SlideShare a Scribd company logo
1 of 121
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM VĂN LUYỆN
THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM VĂN LUYỆN
THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lâm Văn Luyện
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT
XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm................... 8
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền........................................................... 8
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm................................. 9
1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................................15
1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng.......................................15
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ
thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng ......17
1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm ...............17
1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử................18
1.2.5. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt
động tố tụng khác................................................................................19
1.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự của
một số nước........................................................................................21
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.........27
2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm................27
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến khi Quốc hội
ban hành BLTTHS năm 1988.............................................................28
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003.......................................42
2.1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm ................................................................................................44
2.1.4. Thẩm quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự năm 2015............57
2.2. Thực tiễn áp dụng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang.............................................69
2.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Hà Giang ................................69
2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội....................................................................70
2.2.3. Khái quát về tổ chức, bộ máy hoạt động của Tòa án nhân ở dân
tỉnh Hà Giang ......................................................................................72
2.2.4. Những kết quả việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân ..............................................................................................73
2.3. Những bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền
xét xử sơ thẩm....................................................................................83
2.3.1. Bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân
các cấp.................................................................................................83
2.3.2. Bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất .......................................88
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện thẩm
quyền xét xứ sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án............................91
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO
ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.............93
3.1. Cơ sở và định hướng nâng cao hoàn thiện pháp luật và các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm
quyền xét xử.......................................................................................93
3.1.1. Đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn
kiện, nghị quyết của Đảng...................................................................93
3.1.2. Đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền ........................94
3.1.3. Để phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và các văn bản luật đã ban hành.................................................94
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm ..................94
3.1.5. Đáp ứng yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế ....................................95
3.2. Hoàn thiện pháp luật ........................................................................96
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm
quyền xét xử.......................................................................................99
3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán...........................................99
3.3.2. Xây dựng một chế độ lương và chính sách thoả đáng......................102
3.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Tòa án ..............................103
3.3.4. Một số giải pháp đồng bộ khác.........................................................105
KẾT LUẬN..................................................................................................106
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................108
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
TAQS Tòa án quân sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XXST Xét xử sơ thẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tình hình xét xử của Tòa án các cấp tại tỉnh Hà
Giang (2011 - 2015) 74
Bảng 2.2: Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai
cấp tỉnh Hà Giang từ 2011 - 2015 75
Bảng 2.3: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa
án cấp huyện tỉnh Hà Giang từ năm 2011 - 2015 81
Bảng 2.4: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của
Tòa án cấp tỉnh từ 2011 - 2015 82
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tố tụng hình sự (TTHS) về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án (TA) là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ
ràng, khoa học, càng sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử
khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Đối với các TA do có
sự phân định thẩm quyền mà tránh được tình trạng đùn đẩy việc cho nhau.
Nếu xét về góc độ kinh tế thì việc xác định đúng thẩm quyền xét xử giảm
được nhiều chi phí và tiền bạc, công việc của nhà nước, tập thể và công dân
cho quá trình giải quyết vụ án. Nếu xét về mối quan hệ với thẩm quyền điều
tra, truy tố thì thẩm quyền xét xử của TA được coi là cơ sở để quy định thẩm
quyền điều tra của cơ quan điều tra, thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát
(VKS). Sự thay đổi thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TA dẫn đến sự thay đổi
tương ứng thẩm quyền của các cơ quan này. Với tầm quan trọng đó các quy
định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm (XXST) luôn được chú ý từ khi ban hành
pháp luật. Nhưng do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, đến nay một
số quy định về thẩm quyền XXST không còn phù hợp mặc dù đã ban hành Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Vì vậy, thực tế vẫn gây khó khăn
cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND).
Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội trước yêu cầu
đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, một số quy định về
thẩm quyền của TA các cấp còn bộ lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp
gây khó khăn cho hoạt động xét xử của TAND. Đó là sự phân định thẩm
quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh không hợp lý, vẫn giao cho
TA cấp tỉnh XXST quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang
năm khác vẫn còn. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các
văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào
thực tiễn xét xử vấn đề giới hạn XXST.
2
Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các
cơ quan tư pháp cũng được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu quả, chất
lượng hoạt động. Đối với TAND, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ
chức và hoạt động theo hướng từng bước mở rộng thẩm quyền XXST của
TAND cấp huyện theo phương hướng củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan
tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND theo nguyên tắc: "Kiện
toàn đến đâu, mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó". Chính vì thế, việc nghiên
cứu về thẩm quyền XXST vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định của pháp
luật về vấn đề này là một nhiệm vụ cần thiết và hết sức quan trọng.
Tìm hiểu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền
XXST của TA, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền XXST
trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý
luận cũng như thực tiễn lập pháp.
Mặc dù, vấn đề thẩm quyền XXST các vụ án hình sự của TAND các
cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục
nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền XXST của TAND, thực tiễn
áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy
định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý luận, thực
tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, tác giả mong muốn thông qua việc
nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền
XXST của TA trên địa bàn tỉnh Hà Giang, sẽ góp phần vào việc nâng cao chất
lượng công tác XXST vụ án hình sự của TA hai cấp tỉnh Hà Giang, đó chính
là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm
luận văn Thạc sĩ luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền xét xử của TA là một vấn đề phức tạp cả về lý luận cũng
như thực tiễn nên đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều tác giả như: Luận án
tiến sĩ“Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp” của tác giả nguyễn Văn Huyên
năm 2002; luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố
tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tiến năm 1998; luận văn thạc sĩ "Thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước
yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu địa bàn tỉnh Nam Định" của
tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết năm 2014; đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm”
của VKSND tối cao. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo
khoa học có đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như “Nâng cải cách hệ
thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của
Tiến sĩ khoa học Lê Cảm (Tạp chí lập pháp số 4 năm 2001); các bài viết của
Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Văn Hảo “Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ
quan quyền lực nhà nước”; Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Đường “Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”; trong cuốn “Tìm hiểu về đổi mới tổ chức
và hoạt động của Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992”, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Tiến sĩ Phạm Hồng Hải “Một số nét lịch sử
và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 50 năm qua” (Tạp chí
Nhà nước và pháp luật) cùng nhiều bài viết khác nữa.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu kể trên hầu hết đều được thực
hiện trước khi có BLTTHS năm 2015 được ban hành, hoặc là được nghiên
cứu theo khía cạnh riêng lẻ.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả mạnh dạn tiếp cận và
nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành cũng như
thực tiễn áp dụng các quy định đó sẽ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn
4
thiện pháp luật về thẩm quyền XXST của TA trong TTHS đồng thời nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền XXST.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính
lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về:
"Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam” dưới khía cạnh lập pháp TTHS và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó
luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về: "Thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của Tòa án”. Đồng thời, đề xuất những biện pháp bảo đảm thực
hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của TA,
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về "Thẩm
quyền xét xử của Tòa án” trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt
ra là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm và thẩm quyền
XXST của TA trong TTHS.
- Các căn cứ phân định thẩm quyền XXST.
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định: "Thẩm quyền
XXST của Tòa án trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta từ sau
cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay" để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về: "Thẩm quyền XXST của Tòa án
trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của một số nước trên thế
giới" từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
5
Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về: "Thẩm quyền
xét xử sơ thẩm của Tòa án". Đồng thời, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn
chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Từ đó đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy
định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong BLTTHS Việt Nam
hiện hành, cũng như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả
thực hiện các quy định này trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc
nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong thực
tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Hà Giang và tìm ra nguyên nhân
của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực
định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS
Việt Nam về thẩm quyền XXST của TA, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy
định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong thực tiễn.
Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền XXST của TAND các
cấp. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TA và thẩm
quyền xét xử của TA quân sự không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định về
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang trong 5 năm 2011 - 2015.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước
pháp quyền, về chính sách pháp luật TTHS, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
6
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, XII và các Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn thẩm quyền XXST của
TAND cấp huyện và thẩm quyền XXST của TAND cấp tỉnh trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối
chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê;
thảo luận, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Đề tài nghiên cứu: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam" là một đề tài phức tạp, lần đầu tiên tiếp cận, làm
quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài thạc sĩ của tác giả khó có
thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu được
hoàn thiện hơn.
5. Những vấn đề mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có BLTTHS
năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, trong
đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới
“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” để xây dựng nên khái niệm về: “Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng
thời chỉ ra các căn cứ để phân định thẩm quyền XXST của TA;
7
- Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình
thành và phát triển của các quy định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa
án” trong Luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án" trong Luật TTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các
quy định về:“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” của các đơn vị TAND
tại tỉnh Hà Giang; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định
về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, cũng như những nguyên nhân
cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó.
Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu khiêm tốn mà chúng tôi đạt
được sẽ góp một phần nhỏ vào hệ thống lý luận khoa học luật TTHS, vào hoàn
thiện pháp luật TTHS, là tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và học tập.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về
thẩm quyền xét xử sơ thẩm.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang).
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền
Thẩm quyền là một khái niệm khá rộng và có những quan niệm khác
nhau, xuất phát từ thuật ngữ Jurisdiction - trong tiếng Anh hay jurisdictio -
trong tiếng La Tinh, thường được hiểu trong tiếng Việt là thẩm quyền, thẩm
quyền xét xử, hay quyền tài phán, là một trong những thuật ngữ pháp lý khó
hiểu do chứa đựng nhiều nghĩa khác nhau [69, tr. 609]. Cho đến nay, việc
nghiên cứu lý luận về thẩm quyền vẫn còn nhiều khoảng trống [71].
Theo từ điển Black’s Law, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu theo hai
nghĩa: (i) Quyền lực của chính phủ được thực hiện với tất cả mọi người cũng
như với các đối tượng khác trong lãnh thổ của họ; (ii) Quyền của tòa án để
quyết định một vụ việc hay quyền đưa ra các phán quyết [70, tr. 96].
Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu là quyền lực chính
thức của một chủ thể để đưa ra một quyết định pháp lý hoặc một bản án [72].
Theo từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là quyền xem xét để
kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật [67, tr. 920].
Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa,“thẩm
quyền” là tổng hợp các quyền hành động, quyền quyết định được trao hay
thừa nhận cho một chủ thể, cho phép chủ thể đó có thể thực hiện được những
chức năng cụ thể mà pháp luật quy định [64].
Thuật ngữ về "Thẩm quyền" của Việt Nam xét về nghĩa nói chung
giống với nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có
nhiều điểm khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm
quyền, tuy nhiên, tựu trung lại đều được hiểu: “Thẩm quyền là khả năng của
9
chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó
trên cơ sở chuẩn mực pháp luật đã định trước”.
Qua sự phân tích trên có thể rút ra kết luận: “Thẩm quyền là tổng thể
các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện
công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định”
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét
xử, theo từ điển Luật học thì:
Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của
các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước
được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên
đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không
qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố
công khai bằng bản án [64].
Khái niệm về: “Thẩm quyền xét xử” của Toà án không phải là một điều
mới mẻ trong giới luật học trong nước cũng như thế giới. Theo Leneunier thì:
“Thẩm quyền xét xử được hiểu là khả năng của một Toà án xem xét một vụ
việc trong phạm vi pháp luật cho phép”.
Ở nước ta thẩm quyền xét xử đã được nghiên cứu dưới rất nhiều góc
độ khác nhau. Dưới góc độ tố tụng dân sự thì: “Thẩm quyền dân sự của toà
án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định
khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của toà
án”. Dưới góc độ tố tụng hành chính thì: "Thẩm quyền xét xử của toà án
hành chính là việc giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành
chính và hành vi hành chính..." [56]. Trong TTHS thẩm quyền xét xử được
xác định dựa trên một số các dấu hiệu của vụ án, chúng ta có thể chia các
dấu hiệu đó làm ba nhóm sau:
10
Thứ nhất, dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; nếu
tính chất càng nghiêm trọng, vụ án càng phức tạp thì đòi hỏi những người làm
công tác xét xử phải có nhiều kinh nghiệm, cơ sở vật chất phải đầy đủ, các
yếu tố bổ trợ phải đảm bảo cho quá trình nhận thức các yếu tố một cách khách
quan công bằng, đúng pháp luật. Do đó các dấu hiệu này được sử dụng nhằm
phân biệt thẩm quyền của TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh, giữa Tòa án
quân sự (TAQS) khu vực với TAQS Quân khu.
Thứ hai, là dựa trên các dấu hiệu về không gian hoặc địa điểm thực
hiện tội phạm, thực hiện hành vi tố tụng. Các dấu hiệu này được sử dụng
nhằm phân định thẩm quyền xét xử của các Toà án cùng cấp. Nếu có bị cáo
phạm tội ở nước ngoài được xét xử ở Việt Nam thì các dấu hiệu này cũng
được sử dụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của TA các cấp.
Thứ ba, là dựa trên những dấu hiệu liên quan đến người thực hiện tội
phạm. Các dấu hiệu này được sử dụng nhằm phân định thẩm quyền xét xử
giữa TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền
của TA đặc biệt.
Như vậy, muốn xác định được một cách chính xác thẩm quyền XXST
của một TAND những người tiến hành tố tụng phải dựa trên cả ba nhóm dấu
hiệu trên, bởi vì chúng có tác dụng bổ trợ, tương hỗ với nhau hay nói cách
khác giữa chúng có mối liên hệ biện chứng hữu cơ với nhau cho nên nếu thiếu
một dấu hiệu nào cũng có thể dẫn tới tình trạng xác định thẩm quyền xét xử
một cách không chính xác và không có căn cứ pháp luật. Trong khi đó đây lại
là một trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng nếu làm không tốt
sẽ dẫn tới tình trạng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” hình sự. Tuy
nhiên, muốn xác định một cách chính xác thẩm quyền xét xử thuộc về cấp nào
và có được áp dụng thủ tục xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực
pháp luật hay không thì chúng ta còn phải căn cứ vào bản chất của mỗi cấp
xét xử, của thủ tục xét lại đó.
11
Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức
TAND năm 2002 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Quyền xét
xử thuộc về TA được hiểu là thẩm quyền xét xử.
Theo Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 hệ thống tổ chức TA gồm
có: Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân cấp cao; Toà án nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự [44, tr. 9-10]
Trong đó, theo Điều 20 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì TAND tối
cao giám đốc thẩm, tái phẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng.
Tòa án nhân dân cấp cao cao có nhiệm vụ:
Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm
quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị theo quy định của luật tố tụng.
Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đó có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và
tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị không
nghị theo quy định của luật tố tụng [44, tr. 24].
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ:
Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật;
Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương
chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định
của pháp luật;
12
Kiểm tra bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật của Tòa
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương
đương, khi phát hiện các vi phạm pháp luật hoặc các tình tiết mới theo
quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân cấp
cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị;
Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật [44, tr. 28].
Nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tương đương theo Điều 44 Luật TCTAND năm 2014 thì "sơ
thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật và giải quyết các việc khác theo quy
định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự được quy định tại Điều 49
Luật TCTAND xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những
vụ án khác theo quy định của pháp luật.
Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự,
nhân quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ. Do vậy, TA được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các
vụ án hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà
nước tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối
với người phạm tội. BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có
tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có
hiệu lực pháp luật” [41, Điều 9].
Việc xét xử của TA hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ
quan hành chính, bởi lẽ: hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả
hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy
định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của TA cũng
cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác.
Khi xác định thẩm quyền xét xử của TA, cần phải xác định đồng thời
13
ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp
của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện
tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ sở
xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm quyền
xét xử được chính xác.
Có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền XXST của TA như sau:“Thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định của
pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc
xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước”.
Và thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là: “Quyền của Tòa án được
xét xử vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về
tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa
điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội”. Trong phạm vi
luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền XXST về hình sự của TAND.
