SlideShare a Scribd company logo
1 of 96
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ HẢI YẾN
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC
CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐÀO THỊ HẢI YẾN
B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI
TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC
CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐỖ NGỌC QUANG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi.
Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo
đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đào Thị Hải Yến
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ
NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ..........................................................................................8
1.1. Những khái niệm có liên quan ......................................................... 8
1.1.1. Khái niệm về quyền con người........................................................... 8
1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự................... 9
1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự..................................................................13
1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự..............................................................................................17
1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt động
tố tụng hình sự...................................................................................17
1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất.................................................19
1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần ...............................................21
1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác................................................22
1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền
con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.........................................22
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003......22
1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015.........27
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO
NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015.............................................................................33
2.1. Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho
ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..............................33
2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ......................................33
2.1.2. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .............34
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc
cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ năm
2011 đến 2015...................................................................................53
2.2.1. Thực trạng tình hình oan, sai làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong tố tụng hình sự...............................................53
2.2.2. Thực tiễn việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan
trong tố tụng hình sự ở Việt Nam .....................................................63
2.2.3. Những tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân gây nên
trong thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan
trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................64
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI
BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............68
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về bảo đảm quyền con
ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị
oan trong hoạt động tố tụng hình sự .............................................68
3.1.1. Quan điểm của Đảng.........................................................................68
3.1.2. Quan điểm của Nhà nước..................................................................69
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bồi thƣờng
nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự......70
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ............................................................70
3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự....................71
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ......73
3.3. Các giải pháp khác..........................................................................80
3.3.1. Nâng cao trình độ, năng lực trách nhiệm của những người tiến
hành tố tụng hình sự trong việc phòng ngừa người bị oan ...............80
3.3.2. Bảo đảm thực hiện tốt và nghiêm chỉnh nguyên tắc độc lập của
Tòa án và các cơ quan, người tiến hành tố tụng khác.......................80
3.3.3. Đổi mới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự .....82
KẾT LUẬN....................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNN:
BLDS:
BLHS:
BLTTHS:
CQTHTT:
TNBTCNN:
TTHS:
XHCN:
Bồi thường thiệt hại
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Cơ quan tiến hành tố tụng
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Tố tụng hình sự
Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước
tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có hiệu
lực từ ngày 23/3/1976 (Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập
ngày 24/9/1982). Công ước này đã tuyên bố: “Bất cứ người nào trở thành
nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu
cầu được bồi thường” (khoản 5 Điều 9) [47; tr. 29]. Hầu hết các quốc gia
trên thế giới đều đã công nhận quyền được bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (viết tắt là TTHS) gây
ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Theo
đó, rất nhiều quốc gia đã cụ thể hóa trong các đạo luật với việc thừa nhận
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những hậu quả do nhân viên
nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ nói chung và trong hoạt
động tố tụng hình sự nói riêng.
Nhằm tiến tới xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cũng như thực hiện các cam kết quốc
tế mà Việt Nam đã gia nhập, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp
luật, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với
các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ.
Hiến pháp năm 1992 là văn bản đầu tiên ghi nhận tương đối rõ quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong
quá trình thực thi công vụ. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị
bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường
thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); Hiến pháp năm 1992
quy định “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
2
pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh.
Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh
dự” (Điều 74). Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn
trong khoản 5, Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, những người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật
có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.
Bộ luật Dân sự (viết tắt là BLDS) năm 1995 đã dành hai Điều 623 và 624 để
quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định
này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 2005 (Điều 619 và Điều 620),
BLDS năm 2015 (Điều 598). Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS)
năm 2003 cũng đã quy định “Người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục
hồi danh dự, quyền lợi” (Điều 30) [47; tr. 17-18]. Và một bước tiến quan
trọng là ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (viết tắt
là Luật TNBTCNN) chính thức được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội
khóa XII, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010, đây là đạo luật quy định riêng
về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do hành vi
trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra, trong đó cũng quy định cụ
thể việc bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Để cụ
thể hóa các quy định của Luật này, ngày 01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ
Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã liên tịch ban hành Thông
tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC-
BNN&PTNT hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong hoạt động tố tụng hình sự TTHS (viết tắt là Thông tư liên tịch số 05).
Với sự ra đời của Luật TNBTCNN và Thông tư liên tịch số 05, những
nội dung về đối tượng được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường, tiêu
3
chí xác định thiệt hại và mức bồi thường, kinh phí, cơ quan có trách nhiệm
bồi thường và đặc biệt là nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường được quy
định cụ thể theo hướng bảo đảm quyền con người; tạo cơ chế thuận lợi giúp
cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường do hành vi gây
thiệt hại của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong
hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thi hành Luật
TNBTCNN cho thấy, so với lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án dân sự,
số lượng vụ việc giải quyết bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố
tụng hình sự chiếm tỷ lệ lớn và hầu hết các vụ việc trong hoạt động tố tụng
hình sự thường là những vụ việc phức tạp, kéo dài, tạo ra sự quan tâm lớn
trong dư luận xã hội. Trong quá trình giải quyết bồi thường vẫn còn tình trạng
đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, làm cho vụ việc
chậm được thụ lý và việc giải quyết bị kéo dài vượt quá thời hạn theo quy
định của Luật TNBTCNN chưa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại và gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Nhằm nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện cơ
sở xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng
hình sự, từ đó, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con
người trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam, tác giả lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà
nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, đã có các đề tài, luận văn, báo cáo, hội thảo về lĩnh
vực TNBTCNN, tiêu biểu có thể kể đến:
- Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng gây ra, Luận án Tiến sĩ Luật học – Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
- Hoàng Xuân Hoan (2013), Pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên
4
thế giới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật Đại học Quốc gia;
- Trần Việt Hưng (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
nhà nước trong THADS ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Luận văn Thạc sĩ - Đại học Luật Hà Nội;
- Trần Quyết Thắng (2007), Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự Việt
Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học;
Một số bài viết, báo cáo liên quan:
- Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Oan và sai trong tố tụng
hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Minh oan trong tố tụng
hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Dương Thanh Mai và Đỗ Đình Lương (2002), “Trách nhiệm, thủ tục bồi
thường thiệt hại đối với oan, sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Dương Thanh Mai và Nguyễn Hoàng Hạnh (2001), “Bồi thường thiệt
hại đối với oan sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp;
- Đỗ Đình Lương và Hà Tú Cầu (2001), “Bàn về khái niệm oan, sai và
căn cứ pháp lý xác định oan, sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
- Đưa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn
đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố
tụng hình sự.
- Đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó xác định phương hướng,
5
giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường nhà
nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bồi thường
thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại cho
người bị oan nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người.
- Đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua
cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình
sự; thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại (viết tắt là BTTH)
qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp giảm oan, sai và
nâng cao hiệu quả công tác bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các khái niệm, nội dung pháp luật về BTTH (về vật chất và
tinh thần) cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS
gây ra từ năm 2010 đến năm 2015 trong phạm cả nước.
Đề tài không bao gồm toàn bộ phạm vi bồi thường của Nhà nước nói
chung và các hoạt động tố tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính và lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong phạm vi luận văn, tác giả
chỉ nghiên cứu về lĩnh vực BTTH cho người bị oan trong TTHS làm cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về BTTH trong TTHS.
6
5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu chuyên khảo với những đóng góp về
mặt khoa học trong việc phân tích một cách tương đối toàn diện các vấn đề về
cơ sở lý luận và thực tiễn việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền được
BTTH của người bị oan trong các giai đoạn TTHS, góp phần hoàn thiện pháp
luật về BTTH cho người bị oan. Kết quả nghiên cứu luận văn có những điểm
mới về mặt khoa học như sau:
Thứ nhất, phân tích và làm rõ các khái niệm người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự, cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự..., các nguyên tắc xác định phạm vi trách nhiệm bồi
thường, cơ quan tố tụng có trách nhiệm bồi thường; các nguyên tắc xác định
tính chất, mức độ thiệt hại; tính khả thi của quá trình BTTH; vai trò, đặc
điểm, nội dung, yêu cầu của quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ hai, sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con
người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự qua các thời kỳ, đồng thời chỉ ra những tồn tại của pháp
luật hiện hành về vấn đề này.
Thứ ba, phân tích những yêu cầu khách quan và kiến nghị các giải pháp
cụ thể vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, trên
cơ sở tổng quan của hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với yêu cầu mới.
6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,
xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý
luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, luật dân sự, những lý luận có tính
phổ biến ở một số quốc gia về lĩnh vực này.
7
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực
tiếp sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ
thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu của các bộ môn khoa học khác như phương pháp
luận so sánh, phương pháp thống kê...
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết
thực trong việc hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan trong hoạt
động TTHS, tạo điều kiện cho việc bảo đảm các quyền con người, quyền
công dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thi hành công vụ trong
hoạt động TTHS, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai và góp phần
hội nhập khu vực cũng như hội nhập quốc tế.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan
nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan
đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS ở Việt Nam; đồng thời có
thể phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập pháp luật về lĩnh vực này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người thông qua
cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về
bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ 2010 đến 2015.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi
thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO
NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về quyền con người
Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền
văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của
tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên
thế giới” [54, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế
giới có sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên
rất nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50
định nghĩa về quyền con người” [54, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn
đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào sự nhìn
nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó.
Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con
người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có
tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc
sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ
bản của con người” [54, tr.41].
Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động
khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết
chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn
hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha,
tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong
kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến
9
ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được
hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [54, tr.42].
Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp
độ quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người
ở góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những
giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi
giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động của
cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; của
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của người
tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam đã thể hiện rõ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt
để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt
động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ
không tránh khỏi những sai sót nhất định:
10
Xã hội hiện đại của chúng ta ngày càng đòi hỏi sự an toàn.
Đòi hỏi đó làm phát sinh tư tưởng cho rằng mọi rủi ro đều phải
được bảo hiểm, rằng mọi thiệt hại phải được bồi thường nhanh
chóng và toàn bộ, rằng xã hội không chỉ phải bồi thường những
thiệt hại do chính xã hội gây ra mà còn phải bồi thường những thiệt
hại mà xã hội đã không ngăn ngừa được [27, tr.772].
Theo đó, xã hội càng hiện đại, văn minh càng đỏi hỏi tính trách nhiệm
cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối với các chủ thể, trong đó có Nhà nước.
Nhà nước phải là hiện thân, là mẫu hình của tính trách nhiệm toàn vẹn nhất
trong xã hội.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt
động TTHS thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi
thường. Oan theo nghĩa thông thường là “bị quy cho tội mà bản thân không
phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu” [64, tr.744]
hay theo Từ điển Tiếng Việt “oan” là một người “bị quy tội không đúng, phải
chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý” [65, tr.1269]. Còn dưới góc độ
khoa học tố tụng hình sự, có nhận thức như sau:
- Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại bao gồm:
- Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì
người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
- Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam
vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
- Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù
có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết
định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện
hành vi phạm tội;
11
- Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường
hợp quy định trên đây mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành
vi phạm tội (người bị khởi tố nhưng được tại ngoại) [60, tr. 54].
Một khái niệm cũng tương đối gần với khái niệm “oan” mà hay được
nhắc tới đó là khái niệm “sai”. Theo từ điển tiếng Việt thì “sai” được hiểu là
“không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong TTHS,
việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (viết tắt
CQTHTT), người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách không khách
quan, trái với những quy định của pháp luật. Nói cách khác “sai” trong
TTHS được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án
hình sự của CQTHTT, người tiến hành tố tụng không đúng với qui định của
pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào xác
định các tiêu chí đánh giá oan, sai trong các giai đoạn TTHS. Theo giải thích
trên thì khái niệm “sai” có phạm vi rộng hơn so với khái niệm “oan”, việc làm
“oan” người vô tội luôn là hệ quả của “sai”. Không phải trường hợp hành vi
„sai‟ của CQTHTT đều dẫn đến việc làm “oan” người vô tội. Tuy nhiên, việc
phân biệt thế nào là “oan”, “sai” trong hoạt động TTHS là một vấn đề phức tạp
cả về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định [9]. Thực tiễn lập pháp cho
thấy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng không phân biệt hai khái niệm “oan”, “sai”
mà chỉ quy định các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Luật TNBTCNN
chỉ quy định các đối tượng bị “oan” mới được yêu cầu BTTH; còn các trường
hợp bị “sai” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật. Có tác giả cho rằng,
trường hợp công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so
12
với tội danh trên thực tế đã phạm hoặc bị tòa án áp dụng hình phạt nặng hơn so
với hình phạt mà hành vi phạm tội của họ phải thực hiện và bản án đã được tòa
án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn về tội danh hoặc hình phạt mà tòa án cấp
dưới đã xét xử thuộc nội hàm của khái niệm “oan” trong TTHS là chưa có tính
thuyết phục vì không phù hợp với thực tiễn lập pháp của các quốc gia trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng; trường hợp này cũng không nằm trong
phạm vi được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và phạm vi của
“oan” như sau:
- Thứ nhất, “oan” là trường hợp người không thực hiện hành vi phạm
tội nhưng bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội diên của
khái niệm này chỉ ra rằng chỉ những người bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của BLTTHS nhưng sau đó được xác định
rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu
thành tội phạm mới được xác định là “oan”.
- Thứ hai, người bị tạm giữ oan là người hoàn toàn không có hành vi vi
phạm pháp luật (bao gồm luật hình sự và các ngành luật khác: luật hành
chính, lao động, dân sự, kinh tế…). Trường hợp bị tạm giam oan, thi hành án
oan là người đã có hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đủ yếu tố cấu
thành tội phạm.
- Thứ ba, người bị tạm giữ oan là người thực tế không thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật hình sự; còn các hành vi vi phạm khác như vi phạm pháp
luật dân sự, kinh tế… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN.
Đối với người bị tạm giam, bị thi hành án oan là những người có hoặc không
có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đã được các cơ quan THTT ra quyết
định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không phạm tội do không cấu thành
tội phạm hoặc được Tòa án tuyên bố không phạm tội.
13
Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Oan trong TTHS là việc một
người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu
thành tội phạm nhưng đã bị các CQTHTT áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong
hoạt động tố tụng hình sự
Bồi thường nhà nước là khái niệm xuất hiện từ thời kỳ cận đại, sau khi
giai cấp tư sản làm cách mạng dành được chính quyền vào thế kỷ XVIII ở
phương Tây. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước với tính cách là một loại
hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ
sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, có
những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu những hậu quả pháp lý
phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà nước và các cán bộ, công
chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được
phát sinh từ các hoạt động mang tính công quyền, do cơ quan nhà nước hoặc
các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước thực hiện [47, tr. 15-17].
Cơ chế bồi thường nhà nước bản chất là bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong pháp luật dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức
bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, dựa trên nguyên tắc bình
đẳng, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại. Như vậy, mặc dù bản chất của quan hệ giữa Nhà nước và công dân
là quan hệ pháp luật công nhưng quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước
phát sinh từ quan hệ công lại mang bản chất của quan hệ dân sự. Như vậy, cơ
sở của chế định bồi thường nhà nước dựa trên các quyền con người, quyền
của công dân, được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi Nhà
14
nước. Hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ mà
gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì Nhà nước với tư cách người sử dụng lao
động, trước hết phải chịu trách nhiệm bồi thường [47, tr. 32].
Tuy nhiên, khác với bồi thường thiệt hại thông thường là trách nhiệm
của cá nhân, tổ chức gây thiệt hại thì cơ chế bồi thường nhà nước cho người
bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm Nhà nước phải khắc
phục hậu quả mà người có thẩm quyền THTT gây ra do xâm phạm quyền tư
pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi
phục danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người, của công dân.
Gây oan là một việc làm nhạy cảm trong hoạt động tư pháp nói chung,
hoạt động TTHS nói riêng. Hoạt động của CQTHTT chiếm một vị trí vai trò
hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước phản ánh sâu sắc và đầy đủ bản
chất của công lý, của quyền tư pháp và thể hiện rõ đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Bản thân CQTHTT trước hết là một loại cơ quan nhà nước thực hiện chức
năng nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng do luật định nhằm
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Trong đó, người tiến hành tố tụng là người
đại diện quyền lực Nhà nước để giải quyết khách quan, đúng pháp luật những
vụ việc theo trình tự, thủ tục nhất định. Hoạt động của họ trong khuôn khổ
nhiệm vụ được giao chính là hoạt động công vụ nhân danh Nhà nước bảo vệ
quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Bên cạnh những hoạt động tích
cực thì đôi lúc họ cũng gặp phải những sai lầm vì nguyên nhân này hay
nguyên nhân khác. Do vậy bản thân họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước,
trước nhân dân về những sai lầm đó. Nhưng nếu để các cá nhân người thi
hành công vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường trực tiếp cho những người bị
thiệt hại thì đôi khi sẽ ảnh hưởng đến tính tích cực và chủ động của nhân viên
Nhà nước khi thi hành công vụ, bởi đây thực chất là trách nhiệm của Nhà
15
nước. Do đó hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phân định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do oan theo nguyên tắc là sẽ có cơ quan đại diện
Nhà nước để giải quyết bồi thường phát sinh từ hoạt động tố tụng: đó có thể là
một cơ quan độc lập hoặc là chính CQTHTT đã gây ra oan cho người bị thiệt
hại, còn người tiến hành tố tụng đã gây oan có thể phải chịu trách nhiệm hoàn
trả cho Nhà nước một phần tiền bồi thường mà Nhà nước đã chi trả. Như vậy,
đặc điểm của cơ chế bồi thường nhà nước cho người oan trong hoạt động tố
tụng hình sự, cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ
bồi thường thiệt hại cho người bị oan thì Nhà nước chính là chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường do hành vi làm oan người vô tội của người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng gây ra, trong đó, Nhà nước có thể giao một cơ quan thay
mình đứng ra giải quyết bồi thường. Đó có thể là một cơ quan độc lập hay
chính là cơ quan tiến hành tố tụng đã ra thiệt hại, tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường vẫn thuộc trách nhiệm của Nhà nước.
Thứ hai, chủ thể được hưởng bồi thường là người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự bị thiệt hại hoặc cả thân nhân của họ hoặc người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ví dụ, trường hợp một cá nhân bị đi tù oan, thì
ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối với chủ thể đó,
Nhà nước còn phải xem xét trách nhiệm bồi thường của mình đối với những
thiệt hại mà thân nhân hay người có liên quan tới chủ thể bị tù oan phải gánh
chịu phát sinh từ sự kiện đó.
Thứ ba, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tuy nhiên
BTTH cho người bị oan trong TTHS có đặc thù thể hiện rõ ở sự mâu thuẫn về
quyền lợi giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong đó bên gây thiệt hại
là người THTT, CQTHTT bên bị thiệt hại là người bị oan. Bản thân quá trình
16
này có đặc điểm là để khắc phục hậu quả xấu do người THTT gây ra đối với
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị oan.
Thứ tư, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng
hình sự là sự bù đắp tổn thất, mất mát về vật chất hoặc tinh thần và khôi phục
danh dự, uy tín, nhân phẩm cho người bị oan. Tuy nhiên không phải trường
hợp thiệt hại nào cũng có thể xác định chính xác mức độ thiệt hại, nhất là thiệt
hại về tinh thần. Trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương xứng
với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa, vì nếu không xác định được chính xác thiệt
hại mà bỏ qua việc bồi thường thì có nghĩa là trật tự pháp luật bị xâm phạm,
quyền lợi hợp pháp của cá nhân không được pháp luật bảo vệ. Với những tổn
thất về tinh thần, sự bù đắp của việc BTTH có ý nghĩa an ủi, chia sẻ những mất
mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh chịu, góp phần giúp
cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì họ phải chịu đựng.
Đó cũng là đạo lý cần được giữ gìn thông qua sự điều chỉnh của pháp luật, và
mang ý nghĩa tinh thần của một sự bù đắp có tính vật chất, tài sản.
Qua những phân tích trên có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho người bị oan trong hoạt động TTHS là một loại trách nhiệm nhà nước
trong đó Nhà nước phải bồi thường cho người thiệt hại và người tiến hành tố
tụng gây thiệt hại có thể phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Nhà nước tùy
từng trường hợp. Bản chất của loại trách nhiệm này xuất phát từ tính chất của
hoạt động công vụ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoạt động
nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội.
CQTHTT và người tiến hành tố tụng là những thiết chế đại diện cho quyền
lực nhà nước khi hoạt động tố tụng gây thiệt hại cho công dân thì Nhà nước
phải chịu trách nhiệm về hoạt động của các cơ quan đại diện cho mình tức là
phải có trách nhiệm khắc phục những tổn thất gây ra. Từ những phân tích trên
có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm
17
quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
cho người bị oan, nhằm bù đắp, đền bù thiệt hại vật chất, tinh thần và khôi
phục danh dự, uy tín cho người đó.
Bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
do người có thẩm quyền trong CQTHTT gây ra vừa mang tính đặc thù của bồi
thường dân sự là mang tính chất đền bù, vừa mang đặc thù của quyền tư pháp
là nhằm khẳng định sự nghiêm minh, tính công bằng, dân chủ của pháp luật.
Như vậy, Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật và biện
pháp thi hành để thực hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm khắc phục những
hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần mà người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đã gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những
tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
Tóm lại, từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về người bị
oan, về cơ chế bồi thường cho người bị oan, tôi cho rằng bảo đảm quyền con
người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động
tố tụng hình sự thể hiện trong việc xây dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TTHS với
người bị oan nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan
của con người, của người bị oan được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự
Thiệt hại, dưới góc độ ngôn ngữ học, được hiểu là “mất mát, hư hỏng
18
nặng nề về người và của” [64]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [50].
Dưới góc độ luật thực định, không có một khái niệm cụ thể về thiệt hại, tuy
nhiên, từ cách tiếp cận khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” trong
quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS quy định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần, trong đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được xác định là trách nhiệm bù đắp
tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra,
bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút và trách nhiệm của người đã gây thiệt hại về tinh
thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi,
cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt
hại. Trong lĩnh vực pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật
TNBTCNN (Điều 2) quy định đối tượng được bồi thường bao gồm “Cá nhân,
tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần...”.
Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện nay, dưới góc độ thuật ngữ
và dưới góc độ khoa học pháp lý thì “thiệt hại có thể hiểu là sự không
nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên
ngoài” [47, tr.31]. Cụ thể, thiệt hại bao gồm: thiệt hại về chật chất và thiệt
hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, uy tín,
nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân và thiệt hại về vật
chất bao gồm: tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để
khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được
mà đáng ra thu được.
19
Về nội dung BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
