Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ TUYÊT
ĐƢƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ TUYẾT
ĐƢƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số : 60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dƣơng
Hà nội – 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Thị Tuyết
4. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BPKCTT Biện pháp khẩn cấp tạm thời
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
HĐTP Hội đồng Thẩm phán
HĐXX Hội đồng xét xử
NQ Nghị quyết
PLTTGQCTCLĐ Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động
PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
QHHN Quan hệ hôn nhân
QHPL Quan hệ pháp luật
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
TATC Tòa án tối cáo
TCDS Tranh chấp dân sự
TTDS Tố tụng dân sự
VADS Vụ án dân sự
VDS Việc dân sự
VKS Viện kiểm sát
VVDS Vụ việc dân sự
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1
2. Nội dung, địa điểm nghiên cứu ............................................................................2
3. Dự kiến kết quả .....................................................................................................4
4. Kết cấu luận văn....................................................................................................4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ ..................................................................................................6
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN
SỰ ...............................................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm đƣơng sự trong tố tụng dân sự....................................................6
1.1.2. Đặc điểm của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ..............................................11
1.2. VAI TRÒ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.........................13
1.3. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH TỐ TỤNG
CỦA ĐƢƠNG SỰ....................................................................................................15
1.3.1 Cơ sở lý luận ...................................................................................................15
1.3.2 Cơ sở thực tiễn................................................................................................17
1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG MỘT SỐ NƢỚC VỀ ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..........................................................................18
1.4.1. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống pháp
luật châu Âu lục địa (Civil law) .............................................................................19
1.4.2. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống pháp
luật án lệ (Common Law)……………………………………………………………...22
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1........................................................................................26
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH
VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...................................................28
2.1. QUY ĐỊNH VỀ THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH CỦA ĐƢƠNG SỰ................28
2.1.1. Quy định về thành phần của đƣơng sự .......................................................28
2.1.2. Quy định về tƣ cách của đƣơng sự ..............................................................29
6. 2.2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ NĂNG LỰC CHỦ THỂ VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
ĐƢƠNG SỰ .............................................................................................................36
2.2.1. Năng lực chủ thể............................................................................................36
2.2.2 Địa vị pháp lý...................................................................................................41
2.2.3. Các yếu tố bảo đảm việc tham gia tố tụng của đƣơng sự trong tố tụng
dân ...........................................................................................................................44
2.3. QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ .......................................................................................................46
2.3.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự ...............................................................46
2.3.2. Các quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ,
chứng minh ..............................................................................................................62
2.3.3. Các quyền, nghĩa vụ khác của đƣơng sự.....................................................68
2.4. VIỆC KẾ THỪA QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TỐ TỤNG CỦA ĐƢƠNG SỰ..755
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2......................................................................................766
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
ĐƢƠNG SỰ TẠI TÒA ÁN TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.....78
3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐƢƠNG SỰ
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN....................................................78
3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc...............................................................................78
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế..................................................................................80
3.1.3. Nguyên nhân................................................................................................866
3.2. KIẾN NGHỊ....................................................................................................899
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đƣơng sự..............................................90
3.2.2. Kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các quy định về đƣơng sự trong tố tụng
dân sự........................................................................................................................92
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3......................................................................................933
KẾT LUẬN............................................................................................................955
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................998
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đương sự là một chủ thể đặc biệt quan trong trong tố tụng dân sự. Đương sự
có mối quan hệ chặt chẽ với Tòa án và là trung tâm của hoạt động tố tụng. Có thể
khẳng định rằng không có đương sự thì không có vụ việc dân sự.
Trong vụ việc dân sự đương sự là chủ thể quan trọng nhất, nếu thiếu chủ thể
này thì vụ án dân sự không thể phát sinh. Việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự Việt
Nam năm 2004 và được sửa đổi bổ sung năm 2011 thay thế cho Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế
năm 1994, Phap lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 là một bước
tiến quan trọng đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống các quy định về thủ tục tố tụng
dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy phạm quy định khá rõ ràng và toàn diện về
đương sự. Điều này có ý nghĩa quan trọng của việc xác định thành phần, tư cách
đương sự trong vụ việc dân sự, góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của họ và đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự
được chính xác, khách quan.
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại địa phương vẫn còn tồn tại trong
việc xác định tư cách của đương sự, việc hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề
này đôi khi không đúng đã dẫn đến quá trình xét xử tại Tòa án còn nhiều hạn chế,
sai sót. Kết quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án chưa cao, vẫn còn nhiều
trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị cấp trên sửa, hủy. Các vụ việc
dân sự phải giải quyết lại nhiều lần làm lãng phí về thời gian, tiền bạc, gây khó khăn
cho đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, để
góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự tôi
đã lựa chọn đề tài: “Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn
diện các Bộ luật, luật, văn bản quy phạm pháp luật trong nước quy định về đương
sự và việc xác định tư cách của đương sự. Thông qua thực tiễn xét xử tại địa
phương đưa ra một số phương hướng đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của
8. 2
pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự và giải pháp để thực
thi một cách hiệu quả các quy định của pháp luật trong thực tiễn.
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi có BLTTDS 2004 và BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 đã có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về đương sự trong TTDS. Việc
nghiên cứu, tìm hiểu đương sự trong TTDS có thể kể đến như:
“Quyền khởi kiện với vấn đề xác định tư cách của đương sự trong tố tụng dân
sự” của tác giả Lê Nguyễn Hồng Phúc ; “Một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự
và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Thị Thu Hà trên quyển Bình luận khoa học
năm 2006; Bài viết “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong BLTTDS” của
tác giả Nguyễn Thái Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10 năm 2005;
Bài viết “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần
Anh Tuấn trên Tạp chí TAND, số 23 tháng 12 năm 2008; Luận án tiến sỹ luật học
năm 2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Công Bình (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội). Bài báo
“Đương sự trong vụ án dân sự” của Ths Nguyễn Việt Cường – Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao. Bài viết “Việc xác định tư cách đương sự trong việc giải quyết các
vụ việc dân sự” của tác giả Thành Nhân – Tạp chí Tòa án nhân dân.
1.3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
1.3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu, đánh giá dựa trên
quá trình xét xử thực tế tại địa phương. Làm rõ tầm quan trọng của việc xác định
đúng đương sự và tư cách của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân
sự. Đưa ra những yếu tố còn bất cập, qua đó đề xuất về mặt lý luận để góp phần
hoàn thiện các quy định về đương sự trong pháp luật nước ta hiện nay.
1.3.2. Nhiệm vụ cụ thể
Nhiệm vụ cụ thể của đề tài này là phân tích về mặt lý luận, đối chiếu với
những kết quả thực tiễn tại địa phương để thấy rõ hơn bản chất khoa học, một số
bất cập còn tồn tại và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về đương sự trong vụ
án dân sự từ đó nâng cao nhận thức về các quy định của pháp luật. Từ việc nhận
9. 3
thức chính xác các quy định của pháp luật việc áp dụng giải quyết các vụ án dân sự
sẽ nhanh chóng, có chất lượng cao, nhằm hạn chế các trường hợp hủy, sửa do lỗi
xác định không đúng tư cách của đương sự trong vụ án dân sự.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của để tài như đã dẫn giải trên đây sẽ tập trung vào
việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương sự
trong các vụ việc dân sự tại tỉnh Lạng Sơn thời gian qua.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đương sự theo pháp luật TTDS hiện hành là
một đề tài đề cập đến các khía cạnh khác nhau về đương sự trong vụ án dân sự và
đương sự trong việc dân sự. Tuy nhiên, để nghiên cứu chuyên sâu nên tác giả chỉ
giới hạn tập trung vào nghiên cứu các vấn đề khác nhau về đương sự trong vụ án
dân sự cụ thể trên phạm vi tỉnh Lạng Sơn để đánh giá, phân tích và đưa ra hướng
hoàn thiện pháp luật.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, trong đó
vận dụng quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét, đáng giá từng vấn
đề cụ thể. Đồng thời, đề tài cũng dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về các vấn đề có liên quan.
Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan và thực tế, đề tài đã sử dụng phương
pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp dựa trên các vụ án dân sự trên địa bàn
nghiên cứu. Trên cơ sở các số liệu gốc và số liệu liên quan, cùng các văn bản luật và
các văn bản quy phạm pháp luật, có khảo sát, đối chiếu và kết luận việc thực thi.
2. Nội dung, địa điểm nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật về đương sự và việc xác
định tư cách của đương sự.
- Nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật đối với đương sự và
việc xác định tư cách của đương sự.
- Qua các vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nghiên cứu các lý luận,
các quy định của pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự
10. 4
trong vụ án dân sự. Từ kết quả thu được trên thực tiễn so sánh đối chiếu tìm ra
những hạn chế bất cập và đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu chính của đề tài là địa bàn tỉnh Lạng Sơn, có tham khảo
một số tỉnh, thành phố khác ... Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc, có đường biên
giới giáp với Trung Quốc, địa hình chủ yếu là đồi núi, có nhiều dân tộc cùng sinh sống.
Là tỉnh miền núi nên tại một số khu vực vùng sâu xa điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu
thốn, đi lại khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn
chế. Vì vậy kết quả của việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3. Dự kiến kết quả
- Phân tích đánh giá và tổng hợp được các quy định của pháp luật hiện hành
tại Việt Nam về đương sự, đề xuất xây dựng quan điểm thống nhất về đương sự cho
phù hợp với tình hình.
