SlideShare a Scribd company logo
1 of 99
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TẠ HỒNG LÊ
TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TẠ HỒNG LÊ
TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ THỊ KIM OANH
HÀ NỘI, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công
trình khoa học trước đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình
khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TẠ HỒNG LÊ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI
PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................7
1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ...7
1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.10
1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm....15
1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm. .................................................................................................................18
1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự......................21
1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm......................................................................................................29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ
SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.33
2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận của người
bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .................................................................33
2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
2014 – 2018 ...........................................................................................................41
2.3. Thực tiễn thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................42
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ
THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.........................................................67
3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh.........................................................67
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh.........................................................72
KẾT LUẬN..............................................................................................................84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
HĐXX Hội đồng xét xử
HSST Hình sự sơ thẩm
HTND Hội thẩm nhân dân
TAND Tòa án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.Số liệu thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp
trênđịa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018.
Bảng 2.2.Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm có người bào chữa tham gia trên
tổng số vụ án thụ lý của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
từ năm 2014 đến năm 2018
Bảng 2.3. Quyết định của HĐXX về giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND
hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Tranh luận là cái gốc của sự thật”, vấn đề này đã được các triết gia Hy Lạp
nhận thức từ thời cổ đại và cho đến bây giờ việc tranh luận tại phiên tòa vẫn luôn là
một bước không thể thiếu được của trình tự xét xử vụ án tại phiên tòa.Trong tiến
trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước
ta, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề quyền con người, quyền công
dân và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nhất là trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự. Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự, trong các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà
nước đã quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đảm bảo quyền tranh luận
của người bảo chữa tại phiên tòa.
Với khía cạnh tranh tụng, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thể hiện rõ là “nâng
cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng
dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp
đến cần nhắc đến Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 nêu lên rằng “nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Cụ
thể hóa các Nghị quyết của Đảng, trong Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật có
liên quan đã quy định về vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử. Một trong những
điểm cụ thể hoá đó là Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận: “…Mọi chứng cứ
xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội
danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng
và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh
luận, làm rõ tại phiên tòa...”.
Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, pháp
luật đã có những quy định đảm bảo cho việc tham gia của người bảo chữa và đảm
2
bảo thực hiện hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Thực tế
tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình xét xử vụ án hình sự, một mặt góp phần đảm bảo quyền của
bị cáo trong việcnhờ người khác bào chữa, mặt khác còn bảo đảm cho quá
trình phân tích, đánh chứng cứ của vụ án ngay tại phiên tòa, góp phần giúp
Hội đồng xét xử đưa ra những biện pháp xử lý, giải quyết vụ án phù hợp với
yêu cầu của pháp luật.
Tuy nhiên, trong thực tiễn việc tranh luận của người bào chữa trong
nhiều phiên toà hình sự còn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều phiên tòa không có
người bào chữa tham gia, trách nhiệm và năng lực của người bào chữa vẫn
còn nhiều bất cập. Có phiên toà chưa thật sự dân chủ, quyền bào chữa của
người bào chữa chưa được tôn trọng. Số án sơ thẩm bị huỷ, bị cải sửa ở cấp
phúc thẩm, giám đốc thẩm hằng năm vẫn còn xảy ra nhiều.
Từ thực tế đó, tác giả luận văn thấy rằng việc làm rõ các quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tranh luận của
người bào chữa trong phiên tòa hình sự nhằm đánh giá các kết quả đạt được,
làm rõ các hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn
thiện pháp luật và tăng cường chất lượng thực hiện tranh luận của người bảo
chữa tại phiên tòa hình sự là hêt sức cần thiết. Do đó, tác giả luận văn lựa
chọn đề tài: “Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành:
Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan tới đề tài Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đến nay trong nước đã có
nhiều công trình nghiên cứu, trong số đó tiêu biểu có các công trình sau:
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Bảo Trâm năm 2008,
trường Đại học Quốc gia Hà Nội là: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tác giả đã khái quát, lý luận chung về
3
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của các đối tượng trong quá trình điều tra truy
tố xét xử như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Vũ Thế Lân (2014), Bảo đảm bình đẳng trong quan hệ tố tụng, Báo Nhân
dân, (215), tr.7. Bài viết đã nhận định Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
- Tác giả Dương Thanh Biểu với tác phẩm sách tham khảo “Tranh luận tại
phiên toà sơ thẩm” do NXB Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2007. Công trình nghiên
cứu chuyên sâu đã đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật về
các trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đến việc tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm.
- Tác giả Lê Hữu Thể với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Vấn đề tranh
tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” do Nxb Tư
pháp Hà Nội phát hành năm 2008. Nội dung đề tài góp phần làm rõ hơn tinh thần,
nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính trị.
- Bài nghiên cứu của Hồ Nguyễn Quân năm 2013, “Một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, tại trang
http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/303. Bài viết này đã phân tích được
quy định của pháp luật về TTHS Việt Nam với một số vấn đề liên quan trong tranh
tụng tại phiên tòa.
- Liên quan đến giai đoạn điều tra có Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả
Lê Hồng Sinh năm: “Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận
và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS với số liệu thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận về chức năng bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra có nghiên
cứu trong Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thủy năm 2017 là đề tài “Chức năng
bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố
Hà Nội”. Luận văn trên cơ sở lý luận dưới cách tiếp cận khoa học về TTHS, đồng
thời đã làm rõ hơn quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bào chữa
của Luật sư với các dữ kiện thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
4
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, các
nguyên tắc của hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, vị trí vai trò
của người bào chưa trong phiên tòa hình sự. Đặc biệt, các công trình trên đã
đề cập đến thực tiễn pháp luật Việt Nam và thực hiện pháp luật Việt Nam về
hoạt động tranh tụng trong các phiên tòa hình sự để từ đó thấy được những
mặt tích cực, cũng như những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về vấn đề tranh
luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung, gắn với địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Ðể thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức lý luận về
tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
- Khảo sát thực tế, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của
pháp luật về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và
thực trạng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại
thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thực tiễn đó xem xét các kết quả đã đạt
được về mặt hiệu quả, các vấn đề còn hạn chế chưa đạt được, bên cạnh đó
tìm kiếm làm rõ các nguyên nhân chính yếu dẫn đến những hạn chế ấy và có
hướng giải quyết.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tranh luận của người bảo
chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tranh luận của
người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Về chủ thể: Người bào chữa.
- Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Hình sự và Tố
tụng hình sự Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá trình nghiên cứu đề tài trên, tác giả đã sử dụng tổng thể và phối
hợp giữa các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu;
- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu;
- Phương pháp tổng kết thực tiễn;
- Phương pháp điều tra điển hình;
- Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về tranh luận của
người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
6
- Luận văn có khả năng được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho
việc học tập, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực luật học như luật Hình
sự và Tố tụng hình sự.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn
- Là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa
đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có liên quan đến tranh tụng trong
phiên tòa hình sự sơ thẩm, đặc biệt là vấn đề tranh luận của người bảo chữa
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
- Là tài liệu cho người bào chữa, những người tiến hành tố tụng hình
sự và những người tham gia tố tụng hình sự tham khảo, vận dụng trong thực
hiện hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận trong quá trình xét xử.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục; nội dung được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về tranh luận của
người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh
luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí
Minh
7
Chương 1
LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA
HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm
Trong tố tụng hình sự, nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng là đảm bảo
phát hiện kịp thời và xử lý minh bạch công bằng mọi hành vi phạm tội, tiêu chí là
không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; Từ đó góp phần bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người cũng như quyền công dân. Mặt khác nhìn nhận xa hơn
là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân; Hoặc giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quá trình tố tụng hình sự trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận,
giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải quyết xong. Việc xét xử
vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, phải đảm bảo hai cấp: xét xử sơ thẩm
và xét xử phúc thẩm. Trong giai đoạn xét xử sở thẩm, Tòa án tiến hành xét xử công
khai trước sự tham gia đầy đủ của các bên và những người tham dự phiên tòa.
Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất của vụ
án, bao gồm: việc xác định có tội phạm hay không, nếu có tội phạm thì tội gì và
quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trong giai đoạn xét
xử các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập,
củng cố ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố được
kiểm tra công khai tại phiên tòa. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố nhằm thu thập,
củng cố chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án,
còn hoạt động xét xử chủ yếu nhằm kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ đã được thu
thập nhằm đảm bảo việc ra bản án của Tòa án là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy,
giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng được coi là
giai đoạn trung tâm, mang tính quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Để đảm
bảo chất lượng xét xử sơ thẩm, đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con
8
người của người bị buộc tội nói riêng, pháp luật tố tụng hình sự phải quy
định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, người bào chữa là một chủ thể
tham gia tố tụng, khi tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm người bào chữa
được BLTTHS đảm bảo thực hiện hoạt động tranh luận. Trọng tâm của hoạt
động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm chính là
việc người bào chữa đánh giá chứng cứ, sử dụng lý lẽ, lập luận để đối đáp,
tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên
tòa. Tùy vào từng vụ án cụ thể, người bào chữa sẽ lựa chọn nội dung, kỹ
năng và phương pháp tranh luận thích hợp. Việc người bào chữa thực hiện
tốt hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng
trong việc góp phàm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo
vệ tốt nhất quyền con người của người bị buộc tội.
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý
nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ
án, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, tuy
nhiên trong pháp luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm về hoạt động
này. Theo từ điển Tiếng Việt tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải [45,
tr.943]. Như vậy theo khái niệm trên thì tranh luận có thể xuất hiện trong
việc lĩnh vực của đời sống xã hội, nội dung của tranh luận là bàn cãi, mục đíc
của hoạt động này là tìm ra lẽ phải. Đây là khái niệm chung về tranh luận
nên chưa mang tính cụ thể và chưa đầy đủ về hoạt động tranh luận của người
bào chữa trong phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Dưới góc độ pháp luật, theo thuật ngữ pháp lý thì tranh luận tại phiên
tòa là một thủ tục thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
đương sự, đồng thời làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho việc xem xét và
quyết định về vụ án được đúng đắn [12, tr.425-453]. Như vậy, dưới góc độ
pháp lý tranh luận tại phiên tòa được tiếp cận là một thủ tục tố tụng. Việc xét
xử tại phiên tòa trải qua nhiều thủ tục khác nhau trong đó có thủ tục tranh
9
luận giữa các bên, bản chất của việc tranh luận giữa các bên là làm sáng tỏ sự thật
của vụ án, mục đích của hoạt động này giúp cho Tòa án có thể đưa ra được phán
quyết cuối cùng được đúng đắn.
Qua phân tích trên, có thể nhận khái niệm về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
của người bào chữa là một vấn đề chưa được đề cập trong các từ điển phổ thông và
từ điển pháp lý, trong khoa học pháp lý khái niệm này cũng chưa được quan tâm
nghiên cứu đầy đủ. Để xây dựng khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm thì cần xác định những đặc điểm đặc trưng của đối tượng
này. Dựa trên các đặc điểm về chủ thể của tranh luận, nội dung tranh luận, chủ thể
có trách nhiệm đảm bảo hoạt động tranh luận, mục đích của hoạt động này có thể
đưa ra khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST như sau:
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là hoạt động tố tụng theo
quy định của Bộ luật TTHS được người bào chữa thực hiện tại phiên tòa HSST trên
nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận, đối đáp của mình và
phản bác chứng cứ, lập luận của bên buộc tội về vụ án dưới sự điều khiển, quyết
định của HĐXX sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, góp
phần giải quyết vụ án đúng đắn vụ án.
Như vậy, đối với người bào chữa việc tham gia tranh luận chủ yếu và tập
trung nhất trong thủ tục tranh tụng. Theo đó, sau khi xét hỏi, HĐXX sẽ đảm bảo cho
các bên tham gia tranh luận và người bào chữa sẽ thực hiện hoạt động tranh luận
của mình để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo chữa
nhằm bảo vệ quyền, lợi ích bị cáo. Phần tranh luận tại phiên tòa được xem là yếu tố
mang tính đặc trưng tiêu biểu của tranh tụng trong tố tụng hình sự bởi hai bên buộc
tội và bên bào chữa đều vận dụng tất cả những dữ liệu có từ hồ sơ, chứng cứ, và xét
hỏi trước đó cùng căn cứ pháp luật để hai bên cùng đưa ra lập luận quan điểm của
mình và nhận phản biện từ phía bên kia để tìm ra sự thật khách quan dung với bản
chất sự việc nhất, mọi diễn tiến đều diễn ra dưới sự điều hành phòng xét xử của Chủ
toạ phiên toà. Phía buộc tội nghiêng về bảo vệ các quan điểm có trong cáo trạng,
10
còn phía người bào chữa dựa trên cả quá trình để lập luận xem cáo trạng và
lập luận của Kiểm sát viên có đúng hay không về tính chất và mức độ.
Về quá trình tranh luận, người bào chữa sẽ không bị hạn chế thời gian
cho việc tranhh luận làm sáng tỏ sự việc trong vụ án. Có quyền đề nghị
HĐXX làm rõ các tình tiết còn bị bỏ sót hoặc không rõ ràng, trong cuộc
tranh luận theo trình tự nhất định nếu có xuất hiện các tình tiết hoặc chứng
cứ mới liên quan ảnh hưởng đến vụ án thì HĐXX sẽ quay lại phần hỏi để
làm rõ hơn các tìn tiết ấy mục đích không ngoài việc có được góc nhìn đa
diện hơn vụ án.
Trong sự tranh luận của các bên tại Toà, HĐXX luôn điều khiển về
mặt thủ tục để việc tranh luận đúng hướng, đúng quy định về mặt hình thức
và nội dung. Đồng thời lắng nghe và phân tích cùng nhìn nhận với vai trò
như một trọng tài, tức là không nghiêng về bên nào với sự dẹp bỏ ý chí chủ
quan khi chưa nắm bắt hết được các vấn đề một cách toàn diện. Sự phán
quyết có đúng hoặc sai bản chất phụ thuộc trong phần này rất nhiều vì hai
bên sẽ bóc tách từng vấn đề một cách khoa học logic và hình thành nên cái
nhìn khách quan hơn cho HĐXX. Từ đó mới có cơ sở bảo đảm việc nhận
định và phán quyết cuối cùng đúng người đúng tội.
1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm
Qua khái niệm đã được trình bày ở trên, có thể rút ra những đặc điểm
của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như sau:
Thứ nhất, tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS. Bộ luật TTHS
quy định trình tự thủ tục để khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình
sự và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tố tụng hình
sự là tổng thể các hoạt động tố tụng do cơ quan, người có thẩm quyền, người
tham gia tố tụng thực hiện theo quy định của Bộ luật TTHS để giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Bộ luật TTHS năm 2015
11
quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong đó quy định thủ
tục tranh tụng. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm theo luật
định sẽ bao gồm hai thủ tục chính yếu quan trọng: Một là thủ tục xét hỏi, hai là thủ
tục tranh luận. Việc tranh luận của người bào chữa nói riêng và những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nói chung được thực hiện
theo trình tự, cách thức mà Bộ luật TTHS đã quy định. Tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm để thực hiện việc tranh luận với bên buộc tại và những người tham gia tố tụng
khác người bào chữa phải sử dụng chứng cứ, lý lẽ, lập luận nhằm đối đáp, phản đối
và thuyết phục những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm đánh giá
chứng cứ của mình. Việc tranh tụng phải thực hiện dưới dạng một hoạt động mang
tính chủ động, có mục đích của người bào chữa. Người bào chữa phải vận dụng
kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kỹ năng và phương pháp tranh luận phù hợp
với diễn biến cụ thể của từng vụ án để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháo cho
bị cáo mà mình bảo vệ. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận của các chủ
thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và hoạt độn tranh luận của người bào
chữa nói riêng Bộ luật TTHS đã quy định chặt chẽ về hoạt động này. Khi thực hiện
hoạt động tranh luận người bào chữa phải tuân thủ và thực hiện đúng theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận.
