, nhƣng thực sự đƣợc chú trọng, nhƣng thực tế cho thấy tình hình tội đánh bạc diễn ra hết sức phức tạp. Tội đánh bạc tồn tại dƣới nhiều hình tức với quy mô lớn nhỏ khác nhau, tài sản là phƣơng tiện thanh toán việc đƣợc thua có giá trị không ngừng tăng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế, những thủ đoạn mà các chủ thể sử dụng ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Gắn liền với những thông số đó, thiệt hai mà tội đánh bạc gây ra cho xã hội cũng tăng lên đáng kể. Ở bình diện
  • 9. 2 rộng, chúng trực tiếp xâm hại đến trật tự công cộng, ở bình diện hẹp, chúng gây ra những thiệt hại nặng nề về cả vật chất và tinh thần cho gia đình ngƣời phạm tội và bản thân những ngƣời đó. Các con bạc xuất hiện ở tất cả các tầng lớp, ngành nghề trong xã hội, thậm chí không ít quan chức giữ những vị trí quan trọng, then chốt trong bộ máy Nhà nƣớc cũng tham gia tệ nạn này. Thêm vào đó là những sai phạm trong xử lý của các cơ quan tố tụng, hành vi tham nhũng, bảo kê của một bộ phận không nhỏ của cơ quan lực lƣợng chức năng… là những nguyên nhân khiến tệ nạn cờ bạc ngày càng nhức nhối, thách thức chính quyền, làm mất niềm tin của nhân dân. Tội đánh bạc là loại tội phạm nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng cho toàn xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội, gây mất trật tự công cộng của xã hội. Loại tội phạm này còn kéo theo sự phát triển của nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác nhƣ tội tham nhũng, tham ô, ma túy, mại dâm, trộm cắp, cƣớp tài sản... Tội đánh bạc là tội phạm phổ biến, làm ảnh hƣởng đến nếp sống văn minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức của một bộ phận dân cƣ, gây ra thiệt hại về vật chất, tinh thần cho nhiều gia đình. Vì vậy, đấu tranh phòng chống, tiến tới đẩy lùi tội phạm đánh bạc ra khỏi đời sống xã hội đã và đang đặt ra những nhiệm vụ cấp bách cho toàn hệ thống chính trị của nƣớc ta. Thực tiễn hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội đánh bạc trong giai đoạn hiện nay luôn là mối quan tâm hàng đầu của các địa phƣơng trên cả nƣớc, trong đó có Thành phố Hà Nội. Hiện nay tội, tệ nạn đánh bạc xuất hiện ở mọi nơi trên địa bàn Thành phố Hà Nội có xu hƣớng tăng cao, đã gây ra những ảnh hƣởng tiêu cực cho xã hội và quá trình phát triển kinh tế của địa phƣơng. Thực trạng trên đòi hỏi Đảng, Nhà nƣớc phải có biện pháp tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho xã hội. Hiện nay tệ nạn đánh bạc đƣợc biến tƣớng theo rất nhiều hình thức
  • 10. 3 có thể đánh bạc, gá bạc, hay là tổ chức đánh bạc nên vấn đề ĐTD đối với loại tội phạm này rất quan trong. Đây còn là lý do để chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội đánh bạc là tội phạm có tính chất phức tạp cao, đã đƣợc một số nhà làm luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng Đại học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1998; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Bình luận khoa học của Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tƣ pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1987 (tái bản năm 1992, 1997). Sau khi ban Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, tội đánh bạc tiếp tục đƣợc đề cập trong giáo trình Giáo trình luật hình sự Việt Nam – của trƣờng Đại học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2000; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002; Bình luận khoa học BLHS năm 1999 NXB Công an nhân dân… Ngoài ra còn có các công trình khoa học khác đã nghiên cứu đến tội đánh bạc nhƣ: Các công trình nêu trên trong góc độ nào đó đã đề cập đến các dấu hiệu của tội đánh bạc, tình hình đấu tranh, phòng chống trách nhiệm hình sự đối với loại tội này… tuy nhiên chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về việc ĐTD đối với tội đánh bạc. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội đánh bạc, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ
  • 11. 4 sở cho hoạt động ĐTD đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh bạc. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra một số vƣớng mắc, tồn tại trong công tác định tội, xử lý để đề xuất những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đúng nhƣ tên gọi của nó "Định tội danh tội đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn Thành phố Hà Nội". 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tội đánh bạc dƣới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian 05 năm từ năm 2008 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam XHCN; những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết trên các tạp chí trong nƣớc. 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội đánh bạc, các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân (TAND) Thành phố Hà Nội về tội đánh bạc.
  • 12. 5 4.3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VII, IX, X và các Nghị quyết số 8- NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 của Bộ chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thông kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thực khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. Những đóng góp mới về khoa học Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu tƣơng đối toàn diện, hệ thống về việc định đối với tội đánh bạc trên cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn áp dụng tại Thành phố Hà Nội. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm rõ đƣợc những vấn đề cơ bản của hoạt động định tội danh; khái niệm tội đánh bạc và các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trƣng của tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá đúng thực tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn Thành phố Hà Nội, phân tích, làm rõ những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn xét xử tội đánh bạc và nguyên nhân của nó.
  • 13. 6 - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất đƣợc nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội đánh bạc và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn xét xử trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nƣớc nói chung. Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm đánh bạc. Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội đánh bạc Chương 2: Những quy định về tội đánh bạc trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn xét xử loại tội phạm này trên địa bàn Thành phố Hà Nội Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự Việt Nam.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 1.1.1. Khái niệm định tội danh Một trong những hoạt động tố tụng quan trọng, xuyên suốt tất cả các giai đoan tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, đó là hoạt động ĐTD. ĐTD đƣợc các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện từ giai đoạn tiền khởi tố cho đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, thậm trí có thể xảy ra cả trong trƣờng hợp tái thẩm, giám đốc thẩm nếu có căn cứ… nhằm tìm ra bản chất thật sự của hành vi phạm tội, từ đó áp dụng đúng điều luật, đúng khung hình phạt đối với ngƣời phạm tội. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, có một số nhà khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này và đƣa ra những quan điểm nhƣ sau: Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm: “ĐTD là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và đƣợc tiến hành bằng cách – trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập đƣợc và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tƣơng ứng do luật hình sự quy định” [3, tr.11]. Còn quan điểm của TS. Lê Văn Đệ, ông đƣa ra khái niệm ĐTD nhƣ sau: “ĐTD là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dâu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [9, tr.108]
  • 15. 8 Về khái niệm này, TS Dƣơng Tuyết Miên cho rằng: “ĐTD là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một ngƣời có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện". [21, tr. 9] Cũng về khái niệm ĐTD, TS.Trịnh Quốc Toản cho rằng: “ĐTD là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp đồng nhất giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã đƣợc thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong BLHS. Nói cách khác định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội nào trong số các tội phạm đƣợc quy định trong BLHS” và “ĐTD là một quá trình logic nhất định, là hoạt động tƣ duy do ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang đƣợc kiểm tra, xác định trong mối tƣơng quan với các quy phạm pháp luật hình sự”. [33, tr.7 – 8] Nhìn chung trong các khái niệm về ĐTD nêu trên, mặc dù các tác giả xây dựng với những cách diễn đạt khác nhau nhƣng đều đã phản ánh đƣợc 3 yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, đó là: yếu tố về chủ thể của hoạt động ĐTD; yếu tố về việc nhận thức (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội và yếu tố về đối chiếu, so sánh kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật hình sự. Nói cách khác, đó chính là: Chủ thể, chủ quan (nhận thức) và cơ sở pháp lý của ĐTD. Bên cạnh việc đƣa ra khái niệm ĐTD, các tác giả nêu trên còn đƣa ra những hình thức (dạng) của ĐTD, nhằm phân biệt hoạt động ĐTD nào đó có giá trị pháp lý đƣợc pháp luật đảm bảo thi hành án (mang tính cƣỡng chế bắt buộc), còn hoạt động ĐTD nào chỉ mang tính tham khảo, không phát sinh tính pháp lý.
