SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*******000*******
NGUYỄN DUY GIẢNG
CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 62.38.40.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ
HÀ NỘI - NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Văn Độ. Các số liệu, kết quả nghiên cứu
nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả các số liệu
và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả Luận án
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
ĐTV Điều tra viên
KSV Kiểm sát viên
TAND Tòa án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Giới thiệu về Luận án................................................................................. 1
2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án.................................................................... 1
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án ................................................4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..................................................................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án................................. 6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước................................................... 6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................ 14
1.1.3. Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến Đề tài
Luận án .................................................................................................... 18
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Luận án............................... 27
1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 27
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................ 29
2.1. Các chủ thể trong tố tụng hình sự .......................................................... 29
2.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam...... 36
2.2.1. Khái quát chung về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam...................................................................................... 36
2.2.2. Quá trình phát triển quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam................................................................ 39
2.3. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới.................................................................................................. 51
2.3.1. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số
nước theo truyền thống án lệ .................................................................... 52
2.3.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số
nước theo truyền thống luật dân sự Châu Âu lục địa................................. 56
2.3.3 Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước
theo mô hình mới chuyển đổi ................................................................... 61
Kết luận Chương 2 ....................................................................................... 66
Chương 3: THỰC TRẠNG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG............................................................................................. 71
3.1. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc cơ quan điều
tra, về các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra và thực tiễn áp dụng ................................................................................ 71
3.2. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm sát
nhân dân và thực tiễn áp dụng ...................................................................... 86
3.3. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án nhân
dân và thực tiễn áp dụng............................................................................... 98
Kết luận Chương 3 ..................................................................................... 103
Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRƯỚC YÊU
CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP........................................................................ 106
4.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện quy định về các chủ
thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam......................... 106
4.2. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT và
quy định về cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra ....................................................................................................... 111
4.3. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm
sát nhân dân................................................................................................ 117
4.4. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án
nhân dân..................................................................................................... 127
4.5. Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến các chủ thể tiến hành
tố tụng hình sự............................................................................................ 132
Kết luận Chương 4 ..................................................................................... 134
KẾT LUẬN................................................................................................... 139
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................................ 143
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 144
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 161
1
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu về Luận án
Luận án này được thực hiện theo quy định tại Quy chế đào tạo sau đại
học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài phần mở đầu, danh mục các công
trình công bố kết quả nghiên cứu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục kèm
theo Luận án, nội dung chính của Luận án có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án
Chương 2: Những vấn đề lý luận về chủ thể tiến hành tố tụng trong
Luật tố tụng hình sự
Chương 3: Thực trạng Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về các
chủ thể tiến hành tố tụng và thực tiễn áp dụng
Chương 4: Định hướng hoàn thiện Luật tố tụng hình sự Việt Nam về các
chủ thể tiến hành tố tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp
2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án
Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực, việc đổi
mới tổ chức và hoạt động tư pháp đã và đang được Đảng, Nhà nước và toàn
dân hết sức quan tâm, là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến
lược lâu dài trong quá trình phát triển đất nước. Trong lĩnh vực TTHS, một
trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp là nghiên cứu hoàn thiện
các quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng, bao gồm cơ quan tiến hành
TTHS (CQĐT, VKS, tòa án) và những người tiến hành tố tụng trong các cơ
quan này. Quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong TTHS ở nước ta đã
có một quá trình hình thành và phát triển theo tiến trình phát triển của đất
nước, nhất là từ sau Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi có Hiến pháp năm
1992, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật Tổ
chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự
năm 2004. Tuy vậy, qua gần 10 năm tổ chức thi hành, quy định trong các văn
bản pháp luật nói trên về chủ thể tố tụng nói chung và chủ thể tiến hành tố
tụng nói riêng đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Những bất cập đó là một trong
2
những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng, hiệu quả của các hoạt
động TTHS. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định các chủ trương, giải
pháp về cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đặt ra yêu cầu xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các
cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức
danh tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho ĐTV, KSV và thẩm
phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu
trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Ngày 12 tháng 3 năm 2014 Bộ Chính trị có Kết luận số 92 - KL/TW “về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó có các quan điểm
chỉ đạo quan trọng về: xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan
trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp; về hệ thống tổ chức và cơ chế
hoạt động của cơ quan điều tra chuyên trách trong công an, quân đội và ngành
kiểm sát; phương hướng hoàn thiện quy định định về một số hoạt động điều
tra của bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan, kiểm lâm; về tổ chức của
toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân…Kết luận số 92 - KL/TW của Bộ
Chính trị cũng yêu cầu nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định rõ nội hàm và
xây dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp;
chuẩn bị những nội dung có liên quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020,
phục vụ việc xây dựng các văn kiện Đại hội XII của Đảng...
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua đánh dấu một bước phát
triển quan trọng trong lịch sử lập Hiến ở nước ta. Hiến pháp đề cao yêu cầu
tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, có nhiều sửa đổi
3
quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như
tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp mới bổ sung quy định về
xét xử theo thủ tục rút gọn, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; nguyên tắc
suy đoán vô tội với nội hàm đầy đủ hơn…Những quy định mới được sửa đổi,
bổ sung nói trên trong Hiến pháp năm 2013 cần được nghiên cứu cụ thể hóa
trong các văn bản pháp luật có liên quan như BLTTHS, Luật Tổ chức tòa án
nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức điều tra hình
sự. Những yêu cầu nêu trên đều liên quan chặt chẽ đến việc đổi mới, hoàn
thiện các quy định liên quan đến tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng.
Mặc dù thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam, nhưng các
công trình nghiên cứu đã có chủ yếu theo từng vấn đề riêng và trong mỗi vấn
đề cũng đang còn có ý kiến khác nhau hoặc cần được nghiên cứu sâu, cụ thể
và toàn diện hơn. Nhận thấy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam một cách
toàn diện, có hệ thống nhằm góp phần bổ sung thêm luận cứ khoa học cho
việc hoàn thiện các quy định liên quan của Luật TTHS Việt Nam trong thời
gian tới là rất quan trọng và cấp thiết nên nghiên cứu sinh chọn Đề tài: “Các
chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu
cải cách tư pháp” để xây dựng Luận án tiến sĩ luật học của mình.
3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn
đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam; đánh giá mức độ phù hợp, những hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật
TTHS Việt Nam hiện nay trong hoạt động thực tiễn, từ đó đề xuất việc hoàn
thiện các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự ở Việt
Nam trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời qua đó
4
cũng góp phần phát triển lý luận về các chủ thể tố tụng thuộc chuyên ngành
Luật Tố tụng hình sự ở nước ta.
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài Luận án là những vấn đề liên quan
đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam dưới góc độ lý
luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của CQĐT, cơ quan khác được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và người có nhiệm
vụ, thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này.
Phạm vi nghiên cứu của Đề tài Luận án: Việc nghiên cứu về các chủ
thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam liên quan đến nhiều vấn đề,
từ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đến tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tố tụng, người tiến hành tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
Luận án này, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan và người có thẩm quyền tố
tụng thuộc CQĐT, VKS, toà án dưới góc độ Luật TTHS và một số vấn đề liên
quan đến tổ chức bộ máy có ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính độc lập của chủ
thể tiến hành tố tụng. Về thời gian, các quy định của Luật TTHS Việt Nam
được nghiên cứu từ năm 1945 đến nay, việc khảo sát số liệu được lấy theo kết
quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 (2004 – 2012). Khái niệm
“Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” trong Đề tài này được hiểu theo nghĩa là
một ngành luật, bao gồm những vấn đề thuộc về lý luận, pháp luật thực định
được quy định trong Hiến pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức của tòa án nhân
dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra hình sự…
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Luận án tiến sĩ luật học với Đề tài: “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” là công trình
khoa học đầu tiên nghiên cứu tổng thể, toàn diện, đầy đủ về các chủ thể tiến
hành tố tụng hình sự, bám sát các yêu cầu được nêu trong các nghị quyết của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong lĩnh vực tố
tụng hình sự. Luận án có những đóng góp mới như sau:
5
* Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn
diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự,
bao gồm CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng
trong các cơ quan này ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu Đề tài đã góp phần
làm sáng tỏ và phát triển lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật
Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
* Luận án đã đánh giá tương đối toàn diện việc thực hiện quy định về
các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước
ta, những kết quả đã đạt được và những hạn chế, vướng mắc, qua đó làm rõ
những hạn chế trong quy định của Luật Tố tụng hình sự hiện hành cần được
xem xét sửa đổi, bổ sung.
* Luận án đã góp phần làm rõ các yêu cầu của cải cách tư pháp đối với
việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố
tụng hình sự trong Luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Trên cơ sở kết quả nghiên
cứu về lý luận và tổng kết thực tiễn cũng như yêu cầu của cải cách tư pháp,
Luận án đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung quy định về các chủ thể
tiến hành tố tụng hình sự nhằm góp phần giải quyết những bất cập, vướng
mắc trong các quy định liên quan đến CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm
vụ thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này nhằm tăng cường hiệu quả trong
đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
xây dựng một nền tư pháp hình sự tiên tiến, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
ở Việt Nam.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu Đề tài cũng có thể sử dụng để tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Luật TTHS ở các trường đại học
chuyên ngành Luật.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong
Luật TTHS Việt Nam liên quan đến các vấn đề như vai trò, vị trí, chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Các nghiên cứu, bàn luận về cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian vừa
qua ở các khía cạnh, mức độ khác nhau đều có liên quan đến các chủ thể tiến
hành TTHS. Cụ thể như sau:
Bộ Công an xây dựng đề án “Tổ chức lại hệ thống Cơ quan điều tra theo
hướng thu gọn đầu mối”, đề xuất việc tổ chức lại hệ thống cơ quan Cảnh sát
điều tra và An ninh điều tra các cấp; đề xuất không tổ chức CQĐT trong
VKSND tối cao, bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của lực
lượng hải quan, kiểm lâm [33]. Tuy nhiên, tại Kết luận số 92 - KL/TW ngày
12/3/2014 của Bộ Chính trị vẫn chỉ đạo giữ nguyên CQĐT trong VKSND tối
cao; giữ nguyên quyền hạn và quy định rõ hơn nhiệm vụ thực hiện một số
hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm..). Bộ Công an cũng
đang soạn thảo Luật Tổ chức điều tra hình sự để trình Quốc hội trong thời
gian tới.
VKSND tối cao đã phối hợp với các ngành hữu quan và các nhà khoa
học nghiên cứu 2 đề án cấp nhà nước là Đề án “Mô hình tố tụng hình sự Việt
Nam” và Đề án “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố”, hoàn
thành năm 2012. Các đề án đã nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn thiện
mô hình tố tụng hình sự ở nước ta có liên quan tới chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền của CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra, VKSND, TAND [6, 7]. Theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải
cách tư pháp Trung ương, VKSND tối cao triển khai nghiên cứu Đề án “Viện
7
kiểm sát trong cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp theo tiến trình
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và
Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo Kết
luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị” với những đề xuất quan
trọng về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND [8, 148].
Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng các đề án về đổi mới tổ chức và
hoạt động của CQĐT, tòa án theo Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận 79-
KL/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong đó có việc thành lập
TAND sơ thẩm khu vực trên cơ sở TAND cấp huyện, đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND cấp tỉnh, thành lập TAND cấp cao, đổi mới tổ chức và hoạt
động của TAND tối cao. TAND tối cao cũng đang xây dựng dự thảo Luật Tổ
chức tòa án nhân dân trình Quốc hội xem xét trong thời gian tới có nhiều nội
dung liên quan đến việc đổi mới quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng
thuộc tòa án.
Đặc biệt, VKSND tối cao đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan
nghiên cứu sửa đổi bổ sung BLTTHS năm 2003 với nhiều hoạt động tổng kết
thực tiễn, tổ chức nhiều hội thảo, tổ chức khảo sát kinh nghiệm của nhiều nước
trên thế giới.
Một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, đề án, luận án có nội
dung liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng được thực hiện trong thời
gian qua như:
Luận án tiến sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa (2005), đề tài “Quyền
công tố ở Việt Nam” đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề quyền
công tố ở một số nước trên thế giới và quyền công tố trong tố tụng hình sự ở
Việt Nam, liên quan chủ yếu đến chủ thể thực hành quyền công tố là VKS
trong mối quan hệ với CQĐT và tòa án [48].
Luận án tiến sĩ luật học của Đào Hữu Dân với đề tài “Mối quan hệ giữa
cơ quan cảnh sát điều tra với viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”; Luận
án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Sơn, với đề tài “Mối quan hệ giữa cơ quan
8
điều tra với viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã nghiên cứu
chuyên sâu về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự, đưa ra
một số đề xuất nhằm xây dựng cơ chế pháp lý về mối quan hệ giữa hai cơ quan
này nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm [27, 97].
Luận án tiến sỹ luật học của Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2004), “Những vấn đề
lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định
hướng xây dựng nhà nước pháp quyền”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, nghiên cứu, đề xuất những cải cách đối với hệ thống tòa án [107].
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Châu (2008): “Chức năng xét
xử trong TTHS Việt Nam”, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam. Tác giả luận án đã đi sâu nghiên cứu về chức năng của
TTHS, từ đó nghiên cứu chức năng xét xử của TTHS gắn với chức năng của
tòa án nhân dân và có nhiều kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật
và cơ chế đảm bảo chức năng xét xử của tòa án nhân dân [12].
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Hải Ninh (2013) “Các yếu tố đảm
bảo độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay” đã nghiên cứu sâu về lịch sử hình
thành tư tưởng “độc lập xét xử”, thực trạng và các giải pháp để tăng cường
các yếu tố đảm bảo độc lập xét xử ở nước ta trong thời gian tới [66].
Một số đề tài khoa học cấp bộ đã được hoàn thành ở mức độ và khía
cạnh khác nhau có nhiều nội dung nghiên cứu, đề xuất liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT,
VKS, tòa án trong tố tụng hình sự như: Vũ Văn Mộc (Chủ nhiệm đề tài, Hà
Nội/2008), Đề tài khoa học cấp bộ “Phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính
và thẩm quyền tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố
tụng và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên,
thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp của VKSND tối cao”. Nội dung đề
tài đi sâu nghiên cứu phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền
tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng; sự ảnh
9
hưởng tiêu cực của thẩm quyền hành chính đối với thẩm quyền tố tụng trong
việc đảm bảo tính độc lập và nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trong hoạt động thực tiễn [58].
Một số cuộc hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các chủ thể tiến
hành tố tụng đã được tổ chức trong thời gian vừa qua. VKSND tối cao, với sự
giúp đỡ của Quỹ hợp tác quốc tế về pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức,
Chương trình đối tác tư pháp do Liên minh Châu Âu tài trợ đã tổ chức các hội
thảo: “Mô hình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” tháng 12/2009; Hội thảo “Hoàn
thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp -
Kinh nghiệm của CHLB Đức”, tổ chức ngày 9,10/6/2011; Hội thảo “Mô hình tố
tụng hình sự một số nước trên thế giới - kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện mô
hình tố tụng hình sự Việt Nam”, tổ chức ngày 15/11/2011; Hội thảo “Cải cách
Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới- những bài học kinh nghiệm đối với
Việt Nam” tổ chức ngày 22/11/2011; Hội thảo “Một số định hướng cơ bản sửa
đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, tổ
chức ngày 17/9/2012. Bên cạnh đó, Viện Nhà nước và Pháp luật đã phối hợp
với Viện Kass, Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức “Hội thảo quốc tế về quyền
công tố” ngày 27-28/4/2011; Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã tổ chức hội thảo
“Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” ngày
23/4/2012. Các hội thảo này có sự tham gia của hầu hết các nhà khoa học về
Luật Tố tụng hình sự và các nhà hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước. Các
bài tham luận, phát biểu ý kiến trong các hội thảo khoa học nói trên chủ yếu
trình bày dưới góc độ pháp luật so sánh về các mô hình TTHS trên thế giới và
những yếu tố có thể tham khảo khi sửa đổi BLTTHS năm 2003, trong đó có
nhiều vấn đề liên quan đến các chủ thể trong hoạt động TTHS.
Một số sách chuyên khảo có nội dung liên quan đến Đề tài Luận án như:
Đào Trí Úc (Chủ biên,1995), “Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình
sự”, NXB Chính trị quốc gia; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp
(1994), “Đổi mới các cơ quan tư pháp, những vấn đề lý luận và thực tiễn”;
10
NXB Công an nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), “Một số
khuyến nghị về xây dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình
sự tại Việt Nam”; Nguyễn Đăng Dung (2005), “Sự hạn chế quyền lực nhà
nước”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Thể (chủ biên, 2008), “Thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra”; Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên, 2013),
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các sách tham khảo này đều có nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự, trong đó có CQĐT, VKS, tòa án. Ngoài ra, thời gian qua cũng có
nhiều bài dịch giới thiệu về pháp luật nước ngoài để tham khảo trong quá trình
nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta.
Nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học đề cập đến các khía
cạnh khác nhau có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT,
VKSND, TAND, trong đó có những nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ của các chủ thể này ở tầm vĩ mô (như mô hình tố tụng), có
những nghiên cứu đề xuất cụ thể liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền hoặc thủ tục liên quan đến thẩm quyền của một chủ thể nhất định. Cụ
thể như:
Tạp chí Luật học có một số bài viết: Nguyễn Đức Mai (2008), “Hoàn
thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, số 7; Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một
số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định của tòa án trong chuẩn
bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng”, số 7; Đào Trí Úc (2010), “Bàn về
quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, số 8; Vũ Gia
Lâm (2010), “Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát và tòa án”,
số 08; Bùi Kiên Điện (2011), “Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”, số 08.
11
Tạp chí Khoa học pháp lý có các bài như: Nguyễn Thái Phúc (2007),
“Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, số
18; Lương Thị Mỹ Quỳnh (2010), “Tìm hiểu mô hình tố tụng thẩm vấn và
những kiến nghị hoàn thiện Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, số 6; Vũ Thị
Kim Oanh, Nguyễn Ngọc Kiện (2010), “Thực tiễn áp dụng quy định về tòa án
trả hồ sơ điều tra bổ sung”, số 3; Bùi Thế Vinh, Trần Vũ Tuân (2011), “Thủ
trưởng cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt nam”, số 5; Lê Văn Cảm,
Nguyễn Cảnh Hợp (2012), “Mô hình lý luận của Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, số 03.
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật có các bài của: Nguyễn Thái Phúc
(2009) “Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, số 2; Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề lý luận về chức năng
buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình
sự liên quan đến chức năng buộc tội”, số 8.
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp có các bài của: Đào Trí Úc (2011), “Tố
tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng nào”, số
15; Nguyễn Thị Thủy (2009), “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm
sát hoạt động tư pháp”, số 13; Nguyễn Quang Hiền (2009), “Các loại hình tố
tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam”, số 20; Trần Văn Độ, “Phân định
thẩm quyền trong tố tụng hình sự Việt Nam”, (theo http://luatsuhanoi.vn).
Tạp chí Tòa án nhân dân có các bài của: Nguyễn Trương Tín (2009),
“Một số vấn đề về vai trò của tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa
hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp”, số 1; Nguyễn Trương Tín
(2009), “Một số vấn đề lý luận định hướng xây dựng mô hình tố tụng hình sự
Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp”, số 15; Lê Cảm (2009), “Về mô
hình tố tụng hình sự của nhà nước pháp quyền dân chủ Liên Bang Nga”, sè
24; Nguyễn Đức Mai (2009), “Đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh
tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam”, số
12
23; Đỗ Văn Chỉnh (2012), “Cần sửa đổi, bổ sung quy định về rút quyết định
truy tố”, số 5; Trần Đình Nhã (2012), “Về Chế định điều tra tội phạm trong
Bộ luật tố tụng hình sự”, số 21.
Tạp chí Kiểm sát có các bài của: Trịnh Tiến Việt (2003), “Tranh tụng tại
phiên tòa và những vấn đề đảm bảo việc tranh tụng”, số 6; Đinh Văn Quế
(2004), “Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là thủ trưởng,
phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003”, số 5; Đinh Văn Quế (2004), “Người tiến hành tố tụng trong
các cơ quan viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân”, số 6; Mai Văn Lư
(2006), “Một số vấn đề về thẩm quyền của viện trưởng, phó viện trưởng viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự”, số 9; Lê Cảm (2007), “Các mô hình
lý luận về tổ chức viện công tố trong chiến lược cải cách tư pháp” số 14;
Nguyễn Tất Viễn (2007), “Một số suy nghĩ về cơ quan công tố ở Việt Nam
trong thời kỳ cải cách tư pháp”, số 14; Hoàng Nghĩa Mai (2007), “Một vài
suy nghĩ về cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và Nhật Bản”, số 15;
Phạm Hồng Hải (2008), “Vai trò, trách nhiệm của kiểm sát viên trong quá
trình thực hành quyền công tố nhìn dưới góc độ luật sư”, số 3; Nguyễn Ngọc
Khánh (2008), “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và
xác định mối quan hệ giữa công tố với điều tra theo yêu cầu cải cách tư
pháp” số 18-20; Mai Văn Lư (2009), “Tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra và tăng thẩm quyền cho điều tra viên, kiểm sát viên
trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 05; Vũ Văn Mộc
(2009), “Về việc tăng quyền hạn và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát
viên trong tố tụng hình sự”, số 10; Vũ Văn Mộc (2009), “Một số ý kiến về
tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện
cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”, số 16; Đinh Xuân Thảo (2009),
“Những vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát
trong điều tra vụ án hình sự”, số 16; Nguyễn Khắc Quang (2010), “Vai trò,
thẩm quyền của một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
13
động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn Đức
Mai (2010), “Vai trò, thẩm quyền của tòa án trong mô hình tố tụng hình sự
Việt Nam”, số 20; Nguyễn Minh Đức (2010), “Địa vị pháp lý của các chủ thể
tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn
Tiến Sơn (2010), “Phân định trách nhiệm giữa cơ quan điều tra và viện kiểm
sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, số 20; Khổng Ngọc Sơn (2010),
“Bàn về vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Công an
nhân dân trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, số 21; Trần
Văn Độ (2010), “Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án trong
tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 20; Đào Trí Úc (2012),
“Xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm”, số 21; Đỗ Văn
Đương (2012), “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách
nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định về chứng cứ trong Bộ
luật tố tụng hình sự”, số 21; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Mô hình tố tụng hình
sự và vấn đề xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong tố tụng hình sự”,
số 09; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự
nhằm thực hiện chủ trương của Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, số 21;
Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 về việc phân định thẩm quyền điều tra”, số Xuân/2013…
Tạp chí Khoa học Kiểm sát có các bài: Lê Văn Cảm (2014), “Mô hình
lập pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vì quyền con
người”, số 01; Trần Văn Độ (2014), “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề
đặt ra đối với sửa đổi, bổ sung BLTTHS”, số 1.
Nội dung các bài viết trên các tạp chí rất đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề
có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự như: chức năng của
TTHS, mô hình tố tụng hình sự; bàn về vị trí, chức năng, thẩm quyền của các
cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; bàn về những chủ trương lớn như: tăng
cường tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
14
điều tra, phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn
tư pháp trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; tăng
thẩm quyền cho ĐTV, KSV, thẩm phán...theo yêu cầu cải cách tư pháp
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Các chủ thể tố tụng hình sự nói chung (trong đó có các chủ thể tiến hành
tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta hiện nay) đã được
các nhà nghiên cứu về chính trị, pháp luật trên thế giới quan tâm từ lâu, dưới
nhiều góc độ khác nhau và có nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện
từ trước đến nay. Liên quan đến nội dung Đề tài này có một số tác phẩm,
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Montesquieu, “Tinh thần pháp luật”,
NXB Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Khoa luật (bản
dịch), Hà Nội 1996; Jean- Jacques Rousseau(bản dịch), “Bàn về khế ước xã
hội”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992; Bary M.Hager, “The Rule of Law”
(bản tiếng Anh) xuất bản bởi: The Mansfield Center for Pacific Affairs; John
Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler (1996), Comparative Criminal
Procedure, B.I.I.C.L, Bristain; NXB Chính trị quốc gia (1999), “Khái quát về
chính quyền Mỹ” (An outline of American Government của Richard.
Shroeder); Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp (1999), “Tư pháp
hình sự so sánh” của Philip.L.Reichel, (tài liệu dịch); Nancy Hollander
(2000), “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với việc sửa đổi
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” trong sách “Một số khuyến nghị về xây
dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam”.
Các tác phẩm, công trình này nghiên cứu, so sánh về những vấn đề cốt lõi của
tư pháp hình sự, trong đó có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các chủ thể tố tụng hình sự như cảnh sát, công tố và tòa án trong các mô
hình tố tụng, truyền thống pháp luật trên thế giới.
Một số công trình nghiên cứu khác được thực hiện trong thời gian gần
đây đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ của Tony Paul Marguery (2008) “The
Unity and Diversity of Public Prosecution Service in Europe” (PhD thesis,
15
The University of Groningggen)[160] là công trình nghiên cứu về sự thống
nhất và đa dạng của các cơ quan công tố tại châu Âu, gồm các nước Pháp, Hà
Lan, Ba Lan và Cộng hòa Séc; Dr Despina Kyprianou (2008) “Comparative
Analysis of Prosecution System (Part II): The Role of Prosecution Services in
Investigation and Prosecuion Principles and Policies, Cyprus and European
Law Review”, nội dung nghiên cứu về vai trò của cơ quan công tố trong hoạt
động điều tra, những nguyên tắc và chính sách công tố trong hoạt động điều
tra tại nhóm các quốc gia theo truyền thống luật án lệ và nhóm các quốc gia
theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa.”; Jorg – Martin Jehle (2005)
“The Funtion of Public Prosecution from a Eruopean Comparative
Perspective – How International Research can contribute to the development
of criminal justice” – Báo cáo tham luận tại Hội nghị UNDP-POGAR tại
Cairo ngày 17-18/5 năm 2005, nội dung nghiên cứu về chức năng của cơ quan
công tố từ góc nhìn so sánh tại châu Âu – các nghiên cứu quốc tế có thể đóng
góp cho sự phát triển tư pháp hình sự như thế nào; P.J.P. TAK (2008), “The
Dutch criminal justice system”, Wolf Legal Publishers, The Netherlands, nội
dung nghiên cứu về hệ thống tố tụng hình sự Hà Lan; The Committee of
Ministers – The Council of Europe (2000), Recommendation Rec (2000) 19 of
the Commitee of Ministers to member states on the role of public prosecution
in the criminal justice system (Khuyến nghị về vai trò của cơ quan công tố
trong hệ thống tư pháp hình sự của Ủy ban Bộ trưởng – Hội đồng châu Âu).
Các báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoat động của hệ thống tư pháp tại 5
nước được lựa chọn là Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên
bang Nga, thực hiện cho Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc tại Việt
Nam cung cấp được nhiều thông tin cơ bản về thực trạng và vấn đề cải cách tư
pháp ở mỗi quốc gia được nghiên cứu gồm: Byung Sun Cho, Tom Ginsburg
(2010): “Republic of Korea Final Report”; Simon Butt (2010): “Indonesia Final
Report”; Vivienne, Sarah Biddulph (2010): “China Final Report”; William E
Buttler (2010): “Russian Federation Final Report”; Luke Nottage, Kent
Anderson, Makoto Ibusuki, David Johnson: “Japan Final Report”.
16
Một số công trình có nội dung nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa công
tố và cảnh sát một số nước như: Báo cáo thảo luận nhóm tại Hội nghị quan
chức cấp cao lần thứ 120 của Viện Phòng ngừa và Xử lý tội phạm tại khu vực
Châu Á và Viễn Đông của Liên Hiệp quốc: UNAFEI (1997): The
Relationship of the Prosecution with the Police and Investigative
Responsibility (Group Discussion Report at the 107th UNAFEI International
Training Course); Báo cáo thảo luận nhóm: UNAFEI (2002) Cooperation
between the Police and the Prosecutors (Group Discussion Report at the
120th UNAFEI International Senior Seminar).
Trong hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới –
Kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, một
số nhà khoa học nước ngoài tham luận giới thiệu mô hình tố tụng hình sự một
số nước thuộc các truyền thống pháp luật khác nhau như Richart S.Shine, giáo
sư luật Mỹ:“Mô hình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ”; Marco Fabri thuộc Viện
nghiên cứu các Hệ thống tư pháp (IRSIG-CNR), Hội đồng nghiên cứu Ytaly:
“Mô hình tố tụng hình sự của Ytalia”; Francois Touret de Coucy, công tố viên
cao cấp và Jean – Philippe Rivaud, công tố viên cao cấp, cựu thẩm phán
Pháp: “Hệ thống tư pháp hình sự Pháp”; William Burnham, giáo sư luật học:
“Hệ thống tố tụng hình sự Nga”; Liling Yue, Đại học Khoa học chính trị và
Pháp luật Trung Quốc: “Mô hình tố tụng hình sự Trung Quốc”; Byung –Sun
Cho – giáo sư luật Hàn Quốc: “Khái quát về hệ thống tư pháp hình sự Nhật
Bản”, “Tổng quan về hệ thống xét xử hình sự ở Hàn Quốc”. Các nghiên cứu
trên đã cung cấp nhiều thông tin thiết thực có liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền của các cơ quan điều tra (cảnh sát), công tố/viện kiểm sát và
tòa án trong tố tụng hình sự các nước được nghiên cứu[144].
Hội thảo quốc tế “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp” được VKSND tối cao tổ chức tại Hà Nội ngày
08/7/2013 có tham luận của các chuyên gia đến từ Úc là ông Hon James
Wood, Chủ tịch Ủy ban Cải cách pháp luật bang New South Wales và bà
17
Kara Shead, công tố viên cao cấp Viện Công tố New South Wales. Trong các
tham luận của mình, tác giả đã cung cấp những thông tin có giá trị tham khảo
liên quan đến vai trò, vị trí của các chủ thể tố tụng tại New South Wales, Úc.
Nhìn chung, các tác giả nước ngoài đã có một phương pháp luận rất khoa
học khi nghiên cứu về pháp luật TTHS của các nước trên thế giới với cả
những ưu điểm và hạn chế của nó. Ví dụ, học giả Mỹ là Philip.L.Reichel
thông qua nghiên cứu vai trò của các chủ thể và trình tự thủ tục được áp dụng
trong luật TTHS để trả lời các câu hỏi, qua đó xác định mô hình tố tụng: Ai
đóng vai trò người buộc tội? (nếu câu trả lời là vai trò buộc tội chuyển từ cá
nhân sang nhà nước trong tiến trình tiếp tục sự trả thù cá nhân thì thuộc hệ
tranh tụng; nếu nhà nước đổi chç cá nhân để buộc tội trong sự thay thế phát
triển việc trả thù cá nhân thì thuộc hệ thẩm vấn); bằng cách nào để xác định
được sự thật của vụ án? (nếu từ cạnh tranh giữa hai phía đối lập mà thời điểm
mấu chốt là phiên toà xét xử thì đó là thuộc hệ tranh tụng; nếu từ sự tiếp tục
điều tra mà thời điểm mấu chốt là thẩm tra tại toà thì đó là thuộc hệ thống
thẩm vấn); quyền lực thuộc về ai? (nếu được chia sẻ giữa công tố viên, luật sư
bào chữa, thẩm phán và bồi thẩm đoàn nên thẩm phán chỉ giữ vai trò trọng tài,
thì thuộc hệ thống tranh tụng; nếu tập trung vào thẩm phán nên tác động của
thẩm phán hướng vào vai trò của ĐTV thì thuộc hệ thẩm vấn; mức độ mong
đợi về sự hợp tác của bị cáo? (không bị yêu cầu hay mong đợi hợp tác với
CQĐT và toà án thì thuộc hệ thống tranh tụng; nếu được mong đợi, không bị
yêu cầu hợp tác với CQĐT, toà án thì đó là hệ thống thẩm vấn) [149]. Ở Liên
Xô trước đây, Viện sỹ hàn lâm M.X. Strogovich cũng đã mô hình hóa để
nghiên cứu. Theo M.X. Strogovich thì tranh tụng bao gồm các yếu tố sau đây:
a) Việc buộc tội tách khỏi toà án; b) Địa vị tố tụng của công tố viên và bị cáo
là các bên tham gia tố tụng; c) Các bên có quyền tố tụng bình đẳng; d) Toà án
có vị trí độc lập, tích cực trong mối quan hệ với các bên [63, tr 149-150].
Các nghiên cứu nói trên cũng đề cập sâu đến các chủ thể tố tụng hình sự
trong tố tụng hình sự của các nước trên thế giới theo các truyền thống pháp
18
luật khác nhau và chúng ta có thể tham khảo trong việc hoàn thiện quy định
về các chủ thể tố tụng hình sự nói chung và các chủ thể tiến hành tố tụng nói
riêng ở nước ta. Ông Nancy Hollander, giáo sư luật Trường Đại học tổng hợp
New Mexico trong bài viết: “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so
sánh với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” đã đưa ra khuyến
nghị rằng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có sự khác nhau về lịch sử, triết học,
chính trị và hệ thống pháp luật, tuy nhiên Bộ luật Tố tụng hình sự cũng cần
hướng đến một số giá trị chung có tính toàn cầu như nguyên tắc pháp quyền,
vấn đề tội phạm trong xã hội và quyết tâm bảo vệ các quyền của mọi công
dân[142].