Từ khái niệm về thẩm quyền XXST của TA nêu trên và căn cứ vào
những quy định của Hiến pháp 2013 năm và BLTTHS năm 2003, Luật tổ
chức TAND năm 2014 cho thấy các đặc điểm cơ bản của thẩm quyền XXST
vụ án hình sự như sau:
a. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có
tính bắt buộc.
TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, do các cơ quan, chủ thể khác
nhau đảm nhiệm thực hiện. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mang
tính bắt buộc thể hiện ở việc do là một giai đoạn của TTHS nên đòi hỏi phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các thủ tục
khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử lần đầu do đó là thủ tục bắt buộc.
b. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự là xét xử
lần đầu vụ án. Do đó, vụ án được đưa ra giải quyết công khai với sự có mặt
đầy đủ những người tham gia tố tụng.
14
Trên những tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra. TA
là cơ quan đại diện Nhà nước được xem xét, đánh giá những chứng cứ đã có
đồng thời thu thập thêm những chứng cứ cần thiết khác qua hoạt động xét xử
tại phiên tòa. Tất cả các tài liệu, chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập trong quá
trình điều tra, truy tố đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại
phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe
trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ
quan điều tra (CQĐT), VKS họ đã không có điều kiện để thực hiện. Nói một
cách khác, XXST chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã
truy tố bị can ra trước TA bằng bản cáo trạng. Do đó, XXST là một công đoạn
trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
c. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS có kết quả là
một bản án, quyết định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Các phán quyết của TA được xem xét, đánh giá trên cơ sở những chứng
cứ đã có, đồng thời thu thập thêm các chứng cứ cần thiết để làm sáng tỏ vụ án.
Ngoài ra, vụ án còn dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng
giữa các bên, để từ đó TA ra bản án, các quyết định có căn cứ, công minh và
đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình và đảm bảo quyền lợi của các bên.
Phán quyết của TA là phán quyết về bản chất của vụ án (bao gồm: bị
cáo có phạm tội hay không phạm tội, hậu quả pháp lý về hình phạt, biện pháp
tư pháp khác hay quyết định khác bị cáo phải gánh chịu...) trên cơ sở tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình phạt), pháp luật
TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử...).
d. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS Việt Nam góp
phần vào việc xử lý triệt để và dứt điểm vụ án hình sự. Qua đó, giảm thiểu tối
đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, duy trì công lý, phục hồi lại công bằng
trong xã hội, trấn an dư luận và bảo đảm quyền lợi của công dân.
15
Lần đầu xét xử, thẩm quyền XXST vụ án hình sự không chỉ xem xét,
đánh giá toàn diện, đầy đủ và khách quan về vụ án, mà còn góp phần vào việc xử
lý triệt để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Qua đó, giảm
thiểu mức tối đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, án tồn đọng. Do đó, sẽ hạn
chế được lượng án mà TA cấp trên (cấp phúc thẩm) phải giải quyết, tiết kiệm
đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức...
cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của
TA nói riêng, cũng như các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói chung.
Ngoài ra, việc xét xử công khai, dân chủ và nghiêm minh vụ án hình sự
còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn (tối cao) của pháp luật, duy trì công lý,
phục hồi và đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp
luật, trấn an sự bức xúc của người bị hại và gia đình họ, sự lên án của dư luận
xã hội, đồng thời qua đó góp phần tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của công
dân, của người bị hại và của bản thân bị cáo, cũng như những người tham gia
tố tụng khác.
1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Thẩm quyền XXST của TA là một trong những chế định trung tâm của
TTHS. Việc quy định đúng đắn và phù hợp thẩm quyền xét xử của TA có vai
trò rất quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng là phát hiện
nhanh chóng, xử lý công minh người phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội; tôn trọng và bảo vệ lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân; giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật, tham
gia đấu tranh chống tội phạm. Do đó để quy định thẩm quyền xét xử của
TAND nói chung và thẩm quyền XXST của TAND nói riêng được chính xác
chúng ta phải dựa trên những luận cứ khoa học chắc chắn đã được đúc rút và
kiểm chứng từ thực tiễn. Đó là một số căn cứ cơ bản sau:
1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo
16
duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp
luật như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền
XXST của TA không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước.
Vấn đề thẩm quyền XXST và việc phân định lại thẩm quyền XXST của
TAND các cấp luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc
cải cách tư pháp nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành TA nói
riêng. Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII- BCHTW Đảng (khóa VII) đã đề ra
nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó xác
định: “...Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện
theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp
tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX cũng nêu rõ: “Sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền
của TAND các cấp”. Bước sang thế kỷ thứ XXI, nước Việt Nam đang có
những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hệ
thống TA trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới. Tiếp đến là Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện sự quyết
tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống TA. Đó
chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm 2015,
trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền XXST các vụ án
hình sự của TAND.
Những định hướng chiến lược là kết quả hoạt động nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn của Đảng. Theo đó, việc tuân theo đường lối, chính sách của
Đảng là một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng và sửa
đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về thẩm quyền XXST của TA các cấp.
17
1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của
hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng
Nhà nước ta được chia theo 03 cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp
tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành
phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia
này, hệ thống TA cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm
TAND tối cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan
khác hệ thống TA chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa TA các
cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo
thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các TA xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật.
Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan Nhà nước theo đơn
vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ
quan tiến hành tố tụng, BLTTHS đã quy định về thẩm quyền xét xử cho từng
cấp TA. BLTTHS căn cứ vào cách thức tổ chức đó để quy định thẩm quyền
xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp TA đều có quyền xét xử
riêng mà không bị chi phối bởi TA cấp trên để phân định thẩm quyền của TA.
Việc phân định thẩm quyền như trên không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt
quản lý mà còn phát huy được khả năng phối hợp của các cơ quan tiến hành
tố tụng khác, các cơ quan bổ trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án.
1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm
Tính chất nghiêm trọng của tội phạm được xác định căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo đó tội phạm càng
nghiêm trọng thì mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm càng lớn. Tính
nghiêm trọng của tội phạm được các nhà làm luật thể hiện qua mức chế tài
quy định với loại tội phạm đó.
Theo Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) thì tội phạm là hành vi nguy hiểm
18
cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ. Khái niệm này cho thấy cơ sở quan trọng để xác định tội
phạm chính là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Chỉ hành vi nguy hiểm
cho xã hội mới bị coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội được xem xét ở hai mặt: mặt thực tế (tức là đã gây thiệt hại hoặc có
nguy cơ gây thiệt hại) cho một hay nhiều khách thể nhất định và mặt xã hội
(tức là xem xét tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải được đặt trong
những điều kiện xã hội nhất định). Đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của
một loại tội phạm phải xem tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan
hệ xã hội do tội phạm đó xâm hại. Hành vi phạm tội càng xâm hại đến những
quan hệ xã hội, khách thể quan trọng càng gây nguy hại lớn cho xã hội thì tội
phạm càng nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật
thể hiện thông qua mức chế tài quy định với tội phạm đó. Tội phạm càng
nghiêm trọng thì hình phạt càng cao. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được
nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội
thì khi phân định thẩm quyền xét xử cho TA các cấp phải căn cứ vào tính
nghiêm trọng của tội phạm.
1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử
Thực hiện hoạt động tố tụng là cá nhân con người cụ thể, kết quả của
hoạt động tố tụng ít nhiều vẫn mang màu sắc chủ quan của con người. Để có
thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính công bằng trong xã hội thì người tiến hành
tố tụng cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định. Vụ án càng
phức tạp càng cần thiết đòi hỏi người có trình độ năng lực cao hơn giải quyết.
Việc phân định thẩm quyền xét xử không thể không dựa trên cơ sở trình độ
của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Hiện nay chúng ta đang thực
19
hiện tiêu chuẩn hóa Thẩm phán theo đúng quy định của pháp luật. Để được bổ
nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp ngoài việc bắt buộc phải có trình độ cử nhân
luật, còn phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ xét xử và phải có thâm niên
công tác 04 năm. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp phải qua 05
năm làm Thẩm phán sơ cấp. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND tối
cao phải có ít nhất 05 năm là Thẩm phán trung cấp...Nếu so sánh trình độ của
Thẩm phán hiện nay với trình độ của Thẩm phán năm 1994 thì đã có bước
tiến đáng kể. Không còn Thẩm phán chỉ có trình độ sơ cấp, trung cấp và luân
huấn. Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn đại học luật đã học nhưng chưa tốt nghiệp
cũng chỉ rất hạn chế ở một số tỉnh miền núi.
Thực tiễn cho thấy năng lực, trình độ chuyên môn của người Thẩm phán
có mối quan hệ mật thiết với thẩm quyền xét xử của TAND các cấp. Với tính
chất đặc thù của hoạt động xét xử, TA cần phải có đội ngũ những người làm
nhiệm vụ xét xử có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có kiến thức
pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi hội tụ đủ những phẩm chất như trên thì
Thẩm phán mới có thể độc lập thực sự để giải quyết các vụ án một cách nhanh
chóng, chính xác, đúng pháp luật. Trình độ chuyên môn cùng với kinh nghiệm
thực tế tạo thành năng lực của người Thẩm phán. Những vụ án càng nghiêm
trọng, phức tạp càng đòi hỏi phải được giao cho những Thẩm phán có năng lực
cao giải quyết. Vì vậy, khi phân định thẩm quyền xét xử phải căn cứ vào trình
độ, năng lực của Thẩm phán để quy định cho phù hợp, đảm bảo cho các đơn vị
TA có đủ điều kiện, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình.
1.2.5. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt
động tố tụng khác
Bất kỳ một hoạt động tố tụng nào cũng phải tính đến yếu tố kinh tế.
Phải tính toán sao cho vừa đạt được hiệu quả vừa phải chi phí ở mức thấp
nhất. Có thể xem xét hiệu quả kinh tế trong hoạt động tố tụng ở các mặt sau:
20
- Chi phí cho hoạt động điều tra: Các vụ án được điều tra ở cấp huyện thì
ít tốn kém và có điều kiện thu thập chứng cứ tốt hơn cấp tỉnh, bởi lẽ cơ quan
điều tra vừa tiếp cận kịp thời được hiện trường vụ án vừa tiết kiệm được chi phí
đi lại trong việc khám nghiệm hiện trường, xác minh thu thập chứng cứ.
- Chi phí cho hoạt động xét xử: Những vụ án được xét xử sơ thẩm ở
cấp huyện thì cấp tỉnh xét xử phúc thẩm sẽ giảm được khoản chi phí đi lại ăn
ngủ cho hội đồng xét xử phúc thẩm.
Qua đó cho thấy, vụ án càng được xét xử ở TA cấp thấp hơn thì càng
cắt giảm được các khoản chi phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cũng
như của những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân khi
tham gia tố tụng.
Tóm lại: Để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự của
TAND phải căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng, các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung,
các cơ quan tư pháp nói riêng; căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng,
phức tạp của tội phạm; căn cứ vào thực trạng của đội ngũ cán bộ làm công tác
điều tra, truy tố, xét xử; căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử, các
hoạt động tố tụng khác. Các căn cứ trên có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít
với nhau, bổ sung cho nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau, nhưng đều nằm trong
mối quan hệ thống nhất. Vì vậy, nhà làm luật cần phải nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống, có những dự báo cần thiết liên quan đến các căn cứ thì
mới có khả năng quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp một
cách phù hợp. Trên cơ sở đó đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của hoạt động
tố tụng, là cơ sở để tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo cho việc xét
xử chính xác, khách quan các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng
chống tội phạm.
21
1.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự của
một số nước
Việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phương Tây có
những điểm rất khác nhau:
* Tại Malaysia: Malaysia là một nước liên bang, do vậy mô hình tổ
chức của TA ở Malaysia có những đặc điểm riêng. Hệ thống TA ở Malaysia
bao gồm: TA liên bang, TA phúc thẩm, TA thượng thẩm, TA xét xử theo
phiên và TA địa hạt.
- Tòa án liên bang là TA cao nhất trong hệ thống TA ở Malaysia (ở
Việt Nam là TANDTC) có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án
hình sự, dân sự của TA phúc thẩm bị kháng cáo.
- Toà án phúc thẩm là TA có vị trí thứ 2 sau TA liên bang. Tòa án này
có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định về dân sự,
hình sự của TA thượng thẩm có kháng cáo.
- TA thượng thẩm: Malaysia có 2 Toà thượng thẩm theo khu vực. TA
thượng thẩm có thẩm quyền XXST và phúc thẩm. TA thượng thẩm có thẩm
quyền XXST đối với các tội phạm xảy ra trên địa bàn, chủ yếu là đối với các
tội phạm hình sự nghiêm trọng, chẳng hạn như tội buôn bán, vận chuyển ma
tuý, tội giết người, các tội theo Luật về vũ khí có khung hình phạt cao nhất
đến tử hình. TA thượng thẩm cũng thực hiện xét xử phúc thẩm đối với những
bản án, quyết định của TA địa phương trong phạm vi địa bàn của mình. Ngoài
ra, TA thượng thẩm cũng thực hiện giám đốc về xét xử hình sự đối với các
bản án, quyết định của các TA địa phương.
- TA xét xử theo phiên: Có thẩm quyền XXST đối với tất cả các tội
phạm, trừ tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình.
- Toà án địa hạt: TA này được thành lập ở hầu hết các đô thị tại
Malaysia, có thẩm quyền XXST đối với các tội phạm áp dụng hình phạt
22
không quá 5 năm tù, phạt tiền không quá 10.000 ringit, hoặc có thể quyết định
hình phạt đánh roi da tối đa là 12 roi trong khi xét xử đối với các tội phạm chỉ
có hình phạt tiền là hình phạt chính, tội phạm có mức cao nhất của khung
hình phạt không quá 10 năm tù.
- Về vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán: Chánh án TA Liên bang do nhà Vua bổ
nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng, trên cơ sở có tham khảo ý kiến của một Hội
đồng do nhà Vua thành lập. Việc bổ nhiệm Chánh án TA phúc thẩm, TA thượng
thẩm cũng như Thẩm phán của TA liên bang, TA phúc thẩm, TA thượng thẩm
cũng được thực hiện như trên. Để trở thành Thẩm phán TA liên bang thì phải là
Thẩm phán đương nhiệm của TA phúc thẩm hoặc thượng thẩm và phải có thời
gian công tác từ 10 -15 năm. Thẩm phán TA Liên bang, TA phúc thẩm, TA
thượng thẩm được bổ nhiệm suốt đời. Để đảm bảo tính độc lập cho Thẩm phán
khi xét xử, Malaysia không coi Thẩm phán là một công chức nhà nước mà có
chế độ đãi ngộ riêng theo quy định do Nghị viện ban hành.
* Tại Canada: Ngoài những quy định cụ thể về thẩm quyền xét xử của
TA theo luật định, khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật Canada còn quy
định vấn đề thẩm quyền xét xử hình sự của TA phụ thuộc vào yêu cầu của
người bị hại và bị can, bị cáo. Chẳng hạn, nếu các bên không có yêu cầu việc
xét xử có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn thì TA cấp tiểu bang sẽ xét xử; nếu
một trong hai bên yêu cầu có Bổi thẩm đoàn thì việc xét xử sẽ thuộc quyền
của TA sơ thẩm liên bang.
- Về quy trình bổ nhiệm Thẩm phán: pháp luật Canada quy định quy
trình bổ nhiệm, bãi nhiệm Thẩm phán hết sức chặt chẽ, để có thể được bổ
nhiệm là Thẩm phán, ứng cử viên phải trải qua một thời gian nhất định hành
nghề luật sư, giai đoạn này có thể kéo dài đến 20 năm. Việc bổ nhiệm Thẩm
phán được tiến hành thông qua sự giới thiệu của Hội đồng tuyển chọn Thẩm
phán. Mỗi bang thành lập một Hội đồng, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là
tổ chức phi chính phủ.
