Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, Đà Nẵng, cho các bạn làm luận văn tham khảo
20038
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - NĂM 2018
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THÙY TRANG
CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA TÒA ÁN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN
HÀ NỘI - NĂM 2018
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Nguyễn Thị Thùy Trang
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN.............................................. 7
1.1. Khái niệm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án ............... 7
1.2. Đặc điểm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án...............11
1.3. Các nguyên tắc khi thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án..............................................................................................................13
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA
ÁN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .....................................26
2.1. Các quy định của pháp luật về chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
của Tòa án .......................................................................................................26
2.2. Thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
tại địa bàn Quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng ..........................................................42
2.3. Hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân ......................................................48
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN TẠI
QUẬN SƠN TRÀ, TP. ĐÀ NẴNG...............................................................55
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật...................................................................55
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật...........................................57
3.3. Giải pháp thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận Sơn
Trà, TP. Đà Nẵng ............................................................................................61
KẾT LUẬN....................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
BLHS : Bộ luật hình sự
TAND : Tòa án nhân dân
TNHS : Trách nhiệm hình sự
XXST : Xét xử sơ thẩm
VAHS : Vụ án hình sự
VKS : Viện Kiểm sát
6. DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1. Những kết quả đạt được từ năm 2013 đến 2017 42
2.2.
Bảng thống kê kết quả xét xử vụ án sơ thẩm từ năm
2013 - 2017
44
2.3. Kết quả kháng cáo, kháng nghị từ năm 2013-2017 52
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thực trạng về vi phạm pháp luật ở nước ta
diễn ra khá nghiêm trọng và diễn biến rất phức tạp, có chiều hướng gia tăng
ảnh hưởng đến quá trình hội nhập toàn cầu của đất nước. Với tình hình trên
các cơ quan tiến hành tố tụng đã cố gắng rất nhiều trong công tác thực thi
pháp luật nên đã góp phần vào việc giữ vững an ninh - chính trị, an toàn xã
hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp còn chưa ngang tầm với yêu cầu
và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, vẫn còn bộc lộ nhiều điểm yếu
kém như bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân.
Quyền lực nhà nước là một hệ thống nhất, có sự phân công rõ ràng giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Trong đó Tòa án nhân dân là cơ quan tư pháp, Tòa án được hiến định
là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nơi biểu
hiện tập trung của quyền tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ
tài sản nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.
Hiến pháp 2013 đã ghi nhận rằng xét xử chính là chức năng duy nhất của
Tòa án, tuy nhiên việc thể chế hóa quyết định của Hiến pháp vẫn còn rất
nhiều bất cập, trong đó BLHS 2015 quy định Tòa án được thực hiện cả một
phần của chức năng buộc tội như có quyền khởi tố vụ án, trả hồ sơ yêu cầu
điều tra bổ sung nhiều lần kéo dài thời hạn xét xử, cũng như quá đi sâu vào
việc xét hỏi để chứng minh tội phạm của bị cáo nên chưa thực hiện tốt việc
tranh tụng tại phiên tòa. Do Tòa án đi sâu vào quá trình chứng minh tội phạm
nên vai trò buộc tội của VKS chưa thể hiện rõ nét, vai trò bào chữa của luật sư
8. 2
chưa thể hiện cao. Vì vậy chất lượng xét xử của Tòa án còn thấp, thậm chí có
trường hợp còn bị kết án oan người vô tội.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp với việc cải cách tư pháp, lấy Tòa
án làm trung tâm của tư pháp thì việc nghiên cứu làm rõ chức năng xét xử của
Tòa án nói chung và chức năng xét xử sơ thẩm nói riêng là rất chần thiết
Trước yêu cầu của thực tế, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong hoạt
động tố tụng hình sự tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội; đồng thời
góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận về chức năng xét xử của Tòa án và đưa
ra những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử của Tòa án
nên tác giả chọn đề tài: “Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Sơn Trà, Đà Nẵng”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những nghiên cứu liên quan đến chức năng xét xử của Tòa án trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã được nhiều tác giả trình baỳ trong các
công trình nghiên cứu khoa học ở những cấp độ khác nhau như: luận án tiến sĩ
luật học “ chức năng xét xử trong tố tụng hình sự “ của tác giả Lê Tiến Châu;
Bài viết “ Chức Năng của Tòa án trong Tố tụng hình sự trước yêu cầu cải
cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí – Khoa luật, Đại học quốc gia Hà
Nội; bài viết “ Tòa án là trung tâm.,xét xử là trọng tâm trong tố tụng hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp” của tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Huy
Phượng – Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 (5/2011). “Hoàn thiện pháp luật về
chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp” Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết, tạp chí Tòa án nhân dân
số 03/2011. “Bàn về giới hạn xét xử của Tòa án theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Duy Nam - Toà án quân sự Quân khu 4. ;
bài "Về tranh tụng tại phiên tòa hình sự" của tác giả Tống Anh Hào trong Tạp
9. 3
chí Tòa án nhân dân số 5/2003; bài "Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng
hình sự" đăng trong Tạp chí Kiểm sát, tháng 9/2003 của tác giả Trần Đại
Thắng; bài viết của nhiều tác giả trong Đặc san nghề luật số 5/2003 về chuyên
đề mở rộng tranh tụng; cuốn chuyên khảo "Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền" do TSKH Lê Cảm và TS.
Nguyễn Ngọc Chí đồng chủ biên, có nhiều bài viết của các tác giả (Nxb Đại
học quốc gia, 2004)... Nhưng những bài viết đó chỉ đề cập đến một số vấn đề
nhất định liên quan đến vấn đề chức năng xét xử của Tòa án và còn khá nhiều
ý kiến trái ngược nhau xung quanh ý tưởng đổi mới hoạt động xét xử của
ngành Tòa án Việt Nam, vẫn chưa làm rõ cơ sở lý luận về chức năng xét xử
của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời nghiên
cứu cơ sở khoa học của các quy định về chức năng của Tòa án sơ thẩm trong
xét xử các vụ án hình sự, đưa ra các ý kiến đóng góp xây dựng pháp luật cũng
như yêu cầu nhận thức của người tham gia tiến hành tố tụng. Đó chính là lý
do để tác giả tiếp tục nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhầm hướng tới đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như
nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xét xử sơ thẩm của Tòa án trên cơ
sở làm rõ lý luận và thực tiễn thực hiện chức năng của Tòa án quận Sơn Trà,
Tp Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích nghiên cứu của luận văn thì nhiệm vụ đặt
ra đối với luận văn đó là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến chức năng xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
- Nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2003 và 2015 liên quan
đến chức năng và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
10. 4
- Đánh giá thực trạng một cách toàn diện, khách quan bằng nhiệm vụ
nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Tòa án nhân dân cấp huyện mà cụ thể là tại Tòa án nhân dân quận Sơn Trà,
Tp Đà Nẵng.
- Trên cơ sở nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động
xét xử từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và năng
cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu các quan điểm, các vấn đề lý luận về hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự nói chung.
- Tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của bộ luật tố tụng hình sự
liên quan đến chức năng xét xử sơ thẩm của Tòa án về xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự.
- Nghiên cứu chất lượng các bản án hình sựu sơ thẩm của Tòa án nhân
dân quận Sơn Trà, xem xét nội dung, nguyên nhân các bản án hình sự sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị và kết quả xét xử ở cấp phúc thẩm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để Tòa án nhân dân cấp quận huyện đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ thẩm
là một chuỗi quá trình tiến hành tố tụng và phải trải qua nhiều quy trình pháp
lý khác nhau. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND quận huyện
tại TP Đà Nẵng nói chung và TAND quận Sơn Trà nói riêng hiện nay là một
đề tài tương đối rộng, chứa đựng nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực
tiễn, đòi hỏi cần phải nghiên cứu một cách khách quan khoa học. Do đó,
phạm vi nghiên cứu một cách khách quan khoa học, do đó phạm vi nghiên
cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của Bộ luật tố tụng
năm 2015 liên quan đến chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
11. 5
- Về không gian nghiên cứu tình hình xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn
quận Sơn trà, thành phố Đà Nẵng.
- Về thời gian thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS của Tòa án
nhân dân quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng từ năm 2012 đến 2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Phương pháp lý luận của luận văn là những thành tựu của các nhà khoa
học: triết học, luật tố tụng hình sự, luật hình sự…phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lê nin, tư thưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chính sách của Đảng về nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài luận văn, còn sử dụng trong một số tổng thể các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: hệ thống, lịch sử, loogis, tổng hợp, so
sánh, dự báo, kết hợp với phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để chọn
lọc trí thức khoa học, kinh nghiện thực tiễn trong áp dụng thủ tục xét xử của
Tòa án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần bổ sung một số lý luận cho khoa học luật tố tụng
hình sự về chức năng xét xử của Tòa án.