của các quốc gia đều thừa nhận bồi thường đối với cả thiệt hại vật chất và
thiệt hại tinh thần và bồi thường đối với các loại thiệt hại khác do người bị
oan yêu cầu bồi thường trong trường hợp người có đủ cơ sở và căn cứ chứng
minh sự tồn tại của thiệt hại đó. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia quy
định về thiệt hại được bồi thường là khác nhau, tùy vào quan điểm pháp luật
và sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất
Các loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị
xâm phạm, loại thiệt hại này bao gồm các trường hợp tài sản đã bị phát mại,
bị mất; trường hợp tài sản bị hư hỏng; trường hợp có thiệt hại phát sinh do
việc không sử dụng, khai thác tài sản; các khoản tiền đã nộp vào ngân sách
Nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu,
thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền; Thiệt
hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại về vật chất do người
bị thiệt hại chết, loại thiệt hại này có thể được xem xét bồi thường đối với các
khoản tiền chi phí thực tế trước khi người thiệt hại bị chết mà người thân của
họ đã phải chi trả như chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người
bị thiệt hại trước khi chết như: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi
cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế; chi phí chiếu,
chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu theo chỉ
định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ
cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết
khác trước khi người bị thiệt hại chết như chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí cho việc mai
táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; tiền cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
20
Thiệt hại về vật chất do tổn hại về sức khỏe, các khoản được chi trả đối
với loại thiệt hại này có thể bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi
dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt
hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí
hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong
thời gian điều trị; trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động
và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường bao
gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Về đối tượng được bồi thường, đối tượng được bồi thường đối với thiệt
hại vật chất bao gồm chính người bị thiệt hại và những người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan. Như trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những
người thuộc hàng thừa kế, những người được hưởng cấp dưỡng từ người bị
thiệt hại hay những người chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. Hoặc
trong trường hợp người bị thiệt hại phải chịu tổn thất về sức khỏe, ảnh hưởng
tới sức lao động thì những người chăm sóc sức khỏe hay những người cấp
dưỡng và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể được bồi
thường theo quy định của pháp luật.
Về cách thức xác định thiệt hại, việc xác định đối với thiệt hại vật chất
thường được xác định trên cơ sở những xác minh thiệt hại thực tế căn cứ vào
giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn
kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản tại thời điểm giải quyết bồi thường,
chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để
sửa chữa, khôi phục lại tài sản; thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong
điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra. Đối với thiệt hại vật
chất do thu nhập bị giảm sút thì việc xác định thiệt hại bồi thường được căn
cứ trên thu nhập thực tế bị mất hay mức thu nhập trung bình của người bị thiệt
hại hoặc những người có cùng ngành nghề tương tự.
21
1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần
Về loại thiệt hại được bồi thường, theo quy định pháp luật và quan
điểm hiện nay tại hầu khắp các quốc gia, về cơ bản, các loại thiệt hại phi vật
chất được xác định bao gồm thiệt hại do tổn thất về tinh thần, thiệt hại do
danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại. Các loại thiệt hại này có thể phát sinh
từ những thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian tạm giữ, tạm giam,
chấp hành hình phạt tù, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp
người bị thiệt hại chết, trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm hay thiệt hại
do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án mà không bị tạm giữ, tạm giam.
Loại thiệt hại tổn thất về tinh thần phát sinh từ tài sản bị xâm phạm hay
các chi phí cơ hội bị mất có thể được bồi thường tuy nhiên do việc xác minh
đối với những loại thiệt hại này thường là phức tạp khó định lượng nên việc
được bồi thường nằm ở mức độ giới hạn trong pháp luật các quốc gia.
Về đối tượng được bồi thường, việc bồi thường đối với các thiệt hại
phi vật chất có một đặc điểm khác với việc bồi thường đối với thiệt hại vật
chất, cụ thể, việc xem xét bồi thường đối với các thiệt hại vật chất chỉ được
xem xét đối với người bị thiệt hại trực tiếp. Còn thiệt hại phi vật chất về tinh
thần, danh dự, nhân phẩm là thiệt hại có thể được xem xét đối với bản thân
những người thân thích với người bị thiệt hại hoặc những người có liên quan
tới sự kiện xảy ra.
Về cách thức xác minh thiệt hại, việc xác định thiệt hại phi vật chất trên
thực tế là tương đối khó khăn và chủ yếu dựa vào cảm tính của người xác minh
thiệt hại và trong quá trình thương lượng giữa người bị thiệt hại với Nhà nước.
Trong nhiều trường hợp Nhà nước ấn định những khoản tiền mang tính cố định
để bồi thường ngay lập tức sau khi có thiệt hại phát sinh mà chưa cần phải xác
minh thiệt hại nhằm bảo đảm tính kịp thời trong việc giải quyết bồi thường.
22
1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác
Bên cạnh hai loại thiệt hại cơ bản nêu trên, có những loại thiệt hại khác
người bị oan phải gánh chịu như họ bị mất chức vụ, quyền hạn, vợ chồng ly
tán, mất quyền đi học tùy vào mức độ và khả năng chứng minh sự phát sinh
thực tế và tính hợp lý của thiệt hại mà cũng có thể được bồi thường, những
loại thiệt hại này không nằm cụ thể tại một trong hai loại thiệt hại vật chất hay
thiệt hại phi vật chất. Các loại thiệt hại này rất đa dạng, có thể là thiệt hại vật
chất, thiệt hại tinh thần hoặc mang tính hỗn hợp giữa vật chất và tinh thần như
chi phí cơ hội hay thiệt hại hình thành trong tương lai (ví dụ trường hợp một
sinh viên đại học bị kết án tù oan sai trong thời kỳ đang học đại học, trường
hợp vụ việc của ông Nguyễn Khắc Công bị tạm giam, truy tố, xét xử trong
thời gian đang học đại học).
1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con
ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt
động tố tụng hình sự
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003
Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt
động TTHS có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã chứng tỏ
sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa được hoàn
thiện nên còn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với những quy
định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà nước dần từng
bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản
pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường thiệt hại cho
người bị oan trong hoạt động TTHS. Đó là:
Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho
23
phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những
điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định
này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước
các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946, vấn đề
quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên
quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì không
được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp
1946 cũng quy định: “Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường
hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Như vậy, các quy định pháp luật TTHS đầu tiên của Nhà nước ta đã chú trọng
bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS –
một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét xử vụ án hình sự.
Tiếp đó Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác ban
hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh thống
nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, hạn
chế những oan, sai trong TTHS.
Để thống nhất về hoạt động BTTH trong TTHS, ngày 23/3/1972,
TANDTC đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng dẫn xét xử bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Văn bản này quy định công chức, viên chức hoặc
người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi hành công vụ,
do hành vi liên quan chặt chẽ đến công tác được giao mà gây thiệt hại cho
người khác thì cơ quan, xí nghiệp phải BTTH theo chế độ trách nhiệm dân sự.
Sau đó cơ quan, xí nghiệp sẽ đòi họ phải hoàn trả tiền bồi thường đó theo
quan hệ lao động. Đây là những quy định chung về BTTH ngoài hợp đồng
trong đó có việc BTTH cho người bị oan trong TTHS. Tuy không trực tiếp
quy định việc bồi thường trong TTHS, nhưng Thông tư 173/UBTP là văn bản
pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc BTTH do làm oan trong thời kỳ
24
này. Cùng với việc BTTH, người THTT có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan
người vô tội cũng bị xử lý tuỳ theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu
truy cứu TNHS. Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán TANDTC, nhưng
Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho
việc BTTH, trong đó có BTTH cho người bị oan trong TTHS.
Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định và ghi nhận quyền con người trong
tố tụng hình sự một cách rõ ràng hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn. Quy định:
“Không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và giam giữ người
phải theo đúng pháp luật” (Điều 69). Ngoài ra, Hiến pháp năm 1980 đã kế
thừa và tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo nhưng dưới hình thức
mới chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn thông qua quy định cho phép thành lập tổ
chức luật sư. Nhằm cụ thể Hiến pháp 1980, ngày 18/12/1987, Hội đồng nhà
nước ban hành Pháp lệnh luật sư; ngày 21/2/1989 ban hành Quy chế đoàn luật
sư quy định cụ thể hoạt động bào chữa của tổ chức luật sư nhằm tránh việc truy
tố, xét xử oan sai, bảo vệ công dân một cách chặt chẽ và khoa học hơn.
Sau khi thay thế Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân, lần đầu tiên
Bộ luật hình sự 1985 đã dành riêng chương X với 19 điều quy định về các tội
xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong chương X, Bộ luật này đã quy định các
tội mà hành vi phạm tội của những người THTT có thể trực tiếp dẫn đến tình
trạng oan, sai cho người vô tội như: Tội truy cứu TNHS người không có tội;
Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án…
Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong
hoạt động TTHS đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy định tại
văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước thời kỳ
này nên những quy định pháp luật về oan, sai và BTTH cho người bị oan
25
trong TTHS còn thiếu quy định cụ thể, đặc thù, vì vậy, việc áp dụng pháp luật
trong thực tế còn hạn chế.
Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử TTHS Việt Nam đó là việc
Nhà nước ban hành BLTTHS 1988, đánh dấu một bước tiến mới của quá trình
pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời cùng với Bộ luật Hình sự
1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Tại
BLTTHS 1988 đã nêu lên nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [33].
Đồng thời, quyền công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản
và những quy định cụ thể trong BLTTHS 1988 đó là các nguyên tắc “bảo
đảm quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các
CQTHTT”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi
thường cho người bị thiệt hại” [33]. Đây là lần đầu tiên vấn đề BTTH cho
người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ thể trong một
văn bản pháp luật. Theo đó, CQTHTT không những phải bồi thường thiệt hại
mà còn phải thực hiện các biện pháp như: khôi phục danh dự, quyền lợi cho
người bị thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần tiếp tục được ghi nhận
và quy định trong Bộ luật Dân sự 1995. Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật
Dân sự 1995 thì các thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
gồm: chi phí hợp lý để khắc phục, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất
hoặc bị giảm sút. Việc BTTH được đặt ra ở ba phương diện là thiệt hại về tài
sản, về sức khoẻ và về tính mạng, trong đó BLDS 1995 đã nêu rõ những thiệt
hại phải bồi thường trong từng nội dung. Việc bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm lại tuỳ thuộc vào sự xem xét
của Toà án. Cùng với việc ban hành BLDS 1995, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 “về việc giải quyết BTTH do công chức,
26
viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra”. Thông tư 54
hướng dẫn thi hành Nghị định này đã tiếp tục cụ thể hoá tinh thần của BLTTHS
và BLDS nói trên. Theo Nghị định số 47/CP, việc BTTH được giải quyết theo
thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt hại có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước, CQTHTT bồi thường cho mình thiệt hại do công
chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra hoặc yêu
cầu toà án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 3). Về cơ bản cách
thức giải quyết này là phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và
cách thức giải quyết bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ
BTTH không thể hiện rõ và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có
những quy định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị
thiệt hại thực hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị
oan sai, không ít vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải
kéo dài sang trình tự tư pháp.
Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị
quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan
tư pháp đối với các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ trách nhiệm của người THTT
và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền
trong hoạt động TTHS gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 đã quy định:
27
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ trưởng cơ
quan điều tra, Điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn mà gây ra thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó
công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Những người đã gây ra
thiệt hại phải có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân
theo quy định của pháp luật (Điều 46).
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 cũng có quy định:
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong khi thực hiện quyền hạn
của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường.
Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho
Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 37).
Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật về giải quyết BTTH do
CQTHTT, người THTT gây ra cho người bị oan trong thời kỳ này về cơ bản
đã được hình thành. Các đạo luật đã quy định cơ sở pháp lý cho việc bồi
thường thiệt hại cho người bị oan trong TTHS. Tuy nhiên, các quy định về
việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền TTHS gây ra và
trách nhiệm hoàn trả của người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra
thiệt hại chưa rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, tuy pháp luật có quy định nhưng suốt
một thời gian dài hiệu quả của những quy định pháp luật này còn hạn chế và
thiếu khả thi.
1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015
Kế thừa những nguyên tắc dân chủ của BLTTHS năm 1988, BLTTHS
năm 2003 còn có những quy định cụ thể hơn về quyền được bồi thường thiệt
hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003 quy định:
Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục
28
hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi
danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây ra thiệt hại có
trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật (Điều 29).
Quy định này thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm việc bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự cho
người bị oan.
Quán triệt tư tưởng, định hướng về cải cách tư pháp được đề ra từ Nghị
quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
của công tác tư pháp trong thời gian tới, nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn,
ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
388/2003/NQ-UBTVQH về “bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra”. Để thực hiện có hiệu quả về
bồi thường oan trong TTHS, ngày 25/3/2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài
chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-
TANDTC-BTP-BQP-BTC hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị
quyết 388. Với mục đích là “khôi phục quyền, lợi ích của người bị oan trong
hoạt động TTHS, nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt
động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” đã tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết BTTH cho người bị oan, trở thành một hiện tượng
công bằng của cải cách tư pháp. Theo đó,
Về căn cứ xác định một người bị oan, theo Điều 1 Nghị quyết 388 bao
gồm: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS huỷ bỏ
quyết định tạm giữ, vì người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật; Quyết định của cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định tạm giam
29
vì người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội; Bản án, quyết định
của toà án có thẩm quyền xác định người đã chấp hành xong hoặc đang chấp
hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình không thực
hiện hành vi phạm tội; Bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động TTHS xác định người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài
các trường hợp trên không thực hiện hành vi phạm tội.
Cùng với việc xác định những trường hợp bị coi là oan, Nghị quyết 388
cũng đưa ra các trường hợp người bị oan không được bồi thường thiệt hại,
bao gồm: Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật;
Người bị xử lý hình sự theo quy định của BLHS 1985, sửa đổi, bổ sung năm
1989, 1991, 1992 và 1997 nhưng nay theo quy định của BLHS 1999 thì
không phải chịu TNHS. Những người không thực hiện hành vi phạm tội mà
cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để
nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm.
Về cách thức bồi thường và xác định thiệt hại được bồi thường, cách
thức bồi thường đối với thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần lần đầu tiên
được lượng hoá thành tiền.
Đối với tổn hại về danh dự thì hình thức bồi thường là xin lỗi, cải chính
công khai tại nơi cư trú của người bị oan. Việc xin lỗi, cải chính công khai
được thực hiện bằng hình thức:
Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi
làm việc của người bị oan có sự tham dự của chính quyền địa
phương của người bị oan cư trú; đại diện cơ quan nơi người bị oan
làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị xã hội mà người bị oan
là thành viên; đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa
phương trong ba số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan hoặc đại
diện hợp pháp của họ có yêu cầu không đăng báo (Điều 4).
30
Thời hạn thực hiện xin lỗi, cải chính công khai là 30 ngày kể từ ngày
bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác
định người bị oan.
Đối với bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị
tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được xác định là mỗi ngày bị tạm
giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được bồi thường ba ngày lương tính
theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết
bồi thường. Nếu người bị oan chết thì những người thân của người này (vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp
nuôi dưỡng người bị oan) được bồi thường chung một khoản tiền bù đắp về
tinh thần là 360 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu chung. Các trường
hợp còn lại được xác định mỗi ngày bị oan được bồi thường một ngày lương
tính theo mức lương tối thiểu chung.
Đối với thiệt hại về vật chất, pháp luật đã phân ra làm hai trường hợp:
người bị oan chết và người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ. Trong trường hợp
người bị oan chết thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản chi phí
cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, mai táng người bị
oan và cả tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị oan đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ thì phải bồi
thường tất cả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức
khoẻ, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị oan…
Đối với tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì
sẽ phải trả lại tài sản nếu còn, không thì sẽ căn cứ vào giá trị tài sản để bồi
thường. Bên cạnh đó nếu thu nhập thực tế của người bị oan bị mất do bị tạm
giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì người bị oan cũng được bồi thường
khoản thu nhập đó.
Về trách nhiệm BTTH, về nguyên tắc, khi xác định một người bị oan,
31
cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan xử lý oan sau cùng,
không phụ thuộc CQTHTT trước đó có xử lý oan một phần. Cách thức phân
định trách nhiệm này khá hợp lý bởi lẽ các CQTHTT là cơ quan pháp luật, do
vậy cơ quan nào xử lý oan thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm bồi thường,
tránh đùn đẩy. Với quy định này, trách nhiệm của các CQTHTT sẽ được nâng
lên, khuyến khích phát hiện những sai phạm (nếu có) của CQTHTT khác
nhằm bảo đảm truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội. Bên cạnh đó
người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây oan do lỗi của mình trong
quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự phải có nghĩa vụ
hoàn trả theo quy định. Thủ trưởng cơ quan đã thực hiện việc bồi thường có
trách nhiệm quy định mức hoàn trả, phương thức hoàn trả mà người có nghĩa
vụ phải thực hiện.
Về thủ tục bồi thường thiệt hại, Nghị quyết 388 đã quy định hai phương
thức: Giải quyết theo thủ tục thương lượng và thủ tục khởi kiện tại toà án.
Người bị oan có thể làm đơn yêu cầu gửi đến cơ quan có trách nhiệm bồi
thường (cơ quan gây oan sau cùng). Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận
đơn việc thương lượng phải được tiến hành. Nếu thương lượng thành thì chậm
nhất là 07 ngày kể từ ngày lập biên bản thương lượng thành, thủ trưởng cơ
quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải ra quyết định bồi thường. Nếu
quá thời hạn mà không thương lượng hoặc thương lượng không thành thì
người bị oan có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn 30
ngày. Theo đó, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân huyện,
quận, thị xã thuộc tỉnh nơi người bị oan cư trú hoặc làm việc và được giải
quyết theo trình tự tố tụng dân sự. Trong trường hợp toà án có thẩm quyền
giải quyết bồi thường đồng thời là cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường thì
cần phân công thành phần hội đồng xét xử là những người không có liên quan
đến việc làm oan. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ ngày
32
luật có hiệu lực hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động TTHS xác định một người bị oan có hiệu lực; kinh phí
bồi thường là một khoản trong ngân sách Nhà nước...
Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 hướng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị quyết 38 đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc.
Để khắc phục những hạn chế, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII ngày
18/6/2009, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt
động bồi thường Nhà nước nói chung và BTTH cho người bị oan, sai trong
TTHS nói riêng.
33
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA
CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015
2.1. Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho
ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự
2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
BLTTHS năm 2015 chỉ quy định những nguyên tắc chung về BTTH
cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự và quyền được bồi thường
của người bị thiệt hại khác, cụ thể Điều 31 quy định như sau:
Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái
pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần
và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng gây ra . Người khác bị thiệt hại do cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà
nước bồi thường thiệt hại (Điều 31).
Một điểm mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 đã khẳng định
bồi thường thiệt hại cho người bị oan là trách nhiệm của Nhà nước, trước đây
quy định trách nhiệm này là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Với
quy định này, đã thể hiện đúng đắn hơn bản chất của cơ chế bồi thường nhà
nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, không có sự nhầm lẫn
34
đây là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, thực chất các cơ quan
đó chỉ đại diện cho Nhà nước thực hiện việc giải quyết bồi thường.
Ngoài ra, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định mở rộng
hơn, cụ thể hơn đối tượng được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự,
trước đây chỉ là quy định chung chung là “Người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự” (Điều 29), BLTTHS 2015 đã liệt kê
cụ thể là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ,
tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan” [44] và cả “trái
pháp luật” có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục
hồi danh dự. Như vậy, với quy định này có thể hiểu không chỉ những người bị
oan được bồi thường mà cả trường hợp “sai” có phát sinh thiệt hại cũng được
Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, trong Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và BLTTHS 2015 có quy
định riêng về thủ tục tố tụng đối với pháp phân, nhưng lại không có quy định
về nguyên tắc bồi thường cho đối tượng này khi bị truy cứu trách nhiệm hình
sự oan, trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
2.1.2. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Với sự ra đời của Luật TNBTCNN (được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010) và Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BNN&PTNT ngày 06/5/2016 của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư
pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự đã tạo ra hệ thống cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh trong việc
bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường cho người bị oan trong hoạt động TTHS.
Mặc khác, những quy định của Luật và văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ
35
chế pháp lý cho việc phòng, chống oan, sai và BTTH cho người bị oan do các
CQTHTT gây ra, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, góp phần
thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta.
Để bảo đảm tính khả thi và tạo cơ chế hữu hiệu cho người bị thiệt hại có
thể thực hiện được quyền bồi thường của mình đối với những thiệt hại do người
tiến hành tố tụng hình sự gây ra, Luật TNBTCNN đã quy định cụ thể trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, cụ thể như sau:
2.1.2.1. Đối tượng được bồi thường
Đối tượng được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự bao
gồm: Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần (sau đây gọi
chung là người bị thiệt hại) trong các trường hợp quy định tại Điều 26 Luật
TNBTCNN và Điều 2 Thông tư liên tịch số 05 thì được Nhà nước bồi thường.
Quy định về đối tượng được bồi thường tại Điều 2 Luật TNBTCNN áp
dụng chung đối với mọi trường hợp bồi thường trong tất cả các lĩnh vực quản
lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, đối tượng BTTH do bị oan trong
TTHS chỉ có thể là cá nhân do chủ thể của tội phạm là cá nhân; pháp nhân, tổ
chức chỉ có quyền yêu cầu BTTH trong trường hợp do việc thu giữ, tạm giữ,
kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp bị oan trong hoạt
động TTHS. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông
qua BLHS 2015, chính thức thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Do
đó, Luật TNBTCNN cần có những sửa đổi, bổ sung về đối tượng được BTTH
trong hoạt động TTHS để phù hợp với quy định pháp luật hình sự mới.
2.1.2.2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại
Theo quy định của Luật TNBTCNN thì thời hiệu yêu cầu bồi thường do
bị oan trong hoạt động TTHS là 02 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của CQTHTT hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp
được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 5).
36
2.1.2.3. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
Theo quy định của Luật TNBTCNN thì người bị thiệt hại do bị oan
trong hoạt động TTHS có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường
giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được
bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 4, Khoản 1).
So với các quy định trước đó thì các quy định về đối tượng, thời hiệu
và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đã được ghi nhận rất cụ thể trong Luật
TNBTCNN. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng khởi đầu cho các quan hệ bồi
thường thiệt hại khi bị oan.
2.1.2.4. Căn cứ và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong
hoạt động TTHS
Theo quy định của khoản 2, Điều 6 Luật TNBTCNN thì việc xác định
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS phải có các căn
cứ sau đây:
- Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
hoạt động TTHS xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi
thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN. Đó là: Người bị tạm giữ
mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS hủy bỏ
quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ
quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm ngăn chặn
hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo
điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác định
tính chất hành vi của người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình
sự hoặc để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tạm giữ được áp dụng
đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp
37
quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết
định truy nã và theo quy định tại BLTTHS thì:
... trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ,
người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo
các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc
Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ
quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ (Điều 117, Khoản 4).
Trên thực tế, những trường hợp được coi là không có căn cứ, không cần
thiết được coi là bị oan và được bồi thường khi lý do để huỷ quyết định tạm
giữ là do người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì,
khi cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp dụng biện pháp
này có thể xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân.
Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành
hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã
thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều
tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh
pháp luật. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với những người đã bị khởi
tố về hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và thi
hành án hình sự. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
chỉ có thể là bị can, bị cáo. Tuy vậy, biện pháp tạm giam không phải áp dụng
cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ
thể được quy định tại Điều 119 của BLTTHS 2015. Như vậy, biện pháp tạm
giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn
38
chặn của tố tụng hình sự, nó ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi chính trị, quyền
tự do của con người. Người bị tam giam bị cách li với xã hội, bị hạn chế một
số quyền công dân. Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giam, Luật
TNBTCNN đã quy định khi người bị tạm giam có bản án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị tạm giam được Nhà nước bồi
thường do họ bị tạm giam oan.
Ngoài ra, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù
có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án
tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì
Nhà nước cũng có trách nhiệm bồi thường. Theo quy định tại BLTTHS, thì:
“Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị
cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp
pháp của họ theo quy định của pháp luật” (Điều 260, Khoản 2). Những
người đã bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, đã chấp hành xong hoặc
đang chấp hành hình phạt, người đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết
định của toà án xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì
người đó sẽ được xem xét BTTH.
Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng không bị tạm giữ,
tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực
hiện hành vi phạm tội. Đây là trường hợp một người tuy không bị áp dụng
các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt tù
có thời hạn nhưng họ đã bị khởi tố, truy tố, xét xử và thi hành án, hay nói
cách khác họ cũng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định
tố tụng đặc trưng của mình khẳng định họ là người có tội và có thể đã buộc
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nataliej4
 