Thứ hai, chủ thể của việc thực hiện tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
rất rộng, trong đó có người bào chữa. Trong tố tụng hình sự việc tranh luận tại
phiên tòa với mục đích làm rõ hơn bản chất của vụ án cũng như sự thật khách quan
đã diễn ra. Các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm rất rộng
bao gồm Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, đương sự, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi cho bị hại, đương sự. Như vậy, người bào chữa là một trong những chủ
thể thực hiện hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Người bào chữa là
một chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại
phiên tòa, đồng thời góp phần bảo vệ sự thật khách quan của vụ án. Với địa vị và
mục đích tham gia tố tụng của người bào chữa tại phiên tòa HSST đòi hỏi Bộ luật
TTHS phải đảm bảo cho người bào chữa thực hiện hoạt động tranh luận bình đẳng,
12
công bằng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Việc
đảm bảo hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm cũng chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa
của người bị buộc tội, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án... Đồng
thời thể hiện bản chất nhân đạo và daan chủ của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ ba, đặc điểm về nội dung, phạm vi tranh luận của người bào
chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Nội dung tranh luận tại phiên toà bao gồm nội dung chính về các vấn
đề vụ án bao gồm (1) làm rõ sự việc diễn ra bao gồm các chủ thể, tình tiết,
không gian, thời gian liên quan vụ án bằng các chứng cứ, cách thu thập xử lý
đánh giá chứng cứ, sự logic trong lập luận; (2) về việc áp dụng pháp luật
trong vệc định tội danh và đưa ra bản cáo trạng; (3) về thực hiện quy trình tố
tụng trước đó.
Theo trình tự tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra quan điểm
như bản cáo trạng buộc tội bị cáo trên các cơ sở hồ sơ mà cơ quan điều tra
cung cấp trước đó. Lúc này về nguyên tắc đã bắt đầu xuất hiện chức năng
bào chữa. Bằng sự điều hành của Chủ toạ, việc xét hỏi để làm rõ các tình tiết
và bắt đầu theo như quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 xoay
quanh các vấn đề: Xác định về hành vi sự kiện như có hành vi phạm tội hay
không, ai là người thực hiện và tham gia, động cơ mục đích phạm tội, tính
chất mức độ…Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nghe ý kiến của các
nhà chuyên môn và ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan trình bày
cũng được các bên sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Thông
qua việc điều tra công khai, trực tiếp của các chủ thể bên buộc tội, bên gỡ tội
và HĐXX tại phiên tòa; các tình tiết về vụ án được làm sáng tỏ. Lúc này, nội
dung tranh luận mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và
giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập,
kiểm tra, đánh giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tòa giữa
13
bên buộc tội với bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên
bào chữa - là hai bên của cuộc tranh luận về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
vụ án.
Đến giai đoạn xét hỏi xong, Kiểm sát viên lập luận đưa ra quan điểm toàn bộ
về vụ án bao gồm kết hợp việc đánh giá chứng cứ với các tình tiết và kết luận trong
việc áp dụng pháp luật đối với bị cáo. Người bào chữa cũng đến phần của mình là
cũng dựa vào các tình tiết chứng cứ, cùng các đánh giá và kết luận của Viện Kiểm
sát để đưa ra quan điểm bào chữa của mình, chấp nhận hay phản bác các ý kiến của
Kiểm sát viên, những lập luận đó có phù hợp, logic và biện chứng hay không, việc
áp dụng quy trình tố tụng có chính xác chưa. Hay việc áp dụng pháp luật vào việc
buộc tội như vậy có chính xác thoả đáng đúng với tinh thần luật hay không, Kiểm
sát viên có bỏ sót vấn đề nào liên quan đến sự vô tội hay giảm nhẹ của người bị
buộc tội hay không… các vấn đề trên đều được tranh luận qua lại đến khi mọi thứ
rõ ràng minh bạch và không còn những góc khuất của vấn đề, mọi thứ như trải ra
dưới sự điều hành và quan sát lắng nghe của Chủ toạ.
Như vậy, nội dung tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm là người bào chữa sẽ sử dụng chứng cứ mình thu thập được theo quy định của
Bộ luật TTTHS, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ được cung cấp mới tại
phiên tòa, đồng thời sử dụng lý lẽ, lập luận, kỹ thuật, phương pháp tranh luận phù
hợp nhằm đối đáp, phản bác, hoặc thuyết phục bên đối lập chấp nhận quan điểm mà
mình đưa ra.
Trên đây là nội dung của tranh luận tại phiên toà hình sự, tuy nhiên nó cũng
giới hạn về phạm vi, nghĩa là có một phạm vi nội dung mà luật cho phép được tranh
luận chứ không mở rộng một cách không có giới hạn. Vậy Phạm vi của tranh luận
cần được xác định là như thế nào là hiệu quả.
Như đã biết, bản chất của tranh luận tại toà là sự phản biện, có đôi khi phủ
nhận lẫn nhau về việc chứng minh sự việc, đối tượng và áp dụng pháp luật giữa hai
bên công tố và bào chữa không ngoài mục đích là mỗi bên đều chứng minh quan
điểm của mình dựa trên chứng cứ và pháp luật. Một mặt khác sự tranh luận này đối
14
với người bào chữa chỉ nằm trong phạm vi giới hạn của sự buộc tội. Bởi sự
buộc tội của bên công tố là mấu chốt nảy sinh ra sự tranh luận. Vì thế giới
hạn của sự buộc tội thể hiện ở phạm vi không lớn hơn về quy mô tính chất
mà Kiểm sát viên cáo buộc như về như tội danh, về hành vi, về đối tượng, về
đánh giá mức mức độ về hình phạt đề nghị áp dụng… Thông thường sự tranh
luận lại của người bào chữa sẽ không vượt qua phạm vi về dung lượng hoặc
số lượng tính chất các cáo buộc và có xu hướng mong muốn thu hẹp lại hơn
so với các cáo trạng mà bên công tố đưa ra.
Ngoài ra, phạm vi về mặt trình tự thủ tục thì sự tranh luận giữa các
bên được bắt đầu sau khi Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, tức là bắt
đầu từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến xét hỏi, tranh luận, nghị án và kết thúc
khi HĐXX tuyên án.
Thứ tư, trong quá trình tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
HĐXX có trách nhiệm điều khiển cho người bào chữa tranh luận với Viện
kiểm sát và người tham gia tố tụng khác một cách công khai, bình đẳng, thực
chất.
Tranh luận tại phiên toà theo trình tự thủ tục một cách công bằng văn
minh và trật tự đúng quy định. Với vai trò điều hành phiên toà, HĐXX đóng
vai trò như một trọng tài, không can thiệp vào bản chất của việc tranh luận,
chỉ giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi để các bên tranh luận đúng pháp luật,
đúng vấn đề và khuyến khích sự tranh luận để từ đó có sự nhìn nhận vấn đề
rõ ràng hơn phục vụ cho việc ra phán quyết của mình. Ngoài ra trong quá
trình tranh luận, HĐXX cần phải điều chỉnh các quy trình theo trình tự tố
tụng nếu việc tranh luận đi lạc chủ đề trọng tâm hoặc quá đà, căng thẳng về
mặt hình thức. Hoặc cần thiết phải quay lại phần hỏi để chứng minh nếu có
vấn đề chưa đươc làm rõ hoặc xuất hiện tình tiết mới. Có thể nói vai trò của
HĐXX trong tranh luận chỉ là người điều hành cuộc tranh luận về mặt hình
thức và thủ tục để bảo đảm sự cân bằng trong việc phát huy quyền và nghĩa
vụ của các bên trong tranh luận, không bên nào có sự áp đặt chủ quan về
15
quyền lực mà lấn át quyền của bên kia, không can thiệp vào nội dung tranh luận của
các bên nếu nó vẫn đang diễn ra đúng quy định.
Thứ năm, mục đích việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm. Mục đích chung của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là làm
sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, giúp cho HĐXX có thể ra
bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích và địa
vị tham gia tố tụng của người bào chữa nên mục đích tranh luận của người bào chữa
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần bảo
vệ sự thật của vụ án. Để đạt được mục đích này, người bào chữa phải lựa chọn nội
dung, phạm vi tranh luận phù hợp, áp dụng kiến thức, kỹ năng, ngôn ngữ tranh luận
linh hoạt. Trước khi tham gia tranh luận tại phiên tòa người bào chữa phải thực hiện
tốt hoạt động thu thập chứng cứ, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nghiên cứu kỹ căn cứ
pháp luật. Tại phiên tòa cần ghi chép diễn biến và những quan điểm buộc tội của đại
diện Viện kiểm sát, bác bỏ những căn cứ buộc tội không có cơ sở, không hợp pháp
của Viện kiểm sát, tranh luận với ý kiến, quan điểm của những người tham gia tố
tụng khác. Mục đích hướng tới của người bào chữa khi tranh luận là phát hiện, làm
rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo, không được tranh luận theo hướng làm xấu hơn
tình tình của bị cáo, qua đó giúp Hội đồng xét xử làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án để ra phán quyết đúng đắn.
1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm
1.3.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội
Tranh luận tại phiên tòa hình sự nói chung và phiên tòa HSST nói riêng có
thể nói là một sự cụ thể hoá đúng đắn quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà
nước trong việc cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra từ những năm trước đây.
Chủ trương đặt trọng tâm là Toà án và là trung tâm trong việc xét xử để đạt hiệu quả
cao hơn trong công tác tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
và Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị hướng về bảo đảm
và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, xem đây là bước tiến bộ mang tính
16
đột phá thay đổi tư duy cũ trong việc tiến hành tố tụng. Vì thế việc cụ thể hoá
chính sách này trong luật định và thực tiễn là thể hiện sự cầu thị, trong xu
hướng chung của thế giới nhằm bảo đảm quyền con người ở mức cao nhất có
thể. Nó cũng thể hiện tính dân chủ tự do của công dân theo đúng như Hiến
Pháp 2013 quy định. Nó phản ánh tinh thần lấy dân chủ, con người làm trung
tâm của sự phát triển bằng việc tạo ra các cơ chế tự do và bảo đảm các
phương tiện thực hiện đặc biệt là công cụ pháp lý mà ở đó các bên đều bình
đẳng về mặt pháp lý trong tố tụng. “Tranh tụng có nhiều yếu tố phù hợp với
sự phát triển dân chủ, vì vậy tiếp nhận các yếu tố này là hướng phát triển
đúng đắn trong cải cách tư pháp ở nước ta” [17]. Ngoài ra việc cải cách về
mặt tố tụng hình sự trong đó có ghi nhận chính thức nguyên tắc tranh tụng,
tranh luận tại Toà án sự thể hiện tính đề cao pháp luật của nhà nước Pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa, đề cao được tính nhân văn, nhân đạo trong pháp
luật hình sự.
Với việc tranh luận tại phiên toà diễn ra công khai, có thể giúp cho
những người tham dự phiên toà hiểu rõ hơn về pháp luật, nâng cao ý thức
pháp luật, điều quan trọng hơn là mọi người trong xã hội luôn thấy được rằng
có sự công tâm minh bạch trong xét xử, quá trình diễn ra công khai minh
bạch tạo ra các hiệu ứng tương tự sự giáo dục pháp luật đến mọi người trong
xã hội, giúp họ tự ý thức về quyền của mình trong tố tụng để góp phần thúc
đẩy sự đúng đắn hơn đối với các cơ quan tố tụng.
Thông qua phiên tòa diễn ra công khai dân chủ, các bên tham gia tố
tụng sẽ được thực hiện các quyền trong tố tụng của mình với các điều kiện
thuận lợi nhất có thể. Từ đó dẫn đến việc quyết định của Tòa án được hình
thành trên cơ sở các chứng cứ đã được các xem xét và đánh giá cẩn thận tỉ
mỉ và khách quan công khai tại tòa, do đó việc xét xử của Tòa án mang lại
cho các bên tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tòa có một niềm
tin vững chắc vào pháp luật, lòng tin vào lãnh đạo đúng đắn của Đảng và
Nhà nước bằng pháp luật. Lòng tin này sẽ lan toả trong xã hội góp phần thúc
17
đẩy mọi người tuân thủ và chung tay xây dựng, bảo vệ pháp luật một cách ý thức và
tự giác hơn.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Việc triển khai thực hiện tranh tụng trong xét xử là sự thể chế hoá các chủ
trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra về phương diện luật học
và khoa học pháp lý nó còn là sự thể chế hoá các quy định của Hiến pháp. Tại
khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 có nêu lên rằng phải bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng. Từ những yêu cầu trên đã là cơ sở để làm cơ sở cho việc thay đổi khác trong
luật định mà đặc biệt là TTHS với mục đích làm tăng tính dân chủ bình đẳng trong
hoạt động xét xử và trong các hoạt động tố tụng khác nói chung.
Việc tranh luận tại phiên toà là một phần của tranh tụng góp phần mang lại
sự thật khách quan và cái nhìn toàn diện điều mà TTHS luôn mong muốn hướng tới
trong xét xử.
Tranh luận tại phiên toà HSST giúp hạn chế tối đa thiếu sót, oan sai trong xét
xử, giúp toà có sự đánh giá, kết luận chính xác hơn trong bản án của mình.
Tranh luận tại phiên toà là một thủ tục cần và đủ để thực hiện mô hình tố
tụng mà Việt nam đang áp dụng xuất phát từ mô hình thẩm vấn và kết hợp với mô
hình tranh tụng, sự kết hợp có hiệu quả này phải có mặt tất yếu của thủ tục tranh
luận tại phiên toà như một cấu thành quan trọng.
Nhà nước pháp quyền đặt nền tảng pháp luật vào việc quản trị quốc gia,
nhắm đến bảo vệ quyền con người và các quyền này được thể chế hoá vào luật pháp
một cách sâu rộng trong các lĩnh vực ngành nghề, Tố tụng hình sự cũng là một
trong những sự cần thiết của sự cụ thể hoá đó, do vậy nguyên tắc tranh tụng mà cụ
thể là tranh luận tại phiên toà sơ thẩm có vai trò góp phần thúc đẩy bảo vệ và tôn
trọng quyền con người.
Việc tranh luận tại phiên toà sơ thẩm góp phần thúc đẩy các bên tham gia
tích cực làm tốt hơn trong vai trò của mình dưới phương diện pháp luật, góp phần
chung vào hiệu quả của xét xử. Nó đòi hỏi các bên không thể tránh né trách nhiệm
và các luận cứ mà các bên đang bảo vệ cho qun điểm của mình dựa trên pháp luật.
18
1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm.
Việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm xuất phát từ các cơ sở sau đây:
- Xuất phát từ yêu cầu xác định sự thật khách quan của vụ án. Pháp
luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng, phản ảnh đặc điểm của các
quan hệ xã hội. Pháp luật là sự phản ánh của hiện thực khách quan, thông
qua lăng kính chủ quan của các nhà nhà làm luật và trên cơ sở khoa học các
nhà làm luật xây dựng pháp luật và sau đó pháp luật được áp dụng vào thực
tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì vậy, một chế định pháp luật tố
tụng hình sự được quy định đều có những cơ sở khoa học, là cái tiên quyết
để nhà làm luật cân nhắc có nên quy định vào luật hay không. Mục đích
hướng tới của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án,
trên cơ sở xác định sự thật vụ án, Tòa án ra bản án, quyết định để giải quyết
vụ án góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của
cá nhân, cơ quan, tổ chức, quyền lợi của Nhà nước. Để đảm bảo xác định sự
thật khách của vụ án các cơ quan, người có thẩm quyền được quyền áp dụng
mọi biện pháp hợp pháp theo quy định của Bộ luật TTHS. Việc xác định sự
thật vụ án là trách nhiệm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng tuỳ mỗi giai đoạn. Trong giai đoạn xét xử trách nhiệm này thuộc về Tòa
án, để đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án thì Tòa án cần đảm
bảo cho các bên tham gia tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa, đặc biệt phải
đảm bảo cho người bào chữa tham gia tranh luận để làm sáng tỏ những tình
tiết của vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
Điều này đảm bảo cho bản án hoặc quyết định của Tòa án mang sự khách
quan, với góc nhìn toàn diện đúng với bản chất hơn.
- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung, đặc biệt là
quyền con người của người bị buộc tội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa mà Việt nam đang xây dựng, quyền con người, quyền công dân
19
được tôn trọng và bảo đảm ở tất cả các phương diện và trong các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình tố tụng hình sự. Trong quá
trình giải quyết vụ án, quyền con người rất nhạy cảm và dễ bị xâm phạm, các hành
vi, quyết định trái pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền có thể xâm phạm trực
tiếp đến các quyền con người, của công dân. Đặc biệt người bị buộc tội là chủ thể ở
thể yếu trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, trong quá trình tố tụng họ có thể bị
hạn chế các quyền và lợi ích nhất định. Vì vậy, đây là đối tượng cần đặc biệt được
Nhà nước quan tâm, bảo vệ.
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc
tội nói riêng trong tố tụng hình sự chính là là bảo đảm quyền sống, quyền được tự
do, quyền tố tụng mà pháp luật quy định.Trong các văn kiện quốc tế về đảm bảo
quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự mag Việt Nam là thành viên việc
đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc tội
được đặc biệt quan tâm như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966… Quyền con người của người bị
buộc tội trong tố tụng hình sự cần được đảm bảo bao gồm: quyền bất khả xâm phạm
về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác; quyền được suy
đoán vô tội; quyền được bào chữa; quyền được xét xử nhanh chóng… Hiến pháp
năm 2013 và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã nội luật hóa các quyền con
người trong các Công ước đồng thời đảm bảo thực hiện các quyền này trên thực tế.
Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định các nguyên tắc cơ bản
như: Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của con người, của công dân; bảo vệ quyền
bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được suy
đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền được xét xử kịp thời, công
bằng, công khai,… Các quyền này phải được đảm bảo trong tất cả các giai đoạn của
quá trình giải quyết vụ án. Trong giai đoạn xét xử việc quy định và đảm bảo cho
người bào chữa tranh luận tại phiên tòa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền
con người, quyền công dân nói chung và quyền của bị cáo nói riêng, phù hợp với
20
tinh thần của các công ước quốc tế, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các
nguyên tắc tiến bộ của luật tố tụng hình sự.
- Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được
quy định dựa trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp và
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Với chủ trương
theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ban hành ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 đã đặt ra và đang được thực hiện từng bước cho đến nay; Cụ
thể hoá trong luật định một số chi tiết của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới”. Nghị quyết đã chỉ rõ cần phải nâng cao hiệu quả của các phiên tòa xét
xử “khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Tòa án
phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét
đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa…
để ra bản án, quyết định đúng luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật
định”; Nghị quyết 48/NQ/TW ra đời ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010,
định hướng tới 2020 đã nhấn mạnh: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận
tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư
pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả
tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”; Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt
động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa
xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Theo tinh
thần của các Nghị quyết trên, Việt Nam vẫn giữ mô hình tố tụng thẩm vấn
21
nhưng đặt ra yêu cầu đổi mới việc tổ chức phiên tòa theo hướng tranh tụng mạnh
mẽ hơn, trong đó nhấn mạnh việc xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công
khai, dân chủ, nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, xem đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp [42, tr.204-205].Vì vậy,
việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST phải trên cơ sở và
phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng.
Quy định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
xuất phát từ tinh thần cải cách tư pháp, phù hợp với nhiệm vụ của tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo việc kiểm soát tội phạm chặt chẽ nhưng phải tăng cường tính tranh
tụng, đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử để không làm oan người
vô tội.
Để đảm bảo hiệu quả của quá trình tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng đã quy
định các các nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự đưcọ
hiểu là những tư tưởng, quan điểm mang tính nền tảng định hướng cho toàn bộ quá
trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Việc xây dụng các nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo xây dựng, áp
dụng thống nhất pháp luật. Đồng thời, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn, khách
quan, toàn diện vụ án, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Chế
định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chính là sự cụ thể
hóa để thực hiện tinh thần của các nguyên tắc tiến bộ trong tố tụng hình sự như:
Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị
buộc tội.
1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự
Những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS được xem là sự định hướng về mặt
tư tưởng xuyên suốt, rất quan trọng và nó được xem là sự điều chỉnh nhất quán cho
tất cả hoặc một số cụ thể của hoạt động TTHS. Bộ luật TTHS 2015 quy định 27
22
nguyên tắc cơ bản từ điều 7 đến điều 33. Chế định tranh luận của người bào
chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có mối quan hệ mật thiết với một số
nguyên tắc tố tụng. Mối quan hệ giữa chúng theo Triết học duy vật biện
chứng chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái tổng thể và
cái chi tiết cụ thể. Trong đó các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là
cái chung, mang tính định hướng cho việc quy định chế định tranh luận của
người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Quy định về việc tranh luận
của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm phải phù hợp với tinh thần
chỉ đạo của các nguyên tắc cơ bản. Trong khi chế định tranh luận của người
bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm sẽ cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc,
đảm bảo cho tinh thần của nguyên tắc được thực hiện có hiệu quả trên thực
tế.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả đi phân tích mối
quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩmvới một số nguyên tắc cơ bản mà tác giả cho rằng chúng có mối quan hệ
mật thiết với nhau, đó là các nguyên tắc sau:
- Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Xác định sự thật vụ án là nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS, đồng
thời là mục đích chung của quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc xác định
sự thật của vụ án đảm bảo cho các hoạt động và quyết định tố tụng phù hợp
với thực tế và diễn biến của quá trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vụ án
hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ
án. Trong từng giai đoạn tố tụng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm xác định hành vi của bị cáo có cấu thành tội phạm hay không và
nếu phạm tội thì áp dụng theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Trong quá
trình giải quyết vụ án người bị buộc tội có quyền chứng minh sự vô tội của
họ. Để đảm bảo việc xác định sự thật vụ án thì trong quá trình giải quyết vụ
23
án các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được áp dụng các biện pháp mà
pháp luật đã quy định để thu thập, đánh giá chứng cứ. Pháp luật tố tụng hình sự đã
giao trách nhiệm xác định sự thật cho cơ quan có thẩm quyền THTT. Quá trình xác
định sự thật của vụ án phải được diễn ra một cách thật sự khách quan nhất với sự
đầy đủ các khía cạnh cần thiết trong sự toàn diện nhất. Tính khách quan toàn diện,
đầy đủ là những đòi hỏi mang tính chỉ đạo từ quá trình thu thập, kiểm tra, đánh
chứng cứ và các tình tiết khác có liên quan của vụ án. Vụ án phải được đánh giá dựa
trên những chứng cứ có thật từ vụ án, chứ không được xuất phát từ những suy luận
của chủ quan của người có thẩm quyền THTT. Các chứng cứ phải được xem xét
một cách toàn diện, xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, tất cả những
tình tiết tăng nặng cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tất cả những
tình tiết về đặc điểm nhân thân người phạm tội. Pháp luật tố tụng hình sự quy định
nghĩa vụ xác minh sự thật vụ án thuộc về phía cơ quan tiến hành tố tụng, còn người
bị buộc tội pháp luật không đặt ra. Điều đó đồng nghĩa với việc, người bị buộc tội
không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội và người bị buộc tội được quyền chứng
minh rằng họ vô tội. Chính sự quy định đó, bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải
sự dụng các biện pháp một cách tốt nhất, bằng nghiệp vụ của chính mình để tìm ra
các chứng cứ để xác định sự thật của vụ án.
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là một trong những biện
pháp, cách thức hữu hiệu đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc
tranh luận của người bào chữa được thực hiện một cách công bằng, bình đẳng sẽ
góp phần đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án. Như vậy,
tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là phương thức để đảm
bảo cho hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Tòa án mang tính khách quan,
đầy đủ và chính xác. Như vậy, ngươi tắc xác định sự thật vụ án là cơ sở, tiền để để
quy định chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Trong khi đó, việc đảm bảo tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa là phương
thức giúp cho Tòa án xác định sựu thậ khách quan của vụ án. Do vậy, để xác định
sự thật của vụ án đầy đủ, quan, toàn diện thì đồi hỏi quy định về hoạt động tranh
24
tụng của người bào chữa phải hoàn thiên, đảm bảo tranh tụng công khai, bình
đẳng và thực chất tại phiên tòa. Trên cơ sở kết quả tranh luận Tòa án sẽ xác
định sự thật sự án, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án, hạn chế oan sai trong
tố tụng hình sự.
- Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại
phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc dân chủ, tiến bộ lần đầu
tiên được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS
năm 2015. Hiến pháp năm 2013 nước ta ghi nhận tại điều 31 khoản 1 về
nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Nguyên tắc này hiện nay cũng được
quy định trong Bộ luật TTHS 2015. Theo tinh thần của nguyên tắc suy đoán
vô tội, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử và đưa ra phán quyết có tội
hay không có tội và quyết định hình phạt với một người. Đây là một trong
những đảm bảo về mặt pháp lý, thật sự ý nghĩa đối với người bị buộc tội nếu
không bị đưa ra xét xử tại Tòa án với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy
định thì không thể bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt. Đồng thời, thông
qua nguyên tắc này, đòi hỏi Tòa án phải giữđược sự độc lập, khách quan.
Bên gỡ tội tội phiên tòa là bị cáo, người bào chữa người đại diện của họ có
quyền tranh luận, tức là đưa ra các chứng cứ, lập luận chứng minh mình vô
tội hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm. Nguyên tắc suy đoán vô tội và chế định
tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmcó mối quan hệ
mật thiết với nhau. Nguyên tắc suy đoán vô tội là tiền đề, nên tảng để đảm
bảo quyền tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Bởi vì người bị buộc
tội được coi là vô tội tại phiên tòa xét xử sơ thẩm nên người bào chữa cho họ
mới được đảm bảo quyền tranh luận để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
Ngược lại, việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
giúp Tòa án thực hiện có hiệu quả và thực chất nguyên tắc suy đoán vô tội.
25
Tranh luận là phương thức để Tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ để đưa ra kết luận
cuối cùng về việc bị cáo có tội hay không cũng như giải quyết khách quan, toàn
diện vụ án.
- Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc
tội
Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa chiếu theo theo Hiến pháp năm 2013
quy định tại khoản 4, điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa”. Nguyên tắc này sau đó tiếp tục được quy định tại điều 16 Bộ luật TTHS
2015 như sau “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa…”. Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng mà luật quy định
dành riêng cho người bị buộc tội để bác bỏ, loại trừ, chống lại bên buộc tội và bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Người bị buộc tội có thể tự mình,
hoặc nhờ luật sư, người khác để bào chữa, pháp luật không bắt buộc học phải tự
mình hay phải nhờ, đó là sự lựa chọn và nếu họ có đủ khả năng về kiến thức thì họ
có thể đứng ra tự bảo vệ mình, song không làm triệt tiêu quyền năng để nhờ người
khác. Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội Bộ luật TTHS Việt Nam
yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo quyền bào chữa cho
người bị buộc tội.
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội,có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Nếu không thể đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, thì sẽ không có
tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa, tranh luận chỉ được thực hiện khi quyền
bào chữa được đảm bảo. Bởi lẽ, chức năng bào chữa là chức năng đối trọng với
chức năng buộc tội, nếu bên bị buộc tội không được thực hiện quyền bào chữa,
không có sự đấu tranh, phản biện với bên buộc tội thì dường như hoạt động tranh
luận sẽ không xuất hiện. Như vậy chúng ta có thể thấy, mối quan hệ giữa nguyên
tắc đảm bảo quyền bào chữa với chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên
26
tòa hình sự là mối quan hệ giữa cái chung và cái chi tiết, cụ thể. Việc tranh
luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một biểu hiện cụ
thể của việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội.
- Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại
phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc độc lập trong xét xử tại khoản 2 điều 103 Hiến pháp quy
định như sau “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật…”. Quy định này được chi tiết hóa một cách rõ ràng tại điều 23
BLTTHS 2015 với nội dung “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào
việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Nguyên tắc này yêu cầu Thẩm phán,
Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong suốt quá trình giải
quyết vụ án. Sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm, được hiểu theo trên các
phương diện sau: Một là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội Thẩm với nhau, hai
là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các chủ thể khác, ba là sự độc
lập giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Yêu cầu trong suốt quá trình
giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm giải quyết vụ án một cách khách
quan, thông qua việc đánh giá chứng cứ lập luận của các bên và niềm tin nội
tâm của mình và trên cơ sở các quy định của pháp luật từ đó đưa ra phán
quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, bất kỳ một tổ chức, cơ quan, cá nhân
nào cũng không được tác động đến Thẩm phán, Hội thẩm để làm thay đổi
quá trình, kết quả giải quyết vụ án. Khi không có sự thống nhất với nhau về
quan điểm giữa Thẩm phán, Hội thẩm thì không có bên nào được quyền áp
đặt ý chí để bên kia nghe theo, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền giữ nguyên
quan điểm của mình.
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật là cơ sở để đảm bảo thực hiện tốt việc tranh luận của người bào
chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm . Khi HĐXX hay cụ thể hơn là khi Thẩm
27
phán và Hội thẩm với vai trò là trọng tài đứng giữa hai bên phân xử, để hai bên
tranh tụng với nhau và ra phán quyết giải quyết vụ án kết thúc hoạt động tranh tụng.
Nếu như hoạt động này không đảm bảo được tính độc lập, khách quan, cùng với
việc ưu ái cho một trong hai bên của tranh luận, hoặc bị một trong hai bên điều
khiển, hoặc có sự tác động của một bên thứ ba nào đó thì hoạt động tranh luận của
người bào chữa sẽ khó đảm bảo tính bình đẳng, tính khách quan và sự công bằng.
Ngược lại chính quá trình tranh luận của người bào chữa sẽ giúp cho Thẩm phán và
Hội thẩm nhận định được đúng đắn các tình tiết trong vụ án. Như vậy, nguyên tắc
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yếu tố bảo đảm
cho việc tranh luận của người bào chữa thực chất, công bằng, hiệu quả. Ngược lại,
hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giúp HĐXX
xác định sự thật khách quan của vụ án, qua đó đảm bảo việc xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
- Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên
tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo
Để đảm bảo việc xác định sự thật vụ án, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân thì quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và đặc biệt là giai đoạn
xét xử nói riêng pháp luật phải đảm bảo sự tranh tụng của bên buộc tội và bên bào
chữa nhằm đảm bảo bản án của tòa án có căn cứ và hợp pháp. Qua nhiều lần thay
đổi và tiến hành cải cách, tại Hiến pháp năm 2013, tiếp đến là Bộ luật TTHS năm
2015 đã chính thức nêu lên trong hiến định và luật định nguyên tắc tranh tụng là
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Theo đó, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thì các bên tham gia như: (1) Điều tra viên, Kiểm
sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) người bị buộc tội, người
bào chữa và người tham gia tố tụng khác; các bên tham gia này đều có quyền bình
đẳng và không phân biệt về việc đưa ra các chứng cứ chứng minh, được đánh giá
chứng cứ một cách logic hợp lý, được đưa ra yêu cầu với mục đích làm sáng tỏ thật
khách quan của vụ án một cách công bằng và minh bạch.