1.1.3. Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến
Đề tài Luận án
Có thể khái quát về kết quả nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án đã
được công bố theo các nhóm vấn đề như sau:
Thứ nhất: Về việc lựa chọn mô hình tố tụng hình sự (liên quan đến vai
trò, chức năng của các chủ thể tố tụng hình sự)
Tiếp cận dưới góc độ “chức năng của tố tụng hình sự” và “mô hình tố
tụng hình sự” có tác giả cho rằng mô hình TTHS của Việt Nam hiện nay theo
tố tụng thẩm vấn là chính, có ưu điểm tạo thế chủ động cho cơ quan bảo vệ
pháp luật (chủ thể tiến hành tố tụng hình sự) kịp thời phát hiện và xử lý tội
phạm một cách nhanh chóng, đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể lên trên lợi
ích các cá nhân công dân. Nhưng mô hình hiện nay có những nhược điểm cơ
bản là: Quyền và lợi ích của công dân dễ bị xâm phạm. Quan điểm này đề
xuất tiến tới xây dựng mô hình TTHS Việt Nam theo kiểu tranh tụng, các chủ
thể trong hoạt động tố tụng hình sự theo chức năng tố tụng của mình (buộc
tội, gỡ tội và xét xử), không phân biệt là người tiến hành tố tụng hay tham gia
tố tụng có vị thế bình đẳng trước Tòa án như các nước theo kiểu tranh tụng
trên thế giới (Anh, Mỹ...) [45].
19
Quan điểm khác, cũng tiếp cận dưới góc độ “mô hình tố tụng” cho rằng:
Việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam cần được thực hiện trên cơ sở nền
tảng của mô hình tố tụng thẩm vấn hiện tại, các yếu tố tranh tụng chỉ nên
được áp dụng ở mức độ giúp nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng chứ
không nhằm làm thay đổi những yếu tố cốt lõi nhất của của mô hình tố tụng
thẩm vấn. Bởi vì, mô hình tố tụng thẩm vấn chính là mô hình được áp dụng
lâu đời nhất trên thế giới và hiện nay đang được áp dụng nhiều hơn, đang
chứng tỏ tính hiệu quả của nó. Một lý do nữa là việc áp dụng mô hình TTHS
nào vào Việt Nam trước tiên phải dựa vào điều kiện đặc thù của Việt Nam.
Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các chủ thể tố tụng nói chung
và các chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng cơ bản không nên thay đổi lớn mà
chỉ tìm cách điều chỉnh một cách phù hợp, bảo đảm cân bằng giữa các yếu tố
thẩm vấn và tranh tụng[49]. Về vấn đề này trên cơ sở kết quả nghiên cứu Đề
án “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, sau khi Bộ Chính trị cho ý kiến, Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã có thông báo ý kiến bước đầu, theo
đó, “Tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng đã được
quy định trong BLTTHS hiện hành, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các yếu tố
hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa, phân
định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS”[5].
Vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu là việc cụ thể hóa quan điểm, tư
tưởng nói trên như thế nào trong BLTTHS khi sửa đổi, bổ sung các quy định
liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng.
Thứ hai: Về việc xác định chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng
hình sự
Theo lý luận chung, TTHS có ba chức năng là buộc tội, gỡ tội và xét xử.
Có ý kiến đánh giá trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc phân
biệt ba chức năng tố tụng nói trên cho từng chủ thể tố tụng, nếu có thì đó cũng
chỉ là sự phân biệt tương đối. Việc không phân biệt rõ ràng mục đích hoạt
động của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ
20
thể và điều đó không tạo ra được động cơ, động lực thúc đẩy hiệu quả của
TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan
của vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, của công dân.
Vì vậy, hạn chế này cần được khắc phục [113, tr 26]. Có quan điểm đề xuất
trong mô hình lập pháp về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cần có một
phần về “Những chủ thể tham gia TTHS”, trong đó có chương riêng về tòa án
với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng
thuộc tòa án; có chương riêng về những chủ thể của bên buộc tội, trong đó
CQĐT, VKS với tư cách là các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến
hành tố tụng trong các cơ quan này; người bị hại, tư tố viên, nguyên đơn dân
sự và đại diện của những người này trong TTHS; có chương riêng về những
chủ thể của bên bào chữa (gỡ tội) trong TTHS và một chương riêng về những
chủ thể khác tham gia TTHS [16, tr 18].
Đồng ý với quan điểm trên, một số ý kiến đề nghị cần loại bỏ các thẩm
quyền không phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể, nhất là một số
thẩm quyền của tòa án hiện nay (như thẩm quyền khởi tố vụ án, xét xử quá
giới hạn truy tố), đưa các chủ thể về đúng vai trò, vị trí tố tụng của mình; tạo
lập cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa; quy định
quyền và cơ chế thực hiện đầy đủ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong TTHS, tạo điều kiện về pháp lý và thực tiễn để bị can, bị cáo và người
bào chữa của họ thực hiện quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm tội, giảm
nhẹ hình phạt; cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để đảm bảo tranh tụng
dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội [5,tr 38;100, tr 167,168].
Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương cũng cho rằng cần “xác định rõ vị
trí, vai trò, tạo lập cơ chế bảo đảm bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể
tham gia vào quá trình tố tụng; tăng cường vai trò luật sư; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử; mở rộng và phát huy dân chủ, tăng
cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng; có biện pháp ngăn
21
chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người
tham gia tố tụng”[5].
Một số vấn đề còn có các ý kiến còn khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu
là: Cần quy định vị pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng theo chức năng
tố tụng hay vẫn quy định như hiện nay; vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ tố tụng giữa CQĐT và VKSND; việc áp dụng nguyên tắc lựa chọn
truy tố; việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung; vấn đề giám sát VKSND
thực hiện chức năng, nhiệm vụ [4]. Ngoài ra, những vấn đề đã được nghiên
cứu nói trên cũng đang dừng lại ở định hướng chung, từ định hướng chung
ấy đến quy định của BLTTHS còn cần tới một quá trình nghiên cứu với
những đề xuất cụ thể.
Thứ ba: Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT, của cơ quan
khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người tiến
hành tố tụng trong các cơ quan này.
Cơ quan điều tra theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam có vai trò rất quan
trọng đối với việc quyết định truy tố của VKS và việc xét xử của tòa án.
Chức năng của CQĐT là điều tra tội phạm. Những vấn đề đang có quan điểm
khác nhau liên quan đến CQĐT là: Có quan điểm cho rằng CQĐT cần thuộc
về viện công tố “Để có một lời buộc tội chính xác đồng thời phải nhanh
chóng với mục đích không làm oan người vô tội, thì các cơ quan điều tra phải
trực thuộc trực tiếp viện công tố - cơ quan buộc tội. Hay nói một cách khác
các cơ quan điều tra tội phạm phải trực thuộc viện kiểm sát”[40, tr 649]. Có ý
kiến đề xuất thành lập viện công tố có chức năng chỉ đạo điều tra, theo đó
không nên thành lập CQĐT thuộc VKSND tối cao[36]. Việc xác định phạm
vi thực hiện chức năng của CQĐT thuộc VKSND tối cao tại Điều 110
BLTTHS (điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người
phạm tội là cán bộ cơ quan tư pháp) hiểu như thế nào cho đúng, có cần được
mở rộng hay không còn có các ý kiến khác nhau[9]. Việc tổ chức CQĐT
trong VKSND có dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” hay không,
22
việc đặt CQĐT trong các lực lượng vũ trang (Công an, Quân đội) với cơ chế
“mệnh lệnh - chấp hành” giữa chỉ huy và cấp dưới có ảnh hưởng đến tính độc
lập trong hoạt động tố tụng hay không cũng là vấn đề đang được bàn luận
[33, tr 36; 42, tr 23]. Bên cạnh đó, việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh
sát và hoạt động điều tra tố tụng như thế nào cho phù hợp cũng là vấn đề
đang được đặt ra nghiên cứu[96, tr 34].
Về các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra như
hải quan, kiểm lâm, bộ đội biên phòng…có nên thu hẹp số lượng và chức
năng của họ hay ngược lại cần mở rộng hơn theo kinh nghiệm của nhiều nước
cũng là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau[66, tr 20]. Có quan điểm ủng hộ
việc mở rộng diện cơ quan khác có thẩm quyền điều tra ban đầu như cơ quan
thanh tra chuyên ngành, cảnh sát giao thông, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy,
lực lượng kiểm ngư…và trao thẩm quyền TTHS cho một số cơ quan khác tiến
hành một số hoạt động điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS truy tố đối với
những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và không cần thiết phải áp dụng biện
pháp ngăn chặn trong hạn không quá 30 ngày [145, tr 1]. Quan điểm khác cho
rằng không những không nên mở rộng diện cơ quan và thẩm quyền TTHS của
các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
theo quy định của BLTTHS hiện hành mà nên sửa đổi BLTTHS theo hướng
“bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan,
kiểm lâm; khi thực hiện nhiệm vụ được giao, nếu phát hiện các vụ việc có dấu
hiệu tội phạm thì các cơ quan này chỉ tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác
minh ban đầu, thông báo và chuyển cho cơ quan điều tra chuyên trách”[36].
Cũng có quan điểm đề xuất “Giữ nguyên quyền hạn điều tra của cơ quan hải
quan, cơ quan kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển. Bỏ quyền hạn tiến hành một
số hoạt động điều tra của bộ đội biên phòng, của cơ quan khác thuộc Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân”[79, tr 11].
Đối với vai trò của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV trong CQĐT
và người có thẩm quyền thuộc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
23
một số hoạt động điều tra có các ý kiến đặt ra sau đây: Không nên xác định
CQĐT là “cơ quan tiến hành tố tụng” vì quyền năng tố tụng của cơ quan này
đã quy định hết cho thủ trưởng, phó thủ trưởng và ĐTV; không nên có chức
danh phó thủ trưởng CQĐT vì cấp phó chỉ là người thay mặt cấp trưởng và
không cần thiết phải có quyền và nghĩa vụ riêng; khi tiến hành tố tụng, cấp
phó nên lấy danh nghĩa là ĐTV; cần quy định người đứng đầu cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra là chủ thể điều tra tố tụng;
ĐTV phải có vai trò độc lập và phải có thẩm quyền lớn hơn; cần tách bạch
thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT và
thẩm quyền tố tụng của ĐTV[145, tr 1; 36]. Đây là những ý kiến gợi mở vấn
đề, cần được tiếp tục nghiên cứu.
Như vậy, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT,
của cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và
người tiến hành tố tụng trong CQĐT còn có nhiều ý kiến khác nhau, cần được
tiếp tục nghiên cứu.
Thứ tư: Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND và của người
tiến hành tố tụng trong VKSND
Về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong TTHS, Nghị quyết 49-
NQ/TW của Bộ Chính trị có đặt vấn đề “nghiên cứu việc chuyển viện kiểm
sát thành viện công tố”. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu đến nay đã có sự khẳng
định: VKSND vẫn thực hiện hai chức năng như hiện nay là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (trong TTHS là kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử, kiểm sát thi hành án hình sự) và đây là quan điểm đã được ghi
nhận trong các văn kiện của Đảng[6, 32]. Hiến pháp năm 2013 cũng đã thể
hiện theo quan điểm này. Có ý kiến đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu xử lý mối
quan hệ giữa “chức năng kiểm sát xét xử và yêu cầu bảo đảm sự độc lập của
hoạt động xét xử: Đây là vấn đề liên quan đến các nguyên tắc Hiến định về tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân. Vì vậy, khi sửa đổi, bổ sung các văn
bản pháp luật có liên quan cần quy định chặt chẽ phạm vi nhiệm vụ, quyền
24
hạn và hình thức kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp, nhằm đảm
bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án
nhân dân”[6]. Cũng có quan điểm cho rằng, trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự, VKS chỉ nên tập trung làm tốt nhiệm vụ “kiểm sát điều tra”, không
nên có thẩm quyền điều tra vì VKS vừa tiến hành điều tra, vừa kiểm sát điều
tra là không khách quan, mất đi quan hệ chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan tư
pháp[33, tr 36]. Quan điểm khác cho rằng cần giao cho KSV quyền năng
không kém hơn quyền năng của thủ trưởng CQĐT. Kiểm sát viên vừa có
quyền tự mình tiến hành điều tra, được sử dụng mọi thẩm quyền điều tra mà
pháp luật TTHS trao cho thủ trưởng CQĐT và ĐTV. Kiểm sát viên - công tố
viên là chủ thể hàng đầu trong giai đoạn điều tra và là chủ thể điều phối, chỉ
đạo điều tra. Mạnh dạn hơn, quan điểm này còn đề xuất nên thành lập các
viện công tố thuộc VKSND, nhân vật trung tâm trong viện công tố là các
công tố viên và chính viện công tố cùng các công tố viên sẽ là người điều hòa,
tập trung và chỉ đạo điều tra[65]. Có quan điểm đề xuất giữ nguyên quy định
của BLTTHS hiện nay, theo đó VKS/KSV chỉ trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra trong vụ án do CQĐT tiến hành điều tra khi xét thấy cần thiết
mà không phải là tiến hành điều tra đầy đủ đối với vụ án hình sự [52, tr 57].
Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng đang được đặt ra để nghiên cứu, thể
chế hóa trong TTHS là xác định mối quan hệ tố tụng giữa chức năng điều tra
của CQĐT và chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của
VKS, cơ chế nào để thực hiện “tăng cường công tố trong hoạt động điều tra,
gắn công tố với điều tra” theo chủ trương cải cách tư pháp đã được thể hiện
trong các nghị quyết của Đảng[32].
Về phân định thẩm quyền của các chức danh tố tụng trong VKSND (viện
trưởng, phó viện trưởng, kiểm sát viên). Có nghiên cứu đề xuất theo hướng
cần tăng quyền hạn, trách nhiệm của KSV; viện trưởng, phó viện trưởng VKS
chỉ nên có nhiệm vụ tổ chức hoạt động công tố bằng cách phân công, thay đổi
KSV; kiểm tra hoạt động tố tụng của những người được phân công; huỷ bỏ
25
hay thay đổi các quyết định tố tụng của cấp dưới và giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền. Còn các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền
tố tụng trong giải quyết vụ án cụ thể thì nên quy định cho người tiến hành tố
tụng trực tiếp là KSV[36, tr 41]. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam, mức độ phân quyền đến đâu cũng còn phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ
và thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện Luật TTHS nước ta.
Những vấn đề được đặt ra, những khác biệt trong quan điểm về chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKS và người tiến hành tố tụng trong VKS
như đã nêu trên cần được tiếp tục nghiên cứu.
Thứ năm: Đối với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của của tòa án và
người tiến hành tố tụng trong tòa án
Có quan điểm cho rằng, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện
hành thì ngoài chức năng chính là xét xử, tòa án còn có chức năng buộc tội,
chức năng thi hành án, phòng ngừa tội phạm. Quan điểm khác cho rằng tòa án
chỉ có chức năng xét xử. Quan điểm này dựa trên cơ sở nguyên tắc cơ bản là
chức năng xét xử phải độc lập với chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội. Giữa
các cơ quan thực hiện chức năng nói trên phải có mối quan hệ chế ước, kiểm
tra, giám sát lẫn nhau[35, tr 23]. Để bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét
xử, tòa án phải được thoát khỏi vai trò theo đuổi mục đích đi tìm sự thật
khách quan của vụ án để rồi đóng luôn vai trò của phía buộc tội. Một chủ thể
chỉ thực hiện một chức năng tố tụng. Tòa án trong tố tụng tranh tụng chỉ xét
xử trong phạm vi và mức độ buộc tội. Để đóng vai trò là khâu trung tâm, việc
xét xử của tòa án phải thực sự tạo ra sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan
điểm, chứng cứ của các bên buộc tội và gỡ tội[114]. Tuy nhiên, việc cụ thể
hóa chức năng xét xử của TAND như thế nào trong quá trình sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện Luật TTHS nước ta vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên
cứu làm rõ khi hoàn thiện các điều luật cụ thể trong BLTTHS, sao cho phù
hợp, khả thi ở nước ta cả về mặt lý luận và thực tiễn.
26
Về việc phân định quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
trong tòa án (tương tự như trong CQĐT, VKS) là một nội dung đặt ra trong
Chiến lược cải cách tư pháp và cũng được nhiều người quan tâm nghiên
cứu[41, tr 58]. Chủ trương này đã được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị và qua nghiên cứu đã có sự đồng thuận là cần tăng quyền hạn,
trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trực tiếp là thẩm phán. Tuy
nhiên tăng thẩm quyền cho thẩm phán đến mức nào, có nên trao đầy đủ các
thẩm quyền tố tụng cho các chức danh này hay chỉ giao ở chừng mực nhất
định phù hợp với khả năng quyết định của họ cũng chưa được nghiên cứu đầy
đủ. Vì những lẽ trên, vấn đề chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án và
người tiến hành tố tụng thuộc tòa án vẫn cần được nghiên cứu, làm rõ thêm.
Ngoài ra, trong quan hệ với các chủ thể tiến hành tố tụng có các chủ thể
tham gia tố tụng (vì liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng) phần lớn các nghiên cứu đều có quan điểm chung là cần mở rộng hơn
nữa tính dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người trong TTHS. Vì vậy, những vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu đề
xuất việc cụ thể hóa trong lần sửa đổi BLTTHS năm 2003 sắp tới, xử lý một
cách khoa học hơn mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể
tham gia tố tụng (xem xét lại cách quy định trong BLTTHS hiện hành).
