SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ GIANG THANH
QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM
THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ GIANG THANH
QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM
THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Hoàng Thị Giang Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN
SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM.......................................7
1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......7
1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa
án phúc thẩm .................................................................................. 12
1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm
2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......... 13
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 .............................................. 13
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988 .............................................. 14
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 16
1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự
một số nước trên thế giới................................................................ 17
Chương 2: QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC
THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003......................................................................23
2.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh ........................23
2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự ...................................................... 23
2.1.2. Quyền sửa tội danh...........................................................................29
2.2. Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt...............................32
2.2.1. Quyền miễn hình phạt....................................................................... 32
2.2.2. Quyền giảm hình phạt....................................................................... 35
2.2.3. Quyền tăng hình phạt........................................................................37
2.2.4. Quyền chuyển hình phạt ...................................................................39
2.3. Quyền sửa bản án sơ thẩm về các quyết định khác...................... 42
2.3.1. Quyền giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo ............... 42
2.3.2. Quyền sửa về phần bồi thường thiệt hại............................................ 45
2.3.3. Quyền sửa về xử lý vật chứng và các vấn đề khác ............................ 49
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN
SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM................. 51
3.1. Những vi phạm, sai lầm của Tòa án phúc thẩm trong thực tiễn
thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản
án sơ thẩm ....................................................................................... 51
3.1.1. Sửa tội danh không đúng .................................................................. 52
3.1.2. Giảm hình phạt không đúng.............................................................. 54
3.1.3. Tăng hình phạt không đúng .............................................................. 55
3.1.4. Chuyền hình phạt không đúng ..........................................................57
3.1.5. Cho bị cáo hưởng án treo không đúng .............................................. 58
3.1.6. Sửa trách nhiệm dân sự không đúng ................................................. 60
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định quyền
sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm...................................61
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật .................................... 61
3.2.2. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết công tác xét xử,
xây dựng và công bố án lệ ................................................................ 65
3.2.3. Giải pháp tập huấn nghiệp vụ và công tác cán bộ .............................71
3.2.4. Các giải pháp khác............................................................................ 75
KẾT LUẬN................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................81
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TTHS: Tố tụng hình sự
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 3.1: Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm kháng cáo, kháng nghị bị
Tòa án cấp phúc thẩm sửa án 51
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề
ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Cải cách tư pháp là một đòi hỏi
khách quan, cấp thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị là
Nghị quyết quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp.
Đã có nhiều quy định của pháp luật ra đời thể chế hóa các quan điểm
đổi mới của Đảng, trong đó có BLTTHS năm 1988. Đây là BLTTHS đầu tiên
thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
VI. Sau 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung 3 lần, song
BLTTHS năm 1988 vẫn có nhiều bất cập, trong đó có những bất cập đối với
quy định về Thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Năm
2003, BLTTHS mới được ban hành, tuy đã có những sửa đổi bổ sung song
các quy định về thủ tục phúc thẩm nói chung và quyền sửa bản án sơ thẩm
của Tòa án phúc thẩm nói riêng về cơ bản vẫn giống BLTTHS 1988. Do đó,
vẫn còn những tồn tại về vấn đề này phát sinh trong thực tiễn mà chưa được
sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, quy định về các nội dung
của bản án sơ thẩm mà Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa còn chưa đầy
đủ, mâu thuẫn với các quy định khác. Thực tế tại các địa phương khác nhau
có những ý kiến khác nhau về trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa những
nội dung không được quy định trong Điều 249 BLTTHS. Không những thế,
hậu quả của việc sửa bản án sơ thẩm còn liên quan tới những vấn đề khác về
thẩm quyền xét xử hoặc liên quan tới cả công tác thi hành án hình sự. Vậy cần
2
có nhận thức như thế nào về các nội dung tại Điều 249 BLTTHS, làm thế nào
để các sai sót trong bản án hình sự sơ thẩm được sửa chữa khắc phục tại cấp
phúc thẩm một cách chính xác, đảm bảo nguyên tắc công bằng và chính sách
nhân đạo trong xử lý hình sự?
Trong chế định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, quyền sửa bản án sơ
thẩm là một quyền rất quan trọng của Tòa án cấp phúc thẩm. Nếu không có
quyền này, thì khi các bản án sơ thẩm có sai sót sẽ không được sửa chữa khắc
phục kịp thời. Nếu bất kì sai sót nào của bản án sơ thẩm cũng bị hủy để xét xử
lại hoặc y án để xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì sẽ vừa gây tốn kém thời
gian, kinh phí, vừa không kịp thời bảo vệ được quyền con người và tạo niềm
tin của nhân dân vào pháp luật. Quyền sửa bản án khắc phục được tất cả
những điểm hạn chế đó nên cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu nội dung này.
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49/NQ-
TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó chỉ rõ nhiệm
vụ là: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù
hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi
trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp…” và
“trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân”. Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”.
Với những lý do trên, cho thấy việc nghiên cứu về quyền sửa bản án sơ
thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là vấn đề rất cần thiết, góp phần thi hành
đúng và thống nhất quy định của Điều 249 BLTTHS và có giải pháp hoàn
thiện quy định của BLTTHS về những vấn đề liên quan đến quyền sửa bản án
sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ khi có BLTTHS 1988 ra đời, và sau đó là BLTTHS 2003, các quy
3
định về thủ tục xét xử phúc thẩm là đối tượng nghiên cứu cho nhiều tác giả.
Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu
về thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án, nhưng quyền sửa bản án sơ thẩm mới
được giới thiệu và nêu tại các nghiên cứu chung về thủ tục xét xử phúc thẩm,
hoặc nghiên cứu chung về quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm.
Các luận án, luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử có: Luận án “Thẩm
quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Nguyễn
Văn Huyên năm 2002; luận án “Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của TS.
Nguyễn Đức Mai năm 2004; luận án “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng
hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Gia Lâm năm 2008; luận văn “Thẩm quyền của
Tòa án cấp phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của Ths. Nguyễn Văn Tiến năm
1997; luận văn “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình
sự Việt Nam” của Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng năm 2010 v.v..
Trước khi có BLTTHS 2003 có một số bài nghiên cứu trên các báo, tạp
chí như: Hoàng Thị Sơn “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” và
“Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 BLTTHS”, tạp chí luật học số 6/1997 và
5/1999; Nguyễn Nông “Về quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án cấp phúc
thẩm”, tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1994; Vũ Gia Lâm “Phạm vi xét xử và
quyền sửa bản án sơ thẩm”, Tạp chí luật học số 5/2010; “Hoàn thiện một số
quy định về xét xử phúc thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
hai cấp xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2006; và “Một số vấn đề về
phạm vi xét xử và quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2009. Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về sửa bản
án sơ thẩm trong xét xử phúc thẩm theo Bộ luật TTHS năm 2003”, Tạp chí Tòa
án nhân dân số 13/2006. Ngoài ra còn được đề cập tới ở một số tài liệu khác
như Giáo trình luật TTHS của Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật
TTHS của Viện đại học mở… và các sách chuyên khảo về kĩ năng xét xử.
4
Như vậy, nội dung cụ thể về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp
phúc thẩm chủ yếu là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thủ tục phúc
thẩm của luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ. Các nghiên cứu riêng biệt hơn
mới chỉ dừng lại ở cấp độ là các nghiên cứu trao đổi trên các báo và tạp chí,
chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Điều đó càng cho
thấy việc nghiên cứu toàn diện về quy định này là rất cần thiết, tạo sự thống
nhất trong nhận thức và chính xác trong thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền sửa bản án sơ
thẩm, tìm hiểu quy định này trong lịch sử luật TTHS Việt Nam và pháp luật
TTHS của một số nước trên thế giới; giải thích rõ các quy định của BLTTHS có
liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm, những nội dung của bản án sơ thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa; những lưu ý đối với từng nội dung đó.
- Phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về
quyền sửa bản án sơ thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế trong thực tiễn áp
dụng quy định đó.
- Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của
Tòa án cấp phúc thẩm.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn tập trung vào các
nhiệm vụ sau:
- Góp phần làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm
của Tòa án cấp phúc thẩm, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển và so sánh với
pháp luật một số nước trên thế giới.
- Phân tích đánh giá sâu từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền sửa bản
án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
5
- Tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm thông
qua việc tổng hợp số liệu giải quyết và đánh giá một số bản án sơ thẩm bị Tòa
án cấp phúc thẩm sửa.
- Đề ra những giải pháp sửa đổi bổ sung và hoàn thiện quy định pháp
luật về quyền sửa bản án sơ thẩm nói riêng và nâng cao hiệu quả quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS
Việt Nam về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm; thực tiễn
thi hành các quy định của BLTTHS về quyền sửa bản án sơ thẩm; các công
trình, bài viết liên quan đến đề tài của luận văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển
của pháp luật TTHS của nước ta; nghiên cứu pháp luật TTHS của một số
nước trên thế giới, và trọng tâm là nghiên cứu quy định tại Điều 249 của
BLTTHS Việt Nam năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm và các quy định
tại các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nghiên cứu cụ thể các nội dung
quy định tại Điều 249 trong mối tương quan phù hợp với các văn bản pháp
luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự v.v.. Đồng thời, luận văn tổng
hợp số liệu và phân tích thực tiễn áp dụng Điều 249 của các Tòa án nhân dân
trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Các giải pháp
luận văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo
của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong giai đoạn hiện nay.
6
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình
sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn cũng tiến hành thu thập số
liệu thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm của TANDTC trong những năm
gần đây, đồng thời so sánh và giải thích những quan điểm khác nhau đối với
các vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Đây là luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về thẩm quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có ý nghĩa trong việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về nội dung
của quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn đưa ra các
giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS
của nước ta trong thời kì mới. Thông qua việc tổng hợp phân tích số liệu xét
xử phúc thẩm, luận văn đưa ra được một cái nhìn tổng thể về thực tiễn thi
hành quy định về sửa bản án sơ thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành
quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn
cũng có thể được tham khảo trong việc xây dựng dự án BLTTHS (sửa đổi)
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa
án phúc thẩm.
Chương 2: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm theo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa
án phúc thẩm.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM
1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm
Trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc “hai cấp xét xử” đã
được đề cập đến ngay trong những văn bản pháp luật đầu tiên là sắc lệnh số
13/SL ngày 24/01/1946, và sau đó lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại
Luật tổ chức TAND năm 1960. Phúc thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử thứ
hai đối với vụ án hình sự, có nhiệm vụ trực tiếp xét xử lại hoặc xét lại quyết
định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Phúc thẩm có vai trò rất quan
trọng, một mặt đây là giai đoạn kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để phát hiện sai sót và kịp thời sửa
chữa, mặt khác thông qua việc xem xét lại để kịp thời bảo vệ các lợi ích của
Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ có thủ
tục phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm buộc phải thận trọng và tuân thủ nghiêm
các quy định về tính hợp pháp và có căn cứ pháp luật khi ra bản án hoặc
quyết định về vụ án.
Tòa án cấp có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của nước ta
là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, bao gồm: TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa phúc thẩm TANDTC, Tòa án
quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự trung ương. Theo quy định của pháp
luật TTHS hiện hành, Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn nhất định.
Quyền ở đây được hiểu là thẩm quyền, là cái mà luật pháp cho phép đối với
một tổ chức hoặc cá nhân.
Để hiểu khái niệm về Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
8
thẩm, trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là thẩm quyền của của Tòa án cấp
phúc thẩm. Theo từ điển luật học thì thẩm quyền của Tòa án là “quyền xem
xét để kết luận và định đoạn một vấn đề pháp luật” [27, tr.890]. Như vậy,
thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
nói riêng phải bao gồm 2 yếu tố cần và đủ là “xem xét” và “kết luận, định
đoạt” (quyết định). Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Tòa án
chỉ có thể kết luận và định đoạt sau khi đã tiến hành xem xét, và sau khi xem
xét phải đưa ra được kết luận và định đoạt thì việc xem xét mới có ý nghĩa.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai đưa ra khái niệm về thẩm quyền của Tòa án cấp
phúc thẩm là “toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên
trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình
sự do các Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, mà bản án (quyết định) chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo chúng tôi đây là một
khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh.
Khi sửa bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã làm cho một phần
hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm trở nên khác với ban
đầu, hay nói cách khác là làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung và
quyết định của bản án sơ thẩm. Như vậy có thể rút ra khái niệm: Quyền sửa
bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là quyền mà pháp luật dành cho
Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét quyết định các vấn đề cụ thể
nhằm làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án cấp
dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
BLTTHS năm 2003 quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo;
b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
9
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý
vật chứng;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
2. Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình
phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn,
chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức
hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị
hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình
phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức
bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa
án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi
thường thiệt hại [24, Điều 249].
Qua nghiên cứu quy định trên cho thấy quyền sửa bản án sơ thẩm của
Tòa án cấp phúc thẩm có một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được quyền sửa các nội dung của
bản án sơ thẩm có sai sót liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân
sự, hình phạt, điều luật áp dụng đối với bị cáo, xử lý vật chứng, không sửa
các sai sót liên quan đến thủ tục tiến hành tố tụng. Điều này xuất phát từ lý
do các sai sót về thủ tục tố tụng là sai sót ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền,
lợi ích chính đáng của đương sự và bị cáo, làm cho quá trình xác định sự
thật của vụ án không khách quan toàn diện và đầy đủ. Sai sót về thủ tục tố
10
tụng là những gì đã xảy ra không thể lặp lại được nên không thể sửa lại
được. Nếu không sai lầm vi phạm nghiêm trọng thì chỉ rút kinh nghiệm, rút
ra bài học, nếu là sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì chỉ có thể hủy bản án sơ
thẩm để điều tra hoặc xét xử lại.
Thứ hai, phạm vi quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
được quy định theo hướng mở rộng quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho
bị cáo, hạn chế quyền sửa bản án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo.
Hầu như tất cả các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự và hình
phạt đối với bị cáo Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể xem xét và sửa theo
hướng có lợi cho bị cáo. Điều kiện để Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo
hướng này được quy định khá mở rộng nhưng cũng không quá lỏng lẻo để
tránh việc biến cấp phúc thẩm trở thành cấp sơ thẩm thứ hai. Ngoài yêu cầu
chung là có kháng cáo kháng nghị (kể cả kháng cáo, kháng nghị theo hướng
không có lợi cho bị cáo) thì không có bất kì một hạn chế nào khác trong quá
trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa phúc thẩm.
Ngoại trừ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và
trường hợp giảm mức bồi thường thiệt hại, các trường hợp khác Tòa án phúc
thẩm đều xem xét và áp dụng đối với cả bị cáo không kháng cáo hoặc không
bị kháng cáo kháng nghị. Điều 241 BLTTHS quy định nguyên tắc, “Toà án
cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”, tuy nhiên “nếu xét
thấy cần thiết thì toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị
kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Điều 241 BLTTHS không quy định thế
nào là trường hợp “cần thiết” và hiện nay cũng chỉ có Thông tư liên ngành số 01-
TANDTC-VKSNDTC/TTLN ngày 08/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC
hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS giải thích “trường hợp
cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm
cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Một điểm nữa là Tòa án
11
có thể xem xét sửa bản án sơ thẩm có lợi cho cả bị cáo bị kháng cáo, kháng
nghị theo hướng tăng nặng.
Đối với việc sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo, Khoản 3
Điều 249 BLTTHS 2003 quy định rất rõ ràng về giới hạn Tòa án phúc thẩm
chỉ được sửa tăng nặng ba vấn đề, đó là: Tăng hình phạt, áp dụng điều khoản
Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và tăng mức bồi thường thiệt hại. Điều kiện
để được sửa theo hướng này cũng bị ràng buộc với nhiều yêu cầu chặt chẽ
hơn như: Nội dung kháng cáo, kháng nghị phải có yêu cầu Tòa án xem xét
tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng
mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo; Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa
phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát không được thay đổi nội
dung kháng cáo kháng nghị làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; Mặt khác nếu
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo kháng nghị vắng mặt tại phiên tòa có
lý do chính đáng thì Tòa án có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra
bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Đặc
biệt, Tòa án phúc thẩm không xem xét tăng nặng đối với bị cáo không có
kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. Quy định trên buộc người
kháng cáo hoặc Viện kiểm sát phải thận trọng trong việc kháng cáo hoặc
kháng nghị, buộc Tòa án cấp phúc thẩm phải thận trọng trong việc quyết định
sửa án sơ thẩm theo hướng bất lợi.
Thứ ba, Tòa án cấp phúc thẩm không sửa bản án sơ thẩm từ tuyên bố bị
cáo không có tội thành có tội. Xuất phát từ nguyên tắc chung là “bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”, việc Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội thành có tội sẽ làm mất
đi quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới bị
tuyên trong bản án phúc thẩm.
12
Tóm lại, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm là một quy định rất
quan trọng. Tòa án cấp phúc thẩm làm thay đổi các nội dung của bản án hình
sự sơ thẩm có sai sót để kịp thời sửa chữa khắc phục sai lầm trong công tác
xét xử, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và đương
sự, đồng thời góp phần hạn chế tình trạng oan sai trong xử lý hình sự.