- Áp dụng lý luận và các quy định của pháp luật cùng với các phân tích đánh
giá sẽ đề xuất phương án thực thi các quy định của pháp luật về đương sự và việc
xác định tư cách của đương sự.
4. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đương sự trong vụ án dân sự
Trong chương này làm rõ khái niệm của đương sự trong tố tụng dân sự nội
hàm của khái niệm. Đặc điểm của đương sự trong tố tụng dân sự, vai trò của đương
sự và cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc xác định thành phần, tư cách tố tụng
của đương sự... Trong chương này cũng đã phân tích pháp luật của một số nước quy
định về đương sự trong tố tụng dân sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương sự
trong tố tụng dân sự
Trong chương đã đưa ra các quy định về thành phần và tư cách của đương
sự. Các quy định về năng lực chủ thể của đương sự. Quy định về quyền, nghĩa vụ và
11. 5
việc kế thừa quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự. Đánh giá những
thành tựu và hạn chế của pháp luật Việt Nam trong những quy định này
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đương sự ở Tòa
án tại tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị.
Trong chương này, tác giả tập trung phân tích quan điểm, phương hướng của
Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật. Đã đưa ra
những quy định của pháp luật và việc áp dụng giải quyết các vụ án dân sự. Qua
những vụ án cụ thể tại địa phương đề xuất một số khuyến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật.
12. 6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự thông thường là các chủ thể độc lập
trong một hoặc nhiều quan hệ đang được xem xét, giải quyết trong vụ việc hoặc
quan hệ phát sinh từ việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Do đó, muốn xác định được
đầy đủ đương sự trong vụ việc thì cần phải xác định được những mối quan hệ phải
được giải quyết trong vụ việc đó và những mối quan hệ có liên quan đến việc giải
quyết vụ việc. Một vụ việc mà có nhiều mối quan hệ đan xen của nhiều chủ thể thì vụ
việc đó có thể có nhiều đương sự tham gia và ngược lại trong vụ việc đó chỉ phải
giải quyết một mối quan hệ giữa hai chủ thể thì chỉ hai bên chủ thể đó được xác
định là đương sự.
Ngoài ra, đương sự trong tố tụng dân sự phải là những chủ thể có quyền, lợi
ích liên quan trực tiếp với việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Vì vậy, để xác định
được đầy đủ những ai là đương sự, trước hết cần xác định rõ bản chất của vụ việc
mới có thể xác định được ai là chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc
giải quyết vụ việc đó. Tùy thuộc vào từng vụ việc mà thành phần các chủ thể được
xác định là đương sự sẽ khác nhau: có những vụ việc mà việc giải quyết vụ việc này
có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhiều chủ thể, tuy nhiên có vụ việc thì việc
giải quyết chỉ liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hai bên chủ thể. Thông thường
đương sự có quyền, lợi ích được giải quyết ngay trong vụ việc đó. Tuy nhiên,
đương sự cũng còn bao gồm cả những người mà quyền và lợi ích không được giải
quyết ngay trong vụ việc nhưng kết quả giải quyết vụ việc này có ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền, lợi ích của họ. Vì vậy, họ cũng phải được tham gia vào việc giải
quyết vụ việc.
13. 7
Như vậy, có thể hiểu rằng, theo nghĩa rộng thì đương sự trong một vụ việc là
cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc
vì có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ việc. Theo quan niệm của các
nhà luật học đương sự trong TTDS là gì ?
Trong Từ điển Luật học được xuất bản năm 1999 thì “đương sự là người có
quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một khiếu nại hoặc một vụ án”[38]. Ngoài ra,
theo cuốn Từ điển Luật học của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp)
thì đương sự được giải thích như sau:
“Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn,
hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm
người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương
mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham gia TTDS đó bao gồm
đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, VKS, người làm chứng,
người phiên dịch” [41].
Qua đó, có thể thấy các nhà luật học đều có một quan niệm chung, đương sự
là những người tham gia vào quá trình giải quyết VADS vì có quyền, nghĩa vụ được
giải quyết trong VADS, bao gồm bên nguyên đơn, bên bị đơn. Tuy nhiên, các nhà
luật học chưa đưa ra một khái niệm toàn diện về đương sự trong TTDS. Vì vậy, để
có thể xây dựng được khái niệm đương sự trong TTDS thì trước hết chúng ta cần
phải làm rõ TTDS là gì ? Những chủ thể nào có thể được xác định là đương sự ?
Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh [11]: "tố tụng" là việc thưa kiện
(procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tụng
(code deprocédure)" Sách Tiếng nói nôm na của Lê Gia [26], dẫn giải 30.000 từ
tiếng Việt thường dùng có liên quan đến từ Hán Việt (NXB Văn Nghệ TP HCM,
1999) giải thích chi tiết hơn: "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa công để phân giải
phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở cửa công để xin phân
phải trái".
Hiểu một cách đơn giản: "Tố tụng" là việc thưa kiện ở tòa án hay được hiểu
là “việc kiện cáo trước toà án” [26]. Vì vậy, TTDS được hiểu là những việc kiện
14. 8
cáo nhau ra TA về các quan hệ dân sự và yêu cầu TA giải quyết. Tuy nhiên, về mặt
pháp lý, khái niệm “tố tụng dân sự” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau, tuỳ theo mô
hình tố tụng và pháp luật của mỗi quốc gia thuộc mỗi hệ thống pháp luật cơ bản trên
thế giới [11].
Trước khi có BLTTDS việc giải quyết các tranh chấp ở TA theo các thủ tục
tố tụng khác nhau và được quy định trong các văn bản khác nhau. Việc giải quyết
các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giải quyết các VADS được
quy định trong PLTTGQCVADS 1989 [14], giải quyết các tranh chấp kinh tế theo
thủ tục giải quyết các VA kinh tế được quy định trong PLTTGQCVAKT 1994 [42],
giải quyết các tranh chấp lao động theo thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
được quy định trong PLTTGQCTCLĐ 1996 [43]. Sở dĩ các loại tranh chấp này
được giải quyết ở các thủ tục khác nhau vì trong hệ thống pháp luật Việt Nam thời
kỳ này không phân chia hệ thống pháp luật thành hệ thống luật công và hệ thống
luật tư như các nước theo hệ thống luật dân sự. Mỗi ngành luật được hiểu là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật. Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia
đình, Luật Kinh tế, Luật Lao động được xác định là các ngành luật độc lập và mỗi
ngành luật này lại điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội riêng biệt. Luật Dân sự
và các ngành luật khác như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Kinh tế, Luật Lao
động (các ngành luật nội dung) là các ngành luật có vị trí ngang nhau trong hệ thống
pháp luật. Vì vậy, hệ thống luật tố tụng (luật hình thức) cũng có sự tách biệt để giải
quyết các loại tranh chấp trong từng ngành luật nội dung và TTDS chỉ là thủ tục giải
quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, BLDS
2005 [8] ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi rất lớn về vị trí của Luật Dân sự. Luật
Dân sự được coi như là “luật gốc” trong hệ thống luật tư [11]. Các ngành luật thuộc
hệ thống luật tư như Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Thương mại,
Luật Lao động v.v... đã có sự thống nhất. Do vậy, TTDS, tố tụng kinh tế, tố tụng lao
động đã có sự tương đồng. BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 [31] đã thống
nhất các trình tự tố tụng để giải quyết các tranh chấp, yêu cầu thuộc lĩnh vực tư
giống như pháp luật tố tụng của các nước trong hệ thống luật dân sự. Như vậy, với
quan niệm này, đương sự trong TTDS là người tham gia vào quá trình TA giải
15. 9
quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động.
Ngoài ra, pháp luật TTDS không chỉ điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh
trong quá trình giải quyết VVDS mà còn điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong
quá trình THADS. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng
tôi chỉ đề cập đến đương sự trong quá trình TA giải quyết VVDS. Vì vậy, chúng tôi
không bình luận và đánh giá về vấn đề này.
Việc phân loại các đối tượng được giải quyết theo thủ tục TTDS cũng có
những quan niệm rất khác nhau và từ đó dẫn đến những quan niệm khác nhau về
đương sự trong TTDS. Trước khi có BLTTDS, nhiều nhà khoa học pháp lý Việt
Nam cho rằng đối tượng được giải quyết theo thủ tục TTDS cũng chỉ là các VADS,
trong đó TA giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình và cả các yêu
cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình [31]. Vì vậy, quan niệm thành phần đương sự
trong VADS bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người dự sự (người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có
yêu cầu độc lập) [31]. Tại Điều 1 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy
định đối tượng giải quyết theo thủ tục TTDS các VVDS, VVDS bao gồm: VADS và
VDS. VADS là VVDS mà trong đó TA giải quyết các loại tranh chấp còn VDS là
VVDS mà trong đó TA không giải quyết các tranh chấp mà TA giải quyết yêu cầu
công nhận hoặc không công nhận về một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền,
nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động hoặc TA giải
quyết yêu cầu công nhận quyền dân sự, hôn nhân & gia đình, kinh doanh thương mại,
lao động. Vì vậy, với cách phân loại đối tượng này, đương sự trong TTDS của Việt
Nam được xác định bao gồm cả đương sự trong VADS và đương sự trong VDS.