Nhìn chung, từ nhiều năm nay, vấn đề đổi mới các quy định liên quan
đến các chủ thể tiến hành TTHS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp luôn
được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm, bởi đây là
vấn đề có tính cốt lõi trong toàn bộ nội dung đổi mới Luật TTHS nước ta. Các
nghiên cứu nói trên đã có đóng góp quan trọng trong việc làm rõ thêm những
vấn đề liên quan đến các chủ thể tiến hành TTHS. Mặc dù vậy, liên quan đến
các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam còn rất
nhiều vấn đề còn có ý kiến khác nhau hoặc mới chỉ được đề cập mang tính
gợi mở cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hơn
trong Luận án này.
27
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Luận án
Mục tiêu của Đề tài Luận án là tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có
hệ thống để làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, có những kiến nghị, đề xuất
cụ thể về những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau hoặc chưa được nghiên
cứu đã được trình bày ở phần trên đây, nhằm góp phần hoàn thiện quy định về
các chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng và các chủ thể trong hoạt động tố tụng
nói chung của Luật TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá tổng quan tình
hình nghiên cứu có liên quan đến Đề tài Luận án như đã trình bày trên đây,
những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra cho Luận án là:
* Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các chủ thể tố tụng hình sự nói
chung và các chủ thể tiến hành tố tụng theo Luật Tố tụng hình sự ở nước ta
nói riêng. Từ đó, góp phần luận giải và đề xuất hướng giải quyết những vấn
đề còn chưa được nghiên cứu hoặc chưa thống nhất về mặt lý luận về các chủ
thể tiến hành tố tụng hình sự ở nước ta.
* Nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành ở nước ta về cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, đánh giá đầy đủ những ưu
điểm và nhất là những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng cần được
xem xét đề xuất đổi, bổ sung.
* Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về các chủ thể
tiến hành tố tụng hình sự ở nước ta, Luận án đề xuất cụ thể phương hướng sửa
đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về các chủ
thể tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới.
1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu Đề tài Luận án là các
phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước,
các quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm
của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
28
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện Đề tài Luận
án này là các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội để đạt được mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài như: phương pháp tổng hợp, hệ thống, phân
tích, so sánh, lịch sử cụ thể để làm rõ những vấn đề lý luận về các chủ thể tiến
hành tố tụng cũng như những vướng mắc, bất cập của các quy định liên quan
đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong pháp luật thực định. Phương pháp mô
hình hóa cũng được áp dụng trong quá trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng
hình sự của các nước. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Đề tài Luận án, tác
giả còn tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn, khảo sát thực tiễn hoạt động tố
tụng thuộc CQĐT, VKS, toà án các cấp và có nhiều vấn đề được rút ra từ hoạt
động thực tiễn của bản thân trong lĩnh vực TTHS.
29
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH
TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Các chủ thể trong tố tụng hình sự
Từ khi xuất hiện loài người thì cũng phát sinh những tranh chấp, xung
đột, mâu thuẫn trong xã hội với tính chất, mức độ khác nhau cần được giải
quyết. Xã hội phát triển đến một trình độ nhất định, nhà nước ra đời với bản
chất là bộ máy của giai cấp thống trị để quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của giai
cấp và chống lại những hành vi xâm phạm đến các quy định (pháp luật) do
nhà nước đặt ra. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, nhà vua
ban hành luật lệ, chỉ đạo việc thực hiện và có quyền xét xử tối cao. Về cơ bản,
trong các chế độ này hành vi nào bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt là
do nhà vua quy định. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, nhà vua có thể giao cho
các chức quan điều tra, xét xử nhưng vua là người có quyền phán quyết cao
nhất. Nhà vua nắm trọn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và ngay
trong lĩnh vực tư pháp hình sự thì nhà vua cũng có thể nắm trọn cả quyền điều
tra, truy tố, xét xử. Montesquie, một nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp đã viết:
“Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các
thân hào hay các quí tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật,
quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các
tranh chấp giữa các tư nhân” [17, tr 85]. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa
Mác- Lê nin cũng nhận xét “Cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi hành luật, vừa
cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng ý chí chung sai lầm
của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân
theo ý muốn của họ”[13, tr 87].
Các cuộc cách mạng tư sản vào các thế kỷ thứ 17, 18, với những tư
tưởng dân chủ tư sản tiến bộ (tiêu biểu như Montesquie, Jean-Jacques
Rousseau, Immanuil Kant…) ở các nước phương Tây đã từng bước xoá bỏ
chế độ phong kiến, lập nên các nhà nước tư sản theo thuyết “tam quyền phân
30
lập” là một bước tiến lớn trong tổ chức bộ máy nhà nước, tiêu biểu như Pháp,
Anh, Mỹ, Hà Lan…Nhà nước tư sản đã tổ chức các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp thành ba nhánh quyền lực khác nhau, do các cơ quan khác
nhau đảm nhận bao gồm cơ quan lập pháp (quốc hội), cơ quan hành pháp
(chính phủ) và cơ quan tư pháp (toà án). Cùng với các cuộc xâm chiếm thuộc
địa, phân chia thị trường, tài nguyên của giai cấp tư sản ở các nước tư bản,
cũng như bản thân mô hình tổ chức nhà nước của các nhà nước tư sản với sự
tiến bộ của nó so với mô hình tổ chức nhà nước phong kiến đã có sức lan tỏa
mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Những nước trước đó là chế độ phong
kiến điển hình như Trung Quốc, Việt Nam…sau khi thực hiện thắng lợi cách
mạng dân tộc dân chủ cũng đã từ bỏ chế độ phong kiến và tổ chức nhà nước
kiểu mới dựa trên sự kế thừa những giá trị dân chủ của các nhà nước dân chủ
tư sản. Ngày nay, hầu như các nước trên thế giới đã tổ chức bộ máy nhà nước
theo hướng xác định rõ các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là những
cơ quan khác nhau. Trong tư pháp hình sự, việc điều tra, truy tố, xét xử được
giao cho các cơ quan khác nhau. Mô hình tổ chức các nhà nước xã hội chủ
nghĩa như Liên Xô cũ, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, Trung
Quốc, Việt Nam, Cu Ba… cũng là một bước phát triển trên cơ sở kế thừa
những giá trị dân chủ, tiến bộ của các nhà nước tư sản. Tuy nhiên, dù trong
cùng một kiểu nhà nước (nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa) thì tổ
chức để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của mỗi nước
cũng không giống nhau do truyền thống văn hoá pháp luật và các điều kiện cụ
thể về chính trị, xã hội của từng nước.
Cùng với sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước diễn ra trong lịch
sử phát triển của từng quốc gia, các cơ quan nhà nước được giao thực hiện
quyền lực về tư pháp nói chung và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về
TTHS (điều tra, truy tố, xét xử án hình sự) cũng phát triển theo những hướng
không giống nhau. Trên thế giới, mỗi quốc gia có pháp luật TTHS riêng, thể
31
hiện quan niệm, truyền thống pháp luật, văn hoá và điều kiện kinh tế xã hội
của từng nước.
Truyền thống pháp luật nói chung có ảnh hưởng đậm nét trong các mô
hình tổ chức và hoạt động của các chủ thể trong quan hệ pháp luật TTHS.
Chẳng hạn truyền thống luật Châu Âu lục địa với việc chia ra luật công, luật
tư đã ảnh hưởng đến sự nhấn mạnh yêu cầu kiểm soát tội phạm (tố tụng thẩm
vấn) của các nước Pháp, Đức…còn truyền thống án lệ, hay còn gọi là thông
luật như Anh, Mỹ đã ảnh hưởng đến sự nhấn mạnh yếu tố tố tụng công bằng
trong hoạt động tố tụng. TTHS cũng chịu ảnh hưởng bởi thực tiễn chính trị,
trình độ pháp luật. Barbara Huber viết “Criminal procedure reflects more
than any other field of law, the polictical situation in a state and the basic
ideas of law and order which dominate it. It has thus rightly been described
as the “seismograph” of the constitution of the state”[152,p.113]. Tạm dịch:
“Không một ngành luật nào phản ánh chính xác và thể hiện rõ nhất tình hình
chính trị, tư tưởng cơ bản của pháp luật cũng như quyền lực chi phối trong
một nhà nước như tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự được so sánh như máy đo
địa chấn - seismograph đối với Hiến pháp của quốc gia”.
Việc nghiên cứu về chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS có thể
tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau: tiếp cận theo truyền thống pháp luật,
theo quan hệ pháp luật hoặc tiếp cận theo chức năng tố tụng, tuy nhiên tiếp
cận theo chức năng tố tụng có lẽ sẽ hợp lý hơn vì mỗi chức năng tố tụng sẽ do
một hoặc một số chủ thể tố tụng đảm nhiệm và chức năng của mỗi chủ thể sẽ
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể đó. Trên cơ sở giải quyết mối quan
hệ giữa các chức năng của TTHS đã hình thành nên các mô hình tố tụng khác
nhau trên thế giới.
Khái niệm về chức năng TTHS hiện vẫn còn những quan điểm khác
nhau. Có người cho rằng chức năng của tố tụng hình sự là những định hướng
các hoạt động của các chủ thể có các quyền tố tụng và là nghĩa vụ tố tụng.
Chức năng TTHS là chức năng của từng chủ thể cụ thể khi tham gia vào quan
32
hệ pháp luật TTHS. Đồng tình với quan điểm này có ý kiến cho rằng: “Chức
năng tố tụng là nghĩa vụ tố tụng chủ yếu của các chủ thể mà thông qua đó thể
hiện bản chất tố tụng và quyết định vai trò của các chủ thể đó trong hoạt động
tố tụng. Mỗi chủ thể chỉ thực hiện một chức năng vốn có của mình” [74, 44].
Theo GSTS Võ Khánh Vinh thì:“chức năng TTHS được hiểu là những
phương hướng hoạt động được tiến hành trong phạm vi, giới hạn của việc giải
quyết vụ án hình sự. Đó là chức năng điều tra, truy tố, bào chữa, xét xử. Ở
dạng chung nhất, chức năng thứ nhất thuộc các CQĐT; chức năng thứ hai
thuộc VKS; chức năng thứ ba thuộc bị can, bị cáo; chức năng thứ tư thuộc tòa
án” [110,17]. M.A.Chenxốp cho rằng “chức năng TTHS đó là định hướng
các hoạt động được các nhà làm luật đề ra buộc các cơ quan chức năng hay
các cá nhân có thẩm quyền và có nghĩa vụ thực hiện”, còn theo
M.X.Xtrôgôvích thì: “chức năng tố tụng được hiểu là những định hướng đặc
biệt phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng khác nhau trong
những phạm vi nhất định”[12, 12 -13]. Tác giả Nguyễn Tiến Châu cho rằng:
“chức năng TTHS là những định hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt
động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi
nhất định trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ tố
tụng của các bên tố tụng” [12, 13].
Như vậy, có thể hiểu chức năng TTHS là những định hướng cơ bản phân
định các hoạt động tố tụng của các chủ thể khác nhau, có những mục đích
khác nhau, có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, để thực hiện một phương diện chức năng của nhà nước là chức năng
bảo vệ, duy trì trật tự pháp luật chung, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của
người dân cũng như của nhà nước. Mục tiêu chung của TTHS là giải quyết vụ
án hình sự một cách đúng đắn, khách quan, công bằng. Để đạt tới mục tiêu
chung đó, TTHS được phân chia theo các phương diện hoạt động cơ bản, chủ
yếu mang tính hệ thống, thống nhất nhằm thực hiện các chức năng chung của
33
TTHS. Mỗi chức năng cơ bản của TTHS được giao cho một hoặc một số chủ
thể thực hiện.
Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về các chức năng cụ thể của TTHS
(chẳng hạn hoạt động điều tra của CQĐT, hoạt động kiểm sát việc điều tra vụ
án của VKS có được coi là những chức năng của TTHS hay không), nhưng đã
có sự thống nhất chung là TTHS có ba chức năng cơ bản là chức năng buộc
tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử [12,19]. Mỗi chức năng
đảm nhận một phương diện hoạt động cơ bản của TTHS, có vị trí, vai trò khác
nhau, có chủ thể thực hiện khác nhau và có sự độc lập với nhau. Tuy vậy,
giữa các chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì
sự tồn tại và vận động của hai chức năng còn lại. Có chức năng buộc tội mà
không có chức năng bào chữa (gỡ tội) thì hoạt động tố tụng là hoạt động áp
đặt quyền lực, ý chí và rất dễ dẫn đến oan sai. Chức năng bào chữa chỉ xuất
hiện, tồn khi có sự tồn tại, hoạt động của chức năng buộc tội. Chức năng xét
xử sẽ không còn khi không có chức năng buộc tội và sẽ không thể thực hiện
được tốt khi chỉ có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa cùng
hoạt động. Để hoạt động TTHS vận hành hiệu quả, giải quyết các vụ án hình
sự kịp thời, đúng pháp luật, không xảy ra oan sai thì các chức năng của TTHS
đều phải được coi trọng, không nên quá nhấn mạnh chức năng này mà xem
nhẹ chức năng khác. V.Xavitxki khẳng định rằng: “cả ba chức năng mà
chúng ta nói tới (buộc tội, bào chữa và xét xử) đều là chức năng cơ bản, cả
ba chức năng này có mối liên hệ hài hòa và nhất quán, mỗi một chức năng
mang tính tất yếu, tính quy luật và đều có sự hiện diện của hai chức năng kia,
mỗi một chức năng được tồn tại và phát triển khi và chỉ khi hai chức năng
còn lại tồn tại và phát triển” [12, 21].
Hiện nay, trong quá trình nghiên cứu sửa đổi BLTTHS năm 2003 cũng
như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện đang tồn tại những xu hướng quan
điểm trái ngược nhau. Xu hướng thứ nhất quá đề cao vai trò và vị trí của chức
34
năng buộc tội, quan tâm đến nhiệm vụ “kiểm soát tội phạm” của TTHS, chưa
nhận thức đầy đủ vai trò của chức năng bào chữa trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Xu hướng ngược lại là quá đề cao vai trò và vị
trí của chức năng bào chữa, xem việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân có ý nghĩa tuyệt đối, trong khi các lợi ích của xã hội chưa được quan
tâm đúng mức, việc xử lý vụ án chỉ chú trọng đến việc “không làm oan người
vô tội”. Giới nghiên cứu tư pháp hình sự so sánh đã khái quát lại từ việc
nghiên cứu pháp luật TTHS của nhiều nước khác nhau và thấy rằng có các mô
hình TTHS phổ biến là mô hình kiểm soát tội phạm (mô hình tố tụng thẩm
vấn), mô hình tố tụng công bằng (mô hình tố tụng tranh tụng) và có một mô
hình nữa có nhiều nét giao thoa giữa hai mô hình nói trên gọi là mô hình tố
tụng kiểu pha trộn hay hỗn hợp. Cách phân chia trên cũng chỉ mang tính
tương đối, ước lệ, chủ yếu dựa trên việc xử lý mối quan hệ giữa các chức
năng của TTHS.
Có quan điểm cho rằng “Mô hình TTHS là cách thức tổ chức và phương
thức hoạt động của TTHS, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động này
sẽ quy định địa vị pháp lý của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng cũng
như động lực của các chủ thể ấy khi thực hiện chức năng tố tụng được giao”
[12, 37]. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng khái niệm “mô hình TTHS” là sản
phẩm của quá trình tư duy trìu tượng mà các nhà nghiên cứu khái quát được
từ nghiên cứu pháp luật TTHS của một quốc gia hoặc nhóm quốc gia có cùng
những đặc trưng cơ bản, từ đó phân loại mô hình TTHS của quốc gia được
nghiên cứu thuộc mô hình nào (mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng
tranh tụng hay mô hình tố tụng pha trộn). Chính việc giải quyết mối quan hệ
giữa các chức năng của TTHS khác nhau sẽ quy định địa vị pháp lý của các
chủ thể thực hiện chức năng tố tụng khác nhau và theo đó đã tạo nên những
mô hình/kiểu tố tụng khác nhau đang tồn tại rất đa dạng trên thế giới hiện nay.
Việc xác định rõ nội dung các chức năng và mối quan hệ giữa các chức năng
cơ bản nêu trên của TTHS là cơ sở để hoàn thiện quy định về chức năng,
35
nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể tố tụng khi tham gia vào quan hệ pháp
luật TTHS; khắc phục tình trạng một chủ thể thực hiện nhiều chức năng hoặc
quá đề cao chức năng này, xem nhẹ chức năng khác làm ảnh hưởng tiêu cực
đến hiệu quả hoạt động TTHS.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật TTHS là tính phức tạp, đa chiều về lợi
ích của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Các chủ thể thuộc
nhóm buộc tội thường có xu hướng cố gắng tìm cách thức chứng minh người
bị tình nghi, bị can, bị cáo đã phạm tội, phạm tội nặng hơn, phạm tội có nhiều
tình tiết tăng nặng và phải chịu hình phạt; những thiệt hại của người bị hại
phải được khôi phục, đền bù thỏa đáng. Ngược lại, nhóm chủ thể bị buộc tội
thường có xu hướng tìm cách gỡ tội như chứng minh không phạm tội hoặc
phạm tội nhẹ hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ... Các chủ thể khác có tính chất
bổ trợ như người giám định, người làm chứng, người chứng kiến, người phiên
dịch có xu hướng chung là hành động vô tư, khách quan; tuy nhiên sự vô tư,
khách quan này bị phụ thuộc vào kiến thức, trình độ chuyên môn, trách nhiệm
của từng cá nhân. Kết quả hoạt động của nhóm này có thể được cả bên buộc
tội và bên bị buộc tội sử dụng làm chứng cứ. Chủ thể xét xử (tòa án) là đại
diện cho công lý, trên cơ sở đã xem xét đầy đủ chứng cứ, lý lẽ của bên buộc
tội, bên bị buộc tội để ra phán quyết công bằng, tuy nhiên việc ra được phán
quyết (bản án) công bằng không phải lúc nào cũng dễ dàng vì bị phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Toàn bộ hoạt động của các nhóm chủ thể nói trên có tạo ra
“công lý” cho người dân hay không phụ thuộc vào như sự đúng đắn, hợp lý
trong các quy định của luật pháp hình sự và TTHS; năng lực, trình độ, tinh
thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, pháp luật TTHS
phải tạo ra được cơ chế để “kiểm soát” việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa
các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, qua đó hạn chế oan sai
hoặc bỏ lọt tội phạm trong hoạt động TTHS.