6.2. Ý ghĩa thực tiễn
Luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên
cứu học tập tìm hiểu về hoạt động xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những v ấn đề lý luận về chức năng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án.
Chương 2. Những vấn đề thực tiễn thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của tòa án từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố Đà Nẵng.
12. 6
Chương 3. Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của tòa án tại
Quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng.
13. 7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN
1.1. Khái niệm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
Trong Tố Tụng Hình Sự có nhiều chức năng, trong đó thì chức năng cơ
bản của Tố Tụng Hình Sự có tính chất tiêu biểu, đặc trưng cho hoạt động
TTHS những phương diện hoạt động chủ đạo, liên quan trực tiếp đến sự xuất
hiện, vận động và kết thúc hoạt động TTHS và mối liên kết giữa chúng với
nhau được điều chỉnh bởi những nguyên tắc hoặc quy định của luật. Chức
năng không cơ bản của TTHS là những phương diện hoạt động không tiêu
biểu cho hoạt động TTHS và không liên quan trực tiếp đến sự tồn tại hoặc
chấm dứt hoạt động TTHS nhưng cũng góp phần thực hiện nhiệm vụ chung
của TTHS. Ngoài ra các chức năng này tồn tại nhằm hỗ trợ cho các chức chức
năng cơ bản của TTHS. Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức
năng xét xử là ba chức năng cơ bản Trong TTHS.
Chức năng của TTHS là những phương diện (hay những dạng) hoạt
động TTHS do các chủ thể (hoặc nhóm chủ thể) khác nhau thực hiện theo quy
định của BLTTHS với nội dung, định hướng độc lập với nhau nhưng lại gắn
kết với nhau một cách hữu cơ nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS.[22;
tr.4]
+ Chức năng buộc tội: là một trong những chức năng cơ bản của Tố
Tụng Hình Sự nó luôn nhằm hướng vào một cá nhân cụ thể và thực chất đó
chính là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Trong chức năng buộc tội thì hình thức buộc tội giữ vai trò là khâu khởi động
của hoạt động tố tụng, giữ vai trò chủ đạo và là tiền đề cho việc thực hiện các
chức năng còn lại của hoạt động TTHS, có buộc tội thì mới có gỡ tội và sự
14. 8
xuất hiện của hai mặt đối lập này làm phát sinh nhu cầu phải có một cơ quan
trọng tài giữ vai trò trung lập để xét xử. Theo quan điểm của nhiều nhà khoa
học, về cơ bản đều có sự thống nhất là chức năng buộc tội luôn bắt đầu từ giai
đoạn điều tra, tuy nhiên về chủ thể thực hiện chức năng buộc tội thì vẫn còn
rất nhiều quan điểm. Có quan điểm cho rằng: “Buộc tội không phải là chức
năng riêng của VKS, mà thông qua hoạt động điều tra theo quy định của pháp
luật, CQĐT cũng thực hiện chức năng buộc tội” [ 20, tr.68]. Nhưng có quan
điểm khác thì lại cho rằng “Chức năng buộc tội là hoạt động của Viện kiểm
sát nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, buộc kẻ phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” [15, tr.30]. Theo quan điểm
này thì mặc dù CQĐT có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra, có
quyền quyết định việc bắt, tạm giữ, tạm giam…và người bị áp dụng biện pháp
này trở thành người bị buộc tội nhưng các quyết định đó của CQĐT đều phải
được sự phê chuẩn của VKS. Do vậy, chỉ có VKS mới có chức năng buộc tội,
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khác không có chức năng buộc
tội. Cá nhân tôi không đồng ý với với quan điểm này, bởi lẽ việc VKS phê
chuẩn các Quyết định của CQĐT là nhằm thực hiện chức năng giám sát hoạt
động tố tụng của mình, còn đối với CQĐT việc phát hiện, thu thập tài liệu
chứng cứ chứng minh làm rõ tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội,
theo đó có thể ra các Quyết định bắt, tạm giữ, khởi tố bị can, tạm giam…tùy
theo chức năng, nhiệm vụ được giao, chính là các hoạt động buộc tội. Tuy
nhiên, do tính chất hoạt động đặc thù của từng cơ quan và sự đòi hỏi chứng
minh buộc tội ở từng giai đoạn tố tụng của mỗi cơ quan là khác nhau nên hình
thức buộc tội của hai cơ quan này là khác nhau, song về bản chất thì TTHS,
CQĐT và VKS đều có chức năng buộc tội như nhau. Ở giai đoạn điều tra thì
chức năng buộc tội là thuộc về CQĐT và VKS; còn ở giai đoạn truy tố và xét
xử chức năng buộc tội và nghĩa vụ chứng minh thuộc về VKS bằng vệc ban
15. 9
hành Cáo trạng để nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo
tại phiên tòa và thực hiện các hoạt động chứng minh để bảo vệ Cáo trạng đã
đưa ra. Ta có thể nói quá trình thực hiện chức năng buộc tội trong Tố Tụng
Hình Sự của các chủ thể buộc tội luôn gắn liền với nghĩa vụ chứng minh làm
rõ vụ án của chính các chủ thể buộc tội.
+ Chức năng bào chữa: Là hoạt động TTHS được pháp luật quy định và
bảo đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa ra chứng cứ, lý lẽ chống lại sự
buộc tội và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình.
Hoạt động bào chữa trong vụ án hình sự là một hành động tự vệ hợp pháp
của người bị buộc tội, bên bị buộc tội sử dụng các quyền năng mà pháp luật
cho phép mình để đưa ra những chứng cứ và lập luận để chống lại sự buộc tội
và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chức năng bào chữa bắt đầu từ Quyền được bào chữa của người bị
buộc tội mà phát sinh trên quyền bào chữa là sự buộc tội. Chủ thể của
quyền bào chữa bao gồm: bị can, bị cáo, người bị bắt, người bị tạm giữ.
Chủ thể thực hiện quyền bào chữa đó là: người bào chữa, người bị buộc tội.
Phạm vi bào chữa được bắt đầu từ khi bị buộc tội và kết thúc khi bản án
cho đến khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Mục đích chính
của chức năng bào chữa đó là giảm nhẹ trách nhiệm cho bên bị buộc tội và
phản kháng lại bên buộc tội.
+ Chức năng xét xử: Là một dạng hoạt động Tố tụng hình sự được
phát sinh khi có cáo buộc từ cáo trạng của Viện kiểm sát, nó được thực
hiện rõ bởi chức năng của Tòa án trên cơ sở tranh tụng một cách bình đẳng,
dân chủ nhằm xem xét và giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra bản án,
quyết định bị cáo có tội hay vô tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp theo
quy định của pháp luật. Xét xử là hoạt động duy nhất chỉ do Tòa án thực
hiện còn các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức và cá nhân không có chức
16. 10
năng này chính vì vậy bản án của Tòa án được đảm bảo bởi sức mạnh của
nhà nước. Xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực của nhà nước do Tòa
án thực hiện, nhằm để giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh tế, lao động…
Qua hoạt động xét xử tại phiên tòa ta có thể thấy chỉ có Tòa án mới có
quyền quyết định một người có tội hay không có tội, đó là tội gì, hình phạt và
các biện pháp xử lý.Trong mối quan hệ với chức năng buộc tội và chức năng
bào chữa thì chức năng xét xử được coi là chức năng trung tâm của TTHS có
vai trò quyết định.
Có thể nói xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu một vụ án theo thẩm quyền
của từng cấp toà án. Sau khi có bản án sơ thẩm, bị cáo có thể kháng cáo hoặc
viện kiểm sát có thể kháng nghị bản án của Toà án. Khi đó vụ án sẽ được xét
xử phúc thẩm.
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, thì xét xử sơ thẩm được xác
định là một giai đoạn kết thúc một vụ án hình sự, mọi chứng cứ của vụ án đều
do Cơ quan điều tra thu thập được trong quá trình điều tra đều được xem xét
công khai tại phiên toà, người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai
của nhau, được tranh luận những điều mà tại Cơ quan điều tra không có điều
kiện thực hiện. Như vậy có thể nói xét xử sơ thẩm được xem là trung tâm của
quyền tư pháp.