23
- Thẩm phán ở Canada được bổ nhiệm bởi chính quyền hành pháp, theo
đó Thẩm phán TA cấp thấp được bổ nhiệm bởi chính quyền tiểu bang và các
Thẩm phán thuộc các TA khác do chính quyền liên bang bổ nhiệm. Thẩm
phán cho Toà phúc thẩm do Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thủ tướng thông qua
các cơ quan chức năng sẽ tiến hành lựa chọn những Thẩm phán đủ điều kiện
thông qua việc rút, điều chuyển Thẩm phán từ TA cấp dưới lên.
Tương xứng với những đòi hỏi khắt khe trong quá trình bổ nhiệm,
Canada có một chế độ đãi ngộ khá ưu đãi cho Thẩm phán. Khi một Thẩm
phán được bổ nhiệm, mức lương thấp nhất theo ước tính thu nhập tương
đương khoảng 135.000$/năm, xấp xỉ bằng thu nhập của một Luật sư đã hành
nghề 20 năm. Ngoài ra, chế độ nghỉ hưu và bảo hiểm xã hội đối với Thẩm
phán cũng có nhiều ưu đãi, đảm bảo tốt nhất cuộc sống của người Thẩm phán
và gia đình họ.
Xuất phát từ những đặc điểm hệ thống chính trị, về nguyên tắc tổ chức,
thực hiện quyền lực Nhà nước, nên những điểm khác biệt trong hệ thống pháp
luật Canada cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên,
những quy định về thẩm quyền xét xử về hình sự của Canada cũng là những
kinh nghiệm quý báu để Việt Nam nghiên cứu, chọn lọc cho phù hợp với điều
kiện ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu mô hình tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế
giới thì thấy rằng không có nước nào có hệ thống TA theo cơ cấu 3 cấp: Sơ
thẩm - phúc thẩm - giám đốc thẩm và rất ít nước cho phép TA cấp thấp nhất
được xử những tội phạm nghiêm trọng có hình phạt đến 15 năm tù. Đơn cử
một số mô hình sau:
* Tại Nhật Bản: Trong tố tụng hình sự, hệ thống TA được chia thành 4
cấp: TA tối cao, TA cấp cao, TA quận và TA giản lược. TA tối cao có vai trò
là toà phá án, TA cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án có
24
kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của TA quận và TA giản
lược. Ngoài ra, TA này cũng có quyền xét xử những vụ án liên quan đến bị
cáo phản bội tổ quốc. TA quận xét xử mọi tội phạm trừ những tội phạm thuộc
thẩm quyền của Tòa án cấp cao và Tòa án giản lược. Tòa án giản lược chỉ xét
xử những vụ án có bị cáo phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù.
Như vậy, cấp tòa thấp nhất - Tòa án giản lược chỉ được xử những vụ án đơn
giản ít nghiêm trọng và như vậy, có thể thấy trung tâm xét xử của hệ thống
TTHS Nhật Bản là TA cấp quận.
* Tại Pháp: Có 3 loại thủ tục chính trong TTHS Pháp và tương ứng là
3 cấp TA. Đối với các tội đại hình như giết người, hiếp dâm hay cướp có vũ
khí mà hình phạt áp dụng từ 5 năm tới chung thân, vụ án sẽ được xét xử ở 1
trong 33 toà đại hình trên toàn nước Pháp, án xử có hiệu lực ngay và không
có thủ tục phúc thẩm trừ khi xin được xem xét lại ở toà tối cao (toà phá án).
Đối với các tội có mức hình phạt có thể áp dụng từ 02 tháng đến 05 năm tù
hoặc phạt tiền đến 25.000 france, vụ án sẽ được xét xử ở tòa tiểu hình. Cấp
tòa thấp nhất là toà vi cảnh xét xử những án phạt tù từ 01 ngày đến dưới 02
tháng tù hoặc phạt tiền tối đa dưới 25.000 france. Tất cả những kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm đối với những bản án, quyết định đã tuyên ở tòa vi
cảnh hay tòa tiểu hình đều được xử ở cấp tòa phúc thẩm (cấp tòa độc lập
không trực thuộc TATC). Mô hình tố tụng Pháp cho thấy thẩm quyền xét xử
ở cấp tòa thấp nhất chỉ hạn chế với những vụ án không nghiêm trọng, đơn
giản và có sự phân định rõ thẩm quyền giữa các tòa để xét xử các loại tội: Vi
cảnh, tiểu hình, đại hình; giữa tòa XXST và tòa phúc thẩm chuyên trách.
Bên cạnh đó sự phân loại tội phạm tội đại hình, tiểu hình và vi cảnh có ý
nghĩa cơ bản để xác định thủ tục tố tụng và thẩm quyền tố tụng tương ứng.
Đây là điểm then chốt chúng ta cần tham khảo trong quá trình xây dựng
pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta.
25
Việc tổ chức và hoạt động của TA thường thể hiện tính đa dạng khác
nhau của các Nhà nước, nhưng giữa chúng có những điểm rất chung thể hiện
tính quy luật chung của hoạt động xét xử. Hoạt động của TA thường được
phân theo các cấp xét xử: Cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Cấp sơ thẩm xét xử các vụ
việc ít nghiêm trọng; các TA phúc thẩm có quyền phúc thẩm các quyết định
xét xử của các TA cấp dưới. Hoạt động của hai loại TA này tạo thành hai cấp
xét xử chính trong hoạt động của TA hiện nay. TA tối cao là cấp xét xử cuối
cùng, có quyền phúc thẩm các vụ việc đã được các TA cấp dưới xét xử. Các
quyết định của TA tối cao có hiệu lực pháp lý cuối cùng, không được kháng
nghị hoặc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm như của Tòa án cấp dưới.
Bên cạnh đó, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
phương Tây cũng có những điểm khác nhau:
Phân loại theo vụ việc: TA được chia làm hai loại: TA có thẩm quyền
chung và TA chuyên biệt.
+ TA có thẩm quyền chung bao gồm:
Tòa sơ thẩm là TA cấp thấp nhất trong hệ thống TA của mỗi quốc gia có
thẩm quyền xét xử tất cả các vụ tranh tụng về hình sự (tiểu hình và đại hình).
TA phúc thẩm có quyền xét lại bản án của Toà sơ thẩm, nếu có kháng
cáo, kháng nghị. Trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị, thì quyết
định của các Tòa sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
+ TA chuyên biệt gồm có: Tòa lao động, TAQS, Tòa hành chính...
Phân loại theo các hệ thống pháp luật:
Xét dưới góc độ tố tụng và hệ thống pháp luật thì việc tổ chức và hoạt
động tư pháp của hai hệ thống pháp luật cơ bản của thế giới là Châu Âu lục
địa và Anh - Mỹ có sự khác nhau lớn:
Nếu như ở Châu Âu lục địa, tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán không
những có quyền tăng hình phạt, mà còn xem xét cả nội dung vụ việc và cả
26
luật áp dụng, thì của hệ thống Anh - Mỹ chỉ được xem xét luật áp dụng và chỉ
được giảm hình phạt đã được tuyên của tòa sơ thẩm.
Nếu như ở Nhà nước của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Thẩm
phán không có quyền sáng tạo ra pháp luật, thì ngược lại ở hệ thống Anh -
Mỹ, Thẩm phán lại có quyền này.
Như vậy, việc phân định thẩm quyền của TA ở các nước khác nhau
phải dựa vào hệ thống TA nước đó và phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, nó
còn phải dựa vào căn cứ phân loại tội phạm của BLHS của mỗi nước. Mỗi
một cách thức tổ chức TA và quy định về thẩm quyền xét xử trên thế giới đều
có những ưu và khuyết điểm khác nhau. Vì vậy, việc xem xét các quy định về
thẩm quyền của Luật TTHS các nước khác có ý nghĩa quan trọng chúng ta
cần phải tham khảo, học hỏi, để từng bước xây dựng pháp luật TTHS ngày
càng hoàn chỉnh, làm cơ sở tham khảo cho quá trình hoàn thiện pháp luật
TTHS ở nước ta [59, tr. 65 - 70].
27
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM
2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đánh dấu một bước tiến
nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Một kỷ nguyên mới của
lịch sử dân tộc đã mở ra, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ hoàn toàn chế độ quân chủ chuyên chế
đã tồn tại gần ngàn năm lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày
nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước độc lập,
dân chủ và thực sự của nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là
thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng
gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin
ở Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn
do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện".
TAND nằm trong hệ thống cấu thành bộ máy Nhà nước, luôn là một
công cụ đắc lực của chính quyền nhân dân trong cuộc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm hậu thuẫn cho
quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Trải qua bao nhiêu khó khăn, biến cố hệ thống pháp luật về tòa án nói chung
và TAND cấp cấp sơ thẩm nói riêng dần dần hoàn thiện đáp ứng nhu cầu của
nước ta trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên cần nghiên
cứu có hệ thống quy luật hình thành và phát triển của chế định thẩm quyền xét
xử sơ thẩm của TA các cấp để có cái nhìn khách quan, tổng quát nhất.
28
Thực hiện thẩm quyền của mình, gần 60 năm qua, các TA đã thực sự là
công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng chống và phòng
ngừa tội phạm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ các quyền và lợi ích của công dân. Tuy vậy, thực tiễn xét xử cũng chỉ rõ
những tồn tại trong việc quy định thẩm quyền xét xử của TA các cấp. Để góp
phần khắc phục những tồn tại đó, cần nghiên cứu một cách có hệ thống các
quy định của pháp luật, cũng như quá trình thực hiện thẩm quyền xét xử sơ
thẩm của TA các cấp theo giai đoạn lịch sử của đất nước.
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến khi Quốc hội
ban hành BLTTHS năm 1988
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công chúng ta đã khẩn trương phá
huỷ đến tận gốc rễ bộ máy hành chính quan liêu, hệ thống nhà tù, trại giam,
bộ máy tư pháp của chế độ thực dân phong kiến. Ngay những ngày đầu tháng
9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 18 ngày 8/9/1945
bãi bỏ hoàn toàn ngạch học quan; Sắc lệnh 32/S1 ngày 13/9/1945 bãi bỏ hai
ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta
khẩn trương xây dựng bộ máy Nhà nước cách mạng, trong đó có TAND.
Ở giai đoạn đầu của cách mạng tháng tám, Sắc lệnh số 33C ngày
13/9/1945 và sau đó bổ sung bằng sắc lệnh số 21 ngày 24/1/1946 của Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thiết lập các TAQS nhằm trừng trị tất cả
những người nào xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. TAQS là công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng, được thành
lập dựa trên sự phối hợp của các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tư pháp. Các
TAQS ban đầu, chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực, mà chỉ khi có
vụ án thì lập ra TA để xét xử.
TAQS có thẩm quyền xét xử “tất cả những người nào vi phạm vào một
việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
29
Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh xử theo quân luật” (Điều
2). Ngoài ra “ở những nơi xa các Tòa án Quân sự đã lập rồi, Chính phủ,
trong những trường hợp đặc biệt có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương
thành lập một toà án quân sự có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng
những nguyên tắc định trong sắc lệnh này” (Điều 7). Bản án của TAQS được
đem thi hành ngay, người phạm tội không có quyền chống án, trừ trường hợp
nếu như bản án tuyên tử hình thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính
phủ xin ân giảm...
Để tránh việc tranh chấp về thẩm quyền giữa các TA trong Sắc lệnh
33C ngày 26/9/1945 Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 37 ngày
26/9/1945 ấn định địa phương thẩm quyền của các TAQS thiết lập do Sắc
lệnh ngày 13 tháng 9 năm 1945 như sau:
TAQS Hà Nội: Thành phố Hà Nội và các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn
Tây, Hà Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Bắc Ninh và Bắc Giang.
TAQS Hải Phòng: thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải Dương, Kiến
An, Quảng Yên và Hải Ninh.
TAQS Thái nguyên: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn,
Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và Sơn La.
TAQS Ninh Bình: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam và Thái Bình.
TAQS Vinh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
TAQS Huế: Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng).
TAQS Quảng Ngãi: Các tỉnh Trung bộ ở phía Nam tỉnh Quảng Nam.
TAQS Sài Gòn: thành phố Sài Gòn - Chợ lớn và các tỉnh: Gia Định,
Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa, Ô Cấp (Cap Saint ques) Gò Công,
Tân An và Côn Đảo.
TAQS Mỹ Tho: Các tỉnh khác thuộc Nam Bộ (Điều 1).
Sau một thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử Chủ tịch
30
Hồ Chí Minh lại ban hành thêm 2 sắc lệnh: Sắc lệnh số 40 ngày 29/9/1945 đặt
thêm một TAQS ở Nha Trang xét xử các vụ án ở các tỉnh Khánh Hoà, Đắc
Lắc, Haut-Donnai, Phan Rang, Phan Thiết (Điều 2) còn TAQS Quảng Ngãi
chỉ phụ trách các tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên (Điều 3);
Sắc lệnh số 77 ngày 28/12/1945 đặt thêm một TAQS tại Phan Thiết và thẩm
quyền của các TAQS Quảng Ngãi, Nha Trang, Phan Thiết sẽ do Uỷ ban nhân
dân Trung Bộ ấn định. Các TA này đã cùng các cơ quan nhà nước khác ngay
từ đầu đã phát huy vai trò góp phần không nhỏ trong việc trấn áp kẻ thù, giữ
gìn các thành quả của cách mạng đồng thời bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Để tăng cường bộ máy tư pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số
13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà quy định về mô hình tổ chức hệ thống TA như sau:
- Ở cấp Trung ương: Tòa thượng thẩm có ở ba kỳ (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, Nam Kỳ) đóng tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn có thẩm quyền
xét xử những việc kháng cáo bản án sơ thẩm của các TA đệ nhị cấp.
- Ở cấp tỉnh: Các TA đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc TW và cấp tương đương có thẩm quyền xét xử chung thẩm
những án vi cảnh của TA sơ cấp bị kháng cáo, xét xử sơ thẩm những
việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có thể
bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đồng.
- Ở cấp huyện: các TA sơ cấp ở các huyện, thị xã, châu, phủ
có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án phạt bạc từ 0,5 đồng
đến 9 đồng, những án xử bồi thường không quá 150 đồng. Có
quyền xét xử sơ thẩm những vụ án phạt giam từ 1 đến 5 ngày,
những vụ án xử bồi thường quá 150 đồng hoặc những việc xin bồi
thường quá số tiền ấy.
Thời kỳ này còn có cấp khu nên có tư pháp khu. Khi xét xử phúc thẩm
có hội đồng phúc án của tư pháp khu.
31
Để phân biệt thẩm quyền của TA, Chính phủ đã ra sắc lệnh số 51
ngày 17/4/1946 quy định các TA sơ cấp và đệ nhị cấp có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm đồng thời cả chung thẩm, còn TA thượng thẩm chỉ xét xử phúc
thẩm. Hệ thống TA tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
từng bước quyết định thiết lập dần dần các TA ở các nơi tuỳ điều kiện
thuận lợi. Những nơi chưa có điều kiện thành lập TA, việc tư pháp vẫn do
uỷ ban hành chính đảm nhiệm.
Ngày 23/8/1946, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946
thành lập TA binh lâm thời, trụ sở đặt tại Hà Nội. Các TA binh này đều thuộc
quyền quản lý của Uỷ ban kháng chiến - hành chính khu và về chuyên môn do
Cục quân pháp - Bộ quốc phòng đảm nhiệm. Thẩm quyền của TA binh là xét
xử những quân nhân phạm tội, những người có hành vi gây thiệt hại cho quân
đội hoặc có liên quan đến quân đội và các tội phạm xảy ra ở nơi đóng quân
của quân đội. Có thể thấy sắc lệnh 163 là một trong những văn bản pháp luật
đầu tiên quy định về tổ chức, thẩm quyền của các TA binh. Đây là văn bản
pháp luật làm tiền đề cho việc quy định tổ chức, thẩm quyền của các TAQS
hiện nay. Như vậy trong thời gian này, song song tồn tại các loại TA: TAQS,
TA binh và hệ thống các TA tư pháp.