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sựLuận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOTĐề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOTLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAYLuận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAYLuận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sựLuận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOTĐề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
Đề tài: Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều traLuận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
Luận văn: Những người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAYLuận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
Luận án: Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, HAY
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOTLuận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
Luận văn: Văn bản quy phạm pháp luật của HĐND & UBND, HOT
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAYLuận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
Luận văn: Án lệ trong hệ thống các loại nguồn pháp luật, HAY
 
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Luật Tại Tòa Án, 9 Điểm
 
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOTLuận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
Luận văn: Trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền tác giả, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAYLuận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
Luận văn: Pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, HAY
 

Similar to Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY

Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAYLuận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụngLuận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụngNguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Zalo/Telegram 0917193864
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hộiĐề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QHĐổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOTĐề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY (20)

Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOTĐề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
Đề tài: Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
Nguyên Tắc Bảo Đảm Hiệu Lực Của Bản Án, Quyết Định Của Tòa Án Theo Pháp Luật ...
 
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAYLuận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
Luận án: Giám sát thi hành án dân sự, HAY
 
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụngLuận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Luận án: Bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
 
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụngNguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của người tiến hành tố tụng
 
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
Luận án: Chế định biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam – những vấn đ...
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
Thực trạng pháp luật và thực trạng năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án ...
 
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hộiĐề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
Đề tài: Đổi mới hoạt động ban hành thực hiện nghị quyết quốc hội
 
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QHĐổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
Đổi mới hoạt động ban hành và giám sát thực hiện nghị quyết của QH
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOTĐề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
Đề tài: Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh Quảng Ngãi, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
nhanviet247
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
giangnguyen312210254
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
nvlinhchi1612
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 

Recently uploaded (12)

98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 

Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT *******000******* NGUYỄN DUY GIẢNG CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 62.38.40.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ HÀ NỘI - NĂM 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trần Văn Độ. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về tất cả các số liệu và kết quả nghiên cứu đó. Luận án này chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận án
  • 3. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra ĐTV Điều tra viên KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  • 4. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 1. Giới thiệu về Luận án................................................................................. 1 2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án.................................................................... 1 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................3 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án ................................................4 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..................................................................................6 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án................................. 6 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước................................................... 6 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................ 14 1.1.3. Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến Đề tài Luận án .................................................................................................... 18 1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Luận án............................... 27 1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ..................................... 27 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................ 29 2.1. Các chủ thể trong tố tụng hình sự .......................................................... 29 2.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam...... 36 2.2.1. Khái quát chung về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam...................................................................................... 36 2.2.2. Quá trình phát triển quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam................................................................ 39 2.3. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước trên thế giới.................................................................................................. 51 2.3.1. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo truyền thống án lệ .................................................................... 52
  • 5. 2.3.2. Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo truyền thống luật dân sự Châu Âu lục địa................................. 56 2.3.3 Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự một số nước theo mô hình mới chuyển đổi ................................................................... 61 Kết luận Chương 2 ....................................................................................... 66 Chương 3: THỰC TRẠNG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG............................................................................................. 71 3.1. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc cơ quan điều tra, về các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và thực tiễn áp dụng ................................................................................ 71 3.2. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng ...................................................................... 86 3.3. Quy định hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án nhân dân và thực tiễn áp dụng............................................................................... 98 Kết luận Chương 3 ..................................................................................... 103 Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRƯỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP........................................................................ 106 4.1. Yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam......................... 106 4.2. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT và quy định về cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ....................................................................................................... 111 4.3. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc viện kiểm sát nhân dân................................................................................................ 117 4.4. Hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc toà án nhân dân..................................................................................................... 127
  • 6. 4.5. Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự............................................................................................ 132 Kết luận Chương 4 ..................................................................................... 134 KẾT LUẬN................................................................................................... 139 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN............................................................................................ 143 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 144 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 161
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu về Luận án Luận án này được thực hiện theo quy định tại Quy chế đào tạo sau đại học của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài phần mở đầu, danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục kèm theo Luận án, nội dung chính của Luận án có 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án Chương 2: Những vấn đề lý luận về chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Chương 3: Thực trạng Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về các chủ thể tiến hành tố tụng và thực tiễn áp dụng Chương 4: Định hướng hoàn thiện Luật tố tụng hình sự Việt Nam về các chủ thể tiến hành tố tụng trước yêu cầu cải cách tư pháp 2. Lý do lựa chọn Đề tài Luận án Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước trên các lĩnh vực, việc đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp đã và đang được Đảng, Nhà nước và toàn dân hết sức quan tâm, là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển đất nước. Trong lĩnh vực TTHS, một trong những nội dung trọng tâm của cải cách tư pháp là nghiên cứu hoàn thiện các quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng, bao gồm cơ quan tiến hành TTHS (CQĐT, VKS, tòa án) và những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan này. Quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong TTHS ở nước ta đã có một quá trình hình thành và phát triển theo tiến trình phát triển của đất nước, nhất là từ sau Cách mạng tháng 8/1945 cho đến khi có Hiến pháp năm 1992, BLTTHS năm 2003, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004. Tuy vậy, qua gần 10 năm tổ chức thi hành, quy định trong các văn bản pháp luật nói trên về chủ thể tố tụng nói chung và chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng đã bộc lộ khá nhiều bất cập. Những bất cập đó là một trong
  • 8. 2 những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế chất lượng, hiệu quả của các hoạt động TTHS. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định các chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết đặt ra yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho ĐTV, KSV và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Ngày 12 tháng 3 năm 2014 Bộ Chính trị có Kết luận số 92 - KL/TW “về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó có các quan điểm chỉ đạo quan trọng về: xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp; về hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan điều tra chuyên trách trong công an, quân đội và ngành kiểm sát; phương hướng hoàn thiện quy định định về một số hoạt động điều tra của bộ đội biên phòng, cảnh sát biển, hải quan, kiểm lâm; về tổ chức của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân…Kết luận số 92 - KL/TW của Bộ Chính trị cũng yêu cầu nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp; chuẩn bị những nội dung có liên quan đến việc đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp giai đoạn 2016 - 2020, phục vụ việc xây dựng các văn kiện Đại hội XII của Đảng... Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập Hiến ở nước ta. Hiến pháp đề cao yêu cầu tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, có nhiều sửa đổi
  • 9. 3 quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp như tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân. Hiến pháp mới bổ sung quy định về xét xử theo thủ tục rút gọn, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội với nội hàm đầy đủ hơn…Những quy định mới được sửa đổi, bổ sung nói trên trong Hiến pháp năm 2013 cần được nghiên cứu cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật có liên quan như BLTTHS, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức điều tra hình sự. Những yêu cầu nêu trên đều liên quan chặt chẽ đến việc đổi mới, hoàn thiện các quy định liên quan đến tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặc dù thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam, nhưng các công trình nghiên cứu đã có chủ yếu theo từng vấn đề riêng và trong mỗi vấn đề cũng đang còn có ý kiến khác nhau hoặc cần được nghiên cứu sâu, cụ thể và toàn diện hơn. Nhận thấy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam một cách toàn diện, có hệ thống nhằm góp phần bổ sung thêm luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện các quy định liên quan của Luật TTHS Việt Nam trong thời gian tới là rất quan trọng và cấp thiết nên nghiên cứu sinh chọn Đề tài: “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” để xây dựng Luận án tiến sĩ luật học của mình. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận án là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá mức độ phù hợp, những hạn chế, khiếm khuyết của pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay trong hoạt động thực tiễn, từ đó đề xuất việc hoàn thiện các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Đồng thời qua đó
  • 10. 4 cũng góp phần phát triển lý luận về các chủ thể tố tụng thuộc chuyên ngành Luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Đối tượng nghiên cứu của Đề tài Luận án là những vấn đề liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam dưới góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và người có nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này. Phạm vi nghiên cứu của Đề tài Luận án: Việc nghiên cứu về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam liên quan đến nhiều vấn đề, từ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng hình sự. Tuy nhiên, trong khuôn khổ Luận án này, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan và người có thẩm quyền tố tụng thuộc CQĐT, VKS, toà án dưới góc độ Luật TTHS và một số vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy có ảnh hưởng đến việc đảm bảo tính độc lập của chủ thể tiến hành tố tụng. Về thời gian, các quy định của Luật TTHS Việt Nam được nghiên cứu từ năm 1945 đến nay, việc khảo sát số liệu được lấy theo kết quả tổng kết 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 (2004 – 2012). Khái niệm “Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” trong Đề tài này được hiểu theo nghĩa là một ngành luật, bao gồm những vấn đề thuộc về lý luận, pháp luật thực định được quy định trong Hiến pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức của tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra hình sự… 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án Luận án tiến sĩ luật học với Đề tài: “Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu tổng thể, toàn diện, đầy đủ về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, bám sát các yêu cầu được nêu trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Luận án có những đóng góp mới như sau:
  • 11. 5 * Là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự, bao gồm CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu Đề tài đã góp phần làm sáng tỏ và phát triển lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. * Luận án đã đánh giá tương đối toàn diện việc thực hiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta, những kết quả đã đạt được và những hạn chế, vướng mắc, qua đó làm rõ những hạn chế trong quy định của Luật Tố tụng hình sự hiện hành cần được xem xét sửa đổi, bổ sung. * Luận án đã góp phần làm rõ các yêu cầu của cải cách tư pháp đối với việc sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự trong Luật Tố tụng hình sự ở nước ta. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và tổng kết thực tiễn cũng như yêu cầu của cải cách tư pháp, Luận án đã đề xuất các nội dung cần sửa đổi, bổ sung quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự nhằm góp phần giải quyết những bất cập, vướng mắc trong các quy định liên quan đến CQĐT, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, tòa án và những người có nhiệm vụ thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này nhằm tăng cường hiệu quả trong đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, xây dựng một nền tư pháp hình sự tiên tiến, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu Đề tài cũng có thể sử dụng để tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Luật TTHS ở các trường đại học chuyên ngành Luật.
  • 12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS Việt Nam liên quan đến các vấn đề như vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các nghiên cứu, bàn luận về cải cách tư pháp ở nước ta trong thời gian vừa qua ở các khía cạnh, mức độ khác nhau đều có liên quan đến các chủ thể tiến hành TTHS. Cụ thể như sau: Bộ Công an xây dựng đề án “Tổ chức lại hệ thống Cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối”, đề xuất việc tổ chức lại hệ thống cơ quan Cảnh sát điều tra và An ninh điều tra các cấp; đề xuất không tổ chức CQĐT trong VKSND tối cao, bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm [33]. Tuy nhiên, tại Kết luận số 92 - KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị vẫn chỉ đạo giữ nguyên CQĐT trong VKSND tối cao; giữ nguyên quyền hạn và quy định rõ hơn nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm..). Bộ Công an cũng đang soạn thảo Luật Tổ chức điều tra hình sự để trình Quốc hội trong thời gian tới. VKSND tối cao đã phối hợp với các ngành hữu quan và các nhà khoa học nghiên cứu 2 đề án cấp nhà nước là Đề án “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” và Đề án “Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố”, hoàn thành năm 2012. Các đề án đã nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở nước ta có liên quan tới chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKSND, TAND [6, 7]. Theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, VKSND tối cao triển khai nghiên cứu Đề án “Viện
  • 13. 7 kiểm sát trong cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp theo tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa” và Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị” với những đề xuất quan trọng về đổi mới tổ chức và hoạt động của VKSND [8, 148]. Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng các đề án về đổi mới tổ chức và hoạt động của CQĐT, tòa án theo Nghị quyết 49-NQ/TW và Kết luận 79- KL/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trong đó có việc thành lập TAND sơ thẩm khu vực trên cơ sở TAND cấp huyện, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND cấp tỉnh, thành lập TAND cấp cao, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao. TAND tối cao cũng đang xây dựng dự thảo Luật Tổ chức tòa án nhân dân trình Quốc hội xem xét trong thời gian tới có nhiều nội dung liên quan đến việc đổi mới quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc tòa án. Đặc biệt, VKSND tối cao đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu sửa đổi bổ sung BLTTHS năm 2003 với nhiều hoạt động tổng kết thực tiễn, tổ chức nhiều hội thảo, tổ chức khảo sát kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, đề án, luận án có nội dung liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng được thực hiện trong thời gian qua như: Luận án tiến sĩ luật học của Lê Thị Tuyết Hoa (2005), đề tài “Quyền công tố ở Việt Nam” đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về vấn đề quyền công tố ở một số nước trên thế giới và quyền công tố trong tố tụng hình sự ở Việt Nam, liên quan chủ yếu đến chủ thể thực hành quyền công tố là VKS trong mối quan hệ với CQĐT và tòa án [48]. Luận án tiến sĩ luật học của Đào Hữu Dân với đề tài “Mối quan hệ giữa cơ quan cảnh sát điều tra với viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”; Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Sơn, với đề tài “Mối quan hệ giữa cơ quan
  • 14. 8 điều tra với viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Việt Nam” đã nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự, đưa ra một số đề xuất nhằm xây dựng cơ chế pháp lý về mối quan hệ giữa hai cơ quan này nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm [27, 97]. Luận án tiến sỹ luật học của Đỗ Thị Ngọc Tuyết (2004), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống cơ quan tòa án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, nghiên cứu, đề xuất những cải cách đối với hệ thống tòa án [107]. Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Tiến Châu (2008): “Chức năng xét xử trong TTHS Việt Nam”, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Tác giả luận án đã đi sâu nghiên cứu về chức năng của TTHS, từ đó nghiên cứu chức năng xét xử của TTHS gắn với chức năng của tòa án nhân dân và có nhiều kiến nghị liên quan đến việc hoàn thiện pháp luật và cơ chế đảm bảo chức năng xét xử của tòa án nhân dân [12]. Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Hải Ninh (2013) “Các yếu tố đảm bảo độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay” đã nghiên cứu sâu về lịch sử hình thành tư tưởng “độc lập xét xử”, thực trạng và các giải pháp để tăng cường các yếu tố đảm bảo độc lập xét xử ở nước ta trong thời gian tới [66]. Một số đề tài khoa học cấp bộ đã được hoàn thành ở mức độ và khía cạnh khác nhau có nhiều nội dung nghiên cứu, đề xuất liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT, VKS, tòa án trong tố tụng hình sự như: Vũ Văn Mộc (Chủ nhiệm đề tài, Hà Nội/2008), Đề tài khoa học cấp bộ “Phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng và việc tăng quyền hạn, trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán theo yêu cầu cải cách tư pháp của VKSND tối cao”. Nội dung đề tài đi sâu nghiên cứu phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tố tụng của những người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng; sự ảnh
  • 15. 9 hưởng tiêu cực của thẩm quyền hành chính đối với thẩm quyền tố tụng trong việc đảm bảo tính độc lập và nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán trong hoạt động thực tiễn [58]. Một số cuộc hội thảo quốc tế có nội dung liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng đã được tổ chức trong thời gian vừa qua. VKSND tối cao, với sự giúp đỡ của Quỹ hợp tác quốc tế về pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức, Chương trình đối tác tư pháp do Liên minh Châu Âu tài trợ đã tổ chức các hội thảo: “Mô hình Luật tố tụng hình sự Việt Nam” tháng 12/2009; Hội thảo “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - Kinh nghiệm của CHLB Đức”, tổ chức ngày 9,10/6/2011; Hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới - kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, tổ chức ngày 15/11/2011; Hội thảo “Cải cách Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới- những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” tổ chức ngày 22/11/2011; Hội thảo “Một số định hướng cơ bản sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, tổ chức ngày 17/9/2012. Bên cạnh đó, Viện Nhà nước và Pháp luật đã phối hợp với Viện Kass, Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức “Hội thảo quốc tế về quyền công tố” ngày 27-28/4/2011; Ủy ban Tư pháp Quốc hội đã tổ chức hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” ngày 23/4/2012. Các hội thảo này có sự tham gia của hầu hết các nhà khoa học về Luật Tố tụng hình sự và các nhà hoạt động thực tiễn trong và ngoài nước. Các bài tham luận, phát biểu ý kiến trong các hội thảo khoa học nói trên chủ yếu trình bày dưới góc độ pháp luật so sánh về các mô hình TTHS trên thế giới và những yếu tố có thể tham khảo khi sửa đổi BLTTHS năm 2003, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến các chủ thể trong hoạt động TTHS. Một số sách chuyên khảo có nội dung liên quan đến Đề tài Luận án như: Đào Trí Úc (Chủ biên,1995), “Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự”, NXB Chính trị quốc gia; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (1994), “Đổi mới các cơ quan tư pháp, những vấn đề lý luận và thực tiễn”;
  • 16. 10 NXB Công an nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), “Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam”; Nguyễn Đăng Dung (2005), “Sự hạn chế quyền lực nhà nước”, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội; Lê Hữu Thể (chủ biên, 2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”; Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên, 2013), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Các sách tham khảo này đều có nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có CQĐT, VKS, tòa án. Ngoài ra, thời gian qua cũng có nhiều bài dịch giới thiệu về pháp luật nước ngoài để tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học đề cập đến các khía cạnh khác nhau có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng thuộc CQĐT, VKSND, TAND, trong đó có những nghiên cứu, đề xuất về hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể này ở tầm vĩ mô (như mô hình tố tụng), có những nghiên cứu đề xuất cụ thể liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền hoặc thủ tục liên quan đến thẩm quyền của một chủ thể nhất định. Cụ thể như: Tạp chí Luật học có một số bài viết: Nguyễn Đức Mai (2008), “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa”, số 7; Hoàng Thị Minh Sơn (2009), “Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyết định của tòa án trong chuẩn bị xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng”, số 7; Đào Trí Úc (2010), “Bàn về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, số 8; Vũ Gia Lâm (2010), “Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của viện kiểm sát và tòa án”, số 08; Bùi Kiên Điện (2011), “Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân”, số 08.