1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án
phúc thẩm
Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
thẩm chính là có kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp theo thủ tục phúc thẩm
đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng cáo là việc những người tham gia tố tụng do pháp luật tố tụng quy
định đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết định của tòa án cấp
sơ thẩm đang trong thời hạn kháng cáo nhằm bảo đảm cho họ có điều kiện bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tòa án xử lí vụ án [13, tr.192].
Theo quy định tại Điều 231 BLTTHS và Nghị quyết số 05/2005/NQ-
HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi
hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS,
chủ thể có quyền kháng cáo gồm có: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị
cáo; người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ; người được Toà án
tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã
tuyên là họ không có tội. Thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 234
BLTTHS: Đối với những người có mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án; Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày
bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc
13
phản đối toàn bộ hay một phần nội dung bản án, quyết định của Toà án với mục
đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa
những sai lầm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án [27, tr.418]. Chủ thể
có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật là Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Viện
kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp với Toà án đã ra bản án sơ thẩm. Thời hạn
kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003
về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm
Lịch sử pháp luật TTHS nước ta trong từng giai đoạn có những quy
định khác nhau về quyền sửa bản án sơ thẩm.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngay sau khi giành được chính quyền, đáp ứng nhu cầu cấp bách của
xã hội, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số
33c/SL ngày 13/9/1945, sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, sắc lệnh 51/SL
ngày 17/4/1946.... quy định việc thành lập Tòa án quân sự và thẩm quyền xét
xử của Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 và sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946 nêu rõ việc phân định thẩm quyền của Tòa án quân sự, trong
đó đối với các vụ án hình sự thì Tòa án sơ cấp vừa có thẩm quyền xử sơ thẩm
và chung thẩm, Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền xử chung thẩm những án vi
cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, Tòa thượng thẩm có thẩm quyền xử
chung thẩm những án kháng cáo sơ thẩm của Tòa đệ nhị cấp.
Riêng đối với các vụ án phản cách mạng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền
của Tòa án quân sự thì giai đoạn 1946 - 1957 không xét xử đến cấp thứ hai,
bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay (sắc lệnh số
21/SL ngày 14/02/1946 và sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950).
14
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng
Chính phủ ra nghị định số 300/TTg ngày 14/8/1959 thiết lập lại hệ thống Tòa
án, và khi đó Tòa án cấp phúc thẩm được chia tại 3 khu vực: Tại Hà Nội, Hải
Phòng và Vinh, có nhiệm vụ xét xử lại các vụ án hình sự sơ thẩm bị kháng
cáo kháng nghị. Sau Nghị định 331/TTg ngày 20/10/1959, TAND tách khỏi
Bộ tư pháp và Tòa án tối cao được thành lập “có nhiệm vụ xét xử phúc
thẩm.... những vụ án do tòa án cấp dưới xét xử trong trường hợp có kháng
nghị của cơ quan công tố”.
Với đặc điểm tình hình đất nước có chiến tranh, bị chia cắt hai miền
Nam Bắc nên trong giai đoạn này có khá nhiều văn bản pháp luật về TTHS
được ban hành, tuy nhiên chủ yếu là các văn bản điều chỉnh về thiết lập và
hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân và thẩm quyền chung của các Tòa án.
Hệ thống văn bản TTHS không có quy định nào xác định cụ thể khi xét xử
phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền sửa đổi nội dung gì của
bản án sơ thẩm.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988
Luật tổ chức TAND 1960 ra đời, sau đó là Pháp lệnh tổ chức
TANDTC, Pháp lệnh tổ chức TAND địa phương, Điều lệ tổ chức của Tòa án
các cấp trong khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc. Điều 9 Luật tổ chức TAND
1960 quy định rõ “Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử”, trên cơ
sở đó nhà nước ban hành nhiều văn bản có quy định về phúc thẩm trong
TTHS.
Thông tư 03/NCPL ngày 19/5/1967 của TANDTC là văn bản đầu tiên
quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ
thẩm có kháng cáo kháng nghị. Theo đó Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem
xét lại toàn bộ nội dung vụ án, kể cả đối với người không có kháng cáo hoặc
kháng nghị. Thông tư này đã đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết trong hoàn cảnh
15
pháp luật tố tụng nước ta còn thiếu và có tác dụng giúp công tác xét xử phúc
thẩm tiến hành thuận lợi, nhưng qua một thời gian áp dụng đã bộc lộ nhược
điểm là làm cho công tác xét xử phúc thẩm trở nên nặng nề. Rút kinh nghiệm,
TANDTC đã ban hành thông tư số 19-TATC ngày 02/10/1974 kèm theo bản
hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự, quy định đầy đủ và hợp lý
hơn về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ thẩm.
Về quyền sửa bản án sơ thẩm, thông tư đã quy định rất rõ ràng và cụ
thể. Các quyền mà Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án bao gồm: Tòa án
cấp phúc thẩm có thể tha miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Về hình phạt:
Có thể tha miễn hình phạt cho bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo nếu nhận
định bản án sơ thẩm đã tuyên hình phạt quá nặng; Về tội danh: Có thể tuyên
bố bị cáo vô tội nếu xét thấy bản án sơ thẩm kết tội bị cáo không có căn cứ, có
thể xác định lại tội danh nhẹ hơn so với tội danh Tòa án sơ thẩm đã tuyên.
Trong vụ án có cộng phạm có thể giải quyết cả cho bị cáo khác tuy không có
kháng cáo kháng nghị.
Tòa án được sửa bản án theo hướng làm bất lợi cho bị cáo với các
trường hợp: có thể kết tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo đã được bản án sơ
thẩm tuyên vô tội hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự, tha miễn hình phạt; có
thể xử tội danh nặng hơn, tăng nặng hình phạt. Đối với bị cáo không kháng
cáo hoặc không bị kháng nghị về phần hình phạt thì vấn đề sửa bản án sơ
thẩm theo hướng nặng hơn không đặt ra. Tuy nhiên Tòa án cấp phúc thẩm vẫn
có thể sửa tội danh và hình phạt trong một số trường hợp cụ thể như: có thể
xử tội danh nặng hơn nếu tại phiên tòa chính bị cáo cũng thừa nhận tội danh
nặng hơn, có thể bổ sung thêm hình phạt phụ vào hình phạt chính mà hình
phạt chính vẫn được giữ nguyên v.v.. Ngoài ra cũng có thể sửa về bồi thường
thiệt hại và xử lý tang vật [31, tr. 224-227].
16
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003
Bộ luật TTHS 1988 ra đời trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, đánh
dấu bước ngoặt quan trọng. Đây là Bộ luật đầu tiên quy định cụ thể, chi tiết
thẩm quyền của Tòa án, trình tự tố tụng trong xét xử vụ án hình sự, trong đó
có quy định chi tiết về các trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm tại Điều 221. Điều luật quy định rất rõ ràng hai trường hợp Toà án cấp
phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm, cụ thể:
1-Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho bị cáo;
b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý
vật chứng.
2- Nếu có căn cứ, Toà án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt
hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn cho cả
những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3- Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị
hại kháng cáo yêu cầu thì Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình
phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức
bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc
kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Toà
án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự
về tội nhẹ hơn và giảm mức bồi thường thiệt hại [23, Điều 221].
BLTTHS 1988 sau đó đã được sửa đổi bổ sung ba lần (tháng 7/1990,
tháng 12/1992 và tháng 6/2000) và đến năm 2003 BLTTHS mới được ban
hành. Mặc dù quá trình thi hành Bộ luật cũ đã nảy sinh nhiều vướng mắc bất
cập, nhưng về cơ bản quyền sửa bản án sơ thẩm tại BLTTHS năm 2003 vẫn
17
được quy định trên cơ sở kế thừa quy định tại BLTTHS năm 1988, gần như
không thay đổi nhiều, chỉ bổ sung thêm trường hợp: “chuyển sang hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo”.
Nhìn lại quá trình phát triển của pháp luật TTHS nước ta từ năm 1945
đến năm 2003 có thể thấy rõ sự linh hoạt trong việc lựa chọn xu hướng điều
chỉnh thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong từng thời kì. Giai đoạn 1967-
1974, thực hiện theo thông tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967, Tòa án cấp phúc
thẩm có quyền xem xét lại toàn bộ vụ án và xem xét đối với cả người không
kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Sau khi thông tư 19-TATC ngày 02/10/1974
ra đời thì thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm được điều chỉnh thu hẹp, chỉ
xem xét lại vụ án trong phạm vi kháng cáo kháng nghị yêu cầu, có mở rộng
xem xét theo hướng có lợi đối với bị cáo đồng phạm khác tuy không có
kháng cáo kháng nghị.
Xét xử phúc thẩm là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất tính nhân đạo của
chính sách hình sự, có nhiệm vụ kịp thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị
cáo, vì vậy việc hạn chế làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là điều cần thiết.
Ngày nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật TTHS của nhiều
quốc gia và được coi là một yêu cầu đặc trưng của thủ tục phúc thẩm trong
TTHS. Quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật TTHS của
nước ta từ năm 1960 trở lại đây và nhất là quy định tại BLTTHS năm 2003
cũng chịu ảnh hưởng và được phát triển dựa trên nguyên tắc trên.
1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự một
số nước trên thế giới
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, pháp luật của các nước trên thế giới quy
định thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm theo hai xu hướng. Một số
nước điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm (phúc thẩm mở
rộng), ngược lại một số nước lại điều chỉnh thu hẹp thẩm quyền này (phúc
18
thẩm thu hẹp). Phúc thẩm mở rộng không hạn chế quyền xem xét quyết định của
Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án bị kháng cáo kháng nghị theo bất cứ hướng
nào. Ngược lại, phúc thẩm thu hẹp hạn chế phạm vi xem xét kháng cáo kháng
nghị để không biến cấp phúc thẩm thành cấp sơ thẩm thứ hai [5, tr. 39-42]. Mỗi
xu hướng đều có những ưu nhược điểm riêng, việc các quốc gia lựa chọn xu
hướng điều chỉnh nào đều phải căn cứ vào chế độ chính trị, mô hình tố tụng
và chính sách hình sự của quốc gia mình. Qua nghiên cứu cho thấy dù đi theo
xu hướng nào, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
thẩm trong pháp luật TTHS của đa số các nước đều có đặc trưng là không
được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và mở rộng quyền sửa bán án sơ thẩm
theo hướng có lợi cho bị cáo.
Luật TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, được Đại hội Đại
biểu nhân dân toàn quốc thông qua ngày 01 tháng 7 năm 1979, và được sửa
đổi theo Quyết định sửa đổi Luật TTHS của nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa ngày 17 tháng 3 năm 1996 (sau đây gọi là luật TTHS Trung Quốc). Luật
TTHS của Trung Quốc có cấu trúc tương tự như luật TTHS của Việt Nam,
cũng quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Đây là Bộ luật điển hình cho xu
hướng điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc
xem xét bản án sơ thẩm.
Khi vụ án có kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì:
Toà án cấp phúc thẩm phải tiến hành xem xét toàn diện các
tình tiết và áp dụng pháp luật trong bản án sơ thẩm và không được
giới hạn phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Nếu chỉ có một số bị cáo
trong vụ án đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn
bộ vụ án [42, Điều 186].
Đối với thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm,
Khoản 2, 3 Điều 189 quy định:
19
Nếu phán quyết ban đầu không có sai sót trong việc xác định
các tình tiết nhưng áp dụng pháp luật không chính xác hoặc hình phạt
không phù hợp, Toà án phải sửa bản án và nếu những tình tiết trong
phán quyết ban đầu không rõ ràng hoặc chứng cứ không đầy đủ, Toà
án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ sự việc… [42].
Luật TTHS Trung Quốc cũng hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm làm xấu
hơn tình trạng của bị cáo, Điều 190 quy định:
Khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc của
người đại diện theo pháp luật, người bào chữa hoặc họ hàng thân
thích của họ, Toà án cấp phúc thẩm có thể không tăng hình phạt đối
với bị cáo. Những hạn chế quy định tại khoản trên sẽ không được
áp dụng đối với những vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân hoặc kháng cáo của tư tố viên [42].
Bộ luật TTHS Liên bang Nga (được Đuma Quốc gia thông qua ngày 22
tháng 11 năm 2001 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001)
được điều chỉnh theo hướng phúc thẩm thu hẹp. Bộ luật quy định các quyết
định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật có thể bị các bên kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục chống án hoặc thủ tục phúc thẩm, ở đây luận văn sẽ
để cập đến thủ tục phúc thẩm. Điều 360 quy định phạm vi xét xử vụ án hình
sự của Toà án cấp phúc thẩm:
Khi giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm Toà án
có quyền giảm hình phạt cho người bị kết án hoặc áp dụng luật hình
sự về tội nhẹ hơn nhưng không có quyền tăng nặng hình phạt, áp
dụng luật hình sự về tội nặng hơn.
Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa đổi bản án kết tội cũng
như bản án tuyên vô tội theo hướng áp dụng luật hình sự về tội
nặng hơn hoặc tăng nặng hình phạt trong các trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều 383 và Điều 385 Bộ luật này [42].
20
Như vậy Bộ luật cũng quy định hạn chế việc Tòa án phúc thẩm sửa
hoặc hủy bản án theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, và không hạn
chế việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Căn cứ sửa bản án
sơ thẩm được quy định tại Điều 379 bao gồm:
1) Kết luận của Toà án nêu trong bản án không phù hợp với
những tình tiết thực tế của vụ án được Toà án cấp sơ thẩm hoặc cấp
chống án xác định;
2) Vi phạm luật tố tụng hình sự;
3) Áp dụng không đúng luật hình sự;
4) Không bảo đảm tính công bằng của bản án.”
Điều 387 quy định:
Trong trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 382 Bộ
luật này, Toà án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng luật hình sự về tội
nhẹ hơn và giảm hình phạt phù hợp với việc thay đổi tội danh đối
với người bị kết án. Trong trường hợp này Toà án cấp phúc thẩm
không có quyền áp dụng luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng nặng
hình phạt [42].
Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp cũng quy định hạn chế việc sửa án
sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo, mở rộng tối đa quyền sửa bản án
theo hướng có lợi cho bị cáo. Hệ thống Tòa án hình sự của Pháp gồm có Tòa
đại hình (xét xử những các tội phạm có độ nguy hiểm cao, khung hình phạt
trên 06 năm tù) và Tòa tiểu hình. Trước năm 2000, các phán quyết của Tòa
đại hình có tính chất chung thẩm, không bị kháng cáo kháng nghị. Từ khi ra
đời của Luật 15 tháng 6 năm 2000, các phán quyết của Tòa đại hình có thể bị
kháng cáo và được xem xét lại ở một Tòa đại hình khác. Liên quan tới sửa
phán quyết sơ thẩm, Điều 380-3 BLTTHS Pháp quy định: “Toà đại hình, khi
giải quyết việc truy tố dựa trên kháng cáo, không thể ấn định một hình phạt
nghiêm khắc hơn đối với bị cáo khi chỉ có bị cáo kháng cáo” [42].
21
BLTTHS Pháp quy định:
Toà đại hình xét xử một vụ kiện dân sự có kháng cáo không
thể làm xấu đi tình trạng của bị cáo nếu đó là bị cáo, người chịu trách
nhiệm theo luật dân sự hoặc bên dân sự đã kháng cáo duy nhất.
Bên dân sự không được quyền đưa ra những đòi hỏi mới
trong kháng cáo. Tuy nhiên, họ có thể đòi hỏi tăng mức thiệt hại
phải chịu từ lần phán quyết đầu tiên. Thậm chí khi không có kháng
cáo đối với phán quyết trong vụ kiện dân sự, nạn nhân được ghi
trong hồ sơ là bên dân sự ở cấp sơ thẩm có thể thực hiện các quyền
dành cho bên dân sự trước toà đại hình thụ lý kháng cáo cho đến
khi kết thúc tố tụng. Người này cũng có thể yêu cầu áp dụng các
quy định của đoạn này cũng như của điều 375 [42, Điều 380-6].
Đối với các kháng cáo phán quyết của Tòa tiểu hình thì được xét xử
phúc thẩm tại Tòa tiểu hình phúc thẩm. BLTTHS Pháp quy định:
Nếu Viện Công tố kháng nghị, Tòa tiểu hình phúc thẩm có
thể giữ nguyên bản sơ thẩm hoặc sửa toàn bộ hoặc một phần theo
hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo.
(Luật số 83-608 ngày 8-7-1983) Nếu chỉ có kháng cáo của bị
cáo, của người phải chịu trách nhiệm dân sự, của nguyên đơn dân
sự hoặc của người bảo hiểm của một trong những người nêu trên thì
Tòa án không thể quyết định theo hướng tăng hình phạt đối với
người kháng cáo.
Khi kháng cáo, nguyên đơn dân sự không thể nếu bất cứ yêu cầu
gì mới; tuy nhiên, nguyên đơn dân sự có thể yêu cầu tăng mức bồi
thường thiệt hại phải chịu từ khi có quyết định sơ thẩm [42, Điều 515].