28
Điều luật cũng quy định về một số thủ tục cũng như điều kiện để bảo
đảm tranh tụng như: Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát
chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Vấn đề các bên tham
gia phải đầy đủ: Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những
người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất
khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này
quy định.
Về việc tạo điều kiện để các bên tham gia có sự thể hiện tốt quyền
chứng minh và vai trò của mình: Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác
thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng
trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản,
điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi
thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý
nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên
tòa.
Về việc kết luận sự việc và ra bản án quy định: Bản án, quyết định của
Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh
tụng tại phiên tòa.
Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm vảo
với tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là mối quan
hệ giữa cái chung với cái chi tiết cụ thể. Theo đó, tranh tụng trong xét xử
được đảm bảo là cái chung, mang tính chủ đạo, định hướng cho việc xây
dựng, áp dụng quy định của Bộ luật TTHS về hoạt động tố tụng tại phiên tòa.
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là biểu hiện cụ
thể và quan trọng của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, là sự
cụ thể hóa và đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng có hiệu quả trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm.
29
1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại
phiên tòa hình sự sơ thẩm
Để việc thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm có hiệu quả, cần có những điều kiện đảm bảo sau đây:
- Đảm bảo về mặt pháp lý gồm ba vấn đề chính:
Thứ nhất, để bảo đảm một buổi tranh luận diễn ra hiệu quả trước tiên cần bảo
đảm các vị trí tố tụng với các trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham
gia tố tụng, nghĩa là cần xác định tư cách địa vị pháp lý của họ một cách đầy đủ rõ
ràng và đúng với các yêu cầu của mô hình tô tụng đã chọn lựa sử dụng. Yếu tố luật
định xác nhận được rõ chức năng nhiệm vụ của các vị trí Kiểm sát viên, Thẩm phán
và người bào chữa tại phiên toà hình sự là thúc đẩy các bên tham gia tranh tụng với
sự tự tin chủ động, tích cực và đúng đắn trong các công việc thu thập, kiểm tra đánh
giá chứng cứ và đưa ra quan điểm của mình trong tranh luận theo khoa học pháp lý
mà mô hình tố tụng đang áp dụng.
Thứ hai, Luật hoá quy định hướng tới tạo điều kiện các bên tham gia tố tụng
được bình đẳng, đặc biệt là quá trình tranh luận tại phiên tòa; Nghĩa là cần có sự
bình đẳng trong việc để các bên tham gia tố tụng được hỏi, trả lời, đối chất, tranh
luận vấn đề một cách logic khoa học, khách quan và không phân biệt; tăng thêm các
quy định nhằm tăng thêm sự tham gia có mặt của luật sư trong các vụ án hình.
Thứ ba, nhóm quy định về quyền được khiếu nại, quyền kháng cáo bản án
hoặc quyết định của Toà đối với các bên tham gia tố tụng hình sự như nhau. Mặt
khác tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư được quyền khiếu nại, kháng cáo bản án,
quyết định của Tòa án khi áp dụng cho thân chủ của mình.
- Đảm bảo về mặt tổ chức
Về mặt tổ chức cần đảm bảo về phía cơ quan tố tụng và phía người bào chữa.
Về phía cơ quan tố tụng, cơ cấu tổ chức phải chặt chẽ và độc lập giữa cơ
quan Toà án và Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra. Cách tổ chức này phải có những
đặc thù riêng phục vụ cho việc tiến hành tố tụng chứ không hẳn đơn thuần là tổ
chức hành chính như các cơ quan khác Nhà nước khác. Về tiêu chí cần có sự đảm
30
bảo thuận lợi cho việc triển khai tranh tụng với vai trò chức năng của từng cơ
quan, từng bộ phận một cách hợp lý và không chồng lấn quyền hạn trách
nhiệm. Việc tổ chức cần có sự thống nhất hướng đến mục đích chung trong
các quy trình tham gia tố tụng.
Về phía người bào chữa, đại diện thường là Luật sư, nên cơ cấu đảm
bảo phải ở trách nhiệm của tổ chức nghề nghiệp Liên Đoàn Luật sư Việt
Nam và Đoàn luật sư các tỉnh thành. Đoàn luật sư cần có cơ cấu tổ chức hợp
lý để quản lý thành viên của mình cả về chuyên môn lẫn các quyền lợi nghĩa
vụ, đồng thời kết cấu tổ chức phải có sự độc lập về mặt quản lý hành chính
đối với các cơ quan tố tụng. Tổ chức nghề nghiệp Luật sư cũng là chỗ dựa
vững chắc của các luật sư thành viên, nên cần có các cơ chế từ phía tổ chức
để bảo vệ về mặt quyền hoạt động trong nghề nghiệp khi tham gia vào quá
trình tố tụng vụ án hình sự.
Ngoài việc kết cấu về mặt tổ chức hợp lý, cũng cần mở rộng thêm tổ
chức về mặt bồi dưỡng đào tạo kỹ năng sâu về chuyên môn giữa các chức
danh tham gia tố tụng như Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà
án, Luật sư nhằm tăng hiệu quả tranh luận trong xét xử dù họ ở vị trí buộc
tội, gỡ tội hay trọng tài để ra phán quyết.
- Đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí cho quá trình tranh tụng
Cơ sở vật chất về trang thiết bị cho phòng xử án phải bảo đảm đầy đủ
và bố trí phù hợp, hiện nay đang có xu hướng phân hoá về phòng xử án nghĩa
là các nhóm đối tượng phạm tội khác nhau sẽ có những cách bố trí thích hợp
khác nhau, ví dụ đối tượng như người dưới 18 tuổi phạm tội, phụ nữ có thai,
người tàn tật… Mặt khác việc thiết kế và bố trí các vị trí cho các bên tham
gia tố tụng cũng cần có sự thể hiện tính bình đẳng thuận lợi cho công việc
vai trò và vị trí tố tụng. Ngoài ra cũng cần có các trang thiết bị hiện đại như
camera ghi hình, hệ thống âm thanh và ánh sáng phù hợp, hệ thống điều hoà
nhiệt độ cần đảm bảo phù hợp với mỗi điều kiện thời tiết khác nhau. Tổng
hoà các điều kiện trang thiết bị vật chất thuận lợi bảo đảm cho người tham
31
gia tố tụng thì mới góp phần đảm bảo sự hiệu quả cảu kết quả xét xử nói chung và
tranh luận nói riêng.
Ngoài ra, cần có kinh phí để hỗ trợ thêm cho thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
hoặc cung cấp các trang thiết bị hiện đại phục vụ trong công việc xét xử cũng như
nghiên cứu theo từng vụ án để có thể tập trung làm tốt nhiệm vụ của mình.
- Trình độ, năng lực của các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tòa
Đây là một yếu tố quan trọng, chất lượng của tranh luận có hay không phụ
thuôc khá lớn vào chất lượng chuyên môn và trình độ năng lực của các chủ thể tham
gia.
Đối với Thẩm phán, trình độ chuyên môn, kỹ năng và vốn sống cùng bản
lĩnh chính trị phải đáp ứng được một cách rất cao mới bảo đảm được chức năng làm
người đại diện cho Toà án trong việc xét xử. Hiện thực ở nước ta hiện nay, hệ thống
TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính. Về quy trình, Thẩm phán được đào tạo
bài bản chính quy và lấy từ các nguồn đã trải qua rất nhiều kinh nghiệm và công tác
pháp lý tại Toà án trước đó như từ các chức vụ Thư ký, chuyên viên pháp lý, về cơ
bản phần lớn đáp ứng tốt về mặt chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp trong vai trò
là người cầm cân nảy mực phân xử.
Đối với đội ngũ Kiểm sát viên, yếu tố chuyên môn phải bảo đảm ở trình độ
cao thì mới có khả năng xử lý tốt công việc đòi hỏi ở vai trò của mình là thực hiện
quyền công tố, ngoài ra còn phải đối diện với phản biện, tranh luận rất sắc xảo từ
phía người bào chữa là các luật sư nhằm bào chữa và gỡ tội cho người bị cáo buộc
phạm tội tại phiên toà.
Về phía người bào chữa, đại diện lớn nhất thường là Luật sư. Vai trò của
luật sư rất quan trọng đối với việc bào chữa cho bị cáo, vì thế kiến thức chuyên
môn, kỹ năng tranh tụng là một yếu tố không thể thiếu. Phần lớn kết tranh tụng hoặc
vụ án phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng kỹ năng chuyên môn của Luật sư. Kiến
thức và kỹ năng này là công cụ duy nhất để thực hiện tốt quyền của người bào chữa
trong tố tụng và làm cân bằng lại sự cáo buộc của phía công tố. Vì thế về mặt này,
nó đòi hỏi Luật sư cần trang bị kiến thức sâu rộng, luôn trao dồi kỹ năng, đạo đức
32
nghề nghiệp và bản lĩnh thì mới có khả năng đối diện xử lý tốt với các cáo
buộc và tranh luận bảo vệ quan điểm của từ phía buộc tội đối với người được
bào chữa.
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 của luận văn, tác giả tập trung phân tích, giải quyết
vấn đề lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ
thểm. Cụ thể, đã đưa ra được khái niệm về người bào chữa, khái niệm tranh
luận của người bào chữa tại phiên tòa. Sau khi đưa ra khái niệm, tác giả phân
tích về cơ sở pháp lý, nội dung, trình tự tranh luận tại phiên tòa, nêu lên
những ý nghĩa của tranh luận tại phiên tòa. Đây là cơ sở lý luận và pháp lý để
tác giả đánh giá thực tiễn ranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm của TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm
2014 đến năm 2018 ở chương 2.
33
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ
THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận
của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm
- Quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của
người bào chữa
Tranh luận tại phiên tòa là một phần quan trọng của quá trình xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự và được tiến hành ngay sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Khi
tranh luận tại phiên tòa, người tranh luận bày tỏ quan điểm của mình về việc giải
quyết vụ án: phân tích đánh giá chứng cứ vụ án; đề nghị áp dụng pháp luật và giải
quyết các vấn đề của vụ án. Trên cơ sở các ý kiến phát biểu tranh luận, Hội đồng xét
xử xem xét, quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đúng đắn. Theo quy định tại Điều 217 Bộ luật TTHS 2003 quy định về trình
tự phát biểu khi tranh luận của người bào chữa như sau: sau khi kết thúc việc xét
hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội; bị cáo sẽ phát biểu lời bào chữa cho mình.
Tuy nhiên, trường hợp bị cáo có người bào chữa thì người này sẽ phát biểu lời bào
chữa cho bị cáo ngay sau khi Viện kiểm sát trình bày lời luận tội; sau đó bị cáo mới
bổ sung ý kiến bào chữa. Bằng việc quy định trình tự phát biểu lời bào chữa như
trên, người bào chữa cho bị cáo đóng vai trò chính trong việc bào chữa. Người bào
chữa bào chữa là người có kiến thức pháp luật, có kỹ năng cũng như có sự am hiểu
sâu rộng về các lĩnh vực khác của xã hội, vì vậy việc quy định người bào chữa phát
biểu lời bào chữa trước giúp đưa ra những ý kiến, lập luận có tính pháp lý cao, logic
và đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy có nhiều
trường hợp người bào chữa cố gắng đưa ra những tình tiết giảm nhẹ, hay lái tình tiết
sang một tội danh khác nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên sau đó bị
cáo lại hoàn toàn nhận hết trách nhiệm và hành vi phạm tội. Hoặc người bào chữa
đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát trong bản luận tội và xin cho bị cáo
34
được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thì đến khi bổ sung ý kiến bị cáo lại bác
bỏ và không nhận tội. Có thể thấy, trong các trường hợp trên, ý chỉ của bị
cáo và quan điểm của luật sư đã có sự vênh nhau, thậm chí còn đối lập nhau.
Pháp luật quy định cho phép người bào chữa tham gia quá trình tố tụng nhằm
bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Bộ luật TTHS năm
2003 quy định trình tự phát biểu khi tranh luận là người bào chữa phát biểu
bào chữa trước rồi mới đến bị cáo phát biểu đã dẫn đến một số trường hợp
không phát huy được vài trò và ý nghĩa của người bào chữa đối với việc bảo
vệ bị cáo. Hơn nữa, việc quy định người bào chữa phát biểu bào chữa trước
thể hiện trong phiên tòa, người bào chữa có vai trò chính còn bị cáo chỉ là
phụ (chỉ phát biểu bổ sung) trong việc bảo vệ quyền lợi của bị cáo. Lời bào
chữa của người bào chữa tại phiên toà là sự thể hiện ý chí của bị cáo đối cáo
buộc của Viện kiểm sát buộc tội bị cáo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
người bào chữa vì bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được
bào chữa mà quyết định thay ý chí của người được bào chữa. Khi thực hiện
bào chữa cho bị cáo thì người bào chữa có quyền bào chữa của bị cáo nhưng
đó là quyền phái sinh, tức người bào chữa đã nhận sự “uỷ quyền” của bị cáo
để thực hiện việc bào chữa. Do vậy, quyền phái sinh của người bào chữa
phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của chủ thể trao quyền là bị cáo. Như
vậy, với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2003 là chưa hợp lý. Vì vậy,
trình tự phát biểu khi tranh luận của người bào chữa được sửa đổi, bổ sung
trong quy định cụ thể tại Điều 320 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
“1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu
thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị
Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội.
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào
chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến
bào chữa.
35
3. Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền
và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì
người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
4. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc
người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận
tội.”
Chủ tọa phiên tòa điều khiển các bên tham gia tranh luận và thể hiện quan
điểm về việc giải quyết vụ án. Những người tham gia tranh luận gồm: Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố tại phiên toà; bị cáo; người bào chữa; bị hại; nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án người đại
diện hợp pháp của (bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án); người bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của bị hại,
đương sự.
Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 thì sau khi kết thúc việc xét hỏi,
Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì
bị hại hoặc người đại diện của họ phát biểu trước; bị cáo trình bày lời bào chữa;
người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo, tiếp theo bị cáo sẽ được bổ sung
thêm ý kiến bào chữa. Có thể thấy, trình tự phát biểu khi tranh luận của bị cáo và
người bào chữa cho bị cáo được quy định tại Bộ luật TTHS hiện hành đã có sự thay
đổi. Tuy nhiên, quy định tại Khoản 2 Điều 320 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về trình
tự phát biểu của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đã hình thành hai
quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bộ luật TTHS năm 2015 quy định trình tự: bị
cáo trình bày lời bào chữa trước rồi mới đến người bào chữa trình bày lời bào chữa,
tiếp theo bị cáo có quyền bổ sung thêm. Vì vậy, chủ tọa phiên tòa điều hành phiên
tòa sẽ chỉ định phát biểu bào chữa theo trình tự này. Với cách hiểu và cách thức
phát biểu khi tranh luận này, bị cáo đã được đặt lên làm chủ thể chính trong quá
trình tố tụng bằng việc được tự bào chữa cho mình, được thể hiện ý chí của mình
trước. Tiếp đến người bào chữa cho bị cáo sẽ dựa trên ý chí của bị cáo để đưa ra
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAYLuận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
Luận văn: Sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng theo pháp luật, HAY
 
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOTĐề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
Đề tài: Hoàn thiện chế định hòa giải trong luật tố tụng dân sự, HOT
 
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hônGiải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Luận văn: Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - thực tiễn áp ...