  • 17. 11 Tạp chí Khoa học pháp lý có các bài như: Nguyễn Thái Phúc (2007), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, số 18; Lương Thị Mỹ Quỳnh (2010), “Tìm hiểu mô hình tố tụng thẩm vấn và những kiến nghị hoàn thiện Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, số 6; Vũ Thị Kim Oanh, Nguyễn Ngọc Kiện (2010), “Thực tiễn áp dụng quy định về tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung”, số 3; Bùi Thế Vinh, Trần Vũ Tuân (2011), “Thủ trưởng cơ quan điều tra trong tố tụng hình sự Việt nam”, số 5; Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp (2012), “Mô hình lý luận của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, số 03. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật có các bài của: Nguyễn Thái Phúc (2009) “Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 2; Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến chức năng buộc tội”, số 8. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp có các bài của: Đào Trí Úc (2011), “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo hướng nào”, số 15; Nguyễn Thị Thủy (2009), “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp”, số 13; Nguyễn Quang Hiền (2009), “Các loại hình tố tụng hình sự và hướng áp dụng ở Việt Nam”, số 20; Trần Văn Độ, “Phân định thẩm quyền trong tố tụng hình sự Việt Nam”, (theo http://luatsuhanoi.vn). Tạp chí Tòa án nhân dân có các bài của: Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề về vai trò của tòa án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp”, số 1; Nguyễn Trương Tín (2009), “Một số vấn đề lý luận định hướng xây dựng mô hình tố tụng hình sự Việt Nam trong bối cảnh cải cách tư pháp”, số 15; Lê Cảm (2009), “Về mô hình tố tụng hình sự của nhà nước pháp quyền dân chủ Liên Bang Nga”, sè 24; Nguyễn Đức Mai (2009), “Đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự ở Việt Nam”, số
  • 18. 12 23; Đỗ Văn Chỉnh (2012), “Cần sửa đổi, bổ sung quy định về rút quyết định truy tố”, số 5; Trần Đình Nhã (2012), “Về Chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự”, số 21. Tạp chí Kiểm sát có các bài của: Trịnh Tiến Việt (2003), “Tranh tụng tại phiên tòa và những vấn đề đảm bảo việc tranh tụng”, số 6; Đinh Văn Quế (2004), “Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, số 5; Đinh Văn Quế (2004), “Người tiến hành tố tụng trong các cơ quan viện kiểm sát nhân dân và toà án nhân dân”, số 6; Mai Văn Lư (2006), “Một số vấn đề về thẩm quyền của viện trưởng, phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự”, số 9; Lê Cảm (2007), “Các mô hình lý luận về tổ chức viện công tố trong chiến lược cải cách tư pháp” số 14; Nguyễn Tất Viễn (2007), “Một số suy nghĩ về cơ quan công tố ở Việt Nam trong thời kỳ cải cách tư pháp”, số 14; Hoàng Nghĩa Mai (2007), “Một vài suy nghĩ về cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và Nhật Bản”, số 15; Phạm Hồng Hải (2008), “Vai trò, trách nhiệm của kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố nhìn dưới góc độ luật sư”, số 3; Nguyễn Ngọc Khánh (2008), “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra và xác định mối quan hệ giữa công tố với điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” số 18-20; Mai Văn Lư (2009), “Tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra và tăng thẩm quyền cho điều tra viên, kiểm sát viên trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 05; Vũ Văn Mộc (2009), “Về việc tăng quyền hạn và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên trong tố tụng hình sự”, số 10; Vũ Văn Mộc (2009), “Một số ý kiến về tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với hoạt động điều tra”, số 16; Đinh Xuân Thảo (2009), “Những vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự”, số 16; Nguyễn Khắc Quang (2010), “Vai trò, thẩm quyền của một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
  • 19. 13 động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn Đức Mai (2010), “Vai trò, thẩm quyền của tòa án trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, số 20; Nguyễn Minh Đức (2010), “Địa vị pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”, số 20; Nguyễn Tiến Sơn (2010), “Phân định trách nhiệm giữa cơ quan điều tra và viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, số 20; Khổng Ngọc Sơn (2010), “Bàn về vị trí pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra Công an nhân dân trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, số 21; Trần Văn Độ (2010), “Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, số 20; Đào Trí Úc (2012), “Xác định tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm”, số 21; Đỗ Văn Đương (2012), “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp và sửa đổi, bổ sung chế định về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự”, số 21; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Mô hình tố tụng hình sự và vấn đề xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong tố tụng hình sự”, số 09; Nguyễn Thị Thủy (2012), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự nhằm thực hiện chủ trương của Đảng “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế gắn công tố với điều tra”, số 21; Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm quyền điều tra”, số Xuân/2013… Tạp chí Khoa học Kiểm sát có các bài: Lê Văn Cảm (2014), “Mô hình lập pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vì quyền con người”, số 01; Trần Văn Độ (2014), “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề đặt ra đối với sửa đổi, bổ sung BLTTHS”, số 1. Nội dung các bài viết trên các tạp chí rất đa dạng, đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự như: chức năng của TTHS, mô hình tố tụng hình sự; bàn về vị trí, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự; bàn về những chủ trương lớn như: tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
  • 20. 14 điều tra, phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng; tăng thẩm quyền cho ĐTV, KSV, thẩm phán...theo yêu cầu cải cách tư pháp 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Các chủ thể tố tụng hình sự nói chung (trong đó có các chủ thể tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự nước ta hiện nay) đã được các nhà nghiên cứu về chính trị, pháp luật trên thế giới quan tâm từ lâu, dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện từ trước đến nay. Liên quan đến nội dung Đề tài này có một số tác phẩm, công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Montesquieu, “Tinh thần pháp luật”, NXB Giáo dục, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Khoa luật (bản dịch), Hà Nội 1996; Jean- Jacques Rousseau(bản dịch), “Bàn về khế ước xã hội”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1992; Bary M.Hager, “The Rule of Law” (bản tiếng Anh) xuất bản bởi: The Mansfield Center for Pacific Affairs; John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler (1996), Comparative Criminal Procedure, B.I.I.C.L, Bristain; NXB Chính trị quốc gia (1999), “Khái quát về chính quyền Mỹ” (An outline of American Government của Richard. Shroeder); Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ tư pháp (1999), “Tư pháp hình sự so sánh” của Philip.L.Reichel, (tài liệu dịch); Nancy Hollander (2000), “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” trong sách “Một số khuyến nghị về xây dựng Bộ luật TTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam”. Các tác phẩm, công trình này nghiên cứu, so sánh về những vấn đề cốt lõi của tư pháp hình sự, trong đó có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể tố tụng hình sự như cảnh sát, công tố và tòa án trong các mô hình tố tụng, truyền thống pháp luật trên thế giới. Một số công trình nghiên cứu khác được thực hiện trong thời gian gần đây đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ của Tony Paul Marguery (2008) “The Unity and Diversity of Public Prosecution Service in Europe” (PhD thesis,
  • 21. 15 The University of Groningggen)[160] là công trình nghiên cứu về sự thống nhất và đa dạng của các cơ quan công tố tại châu Âu, gồm các nước Pháp, Hà Lan, Ba Lan và Cộng hòa Séc; Dr Despina Kyprianou (2008) “Comparative Analysis of Prosecution System (Part II): The Role of Prosecution Services in Investigation and Prosecuion Principles and Policies, Cyprus and European Law Review”, nội dung nghiên cứu về vai trò của cơ quan công tố trong hoạt động điều tra, những nguyên tắc và chính sách công tố trong hoạt động điều tra tại nhóm các quốc gia theo truyền thống luật án lệ và nhóm các quốc gia theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa.”; Jorg – Martin Jehle (2005) “The Funtion of Public Prosecution from a Eruopean Comparative Perspective – How International Research can contribute to the development of criminal justice” – Báo cáo tham luận tại Hội nghị UNDP-POGAR tại Cairo ngày 17-18/5 năm 2005, nội dung nghiên cứu về chức năng của cơ quan công tố từ góc nhìn so sánh tại châu Âu – các nghiên cứu quốc tế có thể đóng góp cho sự phát triển tư pháp hình sự như thế nào; P.J.P. TAK (2008), “The Dutch criminal justice system”, Wolf Legal Publishers, The Netherlands, nội dung nghiên cứu về hệ thống tố tụng hình sự Hà Lan; The Committee of Ministers – The Council of Europe (2000), Recommendation Rec (2000) 19 of the Commitee of Ministers to member states on the role of public prosecution in the criminal justice system (Khuyến nghị về vai trò của cơ quan công tố trong hệ thống tư pháp hình sự của Ủy ban Bộ trưởng – Hội đồng châu Âu). Các báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoat động của hệ thống tư pháp tại 5 nước được lựa chọn là Trung Quốc, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên bang Nga, thực hiện cho Chương trình phát triển của Liên hiệp quốc tại Việt Nam cung cấp được nhiều thông tin cơ bản về thực trạng và vấn đề cải cách tư pháp ở mỗi quốc gia được nghiên cứu gồm: Byung Sun Cho, Tom Ginsburg (2010): “Republic of Korea Final Report”; Simon Butt (2010): “Indonesia Final Report”; Vivienne, Sarah Biddulph (2010): “China Final Report”; William E Buttler (2010): “Russian Federation Final Report”; Luke Nottage, Kent Anderson, Makoto Ibusuki, David Johnson: “Japan Final Report”.
  • 22. 16 Một số công trình có nội dung nghiên cứu sâu về mối quan hệ giữa công tố và cảnh sát một số nước như: Báo cáo thảo luận nhóm tại Hội nghị quan chức cấp cao lần thứ 120 của Viện Phòng ngừa và Xử lý tội phạm tại khu vực Châu Á và Viễn Đông của Liên Hiệp quốc: UNAFEI (1997): The Relationship of the Prosecution with the Police and Investigative Responsibility (Group Discussion Report at the 107th UNAFEI International Training Course); Báo cáo thảo luận nhóm: UNAFEI (2002) Cooperation between the Police and the Prosecutors (Group Discussion Report at the 120th UNAFEI International Senior Seminar). Trong hội thảo “Mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới – Kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, một số nhà khoa học nước ngoài tham luận giới thiệu mô hình tố tụng hình sự một số nước thuộc các truyền thống pháp luật khác nhau như Richart S.Shine, giáo sư luật Mỹ:“Mô hình tố tụng hình sự của Hoa Kỳ”; Marco Fabri thuộc Viện nghiên cứu các Hệ thống tư pháp (IRSIG-CNR), Hội đồng nghiên cứu Ytaly: “Mô hình tố tụng hình sự của Ytalia”; Francois Touret de Coucy, công tố viên cao cấp và Jean – Philippe Rivaud, công tố viên cao cấp, cựu thẩm phán Pháp: “Hệ thống tư pháp hình sự Pháp”; William Burnham, giáo sư luật học: “Hệ thống tố tụng hình sự Nga”; Liling Yue, Đại học Khoa học chính trị và Pháp luật Trung Quốc: “Mô hình tố tụng hình sự Trung Quốc”; Byung –Sun Cho – giáo sư luật Hàn Quốc: “Khái quát về hệ thống tư pháp hình sự Nhật Bản”, “Tổng quan về hệ thống xét xử hình sự ở Hàn Quốc”. Các nghiên cứu trên đã cung cấp nhiều thông tin thiết thực có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan điều tra (cảnh sát), công tố/viện kiểm sát và tòa án trong tố tụng hình sự các nước được nghiên cứu[144]. Hội thảo quốc tế “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” được VKSND tối cao tổ chức tại Hà Nội ngày 08/7/2013 có tham luận của các chuyên gia đến từ Úc là ông Hon James Wood, Chủ tịch Ủy ban Cải cách pháp luật bang New South Wales và bà
  • 23. 17 Kara Shead, công tố viên cao cấp Viện Công tố New South Wales. Trong các tham luận của mình, tác giả đã cung cấp những thông tin có giá trị tham khảo liên quan đến vai trò, vị trí của các chủ thể tố tụng tại New South Wales, Úc. Nhìn chung, các tác giả nước ngoài đã có một phương pháp luận rất khoa học khi nghiên cứu về pháp luật TTHS của các nước trên thế giới với cả những ưu điểm và hạn chế của nó. Ví dụ, học giả Mỹ là Philip.L.Reichel thông qua nghiên cứu vai trò của các chủ thể và trình tự thủ tục được áp dụng trong luật TTHS để trả lời các câu hỏi, qua đó xác định mô hình tố tụng: Ai đóng vai trò người buộc tội? (nếu câu trả lời là vai trò buộc tội chuyển từ cá nhân sang nhà nước trong tiến trình tiếp tục sự trả thù cá nhân thì thuộc hệ tranh tụng; nếu nhà nước đổi chç cá nhân để buộc tội trong sự thay thế phát triển việc trả thù cá nhân thì thuộc hệ thẩm vấn); bằng cách nào để xác định được sự thật của vụ án? (nếu từ cạnh tranh giữa hai phía đối lập mà thời điểm mấu chốt là phiên toà xét xử thì đó là thuộc hệ tranh tụng; nếu từ sự tiếp tục điều tra mà thời điểm mấu chốt là thẩm tra tại toà thì đó là thuộc hệ thống thẩm vấn); quyền lực thuộc về ai? (nếu được chia sẻ giữa công tố viên, luật sư bào chữa, thẩm phán và bồi thẩm đoàn nên thẩm phán chỉ giữ vai trò trọng tài, thì thuộc hệ thống tranh tụng; nếu tập trung vào thẩm phán nên tác động của thẩm phán hướng vào vai trò của ĐTV thì thuộc hệ thẩm vấn; mức độ mong đợi về sự hợp tác của bị cáo? (không bị yêu cầu hay mong đợi hợp tác với CQĐT và toà án thì thuộc hệ thống tranh tụng; nếu được mong đợi, không bị yêu cầu hợp tác với CQĐT, toà án thì đó là hệ thống thẩm vấn) [149]. Ở Liên Xô trước đây, Viện sỹ hàn lâm M.X. Strogovich cũng đã mô hình hóa để nghiên cứu. Theo M.X. Strogovich thì tranh tụng bao gồm các yếu tố sau đây: a) Việc buộc tội tách khỏi toà án; b) Địa vị tố tụng của công tố viên và bị cáo là các bên tham gia tố tụng; c) Các bên có quyền tố tụng bình đẳng; d) Toà án có vị trí độc lập, tích cực trong mối quan hệ với các bên [63, tr 149-150]. Các nghiên cứu nói trên cũng đề cập sâu đến các chủ thể tố tụng hình sự trong tố tụng hình sự của các nước trên thế giới theo các truyền thống pháp
  • 24. 18 luật khác nhau và chúng ta có thể tham khảo trong việc hoàn thiện quy định về các chủ thể tố tụng hình sự nói chung và các chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng ở nước ta. Ông Nancy Hollander, giáo sư luật Trường Đại học tổng hợp New Mexico trong bài viết: “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” đã đưa ra khuyến nghị rằng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có sự khác nhau về lịch sử, triết học, chính trị và hệ thống pháp luật, tuy nhiên Bộ luật Tố tụng hình sự cũng cần hướng đến một số giá trị chung có tính toàn cầu như nguyên tắc pháp quyền, vấn đề tội phạm trong xã hội và quyết tâm bảo vệ các quyền của mọi công dân[142]. 1.1.3. Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến Đề tài Luận án Có thể khái quát về kết quả nghiên cứu liên quan đến Đề tài Luận án đã được công bố theo các nhóm vấn đề như sau: Thứ nhất: Về việc lựa chọn mô hình tố tụng hình sự (liên quan đến vai trò, chức năng của các chủ thể tố tụng hình sự) Tiếp cận dưới góc độ “chức năng của tố tụng hình sự” và “mô hình tố tụng hình sự” có tác giả cho rằng mô hình TTHS của Việt Nam hiện nay theo tố tụng thẩm vấn là chính, có ưu điểm tạo thế chủ động cho cơ quan bảo vệ pháp luật (chủ thể tiến hành tố tụng hình sự) kịp thời phát hiện và xử lý tội phạm một cách nhanh chóng, đặt lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể lên trên lợi ích các cá nhân công dân. Nhưng mô hình hiện nay có những nhược điểm cơ bản là: Quyền và lợi ích của công dân dễ bị xâm phạm. Quan điểm này đề xuất tiến tới xây dựng mô hình TTHS Việt Nam theo kiểu tranh tụng, các chủ thể trong hoạt động tố tụng hình sự theo chức năng tố tụng của mình (buộc tội, gỡ tội và xét xử), không phân biệt là người tiến hành tố tụng hay tham gia tố tụng có vị thế bình đẳng trước Tòa án như các nước theo kiểu tranh tụng trên thế giới (Anh, Mỹ...) [45].