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM nataliej4
 

What's hot (17)

Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sựLuận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
Luận văn: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAYBồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
Bồi thường thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường bộ, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAYLuận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
Luận văn: Trách nhiệm bồi thường trong thi hành án dân sự, HAY
 
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Người bào chữa cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý, HAY
Đề tài: Người bào chữa cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý, HAYĐề tài: Người bào chữa cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý, HAY
Đề tài: Người bào chữa cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khácĐề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
Đề tài: Tội cố ý gây thương tích tổn hại sức khỏe của người khác
 
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
 
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm gây ra, 9đ
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm gây ra, 9đBồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm gây ra, 9đ
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm gây ra, 9đ
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luậtĐề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
Đề tài: Bảo đảm quyền con người của phạm nhân theo pháp luật
 
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM PHẦN CÁC TỘI PHẠM
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 

Similar to Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan

VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTOnTimeVitThu
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....OnTimeVitThu
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan (20)

Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự, HOT
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOTLuận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAYLuận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
Luận văn: Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng, HOT, HAY
 
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nướcLuận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Luận văn: Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAYĐề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
Đề tài: Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
 
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOTĐề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem Số Mệnh
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 

Recently uploaded (20)

60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 

Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HẢI YẾN B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐÀO THỊ HẢI YẾN B¶O §¶M QUYÒN CON NG¦êI TH¤NG QUA C¥ CHÕ BåI TH¦êNG NHµ N¦íC CHO NG¦êI BÞ OAN TRONG HO¹T §éNG Tè TôNG H×NH Sù Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Đào Thị Hải Yến
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ..........................................................................................8 1.1. Những khái niệm có liên quan ......................................................... 8 1.1.1. Khái niệm về quyền con người........................................................... 8 1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự................... 9 1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..................................................................13 1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..............................................................................................17 1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự...................................................................................17 1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất.................................................19 1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần ...............................................21 1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác................................................22 1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.........................................22 1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003......22 1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015.........27
  • 5. Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015.............................................................................33 2.1. Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..............................33 2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 ......................................33 2.1.2. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước .............34 2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ năm 2011 đến 2015...................................................................................53 2.2.1. Thực trạng tình hình oan, sai làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự...............................................53 2.2.2. Thực tiễn việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự ở Việt Nam .....................................................63 2.2.3. Những tồn tại, vướng mắc và những nguyên nhân gây nên trong thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự ........................................................64 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............68 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về bảo đảm quyền con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự .............................................68 3.1.1. Quan điểm của Đảng.........................................................................68 3.1.2. Quan điểm của Nhà nước..................................................................69
  • 6. 3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự......70 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ............................................................70 3.2.2. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự....................71 3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ......73 3.3. Các giải pháp khác..........................................................................80 3.3.1. Nâng cao trình độ, năng lực trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng hình sự trong việc phòng ngừa người bị oan ...............80 3.3.2. Bảo đảm thực hiện tốt và nghiêm chỉnh nguyên tắc độc lập của Tòa án và các cơ quan, người tiến hành tố tụng khác.......................80 3.3.3. Đổi mới công tác kiểm sát của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự .....82 KẾT LUẬN....................................................................................................83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................85
  • 7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTNN: BLDS: BLHS: BLTTHS: CQTHTT: TNBTCNN: TTHS: XHCN: Bồi thường thiệt hại Bộ luật Dân sự Bộ luật Hình sự Bộ luật Tố tụng hình sự Cơ quan tiến hành tố tụng Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Tố tụng hình sự Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc, Việt Nam đã từng bước tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976 (Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982). Công ước này đã tuyên bố: “Bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường” (khoản 5 Điều 9) [47; tr. 29]. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã công nhận quyền được bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (viết tắt là TTHS) gây ra là một trong những quyền cơ bản về dân sự, chính trị của con người. Theo đó, rất nhiều quốc gia đã cụ thể hóa trong các đạo luật với việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những hậu quả do nhân viên nhà nước gây ra trong quá trình thực thi công vụ nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Nhằm tiến tới xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, cũng như thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 là văn bản đầu tiên ghi nhận tương đối rõ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại khi có hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); Hiến pháp năm 1992 quy định “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
  • 9. 2 pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự” (Điều 74). Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5, Điều 31 Hiến pháp năm 2013. Theo đó, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Bộ luật Dân sự (viết tắt là BLDS) năm 1995 đã dành hai Điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong BLDS năm 2005 (Điều 619 và Điều 620), BLDS năm 2015 (Điều 598). Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là BLTTHS) năm 2003 cũng đã quy định “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi” (Điều 30) [47; tr. 17-18]. Và một bước tiến quan trọng là ngày 18/6/2009, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (viết tắt là Luật TNBTCNN) chính thức được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2010, đây là đạo luật quy định riêng về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra, trong đó cũng quy định cụ thể việc bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Để cụ thể hóa các quy định của Luật này, ngày 01/11/2012, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BTC- BNN&PTNT hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự TTHS (viết tắt là Thông tư liên tịch số 05). Với sự ra đời của Luật TNBTCNN và Thông tư liên tịch số 05, những nội dung về đối tượng được bồi thường, phạm vi trách nhiệm bồi thường, tiêu
  • 10. 3 chí xác định thiệt hại và mức bồi thường, kinh phí, cơ quan có trách nhiệm bồi thường và đặc biệt là nguyên tắc và trình tự thủ tục bồi thường được quy định cụ thể theo hướng bảo đảm quyền con người; tạo cơ chế thuận lợi giúp cho người bị thiệt hại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường do hành vi gây thiệt hại của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thi hành Luật TNBTCNN cho thấy, so với lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án dân sự, số lượng vụ việc giải quyết bồi thường cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự chiếm tỷ lệ lớn và hầu hết các vụ việc trong hoạt động tố tụng hình sự thường là những vụ việc phức tạp, kéo dài, tạo ra sự quan tâm lớn trong dư luận xã hội. Trong quá trình giải quyết bồi thường vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, làm cho vụ việc chậm được thụ lý và việc giải quyết bị kéo dài vượt quá thời hạn theo quy định của Luật TNBTCNN chưa bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và gây bức xúc trong dư luận xã hội. Nhằm nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, từ đó, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình tìm hiểu, đã có các đề tài, luận văn, báo cáo, hội thảo về lĩnh vực TNBTCNN, tiêu biểu có thể kể đến: - Lê Mai Anh (2002), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Luận án Tiến sĩ Luật học – Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; - Hoàng Xuân Hoan (2013), Pháp luật của Việt Nam và một số quốc gia trên
  • 11. 4 thế giới về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia; - Trần Việt Hưng (2014), Thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong THADS ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Lê Thái Phương (2006), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước, Luận văn Thạc sĩ - Đại học Luật Hà Nội; - Trần Quyết Thắng (2007), Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sỹ luật học; Một số bài viết, báo cáo liên quan: - Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Oan và sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Nguyễn Ngọc Chí và Đào Thị Hà (2003), “Minh oan trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Dương Thanh Mai và Đỗ Đình Lương (2002), “Trách nhiệm, thủ tục bồi thường thiệt hại đối với oan, sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Dương Thanh Mai và Nguyễn Hoàng Hạnh (2001), “Bồi thường thiệt hại đối với oan sai trong tố tụng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; - Đỗ Đình Lương và Hà Tú Cầu (2001), “Bàn về khái niệm oan, sai và căn cứ pháp lý xác định oan, sai trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát - Đưa ra cái nhìn toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về các vấn đề pháp lý, thực tiễn liên quan đến quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giá thực trạng pháp luật, trên cơ sở đó xác định phương hướng,
  • 12. 5 giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. 3.2. Mục tiêu cụ thể - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. - Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại cho người bị oan nhìn từ góc độ bảo đảm quyền con người. - Đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Là các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại (viết tắt là BTTH) qua đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp giảm oan, sai và nâng cao hiệu quả công tác bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu các khái niệm, nội dung pháp luật về BTTH (về vật chất và tinh thần) cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra từ năm 2010 đến năm 2015 trong phạm cả nước. Đề tài không bao gồm toàn bộ phạm vi bồi thường của Nhà nước nói chung và các hoạt động tố tụng trong các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu về lĩnh vực BTTH cho người bị oan trong TTHS làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về BTTH trong TTHS.
  • 13. 6 5. Những đóng góp của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu chuyên khảo với những đóng góp về mặt khoa học trong việc phân tích một cách tương đối toàn diện các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền được BTTH của người bị oan trong các giai đoạn TTHS, góp phần hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan. Kết quả nghiên cứu luận văn có những điểm mới về mặt khoa học như sau: Thứ nhất, phân tích và làm rõ các khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự..., các nguyên tắc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường, cơ quan tố tụng có trách nhiệm bồi thường; các nguyên tắc xác định tính chất, mức độ thiệt hại; tính khả thi của quá trình BTTH; vai trò, đặc điểm, nội dung, yêu cầu của quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Thứ hai, sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự qua các thời kỳ, đồng thời chỉ ra những tồn tại của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Thứ ba, phân tích những yêu cầu khách quan và kiến nghị các giải pháp cụ thể vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này, trên cơ sở tổng quan của hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với yêu cầu mới. 6. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, nhất là các quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học luật hình sự, luật TTHS, luật dân sự, những lý luận có tính phổ biến ở một số quốc gia về lĩnh vực này.
  • 14. 7 6.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu của các bộ môn khoa học khác như phương pháp luận so sánh, phương pháp thống kê... 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực trong việc hoàn thiện pháp luật về BTTH cho người bị oan trong hoạt động TTHS, tạo điều kiện cho việc bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người thi hành công vụ trong hoạt động TTHS, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan, sai và góp phần hội nhập khu vực cũng như hội nhập quốc tế. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong xây dựng, sửa đổi và thực thi các văn bản pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người trong pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS ở Việt Nam; đồng thời có thể phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập pháp luật về lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Lời cam đoan; Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự từ 2010 đến 2015. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự.