  • 16. 9 Theo GS.TSKH Lê Cảm, có hai hình thức ĐTD: ĐTD chính thức và ĐTD không chính thức. Trong đó, ĐTD chính thức “là sự đánh giá về mặt nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể đƣợc Nhà nƣớc ủy quyền thực hiện”. Còn ĐTD không chính thức “là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nƣớc tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể” [5, tr.12-13]. Quan điểm của TS. Lê Văn Đệ và TS Dƣơng Tuyết Miên cũng đồng nhất với GS.TSKH Lê Cảm về các hình thức ĐTD nhƣ trên, đó là đều thừa nhận có hai hình thức ĐTD với những đặc điểm về chủ thể và hậu quả pháp lý nhƣ sau: - Một là ĐTD chính thức: Do các cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền thực hiện, nhằm giải quyết vụ án cụ thể. Hình thức này có giá trị pháp lý và đƣợc bảo đảm thực hiện. - Hai là ĐTD không chính thức: Do các luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí… thực hiện, nhằm nêu lên những quan điểm cá nhân về một hành vi có dấu hiệu tội phạm. Hình thức này không có giá trị pháp lý để giải quyết vụ án. Nhƣ vậy theo quan điểm trên, mỗi tác giả đã xây dựng một khái niệm ĐTD riêng, mang bản sắc của mình. Trong đó, khái niệm ĐTD của TS. Lê Văn Đệ mặc dù phần nào đã đề cập đến hai dạng ĐTD chính thức và không chính thức, nhƣng nội dung còn chung chung, chƣa cụ thể và chƣa phản ánh đƣợc các chủ thể của hoạt động ĐTD là ai. Bên cạnh đó, trong khái niệm ĐTD của TS Lê Văn Đệ có nêu “các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể”, nghĩa là ở đây ông đã khẳng định có “Tội phạm” xảy ra. Tuy nhiên trong thực tiễn, bƣớc đầu tiên của ĐTD là xác định xem có tội phạm xảy ra hay không, sau khi xác định có tội phạm xảy ra, mới đến bƣớc tiếp theo là xác định tội phạm đó tên là gì, đƣợc quy định tại điều nào của BLHS. Còn khái niệm ĐTD của TS Dƣơng Tuyết Miên, khái niệm này đã phản ánh cụ thể hơn, sát với thực tiễn hơn và đã chỉ ra đƣợc chủ thể của hoạt động
  • 17. 10 ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng. Điểm đáng lƣu ý trong khái niệm ĐTD của TS. Dƣơng Tuyết Miên so với khái niệm ĐTD của TS. Lê Văn Đệ là bà đã nêu ra đƣợc bƣớc đầu tiên của ĐTD, đó là “ xác định một ngƣời có phạm tội hay không” (bƣớc định tội) và sau đó “ nếu phạm tội thì đó là tội gì” (bƣớc ĐTD). Tuy nhiên, mặc dù bà đã thừa nhận có hai hình thức ĐTD là: ĐTD chính thức và ĐTD không chính thức, nhƣng trong khái niệm của bà chỉ mới đề cập đến ĐTD ở dạng chính thức, mà chƣa đề cập đến dạng không chính thức. Điều này đƣợc thể hiện ở chỗ bà nêu rõ các chủ thể trong hoạt động ĐTD là các cơ quan tiến hành tố tụng và một số các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật – đây chỉ là chủ thể của dạng ĐTD chính thức. Trong khi đó, chủ thể của dạng ĐTD không chính thức còn là những luật gia, luật sƣ, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí… Khác với quan điểm của tác giả Lê Văn Đệ và Dƣơng Tuyết Miên về ĐTD, PGS. TS Trịnh Quốc Toản đã nêu ra đƣợc những vấn đề mang tính bản chất, những yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, trong đó về mặt quan điểm khoa học, ông và GS.TSKH Lê Cảm đều có quan điểm đồng nhất đối với khái niệm ĐTD này. Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi thấy cần đƣa ra một khái niệm ĐTD bao quát đƣợc cả hai dạng: chính thức và không chính thức, rồi sau đó đƣa ra một khái niệm riêng cho dạng ĐTD chính thức nhằm phân biệt và làm rõ hơn về hoạt động của ĐTD này. Theo quan điểm của chúng tôi, có thể khái niệm ĐTD chung nhƣ sau: “ĐTD là hoạt động nghiên cứu, phân tích đánh giá một hành vi nguy hiểm cho xã hội trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập đƣợc do các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện, nhằm xác định hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu là tội phạm thì tội phạm đó đƣợc quy định trong điều luật nào của BLHS hiện hành” Về khái niệm ĐTD theo dạng chính thức, có thể xây dựng nhƣ sau: “ĐTD là một hoạt động tố tụng chỉ của riêng các cơ quan tiến hành tố tụng,
  • 18. 11 ngƣời tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, bằng phƣơng pháp chuyên môn, nghiệp vụ của mình để tìm ra và “ đặt tên” cho một hành vi phạm tội. Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ đề cập đến hình thức ĐTD chính thức do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Chính vì vậy, những vấn đề liên quan đến khái niệm ĐTD đều đƣợc hiểu là tác giả đề cập đến dạng “ĐTD chính thức”. Khái niệm ĐTD nêu trên chỉ là việc ĐTD trong hoạt động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại tội phạm. Còn đối với việc ĐTD đối với tội đánh bạc là một hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn. Trong đó, trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội đánh bạc, các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có phải là hành vi đánh bạc hay không để từ đó ban hành các quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật. Trong BLHS năm 1999, tại Điều 248 có tên gọi là “ Tội đánh bạc”. Nhƣ vậy trên cơ sở lý luận về ĐTD, căn cứ theo quy định tại Điều 248 của BLHS và các dấu hiệu đặc trƣng cấu thành tội đánh bạc, có thể đƣa ra khái niệm về việc ĐTD đối với tội đánh bạc nhƣ sau: “ ĐTD tội đánh bạc là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) hoặc các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS, nhằm xem xét đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của tội đánh bạc hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 248 BLHS”. 1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh - ĐTD đối với tội đánh bạc là hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành
  • 19. 12 bởi cơ quan tiến hành tố tụng (bao gồm cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và ngƣời tiến hành tố tụng hình sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán). + ĐTD trong giai đoạn điều tra: ĐTD ở giai đoạn này do cơ quan điều tra (bao gồm cả cơ quan đƣợc giao một số hoạt động điều tra đƣợc quy định trong tổ chức điều tra hình sự) thực hiện. + Trong giai đoạn này việc ĐTD đƣợc tiến hành từ khi phát sinh các căn cứ để khởi tố vụ án. Các căn cứ để khởi tố vụ án gồm: * Tố giác của công dân: Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc với cơ quan khác của nhà nƣớc hoặc với tổ chức xã hội. Việc tố giác có thể bằng miệng, nếu bằng miệng thì cơ quan tổ chức phải lập văn bản và lấy chữ ký ngƣời đó. Ví dụ: có địa bàn thƣờng xuyên xảy ra tệ nạn đánh bạc gây mất trật tự công cộng, an ninh địa phƣơng, gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, nên đã có rất nhiều vụ án đánh bạc đều đƣợc nhận tin báo của quần chúng nhân dân. * Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội: Cơ quan tổ chức khi phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân phải báo ngay tin về tội phạm cho cơ quan điều tra bằng văn bản để cơ quan điều tra xem xét có dấu hiệu của tội phạm hay không để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố. Ví dụ: thƣờng những vụ án đánh bạc đƣợc quần chúng nhân dân báo tin cho Ban công an xã, phƣờng, sau đó đƣợc báo về Cơ quan điều tra. * Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng: Khi có tin báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ báo đài… thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành thu thập,xác minh xem xét tin báo đó nếu thấy có dấu hiệu của hành vi đánh bạc thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. * Người phạm tội tự thú: Đây là trƣờng hợp chƣa bị phát hiện nhƣng ngƣời phạm tội đã chủ động ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về hành