  • 25. 19 Quan điểm khác, cũng tiếp cận dưới góc độ “mô hình tố tụng” cho rằng: Việc hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam cần được thực hiện trên cơ sở nền tảng của mô hình tố tụng thẩm vấn hiện tại, các yếu tố tranh tụng chỉ nên được áp dụng ở mức độ giúp nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng chứ không nhằm làm thay đổi những yếu tố cốt lõi nhất của của mô hình tố tụng thẩm vấn. Bởi vì, mô hình tố tụng thẩm vấn chính là mô hình được áp dụng lâu đời nhất trên thế giới và hiện nay đang được áp dụng nhiều hơn, đang chứng tỏ tính hiệu quả của nó. Một lý do nữa là việc áp dụng mô hình TTHS nào vào Việt Nam trước tiên phải dựa vào điều kiện đặc thù của Việt Nam. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các chủ thể tố tụng nói chung và các chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng cơ bản không nên thay đổi lớn mà chỉ tìm cách điều chỉnh một cách phù hợp, bảo đảm cân bằng giữa các yếu tố thẩm vấn và tranh tụng[49]. Về vấn đề này trên cơ sở kết quả nghiên cứu Đề án “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, sau khi Bộ Chính trị cho ý kiến, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã có thông báo ý kiến bước đầu, theo đó, “Tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng đã được quy định trong BLTTHS hiện hành, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các yếu tố hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng. Đổi mới việc tổ chức phiên tòa, phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS”[5]. Vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu là việc cụ thể hóa quan điểm, tư tưởng nói trên như thế nào trong BLTTHS khi sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng. Thứ hai: Về việc xác định chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự Theo lý luận chung, TTHS có ba chức năng là buộc tội, gỡ tội và xét xử. Có ý kiến đánh giá trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc phân biệt ba chức năng tố tụng nói trên cho từng chủ thể tố tụng, nếu có thì đó cũng chỉ là sự phân biệt tương đối. Việc không phân biệt rõ ràng mục đích hoạt động của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ
  • 26. 20 thể và điều đó không tạo ra được động cơ, động lực thúc đẩy hiệu quả của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, của công dân. Vì vậy, hạn chế này cần được khắc phục [113, tr 26]. Có quan điểm đề xuất trong mô hình lập pháp về pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cần có một phần về “Những chủ thể tham gia TTHS”, trong đó có chương riêng về tòa án với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng thuộc tòa án; có chương riêng về những chủ thể của bên buộc tội, trong đó CQĐT, VKS với tư cách là các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng trong các cơ quan này; người bị hại, tư tố viên, nguyên đơn dân sự và đại diện của những người này trong TTHS; có chương riêng về những chủ thể của bên bào chữa (gỡ tội) trong TTHS và một chương riêng về những chủ thể khác tham gia TTHS [16, tr 18]. Đồng ý với quan điểm trên, một số ý kiến đề nghị cần loại bỏ các thẩm quyền không phù hợp với chức năng tố tụng của các chủ thể, nhất là một số thẩm quyền của tòa án hiện nay (như thẩm quyền khởi tố vụ án, xét xử quá giới hạn truy tố), đưa các chủ thể về đúng vai trò, vị trí tố tụng của mình; tạo lập cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa; quy định quyền và cơ chế thực hiện đầy đủ quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS, tạo điều kiện về pháp lý và thực tiễn để bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm tội, giảm nhẹ hình phạt; cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để đảm bảo tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội [5,tr 38;100, tr 167,168]. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương cũng cho rằng cần “xác định rõ vị trí, vai trò, tạo lập cơ chế bảo đảm bình đẳng về mặt pháp lý giữa các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng; tăng cường vai trò luật sư; nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa xét xử; mở rộng và phát huy dân chủ, tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động tố tụng; có biện pháp ngăn
  • 27. 21 chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng”[5]. Một số vấn đề còn có các ý kiến còn khác nhau cần tiếp tục nghiên cứu là: Cần quy định vị pháp lý của các chủ thể tiến hành tố tụng theo chức năng tố tụng hay vẫn quy định như hiện nay; vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ tố tụng giữa CQĐT và VKSND; việc áp dụng nguyên tắc lựa chọn truy tố; việc tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung; vấn đề giám sát VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ [4]. Ngoài ra, những vấn đề đã được nghiên cứu nói trên cũng đang dừng lại ở định hướng chung, từ định hướng chung ấy đến quy định của BLTTHS còn cần tới một quá trình nghiên cứu với những đề xuất cụ thể. Thứ ba: Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT, của cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người tiến hành tố tụng trong các cơ quan này. Cơ quan điều tra theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam có vai trò rất quan trọng đối với việc quyết định truy tố của VKS và việc xét xử của tòa án. Chức năng của CQĐT là điều tra tội phạm. Những vấn đề đang có quan điểm khác nhau liên quan đến CQĐT là: Có quan điểm cho rằng CQĐT cần thuộc về viện công tố “Để có một lời buộc tội chính xác đồng thời phải nhanh chóng với mục đích không làm oan người vô tội, thì các cơ quan điều tra phải trực thuộc trực tiếp viện công tố - cơ quan buộc tội. Hay nói một cách khác các cơ quan điều tra tội phạm phải trực thuộc viện kiểm sát”[40, tr 649]. Có ý kiến đề xuất thành lập viện công tố có chức năng chỉ đạo điều tra, theo đó không nên thành lập CQĐT thuộc VKSND tối cao[36]. Việc xác định phạm vi thực hiện chức năng của CQĐT thuộc VKSND tối cao tại Điều 110 BLTTHS (điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ cơ quan tư pháp) hiểu như thế nào cho đúng, có cần được mở rộng hay không còn có các ý kiến khác nhau[9]. Việc tổ chức CQĐT trong VKSND có dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” hay không,
  • 28. 22 việc đặt CQĐT trong các lực lượng vũ trang (Công an, Quân đội) với cơ chế “mệnh lệnh - chấp hành” giữa chỉ huy và cấp dưới có ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động tố tụng hay không cũng là vấn đề đang được bàn luận [33, tr 36; 42, tr 23]. Bên cạnh đó, việc kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng như thế nào cho phù hợp cũng là vấn đề đang được đặt ra nghiên cứu[96, tr 34]. Về các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra như hải quan, kiểm lâm, bộ đội biên phòng…có nên thu hẹp số lượng và chức năng của họ hay ngược lại cần mở rộng hơn theo kinh nghiệm của nhiều nước cũng là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau[66, tr 20]. Có quan điểm ủng hộ việc mở rộng diện cơ quan khác có thẩm quyền điều tra ban đầu như cơ quan thanh tra chuyên ngành, cảnh sát giao thông, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, lực lượng kiểm ngư…và trao thẩm quyền TTHS cho một số cơ quan khác tiến hành một số hoạt động điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS truy tố đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn trong hạn không quá 30 ngày [145, tr 1]. Quan điểm khác cho rằng không những không nên mở rộng diện cơ quan và thẩm quyền TTHS của các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS hiện hành mà nên sửa đổi BLTTHS theo hướng “bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của lực lượng hải quan, kiểm lâm; khi thực hiện nhiệm vụ được giao, nếu phát hiện các vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan này chỉ tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh ban đầu, thông báo và chuyển cho cơ quan điều tra chuyên trách”[36]. Cũng có quan điểm đề xuất “Giữ nguyên quyền hạn điều tra của cơ quan hải quan, cơ quan kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển. Bỏ quyền hạn tiến hành một số hoạt động điều tra của bộ đội biên phòng, của cơ quan khác thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân”[79, tr 11]. Đối với vai trò của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT, ĐTV trong CQĐT và người có thẩm quyền thuộc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
  • 29. 23 một số hoạt động điều tra có các ý kiến đặt ra sau đây: Không nên xác định CQĐT là “cơ quan tiến hành tố tụng” vì quyền năng tố tụng của cơ quan này đã quy định hết cho thủ trưởng, phó thủ trưởng và ĐTV; không nên có chức danh phó thủ trưởng CQĐT vì cấp phó chỉ là người thay mặt cấp trưởng và không cần thiết phải có quyền và nghĩa vụ riêng; khi tiến hành tố tụng, cấp phó nên lấy danh nghĩa là ĐTV; cần quy định người đứng đầu cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành hoạt động điều tra là chủ thể điều tra tố tụng; ĐTV phải có vai trò độc lập và phải có thẩm quyền lớn hơn; cần tách bạch thẩm quyền quản lý hành chính của thủ trưởng, phó thủ trưởng CQĐT và thẩm quyền tố tụng của ĐTV[145, tr 1; 36]. Đây là những ý kiến gợi mở vấn đề, cần được tiếp tục nghiên cứu. Như vậy, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQĐT, của cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và người tiến hành tố tụng trong CQĐT còn có nhiều ý kiến khác nhau, cần được tiếp tục nghiên cứu. Thứ tư: Về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKSND và của người tiến hành tố tụng trong VKSND Về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong TTHS, Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị có đặt vấn đề “nghiên cứu việc chuyển viện kiểm sát thành viện công tố”. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu đến nay đã có sự khẳng định: VKSND vẫn thực hiện hai chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (trong TTHS là kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án hình sự) và đây là quan điểm đã được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng[6, 32]. Hiến pháp năm 2013 cũng đã thể hiện theo quan điểm này. Có ý kiến đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu xử lý mối quan hệ giữa “chức năng kiểm sát xét xử và yêu cầu bảo đảm sự độc lập của hoạt động xét xử: Đây là vấn đề liên quan đến các nguyên tắc Hiến định về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân. Vì vậy, khi sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan cần quy định chặt chẽ phạm vi nhiệm vụ, quyền
  • 30. 24 hạn và hình thức kiểm sát của viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp, nhằm đảm bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân”[6]. Cũng có quan điểm cho rằng, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS chỉ nên tập trung làm tốt nhiệm vụ “kiểm sát điều tra”, không nên có thẩm quyền điều tra vì VKS vừa tiến hành điều tra, vừa kiểm sát điều tra là không khách quan, mất đi quan hệ chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp[33, tr 36]. Quan điểm khác cho rằng cần giao cho KSV quyền năng không kém hơn quyền năng của thủ trưởng CQĐT. Kiểm sát viên vừa có quyền tự mình tiến hành điều tra, được sử dụng mọi thẩm quyền điều tra mà pháp luật TTHS trao cho thủ trưởng CQĐT và ĐTV. Kiểm sát viên - công tố viên là chủ thể hàng đầu trong giai đoạn điều tra và là chủ thể điều phối, chỉ đạo điều tra. Mạnh dạn hơn, quan điểm này còn đề xuất nên thành lập các viện công tố thuộc VKSND, nhân vật trung tâm trong viện công tố là các công tố viên và chính viện công tố cùng các công tố viên sẽ là người điều hòa, tập trung và chỉ đạo điều tra[65]. Có quan điểm đề xuất giữ nguyên quy định của BLTTHS hiện nay, theo đó VKS/KSV chỉ trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong vụ án do CQĐT tiến hành điều tra khi xét thấy cần thiết mà không phải là tiến hành điều tra đầy đủ đối với vụ án hình sự [52, tr 57]. Ngoài ra, một vấn đề rất quan trọng đang được đặt ra để nghiên cứu, thể chế hóa trong TTHS là xác định mối quan hệ tố tụng giữa chức năng điều tra của CQĐT và chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS, cơ chế nào để thực hiện “tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra” theo chủ trương cải cách tư pháp đã được thể hiện trong các nghị quyết của Đảng[32]. Về phân định thẩm quyền của các chức danh tố tụng trong VKSND (viện trưởng, phó viện trưởng, kiểm sát viên). Có nghiên cứu đề xuất theo hướng cần tăng quyền hạn, trách nhiệm của KSV; viện trưởng, phó viện trưởng VKS chỉ nên có nhiệm vụ tổ chức hoạt động công tố bằng cách phân công, thay đổi KSV; kiểm tra hoạt động tố tụng của những người được phân công; huỷ bỏ
  • 31. 25 hay thay đổi các quyết định tố tụng của cấp dưới và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Còn các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền tố tụng trong giải quyết vụ án cụ thể thì nên quy định cho người tiến hành tố tụng trực tiếp là KSV[36, tr 41]. Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, mức độ phân quyền đến đâu cũng còn phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ và thể chế hóa trong quá trình hoàn thiện Luật TTHS nước ta. Những vấn đề được đặt ra, những khác biệt trong quan điểm về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của VKS và người tiến hành tố tụng trong VKS như đã nêu trên cần được tiếp tục nghiên cứu. Thứ năm: Đối với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của của tòa án và người tiến hành tố tụng trong tòa án Có quan điểm cho rằng, theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì ngoài chức năng chính là xét xử, tòa án còn có chức năng buộc tội, chức năng thi hành án, phòng ngừa tội phạm. Quan điểm khác cho rằng tòa án chỉ có chức năng xét xử. Quan điểm này dựa trên cơ sở nguyên tắc cơ bản là chức năng xét xử phải độc lập với chức năng buộc tội, chức năng gỡ tội. Giữa các cơ quan thực hiện chức năng nói trên phải có mối quan hệ chế ước, kiểm tra, giám sát lẫn nhau[35, tr 23]. Để bảo đảm thực hiện đúng chức năng xét xử, tòa án phải được thoát khỏi vai trò theo đuổi mục đích đi tìm sự thật khách quan của vụ án để rồi đóng luôn vai trò của phía buộc tội. Một chủ thể chỉ thực hiện một chức năng tố tụng. Tòa án trong tố tụng tranh tụng chỉ xét xử trong phạm vi và mức độ buộc tội. Để đóng vai trò là khâu trung tâm, việc xét xử của tòa án phải thực sự tạo ra sự tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm, chứng cứ của các bên buộc tội và gỡ tội[114]. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa chức năng xét xử của TAND như thế nào trong quá trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật TTHS nước ta vẫn là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu làm rõ khi hoàn thiện các điều luật cụ thể trong BLTTHS, sao cho phù hợp, khả thi ở nước ta cả về mặt lý luận và thực tiễn.
  • 32. 26 Về việc phân định quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong tòa án (tương tự như trong CQĐT, VKS) là một nội dung đặt ra trong Chiến lược cải cách tư pháp và cũng được nhiều người quan tâm nghiên cứu[41, tr 58]. Chủ trương này đã được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và qua nghiên cứu đã có sự đồng thuận là cần tăng quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trực tiếp là thẩm phán. Tuy nhiên tăng thẩm quyền cho thẩm phán đến mức nào, có nên trao đầy đủ các thẩm quyền tố tụng cho các chức danh này hay chỉ giao ở chừng mực nhất định phù hợp với khả năng quyết định của họ cũng chưa được nghiên cứu đầy đủ. Vì những lẽ trên, vấn đề chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của tòa án và người tiến hành tố tụng thuộc tòa án vẫn cần được nghiên cứu, làm rõ thêm. Ngoài ra, trong quan hệ với các chủ thể tiến hành tố tụng có các chủ thể tham gia tố tụng (vì liên quan chặt chẽ đến trách nhiệm của người tiến hành tố tụng) phần lớn các nghiên cứu đều có quan điểm chung là cần mở rộng hơn nữa tính dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong TTHS. Vì vậy, những vấn đề này cần tiếp tục nghiên cứu đề xuất việc cụ thể hóa trong lần sửa đổi BLTTHS năm 2003 sắp tới, xử lý một cách khoa học hơn mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng (xem xét lại cách quy định trong BLTTHS hiện hành). Nhìn chung, từ nhiều năm nay, vấn đề đổi mới các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành TTHS để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp luôn được các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn quan tâm, bởi đây là vấn đề có tính cốt lõi trong toàn bộ nội dung đổi mới Luật TTHS nước ta. Các nghiên cứu nói trên đã có đóng góp quan trọng trong việc làm rõ thêm những vấn đề liên quan đến các chủ thể tiến hành TTHS. Mặc dù vậy, liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam còn rất nhiều vấn đề còn có ý kiến khác nhau hoặc mới chỉ được đề cập mang tính gợi mở cần được tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện hơn trong Luận án này.