BLTTHS của Nhật Bản hiện tại được ban hành năm 1948 quy định trong
vụ án hình sự bị cáo và bên công tố được kháng cáo lên Tòa án cấp trên. Kháng
22
cáo lần đầu (kháng cáo koso) được trình lên Tòa án phúc thẩm và giải quyết
theo thủ tục phán quyết nhanh. Điều 402 quy định. “Liên quan đến vụ án do bị
cáo hoặc người thay mặt bị cáo kháng cáo Koso, không được tuyên hình phạt
nặng hơn so với phán quyết ban đầu”. Kháng cáo thứ hai (kháng cáo jokoku)
được trình lên Tòa án tối cao. Điều 415 quy định “Toà án cứu cánh cuối cùng
có thể, khi phát hiện ra các sai lầm trong nội dung phán quyết, cải sửa chúng
bằng một phán quyết theo đơn của công tố viên, bị can, hoặc người bào chữa”,
và “Phán quyết cải sửa được ban hành không cần tranh luận” [42].
23
Chương 2
QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
2.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh
2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự
Theo TS. Trịnh Tiến Việt, dưới góc độ khoa học pháp lý thì:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người đáp ứng
những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do
việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu
cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như công tác
giáo dục, cải tạo người phạm tội [39, tr. 97].
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã có đủ dấu hiệu cấu
thành một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, lẽ ra họ phải bị truy
cứu trách nhiệm hình sự, nhưng do có những sự kiện nhất định họ không bị
buộc phải chịu trách nhiệm hình sự nữa, và việc không buộc họ phải chịu
trách nhiệm hình sự vẫn bảo đảm được các yêu cầu của đấu tranh phòng
ngừa tội phạm cũng như răn đe người khác phạm tội. Theo quy định của
BLHS hiện hành, khi bản án sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, phải chịu hoặc
không phải chịu hình phạt, xét thấy việc buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm
hình sự là chưa đúng, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền miễn trách nhiệm
hình sự cho bị cáo.
2.1.1.1. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 BLHS
Khi tiến hành xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có thể miễn
trách nhiệm hình sự cho bị cáo nếu do sự chuyển biến của tình hình mà hành
vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Sự
chuyển biến của tình hình được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP
24
ngày 05/01/1986, tuy nhiên đây là hướng dẫn thi hành BLHS năm 1985, đó là
sự chuyển biến về “chính trị, kinh tế, xã hội”. Việc miễn trách nhiệm hình sự
cho bị cáo trong trường hợp này không phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan,
tức là không phụ thuộc vào việc bị cáo có những hành động làm cho hành vi
của mình hoặc bản thân mình không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, mà cơ sở
của trường hợp này là do các yếu tố khách quan (sự chuyển biến của tình
hình) làm cho chính hành vi của bị cáo hoặc chính bản thân bị cáo không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa.
Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa, tức là: vào thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội thì hành vi đó bị coi là tội phạm, nhưng sau khi khởi tố điều tra, truy tố
hoặc xét xử, tình hình xã hội thay đổi và nếu đặt hành vi cũ vào hoàn cảnh
mới thì hành vi đó không còn nguy hiểm nữa. Khi hành vi phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa, người thực hiện hành vi có thể phải chịu các
hình thức xử lý khác (phạt tiền, kỷ luật, cảnh cáo…) mà không phải chịu trách
nhiệm hình sự. Cơ sở xác định sự chuyển biến tình hình chính là sự thay đổi
về chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ví dụ: Người có
hành vi trộm cắp tài sản trị giá 1.500.000đ theo BLHS năm 1999 bị coi là tội
phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng tại thời điểm xét xử BLHS
năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 có hiệu lực thì hành vi đó
không bị coi là tội phạm và bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự, do BLHS
sửa đổi năm 2009 đã nâng giá trị tài sản trộm cắp được nâng lên 2.000.000đ.
Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy
hiểm cho xã hội nữa, tức là trước khi có sự chuyển biến của tình hình người
đó là phần tử nguy hiểm cho xã hội, đáng phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội mình đã thực hiện. Tuy nhiên tại thời điểm bị điều tra, truy
tố hoặc xét xử, cùng với sự chuyển biến của tình hình thì người này không
25
còn là phần tử nguy hiểm cho xã hội nữa, không cần thiết phải xử lý trách
nhiệm hình sự đối với họ. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự do
các yếu tố khách quan tác động dẫn đến bản thân người phạm tội không còn
nguy hiểm cho xã hội nữa, không còn khả năng thực hiện tội phạm nữa, chứ
không phải là do các yếu tố chủ quan của người phạm tội (như họ bị bệnh rất
nặng hoặc có thành tích đặc biệt trong chiến đấu hoặc sản xuất…) Ví dụ: Một
người sau khi phạm tội bị tai nạn liệt toàn thân hoặc phải sống cuộc sống thực
vật, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự [39, tr. 137].
2.1.1.2. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 BLHS
Bị cáo có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi đáp ứng đủ các
điều kiện:
Thứ nhất, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, bị cáo đã tự thú. Khi
áp dụng quy định này chúng ta cần phân biệt để tránh nhầm lẫn giữa hai khái
niệm “tự thú” và “đầu thú”. “Tự thú” được hiểu là sau khi thực hiện hành vi
phạm tội mặc dù chưa có cá nhân tổ chức nào phát hiện nhưng bị cáo không
trốn tránh và đã chủ động khai báo về hành vi phạm tội mình đã gây ra.
Ngược lại, “Đầu thú” là trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã bị phát
giác, bị cáo biết mình không thể trốn tránh được nên chủ động ra trình diện.
Thứ hai, khi tự thú bị cáo phải khai rõ sự việc phạm tội, không che giấu
bất kỳ tình tiết nào. Những thông tin bị cáo cung cấp giúp ích cho cơ quan
điều tra trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ tội phạm. Khi áp dụng điều kiện
này Tòa án cấp phúc thẩm thường có sự nhầm lẫn với tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại Điểm q Khoản 1 Điều 46 BLHS là “Người phạm
tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm”.
Cả hai tình tiết trên đều xét tới các hành động tích cực của người phạm tội
như: người phạm tội đã khai rõ sự việc, hoặc cung cấp các thông tin, về đồng
phạm, tang vật, cung cấp tài liệu, bằng chứng… v.v.. những hành động đó có
26
ý nghĩa tích cực giúp cơ quan chức năng nhanh chóng phát hiện điều tra tội
phạm. Nhưng các hành động trên nếu đi kèm yếu tố “tự thú” thì bị cáo sẽ
được xét miễn trách nhiệm hình sự, và nếu không có yếu tố “tự thú” thì đây
chỉ là tình tiết để xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Thứ ba, cùng với việc tự thú thì bị cáo đã chủ động cố gắng hạn chế tới
mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, và kết quả là thiệt hại đã không xảy ra
hoặc đã xảy ra nhưng không đáng kể.
Có thể nhận thấy, bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự trong trường
hợp này hoàn toàn do những hành vi chủ quan tích cực của bị cáo. Đây là sự
thể hiện chính sách nhân đạo trong xử lý hình sự, Nhà nước ta hướng người
phạm tội thực hiện các hành vi tích cực để được hưởng sự khoan hồng.
2.1.1.3. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 3 Điều 25 BLHS
Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại
xá. Theo từ điển Luật học thì “đại xá” là việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc
hình phạt, hoặc thay hình phạt đã tuyên bằng một hình phạt nhẹ hơn đối với
một loại phạm nhân nhất định. Thẩm quyền ban hành quyết định đại xá thuộc
về Quốc hội, cơ sở để ban hành quyết định đại xá là trong dịp có sự kiện lịch
sử đặc biệt quan trọng của đất nước. Quyết định đại xá có đối tượng áp dụng
là hành vi phạm tội, có hiệu lực đối với những hành vi được nêu trong quyết
định và xảy ra trước khi ban hành quyết định đại xá. Nếu hành vi đã bị khởi
tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì
không được coi là có án tích.
Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trong trường hợp này
cần lưu ý với khái niệm “đặc xá”, “đặc xá” là miễn toàn bộ hay một phần hình
phạt hoặc giảm nhẹ hình phạt, kể cả miễn trách nhiệm hình sự hoặc xóa án đối
với một hay một số người nhất định. Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn
quyết định đặc xá. Quyết định đặc xá có đối tượng áp dụng là các phạm nhân bị
27
kết án tù có thời hạn, hoặc tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn
của đất nước. Người được đặc xá vẫn bị coi là có án tích [27, tr.146-147].
2.1.1.4. Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong trường hợp tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội theo quy định tại Điều 19 BLHS
Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là “tự mình không thực hiện
tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Khi tội phạm mới được thực
hiện nửa chừng thì bị cáo đã chấm dứt không thực hiện đến cùng. Việc bị cáo
chấm dứt thực hiện hành vi phạm tội là hoàn toàn tự nguyện, do bản thân bị
cáo quyết định, không bị điều gì ngăn cản hay bị ai thúc ép, dứt khoát chấm
dứt không thực hiện tội phạm đến cùng.
Quá trình áp dụng quy định này cần lưu ý về ý chí chủ quan của bị cáo
là phải chấm đứt thực hiện tội phạm đến cùng, chứ không phải chấm dứt để
chờ thời cơ thực hiện tội phạm khác, hay chấm dứt để chuẩn bị công cụ
phương tiện tiếp tục phạm tội khi đủ điều kiện thuận lợi.
2.1.1.5. Miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là người chưa thành
niên phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 BLHS
Đối với bị cáo là người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm
hình sự khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng
hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn. Khoản 2 Điều 69 BLHS quy định
không rõ ràng nên dẫn đến một số hiểu nhầm là bị cáo chưa thành niên phạm
một trong hai loại tội là “tội ít nghiêm trọng” và “tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn”. Thực tế không có loại tội phạm nào là “tội nghiêm trọng” nhưng
lại “gây hại không lớn”, và việc sử dụng cụm từ “gây hại không lớn” cũng
không thống nhất với cụm từ “gây thiệt hại không lớn” được sử dụng tại một
số điều luật khác. Quá trình nghiên cứu BLHS cần sửa đổi quy định này sao
cho đồng nhất và tránh gây hiểu nhầm.
28
Thứ hai, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, được hiểu là có từ hai tình
tiết trở lên. Khoản 2 Điều 69 BLHS không quy định rõ ràng nên các tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 46 BLHS đều được tính.
Thứ ba, bị cáo được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo
dục. Đây là điều kiện đảm bảo khả năng người phạm tội là người chưa thành
niên được giám sát, giáo dục, trở thành công dân tốt cho xã hội.
2.1.1.6. Miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp khác
Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với
một số loại tội phạm khi có các điều kiện cụ thể như:
Tội gián điệp (Khoản 3 Điều 80 BLHS): Người đã nhận làm gián điệp
nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo.
Tức là người phạm tội đã nhận nhiệm vụ thực hiện một trong số các hành vi
quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLHS cho nước ngoài, nhưng đã không thực
hiện và ra tự thú, thành khẩn khai báo mọi tình tiết.
Tội đưa hối lộ (Khoản 6 Điều 289 BLHS): Người đưa hối lộ tuy không
bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác. Tức là người
phạm tội sau khi thực hiện hành vi đưa hối lộ đã tự nguyện, tự giác khai nhận
hành vi phạm tội của mình với cơ quan chức năng, mặc dù hành vi chưa bị
phát giác và cũng không bị ai ép buộc về việc khai báo.
Tội môi giới hối lộ (Khoản 6 Điều 290 BLHS): Người môi giới hối
lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác. Tương tự như người đưa hối
lộ, người môi giới hối lộ được miễn trách nhiệm hình sự nếu sau khi phạm
tội họ đã chủ động đến khai báo về hành vi của mình mặc dù hành vi chưa
bị phát giác.
Tội không tố giác tội phạm (Khoản 3 Điều 314 BLHS): Người không
tố giác tội phạm đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác
hại của tội phạm. Người không tố giác tội phạm phải có hành động khuyên
29
bảo, ngăn cản người phạm tội, hoặc kịp thời có biện pháp xử lý để hạn chế tác
hại của tội phạm.
2.1.2. Quyền sửa tội danh
2.1.2.1. Quyền áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn
Trong giai đoạn phúc thẩm, nếu xét thấy bản án sơ thẩm áp dụng một
điều khoản về tội nặng hơn đối với bị cáo, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo
đáng lẽ chỉ phải áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, thì Tòa án cấp
phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm. Áp dụng điều khoản BLHS về tội
nhẹ hơn bao gồm hai trường hợp. Thứ nhất là chuyển từ áp dụng điều luật về
tội danh nặng xuống tội danh khác nhẹ hơn, ví dụ: Bản án sơ thẩm tuyên bị
cáo phạm tội “Giết người” theo Khoản 2 Điều 93 BLHS, cấp phúc thẩm sửa
án tuyên bị cáo phạm tội “Giết người trong trại thái tinh thần bị kích động
mạnh” theo Khoản 1 Điều 95 BLHS. Thứ hai là chuyển từ áp dụng khoản có
khung hình phạt nặng xuống áp dụng khoản có khung nhẹ hơn trong cùng một
điều luật. Ví dụ: Tòa án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản”
theo Điểm d Khoản 2 Điều 138 BLHS do bị cáo dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Tòa án cấp phúc thẩm xác định hành vi của bị cáo không phải dùng thủ đoạn
xảo quyệt và sửa án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo
Khoản 1 Điều 138 BLHS
Để xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn, khoản có khung hình phạt nặng
hơn và khoản có khung hình phạt nhẹ hơn phải căn cứ vào các yếu tố quy
định tại Điều 8 BLHS gồm: tính chất nguy hiểm cho xã hội (ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng), mức độ nguy hiểm
(gây nguy hại không lớn, gây nguy hại lớn, rất lớn và đặc biệt lớn) và mức
cao nhất của chế tài áp dụng đối với tội phạm (đến ba năm, đến bảy năm, đến
mười lăm năm, trên mười lăm năm, tù chung thân hoặc tử hình).
Tại Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004
30
của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong
phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003, hướng dẫn về cách xác
định mức độ nặng nhẹ của các tội phạm như sau:
Trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào
điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn.
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả
hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung
thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy
cao hơn là tội đó nặng hơn.
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả
hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức
hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy
định mức hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn.
Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả
hai tội đều là tù có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù
cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính
khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn.
Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao
nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn
được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại các Điểm b.2 và b.3 tiểu mục 2.2
mục 2 Phần II của Nghị quyết này.
Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả
hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó
nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng
đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình
phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung
bắt buộc là tội đó nặng hơn [6].
31
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ áp dụng quy định này khi vụ án đã được điều
tra đầy đủ, không có sai phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và Tòa án sơ
thẩm sai sót do nhận định không đúng tính chất và mức độ hành vi, chưa xác
định đúng động cơ mục đích phạm tội hoặc sai lầm trong nhận thức về các
tình tiết định khung. Việc áp dụng điều khoản về tội nhẹ hơn thường bao gồm
cả việc thêm hoặc bớt một số tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng tại Điều 46 và
48 BLHS. Và khi đã tuyên bố bị cáo phạm một tội nhẹ hơn thì thông thường
sẽ kèm theo việc giảm hình phạt cho bị cáo hoặc chuyển sang hình phạt khác
nhẹ hơn. Trong vụ án có đồng phạm thì quy định này có thể được áp dụng cho
cả bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị.
2.1.2.2. Quyền áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn
Ngược lại với việc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, khi Viện
kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo có yêu cầu, thì căn cứ vào
Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa
bản án sơ thẩm áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn.
Áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn bao gồm hai trường hợp.
Thứ nhất là chuyển từ áp dụng điều luật về tội danh nhẹ hơn sang áp dụng
điều luật về tội danh nặng hơn trong giới hạn truy tố của Viện kiểm sát. Thứ
hai là chuyển từ áp dụng khoản có hình phạt nhẹ sang áp dụng khoản có hình
phạt nặng hơn trong cùng một điều luật.
Khi áp dụng quy định BLHS về tội nhẹ hơn, Tòa án cấp phúc thẩm
không bị hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm từ tội danh nặng thành tội danh
nhẹ bởi nội dung này phù hợp với Điều 196 BLTTHS quy định về giới hạn
của việc xét xử là: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản
mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Tương tự như vậy, khi
sửa án sơ thẩm bằng hình thức áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn,
32
việc sửa tội danh từ tội danh nhẹ sang tội danh nặng hơn theo chúng tôi cũng
phải nằm trong giới hạn Viện kiểm sát truy tố. Tòa án cấp phúc thẩm không
được phép sửa bản án sơ thẩm chuyển từ tội danh nhẹ sang tội danh khác
nặng hơn vượt quá phạm vi của bản cáo trạng đã truy tố bị cáo, bởi lẽ như
vậy là vi phạm nguyên tắc đã được quy định tại Điều 196 BLTTHS, hơn nữa
việc này còn làm mất quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới nặng
hơn, vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đối với những
quyết định bất lợi hơn. Ví dụ: Tại cấp sơ thẩm, cáo trạng của Viện kiểm sát
truy tố bị cáo tội “Giết người” theo Điều 93 BLHS, Tòa án cấp sơ thẩm xử
bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến hậu quả chết người theo Khoản 4
Điều 104 BLHS. Viện kiểm sát kháng nghị đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội
“Giết người”, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể sửa án tuyên bị cáo phạm tội
“Giết người” theo Điều 93 BLHS.