Nhưng chủ thể được xác định là đương sự trong TTDS thì trước hết phải là
chủ thể của các QHPL dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động (gọi chung là các QHPL nội dung). Chủ thể của QHPL nội dung là cá nhân,
pháp nhân và các tổ chức khác là những thực thể pháp lý nhưng không có tư cách
pháp nhân vẫn có thể trở thành chủ thể của QHPL như hộ gia đình, tổ hợp tác
v.v...Vì vậy, đương sự trong TTDS có thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác
16. 10
tham gia vào quá trình TA giải quyết các VVDS.
Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể của QHPL nội dung đều có thể trở thành
đương sự trong các quan hệ TTDS. Bởi vì, như nhận xét của một số nhà nghiên
cứu: “Xét cho cùng, lợi ích chính là những phương thức, phương tiện tối ưu mà chủ
thể lựa chọn nhằm đạt được các nhu cầu của mình, vì chủ thể giành lấy và sử dụng
chúng tạo ra những điều kiện tốt nhất để trực tiếp thực hiện các nhu cầu cấp bách
của bản thân” [21] hay “Quyền dân sự và chính trị không đơn thuần chỉ mang tính
chất quyền cá nhân, chỉ bảo đảm mục đích cá nhân, mà còn có vai trò to lớn trong
việc phục vụ mục đích toàn xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển chung” [21]. Đồng
thời, lợi ích cũng lại là nguyên nhân, nguồn gốc của các tranh chấp giữa các quốc
gia, các dân tộc, các cá nhân, các tổ chức và các chủ thể khác trong các quan hệ xã
hội hay các QHPL. Khi mà các chủ thể trong các QHPL nội dung tôn trọng lợi ích
của nhau, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý với nhau thì sẽ không dẫn
đến việc khởi kiện, yêu cầu đến TA và không có hoạt động tố tụng giải quyết thì các
chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung này không trở thành là đương sự trong
TTDS. Nhưng khi chủ thể của các QHPL nội dung này không tôn trọng lợi ích của
nhau hoặc vi phạm, tranh chấp với nhau về quyền, nghĩa vụ dẫn đến việc khởi kiện,
yêu cầu TA giải quyết và TA thụ lý giải quyết theo thủ tục TTDS thì các chủ thể
của của các QHPL nội dung trở thành đương sự trong TTDS vì có quyền, nghĩa vụ
liên quan đến việc giải quyết các VVDS.
Quá trình giải quyết VVDS nảy sinh nhiều QHPL giữa các chủ thể: TA,
VKS, những người tham gia tố tụng và những người liên quan. Các chủ thể này
tham gia vào QHPL TTDS với những động cơ và mục đích khác nhau. TA, VKS
tham gia để thực hiện quyền tư pháp về dân sự, người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác còn đương sự là chủ thể tham gia tố tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chính mình.
Tóm lại, đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ
thể khác có quyền, lợi ích tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá
trình TA giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
17. 11
1.1.2. Đặc điểm của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Đương sự trong TTDS là người tham gia TTDS. Do vậy, đương sự có đầy đủ
các đặc điểm của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích đương sự tham gia tố
tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, những người tham gia
tố tụng khác tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc để
hỗ trợ cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, so với những người tham gia tố tụng khác,
đương sự còn có những đặc điểm khác biệt sau đây:
- Đương sự là chủ thể của QHPL nội dung có quyền, lợi ích tranh chấp, bị
xâm phạm hoặc cần được xác định trong VVDS;
Trước khi trở thành đương sự trong TTDS, các chủ thể đã tham gia vào một
QHPL nội dung như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ kinh
doanh thương mại, quan hệ lao động, họ đều có quyền, lợi ích gắn liền với các quan
hệ đó. Lợi ích của các chủ thể có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc là các
lợi ích tinh thần phát sinh từ các giá trị nhân thân như danh dự, uy tín, nhân phẩm
v.v... Khi có tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ các quan hệ nội dung, các chủ thể tham
gia vì để bảo vệ quyền, lợi ích của mình đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi
kiện hoặc nộp đơn yêu cầu TA giải quyết. Đương sự muốn khởi kiện hoặc yêu cầu
thì trước hết họ phải chứng minh rằng họ có quyền, lợi ích cần được giải quyết
trong vụ việc đó. Vì vậy, về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức để trở thành đương sự của
VVDS thì phải có quyền và lợi ích liên quan đến giải quyết VVDS.
- Đương sự là chủ thể được TA chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết
VVDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình;
Đương sự có thể mong muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt
động tố tụng do việc "khởi động” vụ việc của nguyên đơn hoặc người yêu cầu và
được TA thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, các đương sự khi tham gia vào quá trình tố
tụng trước hết là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì để bảo vệ lợi ích
của mình đương sự đưa ra yêu cầu, nêu ra các ý kiến đồng thời cung cấp chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình là hợp pháp và có căn cứ với mong muốn
để TA giải quyết bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải
quyết các VVDS. Các lợi ích mà đương sự hướng tới trong quá trình giải quyết
18. 12
VVDS có thể là lợi ích cá nhân, cũng có thể là lợi ích của pháp nhân hoặc lợi ích của
những chủ thể đặc biệt không có tư cách pháp nhân như của hộ gia đình, tổ hợp tác
hay doanh nghiệp tư nhân. Đối với các cá nhân, tổ chức hay các chủ thể khác mà
khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì
người khởi kiện, người yêu cầu tham gia với tư cách là đại diện của đương sự, còn
đương sự là chủ thể được bảo vệ quyền lợi.
Trong một số trường hợp đặc biệt, các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức
khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng thì các chủ thể này có thể
tham gia tố tụng và có các quyền, nghĩa vụ như của đương sự nhưng không phải là
đương sự. Bởi vì, các cơ quan, tổ chức này khởi kiện nhưng không phải là chủ thể
có quyền lợi bị tranh chấp hoặc vi phạm mà về nguyên tắc chỉ những chủ thể có
quyền lợi mới có thể tự định đoạt về quyền lợi của mình thông qua hoà giải.
- Đương sự là chủ thể bình đẳng với nhau trong tố tụng, có thể tham gia tố
tụng độc lập hoặc thông qua người đại diện trong TTDS;
Trong quá trình giải quyết VVDS, các đương sự là chủ thể bình đẳng với
nhau về các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Pháp luật TTDS quy định các quyền, nghĩa
vụ chung của đương sự, nhưng các đương sự ở các tư cách tố tụng khác nhau có
một số quyền, nghĩa vụ khác nhau.
Ngoài ra, đương sự có thể tham gia độc lập trong TTDS khi họ có đủ điều
kiện về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng.
Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự là người chưa thành niên hoặc đương sự là tổ
chức có tư cách pháp nhân thì người đại diện của đương sự có thể thay mặt đương
sự để tham gia vào quá trình giải quyết VVDS để thực hiện những quyền và nghĩa
vụ của đương sự. Đặc biệt, trong trường hợp vì lý do nào đó đương sự không trực
tiếp tham gia tố tụng, họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố
tụng, trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được uỷ quyền. Đây chính là
đặc điểm để phân biệt giữa đương sự trong TTDS với những người tham gia tố tụng
khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch v.v...
- Đương sự là chủ thể có quyền tự định đoạt, việc thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải quyết
các VVDS;
19. 13
Đương sự là chủ thể có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết các
VVDS. Khác với các chủ thể tố tụng khác chỉ đương sự mới có quyền tự định đoạt
trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về dân sự và tố tụng. Các chủ thể tố tụng
khác có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng có thể làm phát sinh, thay
đổi hay chấm dứt hoạt động tố tụng. TA giải quyết VVDS thực chất là TA giải
quyết các yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Vì vậy, chỉ khi
các chủ thể này có đưa ra yêu cầu thì TA mới giải quyết nhưng khi các chủ thể đó
thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu hay đưa ra ý kiến của mình thì hoạt động tố tụng
có thể bị thay đổi hoặc chấm dứt.
Như vậy, trong VVDS phát sinh tại TA do cá nhân, pháp nhân và các chủ thể
khác nộp đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hay của người khác hoặc để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước
đang bị tranh chấp hoặc có liên quan đến sự kiện pháp lý mà TA có thẩm quyền xác
định. Trong các VVDS, có những chủ thể tham gia có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc giải quyết các VVDS và tham gia vào quá trình giải quyết VVDS để bảo
vệ quyền và lợi ích của mình, đó chính là đương sự trong TTDS.
1.2. VAI TRÒ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Đương sự là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong TTDS bởi lợi ích
của họ là nguyên nhân và mục đích của quá trình tố tụng. Pháp luật TTDS Việt
Nam chịu ảnh hưởng bởi mô hình thẩm xét, do vậy vai trò và trách nhiệm của
đương sự còn phụ thuộc nhiều vào TA. TA với tư cách là cơ quan nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản của bộ máy nhà nước, được phân
công thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp tiến hành giải quyết các
vụ án hình sự, dân sự và các việc khác theo một trình tự, thủ tục có tính bắt buộc do
nhà nước quy định. TAND là cơ quan tiến hành TTDS có nhiệm vụ, quyền hạn giải
quyết các VVDS. Theo đó, trong TTDS thì TA là chủ thể trung tâm, chủ thể chủ
yếu, chủ thể có quyền lực, các quyết định của TA buộc các cá nhân, cơ quan, tổ
chức có liên quan phải thi hành [28]. TA có vai trò quan trọng trong việc làm phát
sinh QHPL tố tụng khi TA nhận được đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và TA thụ lý
20. 14
VVDS. Việc khởi kiện, yêu cầu của đương sự là điều kiện tiên quyết còn việc TA
thụ lý là điều kiện quyết định làm phát sinh hoạt động TTDS. TA đóng vai trò quyết
định về thủ tục, quyết định mức độ cũng như giá trị của chứng cứ. Tuy nhiên, khi
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình TA cũng bị giới hạn bởi việc bảo đảm
quyền của đương sự như TA chỉ giải quyết trong phạm vi những vấn đề mà đương
sự có yêu cầu hay TA chỉ tiến hành những biện pháp nhất định mà pháp luật quy
định, TA có quyền thực hiện khi đương sự có yêu cầu v.v...