Hệ thống TA tư pháp theo sắc lệnh số 13 chỉ tồn tại đến năm 1950. Tuy
là TA cách mạng nhưng hệ thống và cơ cấu tổ chức về cơ bản vẫn theo thời
Pháp. Trong những năm 50, có những biến đổi quan trọng về tổ chức và hoạt
động của TA cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách bộ máy
tư pháp, nâng cao vị trí của TA trong bộ máy Nhà nước, Sắc lệnh 85 ngày
22/5/1950 quy định cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Đó là việc xây
dựng nền tư pháp nhân dân và mô hình tổ chức hệ thống TA. Các TA theo
Sắc lệnh 13 trước đây được đổi tên thành các TAND. Các TA sơ cấp, đệ nhị
cấp, TA thượng thẩm được đổi thành TAND huyện, TAND tỉnh và các
32
TAND liên khu. Hội đồng phúc án đổi thành Tòa phúc thẩm, còn các Phụ
thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, Hội thẩm nhân
dân có quyền xem xét hồ sơ và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết.
Các Thẩm phán được bổ nhiệm là những người có công với cách mạng, thành
phần cốt cán có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và lao động. Ngoài ra,
trong thời kỳ này còn có các TAQS, TA đặc biệt (TA đặc biệt chỉ được tổ
chức trong thời kỳ tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất).
Sắc lệnh 156 ngày 22/10/1950 đã giao cho các TAND liên khu thẩm
quyền xét xử những tội phản cách mạng thay thế cho các TAQS.
Đặc biệt do địch đang tạm thời chiếm nhiều vùng trên lãnh thổ nước ta
nên Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 157 ngày 17/11/1950 về TA vùng
tạm bị địch chiếm đóng “Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm đóng có thẩm
quyền của Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án Quân
sự...Về việc hình và hộ, Tòa án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều
khiển của Toà án nhân dân tỉnh. Nếu quản hạt của Tòa án nhân dân vùng tạm
bị chiếm là một tỉnh thì trực thuộc điều khiển của Tòa án nhân dân liên khu
hoặc của Tòa phúc thẩm. Về việc xét xử các việc thuộc thẩm quyền Tòa án
quân sự, Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Tòa
án quân sự liên khu và Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu. Nếu có Tòa
án nhân dân liên khu thì thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân liên
khu” (Điều 3). Việc thành lập và mở rộng thẩm quyền cho TAND vùng tạm
bị chiếm đã đáp ứng yêu cầu của vùng bị địch tạm chiếm tạo điều kiện cho
nhu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Để đảm bảo việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội,
củng cố chính quyền nhân dân, đẩy kháng chiến đến thắng lợi. Ngày
12/4/1953 Hồ Chủ Tịch đã ra Sắc lệnh số 150 thành lập TAND đặc biệt ở
những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất. Tòa án đặc
biệt có nhiệm vụ:
33
1- Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường hào
gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất.
2- Xét xử những vụ tranh chấp về tài sản, ruộng đất liên quan
đến các vụ án trên.
3- Xét xử những vụ tranh cãi về phân định thành phần giai cấp
TAND đặc biệt chỉ có nhiệm vụ xét xử trong lúc và ở những
nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất. Khi làm
xong nhiệm vụ, TAND đặc biệt sẽ giải tán.
TANDđặcbiệtkhôngxửnhữngvụhìnhvàhộthuộcTANDthường.
Những vụ án phản cách mạng phức tạp và phải xét xử lâu dài
thì do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu quyết định chuyển
sang TAND thường xét xử (Điều 2).
Sau khi hòa bình lập lại, tháng 4/1958 Quốc hội đã quyết định thành
lập TANDTC và Viện công tố nhân dân Trung ương. Hai cơ quan này trực
thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó ngày 14/12/1958 Thủ tướng Chính phủ
có Thông tư số 556/TTg cụ thể hoá nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp
luật bao gồm: Công an, Công tố, TA. Tinh thần các quy định của các văn
bản pháp luật này được ghi nhận vào Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
TAND năm 1960.
Trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, thông qua xét xử
các vụ án, ngành TA đã góp phần to lớn trong việc bóc trần âm mưu của các
phần tử phản cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, gây
chia rẽ trong nội bộ nhân dân.
Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã chính thức thông qua
bản Hiến pháp mới. Đây là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta.
Hiến pháp 1959 đã có những sửa đổi cơ bản so với Hiến pháp 1946
theo đó hệ thống tòa án bao gồm:
34
Tòa án nhân dân tối cao của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự là những
cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ công hòa. Trong trường
hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định
thành lập tòa án đặc biệt [35, Điều 98].
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp 1959, ngày 14/7/1960 Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức TAND năm
1960 trong đó quy định hệ thống TAND gồm có: TAND tối cao, TAND địa
phương, TAQS.
Các TAND địa phương gồm có: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương,TAND huyện, thành phố
thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, TAND ở các khu vực
tự trị. Ở các khu vực tự trị, tổ chức các TAND địa phương sẽ do Hội đồng
nhân dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp và những
nguyên tắc tổ chức TAND quy định trong luật này. Tổ chức các TAQS sẽ do
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định riêng, căn cứ vào những nguyên tắc tổ
chức TAND định trong luật này (Điều 2).
Để kiện toàn tổ chức TAND các cấp và bảo đảm việc xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngày 23/3/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và tổ chức của
các TAND địa phương.
Nhìn chung các nguyên tắc hoạt động xét xử của TAND trước đây
đươc quy định trong Pháp lệnh và Luật tổ chức TAND đều được kế thừa, ghi
nhận đầy đủ, chính xác, rõ ràng hơn các Sắc lệnh trước đó. Ví dụ: Nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai...
Tại Điều 97 trong chương VIII của Hiến pháp 1959 quy định: Hệ thống
35
xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: “Tòa án nhân dân tối
cao, các Tòa án địa phương và Tòa án quân sự. Trong trường hợp cần thiết
Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt”. Do đặc điểm về tổ
chức hành chính, các TA địa phương ở nước ta thời kỳ này, ngoài các TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, các TAND cấp
huyện còn có các TA khu tự trị. Ở khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị Tây Bắc,
tổ chức các TA địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu tự trị quy định căn
cứ vào Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960, còn việc quản lý
TA địa phương được giao cho TA tối cao.
Chế định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp được ghi
nhận cụ thể và phù hợp với tình hình chính trị lúc đó nhằm góp phần “bảo vệ
chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”.
Thẩm quyền này được các văn bản pháp luật quy định cụ thể đối với
các cấp TA như sau:
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Tại Luật tổ chức TAND năm 1960 quy định thẩm quyền của TAND
huyện như sau:
Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn
vị hành chính tương đương xử sơ thẩm những vụ án hình sự và dân
sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của các Toà án đó. Toà
án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành
chính tương đương có nhiệm vụ hoà giải những vụ tranh chấp về
dân sự, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà
và hướng dẫn công tác hoà giải ở xã và khu phố [36, Điều 16].
Như vậy, đây mới chỉ là quy định mang tính chất nguyên tắc một cách
chung chung. Do đó để cụ thể hoá vấn đề này ngày 23/3/1961 Uỷ ban thường vụ
Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh 13-PL quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC
36
và tổ chức của các TAND địa phương theo đó: “Tòa án nhân dân thành phố
thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm
quyền... Sơ thẩm những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa... Sơ thẩm
những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống” (Điều 12 điểm b, d).
Sau đó TAND tối cao đã ban hành Thông tư số 1080/TC ngày 25/9/1961 và
Thông tư số 1071/TC ngày 7/9/1965 hướng dẫn về “những việc hình sự nhỏ”
không phải mở phiên tòa nhằm giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong
quá trình thực hiện Luật tổ chức TAND 1960 và Pháp lệnh 18. Những việc đó
là những vi phạm pháp luật mà mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm
pháp không lớn, có mức án phạt không quá giá trị năm ngày gạo (nếu là phạt
tiền) và không quá năm ngày (nếu là phạt giam). TANDTC lưu ý các TAND
huyện khi xét xử phải chấp hành đường lối xét xử của Nhà nước ta đối với
những người là nhân dân lao động phạm pháp nhẹ. Đó là lấy giáo dục thuyết
phục làm chính, chỉ xử những người thật đáng tội, không xử thì nhân dân
không đồng tình. Đối với những người xử cũng được, không xử cũng được thì
không xử mà dựa vào quần chúng, dùng biện pháp hành chính, nghiêm khắc
phê bình, cảnh cáo hoặc có thể quản chế một thời gian.
Để trừng trị nghiêm khắc, kịp thời những tội lấy cắp tài sản xã hội chủ
nghĩa làm ăn phi pháp và gây rối trật tự chung ngày 22/5/1974 Bộ công an,
VKSND tối cao và TANDTC đã nhất trí về “đơn giản hoá thủ tục tố tụng đối
với một số án hình sự ít quan trọng” và để các TA huyện xét xử một cách
chính xác, nghiêm minh TANDTC đã ra Thông tư số 10-TATC ngày
8/7/1974 hướng dẫn về thủ tục rút ngắn nêu rõ loại tội áp dụng thủ tục này
phải là tội ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng, hình phạt
mà TA có thể quyết định là từ 2 năm trở xuống.
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 01/SL ngày
37
15/3/1976 về tổ chức TA ở Miền Nam, sắc lệnh quy định TA cấp huyện có
thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống
nhưng trong tình hình miền Nam mới được giải phóng hệ thống TA còn chưa
ổn định, đội ngũ Thẩm phán vừa yếu vừa thiếu không tương thích với thẩm
quyền mà pháp luật quy định vì vậy Bộ tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Thông tư 01/BTP-TT ngày
28/3/1976 về tổ chức TAND quy định chỉ giao cho TAND cấp huyện xét xử
những vụ án hình sự đơn giản, ít quan trọng, không được xét xử những tội
phản cách mạng; những tội gây tổn thương đến sức khoẻ của nhiều người
hoặc gây chết người, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến tài sản công cộng, tài
sản riêng công dân, những vụ án mà việc xác định tội phạm có nhiều khó
khăn và những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn. Việc hạn chế thẩm quyền
đối với TAND các tỉnh miền Nam mới được giải phóng là hoàn toàn phù hợp
với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Việc hạn chế thẩm quyền của TA cấp huyện chỉ được xử những vụ án
có mức phạt từ 02 năm trở xuống đã làm cho số lượng những vụ án thuộc
thẩm quyền xét của của TA cấp tỉnh tăng lên, chỉ riêng những vụ án có mức
án dưới 5 năm tù đã chiếm tới 70% tổng số án đã xét xử.
Luật tổ chức TAND năm 1981 đã kế thừa và phát triển Luật tổ chức
TAND năm 1960 và có những nội dung mới. Điều 36 quy định: “Các Tòa án
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án hình sự, trừ: Những tội xâm phạm an ninh quốc gia và những tội
phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, gây hậu quả lớn”.
Thẩm quyền mới của TA đã xác định theo sự việc chứ không bị khống
chế bởi mức hình phạt tù, không giao cho TAND cấp huyện xét xử những tội
có tính chất nghiêm trọng.
Sau khi Luật này có hiệu lực, để các TA thực hiện tốt thẩm quyền xét
38
xử, ngày 6/2/1982 TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ ban hành
Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện thẩm quyền của TA cấp huyện.
Theo thông tư này, các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được
xét xử những tội phạm về hình sự quy định tại khung 1 có mức hình phạt từ 7
năm trở xuống, nếu là hình phạt quy định trong khung 2 nhưng thực tế chỉ cần
xử phạt tương đương với khung 1 vì có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì TAND
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết.
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không được xét xử
những tội phạm phản cách mạng, những vụ án có tính chất nghiêm trọng,
phức tạp hoặc gây hậu quả lớn.
Để tạm thời giảm bớt lượng án thuộc thẩm quyền cấp tỉnh, Ngày
26/7/1986, VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ra Thông tư
liên ngành số 01/TTLL hướng dẫn các TAND cấp huyện được xét xử một số
tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có tình tiết
giảm nhẹ cho phép phạt từ 5 năm tù trở xuống. Tuy nhiên, cách giải quyết này
cũng chỉ là tạm thời, vì vẫn có điểm bất hợp lý là cho phép TA dự kiến mức
hình phạt trước khi xét xử.
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1960 và sau đó là Pháp
lệnh Tổ chức TANDTC và TAND địa phương ngày 23/3/1961, TAND cấp
huyện được xét xử những vụ án có thể xử phạt 2 năm tù trở xuống nên ngoài
công việc này ra, những công việc còn lại thuộc thẩm quyền của TAND cấp
tỉnh tức là những vụ án hình sự có thể phạt trên 2 năm tù hoặc những vụ án
thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử.
Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1981, các TAND cấp
huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt từ 5 năm tù trở xuống và
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mạiĐề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà NộiLuận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
Luận văn: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại Hà Nội
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm CaoLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Tòa Án, Điểm Cao
 
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
Đề tài: Hoạt động của tòa án nhân dân cấp huyện tỉnh Quảng Ngãi
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOTLuận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
Luận văn: Hoạt động thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, HOT
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đấtLuận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
Luận văn: Thực hiện pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAYLuận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Thực hiện pháp luật công chứng tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAYĐề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
Đề tài: Vai trò của Thẩm phán Toà án trong hoạt động xét xử, HAY
 
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hônBáo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
Báo cáo thực tập pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản khi ly hôn
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT

Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huếluanvantrust
 

Similar to Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT (20)

Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
Đề tài: Xây dựng mô hình Tòa án khu vực trong cải cách tư pháp
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOTVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự, HOT
 
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAYVai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
Vai trò của Điều tra viên trong giải quyết vụ án tại Hưng Yên, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAYLuận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
Luận văn: Tranh tụng trong xét xử theo Luật tố tụng Hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận văn: Quản lý nhà nước về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà MauLuận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
Luận văn: Quản lý về cưỡng chế Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau
 
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAYThi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
Thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính, HAY
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 

Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo luật, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM VĂN LUYỆN THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÂM VĂN LUYỆN THÈM QUYÒN XÐT Xö S¥ THÈM CñA TßA ¸N TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Trân trọng cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lâm Văn Luyện
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Bảng chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 8 1.1. Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm................... 8 1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền........................................................... 8 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm................................. 9 1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................................15 1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng.......................................15 1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng ......17 1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm ...............17 1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử................18 1.2.5. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt động tố tụng khác................................................................................19 1.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự của một số nước........................................................................................21 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.........27 2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm................27
  • 5. 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến khi Quốc hội ban hành BLTTHS năm 1988.............................................................28 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003.......................................42 2.1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về thẩm quyền xét xử sơ thẩm ................................................................................................44 2.1.4. Thẩm quyền xét xử theo pháp luật tố tụng hình sự năm 2015............57 2.2. Thực tiễn áp dụng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang.............................................69 2.2.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Hà Giang ................................69 2.2.2. Tình hình kinh tế - xã hội....................................................................70 2.2.3. Khái quát về tổ chức, bộ máy hoạt động của Tòa án nhân ở dân tỉnh Hà Giang ......................................................................................72 2.2.4. Những kết quả việc thực hiện thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân ..............................................................................................73 2.3. Những bất cập vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm....................................................................................83 2.3.1. Bất cập trong các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân các cấp.................................................................................................83 2.3.2. Bất cập về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất .......................................88 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện thẩm quyền xét xứ sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án............................91 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM.............93 3.1. Cơ sở và định hướng nâng cao hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử.......................................................................................93
  • 6. 3.1.1. Đáp ứng yêu cầu về cải cách tư pháp thể hiện trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng...................................................................93 3.1.2. Đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền ........................94 3.1.3. Để phù hợp với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các văn bản luật đã ban hành.................................................94 3.1.4. Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, xử lý tội phạm ..................94 3.1.5. Đáp ứng yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế ....................................95 3.2. Hoàn thiện pháp luật ........................................................................96 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử.......................................................................................99 3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cho Thẩm phán...........................................99 3.3.2. Xây dựng một chế độ lương và chính sách thoả đáng......................102 3.3.3. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Tòa án ..............................103 3.3.4. Một số giải pháp đồng bộ khác.........................................................105 KẾT LUẬN..................................................................................................106 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................108
  • 7. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân TAQS Tòa án quân sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XXST Xét xử sơ thẩm
  • 8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử của Tòa án các cấp tại tỉnh Hà Giang (2011 - 2015) 74 Bảng 2.2: Tình hình xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án hai cấp tỉnh Hà Giang từ 2011 - 2015 75 Bảng 2.3: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án cấp huyện tỉnh Hà Giang từ năm 2011 - 2015 81 Bảng 2.4: Tình hình thụ lý, xét xử sơ thẩm án hình sự của Tòa án cấp tỉnh từ 2011 - 2015 82
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tố tụng hình sự (TTHS) về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án (TA) là một chế định quan trọng. Thẩm quyền càng được phân định rõ ràng, khoa học, càng sát với thực tế bao nhiêu càng bảo đảm cho việc xét xử khách quan, chính xác, đúng người, đúng tội bấy nhiêu. Đối với các TA do có sự phân định thẩm quyền mà tránh được tình trạng đùn đẩy việc cho nhau. Nếu xét về góc độ kinh tế thì việc xác định đúng thẩm quyền xét xử giảm được nhiều chi phí và tiền bạc, công việc của nhà nước, tập thể và công dân cho quá trình giải quyết vụ án. Nếu xét về mối quan hệ với thẩm quyền điều tra, truy tố thì thẩm quyền xét xử của TA được coi là cơ sở để quy định thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra, thẩm quyền truy tố của Viện kiểm sát (VKS). Sự thay đổi thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TA dẫn đến sự thay đổi tương ứng thẩm quyền của các cơ quan này. Với tầm quan trọng đó các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm (XXST) luôn được chú ý từ khi ban hành pháp luật. Nhưng do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội, đến nay một số quy định về thẩm quyền XXST không còn phù hợp mặc dù đã ban hành Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Vì vậy, thực tế vẫn gây khó khăn cho tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân (TAND). Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình kinh tế - xã hội trước yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, một số quy định về thẩm quyền của TA các cấp còn bộ lộ nhiều điểm bất cập không còn phù hợp gây khó khăn cho hoạt động xét xử của TAND. Đó là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa TA cấp huyện và TA cấp tỉnh không hợp lý, vẫn giao cho TA cấp tỉnh XXST quá nhiều việc nên tình trạng tồn đọng án từ năm này sang năm khác vẫn còn. Ngoài ra, một số quy định của BLTTHS không cụ thể, các văn bản hướng dẫn chậm được ban hành nên việc nhận thức và áp dụng vào thực tiễn xét xử vấn đề giới hạn XXST.