  • 20. 13 vi của mình. Trên cơ sở việc tự thú, cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xác định dấu hiệu về tội phạm tự thú đã thực hiện và tiến hành ra quyết định khởi tố hình sự. Đối với hành vi đánh bạc thì trƣờng hợp ngƣời phạm tội tự thú là trƣờng hợp hiếm gặp, và hầu nhƣ không thấy. Việc ĐTD cũng đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thay đổi tội danh trong quá trình điều tra, phục hồi điều tra, khởi tố bị can, kết luận điều tra. Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề cơ sở cho hoạt động ĐTD ở giai đoạn truy tố và xét xử. + ĐTD trong giai đoạn truy tố: ĐTD ở giai đoạn này do Viện kiểm sát thực hiện. Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Truy tố bị can, đình chỉ điều tra, trả hồ sơ điều tra bổ sung. Việc ĐTD ở giai đoạn này là tiền đề và cơ sở cho hoạt động ĐTD ở giai đoạn xét xử và là cơ sở cho việc ĐTD lại ở giai đoạn điều tra nếu vụ án bị trả hồ sơ để điều tra bổ xung. + ĐTD ở gia đoạn xét xử: ĐTD ở giai đoạn này do Tòa án quyết định. Việc ĐTD đƣợc tiến hành trong các trƣờng hợp: Xét xử vụ án, đình chỉ vụ án, trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ xung. Việc ĐTD ở giai đoạn này là cơ sở cho việc kết luận vụ án hoặc là cơ sở cho việc định danh lại của giai đoạn điều tra truy tố nếu vụ án bị trả hồ sơ để tiến hành điều tra lại hoặc điều trả bổ sung. - ĐTD đối với tội đánh bạc đƣợc tiến hành trên cơ sở áp dụng Pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự (luật về hình thức) và pháp luật hình sự (luật về nội dung) đều là những căn cứ pháp lý để ĐTD đối với tội đánh bạc. Việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có thể xem là hình thức pháp lý của hoạt động ĐTD. Ở tội Đánh bạc đó là việc ghi nhận vào biên bản bắt quả tang phải thể hiện một cách khách quan, chính xác hay việc xử lý vật chứng,
  • 21. 14 phƣơng tiện phạm tội (quân bài, tiền, …) phải rõ ràng. Hay việc ra các quyết định từ giai đoạn khởi tố vụ án cho đến giai đoạn xét xử, việc thay đổi hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn giam giữ đối với đối tƣợng thuộc tội này đều phải tuân thủ và đảm bảo trình tự của luật tố tụng hình sự. Việc áp dụng LHS là nội dung pháp lý của hoạt động ĐTD. ĐTD đối với tội đánh bạc. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội phạm cụ thể với các dấu hiệu cơ bản của tội TP đang đƣợc sử dụng để ĐTD. Ở tội đánh bạc căn cứ vào Điều 248 BLHS năm 1999, Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán số 01/2010/NQ- HĐTP hƣớng dẫn áp dụng điều 248, Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 và một số các quy phạm khác. - Hình thức của hoạt động ĐTD tội đánh bạc đƣợc thể hiện bằng việc kết luận bằng văn bản. Mục đích cuối cùng của hoạt động ĐTD tội đánh bạc là kết luận hành vi đánh bạc có xảy ra không? Ai là ngƣời phạm tội đánh bạc và buộc họ phải chịu một hành vi tƣơng xứng với hành vi và tội phạm và họ đã thực hiện. Hình thức kết luận đó về mặt pháp lý phải đƣợc thực hiện bằng văn bản áp dụng pháp luật phù hợp với từng giai đoạn tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các hình thức văn bản đối với ĐTD tội đánh bạc: + Quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, quyết định áp dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn (giam giữ, xử lý vật chứng..). kết luận Điều tra, Cáo trạng, Từ nội dung khái niệm về ĐTD của tội đánh bạc, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm cơ bản của việc ĐTD đối với loại tội này. Thứ nhất: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện có thỏa mãn với các dấu hiệu của CTTP tội đánh bạc hay không? Trên cơ sở đó đƣa ra sự đánh giá nhất định về hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xẩy ra.
  • 22. 15 Thứ hai, định tôi danh tội đánh tội đánh bạc là hoạt động thực tiễn pháp lý của các cơ quan tƣ pháp hình sự - các cơ quan Điều tra, truy tố, xét xử để cụ thể hóa các quy định của Pháp luật, lựa chon đúng các quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi đánh bạc đƣợc thực hiện. Thứ ba, ĐTD tội đánh bạc chính là hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm đƣợc quy định tại Điều 248 BLHS. 1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trong hoạt động tố tụng Hoạt động ĐTD của các chủ thể có thể theo 2 xu hƣớng. ĐTD đúng hoặc ĐTD sai. - Đối với hoạt động ĐTD đúng: ĐTD đúng làm tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh và có căn cứ. ĐTD đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiến bộ đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc Pháp quyền nhƣ: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm do cá nhân, bình đẳng trƣớc pháp luật hình sự, nguyên tắc nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam về thẩm quyền điều tra, xét xử qua đó góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự. - Đối với hoạt động ĐTD sai: ĐTD sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực nhƣ: không đảm bảo đƣợc tính công minh có căn cứ đúng pháp luật, truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời vô tội, bỏ lọt ngƣời tội phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc. ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tƣ pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hƣởng đến hiệu quả của đấu tranh phòng chống tội phạm.
  • 23. 16 Đối với tội đánh bạc là hành một trong những tệ nạn xã hội làm cho nhiều ngƣời mất nhà cửa, phát sinh mâu thuẫn dẫn đến gia đình tan nát và đánh bạc còn đƣợc xem là một trong những nguyên nhân phát sinh tệ nạn xã hội khác và tội phạm. Chính vì vậy, bên cạnh việc xử lý hành chính pháp luật còn quy định đánh bạc là tội phạm và những ngƣời vi phạm đáp ứng đƣợc các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt. Tuy nhiên do sự đa dạng của các hình thức đánh bạc nên việc xác định hành vi nào cần phải xử lý hình sự không phải là việc đơn giản. Trong khoảng thời gian ngắn từ năm 2003 đến năm 2010, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã ba lần hƣớng dẫn đƣờng lối xử lý đối với loại tội phạm này cụ thể: Nghị quyết số 03/2003/NQ – HĐTP ngày 17/4/2003; Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12/5/2006; Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP ngày 22/10/2010. Bên cạnh đó Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tổng cục cảnh sát còn ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn để áp dụng cho phù hợp với thực tế. Tuy vậy, hiện nay, việc điều tra, truy tố, xét xử tội đánh bạc dựa vào quy định tại Điều 248 BLHS và Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hƣớng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS còn nhiều bất cập trong việc xác định TNHS đối với những đối tƣợng phạm tội đánh bạc trái phép nhƣ: xác định tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ, chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc, quy định về việc cộng dồn tiền hoặc hiện vật dùng để đánh bạc, việc phân chia hai trƣờng hợp đánh bạc, vấn đề xác định đồng phạm đối với tội đánh bạc, vv... Điều đó có thể thấy đƣợc ý nghĩa của việc ĐTD trong công tác đấu tranh phòng ngừa riêng đối với loại tội này cũng nhƣ trong công tác phòng ngừa chung các loại tội phạm khác. 1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc Thứ nhất: Năng lực chuyên môn của ngƣời ĐTD: Năng lực chuyên
  • 24. 17 môn của ngƣời ĐTD là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu đảm bảo cho việc ĐTD đƣợc đúng. Đây là điều kiện có tính chất nền tảng, là cái gốc mà ngƣời ĐTD phải có năng lực chuyên môn sẽ đảm bảo cho ngƣời ĐTD khi tiến hành hoạt động này có đủ sự tự tin cần thiết trong hoạt động nghề nghiệp của mình. Để có năng lực chuyên môn vững vàng, trƣớc hết ngƣời ĐTD cần phải là ngƣời đƣợc đào tại về cơ bản (phải có bằng đại học Luật hoặc tƣơng đƣơng trở lên). Đồng thời, họ không chỉ là ngƣời nắm chắc kiến thức đƣợc giảng dạy ở trƣờng đại học mà còn phải thƣờng xuyên trau rồi chuyên môn, thƣờng xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, chịu khó học hỏi kinh nghiệm của những thế hệ đi trƣớc. Trong thực tế, các vụ án xẩy ra rất đa dạng muôn màu muôn vẻ. Ngay cả đối với một loại tội, các vụ án xẩy ra cũng rất khác nhau về những tình tiết cũng nhƣ chứng cứ rất phức tạp trong vụ án. Ở tội Đánh bạc có tính đa dạng, các hình thức biểu hiện của hành vi đánh bạc thƣờng bao gồm: Lợi dụng kết quả xổ số kiến thiết (đánh lô đề), xóc đĩa, tá lả, liêng, sâm, chắn, cá độ, bán độ,… Điển hình vừa qua Công an tỉnh Ninh Bình khởi tố 2 cầu thủ là Trần Mạnh Dũng và Nguyễn Mạnh Dũng đã có hành vi cá độ và dàn xếp tỷ số ở CLB V. Ninh Bình. CQĐT Công an tỉnh Ninh Bình đã khởi tố 2 đối tƣợng trên tội Đánh bạc theo Điều 248 BLHS. Nhƣ vậy, chỉ với khả năng chuyên môn vững vàng của mình, ngƣời ĐTD mới có điều kiện cân nhắc, đánh giá toàn bộ các tình tiết vụ án thông qua chác chứng cứ xác thực, đối chiếu hành vi đã thực hiện với quy định của BLHS để từ đó xác định hành vi đó phạm tội gì tƣơng ứng với điều luật nào của BLHS. Năng lực chuyên môn là yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến việc ĐTD. Ngƣời ĐTD cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tinh công tác nhƣng nếu không có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công tác của mình đƣợc (trong hoạt động ĐTD) và trong quan hệ công tác với cấp trên, đồng nghiệp, họ khó có thể là ngƣời độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động