Vai trò của đương sự được thể hiện trong mối quan hệ giữa đương sự với
VKS. Trong TTDS, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát
các hoạt động tố tụng bảo đảm cho việc giải quyết VA được đúng đắn và kịp thời.
Việc pháp luật ghi nhận hay không ghi nhận sự tham gia của VKS trong TTDS
phần nào tác động đến vai trò của đương sự trong TTDS.
Vai trò của đương sự trong TTDS còn thể hiện ở việc đương sự có quyền
quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động TTDS. Các chủ thể
tham gia vào các QHPL nội dung trên nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyên, cam
kết, thoả thuận. Khi đương sự khởi kiện hoặc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết
và TA thụ lý để giải quyết làm phát sinh các VVDS tại TA, phát sinh hoạt động tố
tụng. Ngược lại, khi đương sự quyết định không khởi kiện, yêu cầu đến TA thì cũng
không làm xuất hiện hoạt động tố tụng ở TA. Các chủ thể khác không phải đương
sự hoặc đại diện hợp pháp của đương sự thì không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu
để khởi động hoạt động tố tụng.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay theo yêu cầu của cải cách tư pháp nhằm
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
vấn đề quyền con người trong đó có các quyền dân sự, quyền tố tụng cần được tôn
trọng, ghi nhận và bảo đảm. Do vậy khi việc khởi kiện, yêu cầu đó đáp ứng được
đầy đủ các điều kiện khởi kiện hoặc yêu cầu thì TA không có quyền từ chối việc thụ
lý để giải quyết. Điều này đã thể hiện qua việc thay đổi và hoàn thiện các quy định
của pháp luật TTDS Việt Nam về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự trong thời
gian qua.
Mặt khác, việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự không chỉ làm cơ
21. 15
sở để phát sinh hoạt động TTDS mà còn là cơ sở để làm thay đổi hoặc chấm dứt các
hoạt động TTDS khi đương sự đã thực hiện việc khởi kiện, yêu cầu và TA đã thụ lý
VVDS nhưng sau đó đương sự sửa đổi, bổ sung yêu cầu hoặc rút đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu, rút kháng cáo v.v...
Vai trò của đương sự trong TTDS còn thể hiện: yêu cầu của đương sự là cơ sở
quan trọng cho việc tham gia của các chủ thể khác vào quá trình TTDS như việc yêu
cầu TA triệu tập người làm chứng, yêu cầu trưng cầu giám định, yêu cầu TA xem xét
thẩm định tại chỗ, định giá tài sản tranh chấp và các yêu cầu này được TA chấp nhận
thì VVDS đó sẽ có sự tham gia của người làm chứng, người giám định, người định
giá hay trường hợp đương sự mời người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (được TA
chấp nhận), đương sự uỷ quyền hợp pháp cho người khác thì VVDS đó có sự tham
gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người đại diện uỷ
quyền của đương sự.
Ngoài ra, khi đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình là cơ sở để
làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khác như TA, VKS và những
người tham gia tố tụng khác. Chẳng hạn, về nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chính
trong việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là hợp pháp và có
căn cứ, TA chỉ tiến hành việc thu thập chứng cứ trong một số trường hợp nhất định
do pháp luật quy định khi mà đương sự không tự thu thập được và có yêu cầu hay
khi đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của TA thì việc tham gia của
VKS ở tại phiên toà sơ thẩm là bắt buộc v.v..
Như vậy, có thể thấy rằng đương sự có một vai trò đặc biệt quan trọng trong
TTDS, vai trò này thể hiện rõ nét nhất trong mối quan hệ giữa đương sự và TA.
Nhận thức đúng vai trò của TA, vai trò của đương sự trong mối quan hệ này là cơ
sở quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự và trách nhiệm,
nghĩa vụ của TA, VKS và các chủ thể khác trong việc bảo đảm để đương sự thực
hiện được các quyền, nghĩa vụ TTDS.
1.3. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH TỐ
TỤNG CỦA ĐƢƠNG SỰ
1.3.1 Cơ sở lý luận
22. 16
Thành phần đương sự trong TTDS là phạm vi những chủ thể có thể được xác
định là đương sự trong một VVDS cụ thể. Đương sự trước hết là chủ thể của các
QHPL nội dung. Vì vậy, những chủ thể tham gia độc lập vào các QHPL nội dung
đều có thể được xác định là đương sự, những cá nhân, tổ chức không phải là một
bên chủ thể của QHPL dân sự thì không thể được xác định là đương sự. TA giải
quyết VVDS thực chất là TA giải quyết các mối QHPL đang có tranh chấp, vi phạm
hoặc TA xác định về các sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các
QHPL hoặc công nhận quyền cho chủ thể trong QHPL này. Vì vậy, muốn xác định
được đầy đủ thành phần của đương sự thì phải xác định được đầy đủ các QHPL mà
TA đang giải quyết trong VADS và QHPL có liên quan đến việc giải quyết VADS
hoặc xác định được đầy đủ các QHPL phát sinh, thay đổi, chấm dứt từ sự kiện pháp
lý mà TA phải xác định trong VDS. Từ việc xác định được các QHPL này thì vấn
đề tiếp theo là phải xác định được đầy đủ các chủ thể độc lập có quyền lợi, nghĩa vụ
có liên quan tới QHPL mà TA giải quyết trong VVDS. Các chủ thể đó đều được xác
định là đương sự trong VVDS. Như vậy, thành phần của đương sự phụ thuộc vào
phạm vi các chủ thể của các QHPL nội dung được TA giải quyết trong mỗi VVDS.
Một sự việc xảy ra trên thực tế có thể làm phát sinh một hoặc nhiều QHPL
khác nhau giữa các chủ thể, tuỳ thuộc vào yêu cầu của họ mà TA xác định thành
phần đương sự trong vụ việc này. Vì vậy, nếu phạm vi xét xử của TA thay đổi thì
thành phần của đương sự trong VVDS cũng bị thay đổi theo. Như vậy, thành phần
của đương sự trong mỗi VVDS không tồn tại một cách cố định mà luôn luôn có thể
thay đổi khi có sự thay đổi về phạm vi xét xử của TA. Có thể khẳng định rằng, phạm
vi xét xử của TA là yếu tố quyết định thành phần đương sự trong VVDS.
Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng đương sự có quyền tự định đoạt trong TTDS,
do đó trong một số trường hợp một chủ thể có thể được xác định là đương sự còn
phụ thuộc vào việc chủ thể này có quyết định tham gia tố tụng vào quá trình giải
quyết VA hay không.
Sau khi đã xác định được những cá nhân, tổ chức nào là đương sự trong
VVDS thì vấn đề tiếp theo là phải xác định các cá nhân, tổ chức đó tham gia tố tụng
với tư cách gì?
23. 17
Về tư cách của đương sự trong TTDS, hiện tại cũng có những quan niệm rất
khác nhau trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật cơ
bản trên thế giới. Pháp luật TTDS của đa số các quốc gia trên thế giới đều quan
niệm đương sự bao gồm các tư cách là nguyên đơn và bị đơn. BLTTDS của nước
Cộng hoà Pháp không đưa ra định nghĩa đương sự, nhưng qua quy định tại Điều 1
và Điều 323 thì có thể hiểu đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn. BLTTDS Liên
bang Nga tại Điều 43 quy định: người tham gia TTDS gồm các bên (nguyên đơn và
bị đơn), người thứ ba (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan), Kiểm sát viên,
người yêu cầu TA bảo vệ. TTDS của Hoa Kỳ do ảnh hưởng của yếu tố đối tụng
(adversary) thì xác định thành phần đương sự bao gồm hai bên nguyên đơn và bị
đơn [36].
Có thể thấy rằng pháp luật TTDS của đa số các nước trên thế giới quy
định về tư cách đương sự trong một VADS (trong đó TA giải quyết cả các việc
có tranh chấp và không có tranh chấp). Theo đó, đương sự trong tố tụng tham gia
với tư cách nguyên đơn, bị đơn. Tuy nhiên, Luật TTDS của Việt Nam hiện hành
quy định không chỉ là thủ tục giải quyết các VADS (các bên có tranh chấp) mà
quy định cả thủ tục giải quyết các VDS (các bên không có tranh chấp) [39]. Do
đó, đương sự được quan niệm bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong VADS, người yêu cầu, người liên quan trong VDS. Như
vậy, việc xác định tư cách của đương sự trong TTDS còn có nhiều quan điểm
khác nhau xuất phát từ việc còn những cách phân loại đối tượng được giải quyết
theo thủ tục TTDS khác nhau.