Luận văn: Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - thực tiễn áp ...Luận văn: Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - thực tiễn áp ...
Luận văn: Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - thực tiễn áp ...
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dựLuận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
Luận văn: Bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng danh dự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếLuận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Luận văn: Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Trung tâm
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Trung tâmLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Trung tâm
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Trung tâm
 
Cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoàiCho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhânLuận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
Luận văn: Hiệu lực của ly hôn đối với vợ chồng theo luật hôn nhân
 
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hônBáo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
Báo cáo thực tập: Quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ với con sau ly hôn
 
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docxBáo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Về Căn Cứ Ly Hôn Tại Tòa Án.docx
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Dân Sự, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hônLuận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
Luận văn: Giải quyết tranh chấp tài sản trong các vụ án ly hôn
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 

Similar to Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY

Similar to Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY (20)

Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tỉnh Cà Mau, 9đ
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Phiên tòa hình sự sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOTĐề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
Đề tài: Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 

Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ HỒNG LÊ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠ HỒNG LÊ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. VÕ THỊ KIM OANH HÀ NỘI, năm 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những tài liệu tham khảo và trích dẫn đảm bảo tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn vừa mang tính kế thừa các công trình khoa học trước đây nhưng chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN TẠ HỒNG LÊ
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................7 1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ...7 1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.10 1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm....15 1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. .................................................................................................................18 1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự......................21 1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm......................................................................................................29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.33 2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm .................................................................33 2.2. Tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2014 – 2018 ...........................................................................................................41 2.3. Thực tiễn thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................42 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.........................................................67 3.1. Quan điểm nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh.........................................................67 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành Phố Hồ Chí Minh.........................................................72
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử HSST Hình sự sơ thẩm HTND Hội thẩm nhân dân TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1.Số liệu thụ lý, giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp trênđịa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018. Bảng 2.2.Tỷ lệ giải quyết án hình sự sơ thẩm có người bào chữa tham gia trên tổng số vụ án thụ lý của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018 Bảng 2.3. Quyết định của HĐXX về giải quyết án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 đến năm 2018
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Tranh luận là cái gốc của sự thật”, vấn đề này đã được các triết gia Hy Lạp nhận thức từ thời cổ đại và cho đến bây giờ việc tranh luận tại phiên tòa vẫn luôn là một bước không thể thiếu được của trình tự xét xử vụ án tại phiên tòa.Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề quyền con người, quyền công dân và đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nhất là trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Để đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, trong các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước đã quy định về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đảm bảo quyền tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa. Với khía cạnh tranh tụng, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp thể hiện rõ là “nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”. Tiếp đến cần nhắc đến Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 nêu lên rằng “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, trong Bộ luật TTHS và các văn bản pháp luật có liên quan đã quy định về vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử. Một trong những điểm cụ thể hoá đó là Điều 26 Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận: “…Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa...”. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự, pháp luật đã có những quy định đảm bảo cho việc tham gia của người bảo chữa và đảm
  • 9. 2 bảo thực hiện hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Thực tế tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xét xử vụ án hình sự, một mặt góp phần đảm bảo quyền của bị cáo trong việcnhờ người khác bào chữa, mặt khác còn bảo đảm cho quá trình phân tích, đánh chứng cứ của vụ án ngay tại phiên tòa, góp phần giúp Hội đồng xét xử đưa ra những biện pháp xử lý, giải quyết vụ án phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc tranh luận của người bào chữa trong nhiều phiên toà hình sự còn chưa đáp ứng yêu cầu. Nhiều phiên tòa không có người bào chữa tham gia, trách nhiệm và năng lực của người bào chữa vẫn còn nhiều bất cập. Có phiên toà chưa thật sự dân chủ, quyền bào chữa của người bào chữa chưa được tôn trọng. Số án sơ thẩm bị huỷ, bị cải sửa ở cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hằng năm vẫn còn xảy ra nhiều. Từ thực tế đó, tác giả luận văn thấy rằng việc làm rõ các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tranh luận của người bào chữa trong phiên tòa hình sự nhằm đánh giá các kết quả đạt được, làm rõ các hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường chất lượng thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự là hêt sức cần thiết. Do đó, tác giả luận văn lựa chọn đề tài: “Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan tới đề tài Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đến nay trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu, trong số đó tiêu biểu có các công trình sau: - Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Bảo Trâm năm 2008, trường Đại học Quốc gia Hà Nội là: “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tác giả đã khái quát, lý luận chung về
  • 10. 3 nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của các đối tượng trong quá trình điều tra truy tố xét xử như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. - Vũ Thế Lân (2014), Bảo đảm bình đẳng trong quan hệ tố tụng, Báo Nhân dân, (215), tr.7. Bài viết đã nhận định Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: "Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. - Tác giả Dương Thanh Biểu với tác phẩm sách tham khảo “Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm” do NXB Tư pháp, Hà Nội ấn hành năm 2007. Công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đề cập những vấn đề lý luận, vận dụng kiến thức pháp luật về các trình tự nội dung, kỹ năng liên quan đến việc tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm. - Tác giả Lê Hữu Thể với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam theo tinh thần cải cách tư pháp” do Nxb Tư pháp Hà Nội phát hành năm 2008. Nội dung đề tài góp phần làm rõ hơn tinh thần, nội dung tranh tụng được nêu trong Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính trị. - Bài nghiên cứu của Hồ Nguyễn Quân năm 2013, “Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, tại trang http://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/303. Bài viết này đã phân tích được quy định của pháp luật về TTHS Việt Nam với một số vấn đề liên quan trong tranh tụng tại phiên tòa. - Liên quan đến giai đoạn điều tra có Luận văn Thạc sĩ năm 2009 của tác giả Lê Hồng Sinh năm: “Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS với số liệu thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Luận về chức năng bào chữa của Luật sư trong giai đoạn điều tra có nghiên cứu trong Thạc sĩ luật học của tác giả Bùi Thị Thủy năm 2017 là đề tài “Chức năng bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Luận văn trên cơ sở lý luận dưới cách tiếp cận khoa học về TTHS, đồng thời đã làm rõ hơn quy định của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động bào chữa của Luật sư với các dữ kiện thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
  • 11. 4 Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, các nguyên tắc của hoạt động tranh tụng tại các phiên tòa hình sự, vị trí vai trò của người bào chưa trong phiên tòa hình sự. Đặc biệt, các công trình trên đã đề cập đến thực tiễn pháp luật Việt Nam và thực hiện pháp luật Việt Nam về hoạt động tranh tụng trong các phiên tòa hình sự để từ đó thấy được những mặt tích cực, cũng như những tồn tại, hạn chế trong pháp luật về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nước ta hiện nay. Tuy vậy, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu về vấn đề tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung, gắn với địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Ðể thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Khảo sát thực tế, nghiên cứu, phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực trạng tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở thực tiễn đó xem xét các kết quả đã đạt được về mặt hiệu quả, các vấn đề còn hạn chế chưa đạt được, bên cạnh đó tìm kiếm làm rõ các nguyên nhân chính yếu dẫn đến những hạn chế ấy và có hướng giải quyết. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
  • 12. 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh. - Về chủ thể: Người bào chữa. - Về không gian: Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Hình sự và Tố tụng hình sự Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Trong quá trình nghiên cứu đề tài trên, tác giả đã sử dụng tổng thể và phối hợp giữa các phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: - Phương pháp phân tích tài liệu; - Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích số liệu; - Phương pháp tổng kết thực tiễn; - Phương pháp điều tra điển hình; - Phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học - Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
  • 13. 6 - Luận văn có khả năng được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực luật học như luật Hình sự và Tố tụng hình sự. 6.1. Ý nghĩa thực tiễn - Là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có liên quan đến tranh tụng trong phiên tòa hình sự sơ thẩm, đặc biệt là vấn đề tranh luận của người bảo chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. - Là tài liệu cho người bào chữa, những người tiến hành tố tụng hình sự và những người tham gia tố tụng hình sự tham khảo, vận dụng trong thực hiện hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tranh luận trong quá trình xét xử. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục; nội dung được kết cấu thành 03 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Chương 2: Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại thành phố Hồ Chí Minh
  • 14. 7 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Trong tố tụng hình sự, nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng là đảm bảo phát hiện kịp thời và xử lý minh bạch công bằng mọi hành vi phạm tội, tiêu chí là không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội; Từ đó góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng như quyền công dân. Mặt khác nhìn nhận xa hơn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Hoặc giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Quá trình tố tụng hình sự trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi vụ án được giải quyết xong. Việc xét xử vụ án hình sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, phải đảm bảo hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Trong giai đoạn xét xử sở thẩm, Tòa án tiến hành xét xử công khai trước sự tham gia đầy đủ của các bên và những người tham dự phiên tòa. Thông qua hoạt động xét xử, Tòa án giải quyết các vấn đề thuộc về bản chất của vụ án, bao gồm: việc xác định có tội phạm hay không, nếu có tội phạm thì tội gì và quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trong giai đoạn xét xử các chứng cứ, tài liệu, đồ vật được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập, củng cố ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố được kiểm tra công khai tại phiên tòa. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố nhằm thu thập, củng cố chứng cứ để làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, còn hoạt động xét xử chủ yếu nhằm kiểm tra, đánh giá lại các chứng cứ đã được thu thập nhằm đảm bảo việc ra bản án của Tòa án là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng được coi là giai đoạn trung tâm, mang tính quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Để đảm bảo chất lượng xét xử sơ thẩm, đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con
  • 15. 8 người của người bị buộc tội nói riêng, pháp luật tố tụng hình sự phải quy định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong tố tụng hình sự Việt Nam, người bào chữa là một chủ thể tham gia tố tụng, khi tham gia phiên tòa hình sự sơ thẩm người bào chữa được BLTTHS đảm bảo thực hiện hoạt động tranh luận. Trọng tâm của hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm chính là việc người bào chữa đánh giá chứng cứ, sử dụng lý lẽ, lập luận để đối đáp, tranh luận với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Tùy vào từng vụ án cụ thể, người bào chữa sẽ lựa chọn nội dung, kỹ năng và phương pháp tranh luận thích hợp. Việc người bào chữa thực hiện tốt hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phàm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo vệ tốt nhất quyền con người của người bị buộc tội. Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án, đồng thời góp phần bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội, tuy nhiên trong pháp luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm về hoạt động này. Theo từ điển Tiếng Việt tranh luận là bàn cãi để tìm ra lẽ phải [45, tr.943]. Như vậy theo khái niệm trên thì tranh luận có thể xuất hiện trong việc lĩnh vực của đời sống xã hội, nội dung của tranh luận là bàn cãi, mục đíc của hoạt động này là tìm ra lẽ phải. Đây là khái niệm chung về tranh luận nên chưa mang tính cụ thể và chưa đầy đủ về hoạt động tranh luận của người bào chữa trong phiên tòa hình sự sơ thẩm. Dưới góc độ pháp luật, theo thuật ngữ pháp lý thì tranh luận tại phiên tòa là một thủ tục thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên đương sự, đồng thời làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho việc xem xét và quyết định về vụ án được đúng đắn [12, tr.425-453]. Như vậy, dưới góc độ pháp lý tranh luận tại phiên tòa được tiếp cận là một thủ tục tố tụng. Việc xét xử tại phiên tòa trải qua nhiều thủ tục khác nhau trong đó có thủ tục tranh
  • 16. 9 luận giữa các bên, bản chất của việc tranh luận giữa các bên là làm sáng tỏ sự thật của vụ án, mục đích của hoạt động này giúp cho Tòa án có thể đưa ra được phán quyết cuối cùng được đúng đắn. Qua phân tích trên, có thể nhận khái niệm về tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của người bào chữa là một vấn đề chưa được đề cập trong các từ điển phổ thông và từ điển pháp lý, trong khoa học pháp lý khái niệm này cũng chưa được quan tâm nghiên cứu đầy đủ. Để xây dựng khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm thì cần xác định những đặc điểm đặc trưng của đối tượng này. Dựa trên các đặc điểm về chủ thể của tranh luận, nội dung tranh luận, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo hoạt động tranh luận, mục đích của hoạt động này có thể đưa ra khái niệm về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST như sau: Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS được người bào chữa thực hiện tại phiên tòa HSST trên nguyên tắc bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận, đối đáp của mình và phản bác chứng cứ, lập luận của bên buộc tội về vụ án dưới sự điều khiển, quyết định của HĐXX sơ thẩm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, góp phần giải quyết vụ án đúng đắn vụ án. Như vậy, đối với người bào chữa việc tham gia tranh luận chủ yếu và tập trung nhất trong thủ tục tranh tụng. Theo đó, sau khi xét hỏi, HĐXX sẽ đảm bảo cho các bên tham gia tranh luận và người bào chữa sẽ thực hiện hoạt động tranh luận của mình để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo chữa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích bị cáo. Phần tranh luận tại phiên tòa được xem là yếu tố mang tính đặc trưng tiêu biểu của tranh tụng trong tố tụng hình sự bởi hai bên buộc tội và bên bào chữa đều vận dụng tất cả những dữ liệu có từ hồ sơ, chứng cứ, và xét hỏi trước đó cùng căn cứ pháp luật để hai bên cùng đưa ra lập luận quan điểm của mình và nhận phản biện từ phía bên kia để tìm ra sự thật khách quan dung với bản chất sự việc nhất, mọi diễn tiến đều diễn ra dưới sự điều hành phòng xét xử của Chủ toạ phiên toà. Phía buộc tội nghiêng về bảo vệ các quan điểm có trong cáo trạng,