  • 10. 2 Hiện nay, cùng với sự đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, các cơ quan tư pháp cũng được đổi mới theo hướng tăng cường hiệu quả, chất lượng hoạt động. Đối với TAND, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng đã có nhiều Nghị quyết, Chỉ thị cụ thể về việc nghiên cứu đổi mới tổ chức và hoạt động theo hướng từng bước mở rộng thẩm quyền XXST của TAND cấp huyện theo phương hướng củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền xét xử của TAND theo nguyên tắc: "Kiện toàn đến đâu, mở rộng thẩm quyền xét xử đến đó". Chính vì thế, việc nghiên cứu về thẩm quyền XXST vụ án hình sự và việc hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này là một nhiệm vụ cần thiết và hết sức quan trọng. Tìm hiểu quy định của pháp luật TTHS hiện hành về thẩm quyền XXST của TA, nghiên cứu thực tiễn xét xử liên quan đến thẩm quyền XXST trong bối cảnh cải cách tư pháp hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn lập pháp. Mặc dù, vấn đề thẩm quyền XXST các vụ án hình sự của TAND các cấp đã có nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, việc coi trọng và tiếp tục nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành vấn đề thẩm quyền XXST của TAND, thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó trước yêu cầu cải cách tư pháp là việc làm có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Đồng thời, tác giả mong muốn thông qua việc nghiên cứu tổng kết đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền XXST của TA trên địa bàn tỉnh Hà Giang, sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng công tác XXST vụ án hình sự của TA hai cấp tỉnh Hà Giang, đó chính là những lý do, luận chứng cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ luật học.
  • 11. 3 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thẩm quyền xét xử của TA là một vấn đề phức tạp cả về lý luận cũng như thực tiễn nên đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều tác giả như: Luận án tiến sĩ“Thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp” của tác giả nguyễn Văn Huyên năm 2002; luận văn thạc sĩ “Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Văn Tiến năm 1998; luận văn thạc sĩ "Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp (trên cơ sở nghiên cứu địa bàn tỉnh Nam Định" của tác giả Nguyễn Thị Bạch Tuyết năm 2014; đề tài khoa học cấp bộ “Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát hình sự trong giai đoạn giám đốc thẩm” của VKSND tối cao. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến thẩm quyền xét xử của TAND như “Nâng cải cách hệ thống Tòa án trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” của Tiến sĩ khoa học Lê Cảm (Tạp chí lập pháp số 4 năm 2001); các bài viết của Giáo sư - Tiến sĩ Hoàng Văn Hảo “Tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước”; Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trần Ngọc Đường “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”; trong cuốn “Tìm hiểu về đổi mới tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1992”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994; Tiến sĩ Phạm Hồng Hải “Một số nét lịch sử và phát triển của Luật tố tụng hình sự Việt Nam trong 50 năm qua” (Tạp chí Nhà nước và pháp luật) cùng nhiều bài viết khác nữa. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu kể trên hầu hết đều được thực hiện trước khi có BLTTHS năm 2015 được ban hành, hoặc là được nghiên cứu theo khía cạnh riêng lẻ. Kế thừa các kết quả nghiên cứu nêu trên tác giả mạnh dạn tiếp cận và nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng các quy định đó sẽ tạo cơ sở lý luận và thực tiễn để hoàn
  • 12. 4 thiện pháp luật về thẩm quyền XXST của TA trong TTHS đồng thời nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền XXST. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” dưới khía cạnh lập pháp TTHS và áp dụng chúng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”. Đồng thời, đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền xét xử của TA, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về "Thẩm quyền xét xử của Tòa án” trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được đặt ra là: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận để làm rõ khái niệm và thẩm quyền XXST của TA trong TTHS. - Các căn cứ phân định thẩm quyền XXST. - Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của chế định: "Thẩm quyền XXST của Tòa án trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay" để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về: "Thẩm quyền XXST của Tòa án trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam, BLTTHS của một số nước trên thế giới" từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
  • 13. 5 Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án". Đồng thời, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc thực hiện và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Từ đó đề xuất những định hướng và kiến nghị việc hoàn thiện các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong BLTTHS Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp bảo đảm thực hiện, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định này trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá tình hình áp dụng các quy định về thẩm quyền trong thực tiễn xét xử của các đơn vị TAND thuộc tỉnh Hà Giang và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định và đề xuất những biện pháp bảo đảm thực hiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về thẩm quyền XXST của TA, nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong thực tiễn. Phạm vi của luận văn chỉ nghiên cứu về thẩm quyền XXST của TAND các cấp. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của TA và thẩm quyền xét xử của TA quân sự không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các quy định về “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang trong 5 năm 2011 - 2015. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách pháp luật TTHS, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
  • 14. 6 hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, XII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn thẩm quyền XXST của TAND cấp huyện và thẩm quyền XXST của TAND cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê; thảo luận, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Đề tài nghiên cứu: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam" là một đề tài phức tạp, lần đầu tiên tiếp cận, làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên đề tài thạc sĩ của tác giả khó có thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn. 5. Những vấn đề mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên sau khi có BLTTHS năm 2003 và có hệ thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” để xây dựng nên khái niệm về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời chỉ ra các căn cứ để phân định thẩm quyền XXST của TA;
  • 15. 7 - Nghiên cứu chỉ ra những điểm khái quát về lịch sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” trong Luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay; - Nghiên cứu, đánh giá các quy định về: "Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án" trong Luật TTHS Việt Nam và BLTTHS một số nước trên thế giới; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về tình hình áp dụng các quy định về:“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án” của các đơn vị TAND tại tỉnh Hà Giang; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định về: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án”, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó. Chúng tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu khiêm tốn mà chúng tôi đạt được sẽ góp một phần nhỏ vào hệ thống lý luận khoa học luật TTHS, vào hoàn thiện pháp luật TTHS, là tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy và học tập. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thẩm quyền xét xử của Tòa án (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang).
  • 16. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và đặc điểm về thẩm quyền xét xử sơ thẩm 1.1.1. Khái niệm chung về thẩm quyền Thẩm quyền là một khái niệm khá rộng và có những quan niệm khác nhau, xuất phát từ thuật ngữ Jurisdiction - trong tiếng Anh hay jurisdictio - trong tiếng La Tinh, thường được hiểu trong tiếng Việt là thẩm quyền, thẩm quyền xét xử, hay quyền tài phán, là một trong những thuật ngữ pháp lý khó hiểu do chứa đựng nhiều nghĩa khác nhau [69, tr. 609]. Cho đến nay, việc nghiên cứu lý luận về thẩm quyền vẫn còn nhiều khoảng trống [71]. Theo từ điển Black’s Law, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu theo hai nghĩa: (i) Quyền lực của chính phủ được thực hiện với tất cả mọi người cũng như với các đối tượng khác trong lãnh thổ của họ; (ii) Quyền của tòa án để quyết định một vụ việc hay quyền đưa ra các phán quyết [70, tr. 96]. Theo Từ điển Oxford, thuật ngữ “thẩm quyền” được hiểu là quyền lực chính thức của một chủ thể để đưa ra một quyết định pháp lý hoặc một bản án [72]. Theo từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền được hiểu là quyền xem xét để kết luận và định đoạt, quyết định một vấn đề theo pháp luật [67, tr. 920]. Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa,“thẩm quyền” là tổng hợp các quyền hành động, quyền quyết định được trao hay thừa nhận cho một chủ thể, cho phép chủ thể đó có thể thực hiện được những chức năng cụ thể mà pháp luật quy định [64]. Thuật ngữ về "Thẩm quyền" của Việt Nam xét về nghĩa nói chung giống với nghĩa trong tiếng nước ngoài, nhưng cách sử dụng thuật ngữ có nhiều điểm khác biệt nhất định. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về thẩm quyền, tuy nhiên, tựu trung lại đều được hiểu: “Thẩm quyền là khả năng của
  • 17. 9 chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt một công việc nào đó trên cơ sở chuẩn mực pháp luật đã định trước”. Qua sự phân tích trên có thể rút ra kết luận: “Thẩm quyền là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định cho một chủ thể nhất định được thực hiện công việc trong một lĩnh vực, một phạm vi nhất định” 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm thẩm quyền xét xử sơ thẩm Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thẩm quyền xét xử, theo từ điển Luật học thì: Xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của các Tòa án. Các Tòa án là những cơ quan duy nhất của một nước được đảm nhiệm chức năng xét xử. Mọi bản án do Tòa án tuyên đều phải thông qua xét xử. Không ai có thể bị buộc tội mà không qua xét xử của các Tòa án và kết quả xét xử phải được công bố công khai bằng bản án [64]. Khái niệm về: “Thẩm quyền xét xử” của Toà án không phải là một điều mới mẻ trong giới luật học trong nước cũng như thế giới. Theo Leneunier thì: “Thẩm quyền xét xử được hiểu là khả năng của một Toà án xem xét một vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép”. Ở nước ta thẩm quyền xét xử đã được nghiên cứu dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ tố tụng dân sự thì: “Thẩm quyền dân sự của toà án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố tụng dân sự của toà án”. Dưới góc độ tố tụng hành chính thì: "Thẩm quyền xét xử của toà án hành chính là việc giải quyết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính..." [56]. Trong TTHS thẩm quyền xét xử được xác định dựa trên một số các dấu hiệu của vụ án, chúng ta có thể chia các dấu hiệu đó làm ba nhóm sau:
  • 18. 10 Thứ nhất, dựa vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; nếu tính chất càng nghiêm trọng, vụ án càng phức tạp thì đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có nhiều kinh nghiệm, cơ sở vật chất phải đầy đủ, các yếu tố bổ trợ phải đảm bảo cho quá trình nhận thức các yếu tố một cách khách quan công bằng, đúng pháp luật. Do đó các dấu hiệu này được sử dụng nhằm phân biệt thẩm quyền của TAND cấp huyện với TAND cấp tỉnh, giữa Tòa án quân sự (TAQS) khu vực với TAQS Quân khu. Thứ hai, là dựa trên các dấu hiệu về không gian hoặc địa điểm thực hiện tội phạm, thực hiện hành vi tố tụng. Các dấu hiệu này được sử dụng nhằm phân định thẩm quyền xét xử của các Toà án cùng cấp. Nếu có bị cáo phạm tội ở nước ngoài được xét xử ở Việt Nam thì các dấu hiệu này cũng được sử dụng để phân biệt thẩm quyền xét xử của TA các cấp. Thứ ba, là dựa trên những dấu hiệu liên quan đến người thực hiện tội phạm. Các dấu hiệu này được sử dụng nhằm phân định thẩm quyền xét xử giữa TAQS và TAND, giữa TAQS các cấp với nhau và xác định thẩm quyền của TA đặc biệt. Như vậy, muốn xác định được một cách chính xác thẩm quyền XXST của một TAND những người tiến hành tố tụng phải dựa trên cả ba nhóm dấu hiệu trên, bởi vì chúng có tác dụng bổ trợ, tương hỗ với nhau hay nói cách khác giữa chúng có mối liên hệ biện chứng hữu cơ với nhau cho nên nếu thiếu một dấu hiệu nào cũng có thể dẫn tới tình trạng xác định thẩm quyền xét xử một cách không chính xác và không có căn cứ pháp luật. Trong khi đó đây lại là một trong những giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng nếu làm không tốt sẽ dẫn tới tình trạng “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” hình sự. Tuy nhiên, muốn xác định một cách chính xác thẩm quyền xét xử thuộc về cấp nào và có được áp dụng thủ tục xét lại bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật hay không thì chúng ta còn phải căn cứ vào bản chất của mỗi cấp xét xử, của thủ tục xét lại đó.