Tuy nhiên thực tiễn xét xử phúc thẩm cho thấy trong một số trường hợp
có kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên hoặc của người bị hại theo hướng
xử phạt tội danh khác nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp
sơ thẩm đã kết án, thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét xử bị cáo về tội danh
nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án.
Theo chúng tôi đây là sự vi phạm quy định về giới hạn xét xử.
2.2. Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt
2.2.1. Quyền miễn hình phạt
Ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt cho bị cáo ít xảy ra, vì trong thực tế quá trình điều tra
truy tố và xét xử sơ thẩm nếu có đủ những điều kiện quy định thì Viện kiểm
sát hoặc Tòa án đã miễn cho họ rồi. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp do
nhiều nguyên nhân khác nhau nên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn kết án và tuyên
hình phạt đối với bị cáo, khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm
33
mới phát hiện bị cáo thuộc diện được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn
hình phạt nên sửa bản án sơ thẩm và quyết định miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt cho bị cáo.
Cần phân biệt là Tòa án cấp phúc thẩm “miễn hình phạt” cho bị cáo
chứ không phải “miễn chấp hành hình phạt” cho bị cáo. Miễn hình phạt được
hiểu là với việc đã bị Tòa án kết tội, đáng lẽ bị cáo phải chịu hậu quả là bị áp
dụng hình phạt (biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất), nhưng vì có các lý
do được quy định tại BLHS mà Tòa án quyết định miễn việc chịu hình phạt
cho bị cáo. Khi bản án sơ thẩm đã tuyên bị cáo có tội và tuyên hình phạt đối
với bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nếu thấy có căn cứ quy định tại
Điều 54 BLHS là: “…phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản
1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến
mức được miễn trách nhiệm hình sự” thì tuyên miễn hình phạt cho bị cáo.
Có ba điều kiện cần và đủ để Tòa án cấp phúc thẩm xét miễn hình phạt
cho bị cáo. Trước hết, bị cáo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự (từ hai tình tiết trở lên) quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS, những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 46
BLHS không được tính. Tuy Điều 54 BLHS chỉ quy định việc bị cáo có tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chúng ta cần hiểu để được miễn
hình phạt thì bị cáo không được có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự,
bởi lẽ điều đó liên quan đến điều kiện cần thứ hai.
Điều kiện tiếp theo là bị cáo đáng được khoan hồng đặc biệt. Hiện nay,
chưa có văn bản nào hướng dẫn giải thích như thế nào là “đáng được khoan
hồng đặc biệt”, do đó để xác định và áp dụng chính xác thì Tòa án cấp phúc
thẩm cần căn cứ vào các yêu cầu tại Điều 45 BLHS về quyết định hình phạt,
xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng như hậu quả của
hành vi và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Chúng tôi đồng tình với
34
ý kiến của TS Trịnh Tiến Việt khi cho rằng cơ sở để xác định bị cáo đáng
được khoan hồng đặc biệt là dựa vào các tiêu chí:
Loại tội phạm bị cáo thực hiện thuộc loại tội phạm ít
nghiêm trọng, chưa gây ra hậu quả hoặc hậu quả (thiệt hại) không
lớn; bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị
cáo có nhiều thành tích trong học tập, lao động, công tác; bị cáo
lập công lớn trong việc giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện,
điều tra tội phạm v.v..
Các tiêu chí trên làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội giảm nhẹ đặc biệt,
tạo khả năng tự cải tạo, giảo dục bị cáo, do đó không cần phải cách
ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội [40, tr. 388].
Điều kiện thứ ba là bị cáo đã có đầy đủ hai điều kiện nêu trên, nhưng
các tình tiết của vụ án chưa thoả mãn các điều kiện để có thể miễn trách
nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25 BLHS, tức là chưa có dấu hiệu
“chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không
còn nguy hiểm cho xã hội nữa”.
Đây là các điều kiện miễn hình phạt được áp dụng chung cho các tội
phạm. Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể miễn hình phạt trong hai
trường hợp khác là:
Miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định
tại Khoản 4 Điều 69 BLHS khi có các điều kiện:
Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Có cơ sở (lý do) áp dụng một trong số các biện pháp tư pháp
có tính chất giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên
phạm tội [40, tr.389].
35
Miễn hình phạt đối với người phạm tội không tố giác tội phạm khi có
điều kiện tại Khoản 3 Điều 314 BLHS: “Người không tố giác tội phạm đã có
hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm”.
Miễn hình phạt trong trường hợp này được xác định là miễn hình phạt
chính cho bị cáo. Trong vụ án đồng phạm, việc miễn trách nhiệm hình sự hay
miễn hình phạt đối với bị cáo này không ảnh hưởng tới bị cáo khác. Tòa án
cấp phúc thẩm sẽ không miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt cho cả
bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị.
2.2.2. Quyền giảm hình phạt
Giảm hình phạt cho bị cáo là việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định
một mức hình phạt nhẹ hơn so với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã
tuyên đối với bị cáo trong cùng một loại hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm có
thể giảm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho bị cáo, và chỉ giảm
trong phạm vi cho phép của một loại hình phạt. Ví dụ: Tòa án sơ thẩm tuyên
phạt bị cáo 03 năm tù giam, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án, giảm hình phạt
cho bị cáo xuống còn 02 năm 06 tháng tù giam.
Căn cứ vào các quy định về hệ thống hình phạt chính và hình phạt bổ
sung có thể thấy rằng không phải loại hình phạt nào Tòa án cấp phúc thẩm
cũng có thể giảm. Với hình phạt chính, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ giảm được
khi hình phạt chính Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là: tù có thời hạn, cải tạo
không giam giữ hoặc phạt tiền. Với hình phạt bổ sung thì đa số các hình phạt
Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể giảm đó là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số
quyền công dân và phạt tiền khi không là hình phạt chính. Các loại hình phạt
trên đều có đặc điểm chung là được quy định có một thời hạn hoặc giới hạn
nhất định, nhờ đó mà Tòa án cấp phúc thẩm mới có căn cứ và có thể biết
phạm vi mình được giảm hình phạt từ mức nào đến mức nào. Những hình
36
phạt còn lại là cảnh cáo, chung thân, tử hình, trục xuất, tịch thu tài sản, do
không thuộc loại có thể xác định được mức tối thiểu và tối đa nên Tòa án cấp
phúc thẩm không thể xem xét giảm hình phạt được.
Khi xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm phải
tuân thủ các quy định của BLHS về định lượng tối thiểu đối với từng loại hình
phạt, cụ thể như sau:
Điều 30 BLHS quy định: Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính
chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình
hình tài sản của người phạm tội và sự biến động về giá cả nhưng không được
thấp hơn một triệu đồng.
Điều 31 BLHS quy định: Mức hình phạt cải tạo không giam giữ tối
thiểu là sáu tháng.
Điều 33 BLHS quy định: Mức phạt tù có thời hạn đối với người phạm
một tội có thời gian tối thiểu là ba tháng.
Điều 36 BLHS quy định: Thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định có thời gian tối thiểu là một năm.
Điều 37 BLHS quy định: Thời hạn cấm cư trú tối thiểu là một năm.
Điều 38 BLHS quy định: Thời gian quản chế tối thiểu là một năm.
Điều 39 BLHS quy định: Thời hạn tước một số quyền công dân tối
thiểu là một năm.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm cũng không được giảm dưới mức thấp
nhất của khung liền kề trong trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy
định của Bộ luật tại Điều 47 BLHS.
Để đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật, trong vụ án có đồng phạm,
nếu Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho một bị cáo thì có thể xem xét
giảm hình phạt cho cả những bị cáo còn lại không kháng cáo hoặc không bị
kháng cáo kháng nghị.
37
2.2.3. Quyền tăng hình phạt
Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định khi Viện kiểm sát kháng nghị
hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền
sửa hình phạt nặng hơn bằng cách tăng hình phạt. Tăng hình phạt đối với bị
cáo là việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định một mức hình phạt nặng hơn
so với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo trong
cùng một loại hình phạt. Ví dụ: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 02
năm tù giam, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét quyết định tăng hình phạt,
phạt bị cáo 03 năm tù giam.
Muốn tăng hình phạt cho bị cáo thì bản án sơ thẩm phải tuyên phạt bị
cáo một hình phạt nhất định rồi (chứ không phải chưa tuyên hình phạt, hoặc
tuyên miễn hình phạt) thì Tòa án cấp phúc thẩm mới có thể xem xét tăng hình
phạt. Theo thạc sĩ Đinh Văn Quế đã viết:
Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền biến không thành có,
tức là Tòa án cấp sơ thẩm chưa quyết định hình phạt đối với bị cáo
thì dù có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người
bị hại thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không được áp dụng hình phạt
đối với bị cáo, vì như vậy không phải là tăng hình phạt mà là quyết
định hình phạt đối với bị cáo [20, tr.330].
Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng cả hình phạt chính và hình phạt bổ
sung nhưng chỉ được tăng mức hình phạt trong phạm vi loại hình phạt và
trong phạm vi điều khoản bị cáo bị áp dụng.Ví dụ: Toà án cấp sơ thẩm phạt bị
cáo 01 năm cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1
Điều 138 BLHS, xét thấy việc áp dụng Khoản 1 Điều 138 đối với bị cáo là
đúng nhưng mức phạt cải tạo không giam giữ chưa đủ tính răn đe, Toà án cấp
phúc thẩm có thể sửa án tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên trên 01
năm. Đồng thời không được tăng vượt quá 03 năm vì Khoản 1 Điều 138 quy
định bị cáo có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
38
Cũng giống như giảm hình phạt cho bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ
có thể tăng hình phạt cho bị cáo khi loại hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp
dụng đối với bị cáo thuộc loại có thể xác định được mức tối thiểu và tối đa.
Khi áp dụng quy định này Tòa án cấp phúc thẩm cần lưu ý tới phạm vi tối đa
của từng loại hình phạt như sau:
Với hình phạt là phạt tiền, không được tăng quá mức phạt tiền tối đa
được quy định đối với từng loại tội phạm được áp dụng hình phạt này.
Điều 31 BLHS quy định: Mức hình phạt cải tạo không giam giữ đa
là ba năm.
Điều 33, 50 BLHS quy định: Mức phạt tù có thời hạn đối với người
phạm một tội có thời gian tối đa là hai mươi năm; đối với người bị xét xử
nhiều tội cùng một lần thì tổng hợp hình phạt tù có thời hạn không quá ba
mươi năm.
Điều 36 BLHS quy định: Thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định có thời gian tối đa là năm năm.
Điều 37 BLHS quy định: Thời hạn cấm cư trú tối đa là năm năm.
Điều 38 BLHS quy định: Thời gian quản chế tối đa là năm năm.
Điều 39 BLHS quy định: Thời hạn tước một số quyền công dân tối đa
là năm năm.
Thực tế hiện nay các Tòa án phúc thẩm khi sửa bản án sơ thẩm đã thực
hiện chuyển từ án treo sang tù giam cùng với việc giảm hoặc tăng nặng hình
phạt tù cho bị cáo, trong khi Điều 249 không có chỗ nào quy định chuyển từ
án treo sang tù giam. Nguyên nhân của thực trạng này là do TANDTC chưa
có hướng dẫn cụ thể dẫn đến các Tòa án cấp phúc thẩm vẫn hiểu rằng việc
sửa bản án sơ thẩm tăng hay giảm hình phạt cho bị cáo là thực hiện theo Điều
249 BLTTHS, còn việc cho bị cáo hưởng án treo lại là áp dụng Điều 60
BLHS. Theo chúng tôi, cách hiểu và thực hiện như vậy là không đúng.
39
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS là nguyên tắc cơ
bản được quy định đầu tiên, có tính chất bắt buộc đối với mọi hoạt động
TTHS của cơ quan tiến hành tố tụng, là nguyên tắc xuyên suốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuyệt đối tuân thủ.
Do vậy, khi BLTTHS không quy định Tòa án cấp phúc thẩm được chuyển từ
án treo sang tù giam [20, tr.331].
2.2.4. Quyền chuyển hình phạt
2.2.4.1. Quyền chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là việc Tòa án cấp phúc
thẩm chuyển từ áp dụng loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc cao hơn sang
áp dụng loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc ít hơn đối với bị cáo. Ví dụ:
chuyển từ hình phạt tử hình sang tù chung thân, từ tù chung thân sang tù có
thời hạn, hoặc từ tù có thời hạn sang cải tạo không giam giữ. Đây là trường
hợp mới so với quy định của BLTTHS năm 1988. Mức độ nghiêm khắc cao
hơn hay ít hơn của hình phạt được áp dụng đối với bị cáo thể hiện thông qua
việc bị cáo sẽ phải chịu những tổn thất cao hay thấp về các phương diện
quyền, lợi ích, tự do, thậm chí là tính mạng.
Trong hệ thống hình phạt quy định tại Điều 28 BLHS 2003, các nhà
làm luật đã sắp xếp thứ tự các hình phạt chính theo mức độ từ nhẹ đến nặng.
Tuy nhiên đối với các hình phạt bổ sung thì không thể căn cứ vào trật tự sắp
xếp để xác định hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào, và kể cả trong tư duy
chủ quan cũng không thể xác định được loại nào nhẹ hơn loại nào. Chính vì
vậy trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng chuyển sang hình
phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính, không
áp dụng đối với hình phạt bổ sung. Tòa án cấp phúc thẩm không nhất thiết
phải chuyển sang áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn theo đúng thứ tự các hình
phạt được quy định tại Điều 28 BLHS, ví dụ: Bị cáo bị kết án về tội “Đánh
40
bạc” theo Điều 248 BLHS, Tòa án sơ thẩm phạt bị cáo 06 tháng tù giam, xét
thấy có căn cứ Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa án, áp dụng hình phạt tiền,
phạt bị cáo 30.000.000đ, không buộc phải giảm hình phạt xuống hình phạt
nhẹ hơn liền kề là cải tạo không giam giữ.
Riêng hình phạt trục xuất: hiện nay có hai quan điểm khác nhau về mức
độ nặng nhẹ của hình phạt này so với các loại hình phạt khác. Quan điểm thứ
nhất cho rằng tuy trục xuất là hình phạt áp dụng đối với người nước ngoài,
nhưng được sắp xếp tại quy định về hình phạt chính thì phải coi hình phạt trục
xuất nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn cải tạo không giam giữ.
Quan điểm thứ hai cho rằng: không thể coi trục xuất là hình phạt nặng hơn cải
tạo không giam giữ hoặc nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Chúng tôi ủng hộ
quan điểm thứ hai vì các lý do sau đây:
Xét về nhân thân thì người phạm tội luôn thuộc một trong ba đối
tượng: hoặc là người Việt Nam, hoặc là người có quốc tịch nước ngoài, hoặc
là người không có quốc tịch (thường trú hoặc không thường trú ở Việt
Nam). Điều 32 BLHS quy định rõ hình phạt trục xuất được áp dụng đối với
“người nước ngoài bị kết án” và người đó phải cư trú ở Việt Nam. Theo
Điều 3 Luật quốc tịch nước ta năm 2008 thì “người nước ngoài cư trú ở Việt
nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm
trú ở Việt Nam”. Tuy nhiên, bản chất của trục xuất là buộc người bị kết án
phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, và khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì phải
có điểm đến, tức là người bị kết án phải có nước tiếp nhận khi bị buộc rời
khỏi Việt Nam. Đối với người không có quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở
Việt Nam không phải là công dân của quốc gia nào nên sẽ không có nước
tiếp nhận, thì sẽ không áp dụng hình phạt trục xuất, và như vậy có thể hiểu
hình phạt trục xuất được áp dụng đối với công dân nước ngoài. Với tính chất
riêng biệt về đối tượng áp dụng như vậy nên nếu xét trục xuất trong hệ thống
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm

More Related Content

What's hot

Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nayLuận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nayViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luậtnataliej4
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
Luận văn: Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng trê...