  • 15. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm về quyền con người Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của nhân loại mà trong đó, những giá trị này “được đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên thế giới” [54, tr.14]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới có sự khác nhau về chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, do đó, hình thành nên rất nhiều cách hiểu khác nhau về quyền con người. Cho đến nay, có đến “gần 50 định nghĩa về quyền con người” [54, tr.41], theo đó, mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề về quyền con người khác nhau bởi lẽ mỗi định nghĩa lại phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân sống tại quốc gia đó, dân tộc đó. Ở cấp độ quốc tế, Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã định nghĩa “quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [54, tr.41]. Ở Việt Nam, quyền con người thể hiện qua những ý niệm và hành động khoan dung nhân đạo xuất phát từ hàng nghìn năm lịch sử đất nước đoàn kết chống thù trong giặc ngoài, hun đúc từ nhiều thế hệ tạo nên những giá trị văn hóa, tinh thần tiêu biểu của dân tộc. Đó là sự cần cù, kiên trì, nhân ái, vị tha, tinh thần quật cường, đoàn kết của con người Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến
  • 16. 9 ngày nay. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử đó, ở nước ta, quyền con người được hiểu là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [54, tr.42]. Như vậy, từ khái niệm mang cấp độ quốc tế đến khái niệm mang cấp độ quốc gia, mà ở đây là nước Việt Nam, cho thấy dù nhìn quyền con người ở góc độ nào và cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ; là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai đoạn lịch sử. 1.1.2. Khái niệm người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Tố tụng hình sự là quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình đó bao gồm nhiều hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiện rõ tư tưởng “lấy dân làm gốc”, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hoạt động tố tụng hình sự nói riêng, hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung trong bất cứ lĩnh vực nào cũng sẽ không tránh khỏi những sai sót nhất định:
  • 17. 10 Xã hội hiện đại của chúng ta ngày càng đòi hỏi sự an toàn. Đòi hỏi đó làm phát sinh tư tưởng cho rằng mọi rủi ro đều phải được bảo hiểm, rằng mọi thiệt hại phải được bồi thường nhanh chóng và toàn bộ, rằng xã hội không chỉ phải bồi thường những thiệt hại do chính xã hội gây ra mà còn phải bồi thường những thiệt hại mà xã hội đã không ngăn ngừa được [27, tr.772]. Theo đó, xã hội càng hiện đại, văn minh càng đỏi hỏi tính trách nhiệm cao hơn, đầy đủ và toàn diện hơn đối với các chủ thể, trong đó có Nhà nước. Nhà nước phải là hiện thân, là mẫu hình của tính trách nhiệm toàn vẹn nhất trong xã hội. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS thì vấn đề quan trọng phải xác định đúng đối tượng được bồi thường. Oan theo nghĩa thông thường là “bị quy cho tội mà bản thân không phạm, phải chịu sự trừng phạt mà bản thân không đáng phải chịu” [64, tr.744] hay theo Từ điển Tiếng Việt “oan” là một người “bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý” [65, tr.1269]. Còn dưới góc độ khoa học tố tụng hình sự, có nhận thức như sau: - Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được bồi thường thiệt hại bao gồm: - Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; - Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; - Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
  • 18. 11 - Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp quy định trên đây mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội (người bị khởi tố nhưng được tại ngoại) [60, tr. 54]. Một khái niệm cũng tương đối gần với khái niệm “oan” mà hay được nhắc tới đó là khái niệm “sai”. Theo từ điển tiếng Việt thì “sai” được hiểu là “không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Trong TTHS, việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng (viết tắt CQTHTT), người tiến hành tố tụng giải quyết vụ án một cách không khách quan, trái với những quy định của pháp luật. Nói cách khác “sai” trong TTHS được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của CQTHTT, người tiến hành tố tụng không đúng với qui định của pháp luật, không đáp ứng được yêu cầu khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay trong hệ thống pháp luật nước ta chưa có một văn bản nào xác định các tiêu chí đánh giá oan, sai trong các giai đoạn TTHS. Theo giải thích trên thì khái niệm “sai” có phạm vi rộng hơn so với khái niệm “oan”, việc làm “oan” người vô tội luôn là hệ quả của “sai”. Không phải trường hợp hành vi „sai‟ của CQTHTT đều dẫn đến việc làm “oan” người vô tội. Tuy nhiên, việc phân biệt thế nào là “oan”, “sai” trong hoạt động TTHS là một vấn đề phức tạp cả về mặt lý luận cũng như pháp luật thực định [9]. Thực tiễn lập pháp cho thấy, pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng không phân biệt hai khái niệm “oan”, “sai” mà chỉ quy định các trường hợp được bồi thường thiệt hại. Luật TNBTCNN chỉ quy định các đối tượng bị “oan” mới được yêu cầu BTTH; còn các trường hợp bị “sai” không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật. Có tác giả cho rằng, trường hợp công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so
  • 19. 12 với tội danh trên thực tế đã phạm hoặc bị tòa án áp dụng hình phạt nặng hơn so với hình phạt mà hành vi phạm tội của họ phải thực hiện và bản án đã được tòa án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn về tội danh hoặc hình phạt mà tòa án cấp dưới đã xét xử thuộc nội hàm của khái niệm “oan” trong TTHS là chưa có tính thuyết phục vì không phù hợp với thực tiễn lập pháp của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng; trường hợp này cũng không nằm trong phạm vi được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm và phạm vi của “oan” như sau: - Thứ nhất, “oan” là trường hợp người không thực hiện hành vi phạm tội nhưng bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nội diên của khái niệm này chỉ ra rằng chỉ những người bị tạm giữ, tạm giam, bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLTTHS nhưng sau đó được xác định rằng họ không thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi của họ không cấu thành tội phạm mới được xác định là “oan”. - Thứ hai, người bị tạm giữ oan là người hoàn toàn không có hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm luật hình sự và các ngành luật khác: luật hành chính, lao động, dân sự, kinh tế…). Trường hợp bị tạm giam oan, thi hành án oan là người đã có hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. - Thứ ba, người bị tạm giữ oan là người thực tế không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự; còn các hành vi vi phạm khác như vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN. Đối với người bị tạm giam, bị thi hành án oan là những người có hoặc không có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đã được các cơ quan THTT ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không phạm tội do không cấu thành tội phạm hoặc được Tòa án tuyên bố không phạm tội.
  • 20. 13 Từ những nhận định trên, có thể hiểu: Oan trong TTHS là việc một người trên thực tế không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, không cấu thành tội phạm nhưng đã bị các CQTHTT áp dụng biện pháp ngăn chặn, bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. 1.1.3. Khái niệm cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Bồi thường nhà nước là khái niệm xuất hiện từ thời kỳ cận đại, sau khi giai cấp tư sản làm cách mạng dành được chính quyền vào thế kỷ XVIII ở phương Tây. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước với tính cách là một loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt, chỉ xuất hiện trong những điều kiện và có cơ sở pháp luật cụ thể. Nhà nước, với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật, có những quyền và nghĩa vụ nhất định, đồng thời phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ những quan hệ pháp luật đó. Nếu Nhà nước và các cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ có hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường. Theo đó, trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được phát sinh từ các hoạt động mang tính công quyền, do cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức nhân danh Nhà nước thực hiện [47, tr. 15-17]. Cơ chế bồi thường nhà nước bản chất là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện thỏa thuận, định đoạt giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Như vậy, mặc dù bản chất của quan hệ giữa Nhà nước và công dân là quan hệ pháp luật công nhưng quan hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước phát sinh từ quan hệ công lại mang bản chất của quan hệ dân sự. Như vậy, cơ sở của chế định bồi thường nhà nước dựa trên các quyền con người, quyền của công dân, được pháp luật ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện bởi Nhà
  • 21. 14 nước. Hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân thì Nhà nước với tư cách người sử dụng lao động, trước hết phải chịu trách nhiệm bồi thường [47, tr. 32]. Tuy nhiên, khác với bồi thường thiệt hại thông thường là trách nhiệm của cá nhân, tổ chức gây thiệt hại thì cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là trách nhiệm Nhà nước phải khắc phục hậu quả mà người có thẩm quyền THTT gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm của con người, của công dân. Gây oan là một việc làm nhạy cảm trong hoạt động tư pháp nói chung, hoạt động TTHS nói riêng. Hoạt động của CQTHTT chiếm một vị trí vai trò hết sức quan trọng trong bộ máy nhà nước phản ánh sâu sắc và đầy đủ bản chất của công lý, của quyền tư pháp và thể hiện rõ đạo đức xã hội chủ nghĩa. Bản thân CQTHTT trước hết là một loại cơ quan nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử theo thủ tục tố tụng do luật định nhằm bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Trong đó, người tiến hành tố tụng là người đại diện quyền lực Nhà nước để giải quyết khách quan, đúng pháp luật những vụ việc theo trình tự, thủ tục nhất định. Hoạt động của họ trong khuôn khổ nhiệm vụ được giao chính là hoạt động công vụ nhân danh Nhà nước bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Bên cạnh những hoạt động tích cực thì đôi lúc họ cũng gặp phải những sai lầm vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác. Do vậy bản thân họ phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước nhân dân về những sai lầm đó. Nhưng nếu để các cá nhân người thi hành công vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường trực tiếp cho những người bị thiệt hại thì đôi khi sẽ ảnh hưởng đến tính tích cực và chủ động của nhân viên Nhà nước khi thi hành công vụ, bởi đây thực chất là trách nhiệm của Nhà
  • 22. 15 nước. Do đó hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do oan theo nguyên tắc là sẽ có cơ quan đại diện Nhà nước để giải quyết bồi thường phát sinh từ hoạt động tố tụng: đó có thể là một cơ quan độc lập hoặc là chính CQTHTT đã gây ra oan cho người bị thiệt hại, còn người tiến hành tố tụng đã gây oan có thể phải chịu trách nhiệm hoàn trả cho Nhà nước một phần tiền bồi thường mà Nhà nước đã chi trả. Như vậy, đặc điểm của cơ chế bồi thường nhà nước cho người oan trong hoạt động tố tụng hình sự, cụ thể như sau: Thứ nhất, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại cho người bị oan thì Nhà nước chính là chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi làm oan người vô tội của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra, trong đó, Nhà nước có thể giao một cơ quan thay mình đứng ra giải quyết bồi thường. Đó có thể là một cơ quan độc lập hay chính là cơ quan tiến hành tố tụng đã ra thiệt hại, tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường vẫn thuộc trách nhiệm của Nhà nước. Thứ hai, chủ thể được hưởng bồi thường là người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự bị thiệt hại hoặc cả thân nhân của họ hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ví dụ, trường hợp một cá nhân bị đi tù oan, thì ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối với chủ thể đó, Nhà nước còn phải xem xét trách nhiệm bồi thường của mình đối với những thiệt hại mà thân nhân hay người có liên quan tới chủ thể bị tù oan phải gánh chịu phát sinh từ sự kiện đó. Thứ ba, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tuy nhiên BTTH cho người bị oan trong TTHS có đặc thù thể hiện rõ ở sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại, trong đó bên gây thiệt hại là người THTT, CQTHTT bên bị thiệt hại là người bị oan. Bản thân quá trình
  • 23. 16 này có đặc điểm là để khắc phục hậu quả xấu do người THTT gây ra đối với tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người bị oan. Thứ tư, bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự là sự bù đắp tổn thất, mất mát về vật chất hoặc tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho người bị oan. Tuy nhiên không phải trường hợp thiệt hại nào cũng có thể xác định chính xác mức độ thiệt hại, nhất là thiệt hại về tinh thần. Trong nhiều trường hợp, sự bù đắp có thể không tương xứng với thiệt hại nhưng vẫn có ý nghĩa, vì nếu không xác định được chính xác thiệt hại mà bỏ qua việc bồi thường thì có nghĩa là trật tự pháp luật bị xâm phạm, quyền lợi hợp pháp của cá nhân không được pháp luật bảo vệ. Với những tổn thất về tinh thần, sự bù đắp của việc BTTH có ý nghĩa an ủi, chia sẻ những mất mát mà người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ phải gánh chịu, góp phần giúp cho người bị thiệt hại ổn định lại cuộc sống sau những gì họ phải chịu đựng. Đó cũng là đạo lý cần được giữ gìn thông qua sự điều chỉnh của pháp luật, và mang ý nghĩa tinh thần của một sự bù đắp có tính vật chất, tài sản. Qua những phân tích trên có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS là một loại trách nhiệm nhà nước trong đó Nhà nước phải bồi thường cho người thiệt hại và người tiến hành tố tụng gây thiệt hại có thể phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Nhà nước tùy từng trường hợp. Bản chất của loại trách nhiệm này xuất phát từ tính chất của hoạt động công vụ của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội. CQTHTT và người tiến hành tố tụng là những thiết chế đại diện cho quyền lực nhà nước khi hoạt động tố tụng gây thiệt hại cho công dân thì Nhà nước phải chịu trách nhiệm về hoạt động của các cơ quan đại diện cho mình tức là phải có trách nhiệm khắc phục những tổn thất gây ra. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm
  • 24. 17 quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho người bị oan, nhằm bù đắp, đền bù thiệt hại vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín cho người đó. Bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự do người có thẩm quyền trong CQTHTT gây ra vừa mang tính đặc thù của bồi thường dân sự là mang tính chất đền bù, vừa mang đặc thù của quyền tư pháp là nhằm khẳng định sự nghiêm minh, tính công bằng, dân chủ của pháp luật. Như vậy, Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật và biện pháp thi hành để thực hiện trách nhiệm của Nhà nước nhằm khắc phục những hậu quả bất lợi về vật chất, tinh thần mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã gây ra do xâm phạm quyền tư pháp bằng cách bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, tinh thần và khôi phục danh dự, uy tín, nhân phẩm cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự. Tóm lại, từ những khái niệm nêu trên về quyền con người, về người bị oan, về cơ chế bồi thường cho người bị oan, tôi cho rằng bảo đảm quyền con người thông qua cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện trong việc xây dựng một hệ thống quy tắc xử sự chung thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động TTHS với người bị oan nhằm bảo vệ những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người, của người bị oan được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. 1.2. Những thiệt hại của ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự 1.2.1. Quan điểm chung về thiệt hại của người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự Thiệt hại, dưới góc độ ngôn ngữ học, được hiểu là “mất mát, hư hỏng