Như vậy xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung trí tuệ, xử lý
các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính
xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những
quy định của pháp luật thông qua phiên toà có thể đánh giá được trình độ
nghiệp vụ của Thẩm phán, của Hội thẩm, của Kiểm sát viên, của Luật sư và
những người tham gia tố tụng tố tụng thác. Vì vậy, việc tổ chức phiên toà sơ
17. 11
thẩm tốt có tác dụng to lớn không chỉ đối với một vụ án mà còn có tác dụng
đối với việc nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho mọi công dân.[3]
Tại phiên Tòa Hội đồng xét xử điều khiển phiên Tòa, thực hiện việc
tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, còn Toà án thực hiện chức năng
xét xử, làm trọng tài phân xử đưa ra các phán quyết giải quyết vụ án. Như
vậy, chức năng xét xử chỉ thuộc về một chủ thể duy nhất đó là Toà án và chỉ
có thể được thực hiện ở tại phiên toà. Chức năng xét xử sơ thẩm bắt đầu từ
thời điểm Tòa án thụ lý vụ án, sau đó Tòa án thực hiện các công việc chuẩn bị
xét xử, khi có đủ điều kiện thì Tòa án sẽ đưa vụ án ra xét xử. Toà án có trách
nhiệm thẩm tra tất cả các chứng cứ của vụ án và bảo đảm sự bình đẳng và các
điều kiện cần thiết khác để các bên tiến hành tranh tụng một cách khách quan,
toàn diện và công bằng về các vấn đề của vụ án làm cơ sở để Toà án ra bản án
không kết tội hoặc kết tội và tuyên hình phạt đối với bị cáo. Từ những phân
tích trên thì có thể rút ra chức năng của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là xét xử với tính chất xét xử lần đầu, toàn diện, đầy đủ toàn bộ
các vấn đề của vụ án, bao gồm và thể hiện qua các hành vi tố tụng từ thời
điểm tòa án nhận hồ sơ, thụ lý vụ án cho đến khi HĐXX tuyên án và bế mạc
phiên tòa mà mục đích cuối cùng là giải quyết triệt để một vụ án.
1.2. Đặc điểm chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án
1.2.1. Chỉ do Tòa án có thẩm quyền thực hiện
TAND có nhiệm vụ “bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 3, Điều 102). Hiến pháp năm 2013
quy định TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp. Đây là điểm rất mới so với Hiến pháp năm 1992.
Nội dung mới này có ý nghĩa rất quan trọng, nó nhằm mục đích phân
định quyền lực của nhà nước theo hướng:
18. 12
“TAND” là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.
“Chính phủ” là cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
“Quốc hội” là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp.
Đây là định hướng nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước ta theo kiểu nhà
nước pháp quyền XHCN.
Nội dung mới nêu trên về TAND còn mang ý nghĩa là cơ sở pháp lý để
giao cho tòa án có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến
việc hạn chế quyền nhân thân của công dân, như việc ra quyết định đưa người
vào các trung tâm giáo dưỡng, cai nghiện…
Về hệ thống TAND, khác với Hiến pháp năm 1992 quy định hệ thống
tòa án được tổ chức theo địa giới hành chính địa phương từ cấp huyện đến cấp
tỉnh, Hiến pháp sửa đổi đã thể chế quan điểm của Nghị quyết 49 của Bộ
Chính trị về cải cách tư pháp xác định tổ chức hệ thống tòa án theo cấp xét xử
không phụ thuộc vào địa giới hành chính: Khoản 2 Điều 102 quy định
“TAND gồm TAND tối cao và các tòa án khác do luật định”.
Như vậy, theo quy định này của Hiến pháp thì hệ thống tòa án sẽ được
Luật Tổ chức TAND sửa đổi theo hướng quy định về tổ chức tòa án theo 4
cấp. Cụ thể là: TAND sơ thẩm khu vực là cấp xét xử sơ thẩm hầu hết các loại
vụ án thuộc thẩm quyền; TAND cấp tỉnh là cấp xét xử phúc thẩm là chủ yếu,
xét xử sơ thẩm một số loại vụ án thuộc các trường hợp mà tòa án sơ thẩm khu
vực không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm; TAND cấp cao là cấp xét xử phúc
thẩm và có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và
TAND tối cao là cấp xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cao nhất và chủ yếu là
tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật.
Việc tổ chức tòa án theo 4 cấp nêu trên thì chỉ có TAND cấp tỉnh là gắn
với địa giới hành chính cấp tỉnh, còn TAND sơ thẩm khu vực, TAND cấp cao
không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Theo đó, đây cũng là những yếu tố
để đảm bảo cho tính khả thi của nguyên tắc tòa án xét xử độc lập và chỉ tuân
19. 13
theo pháp luật.
1.2.2. Tòa án thực hiện hoạt động xét xử để ra bản án, quyết định giải
quyết vụ án
+ Tòa án chuẩn bị xét xử bằng việc nghiên cứu hồ sơ nếu thấy thiếu
chứng cứ hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì Trả hồ sơ điều tra
bỏ sung… Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự là một hoạt động quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
+ khi có đủ điều kiện phẩm đươc phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử, tại phiên tòa HĐXX Điều khiển phiên Tòa với sự
tham gia của đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng. Thực
hiện tranh tụng tại phiên tòa Tòa án không hỏi chính mà chỉ nghe bên buộc tôi
(VKS) và bên gỡ tội (Luật sư bào chữa) xét hỏi và đưa ra những lý lẻ lập luận
để chứng minh bị cáo có tội hay không có tội và chỉ khi Tòa án cho phép bên
nào nói thì bên đó mới được phát biểu ý kiến của mình.
+ Trên cơ sở các kết quả tranh tụng tại phiên tòa HĐXX nghị án và ra
bản án, quyết định giải quyết vụ án. Nếu bị cáo không có tội thì ra bản án
tuyên bố bị cáo vô tội, nếu bị cáo có tội thì ra bản án tuyên hình phạt áp
dụng đối với bị cáo.
1.2.3. Xem xét, giải quyết toàn bộ các vấn đề trong vụ án hình sự
+ HĐXX Xem xét bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, theo
khung hình phạt nào
+ Áp dụng hình phạt tương ứng với bản chất và mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội
+ Xử lý vật chứng của vụ án.
+ Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự.
1.3. Các nguyên tắc khi thực hiện chức năng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án
Một số nguyên tắc cơ quan sau có liên quan chặt chẽ với chức năng xét
20. 14
xử sơ thẩm của Tòa án:
- Xác định sự thật:
Cơ sở thực tiễn: do thực tiễn trong quá trình điều tra phát hiện tội phạm
còn tồn tại nhiều bất cập nên chúng ta cần phải đưa ra một nguyên tắc để hạn
chế tối đa sự bất cập đó, và nguyên tắc đó chính là phải xác định sự thật của
vụ án trong quá trình điều tra vì đã có không ít trường hợp chúng ta đã phạm
sai lầm trong công tác điều tra phá án, xác định sai người phạm tội, và dẫn
đến những người vô tội bị hàm oan.
Trong quá trình tố tụng, những người có quyền công tố, những người
tham gia xét xử có khi chưa thực sự khách quan và toàn diện, có thể vì một số
nguyên nhân khác nhau như có quan hệ thân thuộc, tình cá nhân.. mà trong
quá trình xét xử dẫn đến việc không khi điều tra, truy tố, xét xử làm thay đổi
tình tiết vụ án và phán quyết không đúng người đúng tội, vì vậy việc xác định
sự thật của vụ án sẽ có vai trò vô cùng quan trọng.
Về phía người tham gia tố tụng, thực tiễn xét xử cho thấy có nhiều
trường hợp vì nguyên nhân khách quan và chủ quan mà đã không khai bảo
đúng sự thật, với mục đích che giấu tội phạm dẫn đến việc xử án gặp nhiều
khó khăn. Vì vậy để tránh những tình trạng trên, nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án đã ra đời, nhằm đảo bảo cho việc xử đung người đúng tội, những
người có tội sẽ phải bị xử phạt và không xử oan người vô tôi.
Cơ sở pháp lý: Nguyên tắc xác định sự thật được quy định tại Điều 15
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS). Ngoài ra, việc đảm bảo thực
hiện nguyên tắc này còn được quy định tại một số Điều luật trong Bộ luật này
và các văn bản luật liên quan.
Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong phạm quyền
hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện
21. 15
pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc
tội”.
Quá trình giả quyết vụ án thông qua những giai đoạn khác nhau, nhưng
các giai đoạn đó đều có mục đích chung là tìm ra sự thật của vụ án. Đây cũng
chính là nhiệm vụ bao trùm của hoạt động tố tụng hình sự. Do đó, đây là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Để đấu tranh chống tội phạm đạt
được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện và xử lý trước
pháp luật, luật tố tụng hình sự đã ghi nhận nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án.