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam
 
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Đảm Quyền Khởi Kiện Vụ Án Dân Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Đảm Quyền Khởi Kiện Vụ Án Dân SựLuận Văn Thạc Sĩ Bảo Đảm Quyền Khởi Kiện Vụ Án Dân Sự
Luận Văn Thạc Sĩ Bảo Đảm Quyền Khởi Kiện Vụ Án Dân Sự
 
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nayLuận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tưLuận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
Luận văn: Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) theo Luật Đầu tư
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOTLuận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho phạm nhân ở các trại giam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
 
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong LuậtBáo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
Báo cáo thực tập giữa khóa tại Văn phong Luật
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Đề tài: Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, HAY
Đề tài: Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, HAYĐề tài: Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, HAY
Đề tài: Thủ tục rút gọn giải quyết tranh chấp kinh doanh, HAY
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dựLuận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAYLuận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
Luận án: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 

Similar to Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm

Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt NamHội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt NamDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnhieu anh
 

Similar to Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm (20)

Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt NamHội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Hội đồng xét xử sở thẩm theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
 
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sựLuận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luậtLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Xét xử sơ thẩm của các Tòa án quân sự, HOT
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Tiểu Luận Kết Thúc Học Phần Luật Tố Tụng Dân Sự.docx
Tiểu Luận Kết Thúc Học Phần Luật Tố Tụng Dân Sự.docxTiểu Luận Kết Thúc Học Phần Luật Tố Tụng Dân Sự.docx
Tiểu Luận Kết Thúc Học Phần Luật Tố Tụng Dân Sự.docx
 
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.docChế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
Chế Định Giải Quyết Việc Dân Sự Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam.doc
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễnTranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Tranh tụng trong TTDS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ GIANG THANH QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ GIANG THANH QUYÒN SöA B¶N ¸N S¥ THÈM CñA TßA ¸N PHóC THÈM THEO Bé LUËT Tè TôNG H×NH Sù N¡M 2003 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƯƠNG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Hoàng Thị Giang Thanh
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM.......................................7 1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......7 1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .................................................................................. 12 1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm .......... 13 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 .............................................. 13 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988 .............................................. 14 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 .............................................. 16 1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới................................................................ 17 Chương 2: QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003......................................................................23 2.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh ........................23 2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự ...................................................... 23 2.1.2. Quyền sửa tội danh...........................................................................29 2.2. Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt...............................32 2.2.1. Quyền miễn hình phạt....................................................................... 32
  • 5. 2.2.2. Quyền giảm hình phạt....................................................................... 35 2.2.3. Quyền tăng hình phạt........................................................................37 2.2.4. Quyền chuyển hình phạt ...................................................................39 2.3. Quyền sửa bản án sơ thẩm về các quyết định khác...................... 42 2.3.1. Quyền giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo ............... 42 2.3.2. Quyền sửa về phần bồi thường thiệt hại............................................ 45 2.3.3. Quyền sửa về xử lý vật chứng và các vấn đề khác ............................ 49 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM................. 51 3.1. Những vi phạm, sai lầm của Tòa án phúc thẩm trong thực tiễn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm ....................................................................................... 51 3.1.1. Sửa tội danh không đúng .................................................................. 52 3.1.2. Giảm hình phạt không đúng.............................................................. 54 3.1.3. Tăng hình phạt không đúng .............................................................. 55 3.1.4. Chuyền hình phạt không đúng ..........................................................57 3.1.5. Cho bị cáo hưởng án treo không đúng .............................................. 58 3.1.6. Sửa trách nhiệm dân sự không đúng ................................................. 60 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm...................................61 3.2.1. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật .................................... 61 3.2.2. Giải pháp hướng dẫn áp dụng pháp luật, tổng kết công tác xét xử, xây dựng và công bố án lệ ................................................................ 65 3.2.3. Giải pháp tập huấn nghiệp vụ và công tác cán bộ .............................71 3.2.4. Các giải pháp khác............................................................................ 75 KẾT LUẬN................................................................................................. 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................81
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TTHS: Tố tụng hình sự
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tổng số vụ án hình sự sơ thẩm kháng cáo, kháng nghị bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án 51
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ Đại hội lần thứ VI (năm 1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất nước. Cải cách tư pháp là một đòi hỏi khách quan, cấp thiết để có thể thích ứng với những đổi mới về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị là Nghị quyết quan trọng, đề ra các chủ trương lớn, có tính đột phá nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong cải cách tư pháp. Đã có nhiều quy định của pháp luật ra đời thể chế hóa các quan điểm đổi mới của Đảng, trong đó có BLTTHS năm 1988. Đây là BLTTHS đầu tiên thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI. Sau 15 năm thi hành, mặc dù đã được sửa đổi bổ sung 3 lần, song BLTTHS năm 1988 vẫn có nhiều bất cập, trong đó có những bất cập đối với quy định về Thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Năm 2003, BLTTHS mới được ban hành, tuy đã có những sửa đổi bổ sung song các quy định về thủ tục phúc thẩm nói chung và quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm nói riêng về cơ bản vẫn giống BLTTHS 1988. Do đó, vẫn còn những tồn tại về vấn đề này phát sinh trong thực tiễn mà chưa được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn thi hành. Cụ thể là, quy định về các nội dung của bản án sơ thẩm mà Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa còn chưa đầy đủ, mâu thuẫn với các quy định khác. Thực tế tại các địa phương khác nhau có những ý kiến khác nhau về trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa những nội dung không được quy định trong Điều 249 BLTTHS. Không những thế, hậu quả của việc sửa bản án sơ thẩm còn liên quan tới những vấn đề khác về thẩm quyền xét xử hoặc liên quan tới cả công tác thi hành án hình sự. Vậy cần
  • 9. 2 có nhận thức như thế nào về các nội dung tại Điều 249 BLTTHS, làm thế nào để các sai sót trong bản án hình sự sơ thẩm được sửa chữa khắc phục tại cấp phúc thẩm một cách chính xác, đảm bảo nguyên tắc công bằng và chính sách nhân đạo trong xử lý hình sự? Trong chế định về xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, quyền sửa bản án sơ thẩm là một quyền rất quan trọng của Tòa án cấp phúc thẩm. Nếu không có quyền này, thì khi các bản án sơ thẩm có sai sót sẽ không được sửa chữa khắc phục kịp thời. Nếu bất kì sai sót nào của bản án sơ thẩm cũng bị hủy để xét xử lại hoặc y án để xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm thì sẽ vừa gây tốn kém thời gian, kinh phí, vừa không kịp thời bảo vệ được quyền con người và tạo niềm tin của nhân dân vào pháp luật. Quyền sửa bản án khắc phục được tất cả những điểm hạn chế đó nên cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu nội dung này. Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49/NQ- TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó chỉ rõ nhiệm vụ là: “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp…” và “trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân”. Khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”. Với những lý do trên, cho thấy việc nghiên cứu về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là vấn đề rất cần thiết, góp phần thi hành đúng và thống nhất quy định của Điều 249 BLTTHS và có giải pháp hoàn thiện quy định của BLTTHS về những vấn đề liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi có BLTTHS 1988 ra đời, và sau đó là BLTTHS 2003, các quy
  • 10. 3 định về thủ tục xét xử phúc thẩm là đối tượng nghiên cứu cho nhiều tác giả. Qua khảo sát tình hình nghiên cứu cho thấy đã có nhiều công trình nghiên cứu về thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án, nhưng quyền sửa bản án sơ thẩm mới được giới thiệu và nêu tại các nghiên cứu chung về thủ tục xét xử phúc thẩm, hoặc nghiên cứu chung về quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Các luận án, luận văn nghiên cứu về thủ tục xét xử có: Luận án “Thẩm quyền của Tòa án các cấp theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Văn Huyên năm 2002; luận án “Phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của TS. Nguyễn Đức Mai năm 2004; luận án “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Gia Lâm năm 2008; luận văn “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong Tố tụng hình sự” của Ths. Nguyễn Văn Tiến năm 1997; luận văn “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong Tố tụng hình sự Việt Nam” của Ths. Nguyễn Thị Thu Hồng năm 2010 v.v.. Trước khi có BLTTHS 2003 có một số bài nghiên cứu trên các báo, tạp chí như: Hoàng Thị Sơn “Quyền hạn của Tòa án khi xét xử phúc thẩm” và “Sửa bản án sơ thẩm theo Điều 221 BLTTHS”, tạp chí luật học số 6/1997 và 5/1999; Nguyễn Nông “Về quyền sửa bản án sơ thẩm của tòa án cấp phúc thẩm”, tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1994; Vũ Gia Lâm “Phạm vi xét xử và quyền sửa bản án sơ thẩm”, Tạp chí luật học số 5/2010; “Hoàn thiện một số quy định về xét xử phúc thẩm hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 23/2006; và “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 18/2009. Đinh Văn Quế “Một số vấn đề về sửa bản án sơ thẩm trong xét xử phúc thẩm theo Bộ luật TTHS năm 2003”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2006. Ngoài ra còn được đề cập tới ở một số tài liệu khác như Giáo trình luật TTHS của Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật TTHS của Viện đại học mở… và các sách chuyên khảo về kĩ năng xét xử.
  • 11. 4 Như vậy, nội dung cụ thể về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm chủ yếu là một phần trong các nội dung nghiên cứu về thủ tục phúc thẩm của luận án tiến sĩ hoặc luận văn thạc sĩ. Các nghiên cứu riêng biệt hơn mới chỉ dừng lại ở cấp độ là các nghiên cứu trao đổi trên các báo và tạp chí, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Điều đó càng cho thấy việc nghiên cứu toàn diện về quy định này là rất cần thiết, tạo sự thống nhất trong nhận thức và chính xác trong thực tiễn áp dụng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn bao gồm: - Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quyền sửa bản án sơ thẩm, tìm hiểu quy định này trong lịch sử luật TTHS Việt Nam và pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới; giải thích rõ các quy định của BLTTHS có liên quan đến quyền sửa bản án sơ thẩm, những nội dung của bản án sơ thẩm Tòa án cấp phúc thẩm được quyền sửa; những lưu ý đối với từng nội dung đó. - Phân tích làm rõ những điểm hạn chế, thiếu sót trong quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm, phân tích những tồn tại hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định đó. - Đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đã được đặt ra, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ sau: - Góp phần làm rõ khái niệm chung về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm, rút ra đặc điểm, lịch sử phát triển và so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới. - Phân tích đánh giá sâu từng trường hợp cụ thể về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
  • 12. 5 - Tìm hiểu thực tiễn thi hành quy định quyền sửa bản án sơ thẩm thông qua việc tổng hợp số liệu giải quyết và đánh giá một số bản án sơ thẩm bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa. - Đề ra những giải pháp sửa đổi bổ sung và hoàn thiện quy định pháp luật về quyền sửa bản án sơ thẩm nói riêng và nâng cao hiệu quả quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm; thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS về quyền sửa bản án sơ thẩm; các công trình, bài viết liên quan đến đề tài của luận văn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định có liên quan trong lịch sử phát triển của pháp luật TTHS của nước ta; nghiên cứu pháp luật TTHS của một số nước trên thế giới, và trọng tâm là nghiên cứu quy định tại Điều 249 của BLTTHS Việt Nam năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm và các quy định tại các văn bản pháp luật khác có liên quan. Nghiên cứu cụ thể các nội dung quy định tại Điều 249 trong mối tương quan phù hợp với các văn bản pháp luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự v.v.. Đồng thời, luận văn tổng hợp số liệu và phân tích thực tiễn áp dụng Điều 249 của các Tòa án nhân dân trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp quyền. Các giải pháp luận văn đưa ra được nghiên cứu dựa trên các quan điểm định hướng chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta về cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
  • 13. 6 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, đối chiếu, tổng hợp. Luận văn cũng tiến hành thu thập số liệu thống kê về thực tiễn xét xử phúc thẩm của TANDTC trong những năm gần đây, đồng thời so sánh và giải thích những quan điểm khác nhau đối với các vấn đề có liên quan tới đối tượng nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Đây là luận văn nghiên cứu một cách chuyên sâu về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa trong việc góp phần nhận thức đúng đắn, thống nhất về nội dung của quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn đưa ra các giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn đối với việc hoàn thiện pháp luật TTHS của nước ta trong thời kì mới. Thông qua việc tổng hợp phân tích số liệu xét xử phúc thẩm, luận văn đưa ra được một cái nhìn tổng thể về thực tiễn thi hành quy định về sửa bản án sơ thẩm, góp phần nâng cao hiệu quả thi hành quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm. Luận văn cũng có thể được tham khảo trong việc xây dựng dự án BLTTHS (sửa đổi) 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm. Chương 2: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm.
  • 14. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM 1.1. Khái niệm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc “hai cấp xét xử” đã được đề cập đến ngay trong những văn bản pháp luật đầu tiên là sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, và sau đó lần đầu tiên được chính thức ghi nhận tại Luật tổ chức TAND năm 1960. Phúc thẩm vụ án hình sự là cấp xét xử thứ hai đối với vụ án hình sự, có nhiệm vụ trực tiếp xét xử lại hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Phúc thẩm có vai trò rất quan trọng, một mặt đây là giai đoạn kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật để phát hiện sai sót và kịp thời sửa chữa, mặt khác thông qua việc xem xét lại để kịp thời bảo vệ các lợi ích của Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ có thủ tục phúc thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm buộc phải thận trọng và tuân thủ nghiêm các quy định về tính hợp pháp và có căn cứ pháp luật khi ra bản án hoặc quyết định về vụ án. Tòa án cấp có thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của nước ta là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, bao gồm: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tòa phúc thẩm TANDTC, Tòa án quân sự cấp quân khu và Tòa án quân sự trung ương. Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn nhất định. Quyền ở đây được hiểu là thẩm quyền, là cái mà luật pháp cho phép đối với một tổ chức hoặc cá nhân. Để hiểu khái niệm về Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc
  • 15. 8 thẩm, trước hết chúng ta cần hiểu thế nào là thẩm quyền của của Tòa án cấp phúc thẩm. Theo từ điển luật học thì thẩm quyền của Tòa án là “quyền xem xét để kết luận và định đoạn một vấn đề pháp luật” [27, tr.890]. Như vậy, thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nói riêng phải bao gồm 2 yếu tố cần và đủ là “xem xét” và “kết luận, định đoạt” (quyết định). Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, Tòa án chỉ có thể kết luận và định đoạt sau khi đã tiến hành xem xét, và sau khi xem xét phải đưa ra được kết luận và định đoạt thì việc xem xét mới có ý nghĩa. Tiến sĩ Nguyễn Đức Mai đưa ra khái niệm về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là “toàn bộ các quyền hạn mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét và quyết định các vấn đề cụ thể về các vụ án hình sự do các Tòa án cấp dưới xét xử sơ thẩm, mà bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Theo chúng tôi đây là một khái niệm tương đối đầy đủ và hoàn chỉnh. Khi sửa bản án sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm đã làm cho một phần hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm trở nên khác với ban đầu, hay nói cách khác là làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung và quyết định của bản án sơ thẩm. Như vậy có thể rút ra khái niệm: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm là quyền mà pháp luật dành cho Tòa án cấp trên trực tiếp trong việc xem xét quyết định các vấn đề cụ thể nhằm làm thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án cấp dưới chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. BLTTHS năm 2003 quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: 1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo; b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
  • 16. 9 d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. 2. Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. 3. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại [24, Điều 249]. Qua nghiên cứu quy định trên cho thấy quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được quyền sửa các nội dung của bản án sơ thẩm có sai sót liên quan đến trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, hình phạt, điều luật áp dụng đối với bị cáo, xử lý vật chứng, không sửa các sai sót liên quan đến thủ tục tiến hành tố tụng. Điều này xuất phát từ lý do các sai sót về thủ tục tố tụng là sai sót ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền, lợi ích chính đáng của đương sự và bị cáo, làm cho quá trình xác định sự thật của vụ án không khách quan toàn diện và đầy đủ. Sai sót về thủ tục tố
  • 17. 10 tụng là những gì đã xảy ra không thể lặp lại được nên không thể sửa lại được. Nếu không sai lầm vi phạm nghiêm trọng thì chỉ rút kinh nghiệm, rút ra bài học, nếu là sai lầm, vi phạm nghiêm trọng thì chỉ có thể hủy bản án sơ thẩm để điều tra hoặc xét xử lại. Thứ hai, phạm vi quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm được quy định theo hướng mở rộng quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo, hạn chế quyền sửa bản án theo hướng bất lợi hơn cho bị cáo. Hầu như tất cả các vấn đề liên quan tới trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể xem xét và sửa theo hướng có lợi cho bị cáo. Điều kiện để Tòa án phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng này được quy định khá mở rộng nhưng cũng không quá lỏng lẻo để tránh việc biến cấp phúc thẩm trở thành cấp sơ thẩm thứ hai. Ngoài yêu cầu chung là có kháng cáo kháng nghị (kể cả kháng cáo, kháng nghị theo hướng không có lợi cho bị cáo) thì không có bất kì một hạn chế nào khác trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa phúc thẩm. Ngoại trừ trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt và trường hợp giảm mức bồi thường thiệt hại, các trường hợp khác Tòa án phúc thẩm đều xem xét và áp dụng đối với cả bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. Điều 241 BLTTHS quy định nguyên tắc, “Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị”, tuy nhiên “nếu xét thấy cần thiết thì toà án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Điều 241 BLTTHS không quy định thế nào là trường hợp “cần thiết” và hiện nay cũng chỉ có Thông tư liên ngành số 01- TANDTC-VKSNDTC/TTLN ngày 08/12/1988 của TANDTC và VKSNDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS giải thích “trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Một điểm nữa là Tòa án
  • 18. 11 có thể xem xét sửa bản án sơ thẩm có lợi cho cả bị cáo bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng. Đối với việc sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo, Khoản 3 Điều 249 BLTTHS 2003 quy định rất rõ ràng về giới hạn Tòa án phúc thẩm chỉ được sửa tăng nặng ba vấn đề, đó là: Tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn và tăng mức bồi thường thiệt hại. Điều kiện để được sửa theo hướng này cũng bị ràng buộc với nhiều yêu cầu chặt chẽ hơn như: Nội dung kháng cáo, kháng nghị phải có yêu cầu Tòa án xem xét tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo; Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát không được thay đổi nội dung kháng cáo kháng nghị làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; Mặt khác nếu người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo kháng nghị vắng mặt tại phiên tòa có lý do chính đáng thì Tòa án có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Đặc biệt, Tòa án phúc thẩm không xem xét tăng nặng đối với bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. Quy định trên buộc người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát phải thận trọng trong việc kháng cáo hoặc kháng nghị, buộc Tòa án cấp phúc thẩm phải thận trọng trong việc quyết định sửa án sơ thẩm theo hướng bất lợi. Thứ ba, Tòa án cấp phúc thẩm không sửa bản án sơ thẩm từ tuyên bố bị cáo không có tội thành có tội. Xuất phát từ nguyên tắc chung là “bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”, việc Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo không có tội thành có tội sẽ làm mất đi quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới bị tuyên trong bản án phúc thẩm.