  • 25. 18 nặng nề về người và của” [64]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ” [50]. Dưới góc độ luật thực định, không có một khái niệm cụ thể về thiệt hại, tuy nhiên, từ cách tiếp cận khái niệm “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” trong quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, BLDS quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần, trong đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được xác định là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút và trách nhiệm của người đã gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại. Trong lĩnh vực pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật TNBTCNN (Điều 2) quy định đối tượng được bồi thường bao gồm “Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần...”. Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện nay, dưới góc độ thuật ngữ và dưới góc độ khoa học pháp lý thì “thiệt hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên ngoài” [47, tr.31]. Cụ thể, thiệt hại bao gồm: thiệt hại về chật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân và thiệt hại về vật chất bao gồm: tài sản bị mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng ra thu được.
  • 26. 19 Về nội dung BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự của các quốc gia đều thừa nhận bồi thường đối với cả thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần và bồi thường đối với các loại thiệt hại khác do người bị oan yêu cầu bồi thường trong trường hợp người có đủ cơ sở và căn cứ chứng minh sự tồn tại của thiệt hại đó. Tuy nhiên, pháp luật của mỗi quốc gia quy định về thiệt hại được bồi thường là khác nhau, tùy vào quan điểm pháp luật và sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. 1.2.2. Người bị oan bị thiệt hại về vật chất Các loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, loại thiệt hại này bao gồm các trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất; trường hợp tài sản bị hư hỏng; trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc không sử dụng, khai thác tài sản; các khoản tiền đã nộp vào ngân sách Nhà nước theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án, khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền; Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; Thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết, loại thiệt hại này có thể được xem xét bồi thường đối với các khoản tiền chi phí thực tế trước khi người thiệt hại bị chết mà người thân của họ đã phải chi trả như chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết như: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế; chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác trước khi người bị thiệt hại chết như chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết; chi phí cho việc mai táng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
  • 27. 20 Thiệt hại về vật chất do tổn hại về sức khỏe, các khoản được chi trả đối với loại thiệt hại này có thể bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Về đối tượng được bồi thường, đối tượng được bồi thường đối với thiệt hại vật chất bao gồm chính người bị thiệt hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Như trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người thuộc hàng thừa kế, những người được hưởng cấp dưỡng từ người bị thiệt hại hay những người chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết. Hoặc trong trường hợp người bị thiệt hại phải chịu tổn thất về sức khỏe, ảnh hưởng tới sức lao động thì những người chăm sóc sức khỏe hay những người cấp dưỡng và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có thể được bồi thường theo quy định của pháp luật. Về cách thức xác định thiệt hại, việc xác định đối với thiệt hại vật chất thường được xác định trên cơ sở những xác minh thiệt hại thực tế căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản tại thời điểm giải quyết bồi thường, chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; thu nhập do tài sản bị thiệt hại mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra. Đối với thiệt hại vật chất do thu nhập bị giảm sút thì việc xác định thiệt hại bồi thường được căn cứ trên thu nhập thực tế bị mất hay mức thu nhập trung bình của người bị thiệt hại hoặc những người có cùng ngành nghề tương tự.
  • 28. 21 1.2.3. Người bị oan bị thiệt hại về tinh thần Về loại thiệt hại được bồi thường, theo quy định pháp luật và quan điểm hiện nay tại hầu khắp các quốc gia, về cơ bản, các loại thiệt hại phi vật chất được xác định bao gồm thiệt hại do tổn thất về tinh thần, thiệt hại do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại. Các loại thiệt hại này có thể phát sinh từ những thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù, thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp người bị thiệt hại chết, trong trường hợp sức khoẻ bị xâm phạm hay thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam. Loại thiệt hại tổn thất về tinh thần phát sinh từ tài sản bị xâm phạm hay các chi phí cơ hội bị mất có thể được bồi thường tuy nhiên do việc xác minh đối với những loại thiệt hại này thường là phức tạp khó định lượng nên việc được bồi thường nằm ở mức độ giới hạn trong pháp luật các quốc gia. Về đối tượng được bồi thường, việc bồi thường đối với các thiệt hại phi vật chất có một đặc điểm khác với việc bồi thường đối với thiệt hại vật chất, cụ thể, việc xem xét bồi thường đối với các thiệt hại vật chất chỉ được xem xét đối với người bị thiệt hại trực tiếp. Còn thiệt hại phi vật chất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm là thiệt hại có thể được xem xét đối với bản thân những người thân thích với người bị thiệt hại hoặc những người có liên quan tới sự kiện xảy ra. Về cách thức xác minh thiệt hại, việc xác định thiệt hại phi vật chất trên thực tế là tương đối khó khăn và chủ yếu dựa vào cảm tính của người xác minh thiệt hại và trong quá trình thương lượng giữa người bị thiệt hại với Nhà nước. Trong nhiều trường hợp Nhà nước ấn định những khoản tiền mang tính cố định để bồi thường ngay lập tức sau khi có thiệt hại phát sinh mà chưa cần phải xác minh thiệt hại nhằm bảo đảm tính kịp thời trong việc giải quyết bồi thường.
  • 29. 22 1.2.4. Người bị oan bị những thiệt hại khác Bên cạnh hai loại thiệt hại cơ bản nêu trên, có những loại thiệt hại khác người bị oan phải gánh chịu như họ bị mất chức vụ, quyền hạn, vợ chồng ly tán, mất quyền đi học tùy vào mức độ và khả năng chứng minh sự phát sinh thực tế và tính hợp lý của thiệt hại mà cũng có thể được bồi thường, những loại thiệt hại này không nằm cụ thể tại một trong hai loại thiệt hại vật chất hay thiệt hại phi vật chất. Các loại thiệt hại này rất đa dạng, có thể là thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần hoặc mang tính hỗn hợp giữa vật chất và tinh thần như chi phí cơ hội hay thiệt hại hình thành trong tương lai (ví dụ trường hợp một sinh viên đại học bị kết án tù oan sai trong thời kỳ đang học đại học, trường hợp vụ việc của ông Nguyễn Khắc Công bị tạm giam, truy tố, xét xử trong thời gian đang học đại học). 1.3. Sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời thông qua cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự 1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 Pháp luật về cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động TTHS có lịch sử lập pháp từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945. Mặc dù các quy định còn nhiều hạn chế, nhưng đã chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do Nhà nước mới hình thành, hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện nên còn áp dụng một số văn bản pháp luật của chế độ cũ với những quy định phù hợp với tình hình xã hội lúc bấy giờ. Đồng thời, Nhà nước dần từng bước ban hành hệ thống văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề hạn chế oan, sai và bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS. Đó là: Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức Đoàn thể luật sư đã cho
  • 30. 23 phép luật sư của chế độ cũ vẫn được duy trì hoạt động. Tuy nhiên, những điểm không phù hợp với thể chế chính trị mới phải loại bỏ. Theo quy định này, các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả toà án từ cấp tỉnh trở lên và trước các toà quân sự. Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946, vấn đề quyền con người, quyền công dân đã được chú ý, trong đó có các quyền liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự như: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 67 Hiến pháp 1946 cũng quy định: “Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Như vậy, các quy định pháp luật TTHS đầu tiên của Nhà nước ta đã chú trọng bảo vệ quyền con người, ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo trong TTHS – một nhân tố quan trọng góp phần hạn chế oan, sai trong xét xử vụ án hình sự. Tiếp đó Điều 101 Hiến pháp 1959 và những văn bản pháp luật khác ban hành trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước đã tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị can, bị cáo, hạn chế những oan, sai trong TTHS. Để thống nhất về hoạt động BTTH trong TTHS, ngày 23/3/1972, TANDTC đã ban hành Thông tư số 173/UBTP hướng dẫn xét xử bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Văn bản này quy định công chức, viên chức hoặc người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi hành công vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến công tác được giao mà gây thiệt hại cho người khác thì cơ quan, xí nghiệp phải BTTH theo chế độ trách nhiệm dân sự. Sau đó cơ quan, xí nghiệp sẽ đòi họ phải hoàn trả tiền bồi thường đó theo quan hệ lao động. Đây là những quy định chung về BTTH ngoài hợp đồng trong đó có việc BTTH cho người bị oan trong TTHS. Tuy không trực tiếp quy định việc bồi thường trong TTHS, nhưng Thông tư 173/UBTP là văn bản pháp luật duy nhất tạo cơ sở pháp lý cho việc BTTH do làm oan trong thời kỳ
  • 31. 24 này. Cùng với việc BTTH, người THTT có hành vi vi phạm dẫn đến làm oan người vô tội cũng bị xử lý tuỳ theo mức độ khác nhau, nặng nhất là phải chịu truy cứu TNHS. Tuy chỉ là văn bản của Ủy ban thẩm phán TANDTC, nhưng Thông tư 173/UBTP đã trở thành văn bản đầu tiên đặt nền móng và cơ sở cho việc BTTH, trong đó có BTTH cho người bị oan trong TTHS. Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định và ghi nhận quyền con người trong tố tụng hình sự một cách rõ ràng hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn. Quy định: “Không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân. Việc bắt và giam giữ người phải theo đúng pháp luật” (Điều 69). Ngoài ra, Hiến pháp năm 1980 đã kế thừa và tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị cáo nhưng dưới hình thức mới chặt chẽ và chuyên nghiệp hơn thông qua quy định cho phép thành lập tổ chức luật sư. Nhằm cụ thể Hiến pháp 1980, ngày 18/12/1987, Hội đồng nhà nước ban hành Pháp lệnh luật sư; ngày 21/2/1989 ban hành Quy chế đoàn luật sư quy định cụ thể hoạt động bào chữa của tổ chức luật sư nhằm tránh việc truy tố, xét xử oan sai, bảo vệ công dân một cách chặt chẽ và khoa học hơn. Sau khi thay thế Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản công dân, lần đầu tiên Bộ luật hình sự 1985 đã dành riêng chương X với 19 điều quy định về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Trong chương X, Bộ luật này đã quy định các tội mà hành vi phạm tội của những người THTT có thể trực tiếp dẫn đến tình trạng oan, sai cho người vô tội như: Tội truy cứu TNHS người không có tội; Tội ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật; Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án… Như vậy, có thể thấy vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS đã được Nhà nước quan tâm và đã có những quy định tại văn bản pháp luật. Tuy nhiên, do đặc điểm của hoàn cảnh đất nước thời kỳ này nên những quy định pháp luật về oan, sai và BTTH cho người bị oan
  • 32. 25 trong TTHS còn thiếu quy định cụ thể, đặc thù, vì vậy, việc áp dụng pháp luật trong thực tế còn hạn chế. Một bước đột phá quan trọng trong lịch sử TTHS Việt Nam đó là việc Nhà nước ban hành BLTTHS 1988, đánh dấu một bước tiến mới của quá trình pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời cùng với Bộ luật Hình sự 1985 là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Tại BLTTHS 1988 đã nêu lên nhiệm vụ của Bộ luật là “xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” [33]. Đồng thời, quyền công dân tiếp tục được bảo đảm qua các nguyên tắc cơ bản và những quy định cụ thể trong BLTTHS 1988 đó là các nguyên tắc “bảo đảm quyền khiếu nại tố cáo của công dân đối với hoạt động của các CQTHTT”; “cơ quan đã làm oan phải khôi phục danh dự, quyền lợi và bồi thường cho người bị thiệt hại” [33]. Đây là lần đầu tiên vấn đề BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự được quy định cụ thể trong một văn bản pháp luật. Theo đó, CQTHTT không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện các biện pháp như: khôi phục danh dự, quyền lợi cho người bị thiệt hại. Việc bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần tiếp tục được ghi nhận và quy định trong Bộ luật Dân sự 1995. Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật Dân sự 1995 thì các thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm gồm: chi phí hợp lý để khắc phục, hạn chế thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Việc BTTH được đặt ra ở ba phương diện là thiệt hại về tài sản, về sức khoẻ và về tính mạng, trong đó BLDS 1995 đã nêu rõ những thiệt hại phải bồi thường trong từng nội dung. Việc bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị xâm phạm lại tuỳ thuộc vào sự xem xét của Toà án. Cùng với việc ban hành BLDS 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 47/CP ngày 3/5/1997 “về việc giải quyết BTTH do công chức,
  • 33. 26 viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra”. Thông tư 54 hướng dẫn thi hành Nghị định này đã tiếp tục cụ thể hoá tinh thần của BLTTHS và BLDS nói trên. Theo Nghị định số 47/CP, việc BTTH được giải quyết theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Nguyên tắc “người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, CQTHTT bồi thường cho mình thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của CQTHTT gây ra hoặc yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình” (Điều 3). Về cơ bản cách thức giải quyết này là phù hợp. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật và cách thức giải quyết bồi thường có thể thấy tính chất bình đẳng của quan hệ BTTH không thể hiện rõ và đúng với tính chất của quan hệ dân sự. Dù có những quy định khá tiến bộ, nhưng chưa thật sự tạo điều kiện cho người bị thiệt hại thực hiện quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình sau khi bị oan sai, không ít vụ việc giải quyết chưa thực sự khách quan và thường phải kéo dài sang trình tự tư pháp. Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, không để xảy ra các trường hợp oan, sai, các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp đã có những chỉ đạo khá cụ thể. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về “một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nhấn mạnh đến trách nhiệm của cơ quan tư pháp đối với các trường hợp oan, sai nhằm bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nêu rõ trách nhiệm của người THTT và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định:
  • 34. 27 Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây ra thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó công tác phải có trách nhiệm bồi thường. Những người đã gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 46). Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 cũng có quy định: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong khi thực hiện quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Toà án nơi thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường. Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 37). Có thể thấy rằng, quy định của pháp luật về giải quyết BTTH do CQTHTT, người THTT gây ra cho người bị oan trong thời kỳ này về cơ bản đã được hình thành. Các đạo luật đã quy định cơ sở pháp lý cho việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong TTHS. Tuy nhiên, các quy định về việc bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền TTHS gây ra và trách nhiệm hoàn trả của người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra thiệt hại chưa rõ ràng, cụ thể. Vì vậy, tuy pháp luật có quy định nhưng suốt một thời gian dài hiệu quả của những quy định pháp luật này còn hạn chế và thiếu khả thi. 1.3.2. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Kế thừa những nguyên tắc dân chủ của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 còn có những quy định cụ thể hơn về quyền được bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong tố tụng hình sự. BLTTHS năm 2003 quy định: Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục
  • 35. 28 hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây ra thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Điều 29). Quy định này thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm việc bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự cho người bị oan. Quán triệt tư tưởng, định hướng về cải cách tư pháp được đề ra từ Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, ngày 17/3/2003, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH về “bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra”. Để thực hiện có hiệu quả về bồi thường oan trong TTHS, ngày 25/3/2004, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA- TANDTC-BTP-BQP-BTC hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị quyết 388. Với mục đích là “khôi phục quyền, lợi ích của người bị oan trong hoạt động TTHS, nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết BTTH cho người bị oan, trở thành một hiện tượng công bằng của cải cách tư pháp. Theo đó, Về căn cứ xác định một người bị oan, theo Điều 1 Nghị quyết 388 bao gồm: Quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS huỷ bỏ quyết định tạm giữ, vì người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; Quyết định của cơ quan có thẩm quyền huỷ bỏ quyết định tạm giam
  • 36. 29 vì người bị tạm giam không thực hiện hành vi phạm tội; Bản án, quyết định của toà án có thẩm quyền xác định người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình không thực hiện hành vi phạm tội; Bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp trên không thực hiện hành vi phạm tội. Cùng với việc xác định những trường hợp bị coi là oan, Nghị quyết 388 cũng đưa ra các trường hợp người bị oan không được bồi thường thiệt hại, bao gồm: Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; Người bị xử lý hình sự theo quy định của BLHS 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992 và 1997 nhưng nay theo quy định của BLHS 1999 thì không phải chịu TNHS. Những người không thực hiện hành vi phạm tội mà cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm. Về cách thức bồi thường và xác định thiệt hại được bồi thường, cách thức bồi thường đối với thiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần lần đầu tiên được lượng hoá thành tiền. Đối với tổn hại về danh dự thì hình thức bồi thường là xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú của người bị oan. Việc xin lỗi, cải chính công khai được thực hiện bằng hình thức: Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị oan có sự tham dự của chính quyền địa phương của người bị oan cư trú; đại diện cơ quan nơi người bị oan làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị xã hội mà người bị oan là thành viên; đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo địa phương trong ba số liên tiếp, trừ trường hợp người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu không đăng báo (Điều 4).
  • 37. 30 Thời hạn thực hiện xin lỗi, cải chính công khai là 30 ngày kể từ ngày bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người bị oan. Đối với bồi thường thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời gian bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được xác định là mỗi ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được bồi thường ba ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường. Nếu người bị oan chết thì những người thân của người này (vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người bị oan) được bồi thường chung một khoản tiền bù đắp về tinh thần là 360 tháng lương tính theo mức lương tối thiểu chung. Các trường hợp còn lại được xác định mỗi ngày bị oan được bồi thường một ngày lương tính theo mức lương tối thiểu chung. Đối với thiệt hại về vật chất, pháp luật đã phân ra làm hai trường hợp: người bị oan chết và người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ. Trong trường hợp người bị oan chết thì người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản chi phí cần thiết, hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, mai táng người bị oan và cả tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị oan đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nếu người bị oan bị tổn hại về sức khoẻ thì phải bồi thường tất cả các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị oan… Đối với tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì sẽ phải trả lại tài sản nếu còn, không thì sẽ căn cứ vào giá trị tài sản để bồi thường. Bên cạnh đó nếu thu nhập thực tế của người bị oan bị mất do bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì người bị oan cũng được bồi thường khoản thu nhập đó. Về trách nhiệm BTTH, về nguyên tắc, khi xác định một người bị oan,
  • 38. 31 cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cơ quan xử lý oan sau cùng, không phụ thuộc CQTHTT trước đó có xử lý oan một phần. Cách thức phân định trách nhiệm này khá hợp lý bởi lẽ các CQTHTT là cơ quan pháp luật, do vậy cơ quan nào xử lý oan thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm bồi thường, tránh đùn đẩy. Với quy định này, trách nhiệm của các CQTHTT sẽ được nâng lên, khuyến khích phát hiện những sai phạm (nếu có) của CQTHTT khác nhằm bảo đảm truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội. Bên cạnh đó người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây oan do lỗi của mình trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự phải có nghĩa vụ hoàn trả theo quy định. Thủ trưởng cơ quan đã thực hiện việc bồi thường có trách nhiệm quy định mức hoàn trả, phương thức hoàn trả mà người có nghĩa vụ phải thực hiện. Về thủ tục bồi thường thiệt hại, Nghị quyết 388 đã quy định hai phương thức: Giải quyết theo thủ tục thương lượng và thủ tục khởi kiện tại toà án. Người bị oan có thể làm đơn yêu cầu gửi đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường (cơ quan gây oan sau cùng). Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đơn việc thương lượng phải được tiến hành. Nếu thương lượng thành thì chậm nhất là 07 ngày kể từ ngày lập biên bản thương lượng thành, thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải ra quyết định bồi thường. Nếu quá thời hạn mà không thương lượng hoặc thương lượng không thành thì người bị oan có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết trong thời hạn 30 ngày. Theo đó, Toà án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh nơi người bị oan cư trú hoặc làm việc và được giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự. Trong trường hợp toà án có thẩm quyền giải quyết bồi thường đồng thời là cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường thì cần phân công thành phần hội đồng xét xử là những người không có liên quan đến việc làm oan. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường là 2 năm kể từ ngày
  • 39. 32 luật có hiệu lực hoặc kể từ ngày bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định một người bị oan có hiệu lực; kinh phí bồi thường là một khoản trong ngân sách Nhà nước... Sau quá trình thi hành Nghị quyết 388 và Thông tư 01 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 38 đã bộc lộ những tồn tại, vướng mắc. Để khắc phục những hạn chế, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XII ngày 18/6/2009, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động bồi thường Nhà nước nói chung và BTTH cho người bị oan, sai trong TTHS nói riêng.
  • 40. 33 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI THÔNG QUA CƠ CHẾ BỒI THƢỜNG NHÀ NƢỚC CHO NGƢỜI BỊ OAN TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ 2010 ĐẾN 2015 2.1. Quy định của pháp luật về cơ chế bồi thƣờng nhà nƣớc cho ngƣời bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự 2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 BLTTHS năm 2015 chỉ quy định những nguyên tắc chung về BTTH cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự và quyền được bồi thường của người bị thiệt hại khác, cụ thể Điều 31 quy định như sau: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra . Người khác bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi thường thiệt hại (Điều 31). Một điểm mới của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003 đã khẳng định bồi thường thiệt hại cho người bị oan là trách nhiệm của Nhà nước, trước đây quy định trách nhiệm này là trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng. Với quy định này, đã thể hiện đúng đắn hơn bản chất của cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự, không có sự nhầm lẫn
  • 41. 34 đây là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, thực chất các cơ quan đó chỉ đại diện cho Nhà nước thực hiện việc giải quyết bồi thường. Ngoài ra, so với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 đã quy định mở rộng hơn, cụ thể hơn đối tượng được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, trước đây chỉ là quy định chung chung là “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự” (Điều 29), BLTTHS 2015 đã liệt kê cụ thể là “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan” [44] và cả “trái pháp luật” có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Như vậy, với quy định này có thể hiểu không chỉ những người bị oan được bồi thường mà cả trường hợp “sai” có phát sinh thiệt hại cũng được Nhà nước bồi thường. Tuy nhiên, trong Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại và BLTTHS 2015 có quy định riêng về thủ tục tố tụng đối với pháp phân, nhưng lại không có quy định về nguyên tắc bồi thường cho đối tượng này khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan, trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. 2.1.2. Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước Với sự ra đời của Luật TNBTCNN (được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18/6/2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010) và Thông tư liên tịch số 05/2012/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BQP-BNN&PTNT ngày 06/5/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự đã tạo ra hệ thống cơ sở pháp lý tương đối hoàn chỉnh trong việc bảo đảm quyền yêu cầu bồi thường cho người bị oan trong hoạt động TTHS. Mặc khác, những quy định của Luật và văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ
  • 42. 35 chế pháp lý cho việc phòng, chống oan, sai và BTTH cho người bị oan do các CQTHTT gây ra, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, góp phần thực hiện yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta. Để bảo đảm tính khả thi và tạo cơ chế hữu hiệu cho người bị thiệt hại có thể thực hiện được quyền bồi thường của mình đối với những thiệt hại do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra, Luật TNBTCNN đã quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự, cụ thể như sau: 2.1.2.1. Đối tượng được bồi thường Đối tượng được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự bao gồm: Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần (sau đây gọi chung là người bị thiệt hại) trong các trường hợp quy định tại Điều 26 Luật TNBTCNN và Điều 2 Thông tư liên tịch số 05 thì được Nhà nước bồi thường. Quy định về đối tượng được bồi thường tại Điều 2 Luật TNBTCNN áp dụng chung đối với mọi trường hợp bồi thường trong tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án. Tuy nhiên, theo quy định của BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009, đối tượng BTTH do bị oan trong TTHS chỉ có thể là cá nhân do chủ thể của tội phạm là cá nhân; pháp nhân, tổ chức chỉ có quyền yêu cầu BTTH trong trường hợp do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp bị oan trong hoạt động TTHS. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua BLHS 2015, chính thức thừa nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm. Do đó, Luật TNBTCNN cần có những sửa đổi, bổ sung về đối tượng được BTTH trong hoạt động TTHS để phù hợp với quy định pháp luật hình sự mới. 2.1.2.2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại Theo quy định của Luật TNBTCNN thì thời hiệu yêu cầu bồi thường do bị oan trong hoạt động TTHS là 02 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của CQTHTT hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 5).
  • 43. 36 2.1.2.3. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại Theo quy định của Luật TNBTCNN thì người bị thiệt hại do bị oan trong hoạt động TTHS có quyền yêu cầu cơ quan có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN (Điều 4, Khoản 1). So với các quy định trước đó thì các quy định về đối tượng, thời hiệu và quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đã được ghi nhận rất cụ thể trong Luật TNBTCNN. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng khởi đầu cho các quan hệ bồi thường thiệt hại khi bị oan. 2.1.2.4. Căn cứ và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS Theo quy định của khoản 2, Điều 6 Luật TNBTCNN thì việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động TTHS phải có các căn cứ sau đây: - Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật TNBTCNN. Đó là: Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự tiến hành nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra, tạo điều kiện cho người điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ bước đầu, xác định tính chất hành vi của người bị tình nghi thực hiện tội phạm đối với vụ án hình sự hoặc để bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử. Tạm giữ được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp
  • 44. 37 quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã và theo quy định tại BLTTHS thì: ... trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ (Điều 117, Khoản 4). Trên thực tế, những trường hợp được coi là không có căn cứ, không cần thiết được coi là bị oan và được bồi thường khi lý do để huỷ quyết định tạm giữ là do người bị tạm giữ không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vì, khi cơ quan, người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp dụng biện pháp này có thể xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân. Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự do các cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án áp dụng nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo trốn tránh pháp luật. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với những người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và thi hành án hình sự. Hay nói cách khác, đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Tuy vậy, biện pháp tạm giam không phải áp dụng cho tất cả bị can, bị cáo mà nó chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 119 của BLTTHS 2015. Như vậy, biện pháp tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn
  • 45. 38 chặn của tố tụng hình sự, nó ảnh hưởng trực tiếp quyền lợi chính trị, quyền tự do của con người. Người bị tam giam bị cách li với xã hội, bị hạn chế một số quyền công dân. Do đó, để bảo đảm quyền của người bị tạm giam, Luật TNBTCNN đã quy định khi người bị tạm giam có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người bị tạm giam được Nhà nước bồi thường do họ bị tạm giam oan. Ngoài ra, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì Nhà nước cũng có trách nhiệm bồi thường. Theo quy định tại BLTTHS, thì: “Nếu bị cáo không có tội thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật” (Điều 260, Khoản 2). Những người đã bị kết án tù có thời hạn, tù chung thân, đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt, người đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của toà án xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì người đó sẽ được xem xét BTTH. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án nhưng không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động TTHS xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Đây là trường hợp một người tuy không bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam hoặc không bị kết án phạt tù có thời hạn nhưng họ đã bị khởi tố, truy tố, xét xử và thi hành án, hay nói cách khác họ cũng đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng bằng các quyết định tố tụng đặc trưng của mình khẳng định họ là người có tội và có thể đã buộc