Tư cách của đương sự không phải do bản chất của quyền lợi viện dẫn quyết
định mà do vị trí của họ khi khởi kiện [40]. Tư cách đương sự phản ánh mối quan
hệ giữa các chủ thể trong TTDS. Bởi vậy, việc xác định tư cách tố tụng của đương
sự giúp cho quá trình giải quyết các VVDS được chính xác, khách quan, đồng thời
bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
1.3.2 Cơ sở thực tiễn
- Xác định tư cách của đương sự trên cơ sở xác định chủ thể có quyền khởi
kiện, bị khởi kiện hoặc có quyền yêu cầu, có liên quan đến giải quyết yêu cầu. Cụ
24. 18
thể: Khi chủ thể khởi kiện hoặc yêu cầu thì TA cần xác định một cách chính xác các
vấn đề như chủ thể đó có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu hay không? Họ khởi kiện
hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích của mình hay của người khác? Họ có
quyền khởi kiện hoặc yêu cầu đối với ai?
Việc xác định phải căn cứ vào bản chất của mỗi QHPL đang được xem xét,
giải quyết và đối chiếu với các quy phạm pháp luật nội dung tương ứng.
- Xác định tư cách của đương sự căn cứ vào sự liên quan về quyền, nghĩa vụ
và vào thời điểm tham gia tố tụng của đương sự đó.
Khi xem xét sự liên quan về quyền, nghĩa vụ mà xác định việc giải quyết mối
quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn có liên quan đến quyền và lợi ích của chủ thể
thứ ba thì TA cần xác định chủ thể này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong VA. Đồng thời, khi xem xét yêu cầu giải quyết VDS thì cần xác
định việc giải quyết VDS đó sẽ liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những ai thì
cần được xác định là người có liên quan.
Ngoài ra, căn cứ vào thời điểm tham gia tố tụng cũng là cơ sở để xác định tư
cách tham gia của đương sự là nguyên đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đặc biệt, một số trường hợp trong quá trình giải quyết VVDS tư cách tố tụng
có thể thay đổi khi mà phạm vi giải quyết của TA có sự thay đổi do đương sự thực
hiện quyền tự định đoạt. Chẳng hạn, sau khi TA thụ lý VA, nguyên đơn rút toàn bộ
yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu phản tố thì nguyên đơn sẽ
trở thành bị đơn và bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn... hoặc có trường hợp có sự thay
thế người không phải là bị đơn đích thực.
Như vậy, tuỳ thuộc vào số lượng chủ thể của các QHPL trong VVDS mà
thành phần đương sự trong mỗi VVDS là khác nhau. Căn cứ vào việc xác định chủ
thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu; chủ thể bị kiện; sự liên quan về quyền và
nghĩa vụ với việc giải quyết VVDS, đương sự trong TTDS có những tư cách:
nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VADS; người yêu
cầu, người liên quan trong VDS.
1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG MỘT SỐ NƢỚC VỀ
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Các quy định về đương sự trong pháp luật TTDS của các nước trên thế giới ở
25. 19
trong mỗi hệ thống pháp luật đều có những điểm tương đồng và có những điểm
khác biệt nhất định. Tìm hiểu các quy định về đương sự trong pháp luật TTDS của
một số nước điển hình cho mỗi hệ thống pháp luật là điều cần thiết để tham khảo,
góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam.
1.4.1. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống
pháp luật châu Âu lục địa (Civil law)
Các nước trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa phần lớn theo mô hình
thẩm xét, vai trò của hoạt động tố tụng là TA, đương sự không chủ động điều khiển
quá trình tố tụng mà do thẩm phán thực hiện. Các bên đương sự cung cấp chứng cứ
và biện luận để thuyết phục thẩm phán ủng hộ yêu cầu của mình. Trong mô hình
thẩm xét, đương sự giữ vai trò thụ động [37].
1.4.1.1. Về tư cách của đương sự
Theo BLTTDS của Cộng hoà Pháp [8] , đương sự cũng bao gồm: nguyên
đơn, bị đơn, người thứ ba tham gia tố tụng với tính chất là can thiệp dự sự.
BLTTDS Liên bang Nga [9] cũng không có quy định về tư cách của đương
sự mà chỉ xác định những người tham gia TTDS bao gồm các bên (nguyên đơn, bị
đơn), người thứ ba (người có quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập), kiểm sát viên, những
người yêu cầu TA bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc
người tham gia tố tụng để phát biểu kết luận về những tình tiết được quy định tại
Điều 4, 46 và Điều 47.
1.4.1.2. Về quyền, nghĩa vụ cơ bản của đương sự
Trong phần các nguyên tắc của tố tụng, BLTTDS Cộng hoà Pháp quy định
đương sự có quyền và nghĩa vụ như: quyền khởi kiện, rút đơn khởi kiện (Điều 1),
quyền được biết chứng cứ do bên đương sự kia cung cấp (Điều 15), quyền được bào
chữa (Điều 18, 19, 20), quyền tham gia tranh luận (Điều 30), quyền biện hộ về nội
dung (Điều 71, 72), phản kháng tố tụng (Điều 73, 74)…; về nghĩa vụ chứng minh
thì: “Mỗi bên đương sự có nghĩa vụ chứng minh theo luật định các tình tiết cần
thiết làm căn cứ cho các yêu cầu của mình (Điều 9); nghĩa vụ tôn trọng TA (Điều
24) và các nghĩa vụ khác.
26. 20
BLTTDS Liên bang Nga quy định, những người tham gia tố tụng có quyền tiếp
xúc với hồ sơ VA, ghi chép hoặc sao chụp tài liệu, đưa ra đề nghị loại trừ việc tham
gia tố tụng, xuất trình chứng cứ và tham gia nghiên cứu chứng cứ, đặt ra câu hỏi cho
nhà chuyên môn, giám định viên, người làm chứng và những người tham gia tố tụng
khác, đưa ra yêu cầu. Bên cạnh đó, BLTTDS của Liên bang Nga còn quy định: các
bên có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau (Điều 38); Người có quyền, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập có thể tham gia tố tụng trước khi TA cấp sơ thẩm ra
phán quyết và có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn.
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập có thể tham
gia tố tụng ở bên nguyên đơn hoặc phía bị đơn trước khi TA cấp sơ thẩm ra phán
quyết, nếu phán quyết của TA ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người có
quyền, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập trong mối quan hệ với một
trong hai bên. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập có thể
tham gia tố tụng theo yêu cầu TA hoặc của những người tham gia tố tụng khác. Ng-
ười có quyền, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập có quyền và nghĩa vụ tố
tụng như các bên, trừ quyền thay đổi căn cứ hoặc đối tượng khởi kiện, quyền tăng
hay giảm mức yêu cầu, quyền rút đơn khởi kiện, quyền thừa nhận vụ kiện, quyền
hoà giải, quyền khởi kiện ngược lại và quyền yêu cầu ra quyết định cưỡng chế thi
hành án. Trong trường hợp người có quyền, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu
độc lập tham gia tố tụng, việc giải quyết VA được bắt đầu lại từ đầu (Điều 43).
Về việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng, BLTTDS Liên bang Nga quy
định: trong trường hợp một bên không thể tham gia tố tụng (công dân bị chết, thay
đổi pháp nhân do giải thể, chấm dứt..., chuyển giao quyền yêu cầu, chuyển giao
nghĩa vụ, và những trường hợp thay thế khác), TA cho phép bên đó được thay thế
bằng người kế thừa quyền, nghĩa vụ TTDS. Việc thay thế có thể được tiến hành ở
bất cứ giai đoạn nào của TTDS. Những hành vi tố tụng được thực hiện trước khi có
người thay thế nếu có hiệu lực bắt buộc đối với người được thay thế thì cũng có
hiệu lực bắt buộc đối với người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng (Điều 44). Về năng
lực pháp luật tố tụng của mọi công dân và tổ chức là như nhau trong việc yêu cầu
TA bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 36). Về năng lực hành
27. 21
vi, Điều 37 BLTTDS Liên bang Nga quy định: Mọi tổ chức và công dân đến 18 tuổi
có năng lực hành vi TTDS như nhau. Người chưa thành niên có thể tự mình thực
hiện quyền và nghĩa vụ TTDS ở TA nếu đã kết hôn hoặc được công nhận có năng
lực hành vi đầy đủ. Việc bảo vệ quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên từ mười bốn đến mười tám tuổi, của người bị hạn chế năng lực hành vi
do đại diện hợp pháp của những người đó thực hiện. Những người đại diện hợp
pháp bao gồm cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, người giám hộ, người đỡ đầu hoặc người
khác do luật Liên bang quy định.
Pháp luật TTDS của Trung Quốc quy định về đương sự trong TTDS thể hiện
như sau:
- Về khái niệm, thành phần của đương sự trong TTDS: BLTTDS Trung
Quốc quy định: “công dân, pháp nhân và các tổ chức khác có thể là đương sự của
TTDS. Pháp nhân do người đại diện theo quy định của pháp luật tiến hành tố tụng.
Những tổ chức khác do người phụ trách chính của tổ chức đó tiến hành tố tụng”.
Quy định này đã thừa nhận tư cách đương sự của cá nhân, pháp nhân và các tổ chức
khác. Tuy nhiên, BLTTDS Trung Quốc không có quy định đương sự tham gia trong
TTDS có tư cách tố tụng gì mà chỉ đề cập đến hai bên đương sự và người thứ ba.