  • 17. 10 còn phía người bào chữa dựa trên cả quá trình để lập luận xem cáo trạng và lập luận của Kiểm sát viên có đúng hay không về tính chất và mức độ. Về quá trình tranh luận, người bào chữa sẽ không bị hạn chế thời gian cho việc tranhh luận làm sáng tỏ sự việc trong vụ án. Có quyền đề nghị HĐXX làm rõ các tình tiết còn bị bỏ sót hoặc không rõ ràng, trong cuộc tranh luận theo trình tự nhất định nếu có xuất hiện các tình tiết hoặc chứng cứ mới liên quan ảnh hưởng đến vụ án thì HĐXX sẽ quay lại phần hỏi để làm rõ hơn các tìn tiết ấy mục đích không ngoài việc có được góc nhìn đa diện hơn vụ án. Trong sự tranh luận của các bên tại Toà, HĐXX luôn điều khiển về mặt thủ tục để việc tranh luận đúng hướng, đúng quy định về mặt hình thức và nội dung. Đồng thời lắng nghe và phân tích cùng nhìn nhận với vai trò như một trọng tài, tức là không nghiêng về bên nào với sự dẹp bỏ ý chí chủ quan khi chưa nắm bắt hết được các vấn đề một cách toàn diện. Sự phán quyết có đúng hoặc sai bản chất phụ thuộc trong phần này rất nhiều vì hai bên sẽ bóc tách từng vấn đề một cách khoa học logic và hình thành nên cái nhìn khách quan hơn cho HĐXX. Từ đó mới có cơ sở bảo đảm việc nhận định và phán quyết cuối cùng đúng người đúng tội. 1.2. Đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Qua khái niệm đã được trình bày ở trên, có thể rút ra những đặc điểm của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm như sau: Thứ nhất, tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật TTHS. Bộ luật TTHS quy định trình tự thủ tục để khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án hình sự và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tố tụng hình sự là tổng thể các hoạt động tố tụng do cơ quan, người có thẩm quyền, người tham gia tố tụng thực hiện theo quy định của Bộ luật TTHS để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, Bộ luật TTHS năm 2015
  • 18. 11 quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm, trong đó quy định thủ tục tranh tụng. Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm theo luật định sẽ bao gồm hai thủ tục chính yếu quan trọng: Một là thủ tục xét hỏi, hai là thủ tục tranh luận. Việc tranh luận của người bào chữa nói riêng và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa nói chung được thực hiện theo trình tự, cách thức mà Bộ luật TTHS đã quy định. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm để thực hiện việc tranh luận với bên buộc tại và những người tham gia tố tụng khác người bào chữa phải sử dụng chứng cứ, lý lẽ, lập luận nhằm đối đáp, phản đối và thuyết phục những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm đánh giá chứng cứ của mình. Việc tranh tụng phải thực hiện dưới dạng một hoạt động mang tính chủ động, có mục đích của người bào chữa. Người bào chữa phải vận dụng kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kỹ năng và phương pháp tranh luận phù hợp với diễn biến cụ thể của từng vụ án để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháo cho bị cáo mà mình bảo vệ. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận của các chủ thể tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và hoạt độn tranh luận của người bào chữa nói riêng Bộ luật TTHS đã quy định chặt chẽ về hoạt động này. Khi thực hiện hoạt động tranh luận người bào chữa phải tuân thủ và thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo hiệu quả của hoạt động tranh luận. Thứ hai, chủ thể của việc thực hiện tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm rất rộng, trong đó có người bào chữa. Trong tố tụng hình sự việc tranh luận tại phiên tòa với mục đích làm rõ hơn bản chất của vụ án cũng như sự thật khách quan đã diễn ra. Các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm rất rộng bao gồm Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, đương sự, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự. Như vậy, người bào chữa là một trong những chủ thể thực hiện hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Người bào chữa là một chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo tại phiên tòa, đồng thời góp phần bảo vệ sự thật khách quan của vụ án. Với địa vị và mục đích tham gia tố tụng của người bào chữa tại phiên tòa HSST đòi hỏi Bộ luật TTHS phải đảm bảo cho người bào chữa thực hiện hoạt động tranh luận bình đẳng,
  • 19. 12 công bằng với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác. Việc đảm bảo hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng chính là sự cụ thể hóa của nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án... Đồng thời thể hiện bản chất nhân đạo và daan chủ của Đảng và Nhà nước ta. Thứ ba, đặc điểm về nội dung, phạm vi tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Nội dung tranh luận tại phiên toà bao gồm nội dung chính về các vấn đề vụ án bao gồm (1) làm rõ sự việc diễn ra bao gồm các chủ thể, tình tiết, không gian, thời gian liên quan vụ án bằng các chứng cứ, cách thu thập xử lý đánh giá chứng cứ, sự logic trong lập luận; (2) về việc áp dụng pháp luật trong vệc định tội danh và đưa ra bản cáo trạng; (3) về thực hiện quy trình tố tụng trước đó. Theo trình tự tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên đưa ra quan điểm như bản cáo trạng buộc tội bị cáo trên các cơ sở hồ sơ mà cơ quan điều tra cung cấp trước đó. Lúc này về nguyên tắc đã bắt đầu xuất hiện chức năng bào chữa. Bằng sự điều hành của Chủ toạ, việc xét hỏi để làm rõ các tình tiết và bắt đầu theo như quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2015 xoay quanh các vấn đề: Xác định về hành vi sự kiện như có hành vi phạm tội hay không, ai là người thực hiện và tham gia, động cơ mục đích phạm tội, tính chất mức độ…Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, nghe ý kiến của các nhà chuyên môn và ý kiến của các cơ quan, tổ chức có liên quan trình bày cũng được các bên sử dụng để chứng minh cho luận điểm của mình. Thông qua việc điều tra công khai, trực tiếp của các chủ thể bên buộc tội, bên gỡ tội và HĐXX tại phiên tòa; các tình tiết về vụ án được làm sáng tỏ. Lúc này, nội dung tranh luận mới chỉ xoay quanh các vấn đề chứng minh tính hợp pháp và giá trị chứng minh của các chứng cứ về các tình tiết của vụ án (thu thập, kiểm tra, đánh giá) chứng cứ ở các giai đoạn tố tụng trước đó và tại tòa giữa
  • 20. 13 bên buộc tội với bên gỡ tội mà chưa bộc lộ rõ quan điểm của bên buộc tội và bên bào chữa - là hai bên của cuộc tranh luận về việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án. Đến giai đoạn xét hỏi xong, Kiểm sát viên lập luận đưa ra quan điểm toàn bộ về vụ án bao gồm kết hợp việc đánh giá chứng cứ với các tình tiết và kết luận trong việc áp dụng pháp luật đối với bị cáo. Người bào chữa cũng đến phần của mình là cũng dựa vào các tình tiết chứng cứ, cùng các đánh giá và kết luận của Viện Kiểm sát để đưa ra quan điểm bào chữa của mình, chấp nhận hay phản bác các ý kiến của Kiểm sát viên, những lập luận đó có phù hợp, logic và biện chứng hay không, việc áp dụng quy trình tố tụng có chính xác chưa. Hay việc áp dụng pháp luật vào việc buộc tội như vậy có chính xác thoả đáng đúng với tinh thần luật hay không, Kiểm sát viên có bỏ sót vấn đề nào liên quan đến sự vô tội hay giảm nhẹ của người bị buộc tội hay không… các vấn đề trên đều được tranh luận qua lại đến khi mọi thứ rõ ràng minh bạch và không còn những góc khuất của vấn đề, mọi thứ như trải ra dưới sự điều hành và quan sát lắng nghe của Chủ toạ. Như vậy, nội dung tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là người bào chữa sẽ sử dụng chứng cứ mình thu thập được theo quy định của Bộ luật TTTHS, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ được cung cấp mới tại phiên tòa, đồng thời sử dụng lý lẽ, lập luận, kỹ thuật, phương pháp tranh luận phù hợp nhằm đối đáp, phản bác, hoặc thuyết phục bên đối lập chấp nhận quan điểm mà mình đưa ra. Trên đây là nội dung của tranh luận tại phiên toà hình sự, tuy nhiên nó cũng giới hạn về phạm vi, nghĩa là có một phạm vi nội dung mà luật cho phép được tranh luận chứ không mở rộng một cách không có giới hạn. Vậy Phạm vi của tranh luận cần được xác định là như thế nào là hiệu quả. Như đã biết, bản chất của tranh luận tại toà là sự phản biện, có đôi khi phủ nhận lẫn nhau về việc chứng minh sự việc, đối tượng và áp dụng pháp luật giữa hai bên công tố và bào chữa không ngoài mục đích là mỗi bên đều chứng minh quan điểm của mình dựa trên chứng cứ và pháp luật. Một mặt khác sự tranh luận này đối
  • 21. 14 với người bào chữa chỉ nằm trong phạm vi giới hạn của sự buộc tội. Bởi sự buộc tội của bên công tố là mấu chốt nảy sinh ra sự tranh luận. Vì thế giới hạn của sự buộc tội thể hiện ở phạm vi không lớn hơn về quy mô tính chất mà Kiểm sát viên cáo buộc như về như tội danh, về hành vi, về đối tượng, về đánh giá mức mức độ về hình phạt đề nghị áp dụng… Thông thường sự tranh luận lại của người bào chữa sẽ không vượt qua phạm vi về dung lượng hoặc số lượng tính chất các cáo buộc và có xu hướng mong muốn thu hẹp lại hơn so với các cáo trạng mà bên công tố đưa ra. Ngoài ra, phạm vi về mặt trình tự thủ tục thì sự tranh luận giữa các bên được bắt đầu sau khi Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa, tức là bắt đầu từ thủ tục bắt đầu phiên tòa đến xét hỏi, tranh luận, nghị án và kết thúc khi HĐXX tuyên án. Thứ tư, trong quá trình tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm HĐXX có trách nhiệm điều khiển cho người bào chữa tranh luận với Viện kiểm sát và người tham gia tố tụng khác một cách công khai, bình đẳng, thực chất. Tranh luận tại phiên toà theo trình tự thủ tục một cách công bằng văn minh và trật tự đúng quy định. Với vai trò điều hành phiên toà, HĐXX đóng vai trò như một trọng tài, không can thiệp vào bản chất của việc tranh luận, chỉ giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi để các bên tranh luận đúng pháp luật, đúng vấn đề và khuyến khích sự tranh luận để từ đó có sự nhìn nhận vấn đề rõ ràng hơn phục vụ cho việc ra phán quyết của mình. Ngoài ra trong quá trình tranh luận, HĐXX cần phải điều chỉnh các quy trình theo trình tự tố tụng nếu việc tranh luận đi lạc chủ đề trọng tâm hoặc quá đà, căng thẳng về mặt hình thức. Hoặc cần thiết phải quay lại phần hỏi để chứng minh nếu có vấn đề chưa đươc làm rõ hoặc xuất hiện tình tiết mới. Có thể nói vai trò của HĐXX trong tranh luận chỉ là người điều hành cuộc tranh luận về mặt hình thức và thủ tục để bảo đảm sự cân bằng trong việc phát huy quyền và nghĩa vụ của các bên trong tranh luận, không bên nào có sự áp đặt chủ quan về
  • 22. 15 quyền lực mà lấn át quyền của bên kia, không can thiệp vào nội dung tranh luận của các bên nếu nó vẫn đang diễn ra đúng quy định. Thứ năm, mục đích việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Mục đích chung của thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án, giúp cho HĐXX có thể ra bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích và địa vị tham gia tố tụng của người bào chữa nên mục đích tranh luận của người bào chữa nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, góp phần bảo vệ sự thật của vụ án. Để đạt được mục đích này, người bào chữa phải lựa chọn nội dung, phạm vi tranh luận phù hợp, áp dụng kiến thức, kỹ năng, ngôn ngữ tranh luận linh hoạt. Trước khi tham gia tranh luận tại phiên tòa người bào chữa phải thực hiện tốt hoạt động thu thập chứng cứ, nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nghiên cứu kỹ căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa cần ghi chép diễn biến và những quan điểm buộc tội của đại diện Viện kiểm sát, bác bỏ những căn cứ buộc tội không có cơ sở, không hợp pháp của Viện kiểm sát, tranh luận với ý kiến, quan điểm của những người tham gia tố tụng khác. Mục đích hướng tới của người bào chữa khi tranh luận là phát hiện, làm rõ những tình tiết có lợi cho bị cáo, không được tranh luận theo hướng làm xấu hơn tình tình của bị cáo, qua đó giúp Hội đồng xét xử làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án để ra phán quyết đúng đắn. 1.3. Ý nghĩa của tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm 1.3.1. Ý nghĩa chính trị- xã hội Tranh luận tại phiên tòa hình sự nói chung và phiên tòa HSST nói riêng có thể nói là một sự cụ thể hoá đúng đắn quan điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách tư pháp mà Bộ chính trị đã đề ra từ những năm trước đây. Chủ trương đặt trọng tâm là Toà án và là trung tâm trong việc xét xử để đạt hiệu quả cao hơn trong công tác tố tụng hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số 49/NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị hướng về bảo đảm và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, xem đây là bước tiến bộ mang tính
  • 23. 16 đột phá thay đổi tư duy cũ trong việc tiến hành tố tụng. Vì thế việc cụ thể hoá chính sách này trong luật định và thực tiễn là thể hiện sự cầu thị, trong xu hướng chung của thế giới nhằm bảo đảm quyền con người ở mức cao nhất có thể. Nó cũng thể hiện tính dân chủ tự do của công dân theo đúng như Hiến Pháp 2013 quy định. Nó phản ánh tinh thần lấy dân chủ, con người làm trung tâm của sự phát triển bằng việc tạo ra các cơ chế tự do và bảo đảm các phương tiện thực hiện đặc biệt là công cụ pháp lý mà ở đó các bên đều bình đẳng về mặt pháp lý trong tố tụng. “Tranh tụng có nhiều yếu tố phù hợp với sự phát triển dân chủ, vì vậy tiếp nhận các yếu tố này là hướng phát triển đúng đắn trong cải cách tư pháp ở nước ta” [17]. Ngoài ra việc cải cách về mặt tố tụng hình sự trong đó có ghi nhận chính thức nguyên tắc tranh tụng, tranh luận tại Toà án sự thể hiện tính đề cao pháp luật của nhà nước Pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đề cao được tính nhân văn, nhân đạo trong pháp luật hình sự. Với việc tranh luận tại phiên toà diễn ra công khai, có thể giúp cho những người tham dự phiên toà hiểu rõ hơn về pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, điều quan trọng hơn là mọi người trong xã hội luôn thấy được rằng có sự công tâm minh bạch trong xét xử, quá trình diễn ra công khai minh bạch tạo ra các hiệu ứng tương tự sự giáo dục pháp luật đến mọi người trong xã hội, giúp họ tự ý thức về quyền của mình trong tố tụng để góp phần thúc đẩy sự đúng đắn hơn đối với các cơ quan tố tụng. Thông qua phiên tòa diễn ra công khai dân chủ, các bên tham gia tố tụng sẽ được thực hiện các quyền trong tố tụng của mình với các điều kiện thuận lợi nhất có thể. Từ đó dẫn đến việc quyết định của Tòa án được hình thành trên cơ sở các chứng cứ đã được các xem xét và đánh giá cẩn thận tỉ mỉ và khách quan công khai tại tòa, do đó việc xét xử của Tòa án mang lại cho các bên tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tòa có một niềm tin vững chắc vào pháp luật, lòng tin vào lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước bằng pháp luật. Lòng tin này sẽ lan toả trong xã hội góp phần thúc
  • 24. 17 đẩy mọi người tuân thủ và chung tay xây dựng, bảo vệ pháp luật một cách ý thức và tự giác hơn. 1.3.2. Ý nghĩa pháp lý Việc triển khai thực hiện tranh tụng trong xét xử là sự thể chế hoá các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra về phương diện luật học và khoa học pháp lý nó còn là sự thể chế hoá các quy định của Hiến pháp. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 có nêu lên rằng phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Từ những yêu cầu trên đã là cơ sở để làm cơ sở cho việc thay đổi khác trong luật định mà đặc biệt là TTHS với mục đích làm tăng tính dân chủ bình đẳng trong hoạt động xét xử và trong các hoạt động tố tụng khác nói chung. Việc tranh luận tại phiên toà là một phần của tranh tụng góp phần mang lại sự thật khách quan và cái nhìn toàn diện điều mà TTHS luôn mong muốn hướng tới trong xét xử. Tranh luận tại phiên toà HSST giúp hạn chế tối đa thiếu sót, oan sai trong xét xử, giúp toà có sự đánh giá, kết luận chính xác hơn trong bản án của mình. Tranh luận tại phiên toà là một thủ tục cần và đủ để thực hiện mô hình tố tụng mà Việt nam đang áp dụng xuất phát từ mô hình thẩm vấn và kết hợp với mô hình tranh tụng, sự kết hợp có hiệu quả này phải có mặt tất yếu của thủ tục tranh luận tại phiên toà như một cấu thành quan trọng. Nhà nước pháp quyền đặt nền tảng pháp luật vào việc quản trị quốc gia, nhắm đến bảo vệ quyền con người và các quyền này được thể chế hoá vào luật pháp một cách sâu rộng trong các lĩnh vực ngành nghề, Tố tụng hình sự cũng là một trong những sự cần thiết của sự cụ thể hoá đó, do vậy nguyên tắc tranh tụng mà cụ thể là tranh luận tại phiên toà sơ thẩm có vai trò góp phần thúc đẩy bảo vệ và tôn trọng quyền con người. Việc tranh luận tại phiên toà sơ thẩm góp phần thúc đẩy các bên tham gia tích cực làm tốt hơn trong vai trò của mình dưới phương diện pháp luật, góp phần chung vào hiệu quả của xét xử. Nó đòi hỏi các bên không thể tránh né trách nhiệm và các luận cứ mà các bên đang bảo vệ cho qun điểm của mình dựa trên pháp luật.