  • 33. 27 1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài Luận án Mục tiêu của Đề tài Luận án là tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống để làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, có những kiến nghị, đề xuất cụ thể về những vấn đề đang còn có ý kiến khác nhau hoặc chưa được nghiên cứu đã được trình bày ở phần trên đây, nhằm góp phần hoàn thiện quy định về các chủ thể tiến hành tố tụng nói riêng và các chủ thể trong hoạt động tố tụng nói chung của Luật TTHS Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến Đề tài Luận án như đã trình bày trên đây, những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra cho Luận án là: * Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các chủ thể tố tụng hình sự nói chung và các chủ thể tiến hành tố tụng theo Luật Tố tụng hình sự ở nước ta nói riêng. Từ đó, góp phần luận giải và đề xuất hướng giải quyết những vấn đề còn chưa được nghiên cứu hoặc chưa thống nhất về mặt lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự ở nước ta. * Nghiên cứu quy định của pháp luật TTHS hiện hành ở nước ta về cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, đánh giá đầy đủ những ưu điểm và nhất là những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng cần được xem xét đề xuất đổi, bổ sung. * Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự ở nước ta, Luận án đề xuất cụ thể phương hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về các chủ thể tố tụng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới. 1.3. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu Đề tài Luận án là các phương pháp luận của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước, các quan điểm của Đảng ta về nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
  • 34. 28 Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện Đề tài Luận án này là các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài như: phương pháp tổng hợp, hệ thống, phân tích, so sánh, lịch sử cụ thể để làm rõ những vấn đề lý luận về các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như những vướng mắc, bất cập của các quy định liên quan đến các chủ thể tiến hành tố tụng trong pháp luật thực định. Phương pháp mô hình hóa cũng được áp dụng trong quá trình nghiên cứu về pháp luật tố tụng hình sự của các nước. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện Đề tài Luận án, tác giả còn tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn, khảo sát thực tiễn hoạt động tố tụng thuộc CQĐT, VKS, toà án các cấp và có nhiều vấn đề được rút ra từ hoạt động thực tiễn của bản thân trong lĩnh vực TTHS.
  • 35. 29 Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC CHỦ THỂ TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Các chủ thể trong tố tụng hình sự Từ khi xuất hiện loài người thì cũng phát sinh những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn trong xã hội với tính chất, mức độ khác nhau cần được giải quyết. Xã hội phát triển đến một trình độ nhất định, nhà nước ra đời với bản chất là bộ máy của giai cấp thống trị để quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp và chống lại những hành vi xâm phạm đến các quy định (pháp luật) do nhà nước đặt ra. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, nhà vua ban hành luật lệ, chỉ đạo việc thực hiện và có quyền xét xử tối cao. Về cơ bản, trong các chế độ này hành vi nào bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt là do nhà vua quy định. Khi có hành vi phạm tội xảy ra, nhà vua có thể giao cho các chức quan điều tra, xét xử nhưng vua là người có quyền phán quyết cao nhất. Nhà vua nắm trọn các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và ngay trong lĩnh vực tư pháp hình sự thì nhà vua cũng có thể nắm trọn cả quyền điều tra, truy tố, xét xử. Montesquie, một nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp đã viết: “Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quí tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các tranh chấp giữa các tư nhân” [17, tr 85]. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng nhận xét “Cơ quan cầm quyền vừa là kẻ thi hành luật, vừa cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ”[13, tr 87]. Các cuộc cách mạng tư sản vào các thế kỷ thứ 17, 18, với những tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ (tiêu biểu như Montesquie, Jean-Jacques Rousseau, Immanuil Kant…) ở các nước phương Tây đã từng bước xoá bỏ chế độ phong kiến, lập nên các nhà nước tư sản theo thuyết “tam quyền phân
  • 36. 30 lập” là một bước tiến lớn trong tổ chức bộ máy nhà nước, tiêu biểu như Pháp, Anh, Mỹ, Hà Lan…Nhà nước tư sản đã tổ chức các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thành ba nhánh quyền lực khác nhau, do các cơ quan khác nhau đảm nhận bao gồm cơ quan lập pháp (quốc hội), cơ quan hành pháp (chính phủ) và cơ quan tư pháp (toà án). Cùng với các cuộc xâm chiếm thuộc địa, phân chia thị trường, tài nguyên của giai cấp tư sản ở các nước tư bản, cũng như bản thân mô hình tổ chức nhà nước của các nhà nước tư sản với sự tiến bộ của nó so với mô hình tổ chức nhà nước phong kiến đã có sức lan tỏa mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Những nước trước đó là chế độ phong kiến điển hình như Trung Quốc, Việt Nam…sau khi thực hiện thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ cũng đã từ bỏ chế độ phong kiến và tổ chức nhà nước kiểu mới dựa trên sự kế thừa những giá trị dân chủ của các nhà nước dân chủ tư sản. Ngày nay, hầu như các nước trên thế giới đã tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng xác định rõ các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp là những cơ quan khác nhau. Trong tư pháp hình sự, việc điều tra, truy tố, xét xử được giao cho các cơ quan khác nhau. Mô hình tổ chức các nhà nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô cũ, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba… cũng là một bước phát triển trên cơ sở kế thừa những giá trị dân chủ, tiến bộ của các nhà nước tư sản. Tuy nhiên, dù trong cùng một kiểu nhà nước (nhà nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa) thì tổ chức để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của mỗi nước cũng không giống nhau do truyền thống văn hoá pháp luật và các điều kiện cụ thể về chính trị, xã hội của từng nước. Cùng với sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước diễn ra trong lịch sử phát triển của từng quốc gia, các cơ quan nhà nước được giao thực hiện quyền lực về tư pháp nói chung và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về TTHS (điều tra, truy tố, xét xử án hình sự) cũng phát triển theo những hướng không giống nhau. Trên thế giới, mỗi quốc gia có pháp luật TTHS riêng, thể
  • 37. 31 hiện quan niệm, truyền thống pháp luật, văn hoá và điều kiện kinh tế xã hội của từng nước. Truyền thống pháp luật nói chung có ảnh hưởng đậm nét trong các mô hình tổ chức và hoạt động của các chủ thể trong quan hệ pháp luật TTHS. Chẳng hạn truyền thống luật Châu Âu lục địa với việc chia ra luật công, luật tư đã ảnh hưởng đến sự nhấn mạnh yêu cầu kiểm soát tội phạm (tố tụng thẩm vấn) của các nước Pháp, Đức…còn truyền thống án lệ, hay còn gọi là thông luật như Anh, Mỹ đã ảnh hưởng đến sự nhấn mạnh yếu tố tố tụng công bằng trong hoạt động tố tụng. TTHS cũng chịu ảnh hưởng bởi thực tiễn chính trị, trình độ pháp luật. Barbara Huber viết “Criminal procedure reflects more than any other field of law, the polictical situation in a state and the basic ideas of law and order which dominate it. It has thus rightly been described as the “seismograph” of the constitution of the state”[152,p.113]. Tạm dịch: “Không một ngành luật nào phản ánh chính xác và thể hiện rõ nhất tình hình chính trị, tư tưởng cơ bản của pháp luật cũng như quyền lực chi phối trong một nhà nước như tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự được so sánh như máy đo địa chấn - seismograph đối với Hiến pháp của quốc gia”. Việc nghiên cứu về chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật TTHS có thể tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau: tiếp cận theo truyền thống pháp luật, theo quan hệ pháp luật hoặc tiếp cận theo chức năng tố tụng, tuy nhiên tiếp cận theo chức năng tố tụng có lẽ sẽ hợp lý hơn vì mỗi chức năng tố tụng sẽ do một hoặc một số chủ thể tố tụng đảm nhiệm và chức năng của mỗi chủ thể sẽ quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể đó. Trên cơ sở giải quyết mối quan hệ giữa các chức năng của TTHS đã hình thành nên các mô hình tố tụng khác nhau trên thế giới. Khái niệm về chức năng TTHS hiện vẫn còn những quan điểm khác nhau. Có người cho rằng chức năng của tố tụng hình sự là những định hướng các hoạt động của các chủ thể có các quyền tố tụng và là nghĩa vụ tố tụng. Chức năng TTHS là chức năng của từng chủ thể cụ thể khi tham gia vào quan
  • 38. 32 hệ pháp luật TTHS. Đồng tình với quan điểm này có ý kiến cho rằng: “Chức năng tố tụng là nghĩa vụ tố tụng chủ yếu của các chủ thể mà thông qua đó thể hiện bản chất tố tụng và quyết định vai trò của các chủ thể đó trong hoạt động tố tụng. Mỗi chủ thể chỉ thực hiện một chức năng vốn có của mình” [74, 44]. Theo GSTS Võ Khánh Vinh thì:“chức năng TTHS được hiểu là những phương hướng hoạt động được tiến hành trong phạm vi, giới hạn của việc giải quyết vụ án hình sự. Đó là chức năng điều tra, truy tố, bào chữa, xét xử. Ở dạng chung nhất, chức năng thứ nhất thuộc các CQĐT; chức năng thứ hai thuộc VKS; chức năng thứ ba thuộc bị can, bị cáo; chức năng thứ tư thuộc tòa án” [110,17]. M.A.Chenxốp cho rằng “chức năng TTHS đó là định hướng các hoạt động được các nhà làm luật đề ra buộc các cơ quan chức năng hay các cá nhân có thẩm quyền và có nghĩa vụ thực hiện”, còn theo M.X.Xtrôgôvích thì: “chức năng tố tụng được hiểu là những định hướng đặc biệt phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng khác nhau trong những phạm vi nhất định”[12, 12 -13]. Tác giả Nguyễn Tiến Châu cho rằng: “chức năng TTHS là những định hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi nhất định trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên tố tụng” [12, 13]. Như vậy, có thể hiểu chức năng TTHS là những định hướng cơ bản phân định các hoạt động tố tụng của các chủ thể khác nhau, có những mục đích khác nhau, có quyền và nghĩa vụ khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng hình sự là một lĩnh vực hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, để thực hiện một phương diện chức năng của nhà nước là chức năng bảo vệ, duy trì trật tự pháp luật chung, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích của người dân cũng như của nhà nước. Mục tiêu chung của TTHS là giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, khách quan, công bằng. Để đạt tới mục tiêu chung đó, TTHS được phân chia theo các phương diện hoạt động cơ bản, chủ yếu mang tính hệ thống, thống nhất nhằm thực hiện các chức năng chung của
  • 39. 33 TTHS. Mỗi chức năng cơ bản của TTHS được giao cho một hoặc một số chủ thể thực hiện. Mặc dù còn có ý kiến khác nhau về các chức năng cụ thể của TTHS (chẳng hạn hoạt động điều tra của CQĐT, hoạt động kiểm sát việc điều tra vụ án của VKS có được coi là những chức năng của TTHS hay không), nhưng đã có sự thống nhất chung là TTHS có ba chức năng cơ bản là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử [12,19]. Mỗi chức năng đảm nhận một phương diện hoạt động cơ bản của TTHS, có vị trí, vai trò khác nhau, có chủ thể thực hiện khác nhau và có sự độc lập với nhau. Tuy vậy, giữa các chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai chức năng còn lại. Có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa (gỡ tội) thì hoạt động tố tụng là hoạt động áp đặt quyền lực, ý chí và rất dễ dẫn đến oan sai. Chức năng bào chữa chỉ xuất hiện, tồn khi có sự tồn tại, hoạt động của chức năng buộc tội. Chức năng xét xử sẽ không còn khi không có chức năng buộc tội và sẽ không thể thực hiện được tốt khi chỉ có chức năng buộc tội mà không có chức năng bào chữa cùng hoạt động. Để hoạt động TTHS vận hành hiệu quả, giải quyết các vụ án hình sự kịp thời, đúng pháp luật, không xảy ra oan sai thì các chức năng của TTHS đều phải được coi trọng, không nên quá nhấn mạnh chức năng này mà xem nhẹ chức năng khác. V.Xavitxki khẳng định rằng: “cả ba chức năng mà chúng ta nói tới (buộc tội, bào chữa và xét xử) đều là chức năng cơ bản, cả ba chức năng này có mối liên hệ hài hòa và nhất quán, mỗi một chức năng mang tính tất yếu, tính quy luật và đều có sự hiện diện của hai chức năng kia, mỗi một chức năng được tồn tại và phát triển khi và chỉ khi hai chức năng còn lại tồn tại và phát triển” [12, 21]. Hiện nay, trong quá trình nghiên cứu sửa đổi BLTTHS năm 2003 cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật hiện đang tồn tại những xu hướng quan điểm trái ngược nhau. Xu hướng thứ nhất quá đề cao vai trò và vị trí của chức
  • 40. 34 năng buộc tội, quan tâm đến nhiệm vụ “kiểm soát tội phạm” của TTHS, chưa nhận thức đầy đủ vai trò của chức năng bào chữa trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Xu hướng ngược lại là quá đề cao vai trò và vị trí của chức năng bào chữa, xem việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân có ý nghĩa tuyệt đối, trong khi các lợi ích của xã hội chưa được quan tâm đúng mức, việc xử lý vụ án chỉ chú trọng đến việc “không làm oan người vô tội”. Giới nghiên cứu tư pháp hình sự so sánh đã khái quát lại từ việc nghiên cứu pháp luật TTHS của nhiều nước khác nhau và thấy rằng có các mô hình TTHS phổ biến là mô hình kiểm soát tội phạm (mô hình tố tụng thẩm vấn), mô hình tố tụng công bằng (mô hình tố tụng tranh tụng) và có một mô hình nữa có nhiều nét giao thoa giữa hai mô hình nói trên gọi là mô hình tố tụng kiểu pha trộn hay hỗn hợp. Cách phân chia trên cũng chỉ mang tính tương đối, ước lệ, chủ yếu dựa trên việc xử lý mối quan hệ giữa các chức năng của TTHS. Có quan điểm cho rằng “Mô hình TTHS là cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của TTHS, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động này sẽ quy định địa vị pháp lý của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng cũng như động lực của các chủ thể ấy khi thực hiện chức năng tố tụng được giao” [12, 37]. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng khái niệm “mô hình TTHS” là sản phẩm của quá trình tư duy trìu tượng mà các nhà nghiên cứu khái quát được từ nghiên cứu pháp luật TTHS của một quốc gia hoặc nhóm quốc gia có cùng những đặc trưng cơ bản, từ đó phân loại mô hình TTHS của quốc gia được nghiên cứu thuộc mô hình nào (mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng tranh tụng hay mô hình tố tụng pha trộn). Chính việc giải quyết mối quan hệ giữa các chức năng của TTHS khác nhau sẽ quy định địa vị pháp lý của các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng khác nhau và theo đó đã tạo nên những mô hình/kiểu tố tụng khác nhau đang tồn tại rất đa dạng trên thế giới hiện nay. Việc xác định rõ nội dung các chức năng và mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản nêu trên của TTHS là cơ sở để hoàn thiện quy định về chức năng,
  • 41. 35 nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể tố tụng khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS; khắc phục tình trạng một chủ thể thực hiện nhiều chức năng hoặc quá đề cao chức năng này, xem nhẹ chức năng khác làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả hoạt động TTHS. Đặc điểm của quan hệ pháp luật TTHS là tính phức tạp, đa chiều về lợi ích của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Các chủ thể thuộc nhóm buộc tội thường có xu hướng cố gắng tìm cách thức chứng minh người bị tình nghi, bị can, bị cáo đã phạm tội, phạm tội nặng hơn, phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng và phải chịu hình phạt; những thiệt hại của người bị hại phải được khôi phục, đền bù thỏa đáng. Ngược lại, nhóm chủ thể bị buộc tội thường có xu hướng tìm cách gỡ tội như chứng minh không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ... Các chủ thể khác có tính chất bổ trợ như người giám định, người làm chứng, người chứng kiến, người phiên dịch có xu hướng chung là hành động vô tư, khách quan; tuy nhiên sự vô tư, khách quan này bị phụ thuộc vào kiến thức, trình độ chuyên môn, trách nhiệm của từng cá nhân. Kết quả hoạt động của nhóm này có thể được cả bên buộc tội và bên bị buộc tội sử dụng làm chứng cứ. Chủ thể xét xử (tòa án) là đại diện cho công lý, trên cơ sở đã xem xét đầy đủ chứng cứ, lý lẽ của bên buộc tội, bên bị buộc tội để ra phán quyết công bằng, tuy nhiên việc ra được phán quyết (bản án) công bằng không phải lúc nào cũng dễ dàng vì bị phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Toàn bộ hoạt động của các nhóm chủ thể nói trên có tạo ra “công lý” cho người dân hay không phụ thuộc vào như sự đúng đắn, hợp lý trong các quy định của luật pháp hình sự và TTHS; năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án. Do vậy, pháp luật TTHS phải tạo ra được cơ chế để “kiểm soát” việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS, qua đó hạn chế oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm trong hoạt động TTHS.