Điều 56 quy định, trường hợp người thứ ba với một nội dung tố tụng của hai
bên đương sự cho rằng mình có quyền yêu cầu riêng cũng có quyền khởi tố. Trường
hợp người thứ ba đối với cùng một nội dung tố tụng của hai bên đương sự, tuy không
có quyền yêu cầu riêng nhưng kết quả xử lý VA lại có liên quan đến lợi ích của họ
về mặt luật pháp thì có thể xin tham gia tố tụng. Người thứ ba được TA quyết định
có trách nhiệm dân sự thì được quyền lợi, nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
- Về quyền và nghĩa vụ của đương sự: Điều 8 BLTTDS Trung Quốc ghi
nhận: “Các đương sự có quyền tố tụng bình đẳng. TAND xét xử các VADS thực
hiện quyền tố tụng đối xử với các đương sự phải hoàn toàn bình đẳng trước pháp
luật”. Để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, “Khi TAND xét xử các
VADS, đương sự có quyền biện luận” (Điều 12). Tương tự như pháp luật TTDS
Việt Nam quy định cho đương sự có quyền tự định đoạt thì trong BLTTDS Trung
Quốc, Điều 13 cũng đã nêu: “Đương sự có quyền xử lý quyền dân sự và quyền tố
28. 22
tụng của mình trong phạm vi quy định của pháp luật”. “Đương sự có quyền uỷ
nhiệm người đại diện, nêu yêu cầu hồi tị, thu thập, cung cấp chứng cứ, tiến hành
đối đáp, yêu cầu hoà giải, khiếu nại, xin được thi hành án” (Điều 50); Quyền tự hoà
giải “Đương sự hai bên có thể tự mình tiến hành hoà giải” (Điều 51); “Nguyên cáo
có thể từ bỏ, hoặc thay đổi thỉnh cầu tố tụng, bị cáo có thể chấp nhận hoặc bác bỏ
lời thỉnh cầu tố tụng, có quyền đưa ra phản tố” (Điều 52).
Những quyền tố tụng trên đây có phần giống với quy định của pháp luật
TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, khi quy định về quyền uỷ nhiệm thay mặt mình tham
gia tố tụng của đương sự, Điều 58 nêu rõ: “Những đương sự, người đại diện theo
luật định có thể uỷ nhiệm một đến hai người làm đại diện tố tụng”. Ngoài ra,
BLTTDS Trung Quốc còn đề cập rất chi tiết đến quyền được yêu cầu thực hiện các
biện pháp bảo toàn tài sản, BPKCTT.
Theo BLTTDS Trung Quốc [10], bên cạnh các quyền trên, đương sự còn có
những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Điều 64 đã nêu rõ: “Đương sự có trách nhiệm
đưa ra chứng cứ về những chủ trương của mình nêu ra”. Đồng thời, đương sự có
nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập, tuân thủ kỷ luật phiên toà, thi hành bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật…
Tóm lại, theo quy định của pháp luật tố tụng của một số nước thuộc hệ thống
luật châu Âu lục địa có thể nhận thấy, pháp luật tố tụng của các nước này đều có quy
định xác định đương sự trong TTDS bao gồm nguyên đơn, bị đơn trong VADS,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không được quy định trực tiếp là đương sự
nhưng thông qua các quy định khác thì người này cũng được xác định có tư cách như
là đương sự trong VA. Ngoài ra, pháp luật tố tụng của các nước này đều quy định khá
đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của đương sự bên cạnh vai trò điều khiển và quyết định
của TA. Tuy vậy, hệ thống pháp luật này vẫn thể hiện một nhược điểm là do quá đề
cao vai trò của thẩm phán nên vai trò chủ động của đương sự trở lên mờ nhạt.
1.4.2. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống
pháp luật án lệ (Common Law)
Đối với các nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ theo mô hình tranh tụng thì
đương sự đóng vai trò quyết định toàn bộ hoạt động tố tụng, họ chủ động quyết định diễn
29. 23
biến, trình tự tố tụng cũng như quyết định sự tham gia tố tụng của các chủ thể khác, TA
đóng vai trò thụ động như “trọng tài” để đưa ra phán quyết cuối cùng [37].
1.4.2.1. Về tư cách của đương sự
Hệ thống xét xử của nước Anh với vai trò thụ động của Thẩm phán, việc tiến
hành các thủ tục về nguyên tắc là trách nhiệm của chính các bên thông qua luật sư
của họ gọi là “nguyên tắc phản kiện”. Vai trò chính của các Thẩm phán trong khi
xét xử là đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng, mặc dù đôi khi Thẩm phán có thể
có vai trò tích cực hơn và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào tính cách và khí chất
của từng Thẩm phán. Thẩm phán chỉ can thiệp để cuộc tranh luận của các bên được
rõ ràng và trung thực. Đặc biệt, Thẩm phán không đặt ra bất cứ câu hỏi nào cho
những người làm chứng nhưng có thể yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ bổ sung.
Về thành phần và tư cách của đương sự, pháp luật tố tụng của Anh xác định đương
sự bao gồm nguyên đơn và bị đơn trong VA [36].
Pháp luật tố tụng của Mỹ trên cơ sở thừa nhận lý thuyết đối nghịch giữa
nguyên đơn và bị đơn và các bên này đều có luật sư của họ đại diện [36]. Vì vậy,
pháp luật tố tụng của Mỹ xác định đương sự trong tố tụng bao gồm nguyên đơn và
bị đơn. Người có quyền đã khởi kiện hoặc được người đại diện khởi kiện đều được
xác định là nguyên đơn còn người có nghĩa vụ bị kiện là bị đơn. Ngoài ra, trong
những trường hợp đặc biệt pháp luật thừa nhận VA có nhiều nguyên đơn, nhiều bị
đơn [29].
1.4.2.2. Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của đương sự
Theo pháp luật TTDS của Anh thì đương sự thường thực hiện các quyền,
nghĩa vụ thông qua luật sư của mình. Luật sư (luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng) của
các bên đương sự sẽ thực hiện hầu hết các thủ tục tố tụng thay cho các bên đương sự
(vì thủ tục tố tụng tranh tụng do các bên đương sự thực hiện). Luật sư tư vấn thực
hiện những công việc như: soạn thảo các văn bản pháp lý, bào chữa và biện hộ trước
các toà cấp dưới và lập các văn bản tố tụng trước các toà cấp trên trong giai đoạn
trước khi xét xử. Luật sư bào chữa hoạt động theo chuyên ngành thực hiện việc soạn
bản bảo vệ cho các bên và bản bào chữa trước TA cao cấp [36]. Ngoài ra, luật pháp
còn cho phép phạt tiền những đương [36].
30. 24
Pháp luật tố tụng của Mỹ bị ảnh hưởng bởi yếu tố có tính chất “đối tụng” hay
“tranh tụng tại toà” khiến cho diễn tiến của vụ kiện trở thành một cuộc tranh luận
của các luật sư hai bên nguyên đơn và bị đơn, từ đó TA giống như một trọng tài chứ
không tiến hành một cuộc điều tra riêng biệt nào. Vì vậy, việc thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong TTDS tại Mỹ có vai trò rất quan trọng quyết định
các hoạt động tố tụng tại TA, các bên đương sự hoạt động trong suốt quá trình tố
tụng tại toà. Phần nhiều, các bên đương sự tại Mỹ trao quyền cho đại diện là các
luật sư để thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng. Theo pháp luật TTDS của Mỹ, các
đương sự đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt địa vị xã hội, cơ quan nhà
nước với doanh nghiệp tư nhân. Trong trường hợp chính quyền là bên nguyên đơn
hoặc bên bị đơn thì chính quyền sẽ cử một nhóm luật sư đặc biệt đại diện cho chính
quyền tham gia tố tụng.
- Đương sự có thể hành xử tố quyền đại diện (class action - quyền đại diện để
ra trước toà bảo vệ quyền và nghĩa vụ cho nhiều cá nhân có liên quan đến vụ tranh
tụng) khi mà vụ kiện có nhiều đương sự (nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn) thì mỗi
nhóm nguyên đơn, nhóm bị đơn cử ra người đại diện, thay mặt cho cả nhóm để
hành xử quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong phiên toà. Trong những trường hợp đặc
biệt, chỉ cần một nguyên đơn đại diện ra trước toà để bảo vệ quyền lợi cho cả một
tầng lớp, tuy vậy cần thẩm xét những người đại diện đó có thật lòng bảo vệ quyền
lợi chính đáng cho nhóm những người có cùng vấn đề đó hay không. Thông thường,
hành xử tố quyền đại diện do các luật sư tham gia tố tụng thực hiện.
- Đương sự có quyền tiến hành các hoạt động điều tra ở giai đoạn tiền xét xử
để có thể chuẩn bị tốt cho việc tranh tụng tại phiên xử nhằm chứng minh cho các
yêu cầu của mình. Thường thì các bên có thể đưa ra tờ trình thẩm vấn, nhận bản
khai và yêu cầu thu thập vật chứng mà không có sự cho phép của TA. Tuy nhiên, để
hạn chế, TA sẽ đặt ra hạn định và kiểm tra thủ tục. Việc thực hiện một vài phương
cách điều tra sẽ bị giới hạn bởi các quy tắc của TA. Chẳng hạn, đòi hỏi cung cấp xét
nghiệm y khoa của nạn nhân có thể bị lạm dụng như một hành vi xâm phạm đời tư
nên chỉ có thể cung cấp khi mà yếu tố này là cốt lõi của vụ tranh tụng. Một số TA
theo sự hướng dẫn của TA Liên bang đưa ra cũng góp phần tham dự các thủ tục
31. 25
điều tra. Luật TTDS Liên bang hiện nay đòi hỏi các bên đương sự phải tự động khai
báo mọi thông tin xác đáng liên quan đến vụ kiện, kể cả phần khai báo về tên tuổi
của nhân chứng, yêu cầu nhân chứng cung cấp thông tin bằng văn bản…Thực tế,
thông thường việc điều tra do luật sư đại diện cho các bên đương sự thực hiện
nhưng Thẩm phán xét xử có quyền giám sát các thủ tục đó và có một số phương
cách điều tra khi muốn thực hiện phải có sự cho phép của Thẩm phán.