  • 25. 18 1.4. Cơ sở của việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm xuất phát từ các cơ sở sau đây: - Xuất phát từ yêu cầu xác định sự thật khách quan của vụ án. Pháp luật là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng, phản ảnh đặc điểm của các quan hệ xã hội. Pháp luật là sự phản ánh của hiện thực khách quan, thông qua lăng kính chủ quan của các nhà nhà làm luật và trên cơ sở khoa học các nhà làm luật xây dựng pháp luật và sau đó pháp luật được áp dụng vào thực tiễn và dùng thực tiễn để kiểm nghiệm. Vì vậy, một chế định pháp luật tố tụng hình sự được quy định đều có những cơ sở khoa học, là cái tiên quyết để nhà làm luật cân nhắc có nên quy định vào luật hay không. Mục đích hướng tới của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án, trên cơ sở xác định sự thật vụ án, Tòa án ra bản án, quyết định để giải quyết vụ án góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, quyền lợi của Nhà nước. Để đảm bảo xác định sự thật khách của vụ án các cơ quan, người có thẩm quyền được quyền áp dụng mọi biện pháp hợp pháp theo quy định của Bộ luật TTHS. Việc xác định sự thật vụ án là trách nhiệm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tuỳ mỗi giai đoạn. Trong giai đoạn xét xử trách nhiệm này thuộc về Tòa án, để đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án thì Tòa án cần đảm bảo cho các bên tham gia tranh tụng bình đẳng tại phiên tòa, đặc biệt phải đảm bảo cho người bào chữa tham gia tranh luận để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Điều này đảm bảo cho bản án hoặc quyết định của Tòa án mang sự khách quan, với góc nhìn toàn diện đúng với bản chất hơn. - Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền con người nói chung, đặc biệt là quyền con người của người bị buộc tội. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt nam đang xây dựng, quyền con người, quyền công dân
  • 26. 19 được tôn trọng và bảo đảm ở tất cả các phương diện và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình tố tụng hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, quyền con người rất nhạy cảm và dễ bị xâm phạm, các hành vi, quyết định trái pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền có thể xâm phạm trực tiếp đến các quyền con người, của công dân. Đặc biệt người bị buộc tội là chủ thể ở thể yếu trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, trong quá trình tố tụng họ có thể bị hạn chế các quyền và lợi ích nhất định. Vì vậy, đây là đối tượng cần đặc biệt được Nhà nước quan tâm, bảo vệ. Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc tội nói riêng trong tố tụng hình sự chính là là bảo đảm quyền sống, quyền được tự do, quyền tố tụng mà pháp luật quy định.Trong các văn kiện quốc tế về đảm bảo quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự mag Việt Nam là thành viên việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc tội được đặc biệt quan tâm như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966… Quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự cần được đảm bảo bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác; quyền được suy đoán vô tội; quyền được bào chữa; quyền được xét xử nhanh chóng… Hiến pháp năm 2013 và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã nội luật hóa các quyền con người trong các Công ước đồng thời đảm bảo thực hiện các quyền này trên thực tế. Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định các nguyên tắc cơ bản như: Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của con người, của công dân; bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền được suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền được xét xử kịp thời, công bằng, công khai,… Các quyền này phải được đảm bảo trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án. Trong giai đoạn xét xử việc quy định và đảm bảo cho người bào chữa tranh luận tại phiên tòa được xây dựng trên cơ sở đảm bảo quyền con người, quyền công dân nói chung và quyền của bị cáo nói riêng, phù hợp với
  • 27. 20 tinh thần của các công ước quốc tế, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các nguyên tắc tiến bộ của luật tố tụng hình sự. - Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy định dựa trên cơ sở đảm bảo phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Với chủ trương theo Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW ban hành ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra và đang được thực hiện từng bước cho đến nay; Cụ thể hoá trong luật định một số chi tiết của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết đã chỉ rõ cần phải nâng cao hiệu quả của các phiên tòa xét xử “khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa… để ra bản án, quyết định đúng luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn luật định”; Nghị quyết 48/NQ/TW ra đời ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng tới 2020 đã nhấn mạnh: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 một lần nữa nhấn mạnh yêu cầu “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp…”. Theo tinh thần của các Nghị quyết trên, Việt Nam vẫn giữ mô hình tố tụng thẩm vấn
  • 28. 21 nhưng đặt ra yêu cầu đổi mới việc tổ chức phiên tòa theo hướng tranh tụng mạnh mẽ hơn, trong đó nhấn mạnh việc xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, xem đây là một khâu đột phá của hoạt động tư pháp [42, tr.204-205].Vì vậy, việc quy định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST phải trên cơ sở và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp được đề ra trong các Nghị quyết của Đảng. Quy định hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm xuất phát từ tinh thần cải cách tư pháp, phù hợp với nhiệm vụ của tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc kiểm soát tội phạm chặt chẽ nhưng phải tăng cường tính tranh tụng, đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử để không làm oan người vô tội. Để đảm bảo hiệu quả của quá trình tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng đã quy định các các nguyên tắc cơ bản. Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự đưcọ hiểu là những tư tưởng, quan điểm mang tính nền tảng định hướng cho toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Việc xây dụng các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo xây dựng, áp dụng thống nhất pháp luật. Đồng thời, đảm bảo việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án, góp phần đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chính là sự cụ thể hóa để thực hiện tinh thần của các nguyên tắc tiến bộ trong tố tụng hình sự như: Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội. 1.5. Mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với một số nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS được xem là sự định hướng về mặt tư tưởng xuyên suốt, rất quan trọng và nó được xem là sự điều chỉnh nhất quán cho tất cả hoặc một số cụ thể của hoạt động TTHS. Bộ luật TTHS 2015 quy định 27
  • 29. 22 nguyên tắc cơ bản từ điều 7 đến điều 33. Chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có mối quan hệ mật thiết với một số nguyên tắc tố tụng. Mối quan hệ giữa chúng theo Triết học duy vật biện chứng chính là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái tổng thể và cái chi tiết cụ thể. Trong đó các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là cái chung, mang tính định hướng cho việc quy định chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Quy định về việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm phải phù hợp với tinh thần chỉ đạo của các nguyên tắc cơ bản. Trong khi chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm sẽ cụ thể hóa tinh thần của nguyên tắc, đảm bảo cho tinh thần của nguyên tắc được thực hiện có hiệu quả trên thực tế. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả đi phân tích mối quan hệ giữa chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmvới một số nguyên tắc cơ bản mà tác giả cho rằng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là các nguyên tắc sau: - Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án Xác định sự thật vụ án là nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS, đồng thời là mục đích chung của quá trình giải quyết vụ án. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án đảm bảo cho các hoạt động và quyết định tố tụng phù hợp với thực tế và diễn biến của quá trình giải quyết vụ án. Để giải quyết vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án. Trong từng giai đoạn tố tụng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định hành vi của bị cáo có cấu thành tội phạm hay không và nếu phạm tội thì áp dụng theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án người bị buộc tội có quyền chứng minh sự vô tội của họ. Để đảm bảo việc xác định sự thật vụ án thì trong quá trình giải quyết vụ
  • 30. 23 án các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được áp dụng các biện pháp mà pháp luật đã quy định để thu thập, đánh giá chứng cứ. Pháp luật tố tụng hình sự đã giao trách nhiệm xác định sự thật cho cơ quan có thẩm quyền THTT. Quá trình xác định sự thật của vụ án phải được diễn ra một cách thật sự khách quan nhất với sự đầy đủ các khía cạnh cần thiết trong sự toàn diện nhất. Tính khách quan toàn diện, đầy đủ là những đòi hỏi mang tính chỉ đạo từ quá trình thu thập, kiểm tra, đánh chứng cứ và các tình tiết khác có liên quan của vụ án. Vụ án phải được đánh giá dựa trên những chứng cứ có thật từ vụ án, chứ không được xuất phát từ những suy luận của chủ quan của người có thẩm quyền THTT. Các chứng cứ phải được xem xét một cách toàn diện, xem xét cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, tất cả những tình tiết tăng nặng cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tất cả những tình tiết về đặc điểm nhân thân người phạm tội. Pháp luật tố tụng hình sự quy định nghĩa vụ xác minh sự thật vụ án thuộc về phía cơ quan tiến hành tố tụng, còn người bị buộc tội pháp luật không đặt ra. Điều đó đồng nghĩa với việc, người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội và người bị buộc tội được quyền chứng minh rằng họ vô tội. Chính sự quy định đó, bắt buộc cơ quan tiến hành tố tụng phải sự dụng các biện pháp một cách tốt nhất, bằng nghiệp vụ của chính mình để tìm ra các chứng cứ để xác định sự thật của vụ án. Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa HSST là một trong những biện pháp, cách thức hữu hiệu đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh luận của người bào chữa được thực hiện một cách công bằng, bình đẳng sẽ góp phần đảm bảo cho Tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là phương thức để đảm bảo cho hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Tòa án mang tính khách quan, đầy đủ và chính xác. Như vậy, ngươi tắc xác định sự thật vụ án là cơ sở, tiền để để quy định chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Trong khi đó, việc đảm bảo tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa là phương thức giúp cho Tòa án xác định sựu thậ khách quan của vụ án. Do vậy, để xác định sự thật của vụ án đầy đủ, quan, toàn diện thì đồi hỏi quy định về hoạt động tranh
  • 31. 24 tụng của người bào chữa phải hoàn thiên, đảm bảo tranh tụng công khai, bình đẳng và thực chất tại phiên tòa. Trên cơ sở kết quả tranh luận Tòa án sẽ xác định sự thật sự án, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án, hạn chế oan sai trong tố tụng hình sự. - Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc dân chủ, tiến bộ lần đầu tiên được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật TTHS năm 2015. Hiến pháp năm 2013 nước ta ghi nhận tại điều 31 khoản 1 về nguyên tắc suy đoán vô tội như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Nguyên tắc này hiện nay cũng được quy định trong Bộ luật TTHS 2015. Theo tinh thần của nguyên tắc suy đoán vô tội, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xét xử và đưa ra phán quyết có tội hay không có tội và quyết định hình phạt với một người. Đây là một trong những đảm bảo về mặt pháp lý, thật sự ý nghĩa đối với người bị buộc tội nếu không bị đưa ra xét xử tại Tòa án với các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định thì không thể bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt. Đồng thời, thông qua nguyên tắc này, đòi hỏi Tòa án phải giữđược sự độc lập, khách quan. Bên gỡ tội tội phiên tòa là bị cáo, người bào chữa người đại diện của họ có quyền tranh luận, tức là đưa ra các chứng cứ, lập luận chứng minh mình vô tội hoặc được giảm nhẹ trách nhiệm. Nguyên tắc suy đoán vô tội và chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmcó mối quan hệ mật thiết với nhau. Nguyên tắc suy đoán vô tội là tiền đề, nên tảng để đảm bảo quyền tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Bởi vì người bị buộc tội được coi là vô tội tại phiên tòa xét xử sơ thẩm nên người bào chữa cho họ mới được đảm bảo quyền tranh luận để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Ngược lại, việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giúp Tòa án thực hiện có hiệu quả và thực chất nguyên tắc suy đoán vô tội.
  • 32. 25 Tranh luận là phương thức để Tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ để đưa ra kết luận cuối cùng về việc bị cáo có tội hay không cũng như giải quyết khách quan, toàn diện vụ án. - Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa chiếu theo theo Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 4, điều 31 như sau: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Nguyên tắc này sau đó tiếp tục được quy định tại điều 16 Bộ luật TTHS 2015 như sau “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa…”. Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng mà luật quy định dành riêng cho người bị buộc tội để bác bỏ, loại trừ, chống lại bên buộc tội và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Người bị buộc tội có thể tự mình, hoặc nhờ luật sư, người khác để bào chữa, pháp luật không bắt buộc học phải tự mình hay phải nhờ, đó là sự lựa chọn và nếu họ có đủ khả năng về kiến thức thì họ có thể đứng ra tự bảo vệ mình, song không làm triệt tiêu quyền năng để nhờ người khác. Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội Bộ luật TTHS Việt Nam yêu cầu các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội,có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không thể đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, thì sẽ không có tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa, tranh luận chỉ được thực hiện khi quyền bào chữa được đảm bảo. Bởi lẽ, chức năng bào chữa là chức năng đối trọng với chức năng buộc tội, nếu bên bị buộc tội không được thực hiện quyền bào chữa, không có sự đấu tranh, phản biện với bên buộc tội thì dường như hoạt động tranh luận sẽ không xuất hiện. Như vậy chúng ta có thể thấy, mối quan hệ giữa nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa với chế định tranh luận của người bào chữa tại phiên
  • 33. 26 tòa hình sự là mối quan hệ giữa cái chung và cái chi tiết, cụ thể. Việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là một biểu hiện cụ thể của việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội. - Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩmvới nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc độc lập trong xét xử tại khoản 2 điều 103 Hiến pháp quy định như sau “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…”. Quy định này được chi tiết hóa một cách rõ ràng tại điều 23 BLTTHS 2015 với nội dung “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Nguyên tắc này yêu cầu Thẩm phán, Hội thẩm phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Sự độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm, được hiểu theo trên các phương diện sau: Một là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội Thẩm với nhau, hai là sự độc lập giữa Thẩm phán, Hội thẩm với các chủ thể khác, ba là sự độc lập giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Yêu cầu trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm giải quyết vụ án một cách khách quan, thông qua việc đánh giá chứng cứ lập luận của các bên và niềm tin nội tâm của mình và trên cơ sở các quy định của pháp luật từ đó đưa ra phán quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, bất kỳ một tổ chức, cơ quan, cá nhân nào cũng không được tác động đến Thẩm phán, Hội thẩm để làm thay đổi quá trình, kết quả giải quyết vụ án. Khi không có sự thống nhất với nhau về quan điểm giữa Thẩm phán, Hội thẩm thì không có bên nào được quyền áp đặt ý chí để bên kia nghe theo, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền giữ nguyên quan điểm của mình. Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở để đảm bảo thực hiện tốt việc tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm . Khi HĐXX hay cụ thể hơn là khi Thẩm
  • 34. 27 phán và Hội thẩm với vai trò là trọng tài đứng giữa hai bên phân xử, để hai bên tranh tụng với nhau và ra phán quyết giải quyết vụ án kết thúc hoạt động tranh tụng. Nếu như hoạt động này không đảm bảo được tính độc lập, khách quan, cùng với việc ưu ái cho một trong hai bên của tranh luận, hoặc bị một trong hai bên điều khiển, hoặc có sự tác động của một bên thứ ba nào đó thì hoạt động tranh luận của người bào chữa sẽ khó đảm bảo tính bình đẳng, tính khách quan và sự công bằng. Ngược lại chính quá trình tranh luận của người bào chữa sẽ giúp cho Thẩm phán và Hội thẩm nhận định được đúng đắn các tình tiết trong vụ án. Như vậy, nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là yếu tố bảo đảm cho việc tranh luận của người bào chữa thực chất, công bằng, hiệu quả. Ngược lại, hoạt động tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm giúp HĐXX xác định sự thật khách quan của vụ án, qua đó đảm bảo việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. - Mối quan hệ giữa chế định tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo Để đảm bảo việc xác định sự thật vụ án, bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và đặc biệt là giai đoạn xét xử nói riêng pháp luật phải đảm bảo sự tranh tụng của bên buộc tội và bên bào chữa nhằm đảm bảo bản án của tòa án có căn cứ và hợp pháp. Qua nhiều lần thay đổi và tiến hành cải cách, tại Hiến pháp năm 2013, tiếp đến là Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức nêu lên trong hiến định và luật định nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam. Theo đó, Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thì các bên tham gia như: (1) Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (2) người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác; các bên tham gia này đều có quyền bình đẳng và không phân biệt về việc đưa ra các chứng cứ chứng minh, được đánh giá chứng cứ một cách logic hợp lý, được đưa ra yêu cầu với mục đích làm sáng tỏ thật khách quan của vụ án một cách công bằng và minh bạch.