  • 19. 12 Tóm lại, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm là một quy định rất quan trọng. Tòa án cấp phúc thẩm làm thay đổi các nội dung của bản án hình sự sơ thẩm có sai sót để kịp thời sửa chữa khắc phục sai lầm trong công tác xét xử, kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và đương sự, đồng thời góp phần hạn chế tình trạng oan sai trong xử lý hình sự. 1.2. Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Điều kiện làm phát sinh quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm chính là có kháng cáo hoặc kháng nghị hợp pháp theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Kháng cáo là việc những người tham gia tố tụng do pháp luật tố tụng quy định đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết định của tòa án cấp sơ thẩm đang trong thời hạn kháng cáo nhằm bảo đảm cho họ có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tòa án xử lí vụ án [13, tr.192]. Theo quy định tại Điều 231 BLTTHS và Nghị quyết số 05/2005/NQ- HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS, chủ thể có quyền kháng cáo gồm có: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo; người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện hợp pháp của họ; người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội. Thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 234 BLTTHS: Đối với những người có mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc
  • 20. 13 phản đối toàn bộ hay một phần nội dung bản án, quyết định của Toà án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án [27, tr.418]. Chủ thể có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật là Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp với Toà án đã ra bản án sơ thẩm. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 1.3. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2003 về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án phúc thẩm Lịch sử pháp luật TTHS nước ta trong từng giai đoạn có những quy định khác nhau về quyền sửa bản án sơ thẩm. 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 Ngay sau khi giành được chính quyền, đáp ứng nhu cầu cấp bách của xã hội, nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945, sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946.... quy định việc thành lập Tòa án quân sự và thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 và sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 nêu rõ việc phân định thẩm quyền của Tòa án quân sự, trong đó đối với các vụ án hình sự thì Tòa án sơ cấp vừa có thẩm quyền xử sơ thẩm và chung thẩm, Tòa án đệ nhị cấp có thẩm quyền xử chung thẩm những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo, Tòa thượng thẩm có thẩm quyền xử chung thẩm những án kháng cáo sơ thẩm của Tòa đệ nhị cấp. Riêng đối với các vụ án phản cách mạng hoặc vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự thì giai đoạn 1946 - 1957 không xét xử đến cấp thứ hai, bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật và được thi hành ngay (sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 và sắc lệnh số 156/SL ngày 17/11/1950).
  • 21. 14 Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chính phủ ra nghị định số 300/TTg ngày 14/8/1959 thiết lập lại hệ thống Tòa án, và khi đó Tòa án cấp phúc thẩm được chia tại 3 khu vực: Tại Hà Nội, Hải Phòng và Vinh, có nhiệm vụ xét xử lại các vụ án hình sự sơ thẩm bị kháng cáo kháng nghị. Sau Nghị định 331/TTg ngày 20/10/1959, TAND tách khỏi Bộ tư pháp và Tòa án tối cao được thành lập “có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm.... những vụ án do tòa án cấp dưới xét xử trong trường hợp có kháng nghị của cơ quan công tố”. Với đặc điểm tình hình đất nước có chiến tranh, bị chia cắt hai miền Nam Bắc nên trong giai đoạn này có khá nhiều văn bản pháp luật về TTHS được ban hành, tuy nhiên chủ yếu là các văn bản điều chỉnh về thiết lập và hoàn thiện hệ thống Tòa án nhân dân và thẩm quyền chung của các Tòa án. Hệ thống văn bản TTHS không có quy định nào xác định cụ thể khi xét xử phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm có thẩm quyền sửa đổi nội dung gì của bản án sơ thẩm. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1988 Luật tổ chức TAND 1960 ra đời, sau đó là Pháp lệnh tổ chức TANDTC, Pháp lệnh tổ chức TAND địa phương, Điều lệ tổ chức của Tòa án các cấp trong khu tự trị Việt Bắc và Tây Bắc. Điều 9 Luật tổ chức TAND 1960 quy định rõ “Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử”, trên cơ sở đó nhà nước ban hành nhiều văn bản có quy định về phúc thẩm trong TTHS. Thông tư 03/NCPL ngày 19/5/1967 của TANDTC là văn bản đầu tiên quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ thẩm có kháng cáo kháng nghị. Theo đó Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, kể cả đối với người không có kháng cáo hoặc kháng nghị. Thông tư này đã đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết trong hoàn cảnh
  • 22. 15 pháp luật tố tụng nước ta còn thiếu và có tác dụng giúp công tác xét xử phúc thẩm tiến hành thuận lợi, nhưng qua một thời gian áp dụng đã bộc lộ nhược điểm là làm cho công tác xét xử phúc thẩm trở nên nặng nề. Rút kinh nghiệm, TANDTC đã ban hành thông tư số 19-TATC ngày 02/10/1974 kèm theo bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự, quy định đầy đủ và hợp lý hơn về thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong việc xét lại bản án sơ thẩm. Về quyền sửa bản án sơ thẩm, thông tư đã quy định rất rõ ràng và cụ thể. Các quyền mà Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa bản án bao gồm: Tòa án cấp phúc thẩm có thể tha miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Về hình phạt: Có thể tha miễn hình phạt cho bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo nếu nhận định bản án sơ thẩm đã tuyên hình phạt quá nặng; Về tội danh: Có thể tuyên bố bị cáo vô tội nếu xét thấy bản án sơ thẩm kết tội bị cáo không có căn cứ, có thể xác định lại tội danh nhẹ hơn so với tội danh Tòa án sơ thẩm đã tuyên. Trong vụ án có cộng phạm có thể giải quyết cả cho bị cáo khác tuy không có kháng cáo kháng nghị. Tòa án được sửa bản án theo hướng làm bất lợi cho bị cáo với các trường hợp: có thể kết tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo đã được bản án sơ thẩm tuyên vô tội hoặc tha miễn trách nhiệm hình sự, tha miễn hình phạt; có thể xử tội danh nặng hơn, tăng nặng hình phạt. Đối với bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng nghị về phần hình phạt thì vấn đề sửa bản án sơ thẩm theo hướng nặng hơn không đặt ra. Tuy nhiên Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể sửa tội danh và hình phạt trong một số trường hợp cụ thể như: có thể xử tội danh nặng hơn nếu tại phiên tòa chính bị cáo cũng thừa nhận tội danh nặng hơn, có thể bổ sung thêm hình phạt phụ vào hình phạt chính mà hình phạt chính vẫn được giữ nguyên v.v.. Ngoài ra cũng có thể sửa về bồi thường thiệt hại và xử lý tang vật [31, tr. 224-227].
  • 23. 16 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 Bộ luật TTHS 1988 ra đời trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, đánh dấu bước ngoặt quan trọng. Đây là Bộ luật đầu tiên quy định cụ thể, chi tiết thẩm quyền của Tòa án, trình tự tố tụng trong xét xử vụ án hình sự, trong đó có quy định chi tiết về các trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm tại Điều 221. Điều luật quy định rất rõ ràng hai trường hợp Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm, cụ thể: 1-Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho bị cáo; b) Áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn; c) Giảm hình phạt cho bị cáo; d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng. 2- Nếu có căn cứ, Toà án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. 3- Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự; nếu có căn cứ, Toà án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn và giảm mức bồi thường thiệt hại [23, Điều 221]. BLTTHS 1988 sau đó đã được sửa đổi bổ sung ba lần (tháng 7/1990, tháng 12/1992 và tháng 6/2000) và đến năm 2003 BLTTHS mới được ban hành. Mặc dù quá trình thi hành Bộ luật cũ đã nảy sinh nhiều vướng mắc bất cập, nhưng về cơ bản quyền sửa bản án sơ thẩm tại BLTTHS năm 2003 vẫn
  • 24. 17 được quy định trên cơ sở kế thừa quy định tại BLTTHS năm 1988, gần như không thay đổi nhiều, chỉ bổ sung thêm trường hợp: “chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo”. Nhìn lại quá trình phát triển của pháp luật TTHS nước ta từ năm 1945 đến năm 2003 có thể thấy rõ sự linh hoạt trong việc lựa chọn xu hướng điều chỉnh thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm trong từng thời kì. Giai đoạn 1967- 1974, thực hiện theo thông tư số 03-NCPL ngày 19/5/1967, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại toàn bộ vụ án và xem xét đối với cả người không kháng cáo hoặc bị kháng nghị. Sau khi thông tư 19-TATC ngày 02/10/1974 ra đời thì thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm được điều chỉnh thu hẹp, chỉ xem xét lại vụ án trong phạm vi kháng cáo kháng nghị yêu cầu, có mở rộng xem xét theo hướng có lợi đối với bị cáo đồng phạm khác tuy không có kháng cáo kháng nghị. Xét xử phúc thẩm là giai đoạn thể hiện rõ nét nhất tính nhân đạo của chính sách hình sự, có nhiệm vụ kịp thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo, vì vậy việc hạn chế làm xấu hơn tình trạng của bị cáo là điều cần thiết. Ngày nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong pháp luật TTHS của nhiều quốc gia và được coi là một yêu cầu đặc trưng của thủ tục phúc thẩm trong TTHS. Quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật TTHS của nước ta từ năm 1960 trở lại đây và nhất là quy định tại BLTTHS năm 2003 cũng chịu ảnh hưởng và được phát triển dựa trên nguyên tắc trên. 1.4. Quyền sửa bản án sơ thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, pháp luật của các nước trên thế giới quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm theo hai xu hướng. Một số nước điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm (phúc thẩm mở rộng), ngược lại một số nước lại điều chỉnh thu hẹp thẩm quyền này (phúc
  • 25. 18 thẩm thu hẹp). Phúc thẩm mở rộng không hạn chế quyền xem xét quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm đối với bản án bị kháng cáo kháng nghị theo bất cứ hướng nào. Ngược lại, phúc thẩm thu hẹp hạn chế phạm vi xem xét kháng cáo kháng nghị để không biến cấp phúc thẩm thành cấp sơ thẩm thứ hai [5, tr. 39-42]. Mỗi xu hướng đều có những ưu nhược điểm riêng, việc các quốc gia lựa chọn xu hướng điều chỉnh nào đều phải căn cứ vào chế độ chính trị, mô hình tố tụng và chính sách hình sự của quốc gia mình. Qua nghiên cứu cho thấy dù đi theo xu hướng nào, quy định về quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm trong pháp luật TTHS của đa số các nước đều có đặc trưng là không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và mở rộng quyền sửa bán án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Luật TTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung hoa, được Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thông qua ngày 01 tháng 7 năm 1979, và được sửa đổi theo Quyết định sửa đổi Luật TTHS của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 17 tháng 3 năm 1996 (sau đây gọi là luật TTHS Trung Quốc). Luật TTHS của Trung Quốc có cấu trúc tương tự như luật TTHS của Việt Nam, cũng quy định nguyên tắc hai cấp xét xử. Đây là Bộ luật điển hình cho xu hướng điều chỉnh mở rộng thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xem xét bản án sơ thẩm. Khi vụ án có kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì: Toà án cấp phúc thẩm phải tiến hành xem xét toàn diện các tình tiết và áp dụng pháp luật trong bản án sơ thẩm và không được giới hạn phạm vi kháng cáo, kháng nghị. Nếu chỉ có một số bị cáo trong vụ án đồng phạm kháng cáo thì vẫn xem xét giải quyết toàn bộ vụ án [42, Điều 186]. Đối với thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm, Khoản 2, 3 Điều 189 quy định:
  • 26. 19 Nếu phán quyết ban đầu không có sai sót trong việc xác định các tình tiết nhưng áp dụng pháp luật không chính xác hoặc hình phạt không phù hợp, Toà án phải sửa bản án và nếu những tình tiết trong phán quyết ban đầu không rõ ràng hoặc chứng cứ không đầy đủ, Toà án có thể sửa đổi bản án sau khi điều tra rõ sự việc… [42]. Luật TTHS Trung Quốc cũng hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, Điều 190 quy định: Khi xét xử những vụ án có kháng cáo của bị cáo hoặc của người đại diện theo pháp luật, người bào chữa hoặc họ hàng thân thích của họ, Toà án cấp phúc thẩm có thể không tăng hình phạt đối với bị cáo. Những hạn chế quy định tại khoản trên sẽ không được áp dụng đối với những vụ án có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân hoặc kháng cáo của tư tố viên [42]. Bộ luật TTHS Liên bang Nga (được Đuma Quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 05 tháng 12 năm 2001) được điều chỉnh theo hướng phúc thẩm thu hẹp. Bộ luật quy định các quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật có thể bị các bên kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục chống án hoặc thủ tục phúc thẩm, ở đây luận văn sẽ để cập đến thủ tục phúc thẩm. Điều 360 quy định phạm vi xét xử vụ án hình sự của Toà án cấp phúc thẩm: Khi giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm Toà án có quyền giảm hình phạt cho người bị kết án hoặc áp dụng luật hình sự về tội nhẹ hơn nhưng không có quyền tăng nặng hình phạt, áp dụng luật hình sự về tội nặng hơn. Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa đổi bản án kết tội cũng như bản án tuyên vô tội theo hướng áp dụng luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng nặng hình phạt trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 383 và Điều 385 Bộ luật này [42].
  • 27. 20 Như vậy Bộ luật cũng quy định hạn chế việc Tòa án phúc thẩm sửa hoặc hủy bản án theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, và không hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Căn cứ sửa bản án sơ thẩm được quy định tại Điều 379 bao gồm: 1) Kết luận của Toà án nêu trong bản án không phù hợp với những tình tiết thực tế của vụ án được Toà án cấp sơ thẩm hoặc cấp chống án xác định; 2) Vi phạm luật tố tụng hình sự; 3) Áp dụng không đúng luật hình sự; 4) Không bảo đảm tính công bằng của bản án.” Điều 387 quy định: Trong trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 382 Bộ luật này, Toà án cấp phúc thẩm có quyền áp dụng luật hình sự về tội nhẹ hơn và giảm hình phạt phù hợp với việc thay đổi tội danh đối với người bị kết án. Trong trường hợp này Toà án cấp phúc thẩm không có quyền áp dụng luật hình sự về tội nặng hơn hoặc tăng nặng hình phạt [42]. Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp cũng quy định hạn chế việc sửa án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo, mở rộng tối đa quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo. Hệ thống Tòa án hình sự của Pháp gồm có Tòa đại hình (xét xử những các tội phạm có độ nguy hiểm cao, khung hình phạt trên 06 năm tù) và Tòa tiểu hình. Trước năm 2000, các phán quyết của Tòa đại hình có tính chất chung thẩm, không bị kháng cáo kháng nghị. Từ khi ra đời của Luật 15 tháng 6 năm 2000, các phán quyết của Tòa đại hình có thể bị kháng cáo và được xem xét lại ở một Tòa đại hình khác. Liên quan tới sửa phán quyết sơ thẩm, Điều 380-3 BLTTHS Pháp quy định: “Toà đại hình, khi giải quyết việc truy tố dựa trên kháng cáo, không thể ấn định một hình phạt nghiêm khắc hơn đối với bị cáo khi chỉ có bị cáo kháng cáo” [42].