  • 19. 11 Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Quyền xét xử thuộc về TA được hiểu là thẩm quyền xét xử. Theo Điều 3 Luật tổ chức TAND năm 2014 hệ thống tổ chức TA gồm có: Toà án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân cấp cao; Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; Tòa án quân sự [44, tr. 9-10] Trong đó, theo Điều 20 Luật tổ chức TAND năm 2014 thì TAND tối cao giám đốc thẩm, tái phẩm bản án, quyết định của các Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Tòa án nhân dân cấp cao cao có nhiệm vụ: Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của luật tố tụng. Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị không nghị theo quy định của luật tố tụng [44, tr. 24]. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiệm vụ: Sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật; Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật;
  • 20. 12 Kiểm tra bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, khi phát hiện các vi phạm pháp luật hoặc các tình tiết mới theo quy định của luật tố tụng thì kiến nghị với Chánh án Tòa án nhân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét, kháng nghị; Giải quyết việc khác theo quy định của pháp luật [44, tr. 28]. Nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương theo Điều 44 Luật TCTAND năm 2014 thì "sơ thẩm vụ việc theo quy định của pháp luật và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quân sự được quy định tại Điều 49 Luật TCTAND xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của pháp luật. Việc kết tội một công dân có ảnh hưởng rất lớn đến đến danh dự, nhân quyền, tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy, TA được quy định là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự và Tòa án cũng là cơ quan duy nhất có quyền thay mặt Nhà nước tuyên bố một người có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật” [41, Điều 9]. Việc xét xử của TA hoàn toàn khác biệt với biện pháp xử lý của cơ quan hành chính, bởi lẽ: hoạt động xét xử được áp dụng những chế tài, kể cả hình phạt và việc xét xử được tiến hành theo những thủ tục chặt chẽ được quy định trong pháp luật tố tụng. Do vậy, hiệu lực các phán quyết của TA cũng cao hơn các biện pháp xử lý hành chính khác. Khi xác định thẩm quyền xét xử của TA, cần phải xác định đồng thời
  • 21. 13 ba nhóm dấu hiệu là: Những dấu hiệu thể hiện tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm hoặc vụ án; những dấu hiệu về không gian, thời gian thực hiện tội phạm; những dấu hiệu liên quan đến đối tượng phạm tội. Chỉ trên cơ sở xem xét đầy đủ cả ba nhóm dấu hiệu nêu trên mới có thể xác định thẩm quyền xét xử được chính xác. Có thể đưa ra khái niệm về thẩm quyền XXST của TA như sau:“Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là tổng hợp các quyền theo quy định của pháp luật để Tòa án giải quyết các tranh chấp trong xã hội thông qua việc xem xét, đánh giá, phán quyết có tính cưỡng chế của Nhà nước”. Và thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự là: “Quyền của Tòa án được xét xử vụ án hình sự do pháp luật TTHS quy định dựa trên cơ sở dấu hiệu về tính nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, tính phức tạp của vụ án, địa điểm xảy ra tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội”. Trong phạm vi luận văn, tôi chỉ xin đề cập đến thẩm quyền XXST về hình sự của TAND. Từ khái niệm về thẩm quyền XXST của TA nêu trên và căn cứ vào những quy định của Hiến pháp 2013 năm và BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức TAND năm 2014 cho thấy các đặc điểm cơ bản của thẩm quyền XXST vụ án hình sự như sau: a. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có tính bắt buộc. TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, do các cơ quan, chủ thể khác nhau đảm nhiệm thực hiện. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự mang tính bắt buộc thể hiện ở việc do là một giai đoạn của TTHS nên đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các thủ tục khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử lần đầu do đó là thủ tục bắt buộc. b. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự là xét xử lần đầu vụ án. Do đó, vụ án được đưa ra giải quyết công khai với sự có mặt đầy đủ những người tham gia tố tụng.
  • 22. 14 Trên những tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra. TA là cơ quan đại diện Nhà nước được xem xét, đánh giá những chứng cứ đã có đồng thời thu thập thêm những chứng cứ cần thiết khác qua hoạt động xét xử tại phiên tòa. Tất cả các tài liệu, chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập trong quá trình điều tra, truy tố đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS họ đã không có điều kiện để thực hiện. Nói một cách khác, XXST chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã truy tố bị can ra trước TA bằng bản cáo trạng. Do đó, XXST là một công đoạn trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. c. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS có kết quả là một bản án, quyết định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Các phán quyết của TA được xem xét, đánh giá trên cơ sở những chứng cứ đã có, đồng thời thu thập thêm các chứng cứ cần thiết để làm sáng tỏ vụ án. Ngoài ra, vụ án còn dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng giữa các bên, để từ đó TA ra bản án, các quyết định có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, hợp lý, hợp tình và đảm bảo quyền lợi của các bên. Phán quyết của TA là phán quyết về bản chất của vụ án (bao gồm: bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hậu quả pháp lý về hình phạt, biện pháp tư pháp khác hay quyết định khác bị cáo phải gánh chịu...) trên cơ sở tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình phạt), pháp luật TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử...). d. Thẩm quyền XXST của TAND theo pháp luật TTHS Việt Nam góp phần vào việc xử lý triệt để và dứt điểm vụ án hình sự. Qua đó, giảm thiểu tối đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, duy trì công lý, phục hồi lại công bằng trong xã hội, trấn an dư luận và bảo đảm quyền lợi của công dân.
  • 23. 15 Lần đầu xét xử, thẩm quyền XXST vụ án hình sự không chỉ xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ và khách quan về vụ án, mà còn góp phần vào việc xử lý triệt để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Qua đó, giảm thiểu mức tối đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, án tồn đọng. Do đó, sẽ hạn chế được lượng án mà TA cấp trên (cấp phúc thẩm) phải giải quyết, tiết kiệm đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức... cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của TA nói riêng, cũng như các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nói chung. Ngoài ra, việc xét xử công khai, dân chủ và nghiêm minh vụ án hình sự còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn (tối cao) của pháp luật, duy trì công lý, phục hồi và đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp luật, trấn an sự bức xúc của người bị hại và gia đình họ, sự lên án của dư luận xã hội, đồng thời qua đó góp phần tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của công dân, của người bị hại và của bản thân bị cáo, cũng như những người tham gia tố tụng khác. 1.2. Căn cứ quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm Thẩm quyền XXST của TA là một trong những chế định trung tâm của TTHS. Việc quy định đúng đắn và phù hợp thẩm quyền xét xử của TA có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ tố tụng là phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; tôn trọng và bảo vệ lợi ích Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; giáo dục công dân ý thức tuân thủ pháp luật, tham gia đấu tranh chống tội phạm. Do đó để quy định thẩm quyền xét xử của TAND nói chung và thẩm quyền XXST của TAND nói riêng được chính xác chúng ta phải dựa trên những luận cứ khoa học chắc chắn đã được đúc rút và kiểm chứng từ thực tiễn. Đó là một số căn cứ cơ bản sau: 1.2.1. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo
  • 24. 16 duy nhất của Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng lãnh đạo thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách qua từng thời kỳ nhất định và sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu để thể chế hóa các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng đi vào cuộc sống. Việc xây dựng các quy định về thẩm quyền XXST của TA không thể không dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước. Vấn đề thẩm quyền XXST và việc phân định lại thẩm quyền XXST của TAND các cấp luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách tư pháp nói chung và đổi mới tổ chức hoạt động của ngành TA nói riêng. Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII- BCHTW Đảng (khóa VII) đã đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp trong đó xác định: “...Nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện theo hướng việc xét xử được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng nêu rõ: “Sắp xếp lại hệ thống TAND, phân định hợp lý thẩm quyền của TAND các cấp”. Bước sang thế kỷ thứ XXI, nước Việt Nam đang có những bước tiến vô cùng mạnh mẽ, nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hệ thống TA trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Tiếp đến là Nghị quyết số 49 ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã thể hiện sự quyết tâm của Đảng và Nhà nước về sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống TA. Đó chính là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng BLTTHS năm 2015, trong đó có việc xây dựng những quy định về thẩm quyền XXST các vụ án hình sự của TAND. Những định hướng chiến lược là kết quả hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng. Theo đó, việc tuân theo đường lối, chính sách của Đảng là một trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng và sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS về thẩm quyền XXST của TA các cấp.
  • 25. 17 1.2.2. Căn cứ vào nguyên tắc tổ chức, hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng Nhà nước ta được chia theo 03 cấp đơn vị hành chính lãnh thổ: Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp huyện (quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã); cấp xã (xã, phường, thị trấn). Dựa theo sự phân chia này, hệ thống TA cũng được tổ chức từ trung ương đến cấp huyện gồm TAND tối cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện, khác với các cơ quan khác hệ thống TA chỉ có đến cấp huyện, quận và mối quan hệ giữa TA các cấp không phải là mối quan hệ phục tùng, chỉ đạo mà chỉ là mối quan hệ theo thẩm quyền. Mối quan hệ này đảm bảo cho các TA xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Căn cứ vào cách thức tổ chức hệ thống các cơ quan Nhà nước theo đơn vị hành chính lãnh thổ, căn cứ vào điều kiện, khả năng thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng, BLTTHS đã quy định về thẩm quyền xét xử cho từng cấp TA. BLTTHS căn cứ vào cách thức tổ chức đó để quy định thẩm quyền xét xử. Dựa vào thẩm quyền theo luật định mỗi cấp TA đều có quyền xét xử riêng mà không bị chi phối bởi TA cấp trên để phân định thẩm quyền của TA. Việc phân định thẩm quyền như trên không chỉ đảm bảo tính khoa học về mặt quản lý mà còn phát huy được khả năng phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, các cơ quan bổ trợ tư pháp trong giải quyết các vụ án. 1.2.3. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm Tính chất nghiêm trọng của tội phạm được xác định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo đó tội phạm càng nghiêm trọng thì mức độ gây nguy hại cho xã hội của tội phạm càng lớn. Tính nghiêm trọng của tội phạm được các nhà làm luật thể hiện qua mức chế tài quy định với loại tội phạm đó. Theo Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) thì tội phạm là hành vi nguy hiểm
  • 26. 18 cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện cố ý hoặc vô ý, xâm phạm tới các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Khái niệm này cho thấy cơ sở quan trọng để xác định tội phạm chính là tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội mới bị coi là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xem xét ở hai mặt: mặt thực tế (tức là đã gây thiệt hại hoặc có nguy cơ gây thiệt hại) cho một hay nhiều khách thể nhất định và mặt xã hội (tức là xem xét tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải được đặt trong những điều kiện xã hội nhất định). Đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của một loại tội phạm phải xem tính chất, tầm quan trọng và giá trị của các quan hệ xã hội do tội phạm đó xâm hại. Hành vi phạm tội càng xâm hại đến những quan hệ xã hội, khách thể quan trọng càng gây nguy hại lớn cho xã hội thì tội phạm càng nghiêm trọng. Tính nghiêm trọng của tội phạm được nhà làm luật thể hiện thông qua mức chế tài quy định với tội phạm đó. Tội phạm càng nghiêm trọng thì hình phạt càng cao. Vì vậy, muốn giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội thì khi phân định thẩm quyền xét xử cho TA các cấp phải căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm. 1.2.4. Căn cứ vào thực trạng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử Thực hiện hoạt động tố tụng là cá nhân con người cụ thể, kết quả của hoạt động tố tụng ít nhiều vẫn mang màu sắc chủ quan của con người. Để có thể phản ánh một cách khách quan sự việc phạm tội, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo tính công bằng trong xã hội thì người tiến hành tố tụng cần phải có trình độ chuyên môn, năng lực nhất định. Vụ án càng phức tạp càng cần thiết đòi hỏi người có trình độ năng lực cao hơn giải quyết. Việc phân định thẩm quyền xét xử không thể không dựa trên cơ sở trình độ của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Hiện nay chúng ta đang thực
  • 27. 19 hiện tiêu chuẩn hóa Thẩm phán theo đúng quy định của pháp luật. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp ngoài việc bắt buộc phải có trình độ cử nhân luật, còn phải được đào tạo qua lớp nghiệp vụ xét xử và phải có thâm niên công tác 04 năm. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán trung cấp phải qua 05 năm làm Thẩm phán sơ cấp. Để được bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND tối cao phải có ít nhất 05 năm là Thẩm phán trung cấp...Nếu so sánh trình độ của Thẩm phán hiện nay với trình độ của Thẩm phán năm 1994 thì đã có bước tiến đáng kể. Không còn Thẩm phán chỉ có trình độ sơ cấp, trung cấp và luân huấn. Thẩm phán còn nợ tiêu chuẩn đại học luật đã học nhưng chưa tốt nghiệp cũng chỉ rất hạn chế ở một số tỉnh miền núi. Thực tiễn cho thấy năng lực, trình độ chuyên môn của người Thẩm phán có mối quan hệ mật thiết với thẩm quyền xét xử của TAND các cấp. Với tính chất đặc thù của hoạt động xét xử, TA cần phải có đội ngũ những người làm nhiệm vụ xét xử có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, có kiến thức pháp lý, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi hội tụ đủ những phẩm chất như trên thì Thẩm phán mới có thể độc lập thực sự để giải quyết các vụ án một cách nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Trình độ chuyên môn cùng với kinh nghiệm thực tế tạo thành năng lực của người Thẩm phán. Những vụ án càng nghiêm trọng, phức tạp càng đòi hỏi phải được giao cho những Thẩm phán có năng lực cao giải quyết. Vì vậy, khi phân định thẩm quyền xét xử phải căn cứ vào trình độ, năng lực của Thẩm phán để quy định cho phù hợp, đảm bảo cho các đơn vị TA có đủ điều kiện, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình. 1.2.5. Căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử và các hoạt động tố tụng khác Bất kỳ một hoạt động tố tụng nào cũng phải tính đến yếu tố kinh tế. Phải tính toán sao cho vừa đạt được hiệu quả vừa phải chi phí ở mức thấp nhất. Có thể xem xét hiệu quả kinh tế trong hoạt động tố tụng ở các mặt sau:
  • 28. 20 - Chi phí cho hoạt động điều tra: Các vụ án được điều tra ở cấp huyện thì ít tốn kém và có điều kiện thu thập chứng cứ tốt hơn cấp tỉnh, bởi lẽ cơ quan điều tra vừa tiếp cận kịp thời được hiện trường vụ án vừa tiết kiệm được chi phí đi lại trong việc khám nghiệm hiện trường, xác minh thu thập chứng cứ. - Chi phí cho hoạt động xét xử: Những vụ án được xét xử sơ thẩm ở cấp huyện thì cấp tỉnh xét xử phúc thẩm sẽ giảm được khoản chi phí đi lại ăn ngủ cho hội đồng xét xử phúc thẩm. Qua đó cho thấy, vụ án càng được xét xử ở TA cấp thấp hơn thì càng cắt giảm được các khoản chi phí cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử cũng như của những người tham gia tố tụng, các tổ chức xã hội và công dân khi tham gia tố tụng. Tóm lại: Để quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm về hình sự của TAND phải căn cứ vào đường lối chính sách của Đảng, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động, cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng; căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm; căn cứ vào thực trạng của đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử; căn cứ vào hiệu quả kinh tế của hoạt động xét xử, các hoạt động tố tụng khác. Các căn cứ trên có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau, nhưng đều nằm trong mối quan hệ thống nhất. Vì vậy, nhà làm luật cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống, có những dự báo cần thiết liên quan đến các căn cứ thì mới có khả năng quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp một cách phù hợp. Trên cơ sở đó đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả của hoạt động tố tụng, là cơ sở để tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, đảm bảo cho việc xét xử chính xác, khách quan các vụ án hình sự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
  • 29. 21 1.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm trong Luật Tố tụng hình sự của một số nước Việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phương Tây có những điểm rất khác nhau: * Tại Malaysia: Malaysia là một nước liên bang, do vậy mô hình tổ chức của TA ở Malaysia có những đặc điểm riêng. Hệ thống TA ở Malaysia bao gồm: TA liên bang, TA phúc thẩm, TA thượng thẩm, TA xét xử theo phiên và TA địa hạt. - Tòa án liên bang là TA cao nhất trong hệ thống TA ở Malaysia (ở Việt Nam là TANDTC) có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án hình sự, dân sự của TA phúc thẩm bị kháng cáo. - Toà án phúc thẩm là TA có vị trí thứ 2 sau TA liên bang. Tòa án này có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định về dân sự, hình sự của TA thượng thẩm có kháng cáo. - TA thượng thẩm: Malaysia có 2 Toà thượng thẩm theo khu vực. TA thượng thẩm có thẩm quyền XXST và phúc thẩm. TA thượng thẩm có thẩm quyền XXST đối với các tội phạm xảy ra trên địa bàn, chủ yếu là đối với các tội phạm hình sự nghiêm trọng, chẳng hạn như tội buôn bán, vận chuyển ma tuý, tội giết người, các tội theo Luật về vũ khí có khung hình phạt cao nhất đến tử hình. TA thượng thẩm cũng thực hiện xét xử phúc thẩm đối với những bản án, quyết định của TA địa phương trong phạm vi địa bàn của mình. Ngoài ra, TA thượng thẩm cũng thực hiện giám đốc về xét xử hình sự đối với các bản án, quyết định của các TA địa phương. - TA xét xử theo phiên: Có thẩm quyền XXST đối với tất cả các tội phạm, trừ tội có mức hình phạt cao nhất là tử hình. - Toà án địa hạt: TA này được thành lập ở hầu hết các đô thị tại Malaysia, có thẩm quyền XXST đối với các tội phạm áp dụng hình phạt
  • 30. 22 không quá 5 năm tù, phạt tiền không quá 10.000 ringit, hoặc có thể quyết định hình phạt đánh roi da tối đa là 12 roi trong khi xét xử đối với các tội phạm chỉ có hình phạt tiền là hình phạt chính, tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt không quá 10 năm tù. - Về vấn đề bổ nhiệm Thẩm phán: Chánh án TA Liên bang do nhà Vua bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng, trên cơ sở có tham khảo ý kiến của một Hội đồng do nhà Vua thành lập. Việc bổ nhiệm Chánh án TA phúc thẩm, TA thượng thẩm cũng như Thẩm phán của TA liên bang, TA phúc thẩm, TA thượng thẩm cũng được thực hiện như trên. Để trở thành Thẩm phán TA liên bang thì phải là Thẩm phán đương nhiệm của TA phúc thẩm hoặc thượng thẩm và phải có thời gian công tác từ 10 -15 năm. Thẩm phán TA Liên bang, TA phúc thẩm, TA thượng thẩm được bổ nhiệm suốt đời. Để đảm bảo tính độc lập cho Thẩm phán khi xét xử, Malaysia không coi Thẩm phán là một công chức nhà nước mà có chế độ đãi ngộ riêng theo quy định do Nghị viện ban hành. * Tại Canada: Ngoài những quy định cụ thể về thẩm quyền xét xử của TA theo luật định, khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật Canada còn quy định vấn đề thẩm quyền xét xử hình sự của TA phụ thuộc vào yêu cầu của người bị hại và bị can, bị cáo. Chẳng hạn, nếu các bên không có yêu cầu việc xét xử có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn thì TA cấp tiểu bang sẽ xét xử; nếu một trong hai bên yêu cầu có Bổi thẩm đoàn thì việc xét xử sẽ thuộc quyền của TA sơ thẩm liên bang. - Về quy trình bổ nhiệm Thẩm phán: pháp luật Canada quy định quy trình bổ nhiệm, bãi nhiệm Thẩm phán hết sức chặt chẽ, để có thể được bổ nhiệm là Thẩm phán, ứng cử viên phải trải qua một thời gian nhất định hành nghề luật sư, giai đoạn này có thể kéo dài đến 20 năm. Việc bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành thông qua sự giới thiệu của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán. Mỗi bang thành lập một Hội đồng, Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán là tổ chức phi chính phủ.