  • 35. 28 Điều luật cũng quy định về một số thủ tục cũng như điều kiện để bảo đảm tranh tụng như: Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Vấn đề các bên tham gia phải đầy đủ: Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Về việc tạo điều kiện để các bên tham gia có sự thể hiện tốt quyền chứng minh và vai trò của mình: Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Về việc kết luận sự việc và ra bản án quy định: Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm vảo với tranh tụng của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là mối quan hệ giữa cái chung với cái chi tiết cụ thể. Theo đó, tranh tụng trong xét xử được đảm bảo là cái chung, mang tính chủ đạo, định hướng cho việc xây dựng, áp dụng quy định của Bộ luật TTHS về hoạt động tố tụng tại phiên tòa. Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là biểu hiện cụ thể và quan trọng của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, là sự cụ thể hóa và đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng có hiệu quả trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
  • 36. 29 1.5. Các yếu tố bảo đảm thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm Để việc thực hiện tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm có hiệu quả, cần có những điều kiện đảm bảo sau đây: - Đảm bảo về mặt pháp lý gồm ba vấn đề chính: Thứ nhất, để bảo đảm một buổi tranh luận diễn ra hiệu quả trước tiên cần bảo đảm các vị trí tố tụng với các trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia tố tụng, nghĩa là cần xác định tư cách địa vị pháp lý của họ một cách đầy đủ rõ ràng và đúng với các yêu cầu của mô hình tô tụng đã chọn lựa sử dụng. Yếu tố luật định xác nhận được rõ chức năng nhiệm vụ của các vị trí Kiểm sát viên, Thẩm phán và người bào chữa tại phiên toà hình sự là thúc đẩy các bên tham gia tranh tụng với sự tự tin chủ động, tích cực và đúng đắn trong các công việc thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ và đưa ra quan điểm của mình trong tranh luận theo khoa học pháp lý mà mô hình tố tụng đang áp dụng. Thứ hai, Luật hoá quy định hướng tới tạo điều kiện các bên tham gia tố tụng được bình đẳng, đặc biệt là quá trình tranh luận tại phiên tòa; Nghĩa là cần có sự bình đẳng trong việc để các bên tham gia tố tụng được hỏi, trả lời, đối chất, tranh luận vấn đề một cách logic khoa học, khách quan và không phân biệt; tăng thêm các quy định nhằm tăng thêm sự tham gia có mặt của luật sư trong các vụ án hình. Thứ ba, nhóm quy định về quyền được khiếu nại, quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định của Toà đối với các bên tham gia tố tụng hình sự như nhau. Mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho Luật sư được quyền khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án khi áp dụng cho thân chủ của mình. - Đảm bảo về mặt tổ chức Về mặt tổ chức cần đảm bảo về phía cơ quan tố tụng và phía người bào chữa. Về phía cơ quan tố tụng, cơ cấu tổ chức phải chặt chẽ và độc lập giữa cơ quan Toà án và Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra. Cách tổ chức này phải có những đặc thù riêng phục vụ cho việc tiến hành tố tụng chứ không hẳn đơn thuần là tổ chức hành chính như các cơ quan khác Nhà nước khác. Về tiêu chí cần có sự đảm
  • 37. 30 bảo thuận lợi cho việc triển khai tranh tụng với vai trò chức năng của từng cơ quan, từng bộ phận một cách hợp lý và không chồng lấn quyền hạn trách nhiệm. Việc tổ chức cần có sự thống nhất hướng đến mục đích chung trong các quy trình tham gia tố tụng. Về phía người bào chữa, đại diện thường là Luật sư, nên cơ cấu đảm bảo phải ở trách nhiệm của tổ chức nghề nghiệp Liên Đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn luật sư các tỉnh thành. Đoàn luật sư cần có cơ cấu tổ chức hợp lý để quản lý thành viên của mình cả về chuyên môn lẫn các quyền lợi nghĩa vụ, đồng thời kết cấu tổ chức phải có sự độc lập về mặt quản lý hành chính đối với các cơ quan tố tụng. Tổ chức nghề nghiệp Luật sư cũng là chỗ dựa vững chắc của các luật sư thành viên, nên cần có các cơ chế từ phía tổ chức để bảo vệ về mặt quyền hoạt động trong nghề nghiệp khi tham gia vào quá trình tố tụng vụ án hình sự. Ngoài việc kết cấu về mặt tổ chức hợp lý, cũng cần mở rộng thêm tổ chức về mặt bồi dưỡng đào tạo kỹ năng sâu về chuyên môn giữa các chức danh tham gia tố tụng như Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà án, Luật sư nhằm tăng hiệu quả tranh luận trong xét xử dù họ ở vị trí buộc tội, gỡ tội hay trọng tài để ra phán quyết. - Đảm bảo cơ sở vật chất, kinh phí cho quá trình tranh tụng Cơ sở vật chất về trang thiết bị cho phòng xử án phải bảo đảm đầy đủ và bố trí phù hợp, hiện nay đang có xu hướng phân hoá về phòng xử án nghĩa là các nhóm đối tượng phạm tội khác nhau sẽ có những cách bố trí thích hợp khác nhau, ví dụ đối tượng như người dưới 18 tuổi phạm tội, phụ nữ có thai, người tàn tật… Mặt khác việc thiết kế và bố trí các vị trí cho các bên tham gia tố tụng cũng cần có sự thể hiện tính bình đẳng thuận lợi cho công việc vai trò và vị trí tố tụng. Ngoài ra cũng cần có các trang thiết bị hiện đại như camera ghi hình, hệ thống âm thanh và ánh sáng phù hợp, hệ thống điều hoà nhiệt độ cần đảm bảo phù hợp với mỗi điều kiện thời tiết khác nhau. Tổng hoà các điều kiện trang thiết bị vật chất thuận lợi bảo đảm cho người tham
  • 38. 31 gia tố tụng thì mới góp phần đảm bảo sự hiệu quả cảu kết quả xét xử nói chung và tranh luận nói riêng. Ngoài ra, cần có kinh phí để hỗ trợ thêm cho thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, hoặc cung cấp các trang thiết bị hiện đại phục vụ trong công việc xét xử cũng như nghiên cứu theo từng vụ án để có thể tập trung làm tốt nhiệm vụ của mình. - Trình độ, năng lực của các chủ thể tham gia tranh luận tại phiên tòa Đây là một yếu tố quan trọng, chất lượng của tranh luận có hay không phụ thuôc khá lớn vào chất lượng chuyên môn và trình độ năng lực của các chủ thể tham gia. Đối với Thẩm phán, trình độ chuyên môn, kỹ năng và vốn sống cùng bản lĩnh chính trị phải đáp ứng được một cách rất cao mới bảo đảm được chức năng làm người đại diện cho Toà án trong việc xét xử. Hiện thực ở nước ta hiện nay, hệ thống TAND được tổ chức theo đơn vị hành chính. Về quy trình, Thẩm phán được đào tạo bài bản chính quy và lấy từ các nguồn đã trải qua rất nhiều kinh nghiệm và công tác pháp lý tại Toà án trước đó như từ các chức vụ Thư ký, chuyên viên pháp lý, về cơ bản phần lớn đáp ứng tốt về mặt chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp trong vai trò là người cầm cân nảy mực phân xử. Đối với đội ngũ Kiểm sát viên, yếu tố chuyên môn phải bảo đảm ở trình độ cao thì mới có khả năng xử lý tốt công việc đòi hỏi ở vai trò của mình là thực hiện quyền công tố, ngoài ra còn phải đối diện với phản biện, tranh luận rất sắc xảo từ phía người bào chữa là các luật sư nhằm bào chữa và gỡ tội cho người bị cáo buộc phạm tội tại phiên toà. Về phía người bào chữa, đại diện lớn nhất thường là Luật sư. Vai trò của luật sư rất quan trọng đối với việc bào chữa cho bị cáo, vì thế kiến thức chuyên môn, kỹ năng tranh tụng là một yếu tố không thể thiếu. Phần lớn kết tranh tụng hoặc vụ án phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng kỹ năng chuyên môn của Luật sư. Kiến thức và kỹ năng này là công cụ duy nhất để thực hiện tốt quyền của người bào chữa trong tố tụng và làm cân bằng lại sự cáo buộc của phía công tố. Vì thế về mặt này, nó đòi hỏi Luật sư cần trang bị kiến thức sâu rộng, luôn trao dồi kỹ năng, đạo đức
  • 39. 32 nghề nghiệp và bản lĩnh thì mới có khả năng đối diện xử lý tốt với các cáo buộc và tranh luận bảo vệ quan điểm của từ phía buộc tội đối với người được bào chữa. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1 của luận văn, tác giả tập trung phân tích, giải quyết vấn đề lý luận về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thểm. Cụ thể, đã đưa ra được khái niệm về người bào chữa, khái niệm tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa. Sau khi đưa ra khái niệm, tác giả phân tích về cơ sở pháp lý, nội dung, trình tự tranh luận tại phiên tòa, nêu lên những ý nghĩa của tranh luận tại phiên tòa. Đây là cơ sở lý luận và pháp lý để tác giả đánh giá thực tiễn ranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 ở chương 2.
  • 40. 33 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ TRANH LUẬN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự hiện hành về tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm - Quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm của người bào chữa Tranh luận tại phiên tòa là một phần quan trọng của quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và được tiến hành ngay sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Khi tranh luận tại phiên tòa, người tranh luận bày tỏ quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án: phân tích đánh giá chứng cứ vụ án; đề nghị áp dụng pháp luật và giải quyết các vấn đề của vụ án. Trên cơ sở các ý kiến phát biểu tranh luận, Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đúng đắn. Theo quy định tại Điều 217 Bộ luật TTHS 2003 quy định về trình tự phát biểu khi tranh luận của người bào chữa như sau: sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội; bị cáo sẽ phát biểu lời bào chữa cho mình. Tuy nhiên, trường hợp bị cáo có người bào chữa thì người này sẽ phát biểu lời bào chữa cho bị cáo ngay sau khi Viện kiểm sát trình bày lời luận tội; sau đó bị cáo mới bổ sung ý kiến bào chữa. Bằng việc quy định trình tự phát biểu lời bào chữa như trên, người bào chữa cho bị cáo đóng vai trò chính trong việc bào chữa. Người bào chữa bào chữa là người có kiến thức pháp luật, có kỹ năng cũng như có sự am hiểu sâu rộng về các lĩnh vực khác của xã hội, vì vậy việc quy định người bào chữa phát biểu lời bào chữa trước giúp đưa ra những ý kiến, lập luận có tính pháp lý cao, logic và đảm bảo quyền lợi cho bị cáo. Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy có nhiều trường hợp người bào chữa cố gắng đưa ra những tình tiết giảm nhẹ, hay lái tình tiết sang một tội danh khác nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên sau đó bị cáo lại hoàn toàn nhận hết trách nhiệm và hành vi phạm tội. Hoặc người bào chữa đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát trong bản luận tội và xin cho bị cáo
  • 41. 34 được hưởng các tình tiết giảm nhẹ thì đến khi bổ sung ý kiến bị cáo lại bác bỏ và không nhận tội. Có thể thấy, trong các trường hợp trên, ý chỉ của bị cáo và quan điểm của luật sư đã có sự vênh nhau, thậm chí còn đối lập nhau. Pháp luật quy định cho phép người bào chữa tham gia quá trình tố tụng nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Bộ luật TTHS năm 2003 quy định trình tự phát biểu khi tranh luận là người bào chữa phát biểu bào chữa trước rồi mới đến bị cáo phát biểu đã dẫn đến một số trường hợp không phát huy được vài trò và ý nghĩa của người bào chữa đối với việc bảo vệ bị cáo. Hơn nữa, việc quy định người bào chữa phát biểu bào chữa trước thể hiện trong phiên tòa, người bào chữa có vai trò chính còn bị cáo chỉ là phụ (chỉ phát biểu bổ sung) trong việc bảo vệ quyền lợi của bị cáo. Lời bào chữa của người bào chữa tại phiên toà là sự thể hiện ý chí của bị cáo đối cáo buộc của Viện kiểm sát buộc tội bị cáo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người bào chữa vì bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được bào chữa mà quyết định thay ý chí của người được bào chữa. Khi thực hiện bào chữa cho bị cáo thì người bào chữa có quyền bào chữa của bị cáo nhưng đó là quyền phái sinh, tức người bào chữa đã nhận sự “uỷ quyền” của bị cáo để thực hiện việc bào chữa. Do vậy, quyền phái sinh của người bào chữa phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của chủ thể trao quyền là bị cáo. Như vậy, với quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2003 là chưa hợp lý. Vì vậy, trình tự phát biểu khi tranh luận của người bào chữa được sửa đổi, bổ sung trong quy định cụ thể tại Điều 320 Bộ luật TTHS năm 2015 như sau: “1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Tòa án tuyên bố bị cáo không có tội. 2. Bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo; bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa.
  • 42. 35 3. Bị hại, đương sự, người đại diện của họ trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến. 4. Trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày, bổ sung ý kiến sau khi Kiểm sát viên trình bày luận tội.” Chủ tọa phiên tòa điều khiển các bên tham gia tranh luận và thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án. Những người tham gia tranh luận gồm: Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà; bị cáo; người bào chữa; bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án người đại diện hợp pháp của (bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án); người bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 thì sau khi kết thúc việc xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày luận tội; nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ phát biểu trước; bị cáo trình bày lời bào chữa; người bào chữa trình bày lời bào chữa cho bị cáo, tiếp theo bị cáo sẽ được bổ sung thêm ý kiến bào chữa. Có thể thấy, trình tự phát biểu khi tranh luận của bị cáo và người bào chữa cho bị cáo được quy định tại Bộ luật TTHS hiện hành đã có sự thay đổi. Tuy nhiên, quy định tại Khoản 2 Điều 320 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về trình tự phát biểu của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đã hình thành hai quan điểm: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Bộ luật TTHS năm 2015 quy định trình tự: bị cáo trình bày lời bào chữa trước rồi mới đến người bào chữa trình bày lời bào chữa, tiếp theo bị cáo có quyền bổ sung thêm. Vì vậy, chủ tọa phiên tòa điều hành phiên tòa sẽ chỉ định phát biểu bào chữa theo trình tự này. Với cách hiểu và cách thức phát biểu khi tranh luận này, bị cáo đã được đặt lên làm chủ thể chính trong quá trình tố tụng bằng việc được tự bào chữa cho mình, được thể hiện ý chí của mình trước. Tiếp đến người bào chữa cho bị cáo sẽ dựa trên ý chí của bị cáo để đưa ra