Ngoài ra, đương sự có quyền yêu cầu thay đổi bồi thẩm viên; yêu cầu TA
triệu tập người làm chứng ra hầu toà; có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ để chứng
minh cho các yêu cầu của mình; chất vấn các đương sự và người làm chứng về
chứng cứ; đương sự thua kiện sẽ có nghĩa vụ phải chịu án phí; đương sự có quyền
kháng cáo, khi kháng cáo họ phải nộp một khoản tiền dự phí kháng cáo. Một trong
những thủ tục tố tụng bắt buộc đối với đương sự là các đương sư phải tuyên thệ
rằng việc trình bày của họ là ngay tình. Nếu đương sự gian trá, TA có thể trừng phạt
đương sự đã cố tình tạo ra sự gian trá đó.
Như vậy, có thể thấy, pháp luật tố tụng của các nước trong hệ thống luật án
lệ cũng quy định đương sự trong tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn trong vụ kiện.
Đặc biệt, có ưu điểm là đề cao vai trò chủ động, tích cực của đương sự, Thẩm phán
chỉ giữ vai trò là trọng tài. Vì vậy, đương sự phải tự mình hoặc thông qua luật sư
thực hiện các hoạt động tố tụng thu thập, cung cấp, nghiên cứu và đánh giá chứng
cứ để trực tiếp chứng minh cho quyền lợi của mình tại phiên toà. Quy định như vậy,
sẽ làm giảm gánh nặng công việc của Toà án, nhưng lại không phát huy được vai
trò trợ giúp của TA đối với đương sự và đương sự sẽ rất khó khăn trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, nếu không có sự trợ giúp của luật sư.
Như vậy, các quy định của pháp luật tố tụng về đương sự thuộc cả hai mô
hình tố tụng dân sự tranh tụng và tố tụng dân sự xét hỏi đều có những ưu, nhược
điểm riêng. Tuy nhiên, trong quá trình cải cách và hội nhập các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự nói chung và các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đương
sự nói riêng đã có sự giao thoa mạnh mẽ trên thế giới. Pháp luật các quốc gia đã có
sự tiếp thu có chọn lọc các yếu tố tiến bộ, phù hợp. Sự tiếp thu có chọn lọc này thể
thiện qua sự thay đổi đáng kể của pháp luật tố tụng dân sự về đương sự của các
32. 26
quốc gia vốn được coi là quê hương của các mô hình tố tụng dân sự tranh tụng và
xét hỏi.
Tóm lại, những sự thay đổi trên là một minh chứng cho sự cần thiết phải có
những sự thay đổi của pháp luật TTDS Việt Nam nói chung và các quy định của pháp
luật TTDS Việt Nam về đương sự nói riêng trên cơ sở phát huy có chọn lọc những ưu
điểm của pháp luật các nước thuộc hai hệ thống pháp luật tranh tụng và xét hỏi cho
phù hợp với điều kiện của nước ta. Trong đó cần đề cao vai trò của đương sự, mở
rộng các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo hướng mở rộng tranh tụng, nhưng
cũng đồng thời với việc khẳng định vai trò của Thẩm phán, trao cho thẩm phán
những quyền hạn và xác định rõ trách nhiệm của họ trong hoạt động tố tụng.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Đương sự là thành phần không thể thiếu trong quá trình TA giải quyết các
VVDS: Nếu không có đương sự, không thể có VVDS. Để xác định đương sự trong
VVDS thì vấn đề đặc biệt quan trọng là cần phải có những nhận thức lý luận đầy đủ và
khoa học về chủ thể này. Vì vậy, trong Chương 1 của luận văn đã phân tích và luận giải
để xây dựng khái niệm đương sự trên cơ sở tham khảo có chọn lọc khái niệm đương sự
của một số nhà khoa học được thể hiện ở một số tài liệu, công trình khoa học chuyên
ngành luật. Đồng thời, đi vào phân tích các đặc điểm của đương sự làm cơ sở phân biệt
giữa đương sự với những người tham gia tố tụng khác trong TTDS.
2. Vai trò của đương sự trong TTDS là một yếu tố quan trọng trong việc xác
định các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Do đó, luận văn đã đi vào phân
tích vai trò của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam để làm rõ mối quan hệ tác
động giữa vai trò của đương sự với việc xác định phạm vi các quyền và nghĩa vụ
của đương sự.
3. Việc xác định đúng và đầy đủ thành phần và tư cách tố tụng của đương sự
là yêu cầu quan trọng trong quá trình TA giải quyết các VVDS. Thông qua việc xác
định đúng thành phần và tư cách của đương sự sẽ giúp các đương sự thực hiện được
các quyền, nghĩa vụ tố tụng, bảo đảm việc giải quyết vụ việc khách quan, đúng pháp
luật. Để bảo đảm TA có thể xác định đúng, đầy đủ thành phần của đương sự thì TA
cần phải dựa trên những cơ sở nhất định. Do vậy, luận văn đã có những luận giải để
33. 27
chỉ ra cơ sở xác định thành phần đương sự là trước hết phải xác định số lượng các
QHPL mà TA phải giải quyết trong VA hoặc có liên quan đến sự kiện pháp lý hoặc
quyền và nghĩa vụ mà TA phải xác định, sau đó xác định được đầy đủ các chủ thể
độc lập tham gia các QHPL và các chủ thể có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan tới
việc giải quyết các QHPL này. Thành phần của đương sự là phạm vi các chủ thể
độc lập tham gia các QHPL này.
Sau khi đã xác định được đầy đủ thành phần của đương sự, cần xác định rõ tư
cách của đương sự - tức là xác định đương sự ở vị trí tố tụng nào? Mỗi VVDS, phụ
thuộc vào quyền tự định đoạt của đương sự, phụ thuộc vào việc xác định chủ thể có
quyền khởi kiện, phụ thuộc vào sự liên quan về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể...
mà tư cách của đương sự sẽ khác nhau. Luận văn đã tập trung phân tích các căn cứ
của việc xác định tư cách đương sự để làm cơ sở cho TA xác định đúng đắn tư cách
đương sự trong thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về đương sự.
4. Đương sự có thể tự mình tham gia tố tụng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của mình thì đương sự cần có năng lực chủ thể TTDS. Giữa năng lực chủ thể
TTDS với năng lực chủ thể dân sự có mối liên quan mật thiết với nhau, nhưng năng lực
chủ thể TTDS cũng có những độc lập tương đối và sự khác biệt với năng lực chủ thể
dân sự. Vì vậy, việc làm rõ mối liên hệ và sự độc lập tương đối của năng lực chủ thể
TTDS là cơ sở nhận thức đúng đắn về năng lực chủ thể TTDS. Quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự cấu thành nội dung năng lực pháp luật của đương sự. Vì vậy, việc
xác định các quyền, nghĩa vụ của đương sự là cơ sở quan trọng để đánh giá thực trạng
các quy định của pháp luât hiện hành về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
5. Pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau có quy định khác nhau về đương sự
trong TTDS, tuy nhiên điều đó không có nghĩa là các quy định về đương sự không có
sự tương đồng nhất định theo pháp luật TTDS của các nước. Qua việc tìm hiểu, phân
tích, đánh giá quy định của một số quốc gia trên thế giới về đương sự, có thể thấy bên
cạnh những sự tương đồng, sự khác biệt nhất định thì yếu tố quan trọng là chúng ta có
thể xem đó là bài học tham khảo đầy hữu ích cho việc hoàn thiện các quy định về
đương sự trong BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 của Việt Nam.
34. 28
Chƣơng 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. QUY ĐỊNH VỀ THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1.1. Quy định về thành phần của đƣơng sự
Về thành phần đương sự, trước khi BLTTDS ra đời, trong các pháp lệnh quy
định phạm vi các chủ thể có thể được xác định là đương sự tương đối hạn chế.
PLTTGQCVADS 1989 quy định đương sự là công dân, pháp nhân (Điều 19);
PLTTGQCVAKT 1994 quy định đương sự là cá nhân, pháp nhân (Điều 20);
PLTTGQCTTLĐ 1996 quy định đương sự là cá nhân, tập thể lao động, tổ chức sử dụng
lao động (Điều 19). Tuy nhiên, khi BLTTDS ra đời, phạm vi các chủ thể có thể được xác
định là đương sự trong VADS đã có sự mở rộng hơn bao gồm: cá nhân, cơ quan, tổ chức
(Điều 56 BLTTDS).