  • 31. 23 - Thẩm phán ở Canada được bổ nhiệm bởi chính quyền hành pháp, theo đó Thẩm phán TA cấp thấp được bổ nhiệm bởi chính quyền tiểu bang và các Thẩm phán thuộc các TA khác do chính quyền liên bang bổ nhiệm. Thẩm phán cho Toà phúc thẩm do Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thủ tướng thông qua các cơ quan chức năng sẽ tiến hành lựa chọn những Thẩm phán đủ điều kiện thông qua việc rút, điều chuyển Thẩm phán từ TA cấp dưới lên. Tương xứng với những đòi hỏi khắt khe trong quá trình bổ nhiệm, Canada có một chế độ đãi ngộ khá ưu đãi cho Thẩm phán. Khi một Thẩm phán được bổ nhiệm, mức lương thấp nhất theo ước tính thu nhập tương đương khoảng 135.000$/năm, xấp xỉ bằng thu nhập của một Luật sư đã hành nghề 20 năm. Ngoài ra, chế độ nghỉ hưu và bảo hiểm xã hội đối với Thẩm phán cũng có nhiều ưu đãi, đảm bảo tốt nhất cuộc sống của người Thẩm phán và gia đình họ. Xuất phát từ những đặc điểm hệ thống chính trị, về nguyên tắc tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước, nên những điểm khác biệt trong hệ thống pháp luật Canada cũng như hệ thống pháp luật Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên, những quy định về thẩm quyền xét xử về hình sự của Canada cũng là những kinh nghiệm quý báu để Việt Nam nghiên cứu, chọn lọc cho phù hợp với điều kiện ở Việt Nam. Qua nghiên cứu mô hình tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế giới thì thấy rằng không có nước nào có hệ thống TA theo cơ cấu 3 cấp: Sơ thẩm - phúc thẩm - giám đốc thẩm và rất ít nước cho phép TA cấp thấp nhất được xử những tội phạm nghiêm trọng có hình phạt đến 15 năm tù. Đơn cử một số mô hình sau: * Tại Nhật Bản: Trong tố tụng hình sự, hệ thống TA được chia thành 4 cấp: TA tối cao, TA cấp cao, TA quận và TA giản lược. TA tối cao có vai trò là toà phá án, TA cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những vụ án có
  • 32. 24 kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của TA quận và TA giản lược. Ngoài ra, TA này cũng có quyền xét xử những vụ án liên quan đến bị cáo phản bội tổ quốc. TA quận xét xử mọi tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp cao và Tòa án giản lược. Tòa án giản lược chỉ xét xử những vụ án có bị cáo phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt dưới 3 năm tù. Như vậy, cấp tòa thấp nhất - Tòa án giản lược chỉ được xử những vụ án đơn giản ít nghiêm trọng và như vậy, có thể thấy trung tâm xét xử của hệ thống TTHS Nhật Bản là TA cấp quận. * Tại Pháp: Có 3 loại thủ tục chính trong TTHS Pháp và tương ứng là 3 cấp TA. Đối với các tội đại hình như giết người, hiếp dâm hay cướp có vũ khí mà hình phạt áp dụng từ 5 năm tới chung thân, vụ án sẽ được xét xử ở 1 trong 33 toà đại hình trên toàn nước Pháp, án xử có hiệu lực ngay và không có thủ tục phúc thẩm trừ khi xin được xem xét lại ở toà tối cao (toà phá án). Đối với các tội có mức hình phạt có thể áp dụng từ 02 tháng đến 05 năm tù hoặc phạt tiền đến 25.000 france, vụ án sẽ được xét xử ở tòa tiểu hình. Cấp tòa thấp nhất là toà vi cảnh xét xử những án phạt tù từ 01 ngày đến dưới 02 tháng tù hoặc phạt tiền tối đa dưới 25.000 france. Tất cả những kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm đối với những bản án, quyết định đã tuyên ở tòa vi cảnh hay tòa tiểu hình đều được xử ở cấp tòa phúc thẩm (cấp tòa độc lập không trực thuộc TATC). Mô hình tố tụng Pháp cho thấy thẩm quyền xét xử ở cấp tòa thấp nhất chỉ hạn chế với những vụ án không nghiêm trọng, đơn giản và có sự phân định rõ thẩm quyền giữa các tòa để xét xử các loại tội: Vi cảnh, tiểu hình, đại hình; giữa tòa XXST và tòa phúc thẩm chuyên trách. Bên cạnh đó sự phân loại tội phạm tội đại hình, tiểu hình và vi cảnh có ý nghĩa cơ bản để xác định thủ tục tố tụng và thẩm quyền tố tụng tương ứng. Đây là điểm then chốt chúng ta cần tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta.
  • 33. 25 Việc tổ chức và hoạt động của TA thường thể hiện tính đa dạng khác nhau của các Nhà nước, nhưng giữa chúng có những điểm rất chung thể hiện tính quy luật chung của hoạt động xét xử. Hoạt động của TA thường được phân theo các cấp xét xử: Cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Cấp sơ thẩm xét xử các vụ việc ít nghiêm trọng; các TA phúc thẩm có quyền phúc thẩm các quyết định xét xử của các TA cấp dưới. Hoạt động của hai loại TA này tạo thành hai cấp xét xử chính trong hoạt động của TA hiện nay. TA tối cao là cấp xét xử cuối cùng, có quyền phúc thẩm các vụ việc đã được các TA cấp dưới xét xử. Các quyết định của TA tối cao có hiệu lực pháp lý cuối cùng, không được kháng nghị hoặc kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm như của Tòa án cấp dưới. Bên cạnh đó, việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp phương Tây cũng có những điểm khác nhau: Phân loại theo vụ việc: TA được chia làm hai loại: TA có thẩm quyền chung và TA chuyên biệt. + TA có thẩm quyền chung bao gồm: Tòa sơ thẩm là TA cấp thấp nhất trong hệ thống TA của mỗi quốc gia có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ tranh tụng về hình sự (tiểu hình và đại hình). TA phúc thẩm có quyền xét lại bản án của Toà sơ thẩm, nếu có kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị, thì quyết định của các Tòa sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. + TA chuyên biệt gồm có: Tòa lao động, TAQS, Tòa hành chính... Phân loại theo các hệ thống pháp luật: Xét dưới góc độ tố tụng và hệ thống pháp luật thì việc tổ chức và hoạt động tư pháp của hai hệ thống pháp luật cơ bản của thế giới là Châu Âu lục địa và Anh - Mỹ có sự khác nhau lớn: Nếu như ở Châu Âu lục địa, tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán không những có quyền tăng hình phạt, mà còn xem xét cả nội dung vụ việc và cả
  • 34. 26 luật áp dụng, thì của hệ thống Anh - Mỹ chỉ được xem xét luật áp dụng và chỉ được giảm hình phạt đã được tuyên của tòa sơ thẩm. Nếu như ở Nhà nước của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Thẩm phán không có quyền sáng tạo ra pháp luật, thì ngược lại ở hệ thống Anh - Mỹ, Thẩm phán lại có quyền này. Như vậy, việc phân định thẩm quyền của TA ở các nước khác nhau phải dựa vào hệ thống TA nước đó và phù hợp với Hiến pháp. Đồng thời, nó còn phải dựa vào căn cứ phân loại tội phạm của BLHS của mỗi nước. Mỗi một cách thức tổ chức TA và quy định về thẩm quyền xét xử trên thế giới đều có những ưu và khuyết điểm khác nhau. Vì vậy, việc xem xét các quy định về thẩm quyền của Luật TTHS các nước khác có ý nghĩa quan trọng chúng ta cần phải tham khảo, học hỏi, để từng bước xây dựng pháp luật TTHS ngày càng hoàn chỉnh, làm cơ sở tham khảo cho quá trình hoàn thiện pháp luật TTHS ở nước ta [59, tr. 65 - 70].
  • 35. 27 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN XÉT XỬ SƠ THẨM 2.1. Quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm Cách mạng tháng Tám 1945 thành công đã đánh dấu một bước tiến nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam. Một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc đã mở ra, kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ hoàn toàn chế độ quân chủ chuyên chế đã tồn tại gần ngàn năm lập ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (ngày nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là Nhà nước độc lập, dân chủ và thực sự của nhân dân. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện". TAND nằm trong hệ thống cấu thành bộ máy Nhà nước, luôn là một công cụ đắc lực của chính quyền nhân dân trong cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm hậu thuẫn cho quá trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Trải qua bao nhiêu khó khăn, biến cố hệ thống pháp luật về tòa án nói chung và TAND cấp cấp sơ thẩm nói riêng dần dần hoàn thiện đáp ứng nhu cầu của nước ta trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên cần nghiên cứu có hệ thống quy luật hình thành và phát triển của chế định thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TA các cấp để có cái nhìn khách quan, tổng quát nhất.
  • 36. 28 Thực hiện thẩm quyền của mình, gần 60 năm qua, các TA đã thực sự là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng chống và phòng ngừa tội phạm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích của công dân. Tuy vậy, thực tiễn xét xử cũng chỉ rõ những tồn tại trong việc quy định thẩm quyền xét xử của TA các cấp. Để góp phần khắc phục những tồn tại đó, cần nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật, cũng như quá trình thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TA các cấp theo giai đoạn lịch sử của đất nước. 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng tám 1945 đến khi Quốc hội ban hành BLTTHS năm 1988 Sau khi cách mạng tháng Tám thành công chúng ta đã khẩn trương phá huỷ đến tận gốc rễ bộ máy hành chính quan liêu, hệ thống nhà tù, trại giam, bộ máy tư pháp của chế độ thực dân phong kiến. Ngay những ngày đầu tháng 9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 18 ngày 8/9/1945 bãi bỏ hoàn toàn ngạch học quan; Sắc lệnh 32/S1 ngày 13/9/1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp. Đồng thời Đảng và Nhà nước ta khẩn trương xây dựng bộ máy Nhà nước cách mạng, trong đó có TAND. Ở giai đoạn đầu của cách mạng tháng tám, Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 và sau đó bổ sung bằng sắc lệnh số 21 ngày 24/1/1946 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thiết lập các TAQS nhằm trừng trị tất cả những người nào xâm hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. TAQS là công cụ chuyên chính của chính quyền cách mạng, được thành lập dựa trên sự phối hợp của các Bộ Quốc phòng, Nội vụ và Tư pháp. Các TAQS ban đầu, chưa phải là tổ chức chuyên trách, thường trực, mà chỉ khi có vụ án thì lập ra TA để xét xử. TAQS có thẩm quyền xét xử “tất cả những người nào vi phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
  • 37. 29 Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh xử theo quân luật” (Điều 2). Ngoài ra “ở những nơi xa các Tòa án Quân sự đã lập rồi, Chính phủ, trong những trường hợp đặc biệt có thể cho Uỷ ban nhân dân địa phương thành lập một toà án quân sự có quyền xử trong một thời kỳ và theo đúng những nguyên tắc định trong sắc lệnh này” (Điều 7). Bản án của TAQS được đem thi hành ngay, người phạm tội không có quyền chống án, trừ trường hợp nếu như bản án tuyên tử hình thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm... Để tránh việc tranh chấp về thẩm quyền giữa các TA trong Sắc lệnh 33C ngày 26/9/1945 Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 37 ngày 26/9/1945 ấn định địa phương thẩm quyền của các TAQS thiết lập do Sắc lệnh ngày 13 tháng 9 năm 1945 như sau: TAQS Hà Nội: Thành phố Hà Nội và các tỉnh Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn Tây, Hà Đông, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Bắc Ninh và Bắc Giang. TAQS Hải Phòng: thành phố Hải Phòng và các tỉnh Hải Dương, Kiến An, Quảng Yên và Hải Ninh. TAQS Thái nguyên: Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu và Sơn La. TAQS Ninh Bình: Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam và Thái Bình. TAQS Vinh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. TAQS Huế: Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng Nam (kể cả Đà Nẵng). TAQS Quảng Ngãi: Các tỉnh Trung bộ ở phía Nam tỉnh Quảng Nam. TAQS Sài Gòn: thành phố Sài Gòn - Chợ lớn và các tỉnh: Gia Định, Tân Bình, Tây Ninh, Biên Hoà, Bà Rịa, Ô Cấp (Cap Saint ques) Gò Công, Tân An và Côn Đảo. TAQS Mỹ Tho: Các tỉnh khác thuộc Nam Bộ (Điều 1). Sau một thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử Chủ tịch
  • 38. 30 Hồ Chí Minh lại ban hành thêm 2 sắc lệnh: Sắc lệnh số 40 ngày 29/9/1945 đặt thêm một TAQS ở Nha Trang xét xử các vụ án ở các tỉnh Khánh Hoà, Đắc Lắc, Haut-Donnai, Phan Rang, Phan Thiết (Điều 2) còn TAQS Quảng Ngãi chỉ phụ trách các tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định, Phú Yên (Điều 3); Sắc lệnh số 77 ngày 28/12/1945 đặt thêm một TAQS tại Phan Thiết và thẩm quyền của các TAQS Quảng Ngãi, Nha Trang, Phan Thiết sẽ do Uỷ ban nhân dân Trung Bộ ấn định. Các TA này đã cùng các cơ quan nhà nước khác ngay từ đầu đã phát huy vai trò góp phần không nhỏ trong việc trấn áp kẻ thù, giữ gìn các thành quả của cách mạng đồng thời bảo vệ lợi ích của nhân dân. Để tăng cường bộ máy tư pháp, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quy định về mô hình tổ chức hệ thống TA như sau: - Ở cấp Trung ương: Tòa thượng thẩm có ở ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) đóng tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn có thẩm quyền xét xử những việc kháng cáo bản án sơ thẩm của các TA đệ nhị cấp. - Ở cấp tỉnh: Các TA đệ nhị cấp ở các tỉnh, thành phố trực thuộc TW và cấp tương đương có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án vi cảnh của TA sơ cấp bị kháng cáo, xét xử sơ thẩm những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đồng. - Ở cấp huyện: các TA sơ cấp ở các huyện, thị xã, châu, phủ có thẩm quyền xét xử chung thẩm những án phạt bạc từ 0,5 đồng đến 9 đồng, những án xử bồi thường không quá 150 đồng. Có quyền xét xử sơ thẩm những vụ án phạt giam từ 1 đến 5 ngày, những vụ án xử bồi thường quá 150 đồng hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy. Thời kỳ này còn có cấp khu nên có tư pháp khu. Khi xét xử phúc thẩm có hội đồng phúc án của tư pháp khu.