  • 25. 18 nghề nghiệp của mình. Và nhƣ chúng ta đã biết ĐTD là hoạt tƣ duy có tính logic chặt chẽ nhƣng đồng thời đây cũng là hoạt động trí tuệ có tính sáng tạo. Ngƣời ĐTD phải biết vận dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, nhƣng linh hoạt chứ không phải là những roobot dập khuôn máy móc. Đời sống xã hội nƣớc ta biến đổi không ngừng dẫn tới các văn bản pháp luật cũng thƣờng xuyên đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế. Trƣớc đây ở Nghị Quyết số 01/2006/NQ-HĐTP về cách xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc thì: nếu tiền đặt cƣợc là A, tỷ lệ đặt cƣợc là B thì giá trị tang vật là A + A x B. Với cách tính này theo Nghị Quyết này trong thời gian qua đã gây ra nhiều khó khăn và không có lợi cho bị can và số tiền để truy cứu TNHS chỉ là số tiền “ ảo” không có thực. Còn theo điểm mới của Nghị Quyết 01/2010/NQ – HĐTP thì việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dƣới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa nhƣ sau: Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của ngƣời chơi đề, cá độ dùng đánh bạc: Trƣờng hợp ngƣời chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cƣợc cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ nhận đƣợc từ chủ đề, chủ cá độ. Còn trong trƣờng hợp nếu ngƣời chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cƣợc cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trƣớc khi có kết quả mở thƣởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ đó… Việc ngƣời ĐTD cập nhật văn bản pháp luật thƣờng xuyên theo những lần sửa đổi bổ xung giúp cho ngƣời ĐTD đánh giá đƣợc tính chất mức độ phạm tội của hành vi từ đó giúp cho việc ĐTD đƣợc đúng đắn. Chỉ trên cơ sở có kiến thức chuyên môn vững vàng, độc lập,sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, ngƣời ĐTD mới có thể độc lập trong quan điểm và dám bảo vệ quan điểm của mình, không bị chi phối bởi những quan điểm của cấp trên hay của
  • 26. 19 đồng nghiệp. Đồng thời ý thức cầu thì, ham học hỏi, sự vƣơn lên trong hoạt động nghề nghiệp cũng là phẩm chất cần học hỏi đối với năng lực chuyên môn của ngƣời ĐTD. Riêng với đội ngũ Hội thẩm nhân dân cần thiết phải lựa chọn những ngƣời có trình độ, những ngƣời làm công tác liên quan đến Pháp luật nhƣ giáo viên dạy Luật, Cán bộ Điều tra đã về hƣu.. Thứ hai: Đạo đức nghề nghiệp của ngƣời ĐTD: Có thể nói, đây là một trong những điều kiện quan trọng hàng đâu đảm bảo cho việc ĐTD đƣợc đúng. Nếu nhƣ năng lực chuyên môn là điều kiện cần thiết thì đạo đức nghề nghiệp là điều kiện đủ. Hai điều kiện này bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau giúp cho ngƣời ĐTD có thể ĐTD đúng. Trên cơ sở năng lực chuyên môn vững vàng ngƣời ĐTD trƣớc hết phải là ngƣời tuân thủ Pháp luật cũng nhƣ trong việc gƣơng mẫu chấp hành pháp luật, là ngƣời có trách nhiệm và lƣơng tâm trong hoạt động nghề nghiệp, là ngƣời chiến sỹ kiên cƣờng, dũng cảm trên mặt trận phòng chống tội phạm, bảo về công bằng, xã hội, đồng thời họ còn có thái độ làm việc thật khách quan, vô tƣ trong công việc nhằm bảo vệ công lý. Ngƣời ĐTD là ngƣời nhân danh Nhà nƣớc để xác định một ngƣời là có tội hay không có tội. Ngƣời ĐTD phải là ngƣời có bản lĩnh, dũng cảm, thực sự là ngƣời chiến sỹ tiên phong trong mặt trận chống tiêu cực bảo vệ công bằng xã hội. Hiện nay ở loại tội Đánh bạc nhóm các đối tƣợng thuộc loại tội này đa dạng đủ mọi thành phần xã hội từ cán bộ có vị trí chức vụ cao, những ngƣời đứng trong hàng ngũ Đảng thuộc cơ quan Nhà nƣớc, Doanh nghiệp nên việc sẵn sàng bỏ rất nhiều tiền để hối lộ CQ ĐT nhằm thoát tội, có những vụ án đánh bạc lên đến vài chục tỷ đồng thậm chí hơn thì đòi hỏi ngƣời ĐTD phải có một lập trƣờng vững vàng, có lƣơng tâm nghề nghiệp, có thái độ làm việc khách quan. Hay tội Đánh bạc thƣờng bắt quả tang, số tiền trên chiếu bạc sẽ là mức giới hạn cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự, nhiều trƣờng hợp số tiền đánh bạc của các con bạc lớn hơn rất nhiều so với mức đủ để xử lý hình
  • 27. 20 sự thì cán bộ điều tra bỏ ngoài biên bản quả tang thu giữ tang vật chỉ để dừng lại ở mức xử phạt hành chính đối với các đối tƣợng, hoặc sẽ dừng lại ở việc truy tố ở điều khoản thấp nhất mà đáng lẽ ra phải ở điều khoản với mức hình phạt nặng hơn. Thái độ làm việc khách quan vô tƣ là yếu tố cần thiết và đảm bảo cho việc ĐTD nhất là đối với tội Đánh bạc. Hơn nữa, thái độ bao che cần phải đƣợc loại bỏ trong quá trình ĐTD trong quá trình xét xử. Có một thực tế trong quá trình xét xử tội Đánh bạc, do nhận thức của con bạc cho rằng đây là loại tội ít nghiêm trọng, xảy ra là bình thƣờng nên các bị cáo đứng trƣớc vành móng ngựa có thái độ rất coi thƣờng, thậm chí cợt nhả, vì biết trƣớc có sự ƣu ái từ Thẩm phán (do có tiêu cực) điều này gây phản cảm cho ngƣời tham dự phiên tòa, làm mất đi tính chất trang nghiêm của Hội đồng xét xử. Nên vấn đề quan trọng là ngƣời ĐTD phải có thái độ đúng mực, nghiêm túc trong mọi hoàn cảnh, và quá trình xác định một hành vi có phạm tội không tội đó là tội gì phải đúng theo quy định của Pháp luật. Có nhƣ vậy mới đủ sức thuyết phục, mang tính răn đe, giúp cho ngƣời phạm tội thấy rõ sự sai trái của minh từ đó tự giác chấp hành bản án, chấp hành pháp luật. Đồng thời tăng cƣờng công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhất là loại tội Đánh bạc đang có chiều hƣớng gia tăng và biến tƣớng dƣới mọi hình thức. Thứ ba: Hệ thống Pháp luật hình sự hoàn chỉnh: Năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp là những nhân tố vô cùng quan trọng để đảm bảo cho hoạt động ĐTD đúng. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì chƣa thể có điều kiện tốt để ngƣời ĐTD phát huy đƣợc năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của mình. Chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật mà trƣớc hết là hệ thống pháp luật hình sự hoàn chỉnh, ngƣời tiến hành ĐTD mới có điều kiện phát huy đƣợc khả năng làm việc của mình. Khó có thể nó đến sự hiệu quả thực sự trong hoạt động ĐTD khi mà pháp luật nƣớc ta còn nhiều chồng chéo. Quy định về cách tính tiền phạt hoặc hiện vật Đánh bạc tại các khoản 2,3,4 và Điều
  • 28. 21 5 Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP và thực tiễn khởi tố, điều tra truy tố xét xử tội Đánh bạc so với quy định về đồng phạm tại Điều 20 có sự không thống nhất. Tội Đánh bạc đã có rất nhiều lần sửa đổi bổ sung về mức xử lý, hay chỉ dẫn về “ Thuật ngữ” nhƣ Luật số 37/2009/QH12 ngày 19/6/2009 về sửa đổi bổ xung một số điều của BLHS năm 2009 và Nghị quyết số 01/2010/NQ – HĐTP; hay Nghị quyết số 01/2006/NQ – ƣHĐTP. Qua các lần sửa đổi bổ sung cho thấy sự thiếu xót, hạn chế cũng nhƣ vƣớng mắc trong việc áp dụng của nhà làm luật cũng ngƣời nhƣ ngƣời áp dụng pháp luật, mà ở đây là ngƣời ĐTD. 1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI ĐÁNH BẠC 1.2.1. Cơ sở pháp lý của việc định tội danh đối với tội đánh bạc * Bộ luật hình sự – cơ sở pháp lý trực tiếp của việc ĐTD nói chung và Điều 248 là cơ sở pháp lý trực tiếp của việc ĐTD đối với tội đánh bạc nói riêng. Nhƣ vậy trong quá trình ĐTD nếu hiểu theo nghĩa hẹp (chỉ về nội dung) thì BLHS có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc ĐTD. Sự khẳng định nhƣ vậy là vì có những lý do đứng đắn nhƣ sau: Hiện nay theo pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam, thì BLHS năm 1999 hiện hành đƣợc coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các qui phạm PLHS đƣợc áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm nói chung, cũng nhƣ quá trình ĐTD và quyết định hình phạt nói riêng. Bản chất của việc ĐTD tội đánh bạc là so sánh, đối chiếu và kiểm tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi đánh bạc đƣợc thực hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tƣơng ứng của Điều 248 đƣợc qui định trong Phần riêng BLHS hay không. Nhà làm luật khi xây dựng hệ thống các qui phạm của Phần các tội phạm BLHS – trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