- Suy đoán vô tội
Nguyên tắc này không còn là riêng biệt trong pháp luật của từng quốc
gia mà nó đã được toàn cầu hóa Cụ thể được ghi nhận:
“1. Bất kỳ một người nào bị cáo buộc trong việc thực hiện tội phạm đều
có quyền được coi là chưa có tội khi lỗi của họ chưa được chứng minh bằng
một phiên tòa công khai theo một thủ tục do pháp luật quy định và tại phiên
tòa đó họ được hưởng tất cả những bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của
mình;
2. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt bởi một hành vi mà
BLHS không coi là tội phạm tại thời điểm thực hiện hành vi đó”,[4,tr.15]
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội
như sau:
Điều 13. Suy đoán vô tội
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
22. 16
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”
Nguyên tắc này đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm
1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên
hợp quốc, đó là: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không
phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp
luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy
đủ khả năng bào chữa của người đó”.
Nguyên tắc này được nước ta cam kết thực hiện sự kiện Việt Nam ra
nhập công ước quốc tế vào năm 24/9/1982. Đây là một trong những nguyên
tắc cốt lõi và cơ bản nhất của Pháp luật tố tụng hình sự nước ta, nó thể hiện
nhà nước luôn coi trọng và bảo vệ quyền con người quyền công dân.
Nguyên tắc suy đoán vô tội liên quan đến chức năng xét xử của Tòa án
trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy
định. Việc chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác về tội phạm
và qua các thủ tục khởi tố vụ án, tiến hành điều tra, kết thúc điều tra đề nghị
truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại
phiên tòa.
Tòa án sẽ ra bản án kết tội nếu có căn cứ để kết tội. Một người chỉ có thể
bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tức là
bản án của tòa án đã tuyên đối với người này là có tội và bản án đó đã có hiệu
lực pháp luật. Điều này khẳng định chỉ có Tòa án là chủ thể duy nhất có thẩm
23. 17
quyền ra bản án, tuyên bố một người có tội hay không có tội. Ngoài Tòa án thì
không có bất kỳ cơ quan nhà nước nào được ra bản án kết tội bị cáo.
Thứ hai Trong khi xét xử Tòa án không thể buộc bị cáo phải chứng minh
mình không phạm tội, việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội phụ thuộc
vào điều tra viên và bản cáo trạng của VKS trong khi thẩm tra cũng như qua
tranh tụng tại phiên Tòa thấy có đầy đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội và
đủ chứng cứ để kết tội Tòa án mới có thể ra bản bán kết tội bị cáo.
Nếu trong trường hợp không có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội
hay không thì Tòa án phải ra bản án tuyên bị cáo vô tội.
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm:
Tranh tụng là hoạt động tại phiên tòa để các bên đưa ra các quan điểm
của mình và tranh luận lại để phản bác lại quan điểm của phía bên kia. Đồng
thời tranh tụng tại phiên tào cũng là cơ sở để Tòa án đánh giá các tình tiết,
nội dung vụ án và đưa ra kết quả phán quyết cuối cùng để đảm bảo được tính
khách quan, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa được xác định là rất quan trọng nên Điều 103 khoản 5 Hiến
pháp sửa đổi năm 2013 quy định “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm”. Đây là một trong những đổi mới đáng chú ý vì lần đầu tiên Hiến
pháp đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Vấn đề tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng luôn được quan tâm
đến rất nhiều, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chủ trương về vấn đề
này. Việt nâng cao chất lượng kiểm sát của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo
đảm việc tranh tụng dân chủ với luật sư và những người tham gia tố tụng
khác... Tất cả các phán quyết của Tòa án chủ yếu là căn cứ vào kết quả tranh
tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ ý kiến của Kiểm sát
viên, của người bào chữa, luật sư, bị cáo và những người có quyền, lợi ích
hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
24. 18
và trong thời gian quy định”. Tiếp đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định:
“Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng
bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Nghị quyết 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 yêu cầu: “… Tòa án nhân dân tối
cao chỉ đạo các Tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng có nhiều quy định chứa đựng
nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyên tắc đảm bảo quyền
bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định
sự thật vụ án, nguyên tắc pháp chế XHCN; các quy định về quyền và nghĩa vụ
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, các quy định về tranh
luận tại phiên tòa. Đặc biệt, Điều 222 BLTTHS năm 2013 quy định: “Khi
nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm
sat viên, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa”.
Tuy nhiên các quy định như trên còn mang tính chung chung, chưa cụ
thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào chính thức ghi nhận nguyên tắc
bảo đảm và cơ chế bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa nên trên thực tiễn vẫn
chưa phát huy hiệu quả cao. Do vậy, Hiến pháp quy định cụ thể, rõ ràng
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một bước tiến lớn với tinh
thần cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Ngoài ra thì quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp đã tạo sự chuyển
biến rất mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn trong công tác xét xử
của Tòa án. Các quy định pháp TTHS hiện hành đang phát huy hiệu lực trên
công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội... Hiệu quả của
25. 19
công tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng cao, việc tranh luận tại phiên tòa
bảo đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt
động tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguyên nhân của tình hình trên có
nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của pháp luật về tranh
tụng tại phiên tòa và bảo đảm việc tranh tụng chưa rõ ràng nên hiệu lực của
nó chưa cao.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 quy định chính thức về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng như vậy sẽ tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ tư
pháp, của công dân trong quá trình thực hiện các quyền năng khi tham gia
tranh tụng. Đồng thời thực tiễn xét xử sẽ thay đổi, với bước tiến mới trọng
tâm là hoạt động tranh tụng được bảo đảm, phát huy tối đa tính công bằng,
dân chủ.
- Nguyên tắc “ khi xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia, hội thẩm
ngang quyền với thẩm phán”:
Từ năm 1946 đến nay trong các bản Hiến pháp của nước ta và trong các
Luật tổ chức Tòa án năm 1960, 1981, 1992 đều quy định về sự tham gia của
hội thẩm trong quá trình xét xử của Tòa án và khi xét xử hội thẩm ngang
quyền với thẩm phán. Đối với những hội thẩm nhân dân theo luật tổ chức Tòa
án nhân dân năm1992 vẫn theo chế độ tuyển cử như trước. Các hội thẩm nhân
dân, Tòa án nhân dân tối cao, các hội thẩm quân nhân Tòa án quân sự được
cử, còn các hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do hội đồng nhân
dân cùng cấp bầu ra, miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Luật quy định hội thẩm chỉ được tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm chứ
không được tham gia hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm.
Khi tham gia xét xử, hội thẩm bình đẳng với thẩm phán trong việc giải
quyết các vấn đề phát sinh khi xét xử. Có quyền ngang với thẩm phán. Khi
xét xử các thành viên trong hội đồng xét xử đều có quyền đưa ra thảo luận tất
26. 20
cả những vấn đề quan trọng cần giải quyết tại phiên tòa, có quyền tham gia
xét hỏi và nghị án, mọi quyết định đều được biểu quyết theo đa số.
Để đảm bảo tính công bằng, bình đẳng của pháp luật việc xét xử không
chỉ có những người chuyên môn mà còn có cả đại diện từ phía nhân dân, Hiến
pháp quy định: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của
Tòa án quan sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật.
Khi xét xử hội thẩm ngang quyền với thẩm phán” (Theo điều 129).
Hội thẩm nhân dân là những người lao động, công tác ở cơ sở, thay mặt
nhân dân lao động tham gia hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo cho việc
xét xử đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, phù
hợp với nguyện vọng và quan điểm của nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ.
Việc tham gia của Hội thẩm trong công tác xét xử các vụ án hình sự
nhầm bảo đảm được quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của
Tòa án. Việc tham gia vào công tác xét xử của Tòa án, không chỉ là thực
hiện quyền tư pháp, mà còn tham gia vào việc kiểm soát thực hiện quyền tư
pháp, thông qua việc góp tiếng nói phản ánh tâm tư từ thực tiễn gắn bó gần
gũi với đời sống hoàn cảnh của người dân, bị cáo trong vụ án, để từ đó làm
sáng tỏ nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh tội phạm cụ thể, phát sinh tranh
chấp,… vào quá trình xét xử, nhằm giúp Hội đồng xét xử có sự đồng cảm từ
đó đưa ra quyết định thật chính xác, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người dân theo quy định của pháp luật.
Đồng thời tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và Nhân dân thông qua
cầu nối là Hội thẩm. Cũng thông qua Hội thẩm, Tòa án nắm bắt được những
vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của Nhân dân. Một phán quyết của Tòa án chỉ
có thể nhận được sự đồng tình của Nhân dân, khi nó phản ánh đúng sự công
bằng, nghiêm minh của pháp luật, khi thật sự là chỗ dựa về mặt tinh thần, là
27. 21
niềm tin vào công lý của Nhân dân và khi đó tính thượng tôn pháp luật mới
được đề cao
Thông qua công tác xét xử Hội thẩm giúp Tòa án thực hiện tốt công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong Nhân dân, tuyên truyền về
kết quả xét xử, phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án, từ đó góp phần giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi
Hội thẩm làm việc.
- Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân
theo pháp luật:
“Độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau.