  • 28. 21 BLTTHS Pháp quy định: Toà đại hình xét xử một vụ kiện dân sự có kháng cáo không thể làm xấu đi tình trạng của bị cáo nếu đó là bị cáo, người chịu trách nhiệm theo luật dân sự hoặc bên dân sự đã kháng cáo duy nhất. Bên dân sự không được quyền đưa ra những đòi hỏi mới trong kháng cáo. Tuy nhiên, họ có thể đòi hỏi tăng mức thiệt hại phải chịu từ lần phán quyết đầu tiên. Thậm chí khi không có kháng cáo đối với phán quyết trong vụ kiện dân sự, nạn nhân được ghi trong hồ sơ là bên dân sự ở cấp sơ thẩm có thể thực hiện các quyền dành cho bên dân sự trước toà đại hình thụ lý kháng cáo cho đến khi kết thúc tố tụng. Người này cũng có thể yêu cầu áp dụng các quy định của đoạn này cũng như của điều 375 [42, Điều 380-6]. Đối với các kháng cáo phán quyết của Tòa tiểu hình thì được xét xử phúc thẩm tại Tòa tiểu hình phúc thẩm. BLTTHS Pháp quy định: Nếu Viện Công tố kháng nghị, Tòa tiểu hình phúc thẩm có thể giữ nguyên bản sơ thẩm hoặc sửa toàn bộ hoặc một phần theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo. (Luật số 83-608 ngày 8-7-1983) Nếu chỉ có kháng cáo của bị cáo, của người phải chịu trách nhiệm dân sự, của nguyên đơn dân sự hoặc của người bảo hiểm của một trong những người nêu trên thì Tòa án không thể quyết định theo hướng tăng hình phạt đối với người kháng cáo. Khi kháng cáo, nguyên đơn dân sự không thể nếu bất cứ yêu cầu gì mới; tuy nhiên, nguyên đơn dân sự có thể yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại phải chịu từ khi có quyết định sơ thẩm [42, Điều 515]. BLTTHS của Nhật Bản hiện tại được ban hành năm 1948 quy định trong vụ án hình sự bị cáo và bên công tố được kháng cáo lên Tòa án cấp trên. Kháng
  • 29. 22 cáo lần đầu (kháng cáo koso) được trình lên Tòa án phúc thẩm và giải quyết theo thủ tục phán quyết nhanh. Điều 402 quy định. “Liên quan đến vụ án do bị cáo hoặc người thay mặt bị cáo kháng cáo Koso, không được tuyên hình phạt nặng hơn so với phán quyết ban đầu”. Kháng cáo thứ hai (kháng cáo jokoku) được trình lên Tòa án tối cao. Điều 415 quy định “Toà án cứu cánh cuối cùng có thể, khi phát hiện ra các sai lầm trong nội dung phán quyết, cải sửa chúng bằng một phán quyết theo đơn của công tố viên, bị can, hoặc người bào chữa”, và “Phán quyết cải sửa được ban hành không cần tranh luận” [42].
  • 30. 23 Chương 2 QUYỀN SỬA BẢN ÁN SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN PHÚC THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 2.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự và sửa tội danh 2.1.1. Quyền miễn trách nhiệm hình sự Theo TS. Trịnh Tiến Việt, dưới góc độ khoa học pháp lý thì: Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội [39, tr. 97]. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã có đủ dấu hiệu cấu thành một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS, lẽ ra họ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng do có những sự kiện nhất định họ không bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự nữa, và việc không buộc họ phải chịu trách nhiệm hình sự vẫn bảo đảm được các yêu cầu của đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như răn đe người khác phạm tội. Theo quy định của BLHS hiện hành, khi bản án sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, phải chịu hoặc không phải chịu hình phạt, xét thấy việc buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là chưa đúng, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. 2.1.1.1. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 BLHS Khi tiến hành xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có thể miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nếu do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Sự chuyển biến của tình hình được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP
  • 31. 24 ngày 05/01/1986, tuy nhiên đây là hướng dẫn thi hành BLHS năm 1985, đó là sự chuyển biến về “chính trị, kinh tế, xã hội”. Việc miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong trường hợp này không phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan, tức là không phụ thuộc vào việc bị cáo có những hành động làm cho hành vi của mình hoặc bản thân mình không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, mà cơ sở của trường hợp này là do các yếu tố khách quan (sự chuyển biến của tình hình) làm cho chính hành vi của bị cáo hoặc chính bản thân bị cáo không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, tức là: vào thời điểm một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì hành vi đó bị coi là tội phạm, nhưng sau khi khởi tố điều tra, truy tố hoặc xét xử, tình hình xã hội thay đổi và nếu đặt hành vi cũ vào hoàn cảnh mới thì hành vi đó không còn nguy hiểm nữa. Khi hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, người thực hiện hành vi có thể phải chịu các hình thức xử lý khác (phạt tiền, kỷ luật, cảnh cáo…) mà không phải chịu trách nhiệm hình sự. Cơ sở xác định sự chuyển biến tình hình chính là sự thay đổi về chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ví dụ: Người có hành vi trộm cắp tài sản trị giá 1.500.000đ theo BLHS năm 1999 bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng tại thời điểm xét xử BLHS năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 có hiệu lực thì hành vi đó không bị coi là tội phạm và bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự, do BLHS sửa đổi năm 2009 đã nâng giá trị tài sản trộm cắp được nâng lên 2.000.000đ. Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, tức là trước khi có sự chuyển biến của tình hình người đó là phần tử nguy hiểm cho xã hội, đáng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mình đã thực hiện. Tuy nhiên tại thời điểm bị điều tra, truy tố hoặc xét xử, cùng với sự chuyển biến của tình hình thì người này không
  • 32. 25 còn là phần tử nguy hiểm cho xã hội nữa, không cần thiết phải xử lý trách nhiệm hình sự đối với họ. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự do các yếu tố khách quan tác động dẫn đến bản thân người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, không còn khả năng thực hiện tội phạm nữa, chứ không phải là do các yếu tố chủ quan của người phạm tội (như họ bị bệnh rất nặng hoặc có thành tích đặc biệt trong chiến đấu hoặc sản xuất…) Ví dụ: Một người sau khi phạm tội bị tai nạn liệt toàn thân hoặc phải sống cuộc sống thực vật, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự [39, tr. 137]. 2.1.1.2. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 BLHS Bị cáo có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi đáp ứng đủ các điều kiện: Thứ nhất, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, bị cáo đã tự thú. Khi áp dụng quy định này chúng ta cần phân biệt để tránh nhầm lẫn giữa hai khái niệm “tự thú” và “đầu thú”. “Tự thú” được hiểu là sau khi thực hiện hành vi phạm tội mặc dù chưa có cá nhân tổ chức nào phát hiện nhưng bị cáo không trốn tránh và đã chủ động khai báo về hành vi phạm tội mình đã gây ra. Ngược lại, “Đầu thú” là trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã bị phát giác, bị cáo biết mình không thể trốn tránh được nên chủ động ra trình diện. Thứ hai, khi tự thú bị cáo phải khai rõ sự việc phạm tội, không che giấu bất kỳ tình tiết nào. Những thông tin bị cáo cung cấp giúp ích cho cơ quan điều tra trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ tội phạm. Khi áp dụng điều kiện này Tòa án cấp phúc thẩm thường có sự nhầm lẫn với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm q Khoản 1 Điều 46 BLHS là “Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm”. Cả hai tình tiết trên đều xét tới các hành động tích cực của người phạm tội như: người phạm tội đã khai rõ sự việc, hoặc cung cấp các thông tin, về đồng phạm, tang vật, cung cấp tài liệu, bằng chứng… v.v.. những hành động đó có
  • 33. 26 ý nghĩa tích cực giúp cơ quan chức năng nhanh chóng phát hiện điều tra tội phạm. Nhưng các hành động trên nếu đi kèm yếu tố “tự thú” thì bị cáo sẽ được xét miễn trách nhiệm hình sự, và nếu không có yếu tố “tự thú” thì đây chỉ là tình tiết để xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Thứ ba, cùng với việc tự thú thì bị cáo đã chủ động cố gắng hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, và kết quả là thiệt hại đã không xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng không đáng kể. Có thể nhận thấy, bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này hoàn toàn do những hành vi chủ quan tích cực của bị cáo. Đây là sự thể hiện chính sách nhân đạo trong xử lý hình sự, Nhà nước ta hướng người phạm tội thực hiện các hành vi tích cực để được hưởng sự khoan hồng. 2.1.1.3. Miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Khoản 3 Điều 25 BLHS Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá. Theo từ điển Luật học thì “đại xá” là việc miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt, hoặc thay hình phạt đã tuyên bằng một hình phạt nhẹ hơn đối với một loại phạm nhân nhất định. Thẩm quyền ban hành quyết định đại xá thuộc về Quốc hội, cơ sở để ban hành quyết định đại xá là trong dịp có sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng của đất nước. Quyết định đại xá có đối tượng áp dụng là hành vi phạm tội, có hiệu lực đối với những hành vi được nêu trong quyết định và xảy ra trước khi ban hành quyết định đại xá. Nếu hành vi đã bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì không được coi là có án tích. Khi miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội trong trường hợp này cần lưu ý với khái niệm “đặc xá”, “đặc xá” là miễn toàn bộ hay một phần hình phạt hoặc giảm nhẹ hình phạt, kể cả miễn trách nhiệm hình sự hoặc xóa án đối với một hay một số người nhất định. Chủ tịch nước có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định đặc xá. Quyết định đặc xá có đối tượng áp dụng là các phạm nhân bị
  • 34. 27 kết án tù có thời hạn, hoặc tù chung thân nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước. Người được đặc xá vẫn bị coi là có án tích [27, tr.146-147]. 2.1.1.4. Miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo quy định tại Điều 19 BLHS Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là “tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản”. Khi tội phạm mới được thực hiện nửa chừng thì bị cáo đã chấm dứt không thực hiện đến cùng. Việc bị cáo chấm dứt thực hiện hành vi phạm tội là hoàn toàn tự nguyện, do bản thân bị cáo quyết định, không bị điều gì ngăn cản hay bị ai thúc ép, dứt khoát chấm dứt không thực hiện tội phạm đến cùng. Quá trình áp dụng quy định này cần lưu ý về ý chí chủ quan của bị cáo là phải chấm đứt thực hiện tội phạm đến cùng, chứ không phải chấm dứt để chờ thời cơ thực hiện tội phạm khác, hay chấm dứt để chuẩn bị công cụ phương tiện tiếp tục phạm tội khi đủ điều kiện thuận lợi. 2.1.1.5. Miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Khoản 2 Điều 69 BLHS Đối với bị cáo là người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau: Thứ nhất, hành vi của bị cáo thuộc trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn. Khoản 2 Điều 69 BLHS quy định không rõ ràng nên dẫn đến một số hiểu nhầm là bị cáo chưa thành niên phạm một trong hai loại tội là “tội ít nghiêm trọng” và “tội nghiêm trọng, gây hại không lớn”. Thực tế không có loại tội phạm nào là “tội nghiêm trọng” nhưng lại “gây hại không lớn”, và việc sử dụng cụm từ “gây hại không lớn” cũng không thống nhất với cụm từ “gây thiệt hại không lớn” được sử dụng tại một số điều luật khác. Quá trình nghiên cứu BLHS cần sửa đổi quy định này sao cho đồng nhất và tránh gây hiểu nhầm.
  • 35. 28 Thứ hai, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, được hiểu là có từ hai tình tiết trở lên. Khoản 2 Điều 69 BLHS không quy định rõ ràng nên các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 46 BLHS đều được tính. Thứ ba, bị cáo được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Đây là điều kiện đảm bảo khả năng người phạm tội là người chưa thành niên được giám sát, giáo dục, trở thành công dân tốt cho xã hội. 2.1.1.6. Miễn trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp khác Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với một số loại tội phạm khi có các điều kiện cụ thể như: Tội gián điệp (Khoản 3 Điều 80 BLHS): Người đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo. Tức là người phạm tội đã nhận nhiệm vụ thực hiện một trong số các hành vi quy định tại Khoản 1 Điều 80 BLHS cho nước ngoài, nhưng đã không thực hiện và ra tự thú, thành khẩn khai báo mọi tình tiết. Tội đưa hối lộ (Khoản 6 Điều 289 BLHS): Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác. Tức là người phạm tội sau khi thực hiện hành vi đưa hối lộ đã tự nguyện, tự giác khai nhận hành vi phạm tội của mình với cơ quan chức năng, mặc dù hành vi chưa bị phát giác và cũng không bị ai ép buộc về việc khai báo. Tội môi giới hối lộ (Khoản 6 Điều 290 BLHS): Người môi giới hối lộ chủ động khai báo trước khi bị phát giác. Tương tự như người đưa hối lộ, người môi giới hối lộ được miễn trách nhiệm hình sự nếu sau khi phạm tội họ đã chủ động đến khai báo về hành vi của mình mặc dù hành vi chưa bị phát giác. Tội không tố giác tội phạm (Khoản 3 Điều 314 BLHS): Người không tố giác tội phạm đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm. Người không tố giác tội phạm phải có hành động khuyên
  • 36. 29 bảo, ngăn cản người phạm tội, hoặc kịp thời có biện pháp xử lý để hạn chế tác hại của tội phạm. 2.1.2. Quyền sửa tội danh 2.1.2.1. Quyền áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn Trong giai đoạn phúc thẩm, nếu xét thấy bản án sơ thẩm áp dụng một điều khoản về tội nặng hơn đối với bị cáo, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đáng lẽ chỉ phải áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm. Áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn bao gồm hai trường hợp. Thứ nhất là chuyển từ áp dụng điều luật về tội danh nặng xuống tội danh khác nhẹ hơn, ví dụ: Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Giết người” theo Khoản 2 Điều 93 BLHS, cấp phúc thẩm sửa án tuyên bị cáo phạm tội “Giết người trong trại thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Khoản 1 Điều 95 BLHS. Thứ hai là chuyển từ áp dụng khoản có khung hình phạt nặng xuống áp dụng khoản có khung nhẹ hơn trong cùng một điều luật. Ví dụ: Tòa án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm d Khoản 2 Điều 138 BLHS do bị cáo dùng thủ đoạn xảo quyệt. Tòa án cấp phúc thẩm xác định hành vi của bị cáo không phải dùng thủ đoạn xảo quyệt và sửa án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 BLHS Để xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn, khoản có khung hình phạt nặng hơn và khoản có khung hình phạt nhẹ hơn phải căn cứ vào các yếu tố quy định tại Điều 8 BLHS gồm: tính chất nguy hiểm cho xã hội (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng), mức độ nguy hiểm (gây nguy hại không lớn, gây nguy hại lớn, rất lớn và đặc biệt lớn) và mức cao nhất của chế tài áp dụng đối với tội phạm (đến ba năm, đến bảy năm, đến mười lăm năm, trên mười lăm năm, tù chung thân hoặc tử hình). Tại Mục 2 Phần II Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004
  • 37. 30 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Xét xử sơ thẩm” của BLTTHS 2003, hướng dẫn về cách xác định mức độ nặng nhẹ của các tội phạm như sau: Trước hết xem xét hình phạt chính đối với hai tội phạm, nếu tội nào điều luật có quy định loại hình phạt nặng nhất nặng hơn thì tội đó nặng hơn. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội là tù có thời hạn (không quy định hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân) thì tội nào, điều luật quy định mức hình phạt tù cao nhất đối với tội ấy cao hơn là tội đó nặng hơn. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều tử hình hoặc đều tù chung thân hoặc đều tù có thời hạn và mức hình phạt tù cao nhất đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật quy định mức hình phạt tù khởi điểm cao hơn là tội đó nặng hơn. Trong trường hợp điều luật quy định loại hình phạt nặng nhất đối với cả hai tội đều là tù có thời hạn và mức hình phạt tù khởi điểm, mức hình phạt tù cao nhất như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định loại hình phạt chính khác nhẹ hơn (cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo) thì tội đó nhẹ hơn. Nếu điều luật cùng quy định các loại hình phạt như nhau, nhưng có mức cao nhất, mức khởi điểm khác nhau thì việc xác định tội nặng hơn, tội nhẹ hơn được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại các Điểm b.2 và b.3 tiểu mục 2.2 mục 2 Phần II của Nghị quyết này. Trong trường hợp điều luật quy định các loại hình phạt chính đối với cả hai tội như nhau, thì tội nào điều luật còn quy định hình phạt bổ sung là tội đó nặng hơn. Nếu điều luật cùng quy định hình phạt bổ sung như nhau, nhưng đối với tội này thì hình phạt bổ sung là bắt buộc, còn đối với tội khác hình phạt bổ sung có thể áp dụng, thì tội nào điều luật quy định hình phạt bổ sung bắt buộc là tội đó nặng hơn [6].
  • 38. 31 Tòa án cấp phúc thẩm chỉ áp dụng quy định này khi vụ án đã được điều tra đầy đủ, không có sai phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và Tòa án sơ thẩm sai sót do nhận định không đúng tính chất và mức độ hành vi, chưa xác định đúng động cơ mục đích phạm tội hoặc sai lầm trong nhận thức về các tình tiết định khung. Việc áp dụng điều khoản về tội nhẹ hơn thường bao gồm cả việc thêm hoặc bớt một số tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng tại Điều 46 và 48 BLHS. Và khi đã tuyên bố bị cáo phạm một tội nhẹ hơn thì thông thường sẽ kèm theo việc giảm hình phạt cho bị cáo hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn. Trong vụ án có đồng phạm thì quy định này có thể được áp dụng cho cả bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. 2.1.2.2. Quyền áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn Ngược lại với việc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, khi Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo có yêu cầu, thì căn cứ vào Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn. Áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn bao gồm hai trường hợp. Thứ nhất là chuyển từ áp dụng điều luật về tội danh nhẹ hơn sang áp dụng điều luật về tội danh nặng hơn trong giới hạn truy tố của Viện kiểm sát. Thứ hai là chuyển từ áp dụng khoản có hình phạt nhẹ sang áp dụng khoản có hình phạt nặng hơn trong cùng một điều luật. Khi áp dụng quy định BLHS về tội nhẹ hơn, Tòa án cấp phúc thẩm không bị hạn chế việc sửa bản án sơ thẩm từ tội danh nặng thành tội danh nhẹ bởi nội dung này phù hợp với Điều 196 BLTTHS quy định về giới hạn của việc xét xử là: “Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”. Tương tự như vậy, khi sửa án sơ thẩm bằng hình thức áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn,
  • 39. 32 việc sửa tội danh từ tội danh nhẹ sang tội danh nặng hơn theo chúng tôi cũng phải nằm trong giới hạn Viện kiểm sát truy tố. Tòa án cấp phúc thẩm không được phép sửa bản án sơ thẩm chuyển từ tội danh nhẹ sang tội danh khác nặng hơn vượt quá phạm vi của bản cáo trạng đã truy tố bị cáo, bởi lẽ như vậy là vi phạm nguyên tắc đã được quy định tại Điều 196 BLTTHS, hơn nữa việc này còn làm mất quyền kháng cáo của bị cáo đối với tội danh mới nặng hơn, vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đối với những quyết định bất lợi hơn. Ví dụ: Tại cấp sơ thẩm, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Giết người” theo Điều 93 BLHS, Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo tội “Cố ý gây thương tích” dẫn đến hậu quả chết người theo Khoản 4 Điều 104 BLHS. Viện kiểm sát kháng nghị đề nghị tuyên bố bị cáo phạm tội “Giết người”, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể sửa án tuyên bị cáo phạm tội “Giết người” theo Điều 93 BLHS. Tuy nhiên thực tiễn xét xử phúc thẩm cho thấy trong một số trường hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên hoặc của người bị hại theo hướng xử phạt tội danh khác nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án, thì Tòa án cấp phúc thẩm vẫn xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án. Theo chúng tôi đây là sự vi phạm quy định về giới hạn xét xử. 2.2. Quyền miễn, giảm, tăng và chuyển hình phạt 2.2.1. Quyền miễn hình phạt Ở giai đoạn xét xử phúc thẩm, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo ít xảy ra, vì trong thực tế quá trình điều tra truy tố và xét xử sơ thẩm nếu có đủ những điều kiện quy định thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án đã miễn cho họ rồi. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp do nhiều nguyên nhân khác nhau nên Tòa án cấp sơ thẩm vẫn kết án và tuyên hình phạt đối với bị cáo, khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm
  • 40. 33 mới phát hiện bị cáo thuộc diện được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt nên sửa bản án sơ thẩm và quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo. Cần phân biệt là Tòa án cấp phúc thẩm “miễn hình phạt” cho bị cáo chứ không phải “miễn chấp hành hình phạt” cho bị cáo. Miễn hình phạt được hiểu là với việc đã bị Tòa án kết tội, đáng lẽ bị cáo phải chịu hậu quả là bị áp dụng hình phạt (biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất), nhưng vì có các lý do được quy định tại BLHS mà Tòa án quyết định miễn việc chịu hình phạt cho bị cáo. Khi bản án sơ thẩm đã tuyên bị cáo có tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nếu thấy có căn cứ quy định tại Điều 54 BLHS là: “…phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự” thì tuyên miễn hình phạt cho bị cáo. Có ba điều kiện cần và đủ để Tòa án cấp phúc thẩm xét miễn hình phạt cho bị cáo. Trước hết, bị cáo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (từ hai tình tiết trở lên) quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 46 BLHS không được tính. Tuy Điều 54 BLHS chỉ quy định việc bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng chúng ta cần hiểu để được miễn hình phạt thì bị cáo không được có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bởi lẽ điều đó liên quan đến điều kiện cần thứ hai. Điều kiện tiếp theo là bị cáo đáng được khoan hồng đặc biệt. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn giải thích như thế nào là “đáng được khoan hồng đặc biệt”, do đó để xác định và áp dụng chính xác thì Tòa án cấp phúc thẩm cần căn cứ vào các yêu cầu tại Điều 45 BLHS về quyết định hình phạt, xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng như hậu quả của hành vi và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Chúng tôi đồng tình với
  • 41. 34 ý kiến của TS Trịnh Tiến Việt khi cho rằng cơ sở để xác định bị cáo đáng được khoan hồng đặc biệt là dựa vào các tiêu chí: Loại tội phạm bị cáo thực hiện thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng, chưa gây ra hậu quả hoặc hậu quả (thiệt hại) không lớn; bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo có nhiều thành tích trong học tập, lao động, công tác; bị cáo lập công lớn trong việc giúp cơ quan có thẩm quyền phát hiện, điều tra tội phạm v.v.. Các tiêu chí trên làm cho tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội giảm nhẹ đặc biệt, tạo khả năng tự cải tạo, giảo dục bị cáo, do đó không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội [40, tr. 388]. Điều kiện thứ ba là bị cáo đã có đầy đủ hai điều kiện nêu trên, nhưng các tình tiết của vụ án chưa thoả mãn các điều kiện để có thể miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 25 BLHS, tức là chưa có dấu hiệu “chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Đây là các điều kiện miễn hình phạt được áp dụng chung cho các tội phạm. Ngoài ra Tòa án cấp phúc thẩm còn có thể miễn hình phạt trong hai trường hợp khác là: Miễn hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định tại Khoản 4 Điều 69 BLHS khi có các điều kiện: Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Có cơ sở (lý do) áp dụng một trong số các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa đối với người chưa thành niên phạm tội [40, tr.389].
  • 42. 35 Miễn hình phạt đối với người phạm tội không tố giác tội phạm khi có điều kiện tại Khoản 3 Điều 314 BLHS: “Người không tố giác tội phạm đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm”. Miễn hình phạt trong trường hợp này được xác định là miễn hình phạt chính cho bị cáo. Trong vụ án đồng phạm, việc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt đối với bị cáo này không ảnh hưởng tới bị cáo khác. Tòa án cấp phúc thẩm sẽ không miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt cho cả bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị. 2.2.2. Quyền giảm hình phạt Giảm hình phạt cho bị cáo là việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định một mức hình phạt nhẹ hơn so với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo trong cùng một loại hình phạt. Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung cho bị cáo, và chỉ giảm trong phạm vi cho phép của một loại hình phạt. Ví dụ: Tòa án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 03 năm tù giam, Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án, giảm hình phạt cho bị cáo xuống còn 02 năm 06 tháng tù giam. Căn cứ vào các quy định về hệ thống hình phạt chính và hình phạt bổ sung có thể thấy rằng không phải loại hình phạt nào Tòa án cấp phúc thẩm cũng có thể giảm. Với hình phạt chính, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ giảm được khi hình phạt chính Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là: tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Với hình phạt bổ sung thì đa số các hình phạt Tòa án cấp phúc thẩm đều có thể giảm đó là: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân và phạt tiền khi không là hình phạt chính. Các loại hình phạt trên đều có đặc điểm chung là được quy định có một thời hạn hoặc giới hạn nhất định, nhờ đó mà Tòa án cấp phúc thẩm mới có căn cứ và có thể biết phạm vi mình được giảm hình phạt từ mức nào đến mức nào. Những hình
  • 43. 36 phạt còn lại là cảnh cáo, chung thân, tử hình, trục xuất, tịch thu tài sản, do không thuộc loại có thể xác định được mức tối thiểu và tối đa nên Tòa án cấp phúc thẩm không thể xem xét giảm hình phạt được. Khi xem xét giảm hình phạt cho bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm phải tuân thủ các quy định của BLHS về định lượng tối thiểu đối với từng loại hình phạt, cụ thể như sau: Điều 30 BLHS quy định: Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội và sự biến động về giá cả nhưng không được thấp hơn một triệu đồng. Điều 31 BLHS quy định: Mức hình phạt cải tạo không giam giữ tối thiểu là sáu tháng. Điều 33 BLHS quy định: Mức phạt tù có thời hạn đối với người phạm một tội có thời gian tối thiểu là ba tháng. Điều 36 BLHS quy định: Thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có thời gian tối thiểu là một năm. Điều 37 BLHS quy định: Thời hạn cấm cư trú tối thiểu là một năm. Điều 38 BLHS quy định: Thời gian quản chế tối thiểu là một năm. Điều 39 BLHS quy định: Thời hạn tước một số quyền công dân tối thiểu là một năm. Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm cũng không được giảm dưới mức thấp nhất của khung liền kề trong trường hợp quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật tại Điều 47 BLHS. Để đảm bảo tính khoan hồng của pháp luật, trong vụ án có đồng phạm, nếu Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt cho một bị cáo thì có thể xem xét giảm hình phạt cho cả những bị cáo còn lại không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo kháng nghị.
  • 44. 37 2.2.3. Quyền tăng hình phạt Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định khi Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa hình phạt nặng hơn bằng cách tăng hình phạt. Tăng hình phạt đối với bị cáo là việc Tòa án cấp phúc thẩm quyết định một mức hình phạt nặng hơn so với mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo trong cùng một loại hình phạt. Ví dụ: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 02 năm tù giam, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét quyết định tăng hình phạt, phạt bị cáo 03 năm tù giam. Muốn tăng hình phạt cho bị cáo thì bản án sơ thẩm phải tuyên phạt bị cáo một hình phạt nhất định rồi (chứ không phải chưa tuyên hình phạt, hoặc tuyên miễn hình phạt) thì Tòa án cấp phúc thẩm mới có thể xem xét tăng hình phạt. Theo thạc sĩ Đinh Văn Quế đã viết: Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền biến không thành có, tức là Tòa án cấp sơ thẩm chưa quyết định hình phạt đối với bị cáo thì dù có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng không được áp dụng hình phạt đối với bị cáo, vì như vậy không phải là tăng hình phạt mà là quyết định hình phạt đối với bị cáo [20, tr.330]. Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung nhưng chỉ được tăng mức hình phạt trong phạm vi loại hình phạt và trong phạm vi điều khoản bị cáo bị áp dụng.Ví dụ: Toà án cấp sơ thẩm phạt bị cáo 01 năm cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 BLHS, xét thấy việc áp dụng Khoản 1 Điều 138 đối với bị cáo là đúng nhưng mức phạt cải tạo không giam giữ chưa đủ tính răn đe, Toà án cấp phúc thẩm có thể sửa án tăng hình phạt cải tạo không giam giữ lên trên 01 năm. Đồng thời không được tăng vượt quá 03 năm vì Khoản 1 Điều 138 quy định bị cáo có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
  • 45. 38 Cũng giống như giảm hình phạt cho bị cáo, Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có thể tăng hình phạt cho bị cáo khi loại hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo thuộc loại có thể xác định được mức tối thiểu và tối đa. Khi áp dụng quy định này Tòa án cấp phúc thẩm cần lưu ý tới phạm vi tối đa của từng loại hình phạt như sau: Với hình phạt là phạt tiền, không được tăng quá mức phạt tiền tối đa được quy định đối với từng loại tội phạm được áp dụng hình phạt này. Điều 31 BLHS quy định: Mức hình phạt cải tạo không giam giữ đa là ba năm. Điều 33, 50 BLHS quy định: Mức phạt tù có thời hạn đối với người phạm một tội có thời gian tối đa là hai mươi năm; đối với người bị xét xử nhiều tội cùng một lần thì tổng hợp hình phạt tù có thời hạn không quá ba mươi năm. Điều 36 BLHS quy định: Thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định có thời gian tối đa là năm năm. Điều 37 BLHS quy định: Thời hạn cấm cư trú tối đa là năm năm. Điều 38 BLHS quy định: Thời gian quản chế tối đa là năm năm. Điều 39 BLHS quy định: Thời hạn tước một số quyền công dân tối đa là năm năm. Thực tế hiện nay các Tòa án phúc thẩm khi sửa bản án sơ thẩm đã thực hiện chuyển từ án treo sang tù giam cùng với việc giảm hoặc tăng nặng hình phạt tù cho bị cáo, trong khi Điều 249 không có chỗ nào quy định chuyển từ án treo sang tù giam. Nguyên nhân của thực trạng này là do TANDTC chưa có hướng dẫn cụ thể dẫn đến các Tòa án cấp phúc thẩm vẫn hiểu rằng việc sửa bản án sơ thẩm tăng hay giảm hình phạt cho bị cáo là thực hiện theo Điều 249 BLTTHS, còn việc cho bị cáo hưởng án treo lại là áp dụng Điều 60 BLHS. Theo chúng tôi, cách hiểu và thực hiện như vậy là không đúng.
  • 46. 39 Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTHS là nguyên tắc cơ bản được quy định đầu tiên, có tính chất bắt buộc đối với mọi hoạt động TTHS của cơ quan tiến hành tố tụng, là nguyên tắc xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần tuyệt đối tuân thủ. Do vậy, khi BLTTHS không quy định Tòa án cấp phúc thẩm được chuyển từ án treo sang tù giam [20, tr.331]. 2.2.4. Quyền chuyển hình phạt 2.2.4.1. Quyền chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn là việc Tòa án cấp phúc thẩm chuyển từ áp dụng loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc cao hơn sang áp dụng loại hình phạt có mức độ nghiêm khắc ít hơn đối với bị cáo. Ví dụ: chuyển từ hình phạt tử hình sang tù chung thân, từ tù chung thân sang tù có thời hạn, hoặc từ tù có thời hạn sang cải tạo không giam giữ. Đây là trường hợp mới so với quy định của BLTTHS năm 1988. Mức độ nghiêm khắc cao hơn hay ít hơn của hình phạt được áp dụng đối với bị cáo thể hiện thông qua việc bị cáo sẽ phải chịu những tổn thất cao hay thấp về các phương diện quyền, lợi ích, tự do, thậm chí là tính mạng. Trong hệ thống hình phạt quy định tại Điều 28 BLHS 2003, các nhà làm luật đã sắp xếp thứ tự các hình phạt chính theo mức độ từ nhẹ đến nặng. Tuy nhiên đối với các hình phạt bổ sung thì không thể căn cứ vào trật tự sắp xếp để xác định hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào, và kể cả trong tư duy chủ quan cũng không thể xác định được loại nào nhẹ hơn loại nào. Chính vì vậy trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm sửa án theo hướng chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ áp dụng đối với các hình phạt chính, không áp dụng đối với hình phạt bổ sung. Tòa án cấp phúc thẩm không nhất thiết phải chuyển sang áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn theo đúng thứ tự các hình phạt được quy định tại Điều 28 BLHS, ví dụ: Bị cáo bị kết án về tội “Đánh
  • 47. 40 bạc” theo Điều 248 BLHS, Tòa án sơ thẩm phạt bị cáo 06 tháng tù giam, xét thấy có căn cứ Tòa án cấp phúc thẩm có thể sửa án, áp dụng hình phạt tiền, phạt bị cáo 30.000.000đ, không buộc phải giảm hình phạt xuống hình phạt nhẹ hơn liền kề là cải tạo không giam giữ. Riêng hình phạt trục xuất: hiện nay có hai quan điểm khác nhau về mức độ nặng nhẹ của hình phạt này so với các loại hình phạt khác. Quan điểm thứ nhất cho rằng tuy trục xuất là hình phạt áp dụng đối với người nước ngoài, nhưng được sắp xếp tại quy định về hình phạt chính thì phải coi hình phạt trục xuất nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và nặng hơn cải tạo không giam giữ. Quan điểm thứ hai cho rằng: không thể coi trục xuất là hình phạt nặng hơn cải tạo không giam giữ hoặc nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Chúng tôi ủng hộ quan điểm thứ hai vì các lý do sau đây: Xét về nhân thân thì người phạm tội luôn thuộc một trong ba đối tượng: hoặc là người Việt Nam, hoặc là người có quốc tịch nước ngoài, hoặc là người không có quốc tịch (thường trú hoặc không thường trú ở Việt Nam). Điều 32 BLHS quy định rõ hình phạt trục xuất được áp dụng đối với “người nước ngoài bị kết án” và người đó phải cư trú ở Việt Nam. Theo Điều 3 Luật quốc tịch nước ta năm 2008 thì “người nước ngoài cư trú ở Việt nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”. Tuy nhiên, bản chất của trục xuất là buộc người bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, và khi rời khỏi lãnh thổ Việt Nam thì phải có điểm đến, tức là người bị kết án phải có nước tiếp nhận khi bị buộc rời khỏi Việt Nam. Đối với người không có quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam không phải là công dân của quốc gia nào nên sẽ không có nước tiếp nhận, thì sẽ không áp dụng hình phạt trục xuất, và như vậy có thể hiểu hình phạt trục xuất được áp dụng đối với công dân nước ngoài. Với tính chất riêng biệt về đối tượng áp dụng như vậy nên nếu xét trục xuất trong hệ thống