  • 29. 22 – đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trƣng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay đƣợc lặp đi lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hóa và qui định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tƣơng ứng của các cấu thành tội phạm (CTTP) cụ thể (CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) để các cơ quan tƣ pháp hình sự dùng làm mô hình pháp lý của ĐTD. BLHS qui định và liệt kê tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội thƣờng xảy ra trong thực tế bị nhà làm luật nhân danh Nhà nƣớc coi là tội phạm. Nói một cách khác, BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất của việc ĐTD chứa đựng những mẫu (mô hình) pháp lý của các tội phạm, mà dựa vào đó những ngƣời có thẩm quyền tiến hành việc ĐTD xác định sự phù hợp của các dấu hiệu của những hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể tƣơng ứng đƣợc thực hiện. BLHS bao gồm hệ thống các nhóm qui phạm pháp luật đƣợc nhà làm luật sắp xếp thành hai Phần – Phần chung và Phần các tội phạm, – mà những ngƣời có thẩm quyền tiến hành việc ĐTD đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện trong thực tế khách quan phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm qui phạm PLHS này bởi các lý do nhƣ sau: Hai nhóm qui phạm PLHS này có mối liên quan chặt chẽ, thống nhất và hữu cơ với nhau trong quá trình ĐTD – xác định CTTP tƣơng ứng đƣợc luật quy định để làm căn cứ pháp lý cho việc giải quyết vấn đề TNHS của ngƣời có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể. Chẳng hạn, khi tìm các quy phạm PLHS để ĐTD đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhƣ bạo loạn và hoạt động phỉ, thì không thể áp dụng các điều 82-83 tại Phần các tội phạm BLHS năm 1999 (quy định hai tội phạm tƣơng ứng với những hành vi này), mà còn phải áp dụng Điều 20 tại Phần chung BLHS đó (đề cập đến chế định đồng phạm) để xác định mức độ
  • 30. 23 TNHS khác nhau của các loại ngƣời đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm cụ thể tƣơng ứng. Trong quá trình ĐTD nếu các quy phạm PLHS tại Phần các tội phạm quy định TNHS đối với tội phạm tƣơng ứng giúp cho chúng ta xác định sự giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đƣợc thực hiện, thì các quy phạm PLHS tại Phần chung về lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, v.v... giúp cho chúng ta nhận biết đƣợc một cách nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu của CTTP cụ thể (CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ) của tội phạm tƣơng ứng đó. * Bộ luật tố tụng hình sự – cơ sở pháp lý gián tiếp của việc ĐTD. Trong quá trình ĐTD khi hiểu theo nghĩa rộng, nếu các quy phạm BLHS đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy nhất trực tiếp (về nội dung), thì các quy phạm PLTTHS (dĩ nhiên không phải là tất cả mà chỉ có một số quy phạm) – là cơ sở pháp lý gián tiếp (về hình thức) không kém quan trọng. Bởi lẽ: Mặc dù các quy phạm PLTTHS ở một chừng mực nhất định có ý nghĩa gián tiếp (bổ trợ) trong việc ĐTD, nhƣng chúng có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Chẳng hạn, Tòa án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thẩm sau khi đã nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ mọi chứng cứ thu thập đƣợc trong vụ án hình sự cụ thể nhận thấy rằng: tội danh mà bị cáo bị Tòa án cấp dƣới xét xử là không có căn cứ – các dấu hiệu của hành vi phạm tội tương ứng với các dấu hiệu của CTTP cơ bản mà trong bản án của Tòa án cấp dƣới lại định tội theo các dấu hiệu của CTTP tăng nặng, thì theo các quy định của Bộ luật TTHS năm 1988 (các khoản 1 và 2 Điều 221, Điều 257) Toà án hai cấp này có quyền sửa lại bản án đã tuyên của Tòa án cấp dƣới
  • 31. 24 để áp dụng điều khoản BLHS về tội danh nhẹ hơn, tức là tiến hành việc định lại tội danh. 1.2.2. Cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội đánh bạc Việc nghiên cứu những vấn đề về CTTP, chính vì thế, có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình ĐTD, vì ĐTD chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định nào đó đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tƣơng ứng – các dấu hiệu đƣợc quy định tại một quy phạm PLHS cụ thể của Phần các tội phạm BLHS. Nhƣ vậy, trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay để có đầy đủ căn cứ xác đáng và đảm bảo sức thuyết phụ trong việc khẳng định cho luận điểm đúng đắn rằng: CTTP là cơ sở khoa học của việc ĐTD. Vai trò của CTTP. Xuất phát từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm PLHS về ĐTD, chúng ta có thể nhận thấy vai trò của CTTP thể hiện rõ trên năm bình diện nhƣ sau: CTTP là một trong những điều kiện chung và quan trọng nhất để ĐTD chính xác – vì nếu nhƣ trong hành vi nguy hiểm cho xã hội không có đầy đủ các dấu hiệu của một CTTP nào đó đƣợc quy định trong PLHS thực định, thì không thể đặt ra việc ĐTD. CTTP là một khái niệm khoa học và là sự trừu tƣợng về mặt pháp lý – vì một loạt các thuật ngữ và phạm trù đƣợc sử dụng Có liên quan đến CTTP (nhƣ: “khách thể”, “chủ thể”, “mặt chủ quan”, “mặt chủ quan”, v.v...) đều đƣợc cá nhà lý luận soạn thảo ra trong khoa học luật hình sự, còn nếu nhƣ chúng có đƣợc quy định trong luật thực định đi chăng nữa thì cũng là dƣới dạng các quy phạm PLHS trừu tƣợng. CTTP là cơ sở pháp lý cần và đủ để truy cứu TNHS ngƣời phạm tội – vì khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của một
  • 32. 25 CTTP tƣơng ứng nào đó đƣợc quy định trong Phần các tội phạm BLHS, thì cũng có nghĩa là các cơ quan tƣ pháp hình sự đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS người phạm tội. CTTP là căn cứ để Tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt đối với người bị kết án – vì nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa các dấu hiệu của một CTTP cụ thể (nhƣ: CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) mà trong đó ghi nhận khung hình phạt tƣơng ứng (với loại và mức cụ thể) tại một Điều (hoặc khoản của một Điều) trong Phần các tội phạm BLHS, thì Tòa án cũng không thể có căn cứ để lựa chọn loại và mức hình phạt để áp dụng đối với ngƣời bị kết án. CTTP là yếu tố để đảm bảo các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự, đồng thời hỗ trợ cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp chế và củng cố trật tự pháp luật trong NNPQ – vì với tất cả sự thể hiện trên bốn bình diện trên đây đã cho phép khẳng định vai trò có tính chất tổng hợp này của CTTP. Yếu tố của CTTP có thể đƣợc định nghĩa là bộ phận hợp thành của cấu trúc trong cấu thành ấy và bao gồm một nhóm các dấu hiệu tương ứng với các phương diện (các mặt) của hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm (tức là hành vi bị nhà làm luật coi là tội phạm). Quan điểm truyền thống đƣợc thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự là: CTTP có bốn yếu tố – khách thể (1), mặt khách quan (2), chủ thể (3) và mặt chủ quan (4) của tội phạm. Nhƣ vậy ở tội Đánh bạc chúng ta có thể thấy 4 yếu tố CTTP gồm: - Khách thể của tội phạm – đó là quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhƣng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định. - Mặt khách quan của tội phạm – đó là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể đƣợc bảo vệ bằng PLHS, tức là
  • 33. 26 sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. - Chủ thể của tội phạm – đó là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định (ngoài ra, trong một số trƣờng hợp cụ thể còn là có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm PLHS tƣơng ứng quy định). - Mặt chủ quan của tội phạm – đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể đƣợc bảo vệ bằng PLHS lỗi, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó (lỗi). 1.3. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỘI ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Tội phạm là hiện tƣợng tiêu cực trong xã hội, tội phạm "xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng" [6, tr.287]. Vì vậy để bảo vệ đặc quyền của của giai cấp thống trị, Nhà nƣớc đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng TNHS đối với những ngƣời nào thực hiện các hành vi đó. Do vậy, tội phạm mang bản chất là một hiện tƣợng có tính chất pháp lý. Với thuộc tính là hiện tƣợng mang tính xã hội - pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng đặc tính chống lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, làm ảnh hƣởng tiêu cực tới lợi ích chung của cộng đồng, xâm phạm tới quyền, tự do, các lợi ích hợp pháp của con ngƣời, xâm phạm tới trật tự an toàn xã hội. Tội phạm có nguồn gốc xã hội, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời. Do đó tội phạm mang tính lịch sử. Nhìn nhận và đánh giá về tội phạm, nhà Luật học Larry J. Siegel đã đƣa ra khái niệm tội phạm nhƣ sau:
  • 34. 27 ... Tội phạm là một hành vi vi phạm các nguyên tắc xã hội đƣợc giải thích và quy định trong một đạo luật hình sự do những ngƣời nắm giữ quyền lực chính trị và xã hội tạo ra. Những cá nhân vi phạm các nguyên tắc này là đối tƣợng sẽ bị trừng phạt bởi các cơ quan có thẩm quyền... [36, tr.20] Nghiên cứu khái niệm tội phạm dƣới góc độ khoa học luật hình sự cho thấy khái niệm tội phạm đƣợc các nhà luật học trong và ngoài nƣớc nghiên cứu rất kỹ, nhiều quốc gia đã đƣa vào BLHS định nghĩa lập pháp của khái niệm này nhƣ: Trung Quốc, Liên bang Nga, Thụy Điển, v.v... Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng nhƣ pháp lý của luật hình sự mỗi nƣớc...Vì vậy, nghiên cứu khái niệm tội phạm luôn luôn là chủ đề nóng hổi trong khoa học pháp lý hình sự trên thế giới nói chung và ở nƣớc ta nói riêng. [11, tr.157-158] Nghiên cứu BLHS Việt Nam năm 1999 (đã đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2009) nhà làm luật nƣớc ta đã ghi nhận định nghĩa tội phạm tại Điều 8 nhƣ sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. [27, tr.11] Tuy nhiên, khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập pháp đƣợc các nhà làm luật nƣớc ta ghi nhận trong BLHS năm 1999 mới bao gồm bốn dấu hiệu
  • 35. 28 (đặc điểm) cơ bản, mà theo GS.TSKH Lê Cảm, khái niệm này còn thiếu một dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản là tội phạm do ngƣời đủ tuổi chịu TNHS thực hiện. Đặc điểm này cùng với các đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm đã đƣợc các nhà làm luật nƣớc ta ghi nhận mới thể hiện đƣợc đầy đủ cả ba bình diện tƣơng ứng với năm dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản của tội phạm đó là: 1) Bình diện khách quan (nội dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1); 2) Bình diện pháp lý (hình thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (2) và; 3) Bình diện chủ quan - tội phạm là hành vi do ngƣời có năng lực TNHS (3) và đủ tuổi chịu TNHS (4) thực hiện một cách có lỗi (5) [6, tr.289]. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn chúng tôi hoàn toàn tán thành với quan điểm này. Về khái niệm tội phạm cụ thể - tội đánh bạc là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm (chung), hiện nay trong khoa học luật hình sự nƣớc ta còn nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể: Quan điểm: Đánh bạc là đƣợc thua bằng tiền hay lợi ích khác trên cơ sở một kết quả không hiển nhiên hoặc một biến cố sẽ xảy ra trong tƣơng lai. Thông thƣờng, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết đƣợc rõ ràng, trong thời gian ngắn. Ngoài ra, đánh bạc cũng đƣợc hiểu khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử. [37] Quan điểm cho khác lại rằng: Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi đƣợc tổ chức bất hợp pháp mà sự đƣợc (hoặc thua) kèm theo việc đƣợc (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác). Đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, không chỉ ảnh hƣởng xấu đến gia đình và cá nhân ngƣời chơi mà còn có thể là nguyên nhân của tệ nạn xã hội và tội phạm khác. [10, tr.227] Chúng tôi cho rằng quan điểm này có ƣu điểm là đã nêu bật đƣợc khách thể của tội phạm xâm phạm đến, nhƣng vẫn chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm này.
  • 36. 29 Tóm lại, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội đánh bạc cần thể hiện đƣợc đầy đủ cả ba bình diện tƣơng ứng với năm đặc điểm (dấu hiệu) tƣơng ứng cơ bản của tội phạm nhƣ đã nêu trên. Do đó khái niệm tội phạm này đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi trái phép dƣới bất kỳ hình thức nào đƣợc thua bằng tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, do ngƣời có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; hoặc dƣới hai triệu đồng nhƣng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm. Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của tội đánh bạc nhƣ sau: Một là, tội đánh bạc nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng, do đó xâm phạm đến trật tự công cộng. Trật tự công cộng là một trong những tiêu chí để đánh giá sự ổn định, phát triển, văn minh, dân chủ của một quốc gia. Để có trật tự công cộng - một trạng thái xã hội lành mạnh, có tổ chức, có kỷ luật và ổn định đòi hỏi Nhà nƣớc, các cơ quan, tổ chức và mọi công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy tắc của trật tự sinh hoạt chung trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đi ngƣợc lại điều này là xâm phạm đến trật tự công cộng và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự nếu sự vi phạm đó có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm. Hai là, tội đánh bạc là hành vi tham gia các trò chơi đƣợc thua bằng tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên dƣới nhiều hình thức khác nhau một cách trái pháp luật, gây thiệt hại cho trật tự an toàn công cộng, hoặc dƣới hai triệu đồng nhƣng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm.
  • 37. 30 Ba là, tội đánh bạc do ngƣời có đủ năng lực TNHS thực hiện và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi với hình thức cố ý trực tiếp. Ngƣời thực hiện tội đánh bạc trái phép không có mục đích chống chính quyền nhân dân. 1.4. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ TỘI ĐÁNH BẠC CHO ĐẾN TRƢỚC KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Chính phủ mới đƣợc thành lập đã nhận thức rõ sự nguy hiểm của các hành vi cờ bạc đối với xã hội và sự phát triển bền vững của chính quyền mới. Trong thời kỳ này một vấn đề đặt ra gắn liền với những hành vi cờ bạc là quân dịch và những thành phần thuộc giai cấp bóc lột lúc bấy giờ chƣa bị thủ tiêu, chúng lợi dụng cờ bạc để nhằm mục đích phá hoại, đầu độc bóc lột nhân dân, làm cho một bộ phận nhân dân ta quên đi nhiệm vụ cách mạng. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của các hành vi cờ bạc và để đấu tranh, xử lý, ngăn chặn những hệ lụy nguy hại cho xã hội và an ninh quốc gia, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/4/1948 - Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên đƣợc nhà nƣớc ta quy định về tội cờ bạc. Sắc lệnh này thể hiện đƣờng lối xử lí cứng rắn, thái độ nghiêm khắc của nhà nƣớc ta đối với loại tội phạm này, đặc biệt đối với những đối tƣợng đánh bạc. Tại Điều 1 của Sắc lệnh 168/SL quy định về hành vi đánh bạc nhƣ sau: - Hành vi đánh bạc bao gồm: "Tất cả các trò chơi cờ bạc dù có tính chất may rủi hay là có dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền đều coi là tội đánh bạc " [30, tr 497]; hoặc những cuộc đánh đố nhau vì tiền, những cuộc
  • 38. 31 xổ số vì tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép trƣớc thì đều đƣợc coi là hành vi đánh cờ bạc không cứ ở nơi nào. - Tại Điều 2 Sắc lệnh 168/SL cũng quy định hành vi tổ chức đánh bạc với nội dung là tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi đã đƣợc nêu tại điều I của Sắc lệnh mà không phụ thuộc vào địa điểm thực hiện hành vi. - Sắc lệnh chƣa đƣợc quy định về hành vi gá bạc nhƣng quy định đối với những ngƣời mà cho mƣợn tiền mƣợn địa điểm để tổ chức đánh bạc không cần biết có thu lợi hay không đều bị xử lý nhƣ ngƣời tổ chức đánh bạc - Sắc lệnh 168/SL cũng quy định: Những ngƣời giúp, ngƣời khác tổ chức những cuộc chơi nói trên, những ngƣời quản lý ngƣời làm cái, lấy hồ, những ngƣời làm công khác giúp việc trực tiếp vào cuộc chơi đều bị coi là tòng phạm của ngƣời tổ chức đánh bạc và bị phạt tù từ 2 - 5 năm tù và phạt bằng tiền từ 10.000đ đến 100.000đ. [30, tr. 497] Bên cạnh việc xác định phạm vi những đối tƣợng bị xử lý về hình sự Sắc lệnh 168/SL cũng quy định chế tài xử lý nghiêm khắc đƣợc áp dụng đối với ngƣời phạm tội đánh bạc: - Điều 2 của Sắc lệnh 168/SL quy định hình phạt đối với ngƣời phạm tội đánh bạc là tù từ 1 năm đến 3 năm và phạt bạc (phạt tiền) từ 5000 đến 50000 đồng. - Ngoài hình phạt chính, điều luật còn quy định hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với ngƣời phạm tội là bị quản thúc từ 1 năm đến 5 năm. Văn bản cũng quy định các dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, tiền nong bắt đƣợc trên bàn hay trên chiếu bạc đều bị tịch thu. Ngoài ra Điều IV của Sắc lệnh thể hiện thái độ rất nghiêm khắc của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa trong việc xử lý những ngƣời thực hiện hành vi cờ bạc.