Độc lập là điều kiện cần thiết để thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi
xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để thẩm
phán và hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan
hệ ràng buộc. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo quy định của pháp luật thì
sẽ dẫn đến tình trạng xét xử không khách quang, tùy thuộc vào tâm trạng và ý
chí chủ quan của thẩm phán mà dẫn đến việc không công bằng.
Nguyên tắc này đều được quy định trong bốn bản Hiến pháp của nước ta
(điều 69 Hiến pháp 1946, điều 100 Hiến pháp 1959, điều 131 Hiến pháp
1980, điều 130 Hiến pháp 1992). Trong sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm
1946 và các luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 cũng đều ghi
nhận nguyên tắc này. Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa, nó bảo đảm cho tòa án nhân dân xét xử khách quan, đúng pháp
luật để bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khi thực hiện chức năng xét
xử Tòa án chú ý những nội dung chính của nguyên tắc này ở chỗ:
Một là Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết luận
của Viện kiểm sát; không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm phán, hội thẩm
28. 22
phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án.
Hai là: Khi xét xử, các thành viên trong hội đồng xét xử cũng độc lập
với nhau trong việc xác định chứng cứ, lựa chọn các quy phạm pháp luật cần
được áp dụng để định tội và lượng hình đối với các vụ án hình sự, quyết định
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án khác.
Ba là: Đối với một bản án có thể phải xét xử nhiều lần theo các thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với các bản án xét xử
sơ thẩm thì không phải xin ý kiến chỉ đạo của tòa án cấp trên. Ngược lại khi
xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không lệ thuộc vào chứng cứ,
kết luận và quyết định tòa án đã xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định
chứng cứ, quy phạm pháp luật cần được áp dụng để có quyết định cụ thể.
Sự độc lập của thẩm phán và hội thẩm khi xét xử có nghĩa là khi xét xử
thẩm phán và hội thẩm phán phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để
đưa ra quyết định của mình về từng vấn đề của vụ án, chứ không được tùy
tiện ảnh hưởng đến kết quả vụ án.
Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án thực hiện. Tòa án
là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp – hoạt động nhân danh công lý và dựa
vào công lý thì Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung lập, không
phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật thì Tòa án mới
tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công lý.
Xuất phát từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của TA có
Hội thẩm nhân dân tham gia đã được hiến pháp và pháp luật qui định, đó là
một trong những nguyên tắc hể hiện rõ tư tương “Nhà nước của dân, do dân và
vì dân” và chế độ dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội
thẩm nhân dân thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước, hạn chế
tiêu cực trong hoạt động của Tòa án, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế Xã hội
chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của Tòa án được rõ ràng, chính xác, phù hợp
29. 23
với tình hình thực tế và đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân
- Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số:
Nguyên tắc này được quy định tại điều 131 Hiến pháp năm 1992 và bắt
nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước.
Xét xử là hoạt động đặc thù do tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Bằng bản án, quyết định
của tòa án mà các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các quyền hoặc
phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Vì vậy, việc xét xử của tòa án phải
khách quan, đúng pháp luật. Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng
pháp luật đòi hỏi phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó khi xét xử tất cả các vụ
án, ở tất cả các trình tự tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét xử.
Các văn bản pháp luật về tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của hội
đồng xét xử ở từng cấp xét xử:
- Theo luật định thì hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai
hội thẩm nhân dân, trường hơp đặc biệt hội đồng xét xử có hai thẩm phán và
ba hội thẩm. Tòa chuyên trách Tòa án tối cao xét xử thì thành phần hội đồng
xét xử là ba thẩm phán và hai hội thẩm.
- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán, trường hợp đặc biệt có
thêm hai hội thẩm nhân dân.
- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩmTòa chuyên trách Tòa án nhân
dân tối cao hoặc Tòa án quân sự Trung ương gồm có ba thẩm phán. Nếu là Uỷ
ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì số
thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba tổng số các thành viên của
Uỷ ban thẩm phán hoặc hội đồng thẩm phán.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền
30. 24
và lợi ích hợp pháp của đương sự:
Khi xét xử, Tòa án phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo đây là
nguyên tắc Hiến định được tiếp tục ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong khoa học pháp luật hình sự, khái niệm quyền bào chữa, bảo vệ quyền
bào chữa còn có những ý kiến khác nhau về đối tượng bào chữa, nội dung,
giới hạn, phạm vi, mục đích và bản chất của quyền bào chữa. Các học giả
nước ngoài có ý kiến “ Quyền bào chữa là tổng hóa các hành vi tố tụng hướng
tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà còn tổng
hóa các mối quan hệ tố tụng nhầm tới mục đích làm cho tình trạng của người
bị buộc tội tốt hơn và đảm bảo quyền và lợi ích của người đó trong vụ án”[5,
tr.22], cũng theo xu hướng này, có ý kiến cho rằng “trong tố tụng hình sự , bị
can người có hình nghi cũng như những công dân công dân khác , trong đó có
cả người bị hại đều cần có sự bảo vệ các lợi ích có thể bị xâm phạm” [5,
tr.50].
Nguyên tắc này được thực hiện từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và các Luật tổ chức tòa án nhân dân
năm 1960, 1981, 1992, 2002.
Bằng việc khẳng định là quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, Hiến
pháp năm 1992 còn quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được được thành lập để giúp bị cáo
và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Bằng quy định là “quyền bào chữa của bị
cáo được bảo đảm”. Hiến pháp năm 1992 quy định một cách gián tiếp rằng
trong hoạt động xét xử của mình Tòa án có nhiệm vụ bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo
quy định của Pháp luật tố tụng, trong một số trường hợp nhất định, nếu bị can
hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì cơ quan
31. 25
điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư cử người bào
chữa cho họ. Đó là những trường hợp sau:
- Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần.
- Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử hình.
- Bị cáo là thành niên phạm tội.
Cũng bằng quy định “Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và
các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”, Hiến pháp
năm 1992 quy định một cách gián tiếp về nhiệm vụ của các cơ quan Đảng,
Nhà nước có thẩm quyền cũng như các tổ chức xã hội và các cơ quan khác
trong việc hành lập Đoàn luật sư.
Tiểu kết Chương 1
Có thể nói, trong nhiều giai đoạn lịch sử của Nhà nước ta, Tòa án nhân
dân đã trải qua những cuộc cải cách và đổi mới về tổ chức cũng như phương
thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng nặng nề của nền tư pháp, nhất
là trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kết quả
phát triển và lớn mạnh của Tòa án nhân dân ngày nay thể hiện đậm nét sự vận
dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân. Hoạt động XXST VAHS của Tòa án cấp quận huyện là một cấp xét
xử trong tố tụng hình sự. Hoạt động này được tiến hành tiếp theo sau hoạt
động điều tra, truy tố. Hoạt động xét xử sơ thẩm các VAHS của TAND cấp
quận được thực hiện bởi công tác chuẩn bị xét xử và quá trình xét xử tại phiên
tòa. Đây là một chuỗi mắt xích liên hoàn trong hoạt động tố tụng hình sự. Bản
án của Tòa án tuyên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức, đến quyền lợi con người.
32. 26
CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
CHỨC NĂNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TÒA
ÁN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Các quy định của pháp luật về chức năng xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Tòa án
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm
a. Thẩm quyền xét xử theo sự việc
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa
Tòa án các cấp với nhau và căn cứ vào tính chất của tội phạm.
Thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp Huyện và Tòa án quân
sự khu vực
Việc phân định thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp Huyện có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh, Tòa án
nhân dân tối cao, bởi vì các nhà lập pháp bao giờ cũng bắt đầu từ việc xác định
thẩm quyền của cấp xét xử thấp nhất sau đó mới quy định thẩm quyền của các
cấp xét xử cao hơn.
Khoản 1 Điều 170 Luật TTHS 2003 quy định về thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân các cấp. Theo đó thì thẩm quyền xét xử theo vụ việc của
TAND cấp huyện theo quy định của Bộ luật TTHS 2003 bao gồm các loại tội
phạm có mức hình phạt cao nhất theo quy định của BLHS 1999 là 15 năm tù
trừ những tội phạm được quy định tại điểm a, b, c Điều 170 Bộ luật TTHS.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật TTHS thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm
của TAND cấp Huyện được mở rộng hơn so với quy định tại Điều 145 Bộ luật
TTHS năm 1988 theo hướng tăng cường thẩm quyền xét xử cho TAND cấp
Huyện. Đây là một chủ trương mới và rất kịp thời của Đảng và Nhà nước ta
33. 27
nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp Tòa án và có ý nghĩa chiến lược
trong quá trình cải cách tư pháp theo Nghị định 49-NĐ/TW của Bộ chính trị và
đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Việc tăng thẩm quyền xét xử cho TAND cấp huyện là một giải pháp
giảm lượng án tồn đọng ở tòa án cấp tỉnh và tòa án phúc thẩm TAND tối cao.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp tỉnh và tòa án quan sự cấp
quân khu
Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu
được quy định tại khoản 2 Điều 170, Bộ luật TTHS 2003. Theo quy định của
điều luật TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự
không thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực
hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để
xét xử.
TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những
vụ án hình sự về những tội phạm nghiêm trọng, từ những vụ án về những tội
mà mức cao nhất của khung hình phạt trên 15 năm tù.
Những vụ án thuộc thẩm quyền của TAND cấp dưới nhưng TAND cấp
trên thấy quang trọng phải chuyển lên để xét xử do tính chất đặc biệt nghiêm
trọng của vụ án.
Bộ luật TTHS không quy định rõ ràng cụ thể những vụ án nào là thuộc
thẩm quyền của tòa án cấp huyện nhưng tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để xét
xử. Do đó, Chánh án tòa án, VTVKS và thủ trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh
cần căn cứ vào khả năng thực tế của các thẩm phán, kiểm sát viên và điều tra
viên ở cấp huyện mà xác định những vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố
và xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, VKS và TA cấp tỉnh cần lấy lên điều
tra, truy tố và xét xử các vụ án sau:
- Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất một vấn đề
34. 28
của vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành).
- Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy
tín cao trong cộng đồng dân tộc ít người.
b. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
Người phạm tội và hành vi phạm tội được coi là một trong những dấu
hiệu để có thể xác định được thẩm quyền xét xử của tòa án. Ở nước ta, việc
phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng là phân định thẩm quyền xét xử
giữa TAND và TAQS.
Tại Điều 3 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002 quy định: Quân
nhân tại ngũ phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền
xét xử của TAQS. Trong trường hợp vụ án vừa có bị cáo thuộc thẩm quyền
của TAQS lại vừa có bị cáo thuộc thẩm quyền xét xử của TAND thì TAQS
sẽ xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể tách ra để xét xử thì TAQS và TAND xét
xử theo những bị cáo thuộc thẩm quyền của mình. Những người không phục
vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời
gian phục vụ quân đội, hoặc những người bị phát hiện là phạm tội trước khi
nhập ngũ thì thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS về những tội phạm liên
quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội. Những tội phạm
khác do TAND xét xử (Điều 4, 5 pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm
2002).
Theo quy định tại Điều 26, 29 của pháp lệnh tổ chức TAQS thì: các vụ
án mà bị can, bị cáo phạm tội có cấp bậc từ Thượng tá trở lên, có chức vụ từ
Đoàn trưởng và tương đương trở lên thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS cấp
quân khu mà không phụ thuộc vào tội phạm được thực hiện thuộc loại nào: ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Các vụ án còn lại thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS khu vực.
35. 29
Đối với TAND, bộ luật TTHS không đặt ra thẩm quyền xét xử theo đặc
điểm nhân thân của người phạm tội tuy nhiên, trong hướng dẫn về việc tòa án
cấp tỉnh quyết định lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp huyện
lên xét xử lại có đề cập đến vấn đề này. Theo thông tư liên tịch ngành
02/TTLN ngày 12/01/1998 của TANDTC, VKSNDTC, BTP, BNV thì những
vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sỹ quan công an, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc cao trong tôn giáo
hoặc người có uy tín cao trong dân tộc ít người được TA cấp tỉnh lấy lên để
xét xử, tức là thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án cấp tỉnh.
Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa TAND & TAQS thì Chánh án
TATC xem xét quyết định.
c. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ
Quy định tại Khoản 1 Điều 171 bộ luật TTHS năm 2003 đã nêu cụ thể về
thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Việc quy định thẩm quyền xét xử thuộc về
tòa án nơi tội phạm được thực hiện nhằm tọa điều kiện thuận lợi cho các cơ
quan tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng
sẽ dễ dàng tìm kiếm được nhiều thời gian hơn trong việc tiến hành các hoạt
động điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập người làm chứng hoặc người liên
quan trong vụ án.
Nhưng trên thực tế có những trường hợp không thể xác định được nơi
thực hiện tội phạm hoặc được tội phạm thực hiện ở nhiều nơi khác nhau.
Trong những trường hợp đó thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án nơi kết thúc
việc điều tra.
Riêng đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của TAQS thì ngoài quy
tắc chung trên, việc xác định thẩm quyền còn phải căn cứ vào thông tư liên
tịch số 01/TLT ngày 18/04/2005 của TANDTC, VKSNDTC, BQP, BCA
“hướng dẫn về thẩm quyền xét xử của TAQS” như sau:
36. 30
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Pháp lệnh thì những vụ án hình sự
mà người phạm tội là các đối tượng sau đây thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu:
a) Quân nhân tại ngũ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân
chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân
đội nhân dân Việt Nam;
b) Công chức quốc phòng bao gồm những công dán được tuyển dụng
vào phục vụ trong Quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển sang và do các đơn vị
doanh nghiệp quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán
bộ, công chức và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;
c) Công nhân quốc phòng bao gồm:
- Những công dân được tuyển dụng thuộc biên chế của các đơn vị, doanh
nghiệp quân đội;
- Những công dân có hợp động lao động không xác định thời hạn trong
các đơn vị, doanh nghiệp quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng theo hợp đồng;
đ) Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc
kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo quy
định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên;
e) Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân, tự vệ;
g) Những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị
quân đội trực tiếp quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu,
phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội
trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng các nhu cầu đó”.[7, tr23]
Theo hướng dẫn của thông tư thì các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử
của các TAQS khu vực thuộc quân khu được xét xử theo quy định của của
37. 31
Điều 269 bộ luật TTHS năm 2015về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ. Còn
các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Quân chủng hải quân và và
tòa án quân sự khu vực quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc
lãnh thổ. Các tòa án này có thẩm quyền xét xử các vụ án xảy ra trong các
đơn vị quân chủng, các vụ án mà bị cáo là người do quân chủng quản lý
hoặc người khác phạm tội liên quan đến bí mật quân sự, gây thiệt hại cho
các đơn vị thuộc quân chủng hải quân.
d. Thẩm quyền chuyển vụ án.
Theo quy định tại Điều 274 Bộ luật TTHS năm 2015 thì Tòa án có
quyền chuyển vụ án cho tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu thấy vụ án không
thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án cho tòa án trong
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quân khu
do tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự khu vực quyết định. Việc
chuyển vụ án cho tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do tòa án nhân dân cấp tỉnh và tòa án
quân sự cấp quân khu quyết định.
Tòa án chỉ được chuyển những vụ án cho tòa án có thẩm quyền khi vị án
chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án tòa án
quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự hoặc tòa án
cấp trên thì vụ án dù đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho tòa án có thẩm
quyền. Trường hợp này, việc chuyển vụ án do hội đồng xét xử quyết định.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ
10 thông qua ngày 27/11/2015 (Sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2015). Điều
274 của BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án trong giai đoạn xét xử quy định
như sau:
“1. Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ
sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm
38. 32
quyền truy tố.
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát
đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố để giải quyết theo thẩm quyền. Việc chuyển vụ án ra ngoài
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu
thực hiện theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.
Khi xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì
Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do;
nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì việc
giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử thực hiện theo Điều 275 của Bộ luật
này. Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền.
Thời hạn truy tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn được thực hiện theo
quy định tại Điều 240 và Điều 241 của Bộ luật này.”
So với quy định về thẩm quyền chuyển vụ án theo BLTTHS năm 2003
thì quy định của BLTTHS năm 2015 có một số điểm mới sau:
Thứ nhất: Trong BLTTHS năm 2003 khi thấy vụ án không thuộc thẩm
quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử,
quy định này trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn, bởi khi giải quyết vụ án
nếu xét thấy không đúng thẩm quyền thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Tòa án có
thẩm quyền xét xử nhưng Viện kiểm sát không đồng ý và vẫn giữ nguyên
quan điểm truy tố điều này dẫn đến khó khăn trong giải quyết vụ án và không
phù hợp với quy trình tố tụng ở nước ta, tuy nhiên bất cập, hạn chế này đã
được khắc phục tại Điều 274 BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án theo
đó “Khi vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ
vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để chuyển đến Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố.”, việc bổ sung này hoàn toàn phù hợp với quy trình tố tụng
theo quy định của BLTTHS.