  • 39. 31 Để phân biệt thẩm quyền của TA, Chính phủ đã ra sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 quy định các TA sơ cấp và đệ nhị cấp có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời cả chung thẩm, còn TA thượng thẩm chỉ xét xử phúc thẩm. Hệ thống TA tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý. Bộ trưởng Bộ Tư pháp từng bước quyết định thiết lập dần dần các TA ở các nơi tuỳ điều kiện thuận lợi. Những nơi chưa có điều kiện thành lập TA, việc tư pháp vẫn do uỷ ban hành chính đảm nhiệm. Ngày 23/8/1946, Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 thành lập TA binh lâm thời, trụ sở đặt tại Hà Nội. Các TA binh này đều thuộc quyền quản lý của Uỷ ban kháng chiến - hành chính khu và về chuyên môn do Cục quân pháp - Bộ quốc phòng đảm nhiệm. Thẩm quyền của TA binh là xét xử những quân nhân phạm tội, những người có hành vi gây thiệt hại cho quân đội hoặc có liên quan đến quân đội và các tội phạm xảy ra ở nơi đóng quân của quân đội. Có thể thấy sắc lệnh 163 là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức, thẩm quyền của các TA binh. Đây là văn bản pháp luật làm tiền đề cho việc quy định tổ chức, thẩm quyền của các TAQS hiện nay. Như vậy trong thời gian này, song song tồn tại các loại TA: TAQS, TA binh và hệ thống các TA tư pháp. Hệ thống TA tư pháp theo sắc lệnh số 13 chỉ tồn tại đến năm 1950. Tuy là TA cách mạng nhưng hệ thống và cơ cấu tổ chức về cơ bản vẫn theo thời Pháp. Trong những năm 50, có những biến đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động của TA cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành cải cách bộ máy tư pháp, nâng cao vị trí của TA trong bộ máy Nhà nước, Sắc lệnh 85 ngày 22/5/1950 quy định cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Đó là việc xây dựng nền tư pháp nhân dân và mô hình tổ chức hệ thống TA. Các TA theo Sắc lệnh 13 trước đây được đổi tên thành các TAND. Các TA sơ cấp, đệ nhị cấp, TA thượng thẩm được đổi thành TAND huyện, TAND tỉnh và các
  • 40. 32 TAND liên khu. Hội đồng phúc án đổi thành Tòa phúc thẩm, còn các Phụ thẩm nhân dân được đổi thành Hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân có quyền xem xét hồ sơ và ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết. Các Thẩm phán được bổ nhiệm là những người có công với cách mạng, thành phần cốt cán có thành tích xuất sắc trong chiến đấu và lao động. Ngoài ra, trong thời kỳ này còn có các TAQS, TA đặc biệt (TA đặc biệt chỉ được tổ chức trong thời kỳ tiến hành giảm tô và cải cách ruộng đất). Sắc lệnh 156 ngày 22/10/1950 đã giao cho các TAND liên khu thẩm quyền xét xử những tội phản cách mạng thay thế cho các TAQS. Đặc biệt do địch đang tạm thời chiếm nhiều vùng trên lãnh thổ nước ta nên Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 157 ngày 17/11/1950 về TA vùng tạm bị địch chiếm đóng “Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm đóng có thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án Quân sự...Về việc hình và hộ, Tòa án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân tỉnh. Nếu quản hạt của Tòa án nhân dân vùng tạm bị chiếm là một tỉnh thì trực thuộc điều khiển của Tòa án nhân dân liên khu hoặc của Tòa phúc thẩm. Về việc xét xử các việc thuộc thẩm quyền Tòa án quân sự, Toà án nhân dân vùng tạm bị chiếm thuộc quyền điều khiển của Tòa án quân sự liên khu và Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu. Nếu có Tòa án nhân dân liên khu thì thuộc quyền điều khiển của Toà án nhân dân liên khu” (Điều 3). Việc thành lập và mở rộng thẩm quyền cho TAND vùng tạm bị chiếm đã đáp ứng yêu cầu của vùng bị địch tạm chiếm tạo điều kiện cho nhu cầu đấu tranh và phòng chống tội phạm. Để đảm bảo việc thi hành chính sách ruộng đất, giữ gìn trật tự xã hội, củng cố chính quyền nhân dân, đẩy kháng chiến đến thắng lợi. Ngày 12/4/1953 Hồ Chủ Tịch đã ra Sắc lệnh số 150 thành lập TAND đặc biệt ở những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất. Tòa án đặc biệt có nhiệm vụ:
  • 41. 33 1- Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường hào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất. 2- Xét xử những vụ tranh chấp về tài sản, ruộng đất liên quan đến các vụ án trên. 3- Xét xử những vụ tranh cãi về phân định thành phần giai cấp TAND đặc biệt chỉ có nhiệm vụ xét xử trong lúc và ở những nơi phát động quần chúng thi hành chính sách ruộng đất. Khi làm xong nhiệm vụ, TAND đặc biệt sẽ giải tán. TANDđặcbiệtkhôngxửnhữngvụhìnhvàhộthuộcTANDthường. Những vụ án phản cách mạng phức tạp và phải xét xử lâu dài thì do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu quyết định chuyển sang TAND thường xét xử (Điều 2). Sau khi hòa bình lập lại, tháng 4/1958 Quốc hội đã quyết định thành lập TANDTC và Viện công tố nhân dân Trung ương. Hai cơ quan này trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó ngày 14/12/1958 Thủ tướng Chính phủ có Thông tư số 556/TTg cụ thể hoá nhiệm vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật bao gồm: Công an, Công tố, TA. Tinh thần các quy định của các văn bản pháp luật này được ghi nhận vào Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960. Trong công cuộc cải tạo XHCN và xây dựng CNXH, thông qua xét xử các vụ án, ngành TA đã góp phần to lớn trong việc bóc trần âm mưu của các phần tử phản cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân. Ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội đã chính thức thông qua bản Hiến pháp mới. Đây là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta. Hiến pháp 1959 đã có những sửa đổi cơ bản so với Hiến pháp 1946 theo đó hệ thống tòa án bao gồm:
  • 42. 34 Tòa án nhân dân tối cao của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự là những cơ quan xét xử của nước Việt Nam dân chủ công hòa. Trong trường hợp cần xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập tòa án đặc biệt [35, Điều 98]. Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp 1959, ngày 14/7/1960 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Luật tổ chức TAND năm 1960 trong đó quy định hệ thống TAND gồm có: TAND tối cao, TAND địa phương, TAQS. Các TAND địa phương gồm có: TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương,TAND huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, TAND ở các khu vực tự trị. Ở các khu vực tự trị, tổ chức các TAND địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu vực tự trị quy định, căn cứ vào Điều 95 của Hiến pháp và những nguyên tắc tổ chức TAND quy định trong luật này. Tổ chức các TAQS sẽ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định riêng, căn cứ vào những nguyên tắc tổ chức TAND định trong luật này (Điều 2). Để kiện toàn tổ chức TAND các cấp và bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngày 23/3/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC và tổ chức của các TAND địa phương. Nhìn chung các nguyên tắc hoạt động xét xử của TAND trước đây đươc quy định trong Pháp lệnh và Luật tổ chức TAND đều được kế thừa, ghi nhận đầy đủ, chính xác, rõ ràng hơn các Sắc lệnh trước đó. Ví dụ: Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử công khai... Tại Điều 97 trong chương VIII của Hiến pháp 1959 quy định: Hệ thống
  • 43. 35 xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm có: “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án địa phương và Tòa án quân sự. Trong trường hợp cần thiết Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt”. Do đặc điểm về tổ chức hành chính, các TA địa phương ở nước ta thời kỳ này, ngoài các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, các TAND cấp huyện còn có các TA khu tự trị. Ở khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị Tây Bắc, tổ chức các TA địa phương sẽ do Hội đồng nhân dân khu tự trị quy định căn cứ vào Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức TAND năm 1960, còn việc quản lý TA địa phương được giao cho TA tối cao. Chế định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp được ghi nhận cụ thể và phù hợp với tình hình chính trị lúc đó nhằm góp phần “bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà”. Thẩm quyền này được các văn bản pháp luật quy định cụ thể đối với các cấp TA như sau: * Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện Tại Luật tổ chức TAND năm 1960 quy định thẩm quyền của TAND huyện như sau: Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương xử sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của các Toà án đó. Toà án nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương có nhiệm vụ hoà giải những vụ tranh chấp về dân sự, phân xử những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên toà và hướng dẫn công tác hoà giải ở xã và khu phố [36, Điều 16]. Như vậy, đây mới chỉ là quy định mang tính chất nguyên tắc một cách chung chung. Do đó để cụ thể hoá vấn đề này ngày 23/3/1961 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh 13-PL quy định cụ thể về tổ chức của TANDTC
  • 44. 36 và tổ chức của các TAND địa phương theo đó: “Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương có thẩm quyền... Sơ thẩm những việc hình sự nhỏ không phải mở phiên tòa... Sơ thẩm những vụ án hình sự có thể phạt từ hai năm tù trở xuống” (Điều 12 điểm b, d). Sau đó TAND tối cao đã ban hành Thông tư số 1080/TC ngày 25/9/1961 và Thông tư số 1071/TC ngày 7/9/1965 hướng dẫn về “những việc hình sự nhỏ” không phải mở phiên tòa nhằm giải quyết những vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện Luật tổ chức TAND 1960 và Pháp lệnh 18. Những việc đó là những vi phạm pháp luật mà mức độ nguy hại cho xã hội của hành vi phạm pháp không lớn, có mức án phạt không quá giá trị năm ngày gạo (nếu là phạt tiền) và không quá năm ngày (nếu là phạt giam). TANDTC lưu ý các TAND huyện khi xét xử phải chấp hành đường lối xét xử của Nhà nước ta đối với những người là nhân dân lao động phạm pháp nhẹ. Đó là lấy giáo dục thuyết phục làm chính, chỉ xử những người thật đáng tội, không xử thì nhân dân không đồng tình. Đối với những người xử cũng được, không xử cũng được thì không xử mà dựa vào quần chúng, dùng biện pháp hành chính, nghiêm khắc phê bình, cảnh cáo hoặc có thể quản chế một thời gian. Để trừng trị nghiêm khắc, kịp thời những tội lấy cắp tài sản xã hội chủ nghĩa làm ăn phi pháp và gây rối trật tự chung ngày 22/5/1974 Bộ công an, VKSND tối cao và TANDTC đã nhất trí về “đơn giản hoá thủ tục tố tụng đối với một số án hình sự ít quan trọng” và để các TA huyện xét xử một cách chính xác, nghiêm minh TANDTC đã ra Thông tư số 10-TATC ngày 8/7/1974 hướng dẫn về thủ tục rút ngắn nêu rõ loại tội áp dụng thủ tục này phải là tội ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản rõ ràng, hình phạt mà TA có thể quyết định là từ 2 năm trở xuống. Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc lệnh số 01/SL ngày
  • 45. 37 15/3/1976 về tổ chức TA ở Miền Nam, sắc lệnh quy định TA cấp huyện có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự có thể phạt từ 2 năm tù trở xuống nhưng trong tình hình miền Nam mới được giải phóng hệ thống TA còn chưa ổn định, đội ngũ Thẩm phán vừa yếu vừa thiếu không tương thích với thẩm quyền mà pháp luật quy định vì vậy Bộ tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Thông tư 01/BTP-TT ngày 28/3/1976 về tổ chức TAND quy định chỉ giao cho TAND cấp huyện xét xử những vụ án hình sự đơn giản, ít quan trọng, không được xét xử những tội phản cách mạng; những tội gây tổn thương đến sức khoẻ của nhiều người hoặc gây chết người, hoặc xâm phạm nghiêm trọng đến tài sản công cộng, tài sản riêng công dân, những vụ án mà việc xác định tội phạm có nhiều khó khăn và những vụ án có ảnh hưởng chính trị lớn. Việc hạn chế thẩm quyền đối với TAND các tỉnh miền Nam mới được giải phóng là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Việc hạn chế thẩm quyền của TA cấp huyện chỉ được xử những vụ án có mức phạt từ 02 năm trở xuống đã làm cho số lượng những vụ án thuộc thẩm quyền xét của của TA cấp tỉnh tăng lên, chỉ riêng những vụ án có mức án dưới 5 năm tù đã chiếm tới 70% tổng số án đã xét xử. Luật tổ chức TAND năm 1981 đã kế thừa và phát triển Luật tổ chức TAND năm 1960 và có những nội dung mới. Điều 36 quy định: “Các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm quyền sơ thẩm những vụ án hình sự, trừ: Những tội xâm phạm an ninh quốc gia và những tội phạm hình sự khác có tính chất nghiêm trọng, gây hậu quả lớn”. Thẩm quyền mới của TA đã xác định theo sự việc chứ không bị khống chế bởi mức hình phạt tù, không giao cho TAND cấp huyện xét xử những tội có tính chất nghiêm trọng. Sau khi Luật này có hiệu lực, để các TA thực hiện tốt thẩm quyền xét
  • 46. 38 xử, ngày 6/2/1982 TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên ngành hướng dẫn thực hiện thẩm quyền của TA cấp huyện. Theo thông tư này, các TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh được xét xử những tội phạm về hình sự quy định tại khung 1 có mức hình phạt từ 7 năm trở xuống, nếu là hình phạt quy định trong khung 2 nhưng thực tế chỉ cần xử phạt tương đương với khung 1 vì có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết. TAND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh không được xét xử những tội phạm phản cách mạng, những vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp hoặc gây hậu quả lớn. Để tạm thời giảm bớt lượng án thuộc thẩm quyền cấp tỉnh, Ngày 26/7/1986, VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ ra Thông tư liên ngành số 01/TTLL hướng dẫn các TAND cấp huyện được xét xử một số tội mà pháp luật quy định hình phạt từ 7 năm tù trở xuống nhưng có tình tiết giảm nhẹ cho phép phạt từ 5 năm tù trở xuống. Tuy nhiên, cách giải quyết này cũng chỉ là tạm thời, vì vẫn có điểm bất hợp lý là cho phép TA dự kiến mức hình phạt trước khi xét xử. * Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1960 và sau đó là Pháp lệnh Tổ chức TANDTC và TAND địa phương ngày 23/3/1961, TAND cấp huyện được xét xử những vụ án có thể xử phạt 2 năm tù trở xuống nên ngoài công việc này ra, những công việc còn lại thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh tức là những vụ án hình sự có thể phạt trên 2 năm tù hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền cấp dưới nhưng TAND cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 1981, các TAND cấp huyện được xét xử các tội phạm có khung hình phạt từ 5 năm tù trở xuống và