  • 39. 32 Dù rằng Tòa án có xét xử tình trạng nên giảm, cũng bắt buộc áp dụng hình phạt tối thiểu về tù và tiền nói trong Điều II và Điều III trên đây. Tòa án phải phạt vừa tù và tiền mà không cho bị can hƣởng án treo. Nếu có trƣờng hợp tái phạm, các hình phạt sẽ tăng gấp đôi. [30, tr.497] Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/ 04 /1948, mặc dù chƣa phân biệt rõ các hành vi cờ bạc, nhƣng trong quy định đã có phân hóa để xử lý đối với những đối tƣợng tổ chức đánh bạc, gá bạc và những ngƣời đánh bạc. Hình phạt đƣợc áp dụng đối với các tội phạm về cờ bạc là rất nghiêm khắc, đặc biệt đối với những ngƣời đánh bạc bao gồm hình phạt chính gồm cả phạt tù và phạt tiền, hình phạt bổ sung là bị quản thúc từ 1 năm đến 5 năm. Ngoài ra còn áp dụng biện pháp tịch thu tất cả các đồ vật, tiền dùng để đánh bạc. Sau khi ra ban hành và áp dụng một thời gian, Sắc lệnh 168/SL là cơ sở pháp lý quan trọng phục vụ cho việc phòng chống các tội cờ bạc nói chung và tội đánh bạc nói riêng. Tuy nhiên sự biến đổi sâu sắc của kinh tế, chính trị - xã hội miền Bắc qua công cuộc cải tạo XHCN, thì một số quy định của Sắc lệnh đã không còn phù hợp và cần thiết phải tiến hành những sửa đổi. Thông tƣ 301/VHH-HS ngày 14/2/1957 và thông tƣ 2098/VHH-HS ngày 31/5/1957 của Bộ Tƣ pháp về việc bài trừ tệ nạn cờ bạc đã giải quyết một phần những vƣớng mắc của Sắc lệnh 168/SL. Tại thông tƣ 301/VHH-HS, với phƣơng châm “lấy giáo dục làm chính” đƣờng lối xử lý các tội cờ bạc của Nhà nƣớc ta đã có sự giảm nhẹ. Thông tƣ 301/VHH - HS cũng đƣa ra đƣờng lối xử lý của các cơ quan tƣ pháp đối với việc đánh bạc, đó là: Không nhất thiết phải bắt đƣợc quả tang đánh bạc mới có thể truy tố đƣợc. Có thể việc chứng bằng bất kì hình thức nào để chứng minh là bị can đã đánh bạc nhƣng phải thận trọng trong trƣờng hợp này. Có bằng chứng rõ ràng thì mới truy tố, không nên suy luận hoặc chỉ dựa vào lời khai của một vài nhân chứng (Phần B mục I).
  • 40. 33 Thông tƣ này cũng xác định chỉ truy tố đối với các đối tƣợng: - Bọn tổ chức, bọn chứa gá, bọn sóc cái, bọn hồ lỳ, bọn canh gác chuyên sống về nghề cờ bạc. - Bọn con bạc chuyên sống về nghề cờ bạc hoặc đã đƣợc cảnh cáo rồi mà vẫn tiếp tục chơi coi thƣờng pháp luật. Quy định này đã thu hẹp về đối tƣợng bị xử lý về tội cờ bạc, bao gồm các đối tƣợng tham gia vào tổ chức, chứa gá bạc và ngƣời đánh bạc là đối tƣợng có kèm theo những đặc điểm về nhân thân thì mới xem xét để truy tố. Thông tƣ 301/VHH-HS cũng quy định đƣờng lối phân hóa trong chính sách hình phạt đối với các đối tƣợng phạm tội. Cụ thể là: “đối với những bọn trên thì xử phạt mức tối thiểu, trường phạt phạm tội nặng mới phạt trên mức tối thiểu” [2]. So với đƣờng lối xử phạt của Sắc lệnh 168/SL, đƣờng lối xử lý trong thông tƣ này đã giảm nhẹ đáng kể đối với những đối tƣợng tham gia cờ bạc. Tại thông tƣ số 2098 ngày 31/5/1957 một lần nữa lại nêu ra cách vận dụng Sắc lệnh 168/SL trong điều kiện và tình hình xã hội mới. Thông tƣ này xác định những nội dung chính sau: - Về mức hình phạt: Đối với những trƣờng hợp phạm tội nhẹ mà nếu phạt bị can ở mức tối thiểu là 1 năm tù thì nặng quá nhƣng nếu chỉ cảnh cáo ở phòng công tố thì nhẹ quá. Thông tƣ này cũng nêu đƣờng lối xử lý là phải cân nhắc kĩ giữa truy tố và không truy tố. Nếu thấy truy tố là cần thiết để làm hậu thuẫn cho việc giáo dục thì cứ đƣa ra truy tố đề nghị với Tòa án xử phạt mức tối thiểu. Nếu xét thấy không cần thiết phải truy tố thì cảnh cáo ở phòng công tố rồi tha cho bị can. Mức phạt tiền vẫn giữ nguyên theo quy định của Sắc lệnh 168/SL. - Về vấn đề thu tang vật: Thông tƣ số 2098 ngày 31/5/1957 khẳng định rõ thêm quy định của Sắc lệnh 168/SL: Chỉ tịch thu số tiền trên bàn hoặc trên chiếu bạc mà không tịch thu tiền trong túi các con bạc, để tránh tình trạng lạm
  • 41. 34 dụng tịch thu cả tiền không phải để dùng để đánh bạc hoặc đƣợc bạc, cũng không tịch thu đồ vật do tiền đƣợc bạc mua đƣợc. - Về vấn đề quản thúc: Thông tƣ nêu tinh thần mới là đối với các đối tƣợng phạm tội cờ bạc thì không cần thiết xử phạt thêm quản thúc. Kế tiếp sau hai thông tƣ nói trên, ngày 8/1/1968, TAND tối cao đƣa ra bản tổng kết số 9/NCPL hƣớng dẫn đƣờng lối xét xử các tội cờ bạc. Nội dung quan trọng mà bản tổng kết số 9/NCPL nêu ra là giới hạn giữa những hành vi cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự và những hành vi không cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự. Trong phần này khái niệm về các hành vi cờ bạc đƣợc nêu lên: "Hành vi đánh bạc là hành vi chơi có được thua bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt nhưng thanh toán với nhau bằng tiền, tuy nhiên phải có động cơ mục đích sát phạt nhau" [30, tr.498] Qua các khái niệm sơ lƣợc trên đây, bản tổng kết số 9/NCPL đã chỉ rõ ranh giới những trƣờng hợp cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự và những trƣờng hợp không cần thiết phải xử lý bằng chế tài hình sự. Theo đó đối với hành vi đánh bạc phải có động cơ mục đích sát phạt nhau, có đƣợc thua đáng kể hay tƣơng đối đáng kể thì mới cần thiết phải xử lý về hình sự vì khi đó tính chất hành vi bóc lột lẫn nhau trái với chế độ XHCN, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đánh bạc mới thể hiện rõ nét. Có thể nhận thấy rằng điểm tiến bộ quan trọng trong đƣờng lối xét xử của bản tổng kết số 9/NCPL là chính sách phân hóa rõ rệt các đối tƣợng bị xử lý hình sự theo tinh thần: Mức độ xử lý nặng nhẹ căn cứ vào tính chất của hành vi và nhân thân bị cáo; hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc nguy hiểm hơn hành vi đánh bạc,những đám bạc to nguy hiểm hơn những đám bạc ít sát phạt nhau. Những ngƣời chuyên sống hay gần nhƣ chuyên sống về nghề cờ bạc nguy hiểm hơn những ngƣời cờ bạc máu mê,
  • 42. 35 những ngƣời cờ bạc máu mê nguy hiểm hơn những con bạc cơ hội; những phần tử xấu cần xử lý nghiêm khắc hơn những ngƣời thuộc thành phần nhân dân lao động...[30, tr.499] Tại văn bản này lần đầu tiên quy định hình thức xử phạt tù và cho hƣởng án treo đƣợc quy định đối với những ngƣời phạm tội cờ bạc thuộc những trƣờng hợp phạm tội ít nghiêm trọng. Về hình phạt này vẫn dựa trên tinh thần của Sắc lệnh 168/SL, tuy nhiên có hƣớng dẫn xử lý đối với hình phạt tiền, xử phạt quản chế và xử lý tang vật. Vấn đề phạt tiền: Bản tổng kết số 9/NCPL xác định phạt tiền có thể là hình phạt chính hoặc phụ, tuy nhiên hình phạt này chỉ nên áp dụng với tƣ cách là hình phạt chính trong những trƣờng hợp cá biệt nhƣ tội phạm nhẹ, hoàn cảnh bản thân hoặc gia đình đáng chiếu cố đặc biệt (tuổi già, bệnh tật, v.v....) Bản tổng kết cũng đƣa ra quan điểm đó là Tòa án phải xử phạt tiền nặng đối với những đối tƣợng cờ bạc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, những tên cờ bạc gian lận, những ngƣời tổ chức, thu hồ, những tên cờ bạc sát phạt nhau lớn. Tuy nhiên, mức tiền phạt phải tùy thuộc vào tính chất, hành vi của đối tƣợng, đồng thời cần xét đến khả năng kinh tế hiện tại của từng bị cáo để bản án có thể thi hành đƣợc và việc phạt tiền không ảnh hƣởng đến sinh hoạt của gia đình họ. Cơ sở pháp lý của hình phạt tiền có Điều 2 Sắc lệnh 168-SL ngày 14/04/1948 cho phép xử phạt đến 50đ đối với con bạc, đến 100đ đối với ngƣời tổ chức, chứa gá nhƣ chỉ thị 1183 của TAND tối cao hƣớng dẫn; lại có Điều 4 của Sắc lệnh ấy cho phạt bạc gấp đôi trong trƣờng hợp tái phạm. Ngoài Sắc lệnh số 168- SL và sau sắc lệnh này còn có Nghị định số 32 ngày 06/04/1952 của Bộ tƣ pháp quy định tại điều 7. Riêng tội đánh bạc, tiền phạt ấn định ở Điều 2 Sắc lệnh 168 - SL
  • 43. 36 bằng giá 200 kg gạo đến 1000 kg gạo đối với ngƣời tổ chức, và bằng 100kg gạo đến 500kg gạo đối với con bạc. Theo giá gạo Nhà nƣớc quy định hiện nay (40đ/tạ) ngƣời tổ chức có thể bị phạt tới 400đ và con bạc có thể bị phạt đến 200đ. Nếu tái phạm vận dụng thêm Điều 4 Sắc lệnh 168 - SL, ngƣời tổ chức có thể bị phạt đến 800đ và con bạc có thể bị phạt đến 400đ.[30, tr.501] Về hình thức xử phạt quản chế, bản tổng kết nêu ra đƣờng lối chung đó là "Không xử phạt quản chế đối với nhân dân lao động và nói chung chỉ xử phạt hình thức quản chế đối với những người có nhân thân xấu, chỉ vì máu mê hay cơ hội mà phạm tội cờ bạc." [30, tr.502]. Đồng thời cần phải xử phạt quản chế đối với các đối tƣợng địa chủ cƣờng hào có tội nhẹ, bọn đã làm gián điệp, tham gia các đảng phái nói chung, bọn đã làm tay sai cho địch tội nhẹ mà nay chƣa thực sự hối cải. Về vấn đề xử lý tang vật, bản tổng kết tiếp tục khẳng định nguyên tắc tịch thu những phƣơng tiện thƣờng xuyên dùng để đánh bạc, tịch thu toàn bộ tiền dùng để phạm pháp và tiền do phạm pháp mà có. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ngày 15/3/1976, Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời ban hành Sắc luật số 03- SL/76 quy định các tội phạm và hình phạt. Văn bản này ra đời trong hoàn cảnh miền Nam đã hoàn toàn giải phóng, trật tự cách mạng đã đƣợc thiết lập, tình hình trị an xã hội bƣớc đầu đã có chuyển biến tốt nhƣng vẫn còn phức tạp. Nhiều loại tội phạm, trong đó có tội cờ bạc vẫn xảy ra, gây khó khăn cho việc quản lý xã hội. Vì vậy, những quy định về tội cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nƣớc đối với các hành vi phạm tội này. Tại Điều 9 của Sắc luật, tội cờ bạc đƣợc quy định với mức hình phạt là tù từ 3 tháng đến 5 tháng, trƣờng hợp nghiêm trọng thì phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trƣờng hợp, ngƣời phạm tội có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng
  • 44. 37 Ngân hàng. Ngoài ra quy định tại Điều 11 về hình phạt phụ, ngƣời phạm tội có thể bị tịch thu 1 phần hoặc toàn bộ tài sản, trƣờng hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn có thể bị phạt quản chế hoặc cấm lƣu trú ở một số địa phƣơng từ 1 năm đến 5 năm tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Theo tinh thần của chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của TAND tối cao hƣớng dẫn việc thi hành pháp luật thì hình phạt tối đã đƣợc quy định đối với các tội phạm về cờ bạc trong Sắc luật 03-SL/76 là quá cao, không phù hợp với tình hình tội phạm này ở miền Bắc. Chính vì vậy, giai đoạn này miền Bắc vẫn áp dụng đƣờng lối xét xử đã đƣợc hƣớng dẫn tại bản tổng kết số 9- NCPL ngày 8/1/1968 và Sắc luật 03-SL/76 chỉ áp dụng tại miền Nam. Nghiên cứu lịch sử xây dựng pháp luật hình sự ở nƣớc ta về tội cờ bạc nói chung, tội phạm đánh bạc nói riêng, trƣớc khi ban hành BLHS năm 1985 có thể thấy những điểm chính nhƣ sau: 1. Ngay sau khi giành đƣợc độc lập từ Thực dân Pháp và thành lập Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa (Năm 1945), Nhà nƣớc ra đã xác định cờ bạc là hành vi có tính nguy hiểm đến trật tự an toàn xã hội, là công cụ để các thế lực xấu lợi dụng, phá hoại, đầu độc, bóc lột nhân dân, làm một số ngƣời sao nhãng nhiệm vụ cách mạng. Sắc lệnh 168/SL, Sắc luật 03-SL/76 và các văn bản hƣớng dẫn đã đƣợc quan tâm kịp thời ban hành để phục vụ cho hoạt động đấu tranh với các loại tội phạm về cờ bạc. Tại các văn bản này đã nêu ra những khái niệm, phân hóa một cách tƣơng đối rõ về các hành vi thuộc tội phạm cờ bạc. Phƣơng châm xử lý về hình sự đó là “Mức độ nặng nhẹ căn cứ vào tính chất của hành vi và nhân thân bị cáo, hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc nguy hiểm hơn hành vi đánh bạc, những đám bạc to nguy hiểm hơn đám bạc nhỏ” [2. tr.45]. Do vậy, xác định đƣợc hành vi đánh bạc và đƣa ra mức hình phạt rất nghiêm khắc và hƣớng xử lý là hình phạt ngày càng mang tính chất giáo dục là chính.