39. 33
Thứ hai: BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể trình tự, thủ tục chuyển hồ
sơ vụ án trong giai đoạn xét xử cụ thể:
Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát
đã truy tố phải ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố để giải quyết theo thẩm quyền. Việc chuyển vụ án ra ngoài
phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu
thực hiện theo quy định tại Điều 239 của Bộ luật này.[23, tr.217]
Khi xét thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ
thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ
lý do; nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của
mình thì việc giải quyết tranh chấp thẩm quyền xét xử được thực hiện như
sau “Điều 275. Giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền xét xử
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp huyện trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giữa các
Tòa án quân sự khu vực trong cùng một quân khu do Chánh án Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau,
giữa các Tòa án quân sự khu vực thuộc các quân khu khác nhau do Chánh án
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi kết thúc
việc điều tra quyết định.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân
dân cấp tỉnh, giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu do Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Chánh án Tòa án quân sự trung ương quyết định.
Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án nhân dân và
Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.”. Đồng thời,
khi áp dụng quy định tại Điều 275 để giải quyết việc tranh chấp về thẩm quyền
40. 34
thì Viện kiểm sát phải thực hiện theo quyết định của Tòa án có thẩm quyền.
Những sửa đổi, bổ sung của BLTTHS năm 2015 về chuyển vụ án sẽ góp
phần khắc phục những bất cập, hạn chế của BLTTHS năm 2003 qua đó nâng
cao chất lượng giải quyết vụ án hình sự ở nước ta hiện nay.
2.1.2. Trình tự, thủ tục xét xử vụ án hình sự
Trước khi mở phiên tòa:
* Công việc nghiên cứu hồ sơ:
Nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử của Tòa án là một
hoạt động thường xuyên và quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự của Thẩm phán, Hội thẩm.
Thực tiễn cho thấy chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có ảnh
hưởng nhất định đến chất lượng giải quyết vụ án hình sự. Theo đó nếu việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự của Thẩm phán, Hội thẩm được thực hiện
nghiêm túc, chặt chẽ và khoa học thì sẽ nâng cao được chất lượng giải quyết
vụ án, ngược lại nếu việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự được thực hiện qua
loa, sơ sài thì chất lượng giải quyết vụ án không cao, có thể dẫn đến làm gia
tăng tỷ lệ án bị hủy, sửa hoặc nghiêm trọng hơn là làm oan sai người vô tội.
Chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự phụ thuộc nhiều vào kỹ năng,
phương pháp nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán, Hội thẩm, theo đó nếu người
nghiên cứu có kỹ năng nghiên cứu tốt và phương pháp nghiên cứu chuyên sâu
thì chất lượng nghiên cứu sẽ được nâng cao.
Bên cạnh đó công tác áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự nói riêng cũng có vai trò hết sức quan trọng trong
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.Do đó việc nâng cao chất
lượng nghiên cứu hồ hồ sơ vụ án hình sự cũng như áp dụng đúng và chính xác
pháp luật về hình sự nói chung, Bộ luật tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự.
41. 35
* Ra quyết định đưa vụ án ra xét xử:
Nội dung quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử được quy định tại
Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), khi
ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thẩm phán (chủ tọa phiên tòa) đồng
thời phải xác định rõ tư cách người tham gia tố tụng. Luật không qui định rõ
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt (giao) cho các đương sự trước
bao nhiêu ngày, nhưng thông thường là khoảng 10 – 15 ngày trước khi xét
xử các đương sự (bị cáo, người bị hại, người liên quan …) sẽ nhận được văn
bản này. (Thông thường, đây cũng là thời gian để luật sư, viện kiểm sát –
nghiên cứu hồ sơ vụ án, để tham dự phiên tòa. Vì lúc này hồ sơ vụ án sẽ ở
tình trạng tương đối “đầy đủ”). Theo đó, việc xét xử có thể tạm ngừng khi
thuộc một trong các trường hợp:
1. Theo đúng tên gọi, quyết định đưa vụ án ra xét xử xác định việc Tòa án
quyết định việc chính thức đưa vụ án ra xét xử và thông báo cho các bên liên
quan (nguyên đơn, bị đơn … trong vụ án dân sự, bị cáo, bị hại … trong vụ án
hình sự) được biết. Theo nguyên tắc xét xử công khai, những nội dung trong
Quyết định đưa vụ án ra xét xử đều được công khai, không có gì là bí mật.
2. Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết định; giờ, ngày,
tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
b) Xét xử công khai hay xét xử kín;
c) Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của
bị cáo;
d) Tội danh và điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát
truy tố đối với bị cáo;
đ) Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ tên Thẩm phán dự
khuyết, Hội thẩm dự khuyết, Thư ký Tòa án dự khuyết (nếu có);
42. 36
e) Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại
phiên tòa; họ tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có);
g) Họ tên người bào chữa (nếu có);
h) Họ tên người phiên dịch (nếu có);
i) Họ tên những người khác được triệu tập đến phiên tòa;
k) Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa.
3. Ngay sau khi ban hành, Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được gửi
cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Thông thường, cùng với việc
gửi (tống đạt) Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án cũng gửi Giấy triệu tập
tham dự phiên tòa cho đương sự.
4. Về nguyên tắc, đương sự có quyền nhận được Quyết định đưa vụ án ra
xét xử, để biết rõ những vấn đề liên quan đến việc xét xử vụ án của mình (thể
hiện tại các nội dung trong quyết định). Từ đó, có thể có sự chuẩn bị để tham
dự phiên tòa một cách có hiệu quả nhất. Chẳng hạn như biết Hội đồng xét xử
là những vị nào? Có gì bất thường hay không? Phía bên “đối phương” có luật
sư hay không? Tòa có triệu tập giám định viên hay không? …vv.
5. Theo qui định, khi khai mạc phiên toà, Chủ toạ phiên toà phải đọc
Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Chính vì vậy, nếu đương sự vì lý do nào đó
chưa/không nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử, hoặc Hội đồng xét xử
khác với Hội đồng xét xử ghi trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử … đều là
những sai phạm tố tụng thuộc dạng “nghiêm trọng”, dẫn đến việc phải hoãn
phiên tòa hoặc bị hủy án.
Tranh tụng tại phiên tòa
* Xét hỏi tại phiên tòa:
Tại khoản 2 Điều 207 BLTTHS 2015 quy định: “Khi xét hỏi từng
người, chủ toạ phiên toà hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những
43. 37
người tham gia phiên toà cũng có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi
thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về
những vấn đề có liên quan đến việc giám định”.[8, tr.15]. Tại phiên toà
hình sự sơ thẩm, sau khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, nếu không
ai có ý kiến và yêu cầu gì thêm thì chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần
thủ tục phiên toà chuyển sang phần xét hỏi. Thực chất thủ tục này là việc
xét hỏi bị cáo, người làm chứng và những người liên quan khác để xác
minh các chứng cứ trong hồ sơ vụ án do VKS gửi cho Toà án. Nghiên cứu
các quy định về trình tự, thủ tục xét hỏi cho thấy phạm vi, nội dung xét hỏi
cũng như phương pháp xét hỏi của các chủ thể (chủ tọa phiên toà, các
thành viên HĐXX, KSV, người bào chữa và những người tham gia phiên
toà khác) như thế nào cũng chưa được xác định rõ ràng cụ thể.
Quy định trên vô hình chung làm cho HĐXX mất đi vai trò là một vị
“trọng tài” vô tư, khách quan xem xét, đánh giá chứng cứ, lập luận của
các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) để từ đó đưa ra những nhận định
khách quan về vụ án. Thực tiễn xét xử cho thấy mặc dù BLTTHS có quy
định KSV tham gia xét hỏi nhưng trên thực tế KSV chưa chủ động xét
hỏi, nếu có thì cũng chỉ mang tính chất bổ sung cho những câu hỏi của
HĐXX và thông thường KSV sẽ hỏi để nhằm mục đích bảo vệ bản cáo
trạng của mình là đúng và việc buộc bị cáo có tội là có căn cứ. Việc hỏi
để chứng minh tội phạm và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án chủ yếu
vẫn do Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà thực hiện. Phải xác định rõ trong
BLTTHS trách nhiệm xét hỏi để chứng minh hành vi phạm tội chủ yếu là
của KSV. Cụ thể, KSV phải là người xét hỏi trước và là người hỏi chính;
HĐXX xét hỏi sau và chỉ hỏi về những tình tiết chưa rõ hoặc để kiểm tra,
xác minh các chứng cứ mới tại phiên toà. Trình tự xét hỏi như vậy sẽ
buộc KSV phải tích cực xét hỏi, tranh luận đối đáp lại ý kiến của bị cáo,
44. 38
người bào chữa để bảo vệ cho bản cáo trạng của mình qua đó tạo điều
kiện cho HĐXX có nhiều thời gian để tập trung lắng nghe, đánh giá ý
kiến của các bên, xem xét đánh giá các chứng cứ khác trong vụ án.