Đối với trường hợp đương sự là “cá nhân” có thể xác định bao gồm công dân
Việt Nam, người không quốc tịch, người nước ngoài. Còn đối với đương sự là “cơ quan”
- để xác định khi đương sự là các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, để các cơ quan nhà nước
có thể xác định là đương sự thì cơ quan đó phải có tư cách pháp nhân. Các bộ phận trực
thuộc các cơ quan này hay văn phòng đại diện không có tư cách pháp nhân thì không
được xác định là đương sự trong TTDS.
Trong trường hợp, đương sự trong tố tụng là "tổ chức” thì tổ chức đó phải có tư
cách pháp nhân hoặc những tổ chức không có tư cách pháp nhân nhưng các tổ chức này
tham gia các quan hệ một cách độc lập, không phụ thuộc vào cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác về tài sản, nhân danh mình tham gia các quan hệ một cách độc lập. Tuy nhiên, các
tổ chức không có tư cách pháp nhân mà hoạt động phụ thuộc vào tổ chức có tư cách
pháp nhân thì tổ chức này không được xác định là đương sự.
Qua quy định tại Điều 56 BLTTDS, đương sự là “cơ quan” để chỉ cơ quan Nhà
nước. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc quy định thành phần đương sự là “cơ quan” là
không cần thiết. Bởi vì, các cơ quan Nhà nước cũng là một tổ chức do vậy chỉ cần quy
định đương sự là cá nhân, tổ chức là đủ.
35. 29
Trong Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung [40] đã quy định riêng biệt:
"Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu
cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".
Tuy nhiên, để phù hợp với các loại chủ thể do pháp luật nội dung quy định, Điều
56 nên quy định thành: "đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
người yêu cầu, người liên quan" để chi tiết hơn thuận tiện trong việc xem xét áp dụng,
giải quyết.
Như vậy, khi xác định được thành phần đương sự thì TA cần phải xác định những
chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật nội dung mà TA đang giải quyết. Những chủ
thể đó mới có thể được xác định là đương sự. Do vậy, đối với các chủ thể không phải là
một bên độc lập trong quan hệ pháp luật nội dung thì chủ thể đó không được xác định là
đương sự. Chẳng hạn như doanh nghiệp tư nhân khi tham gia các quan hệ thì đương sự
được xác định là chủ doanh nghiệp tư nhân chứ không phải là doanh nghiệp tư nhân đó.
2.1.2. Quy định về tƣ cách của đƣơng sự
Theo quy định tại Điều 56 BLTTDS, tư cách đương sự trong VADS bao
gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngoài ra, các
Điều 311, Điều 312 và Điều 313 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 tuy
không trực tiếp quy định về tư cách của đương sự trong VDS, nhưng thông qua các
quy định này, chúng ta có thể xác định tư cách đương sự trong VDS bao gồm:
người yêu cầu, người liên quan.
* Nguyên đơn
Trong quá trình giải quyết VADS, nguyên đơn là chủ thể có vai trò khởi
động hoạt động tố tụng và là chủ thể chủ động tham gia vào hoạt động tố tụng. Theo
quy định tại khoản 2 Điều 56 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 thì:
“2. Nguyên đơn trong VADS là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết
VADS khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
36. 30
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện VADS để yêu cầu TA
bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng
là nguyên đơn...”
Theo cách hiểu chung nhất nguyên đơn là người đứng đơn khởi kiện. Tuy
nhiên, người khởi kiện và nguyên đơn có thể khác nhau. Thông thường thì người
khởi kiện chính là nguyên đơn nhưng cũng có những trường hợp người được bảo vệ
quyền lợi do việc khởi kiện của chủ thể khác mới được xác định là nguyên đơn.
Trong Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi trình Quốc hội tại kỳ họp thứ
10 năm 2015 vẫn giữ các nguyên các quy định về nguyên đơn, tại khoản 2 Điều 68
[35]
Như vậy, nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện hoặc người
được người khác có thẩm quyền khởi kiện để yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
* Bị đơn
Bị đơn là chủ thể không thể thiếu trong quá trình TA giải quyết VADS, theo
đó bị đơn là chủ thể bao giờ cũng đi kèm với nguyên đơn. Khi đã xác định tư cách
nguyên đơn thì cũng đồng thời với việc xác định tư cách bị đơn. Việc tham gia tố
tụng của nguyên đơn mang tính chất chủ động, còn việc tham gia tố tụng của bị đơn
mang tính chất bị động, do bị “bắt buộc” tham gia tố tụng.
Khoản 3 Điều 56 BLTTDS 2004 quy định: “Bị đơn trong VADS là người bị
nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định
khởi kiện để yêu cầu TA giải quyết VADS khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”.
Cá nhân, cơ quan, tổ chức được xác định là bị đơn trong VADS khi có hai
đặc điểm sau:
- Là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo
quy định của BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 khởi kiện. Khi các chủ thể
khởi kiện thực hiện việc khởi kiện đối với đích danh ai ghi rõ trong đơn khởi kiện
thì người đó được xác định là bị đơn. Thông thường bị đơn chính là chủ thể trực
tiếp trong mối QHPL nội dung với nguyên đơn. Tuy nhiên, để xác định bị đơn
37. 31
chúng ta cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật nội dung để xác định trong
mỗi trường hợp cụ thể ai mới là chủ thể trong QHPL nội dung với nguyên đơn.
- Bị đơn cũng chỉ là người được giả thiết là có tranh chấp hay xâm phạm
đến quyền lợi của nguyên đơn. Ở đây mới chỉ dừng lại là giả thiết ban đầu còn
thực tế bị đơn có xâm phạm đến quyền và lợi ích của nguyên đơn hay không phải
được khẳng định bằng bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật. Tuy
nhiên, thông thường khi nguyên đơn khởi kiện và để được TA thụ lý giải quyết thì
nguyên đơn hoặc chủ thể khởi kiện đã cung cấp được các chứng cứ để chứng minh
yêu cầu của mình là hợp pháp. Do đó, đa số các trường hợp thực tế bị đơn là
người có xâm phạm hoặc tranh chấp với nguyên đơn. Trong thực tiễn có thể xuất
hiện trường hợp nguyên đơn hoặc các chủ thể khởi kiện đã khởi kiện không đúng
chủ thể có vi phạm hoặc tranh chấp với nguyên đơn nhưng TA vẫn thụ lý. Sau khi
TA thụ lý, TA vẫn xác định chủ thể bị kiện trong trường hợp này là bị đơn, nhưng
không phải là bị đơn đích thực. Nếu theo quy định của pháp luật TTDS hiện hành
thì trường hợp này TA sẽ giải quyết VADS và bác yêu cầu của nguyên đơn.
Nguyên đơn sẽ phải khởi kiện đối với bị đơn đích thực ở một VADS khác.
Trong Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi vẫn giữ nguyên các quy định
về bị đơn tại khoản 3 Điều 68 [35].
Như vậy, bị đơn là người bị nguyên đơn hoặc bị người khác có thẩm quyền
khởi kiện theo quy định của pháp luật khi cho rằng đã vi phạm hoặc tranh chấp với
nguyên đơn.
* Đồng nguyên đơn, đồng bị đơn
Theo quy định tại Điều 163 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, trong
một VADS có thể có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn. Đối với những VA mà giữa
các nguyên đơn, giữa các bị đơn không mâu thuẫn với nhau về quyền và lợi ích, các
lợi ích của họ không chống lại nhau, các yêu cầu hay phản yêu cầu (ý kiến phản
đối) của họ không loại trừ nhau thì cần quy định họ là đồng nguyên đơn, đồng bị
đơn. Các đồng nguyên đơn, đồng bị đơn thường gắn liền với tính nhiều chủ thể của
các QHPL nội dung đang tranh chấp (quan hệ nghĩa vụ, quan hệ sở hữu chung;
quan hệ hôn nhân...). Đối với những VADS có nhiều nguyên đơn, nhiều bị đơn
38. 32
nhưng giữa các nguyên đơn, giữa các bị đơn với nhau có mâu thuẫn về quyền và lợi
ích hoặc nhiều nguyên đơn kiện một bị đơn theo nhiều vấn đề khác nhau thì không
phải là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn [20]. Việc phân chia này sẽ có ý nghĩa quan
trọng trong việc xác định quyền, nghĩa vụ tố tụng của mỗi đương sự trong từng
trường hợp này. Tuy nhiên, BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 lại không có
quy định như thế nào là đồng nguyên đơn, đồng bị đơn trong VADS và quyền,
nghĩa vụ của đồng nguyên đơn, đồng bị đơn. Trong khi đó thực tiễn đòi hỏi phải có
những quy định về chủ thể này làm cơ sở cho việc giải quyết tại TA.
Trong Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi [35] không có quy định cụ thế
về đồng nguyên đơn và đồng bị đơn.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Theo quy định khoản 4 Điều 56 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VADS là người tuy không khởi kiện,
không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được TA chấp
nhận đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Như vậy, để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì trước hết
các chủ thể này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS mà TA đang giải
quyết, đồng thời phải được TA đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết hoặc
theo yêu cầu của chính họ hay của đương sự khác. So với nguyên đơn, bị đơn thì
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các đặc điểm sau đây:
- Về thời điểm tham gia tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham
gia vào VADS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
- Kết quả TA giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn, bị đơn có thể ảnh
hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Sự liên quan về quyền và lợi ích với
việc giải quyết mối quan hệ giữa nguyên đơn và bị đơn là lý do tham gia của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Họ có thể bảo vệ lợi ích của mình bằng cách đưa ra yêu cầu độc lập hoặc
không đưa ra yêu cầu độc lập, đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn để chống lại