Do đó, trình tự xét hỏi cần phải được sửa đổi như sau: bên buộc tội là
người hỏi chính và hỏi trước, làm rõ các tình tiết của vụ án để chứng minh
cho quyết định truy tố của Viện kiểm sát là có căn cứ; sau đó đến bên gỡ tội
(bị cáo, người bào chữa) hỏi nhằm mục đích phản bác lại ý kiến, lập luận của
bên buộc tội và bảo vệ cho ý kiến, lập luận của mình; tiếp đến là những người
khác có thẩm quyền hỏi theo quy định của pháp luật. HĐXX có thể tham gia
xét hỏi xen kẽ trong quá trình những người nói trên xét hỏi nếu thấy xuất hiện
những chứng cứ mới cần thiết phải làm rõ hoặc hỏi thêm những nội dung
những người khác đã hỏi nhưng chưa được làm rõ.
* Tranh luận tại phiên tòa:
Hiện nay trên thế giới đang tồn tại hai hệ thống tố tụng chủ yếu đó là: tố
tụng xét hỏi và tố tụng tranh tụng. Tố tụng xét hỏi được sử dụng phổ biến ở
các nước theo hệ thống luật CIVIL LAW (các nước Pháp, Italia, Đức,...), còn
tố tụng tranh tụng là thủ tục tố tụng được áp dụng rộng rãi ở các nước theo hệ
thống luật án lệ COMMON LAW (các nước Anh, Mỹ, ấn Độ, Austraylia,
New Zealand...).
Theo các nhà nghiên cứu về nhà nước và pháp luật thì tố tụng tranh tụng
đã xuất hiện rất sớm, ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập vào La Mã
với tên gọi là thủ tục hỏi đáp liên tục (Procédure des questions perpétuelles)
và trở nên phổ biến tại Anh và nhiều nước khác.
Trong tố tụng tranh tụng tùy theo tính chất, mức độ của từng vụ mà có
những thủ tục tố tụng tương ứng khác nhau như:
Nếu là tội nghiêm trọng và bị cáo nhận tội, vụ án sẽ được chuyển cho cơ
quan kiểm sátđể truy tố ra tòa xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc thủ tục xét xử
45. 39
không có Bồi thẩm đoàn còn nếu là vi phạm nhỏ, tội ít nghiêm trọng (thông
thường những tội có mức hình phạt cao nhất dưới 5 năm tù) sau khi phát hiện
có vi phạm pháp luật hình sự, cảnh sát có thể trực tiếp truy tố bị cáo ra tòa chỉ
có Thẩm phán.
Tranh tụng tại phiên tòa phải đảm bảo tính dân chủ, công khai nhưng vẫn
thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Đây là yêu cầu xuyên suốt quá trình
tranh tụng, nếu thiếu yêu cầu này thì quá trình tranh tụng không thể đưa đến
việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Chỉ đạt được yêu cầu về dân chủ
thì mới đảm bảo sự ngang bằng giữa các bên tham gia đấu tụng, trong đó
quyền kiểm sátcủa Nhà nước được đặt ngang với quyền bào chữa của bị cáo -
Luật sư, họ có toàn quyền tranh luận về mọi vấn đề trong vụ án để làm sáng
tỏ những tình tiết còn chưa rõ, qua đó Hội đồng xét xử và những người tham
gia phiên tòa sẽ xác định được sự thật khách quan của vụ án. Việc tranh tụng
đó phải diễn ra công khai để thể hiện tính minh bạch của pháp luật, của quá
trình xét xử vụ án. Chỉ có những trường hợp pháp luật quy định phải xử kín
để đảm bảo bí mật Nhà nước đảm bảo quyền của công dân, còn mọi trường
hợp khác đều phải xử công khai. Tranh tụng tại phiên tòa phải đạt yêu cầu
công khai dân chủ, nhưng vẫn phải theo quy định của pháp luật. Đó chính là
thể hiện sự nghiêm minh cần thiết của pháp luật, nếu thiếu đi sự nghiêm minh
đó thì tranh luận giữa phiên tòa là sự tranh luận vô tổ chức mạnh ai người ấy
nói, phiên tòa trở thành cuộc cãi nhau giữa các bên.
Trường hợp bị cáo không nhận tội và đề nghị xét xử bằng thủ tục có
Bồi thẩm đoàn, vụ án sẽ được cơ quan kiểm sát truy tố ra tòa với một Thẩm
phán và Bồi thẩm đoàn. Tại phiên tòa xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ điều
hành mọi hoạt động tố tụng để cho các bên buộc tội (Kiểm sátviên nhân
danh Nhà nước) và gỡ tội (bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo) tự xét hỏi,
đưa ra chứng cứ, người làm chứng, tự đối chất, phản bác nhau và tự bảo vệ
46. 40
quan điểm của mình; đồng thời cũng hướng dẫn cho Bồi thẩm đoàn những
quy tắc tố tụng, chứng cứ và luật nội dung. Đáng chú ý, Thẩm phán có vai
trò điều khiển các bên tham gia phiên tòa để đảm bảo những thông tin về
chứng cứ đưa ra không tạo nên định kiến (prejudice) đối với Bồi thẩm
đoàn. Việc quyết định bị cáo có tội hay không hoàn toàn thuộc quyền hạn
của Bồi thẩm đoàn. Nếu bị cáo bị tuyên có tội, lúc đó chỉ có Thẩm phán
tiếp tục vụ án với vai trò là người quyết định hình phạt, lượng hình. Nếu bị
cáo được tuyên vô tội, vụ án sẽ chấm dứt ngay và cơ quan kiểm sátcũng
không được quyền kháng nghị phúc thẩm vì nguyên tắc (Hiến pháp) không
cho phép xét xử hai lần (Double jeopardy) đối với một bị cáo về cùng một
tội. Việc phúc thẩm chỉ đặt ra đối với cả hai bên khi bị cáo bị tuyên có tội
liên quan đến việc định tội hoặc lượng hình. Các thủ tục tố tụng như hỏi
cung, khám nghiệm, hay các thủ tục tố tụng tại phiên tòa đều phải được ghi
âm hoặc ghi hình và nếu có tranh chấp hay mâu thuẫn giữa các bên về tính
đúng đắn và chính xác thì các bản ghi âm sẽ được đưa ra để Tòa án và các
bên cùng xem lại. “Mặc dù nguyên tắc tranh tụng trong TTHS đã được ghi
nhận và từng bước được quy định trong hiến pháp và đưa vào thực hiện,
nhưng quyền lợi của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác
vẫn còn những dấu hiệu bị vi phạm. Vị trí, vai trò và chức năng của họ
chưa được đánh giá một cách đúng đắn dẫn đến không được bào đảm đầy
đủ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp theo Hiến định và luật định. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, tuy nhiên đáng chú ý hơn là việc các
chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức được đầy đủ và chấp hành nghiêm
các quy định của pháp luật về đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong
TNHS”[7, tr.28].
Như vậy có thể rút ra rằng mục đích của tranh tụng tại phiên tòa là làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án thông qua sự cọ xát giữa các lập luận, ý
47. 41
kiến. Nên yêu cầu của nó là hai bên tranh luận đi vào từng chi tiết của vụ án,
sự đối đáp giữa hai bên phải diễn ra liên tục, kiểm sát viên, bị cáo, Luật sư,
bị hại và tất cả những người tham gia tố tụng khác phải tranh luận từng vấn
đề rõ ràng, mạch lạc, dứt khoát, không tranh luận chung chung, dàn trải, lạc
đề. Kiểm sát viên là bên buộc tội, Luật sư là bên gỡ tội vì vậy họ phải có sự
chủ động trong tranh luận tại phiên tòa, cần hỏi những người tham gia tố
tụng nhiều hơn bất cứ ai để làm rõ mọi tình tiết của vụ án, đặc biệt là các
vấn đề, tình tiết mà bị cáo, người làm chứng đưa ra tại phiên tòa có mâu
thuẫn với những kết quả điều tra trước đó của Viện kiểm sátđể trên cơ sở đó
có lời luận tội, lời bào chữa khách quan, chính xác. Trong tranh luận tại
phiên tòa không thể có trường hợp kiểm sát viên chỉ phát biểu quan điểm là
giữ nguyên quan điểm như đã truy tố mà không đưa ra lý lẽ, dẫn chứng nào
khác có sức thuyết phục để bảo vệ quan điểm đó. Do vậy, đây cũng là vấn đề
mà trên thực tế đòi hỏi Chủ tọa các phiên tòa phải định hướng để các bên
tham gia tranh luận chất vấn và trả lời chất vấn những nội dung chính của vụ
án, có như vậy tranh tụng mới đạt hiệu quả.
Ra bản án
Bản án là một văn bản tố tụng. Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản án phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng,
năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các thành viên Hội đồng xét xử và Thư
ký Toà án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh,
nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, tiền án, tiền sự
của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi
sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ tên của người bào
chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ.