SlideShare a Scribd company logo
1 of 117
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU THẢO
C¸C TéI PH¹M VÒ MA TóY
TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
Vµ thùc tiÔn xÐt xö trªn ®Þa bµn tØnh B¾c Ninh giai ®o¹n 2000 - 2010
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Thu Thảo
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VÂN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ
MA TÚY THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................... 8
1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội phạm về ma tuý trong luật
hình sự Việt Nam ............................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm chất ma túy....................................................................... 8
1.1.2. Khái niệm tội phạm về ma tuý trong Luật hình sự Việt Nam. ........10
1.2. Những qui định về các tội phạm về ma túy trong luật hình
sự Việt Nam....................................................................................15
1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985.......................................................15
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999...........................................18
1.2.3. Nhưng qui định về các tội phạm về ma túy theo Bộ luật hình
sự năm 1999.....................................................................................21
1.3. Đường lối xử lý hình sự đối với các tội phạm về ma túy............25
Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ VỀ MA TÚY TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC
NINH NĂM 2001 - 2013................................................................40
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử
các vụ án Hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh.........................................................................................40
2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh ..............44
2.3. Những hạn chế về hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự về ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh và
nguyên nhân ...................................................................................54
2.3.1. Những hạn chế về hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về
ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân ..........54
2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chê trong hoạt động xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự về ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh.....57
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY.....................................................................66
3.1. Các quan điểm về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma
tuý của Toà án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh...................................66
3.2. Yêu cầu xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma tuý của
Toà án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh ................................................68
3.3. Nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp hình sự và nâng cao hiệu
quả xét xử các tội phạm về ma túy...............................................70
3.4. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy .....................74
3.5. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình
sự về các tội phạm về ma túy........................................................77
3.5.1. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan hoạt động xét xử
các tội phạm ma túy.........................................................................77
3.5.2. Hoàn thiện về việc tham gia của người bào chữa............................90
3.5.3. Hoàn thiện về đường lối xử lý đối với tội phạm về ma túy.............90
3.6. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy ....91
3.6.1 Hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán
và cán bộ công chức thuộc ngành Tòa án........................................91
3.6.2. Kiện toàn cơ cấu tổ chức nâng cao trình độ năng lực phẩm
chất đội ngũ Thẩm phán và cán bộ công chức của tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Ninh............................................................................92
3.6.3. Tăng cường công tác tuyên truyền về đấu tranh phòng chống
ma túy ở tỉnh Bắc Ninh....................................................................95
3.6.4. Tăng cường trang thiết bị và phương tiện cho hệ thống cơ quan
Tòa án ở tỉnh Bắc Ninh....................................................................98
KẾT LUẬN..................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTH: Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX: Hội đồng xét xử
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về ma tuý với tình hình
tội phạm nói chung trên địa bàn tình Bắc Ninh 44
Bảng 2.2: Tình hình tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
(các vụ án đã được điều tra, khám phá) 45
Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma
tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm
20013 (cả cấp tỉnh và cấp huyện) 46
Bảng 2.4: Tình hình xét xử các vụ án vê ma tuý Error!
Bookmark
not
defined.
Bảng 2.5: Đặc điểm nhân thân của các bị cáo 41
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy ngày nay đang là vấn đề mang tính toàn cầu và là mối lo ngại
chung của các quốc gia trên khắp các châu lục. Tệ nạn ma túy trở thành một vấn
đề nóng bỏng, nhức nhối gây hậu quả nhiều mặt cả về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, ma túy đã trở thành hiểm họa của toàn nhân loại, không một quốc gia,
một dân tộc nào thoát khỏi ảnh hưởng của những hậu quả tai hại do tệ nạn ma
túy gây ra. Tệ nạn ma túy là nguồn phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm, tội
phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia và các tệ nạn xã hội. Lạm dụng ma
túy làm tiêu phí một khoản tiền to lớn của mỗi gia đình và toàn xã hội. Nghiện
ma túy còn là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây lây nhiễm căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS. Các vấn đề ma túy, tội phạm, HIV/AIDS, môi trường và nạn đói
nghèo có mối liên hệ mật thiết, gây tác hại nặng nề đối với nền kinh tế - xã hội
của quốc gia và biết bao đau thương đến các gia đình [7]; [8]; [9]; [53].
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của tệ nạn này, Đảng và Nhà nước
Việt Nam đã và đang tiếp tục coi trọng và tập trung đầu tư cho nhiệm vụ
phòng, chống ma túy. Trong những năm qua, bằng nội lực của mình và với sự
giúp đỡ, phối hợp của cộng đồng quốc tế, Đảng và Nhà nước đã chủ động
triển khai đồng bộ và toàn diện nhiều chủ trương, biện pháp rất tích cực nhằm
đấu tranh phòng, chống ma túy và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy thì hoạt
động xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với các tội phạm về ma túy là vô
cùng quan trọng. Xét xử là chức năng cơ bản của Tòa án nhân dân nước ta,
điều này đã được ghi nhận trong điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Hoạt động xét xử nói chung, xét xử án hình
sự trong đó có xét xử các tội phạm về ma túy nói riêng là hoạt động áp dụng
2
pháp luật để ra các bản án, các quyết định thể hiện tính nghiêm minh và sự
công bằng của pháp luật. Do vậy, tăng cường công tác xét xử các vụ án hình
sự nói chung và các vụ án về ma túy nói riêng vừa là nhiệm vụ, vừa là trách
nhiệm, vừa là đạo đức của cán bộ, công chức ngành Tòa án, có ý nghĩa quyết
định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động xét xử.
Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đến ngày
02/06/2005, Bộ Chính trị tiếp tục ra Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết xác định cải cách tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử, đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thực
hiện chủ trương này, trong những năm qua hoạt động xét xử của của ngành Tòa
án đã đạt được những kết quả tích cực. Chính sách, pháp luật về hình sự và tố
tụng hình sự đã từng bước được định hình và hoàn thiện, tạo điều kiện cho các
chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng có được môi trường pháp lý thuận lợi để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và công dân [16]; [17].
Mặc dù tỉnh Bắc Ninh chưa phải là địa bàn trọng điểm về tội phạm ma
túy, nhưng với đặc điểm là tỉnh đồng bằng, giao thông thuận lợi, có đường
thủy, đường sắt, đường bộ nối liền với các tỉnh, thành phố khác, giáp danh các
tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội, có nhiều làng
nghề phát triển, tập trung nhiều khu công nghiệp lớn có vốn đầu tư nước
ngoài, thu hút nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Điều này, đã tạo điều kiện
cho các tệ nạn xã hội thâm nhập và phát triển, trong đó nổi cộm là tệ nạn ma
túy. Tệ nạn ma túy không chỉ diễn ra ở các khu vực thành phố, thị xã mà đã
lan về cả những vùng quê yên tĩnh. Nguy hại hơn, ma túy còn len lỏi vào cả
học đường đầu độc thế hệ trẻ, gây ra nhiều hậu quả to lớn cho mỗi con người,
3
mỗi gia đình và toàn xã hội. Đứng trước thực trạng đó, ngành Tòa án nhân
dân tỉnh Bắc Ninh đã xét xử nhiều vụ án về ma túy, đưa ra xét xử lưu động về
các tội phạm ma tuý tại nhiều địa bàn trong tỉnh nhằm tuyên truyền, giáo dục
các tầng lớp nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối tượng có biểu
hiện vi phạm. Nhưng cho đến nay, tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn
tỉnh vẫn diễn biến phức tạp. Đòi hỏi các Cơ quan, người tiến hành tố tụng cần
có những biện pháp quyết liệt và nỗ lực hơn nữa trong đấu tranh phòng,
chống tệ nạn ma túy.
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về ma túy đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn đáp ứng yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý. Tuy
vậy, việc xét xử để ra các bản án, quyết đinh của Tòa án các cấp ở tỉnh Bắc
Ninh còn có những sai sót nhất định, dẫn đến việc cấp Tòa án có thẩm quyền
hủy, sửa tuy không nhiều nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín của ngành, tác động
tiêu cực đến lòng tin của nhân dân vào công lý, ảnh hưởng đến việc đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Các tội phạm
về ma túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xét xử án hình sự, dân sự của Tòa án nhân dân là vấn đề được một số
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đã có một số công trình nghiên cứu có giá
trị được công bố. Tuy nhiên xét xử các vụ án hình sự về ma túy chưa được
quan tâm nhiều. Có thể kể đến một số công trình có giá trị liên quan trực tiếp
đến đề tài luận văn như sau:
 Dưới góc độ Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gồm có: Luận án tiến sĩ
của Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy
trong Luật hình sự Việt Nam”, bảo vệ năm 2006; Luận văn thạc sỹ của Bùi
4
Mạnh Cường: “Áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án
ma túy ở Việt Nam” tại, bảo vệ năm 2006; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn
Dư: “Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang”, năm 2007; Luận văn thạc sĩ của Phạm Hồng Trang:
"Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma tuý của Toà án nhân dân ở tỉnh
Nghệ An", năm 2010.
 Dưới góc độ đề tài nghiên cứu khoa học gồm có: Đề tài nghiên cứu
khoa học của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh: “Những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh” do TS Nguyễn Minh Tuyên - Phó Chánh tòa án nhân dân tỉnh
Bắc Ninh, đề tài nghiệm thu năm 2009; Đề tài nghiên cứu khoa học: “Điều
tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế tệ
nạn và tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” do Nguyễn Việt
Hùng - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang làm Chủ
nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 6/2007.
 Dưới góc độ bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành: Bài viết của
tác giả Lưu Tiến Dũng: “Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử”,
Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 05/2005; Bài viết của tác giả Chu Thị Trang
Vân: “Vai trò sáng tạo của Toà án trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự”, Tạp chí Lập pháp số 27 tháng 09/2007.
Các công trình và bài viết trên đã nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật
trong xét xử các vụ án hình sự nói chung; trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về ma túy trong luật hình sự nói riêng. Đây là các tài liệu tham khảo bổ
ích cho học viên trong quá trình viết luận văn. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi
sâu vào tình hình xét xử về những vụ án về ma túy. Việc nghiên cứu hoạt
động xét xử các vụ án về ma túy tại tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh còn phụ
thuộc vào các hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội cụ thể. Vì vậy, đây là đề tài
5
đầu tiên đi sâu nghiên cứu vấn đề xét xử các vụ án hình sự về ma túy trong
điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể ở tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề có tính chất lý luận
và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2009 -2013. Trên
cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
xét xử các về ma túy
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
- Nghiên cứu Một số vấn đề chung về cá tội phạm về ma túy theo luật
hình sự Việt Nam dưới góc độ lý luận Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật.
Luận văn nêu lên những đặc điểm, phân tích thực trạng thực tiễn xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ năm
2009 đến năm 2013 và các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao
hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành
luật Hình sự và tố tụng hình sự, luận văn này chỉ tập trung vào những vấn đề
lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc
Ninh. Luận văn khái quát những vấn đề chung của quy trình xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự về ma túy từ việc nghiên cứu các tình tiết cụ thể của vụ án
đến việc chọn quy phạm pháp luật và ban hành các bản án, quyết định tại
phiên tòa xét xử công khai, dựa trên thực tiễn xét xử các vụ án về ma túy
trong 5 năm gần đây. Theo nội dung của đề tài nghiên cứu trong giai đoạn
2000-2010, nhưng để đáp ứng tính sát thực của đề tài, được sự đồng ý, cho
phép của Giảng viên hướng dẫn, học viên mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài
đến năm 2013.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng
về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-
NQ/TW của Bộ chính trị.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài này là:
Phân tích, tổng hợp lịch sử, so sánh, thống kê và sử dụng tài liệu thứ cấp.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hình thành cơ sở lý luận về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma
túy, đáp ứng đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là
đóng góp nhằm nâng cao nhận thức lý luận cho việc thực hiện chức năng xét
xử nói chung, xét xử án hình sự trong đó có các vụ án về ma túy nói riêng của
Tòa án nhân dân.
- Tổng kết thực tiễn rút ra những nhận định, đánh giá có ý nghĩa góp
phần nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại
ngành Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất được một hệ thống các giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất
lượng xét xử các vụ án về ma túy trên địa tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và
thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác xét xử án hình sự. Đặc biệt
là những người trực tiếp làm công tác xét xử án hình sự của các cấp Tòa án ở
tỉnh Bắc Ninh.
Đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
7
nghiên cứu và học tập trong các trường Đại học chuyên luật hoặc các cơ sở
đào tạo không chuyên luật.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội phạm về ma túy theo Luật
hình sự Việt Nam
Chương 2: Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu
quả xét xử các tội phạm về ma túy
8
Chương 1
MỘT SỐ VÂN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội phạm về ma tuý trong luật hình
sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm chất ma túy
Từ xa xưa do trình độ nhận thức của con người còn thấp, y học chưa
phát triển nên con người chỉ biết sử dụng các loại cây cỏ để chữa bệnh. Trong
các loại cây đó có cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca... và sau đó người ta
cũng phát hiện tác hại của nó. ở Việt Nam, thuật ngữ "ma túy" xuất hiện ban
đầu có nghĩa là thuốc phiện, rồi đến cây cần sa và cây côca. Một số ý kiến cho
rằng, gọi là "ma túy" bởi vì các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái,
có thể chữa một số bệnh và tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, làm cho
con người mê mẩn, ngây ngất, túy lúy. Trong tiềm thức của người Việt Nam
ma túy đồng nghĩa với sự xấu xa tội lỗi. Ngày nay, ngoài các sản phẩm của
cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca... còn có các chất được tổng hợp trong
phòng thí nghiêm. Nên khái niệm ma túy được mở rộng về nội dung, ở các
nước khác nhau thì khái niệm ma túy cũng quan niệm khác nhau. Điểm chung
của Luật về kiểm soát ma túy của các nước là đều đề cập đến ma túy bao gồm
các chất gây nghiện và các chất hướng thần.
Ma túy, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma tuý lúc
đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học
phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện, thì
chất ma tuý được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị lạm
dụng. Nói một cách tổng quát: Chất ma túy là các chất hóa học có nguồn tự
nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay
9
đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ làm cho con người bị lệ thuộc khi đó gây tổn
thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng. Theo Luật Phòng chống
ma túy (LPCMT) của nước ta công bố ngày 22/12/2000 quy định:
- Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong danh mục do Chính phủ ban hành.
- Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc chất ức chế thần kinh dễ gây
tình trạng nghiện với người sử dụng.
- Chất hướng thần là chất kích thích ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
- Tiền chất là các chất hóa chất không thể thiếu được trong quá trình
điều chế, sản xuất chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ
ban hành.
Theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ
ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, thì các chất ma túy gồm 227
chất, chia làm 03 danh mục và 22 hóa chất không thể thiếu được trong quá
trình điều chế chất ma túy cần kiểm soát.
- Danh mục 1; Các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử
dụng, việc sử dụng chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên
cứu khoa học và điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ
quan có thẩm quyền (gồm 47 chất trong đó có một số chất thường
gặp như hêrôin, morphin, ecstasy, cần sa và nhựa cần sa...).
- Danh mục 2: Các chất ma túy độc hại được dùng hạn chế
trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội
phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 112
chất trong đó có một số chất thường gặp như côcain, thuốc phiện,
nhựa côca...)
10
- Danh mục 3: Các chất ma túy độc dược dùng trong phân
tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc
trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 68 chất trong đó
có một số chất thường gặp như diazepam, delorazepam...).
- Danh mục 4: Các hóa chất không thể thiếu trong quá trình
điều chế ma túy (22 chất trong đó có một số chất thường gặp như
acetone, acetic anhydride...) [26].
Như vậy, dưới góc độ khoa học pháp lý thì ma túy có một số các đặc
điểm sau: ma túy là một chất gây nghiện, khi thâm nhập vào cơ thể con người
làm thay đổi một số chức năng hoạt động thần kinh làm cho con người lệ
thuộc vào chất này. Tại Điều 61 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
(CHXHCN) Việt Nam 1992 quy định: Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển,
buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và chất ma túy khác. Tại
LPCMT được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 9/12/2000 đã xác định chất ma túy là chất nghiện, chất hướng
thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chất ma túy như sau:
Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các
danh mục do Chính phủ ban hành, khi sử dụng gây lên tình trạng kích thích
hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây ra tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
1.1.2. Khái niệm tội phạm về ma tuý trong Luật hình sự Việt Nam
- Khái niệm tội phạm về ma tuý: Cũng như các tội phạm khác, tội phạm
về ma tuý là: “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong
BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý…”
(khoản 1, điều 8 BLHS 1999). Tội phạm về ma tuý cũng là “ hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”. Các tội
11
phạm về ma tuý được Nhà nước ta xác định là một loại tội phạm nghiêm
trọng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình nghiện hút và buôn lậu ma
túy diễn ra hết sức nghiêm trọng, đã trở thành thảm họa chung của toàn nhân
loại. Con người khi sử dụng một vài lần các chất ma túy sẽ có nhu cầu được
cung cấp thường xuyên với liều lượng ngày càng cao hơn. Chất ma túy vào cơ
thể sẽ gây ra sự rối loạn về tâm sinh lý và tàn phá, hủy hoại sức khỏe; khi
không đáp ứng được nhu cầu họ sẽ lên cơn vật vã, đau đớn về thể xác và có
thể làm tất cả những gì kể cả tội ác để giải tỏa cơn nghiện. Nạn nghiện hút,
tiêm chích ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người mà còn
làm kiệt quệ kinh tế gia đình và xã hội, là nguyên nhân đẩy người lương thiện
vào con đường phạm tội. Vì vậy, Nhà nước phải độc quyền và thống nhất
quản lý các chất ma túy với những quy định rất nghiêm ngặt. Vi phạm các
quy định về chế độ quản lý các chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc
kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn tạo ra một lớp người nghiện, làm
suy thoái giống nòi, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Do tác hại lâu
dài và nhiều mặt của việc vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy
như vậy, nên mọi hành vi vi phạm ở bất kỳ khâu nào của quá trình quản lý
chất ma túy đều bị quy định là tội phạm. Căn cứ vào các điều luật về tội phạm
ma túy trong BLHS năm 1999, tội phạm ma túy được hiểu là "hành vi cố ý
xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước”[ 25, tr.175].
BLHS năm 1999 quy định 10 điều luật về tội phạm ma túy gồm:
Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa
chất ma túy (Điều 192); Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều
193); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
chất ma túy (Điều 194); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc
chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
12
(Điều 195); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các
phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép
chất ma túy (Điều 196); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 197); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều
198); Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199) (Tội này đã
được bãi bỏ từ ngày 01/01/2010 theo quy định của Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS ngày 19/6/2009); Tội cưỡng bức, lôi
kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200); Tội vi
phạm quy định về quản lý sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất
ma túy khác [27, Điều 201].
Tội phạm ma túy cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm
khác về tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và
tính chịu hình phạt. Tuy nhiên tội phạm ma túy cũng có những đặc điểm riêng
so với các loại tội phạm khác như:
Có tính nguy hiểm cao cho xã hội:
Thể hiện ở chỗ, các tội phạm về ma túy đều trực tiếp, hoặc
gián tiếp liên quan đến ma túy, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý
chất ma túy của Nhà nước, để cho ma túy xâm nhập vào cộng đồng
làm gia tăng số người nghiện, gây tác động xấu về nhiều mặt như
kinh tế, chính trị, văn hóa và trật tự an toàn xã hội; xâm hại nghiêm
trọng tới tính mạng, sức khỏe của con người; là nguyên nhân làm
phát sinh các loại tội phạm khác [22,tr.18].
- Có tính chống đối pháp luật rất cao của kẻ phạm tội: Các đối tượng
phạm tội ma túy thường có nhân thân xấu, khi bị phát hiện thường chống trả
hết sức quyết liệt và sẵn sàng sử dụng vũ khí. Khi một mắt xích trong đường
dây tội phạm ma tuý bị lộ, để bảo đảm an toàn cho hoạt động phạm tội của
mình, chúng sẩn sàng thủ tiêu đồng phạm.
13
- Tính bí mật, khép kín, cắt đoạn và kéo dài của hoạt động phạm tội:
Đặc tính hình sự nổi bật của tội phạm ma tuý là tính “cắt đoạn” và tính “liên
hoàn”, hoạt động theo đường dây chặt chẽ thường là các thành viên trong gia
đình họ hàng, chất ma tuý gọn nhẹ, lãi suất cao.
Vì vậy, để bảo đảm tuyệt đối bí mật cho hoạt động phạm tội, các đối
tượng phạm tội về ma túy thường hình thành các đường dây chìm, khép kín
từ người mua đến người vận chuyển và người bán, khép kín trong một nhóm
đối tượng và thường là những người thân như: vợ chồng, con cái, anh chị
em..., đặc biệt là tính cắt đoạn, người nào biết việc người ấy, không biết tới
người thứ ba thể hiện tính chia cắt rất nghiêm ngặt. Tính liên hoàn đó là một
chuỗi hành vi phạm tội, từ sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán đến
người sử dụng; đặc biệt do tính chất siêu lợi nhuận của mua bán ma túy
mang lại, nên không dễ gì khi đã bước vào con đường phạm tội mà tự dứt bỏ
ra được; mặt khác, đã tham gia đường dây mua bán ma túy lớn nếu tự ý rút
khỏi đường dây cũng rất dễ bị đồng bọn thủ tiêu. Nên các đối tượng phạm
tội thường diễn ra nhiều năm.
Vì vậy, BLHS quy định về tội phạm ma túy có tính nguy hiểm cho xã
hội cao hơn so với các tội phạm khác (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc
gia), nên trong 10 điều luật quy định về tội phạm ma túy, có hai điều quy định
tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình (khoản 4 Điều 193, khoản
4 Điều 194), bốn điều quy định tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tù
chung thân (khoản 4 Điều 195, khoản 4 Điều 197, khoản 4 Điều 200, khoản 4
Điều 201); 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, 8 trường hợp là
tội phạm rất nghiêm trọng, 10 trường hợp là tội phạm nghiêm trọng và chỉ có
2 trường hợp là tội ít nghiêm trọng. Xuất phát từ đặc điểm này mà việc xét xử
đối với người phạm tội về ma túy thường nghiêm khắc hơn so với các tội
phạm khác [28]; [29]; [30].
14
Do vậy, khái niệm tội phạm về ma tuý được hiểu như sau: Tội phạm về
ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm đến những
quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây thiệt hại
cho lợi ích của xã hội, của công dân và gây mất trật tự an toàn xã hội và phải
chịu hình phạt do Bộ luật hình sự quy định.
Tội phạm về ma tuý có nhiều loại:
Đối với các vụ án mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy với quy
mô lớn thường được người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ thành những đường
dây xuyên quốc gia, nhưng lại không giống như tổ chức của các vụ án có tính
chất tổ chức khác, người chỉ huy, phân công, điều hành không lộ diện, có vụ
có rất đông người tham gia vào đường dây vận chuyển, mua bán ma túy
nhưng thông thường chỉ người thứ nhất biết người thứ hai chứ không biết
người thứ ba. Cũng chính vì đặc điểm này mà hoạt động điều tra, khám phá
các đường dây ma túy rất khó khăn, không ít những vụ án sau khi xét xử mói
phát hiện trong đường dây vận chuyển, mua bán ma túy còn có những người
phạm tội khác, cá biệt có trường hợp trước khi thi hành án tử hình, người bị
kết án tử hình mới khai ra đồng phạm.
Đối với những hành vi mua bán ma túy có tính chất tiêu thụ, người
phạm tội thường chia ma túy thành những gói nhỏ (tép, chỉ...) để bán cho các
con nghiện. Việc tổ chức tiêu thụ ma túy rất tinh vi, người phạm tội thường sử
dụng những địa điểm thuận lợi, có phân công người canh gác, khi các lực
lượng chống ma túy phát hiện thì chúng tẩu thoát dễ dàng.
Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, người phạm tội
chủ yếu là những người bán lẻ ma túy cho con nghiện, sau đó cho họ mượn
luôn địa điểm, dụng cụ để họ hút, chích ma túy, ít có trường hợp người phạm
tội đứng ra tổ chức như kiểu tổ chức đánh bạc.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy thời gian qua
15
còn cho thấy, người có hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy ít
khi bị bắt quả tang, nếu có bị bắt quả tang thì cũng chỉ bị bắt với trọng lượng
ma túy ít và nhờ có tin tố giác của nhân dân, còn lại đa số các vụ án ma tuý
được điều tra, truy tố thuộc dạng án truy xét đó là bắt được người mua ma túy
để sử dụng và từ lời khai của người sử dụng ma túy CQĐT mới xác minh, truy
tìm người bán ma túy. Khi người mua ma túy để sử dụng bị bắt thì lập tức
người bán ma túy đã kịp tẩu tán hoặc bỏ trốn nếu có nguy cơ bị lộ. Trường hợp
người mua chất ma túy khai ra người bán chất ma túy cho mình, nhưng nếu chỉ
có lời khai của người mua chất ma túy mà không có các nguồn chứng cứ khác
mà người bán ma túy không nhận tội thì cũng rất khó xử lý [33,tr.275].
Nắm chắc những đặc điểm của tội phạm về ma túy sẽ giúp cho cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có những phương pháp phù hợp
trong việc áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS vào việc điều tra,
truy tố, xét xử các vụ án về ma túy.
1.2. Những qui định về các tội phạm về ma túy trong luật hình sự
Việt Nam
1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cũng như các loại tội phạm khác, tội phạm ma tuý từ khi xuất hiện đã
gây tác hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Do vậy, ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm
đến vấn đề ngăn chặn thuốc phiện. Xác định được việc đấu tranh ngăn chặn
thuốc phiện không thể là công việc một sớm, một chiều, nên ngoài việc giáo
dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu đực tác hại của thuốc phiện để nhân dân
tự giác tránh xa thuốc phiện thì Chính phủ còn sử dụng cả biện pháp quá độ
để sớm ổn định tình hình. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc
lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại một số luật lệ cũ quy định về các tội phạm ma
16
túy không trái với nội dung chính thể Cộng hoà. Đây chính là một trong
những văn bản pháp lý quan trọng nhằm sớm ổn định tình hình đất nước.
Song do điều kiện lịch sử lúc đó cả dân tộc ta đang dồn hết sức lực cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nên việc xoá bỏ trồng cây thuốc
phiện và quản lý thuốc phiện cha thể thực hiện được. Cho tới ngày 05/3/1952,
Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử
lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Tiếp theo đó,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 255/TTg ngày 22/12/1952
quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý
như: Phạt tiền từ một đến năm lần trị giá thuốc phiện lậu, tịch thu thuốc phiện
khi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép. Người vi phạm có thể còn bị truy
tố ra trước Toà án nhân dân. Ngày 15/9/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành
Nghị định số 580/TTg bổ sung Nghị định số 150/TTg, quy định những trường
hợp có thể bị đưa ra Toà án để xét xử. Cùng với Nghị định này, theo thẩm
quyền, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 635/VHH-HS ngày 29/3/1958 và
Thông tư số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất đường lối xét xử đối
với những vụ án buôn lậu thuốc phiện [46]; [48].
Từ năm 1954 đất nước ta tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính
trị, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy ở mỗi miền rất khác
nhau, ở miền Nam, tình hình buôn bán ma tuý, tình trạng nghiện hút phát
triển nhanh, việc buôn bán ngày càng có quy mô lớn có tính tổ chức cao,
hình thành các tổ chức sử dụng ma túy công khai. Tính đến năm 1975 (sau
giải phóng) có khoảng 170.000 người nghiện ma túy. Sau khi giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết áp
dụng nhiều biện pháp để bài trừ tệ nạn nghiên hút, do đó chỉ sau bảy năm
(đến năm 1982) con số người nghiện giảm xuống chỉ còn 40.000 người .
Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về
17
chống buôn lậu thuốc phiện. Trên cơ sở Nghị định này, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an đã ra Thông tư liên ngành
hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước, trong đó xác định: Nghị định
số 580/TTg về trừng trị tội buôn lậu thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi
hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước.
Song Nghị định số 150/TTg và Nghị định số 225/TTg, chỉ đề cập xử lý
hành vi tàng trữ và vận chuyển trái phép, không đề cập đến việc xử lý hành vi
sản xuất hoặc buôn bán trái phép thuốc phiện, chỉ tới khi ban hành Nghị định
số 580/TTg thì mới quy định những trường hợp: buôn lậu thuốc phiện có
nhiều người tham dự và có thủ đoạn gian lận; tang vật trị giá trên 1.000đ (tính
theo thời giá năm 1955); buôn nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường
xuyên, chuyên nghiệp đã bị phạt tiền nhiều lần; các vụ có liên quan đến nhân
viên chính quyền hoặc bộ đội và không thi hành quyết định phạt tiền của cơ
quan Thuế vụ hoặc Hải quan có thể bị đa ra Toà án để xét xử. Người có các
hành vi phạm tội nêu trên có thể bị phạt tù từ ba tháng đến năm năm, phạt tiền
từ một đến năm lần trị giá thuốc phiện lậu, tịch thu tang vật và các phương
tiện dùng vào việc phạm tội.
Thông tư số 635/VHH-HS và Thông tư số 33/VHH-HS của Bộ Tư
pháp hướng dẫn:
Trường hợp buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở
việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể áp dụng
sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 để xử phạt trên năm năm tù. Đối
với bọn cầm đầu những tổ chức buôn lậu có thể phạt từ năm năm tù
đến mời năm tù; bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ ba đến năm
năm tù; bọn cơ hội phạm tội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm
thì phạt từ một đến ba năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm
nhẹ thì vẫn có thể phạt dưới một năm tù hoặc cho hưởng án treo...
18
Đến năm 1982, Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh trừng trị
các tội đầu cơ, buôn bán, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trong
đó ma tuý được coi là đối tượng của buôn lậu và mức phạt có thể
lên tới tử hình. Tuy nhiên pháp lệnh mới chỉ đề cập tới vấn đề buôn
lậu ma tuý dưới góc độ xử phạt hành chính và xử phạt hình sự, chứ
cha đề cập tới khía cạnh khác của ma túy [19].
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến
trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999
Vào những năm 1980, tình hình sản xuất, lưu thông và sử dụng ma túy
có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là buôn bán qua biên giới. Trước tình hình
đó, Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta đã được Quốc hội thông qua
ngày 27/6/1985 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội
liên quan đến ma túy tại ba điều: Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái
phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Điều 166: Tội buôn bán hàng cấm; và
Điều 203: Tội tổ chức dùng chất ma túy.
Theo Bộ luật hình sự năm 1985, chỉ có một Điều (Điều 203) quy định
riêng về “tội tổ chức dùng chất ma túy”, còn các hành vi sản xuất, mua bán,
vận chuyển, tàng trữ trái phép các chất ma túy chưa được quy định thành tội
riêng mà những hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy
cứu theo Điều 97 “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ
qua biên giới” [35] và những hành vi mua bán, vận chuyển ma tuý trong nội
địa thì truy tố theo Điều 166 là “Tội buôn bán hàng cấm” [35]. Bộ luật hình
sự 1985 là công cụ sắc bén để đấu tranh, chống các tội phạm về ma túy. Song
việc quy định không tách bạch chung và chưa bao quát đã làm giảm hiệu quả
của Bộ luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Theo
Bộ luật hình sự năm 1985, hành vi buôn bán, tàng trữ các chất ma tuý phải xử
lý theo tội "Buôn bán hàng cấm", còn hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép
19
chất ma túy thì chưa được quy định cụ thể. Trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra
là cần phải xử lý nghiêm khắc với cả hành vi “sản xuất”, “vận chuyển” trái
phép các chất ma túy. Ngày 28/12/1989 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó tách tội phạm ma túy thành
một điều riêng nằm ở Mục B thuộc chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia". Như vậy, đến thời điểm này thì tội phạm về ma túy lại được quy định
thành hai tội nằm ở hai chương khác nhau trong Bộ luật hình sự đó là: Tội sản
xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy (Điều 96a
BLHS) với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, với mức hình phạt cao nhất
đến tử hình đối với các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và Tội tổ
chức dùng chất ma túy (Điều 203 BLHS) với mức hình phạt cao nhất là mười
năm tù [6]; [27].
Đối với tệ nạn nghiện ma tuý, Luật bảo về sức khỏe nhân dân ngày
30/6/1989 tại Điều 29 cũng đã quy định: Các cơ sở y tế phải tiến hành các
biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh nghiện ma tuý .
Để tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tệ nạn ma tuý và các tội phạm
về ma tuý của Đảng và Nhà nước ta, Hiến pháp 1992 tại Điều 61 đã quy định
"...Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép
thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai
nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm..” [34]. Để tạo sức mạnh tổng hợp
cho cuộc đấu tranh phòng, chống ma tuý, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết
số 06/CP ngày 29/01/1993 về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và
kiểm soát ma túy với kinh phí cho chương trình từ 1993 đến 1997 là 300 tỷ
đổng. Nhằm tạo cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử các tội phạm về ma túy nên các ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ Nội
vụ đã cùng xây dựng Thông tư liên ngành số 07/TTLN ngày 05/12/1992, số
05/TTLN ngày 14/2/1995, số 09/TTLN ngày 10/10/1996 hướng dẫn áp dụng
Điều 96a và Điều 203 Bộ luật hình sự năm 1985 [2].
20
Để ngăn chặn tệ nạn ma túy với phương châm “triệt nguồn ma túy”
ngày 16/1/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ)
đã ra Chỉ thị số 243/CT về việc cấm gieo trồng cây thuốc phiện và giải thể các
đơn vị chuyên doanh dược liệu này; Chỉ thị số 99/CT ngày 8/4/1991 của
Chính phủ về việc vận động nhân dân không trồng cây anh túc và quy định về
trách nhiệm của các cấp, các ngành hữu quan.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn
đấu tranh chống các tội phạm ma túy nhưng tội phạm về ma túy và cùng với nó
là tệ nạn ma túy vẫn tiếp tục tăng nhanh. Tinh hình mới khiến cho quy định tại
Điều 96a cũng không đủ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm
về ma túy. Do vậy ngày 10/5/1997 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự,
trong đó có tội phạm về ma tuý, thể hiện cách tiếp cận, giải quyết vấn đề của
Nhà nước ta đối với tội phạm về ma túy một cách toàn diện, có hệ thống, triệt
để hơn và nghiêm khắc hơn. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự quy định tội phạm về ma tuý thành một chương riêng, bổ sung một số tội
danh, định lượng các chất ma tuý trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức
hình phạt, nâng cao hình phạt tiền và tịch thu tài sản, thêm một số hình phạt bổ
sung khác, đó là những điểm mới quan trọng nhất trong Chính sách hình sự của
Nhà nước ta về tội phạm ma tuý. Tại điều 2 của “Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của BLHS” đã quy định Chương VIIa “Các tội phạm về ma túy”. các tội
phạm về ma túy được tách ra thành 13 điều: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các
loại cây khác có chứa chất ma túy; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội tàng
trữ trái phép chất ma túy; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt
chất ma túy; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng
vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua
bán các phương tiện dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép
chất ma túy; tội sử dụng trái phép chất ma túy; tội cưỡng bức, lôi kéo người
21
khác sử dụng trái phép chất ma túy; tội vi phạm các quy định về quản lý, sử
dụng chất gây nghiện hoặc các chất ma túy khác.
1.2.3. Nhưng qui định về các tội phạm về ma túy theo Bộ luật hình sự
năm 1999
Trong điều kiện đất nước ta đã và đang chuyển sang một giai đoạn mới,
giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với nền kinh tế nhiều thành
phần, phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa hợp tác rộng rãi với các nước
trong khu vực và trên thế giới, từng bước hoà nhập với khu vực và thế giới.
Bộ luật hình sự năm 1985, dù qua vài lần sửa đổi vẫn chưa theo kịp tình hình,
phát triển của xã hội. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi Bộ luật hình sự
năm 1985 một cách toàn diện đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống các tội
phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Trên cơ sở đó Bộ luật
hình sự năm 1999 đã ra đời. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 tội phạm về ma
túy được quy định thành một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội danh
khác nhau. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 có
nhiều thay đổi, bổ sung phù hợp với cuộc đấu tranh phòng, chống các tội
phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay [4;5].
Các tội phạm về ma tuý được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999
tại một chương riêng (Chương XVIII- Các tội phạm về ma tuý) gồm 10 điều
từ Điều 192 đến Điều 201, về mức hình phạt cụ thể với từng tội như sau:
Điều 192 Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma tuý. Có 2 khung hình phạt chính, tối thiểu 06 tháng tù, tối đa 07 năm tù,
hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 01 triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Điều 193 Tội sản xuất trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt
chính, tối thiểu là 02 năm tù, tối đa là tử hình.
Điều 194 Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt chính, tối thiểu là 02 năm tù, tối
đa là tử hình.
22
Điều 195 Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt chính, tối
thiểu là 01 năm tù, tối đa là tù chung thân.
Điều 196 Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện,
dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. Có 2
khung hình phạt chính, tối thiểu là 01 năm tù, tối đa là 10 năm tù.
Điều 197 Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 04 khung hình
phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa đến tử hình.
Điều 198 Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 02
khung hình phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa 15 năm tù.
Điều 199 Tội sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 02 khung hình phạt
chính, tối thiểu 03 tháng tù, tối đa 05 năm tù.
Điều 200 Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma
tuý. Có 04 khung hình phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa là tù chung thân.
Điều 201 Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện
hoặc có chất ma túy khác. Có 04 khung hình phạt chính, tối thiểu là phạt tiền
05 triệu đồng, tối đa là tù chung thân.
Ngoài hình phạt chính nói trên thì người phạm các tội từ Điều 193 đến
Điều 198, các Điều 200 và Điều 201 có thể còn phải chịu hình phạt bổ sung là
phạt tiền từ 05 triệu đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985 đã chặt chẽ
hơn về mặt khoa học, dễ hiểu và dễ áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm về ma túy. Đồng thời Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung
thêm tình tiết "phạm tội đối với trẻ em" là tình tiết tăng nặng định khung
trong khoản 2 Điều 198 "Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy".
23
Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn xác
định thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước do vậy cần phải tạo điều
kiện, quan tâm bồi dưỡng, giáo dục, bảo vệ và tạo mọi điều kiện cho thế hệ
trẻ phát triển một cách toàn diện. Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội
khóa XII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
1999. Việc ban hành luật này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình
từng bước hoàn thiện pháp luật hình sự của Nhà nước ta, góp phần khắc phục
những hạn chế, bất cập của BLHS, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và
bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bổi cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế. Hành vi bị coi là tội phạm trong BLHS năm 1999 nay không
còn nguy hiếm cho xã hội nữa. Theo Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS, người thực
hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong
các trường hợp nêu trên thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân [30].
Khoản 3 điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS nhà làm luật đã phi hình
sự hóa (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS, trong đó có tội sử dụng trái phép
chất ma túy. Việc bãi bỏ điều luật này, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
hình sự nhưng cũng xác định rõ trong thời gian qua các hành vi nêu trên
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma
túy là xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian
qua cho thấy hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý hình sự đối
với hành vi vi phạm này không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối
với người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy là rất hạn chế. Mặt khác,
người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, không
có khả năng xử lý bằng hình sự hết được, xảy ra tình trạng không công bằng
của pháp luật. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp
luật, nhưng dưới góc độ xã hội thì người nghiện ma túy được coi là nạn nhân
của một tệ nạn. Hơn nữa, việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma
24
túy là tội phạm không có nghĩa là dung túng đối với hành vi này mà cần có
biện pháp xử lý hiệu quả, bền vững hơn như biện pháp bắt buộc chữa bệnh,
nâng cao các biện pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục tại gia đình
và cộng đồng. Trường hợp người nghiện ma túy mà có hành vi phạm tội thì sẽ
bị xử lý hình sự theo các tội danh tương ứng của BLHS. Bên cạnh đó, tham
khảo pháp luật nước ngoài cho thấy pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới
không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm.
Như vậy, đến nay theo quy định của BLHS thì có 9 điều luật quy định
về các tội phạm ma túy, là cơ sở pháp lý cho việc xử lý về hình sự các hành vi
phạm tội ma túy trên thực tế, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng,
chống đối với loại tội phạm này.
Cùng với việc thông qua Bộ luật hình sự mới, Quốc hội khóa X kỳ họp
thứ 8 đã thông qua Luật phòng, chống ma túy, có hiệu lực từ ngày 01/6/2001.
Đây là đạo luật đầu tiên quy định toàn diện về công tác phòng, chống ma túy.
Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng, chống ma
túy, điều đó cũng thể hiện chính sách hình sự và quan điểm của Nhà nước ta
quyết tâm phòng, chống ma túy một cách quyết tâm nhất.
Cùng với việc ban hành Bộ luật hình sự quy định các tội phạm về ma
tuý và hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, ban hành Luật phòng, chống
ma tuý, Đảng và nhà nước ta cũng luôn quan tâm công tác tuyên truyền, giáo
dục, vận động toàn dân tích cực phòng, chống các tệ nạn về ma tuý cũng như
tội phạm về ma tuý. Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo
công tác này như Nghị quyết số 06/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủ về
công tác phòng chống ma tuý, Chỉ thị số 33/CT/TW ngày 01/03/1994 của Ban
bí thư trung ương Đảng (khoáVII), Chỉ thị số 06 /CT/TW ngày 30/11/1996
của Bộ chính trị (khoá VIII) về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng
chống và kiểm soát ma tuý, gần đây nhất là Chỉ thị số 21/CT-TW ngày
25
26/3/2008 của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới [43].
1.3. Đường lối xử lý hình sự đối với các tội phạm về ma túy
Trong những năm vừa qua, công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý
đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, tình tình mua bán, vận
chuyển, tàng trữ vẫn chưa giảm; tình hình nghiện hút, tiêm chích, hút hít và tổ
chức sử dụng ma tuý đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh,
thiếu niên. Ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ,
là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm chặn
đứng và đẩy lùi tệ nạn này, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tệ
nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những
biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý là việc xử lý các hành
vi phạm tội về ma tuý.
Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về
ma tuý gồm 10 Điều tương ứng với 10 tội danh khác nhau. So với Chương
VIIA (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm
1999 quy định ít hơn 4 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 có 14 Điều). Tuy
có ít hơn 4 điều nhưng các hành vi phạm tội về ma tuý vẫn bị xử lý không
sót một hành vi nào.
Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về ma
tuý, nói chung không có gì thay đổi lớn, vì Chương VIIA Bộ luật hình sự năm
1985 là chương được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX
ngày 10-5-1997 (có hiệu lực từ ngày 22-5-1997). Các quy định tại chương
VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tương đối đầy đủ, các hành vi, các
dấu hiệu định tội, định khung hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy
định một số tình tiết (đúng ra là cụ thể hoá một số tình tình tiết) như: Gây tổn
26
hại nặng cho sức khoẻ, thì quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là bao nhiêu %;
điều chỉnh lại mức hình phạt trong từng khung hình phạt cho phù hợp với
thực tiễn xét xử, nhất là hình phạt bổ sung. Một thay đổi lớn nhất đối với các
tội phạm về ma tuý quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 so
với chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 là nhập bốn tội quy định các Điều
185c,185d,185đ và 185e thành một tội quy định tại Điều 194 với đầy đủ các
hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý, đồng thời
quy định hình phạt bổ sung ngay trong từng điều luật mà không quy định
thành một điều luật riêng như Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 185o). Việc
nhập 4 điều thành một điều và quy định hình phạt bổ sung ngay trong cùng
một điều luật đã làm cho chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ còn 10
điều so với 14 điều của Bộ luật hình sự năm 1985.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được bổ sung chương VIIA, các cơ
quan bảo vệ pháp luật ở trung ương cũng đã kịp thời ban hành Thông tư liên
tịch số 01-1998/TTLT ngày 2 tháng 1 năm 1998 của Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ và ngay sau đó các cơ quan trên lại
ban hành Thông tư liên tịch số 02-1998/TTLT ngày 5 tháng 8 năm 1998
hướng dẫn áp dụng Chương VIIA quy định các tội phạm về ma tuý. Các
hướng dẫn này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan tiến hành
tố tụng và các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma
tuý, các nội dung trong các Thông tư này vẫn còn giá trị tham khảo khi áp
dụng các quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội
phạm về ma tuý.
Do pháp luật quy định các tội phạm về ma tuý trong từng thời ký có
khác nhau nên nhất là từ khi Quốc hội bổ sung chương VIIA quy định các tội
phạm về ma tuý có hiệu lực từ ngày 22-5-1997, thì việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với những hành vi phạm tội về ma tuý trước ngày 22-5-1997 cần
27
chú ý hiệu lực về thời gian. Mặt khác, trước và sau khi Quốc hội bổ sung
Chương VIIA, các cơ quan chức năng như Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp có nhiều văn bản hướng
dẫn áp dụng Bộ luật hình sự khi xử lý các hành vi phạm tội có Hên quan đến
ma tuý và mỗi văn bản đó cũng có nội dung khác nhau, cũng như hiệu lực thi
hành cũng khác nhau nên việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đế xử
lý đối với hành vi phạm tội về ma tuý cũng khá phức tạp.
Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 đối với
các tội phạm về ma tuý và các hướng dẫn áp dụng về tội phạm ma tuý vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn xét xử đặt ra. Mặt khác, dù không có
thay đổi nhiều, nhưng các quy định của chương XVIII Bộ luật hình sự năm
1999 về các tội phạm ma tuý có nhiều điểm nếu không được tìm hiểu thì khó
có thể áp dụng đúng khi giải quyết các hành vi phạm tội về ma tuý.
Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Việc ban hành luật
này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình từng bước hoàn thiện pháp
luật hình sự của Nhà nước ta, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của
BLHS, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Luật sửa đổi, bổ sung BLHS đã thể chế hóa chính sách nhân đạo của
Đảng và Nhà nước; hình sự hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi
phải xử lý về hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội,
khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, nhất là các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chứng khoán, tài chính-kế toán, sở
hữu trí tuệ trong hợp tác quốc tế về chống khủng bố, chống mua bán phụ nữ,
trẻ em...; phi hình sự hóa một số hành vi bị coi là tội phạm trong BLHS năm
1999 nay không còn nguy hiếm cho xã hội nữa.
28
Theo đó, bỏ hình phạt tử hình ở 8 điều luật trong đó có Khoản 4 Điều
197 (Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy) BLHS năm 1999 quy định
người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc
một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình: gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở
lên; gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Theo
Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử
dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bị
phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân.
Khoản 3 điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS nhà làm luật đã phi hình
sự hóa (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS, trong đó có tội sử dụng trái phép
chất ma túy. Việc bãi bỏ điều luật này, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
hình sự nhưng cũng xác định rõ trong thời gian qua các hành vi nêu trên
không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma
túy là xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian
qua cho thấy hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý hình sự đối
với hành vi vi phạm này không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối
với người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy là rất hạn chế. Mặt khác,
người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, không
có khả năng xử lý bằng hình sự hết được, xảy ra tình trạng không công bằng
của pháp luật. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp
luật, nhưng dưới góc độ xã hội thì người nghiện ma túy được coi là nạn nhân
của một tệ nạn. Hơn nữa, việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy là tội phạm không có nghĩa là dung túng đối với hành vi này mà cần có
biện pháp xử lý hiệu quả, bền vững hơn như biện pháp bắt buộc chữa bệnh,
nâng cao các biện pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục tại gia đình
và cộng đồng. Trường hợp người nghiện ma túy mà có hành vi phạm tội thì sẽ
29
bị xử lý hình sự theo các tội danh tương úng của BLHS. Bên cạnh đó, tham
khảo pháp luật nước ngoài cho thấy pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới
không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm.
Như vậy, đến nay theo quy định của BLHS thì có 9 điều luật quy định
về các tội phạm ma túy, là cơ sở pháp lý cho việc xử lý về hình sự các hành vi
phạm tội ma túy trên thực tế, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng,
chống đối với loại tội phạm này.
Trong những năm qua liên ngành Trung ương. Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Toàn án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn giải
quyết các vụ án ma túy, các văn bản đó đã định hướng và góp phần tích cực
trong việc đấu tranh với các loại tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, do có sự thay
đổi, bổ sung của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng Hình sự và diễn biến tình
hình tội phạm ma túy ngày càng phức tạp, nghiêm trọng thì những văn bản trên
còn có những bất hợp lý trong việc xử lý các loại tội phạm về ma túy cụ thể:
Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quyết định hình phạt đối với tội
phạm về ma túy.
Đến nay văn bản này không phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng
chống tội phạm ma túy đẫn đến việc áp dụng và quyết định hình phạt chưa
đảm bảo nguyên tắc công bằng.
Mục 3.1 Nghị quyết hướng dẫn: Trong trường hợp không có tình tiết
tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa
có tình tiết giảm nhẹ nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm
nhẹ tương đương nhau thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với
trọng lượng chất ma túy như sau:
- Xử phạt 20 năm tù nếu Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 100g
đến 300g;
30
- Xử phạt trung thân nếu Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 300g
đến 600g.
Khi quyết định hình phạt dựa vào trọng lượng các chất ma túy, trọng
lượng các chất ma túy càng nhiều thì mức phạt càng cao và ngược lại. Theo
hướng dẫn trên thì người phạm tội với trọng lượng l00g Heroin cũng phải
chịu mức hình phạt như người tội phạm về ma túy với trọng lương 299g
Heroin và ngược lại. Với hướng dẫn trên thì định hướng từ l00g đến dưới
300g là khoảng cách quá xa và bất hợp lý khi quyết định hình phạt. Mặt khác,
nếu mỗi bị can phạm tội đom lẻ về mua bán, tàng trử, vận chuyển trái phép từ
l00g Heroin hoặc Cocain trở lên thi bị xét xử theo khoản 4 điều 194 Bộ luật
hình sự với khung hình phạt thấp nhất là 20 năm, cao nhất là tử hình. Tuy
nhiên, nhiều vụ án ma túy được đưa ra xét xử có tính chất đồng phạm, có
nhiều bị cáo tham gia, được tổ chức chặt chẽ, buôn bán vận chuyển số lượng
lớn ma túy là Heroin với trọng lượng hàng chục kilogam nhưng khi xét xử án
tử hình còn có án chung thân và án tù có thời hạn. Trong khi đó hành vi phạm
tội có tổ chức bao giờ cũng nguy hiểm hơn phạm tội mang tính đơn lẻ.
Tại Nghị quyết 02/2013 ngày 17/4/2003 Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn hình sự đối với người thực hiện tội phạm về ma
túy trong một số trường hợp cụ thể tại các tiết c, d, đ, e, g điểm 2 mục 2 có
ghi: “Người nào nghiện ma túy...” theo luật phòng chống ma túy thì người
nghiện ma túy là người bị lệ thuộc vào việc sử dụng ma túy. Tuy nhiên, trong
thực tiễn khi nhiều đối tượng tụ tập sử dụng trái phép chất ma túy bị bắt giữ
có khai là đã sử dụng ma túy nhưng không thường xuyên, xác minh không có
hồ sơ quản lý đối tượng ở cơ sở vì vậy xác định đối tượng nghiện ma túy hay
không rất khó khăn. Do đó, khi vận dụng hướng dẫn trên có nhiều cách hiểu
khác nhau dẫn đến đường lối xử lý khác nhau.
Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành, việc áp dụng
31
quy định về trọng lượng ma túy để xét xử bị cáo theo Điều 194 Bộ luật hình
sự có nhiều thuận lợi. Điều 194 đã quy định cụ thể về trọng lượng ma túy áp
dụng cho từng khoản tương ứng với hành vi phạm tội của người thực hiện tội
phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân các cấp trong việc định tội,
định khung hình phạt trong hoạt động xét xử, đảm bảo được tính nghiêm
minh, khách quan, công bằng khi ban hành các bản án.
Để hướng dẫn áp dụng thống nhất về đường lối xử lý giữa các ngành,
các địa phương, nhằm đảm bảo sự công bằng, đúng pháp luật, cũng như nâng
cao hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, truy tố người phạm tội trước pháp
luật đối với các tội phạm về ma túy. Liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư
liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma
túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó hướng dẫn cách thức, phương
pháp tính, quy đổi định lượng ma túy, định lượng xác định cấu thành tội phạm
đổi với các hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy tạo
thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án về ma túy. Các quy định này đã tạo cơ
sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết về định lượng, tỷ lệ phần trăm
về trọng lượng của các chất ma túy, là căn cứ để xác định khung hình phạt áp
dụng và mức hình phạt tương ứng với trọng lượng do hành vi phạm tội của
người phạm tội gây ra giúp cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng dễ
dàng áp dụng, tránh được sự tùy tiện khi áp dụng. Tuy nhiên, thực tiễn áp
dụng nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17 về định lượng ma túy
để truy cứu trách nhiệm hình sự còn nhiều vướng mắc trong quá trình vận
dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng rất cần được làm rõ, sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện.
40
Chương 2
THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH NĂM 2001 - 2013
2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử các
vụ án Hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
Tỉnh Bắc Ninh được tái lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, là tỉnh nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế lớn Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Mặc dù là tỉnh nhỏ, có diện tích tự nhiên rất
hẹp khoảng 807,6km2
, dân số là 1.024.151 người, mật độ dân số đứng thứ ba
của cả nước với 1.245 người/lkm2
, dân số sống chủ yếu ở vùng nông thôn với
782.428 người, chiếm 76,4%. Tỉnh Bắc Ninh được chia thành 8 đơn vị hành
chính gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện, tiếp giáp với các tỉnh, thành phố
là Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Giang, có đường giao thông đường
bộ, đường sắt và đường sông thuận lợi. Với truyền thống văn hoá lâu đời, Bắc
Ninh là vùng quê có nhiều lễ hội truyền thống, hàng năm thu hút hàng vạn
khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm các khu di tích lịch sử, văn hoá,
thăm các làng nghề truyền thống cùng các hoạt động buôn bán, giao lưu kinh
tế, văn hoá.
Từ khi tái lập tỉnh, đặc biệt là sau Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ
XVI năm 2000 và Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII năm 2005, nền
kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã và đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Từ một tỉnh thuần nông, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng
công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, tỷ trọng giữa chăn nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản so với trồng trọt hiện nay đã chiếm 60% giá trị toàn ngành.
Trong công nghiệp, công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng các khu công
nghiệp, cụm công nghiệp và các làng nghề được đặc biệt quan tâm và chú
41
trọng đầu tư. Tính đến nay, đã quy hoạch được 7 khu công nghiệp được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt với diện tích hơn 6.459 ha; đồng thời trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung 6 khu công nghiệp với hơn 1.424 ha, cấp
giấy phép đầu tư cho 300 dự án, trong đó có gần 137 dự án nước ngoài đầu tư
với số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD và 5.157 tỷ đồng và quy hoạch được 54
cụm công nghiệp nhỏ và vừa, cụm công nghiệp làng nghề có ở khắp các địa
phương trong tỉnh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Bắc Ninh
trong những năm qua đã làm cho nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và
phát triển tương đối toàn diện, giáo dục, y tế, văn hoá được nâng lên một
bước, đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, đời sống nhân dân đặc
biệt là ở nông thôn đã có nhiều thay đổi và được cải thiện rõ rệt.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo
trong xã hội cũng trở nên rõ rệt, tạo ra những mâu thuẫn, vấn đề việc làm cho
người lao động vãn còn nan giải, các chính sách xã hội còn nhiều bất cập, tệ
nạn xã hội ngày càng gia tăng, hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi xảo quyệt.
Trong điều kiện chung của đất nước, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh
có sự phát triển, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung, tội
phạm về ma tuý và tệ nạn ma tuý nói riêng luôn có chiều hướng gia tăng, tính
chất và mức độ phạm tội cũng như hình thức sử dụng ngày càng tinh vi và đa
dạng hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm nói chung cũng như tình hình tội
phạm về ma tuý và tệ nạn ma tuý đã và đang gây ra những tác hại về kinh tế -
chính trị - xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân và truyền thống
đạo đức cũng như hình ảnh của vùng quê Kinh Bắc văn hiến lâu đời [51].
Những điều kiện tự nhiên, sự chuyển biến về kinh tế - văn hoá - xã hội
trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến việc ADPL trong hoạt
động xét xử án hình sự nói chung và án hình sự về ma tuý của TAND các cấp
ở tỉnh Bắc Ninh. Những ảnh hưởng đó biểu hiện tập trung trên một số phương
diện sau:
42
Thứ nhất: Những ảnh hưởng từ đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế -
xã hội.
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất so với các tỉnh, thành
phố trong cả nước, số lượng đơn vị hành chính không nhiều. Nhưng Bắc Ninh
có 5 tuyến đường quốc lộ đi qua và 12 đường tỉnh lộ nối tất cả các huyện, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh với nhau. Hệ thống thông tin liên lạc, mạng viễn
thông đã được triển khai tới tất cả các huyện và các xã trong tỉnh. Những điều
kiện về tự nhiên và hạ tầng giao thông liên lạc trên là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động quản lý nói chung và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan tiến hành tố tụng nói riêng. Việc đầu tư xây dựng trụ sở Toà án các cấp
ở tỉnh Bắc Ninh đã được chú trọng. Tính đến nay, Toà án cấp huyện và Toà
án tỉnh Bắc Ninh đều đã được đầu tư xây mới, nâng cấp khang trang đảm bảo
tạo ra sự uy nghiêm chốn pháp đình.
Trình độ dân trí trong dân cư tương đối cao, đã phát huy được tính tích
cực, chủ động và dân chủ trong hoạt động tham gia tố tụng của các chủ thể,
bảo đảm cho hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng của Toà án đúng đắn, khách quan. Tuy
nhiên, đây cũng là địa bàn phức tạp, mặt trái của sự phát triển kinh tế - xã hội
- văn hoá tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn xã hội dẫn
đến các vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và tội phạm về ma tuý nói
riêng. Tốc độ phát triển kinh tế cao, sự hình thành các khu công nghiệp tập
trung nhanh chóng làm cho đất đai, sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, đẩy một
bộ phận không nhỏ lao động nông thôn không có việc làm, dẫn đến nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp về văn hoá - xã hội. Ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai,
tư tưởng hưởng thụ, tiêu xài lãng phí xuất hiện trong một bộ phận nhân dân.
Đây chính là những nguyên nhân của các tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn ma
tuý, từ đó dẫn đến các hành vi phạm tội khác. Trong tổng số các vụ án được
43
đưa ra xét xử ở cả hai cấp của ngành Toà án ở tỉnh Bắc Ninh, thì số vụ liên
quan đến ma tuý luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Nếu như năm 2009, tổng số
vụ án đưa ra xét xử là 492 vụ thì án ma tuý chiếm 165 vụ (33,54%); năm
2010, tổng số vụ án đưa ra xét xử là 568 vụ thì án ma tuý chiếm 235 vụ
(41,37%). Những điểu kiện về kinh tế - xã hội nêu trên đã ảnh hưởng không
nhỏ tới hoạt động xét xử án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm án hình sự
về ma tuý nói riêng của các cấp Toà án ở tỉnh Bắc Ninh. Sự đánh giá chứng
cứ, việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội của các bị cáo có những
khó khăn nhất định; việc cân nhắc quyết định trách nhiệm hình sự và nghĩa vụ
pháp lý đối với các bị cáo phạm tội đòi hỏi phải cân nhắc kỹ càng để đảm bảo
tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong giai đoạn hiện nay [47]. .
Thứ hai: Sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đã tăng cường về
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động giải quyết các vụ án hình sự nói chung
và giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng của các cơ quan tiến hành
tố tụng trên địa bàn tỉnh.
Vì kết quả xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ
án hình sự về ma tuý nói riêng đồng thời phản ánh kết quả điều tra, truy tố đã
được tiến hành trước đó. Nên các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác
điều tra xác định tội phạm và người phạm tội cũng chính là đảm bảo cung cấp
đầy đủ chứng cứ, tạo điều kiện cho việc xét xử của Toà án được đầy đủ, chính
xác. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh đã được trang bị
tương đối đầy đủ máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc, phương tiện đi lại
hiện đại. Riêng đối với Toà án tỉnh đã thực hiện kết nối mạng Internet đến tất
cả các máy tính ở Toà án tỉnh và các Toà án cấp huyện, đặc biệt Toà án tỉnh
đã có trang thông tin điện tử nhằm mục tiêu từng bước công khai, minh bạch
hoá các hoạt động của Toà án và tích cực phục vụ nhân dân đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định tư pháp,
44
Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý... cũng được quan tâm và hoạt động
có hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị này ngày càng phát huy được vai trò phản
biện xã hội và hỗ trợ cho hoạt động tư pháp, bảo đảm cho hoạt động xét xử
nói chung của Toà án được chính xác và đạt hiệu quả cao.
2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án hình
sự về ma túy tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh
Theo số liệu thống kê được từ nguồn thống kê của Công an tỉnh Bắc
Ninh, từ năm 2000 đến năm 2013. Công an tỉnh Bắc Ninh đã điều tra, khám
phá được 7188 vụ. Trong số đó các vụ án về ma tuý đã được điều tra, khám
phá là 1953 vụ [47].
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về ma tuý với tình hình tội phạm nói
chung trên địa bàn tình Bắc Ninh
Năm
Số liệu tình hình tội phạm
Tổng số vụ phạm tội đã
được khám phá
Số vụ phạm tội về ma tuý đã
được khám phá
Tỷ lệ %
2000 419 85 20,29
2001 371 52 14,01
2002 442 82 18,55
2003 457 172 37,63
2004 448 148 33,03
2005 449 154 34,30
2006 472 161 34,11
2007 496 138 27,82
2008 508 214 42,12
2009 498 141 28,31
2010 568 235 41,37
2011 635 118 18,58
2012 710 136 19,15
2013 715 117 16,36
Tổng số 7188 1953 27,17
Nguồn: Công an tỉnh Bắc Ninh
45
Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm về
ma tuý trong thời gian qua, diễn biến không ổn định, tăng, giảm thất thường không
theo quy luật. Diễn biến của các tội phạm về ma tuý không giống như diễn biến của
các tội phạm nói chung mặc dù qua các năm số tội phạm đều có chiều hướng gia
tăng. Nếu như các tội phạm nói chung có sự tăng đột biến vào năm 2013 thì các tội
phạm về ma tuý tăng đột biến vào năm 2010. Các tội phạm về ma tuý chiếm
23,89% so với tổng số các tội phạm nói chung đã được điều tra truy tố. Đây là một
tỷ lệ không nhỏ nếu biết rằng các tội phạm nói chung bên trên bao gồm: các tội
phạm về kinh tế, chức vụ; các tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông; các tội phạm về trật tự xã hội; các tội phạm về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của con người...
Trong 13 năm qua, Công an tỉnh Bắc Ninh đã điều tra, khám phá được 1993
vụ án về ma tuý, bắt giữ 2972 đối tượng. Diễn biến từng năm được thể hiện như sau:
Bảng 2.2: Tình hình tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
(các vụ án đã được điều tra, khám phá)
Năm Số vụ án Số đối tượng Tỷ lệ
2000 85 175 2,06
2001 52 108 2,08
2002 82 84 1,02
2003 172 196 1,14
2004 148 169 1,14
2005 154 178 1,16
2006 165 189 1,15
2007 181 197 1,09
2008 205 255 1,24
2009 141 157 1,11
2010 235 285 1,21
2011 118 128 1,08
2012 136 152 1,11
2013 117 136 1,16
Tổng số 1993 2972 1,49
Nguồn: Công an tỉnh Bắc Ninh
46
Nhìn trên bảng thống kê trên thấy rằng, các tội phạm về ma tuý có sự
đồng phạm, chỉ hơn 1 bị can/1 vụ phạm tội, tức là vẫn có sự đồng phạm trong
các vụ phạm tội về ma tuý, nhưng mức độ không cao.
Tình hình khỏi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2013 như sau:
Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 20013 (cả cấp tỉnh và cấp
huyện)
Năm
Số khởi tố Số truy tố Số xét xử
Vụ Đối tượng Vụ Bị can Tỷ lệ Vụ Bị cáo Tỷ lệ
2000 44 49 43 48 43 48
2001 85 93 74 77 74 77
2002 163 172 148 158 140 150
2003 158 169 162 169 155 164
2004 133 141 130 138 140 146
2005 129 143 114 127 114 126
2006 122 128 111 116 109 115
2007 101 109 96 101 94 98
2008 117 125 112 116 107 108
2009 122 128 111 116 109 115
2010 111 119 106 111 104 108
2011 127 135 122 126 117 118
2012 129 142 124 127 124 127
2013 108 121 101 113 101 113
Tổng số 1649 1774 1554 1643 1531 1613
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
47
Nhìn vào bảng 2.3 chúng ta thấy, số vụ án về ma tuý được khởi tố từ
năm 2000 đến năm 2013 là 1649 vụ với 1774 đối tượng, trong khi đó số vụ án
được điều tra khám phá từ năm 2000 đến hết năm 2013 ( là 1992 vụ với 2972
đối tượng. Như vậy, tỷ lệ các vụ án khởi tố ít hơn rất nhiều so với các vụ án
đã được điều tra, khám phá. Số các vụ án Viện kiểm sát truy tố trong vòng 13
năm là 1554 vụ với 1643 bị can. Số các vụ án Toà án đưa ra xét xử là 1531 vụ
với 1613 bị cáo. Đây là một tỷ lệ tương đối cao, chứng tỏ có sự phối hợp chặt
chẽ của cả 3 ngành Công an - Viện Kiểm sát - Toà án trong việc đưa các vụ
án về ma tuý ra xét xử nhanh chóng, kịp thời với mục đích vừa tuyên truyền,
vừa trừng trị, răn đe và phòng ngừa chung.
Xem xét số liệu các vụ án khởi tố, truy tố, xét xử thấy có sự không
giống nhau, số liệu các vụ án đưa ra xét xử luôn thấp hơn so với số các vụ án
khởi tố và truy tố. Tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau:
- Do thời điểm thống kê của 3 ngành không giống nhau;
- Do Toà án hoàn hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung;
- Một số vụ án bị tồn đọng từ năm này sang năm khác;
- Một số vụ án đã bị khởi tố nhưng đến giai đoạn truy tố hoặc xét xử
thì bị đình chỉ do một số nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan như bị cáo
chết hoặc căn cứ để khởi tố không còn...
Xem xét tình hình tội phạm về ma tuý thông qua số liệu các vụ án được
đưa ra xét xử, chúng tôi nhận thấy, trong các vụ án về ma tuý tỷ lệ đồng phạm
không cao, chỉ hơn 1 bị cáo trên 1 vụ phạm tội. Như vậy các đối tượng phạm tội
ma tuý thường có tính chất hoạt động đơn lẻ. Tuy nhiên, do Bắc Ninh là một tỉnh
nhỏ, chỉ là địa bàn trung chuyển nên các đối tượng phạm tội về ma tuý bắt được
tại đây chỉ là những đối tượng buôn bán nhỏ, những kẻ được thuê vận chuyển...
chỉ là một mắt xích nhỏ trong những đường dây tội phạm về ma tuý.
Mặc dù tỷ lệ các vụ án về ma tuý ở Bắc Ninh được đưa ra xét xử thấp
48
hơn so với nhiều địa bàn khác trên phạm vi cả nước, nhất là với những thành
phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tính chất của
các vụ án ngày càng mang tính nguy hiểm và phức tạp hơn. Theo số liệu
thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 2013, tình hình xét
xử các vụ án về ma tuý như sau:
Bảng 2.4: Tình hình xét xử các vụ án vê ma tuý
Tội danh Vụ Bị cáo
Hình phạt
Từ 7 năm
trở xuống
Từ 7 -
15 năm
Từ 15 -
20 năm
Chung
thân
Tử
hình
Mua bán TPCMT 132 132 57 23 45 5 2
Tàng trữ TPCMT 333 341 310 28 2 1 0
Vận chuyển TPCMT 11 17 7 6 2 2 0
Sử dụng TPCMT 21 24 19 5 0 0 0
Tổ chức SDTPCMT 33 42 27 14 1 0 0
Chứa chấp SDTPCMT 25 25 21 4 0 0 0
Tổng cộng 555 581 441 80 50 8 2
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc ninh
Xem xét các vụ án được đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh,
chúng ta thấy, các vụ án phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" chiếm số
lượng cao nhất là 333 vụ với 341 bị cáo. Các vụ án phạm tội "Mua bán trái
phép chất ma tuý" là 132 vụ với 132 bị cáo. Đây là hai loại tội chiếm tỷ lệ cao
nhất trong số các tội phạm về ma tuý đã được đưa ra xét xử và cũng là loại tội
có tỷ lệ đổng phạm cao nhất, còn lại các tội phạm "Vận chuyển trái phép chất
ma tuý", "Sử dụng trái phép chất ma tuý", "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma
tuý", "Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý” chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Về mức hình phạt, chúng ta thấy đa số các bị cáo phạm tội có mức hình
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà GiangLuận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
Luận văn: Tội mua bán người, mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang
 
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà NộiLuận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
Luận văn: Phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu tại Tp Hà Nội
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túyLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuýLuận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý về phòng chống ma túy ở tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Quản lý về phòng chống ma túy ở tỉnh Phú Yên, HOTLuận văn: Quản lý về phòng chống ma túy ở tỉnh Phú Yên, HOT
Luận văn: Quản lý về phòng chống ma túy ở tỉnh Phú Yên, HOT
 
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOTLuận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
Luận văn: Pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống ma túy, HOT
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAYPhòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 

Similar to Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT

Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...
Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...
Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT (20)

CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰCÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TRONG LUẬT HÌNH SỰ
 
Hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma t...
Hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma t...Hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma t...
Hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma t...
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tộiPháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
Pháp luật trong xét xử sơ thẩm người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...
Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...
Luận án: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình theo luật - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOTLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo luật, HOT
 
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sựLuận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
Luận văn: Các hình phạt chính không tước tự do theo Luật hình sự
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đLuận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
Luận văn: Quản lý của UBND tỉnh về xử lý vi phạm hành chính, 9đ
 
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOTLuận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
Luận văn thạc sĩ: Trợ giúp pháp lý tại tỉnh Thanh Hóa, HOT
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU THẢO C¸C TéI PH¹M VÒ MA TóY TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ thùc tiÔn xÐt xö trªn ®Þa bµn tØnh B¾c Ninh giai ®o¹n 2000 - 2010 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRỊNH QUỐC TOẢN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thu Thảo
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VÂN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM........................... 8 1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội phạm về ma tuý trong luật hình sự Việt Nam ............................................................................. 8 1.1.1. Khái niệm chất ma túy....................................................................... 8 1.1.2. Khái niệm tội phạm về ma tuý trong Luật hình sự Việt Nam. ........10 1.2. Những qui định về các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt Nam....................................................................................15 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985.......................................................15 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999...........................................18 1.2.3. Nhưng qui định về các tội phạm về ma túy theo Bộ luật hình sự năm 1999.....................................................................................21 1.3. Đường lối xử lý hình sự đối với các tội phạm về ma túy............25 Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH NĂM 2001 - 2013................................................................40 2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử các vụ án Hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh.........................................................................................40
  • 4. 2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh ..............44 2.3. Những hạn chế về hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân ...................................................................................54 2.3.1. Những hạn chế về hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh và nguyên nhân ..........54 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chê trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy của Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh.....57 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY.....................................................................66 3.1. Các quan điểm về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma tuý của Toà án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh...................................66 3.2. Yêu cầu xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma tuý của Toà án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh ................................................68 3.3. Nhu cầu tiếp tục hoàn thiện pháp hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy...............................................70 3.4. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy .....................74 3.5. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy........................................................77 3.5.1. Hoàn thiện các quy phạm pháp luật liên quan hoạt động xét xử các tội phạm ma túy.........................................................................77 3.5.2. Hoàn thiện về việc tham gia của người bào chữa............................90 3.5.3. Hoàn thiện về đường lối xử lý đối với tội phạm về ma túy.............90 3.6. Các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy ....91 3.6.1 Hoàn thiện các chế độ chính sách đãi ngộ đối với Thẩm phán và cán bộ công chức thuộc ngành Tòa án........................................91
  • 5. 3.6.2. Kiện toàn cơ cấu tổ chức nâng cao trình độ năng lực phẩm chất đội ngũ Thẩm phán và cán bộ công chức của tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh............................................................................92 3.6.3. Tăng cường công tác tuyên truyền về đấu tranh phòng chống ma túy ở tỉnh Bắc Ninh....................................................................95 3.6.4. Tăng cường trang thiết bị và phương tiện cho hệ thống cơ quan Tòa án ở tỉnh Bắc Ninh....................................................................98 KẾT LUẬN..................................................................................................100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................103
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTH: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về ma tuý với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tình Bắc Ninh 44 Bảng 2.2: Tình hình tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (các vụ án đã được điều tra, khám phá) 45 Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 20013 (cả cấp tỉnh và cấp huyện) 46 Bảng 2.4: Tình hình xét xử các vụ án vê ma tuý Error! Bookmark not defined. Bảng 2.5: Đặc điểm nhân thân của các bị cáo 41
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ma túy ngày nay đang là vấn đề mang tính toàn cầu và là mối lo ngại chung của các quốc gia trên khắp các châu lục. Tệ nạn ma túy trở thành một vấn đề nóng bỏng, nhức nhối gây hậu quả nhiều mặt cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ma túy đã trở thành hiểm họa của toàn nhân loại, không một quốc gia, một dân tộc nào thoát khỏi ảnh hưởng của những hậu quả tai hại do tệ nạn ma túy gây ra. Tệ nạn ma túy là nguồn phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm, tội phạm có tổ chức, tội phạm xuyên quốc gia và các tệ nạn xã hội. Lạm dụng ma túy làm tiêu phí một khoản tiền to lớn của mỗi gia đình và toàn xã hội. Nghiện ma túy còn là một trong các nguyên nhân chủ yếu gây lây nhiễm căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Các vấn đề ma túy, tội phạm, HIV/AIDS, môi trường và nạn đói nghèo có mối liên hệ mật thiết, gây tác hại nặng nề đối với nền kinh tế - xã hội của quốc gia và biết bao đau thương đến các gia đình [7]; [8]; [9]; [53]. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của tệ nạn này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang tiếp tục coi trọng và tập trung đầu tư cho nhiệm vụ phòng, chống ma túy. Trong những năm qua, bằng nội lực của mình và với sự giúp đỡ, phối hợp của cộng đồng quốc tế, Đảng và Nhà nước đã chủ động triển khai đồng bộ và toàn diện nhiều chủ trương, biện pháp rất tích cực nhằm đấu tranh phòng, chống ma túy và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong các biện pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy thì hoạt động xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với các tội phạm về ma túy là vô cùng quan trọng. Xét xử là chức năng cơ bản của Tòa án nhân dân nước ta, điều này đã được ghi nhận trong điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Hoạt động xét xử nói chung, xét xử án hình sự trong đó có xét xử các tội phạm về ma túy nói riêng là hoạt động áp dụng
  • 9. 2 pháp luật để ra các bản án, các quyết định thể hiện tính nghiêm minh và sự công bằng của pháp luật. Do vậy, tăng cường công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án về ma túy nói riêng vừa là nhiệm vụ, vừa là trách nhiệm, vừa là đạo đức của cán bộ, công chức ngành Tòa án, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động xét xử. Ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Đến ngày 02/06/2005, Bộ Chính trị tiếp tục ra Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết xác định cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử, đây là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện chủ trương này, trong những năm qua hoạt động xét xử của của ngành Tòa án đã đạt được những kết quả tích cực. Chính sách, pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự đã từng bước được định hình và hoàn thiện, tạo điều kiện cho các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng có được môi trường pháp lý thuận lợi để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức và công dân [16]; [17]. Mặc dù tỉnh Bắc Ninh chưa phải là địa bàn trọng điểm về tội phạm ma túy, nhưng với đặc điểm là tỉnh đồng bằng, giao thông thuận lợi, có đường thủy, đường sắt, đường bộ nối liền với các tỉnh, thành phố khác, giáp danh các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội, có nhiều làng nghề phát triển, tập trung nhiều khu công nghiệp lớn có vốn đầu tư nước ngoài, thu hút nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Điều này, đã tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội thâm nhập và phát triển, trong đó nổi cộm là tệ nạn ma túy. Tệ nạn ma túy không chỉ diễn ra ở các khu vực thành phố, thị xã mà đã lan về cả những vùng quê yên tĩnh. Nguy hại hơn, ma túy còn len lỏi vào cả học đường đầu độc thế hệ trẻ, gây ra nhiều hậu quả to lớn cho mỗi con người,
  • 10. 3 mỗi gia đình và toàn xã hội. Đứng trước thực trạng đó, ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã xét xử nhiều vụ án về ma túy, đưa ra xét xử lưu động về các tội phạm ma tuý tại nhiều địa bàn trong tỉnh nhằm tuyên truyền, giáo dục các tầng lớp nhân dân về tác hại của ma túy và răn đe các đối tượng có biểu hiện vi phạm. Nhưng cho đến nay, tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh vẫn diễn biến phức tạp. Đòi hỏi các Cơ quan, người tiến hành tố tụng cần có những biện pháp quyết liệt và nỗ lực hơn nữa trong đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về ma túy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn đáp ứng yêu cầu về đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý. Tuy vậy, việc xét xử để ra các bản án, quyết đinh của Tòa án các cấp ở tỉnh Bắc Ninh còn có những sai sót nhất định, dẫn đến việc cấp Tòa án có thẩm quyền hủy, sửa tuy không nhiều nhưng lại ảnh hưởng đến uy tín của ngành, tác động tiêu cực đến lòng tin của nhân dân vào công lý, ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2000-2010” để làm luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Xét xử án hình sự, dân sự của Tòa án nhân dân là vấn đề được một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, đã có một số công trình nghiên cứu có giá trị được công bố. Tuy nhiên xét xử các vụ án hình sự về ma túy chưa được quan tâm nhiều. Có thể kể đến một số công trình có giá trị liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn như sau:  Dưới góc độ Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ gồm có: Luận án tiến sĩ của Phạm Minh Tuyên: “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy trong Luật hình sự Việt Nam”, bảo vệ năm 2006; Luận văn thạc sỹ của Bùi
  • 11. 4 Mạnh Cường: “Áp dụng pháp luật trong giai đoạn điều tra, truy tố các vụ án ma túy ở Việt Nam” tại, bảo vệ năm 2006; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Dư: “Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”, năm 2007; Luận văn thạc sĩ của Phạm Hồng Trang: "Áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án ma tuý của Toà án nhân dân ở tỉnh Nghệ An", năm 2010.  Dưới góc độ đề tài nghiên cứu khoa học gồm có: Đề tài nghiên cứu khoa học của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh: “Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” do TS Nguyễn Minh Tuyên - Phó Chánh tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, đề tài nghiệm thu năm 2009; Đề tài nghiên cứu khoa học: “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế tệ nạn và tội phạm về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Giang” do Nguyễn Việt Hùng - Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang làm Chủ nhiệm đề tài, nghiệm thu tháng 6/2007.  Dưới góc độ bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành: Bài viết của tác giả Lưu Tiến Dũng: “Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét xử”, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 05/2005; Bài viết của tác giả Chu Thị Trang Vân: “Vai trò sáng tạo của Toà án trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự”, Tạp chí Lập pháp số 27 tháng 09/2007. Các công trình và bài viết trên đã nghiên cứu vấn đề áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự nói chung; trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy trong luật hình sự nói riêng. Đây là các tài liệu tham khảo bổ ích cho học viên trong quá trình viết luận văn. Tuy nhiên, các tác giả chưa đi sâu vào tình hình xét xử về những vụ án về ma túy. Việc nghiên cứu hoạt động xét xử các vụ án về ma túy tại tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh còn phụ thuộc vào các hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội cụ thể. Vì vậy, đây là đề tài
  • 12. 5 đầu tiên đi sâu nghiên cứu vấn đề xét xử các vụ án hình sự về ma túy trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể ở tỉnh Bắc Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2009 -2013. Trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử các về ma túy Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu Một số vấn đề chung về cá tội phạm về ma túy theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ lý luận Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật. Luận văn nêu lên những đặc điểm, phân tích thực trạng thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 2013 và các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong phạm vi là một luận văn thạc sỹ luật học thuộc chuyên ngành luật Hình sự và tố tụng hình sự, luận văn này chỉ tập trung vào những vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn khái quát những vấn đề chung của quy trình xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy từ việc nghiên cứu các tình tiết cụ thể của vụ án đến việc chọn quy phạm pháp luật và ban hành các bản án, quyết định tại phiên tòa xét xử công khai, dựa trên thực tiễn xét xử các vụ án về ma túy trong 5 năm gần đây. Theo nội dung của đề tài nghiên cứu trong giai đoạn 2000-2010, nhưng để đáp ứng tính sát thực của đề tài, được sự đồng ý, cho phép của Giảng viên hướng dẫn, học viên mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài đến năm 2013.
  • 13. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49- NQ/TW của Bộ chính trị. Các phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu đề tài này là: Phân tích, tổng hợp lịch sử, so sánh, thống kê và sử dụng tài liệu thứ cấp. 6. Những đóng góp khoa học của luận văn - Hình thành cơ sở lý luận về xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy, đáp ứng đòi hỏi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là đóng góp nhằm nâng cao nhận thức lý luận cho việc thực hiện chức năng xét xử nói chung, xét xử án hình sự trong đó có các vụ án về ma túy nói riêng của Tòa án nhân dân. - Tổng kết thực tiễn rút ra những nhận định, đánh giá có ý nghĩa góp phần nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại ngành Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh. - Đề xuất được một hệ thống các giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về ma túy trên địa tỉnh Bắc Ninh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác xét xử án hình sự. Đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác xét xử án hình sự của các cấp Tòa án ở tỉnh Bắc Ninh. Đồng thời, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
  • 14. 7 nghiên cứu và học tập trong các trường Đại học chuyên luật hoặc các cơ sở đào tạo không chuyên luật. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các tội phạm về ma túy theo Luật hình sự Việt Nam Chương 2: Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tội phạm về ma túy
  • 15. 8 Chương 1 MỘT SỐ VÂN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về chất ma túy, tội phạm về ma tuý trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm chất ma túy Từ xa xưa do trình độ nhận thức của con người còn thấp, y học chưa phát triển nên con người chỉ biết sử dụng các loại cây cỏ để chữa bệnh. Trong các loại cây đó có cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca... và sau đó người ta cũng phát hiện tác hại của nó. ở Việt Nam, thuật ngữ "ma túy" xuất hiện ban đầu có nghĩa là thuốc phiện, rồi đến cây cần sa và cây côca. Một số ý kiến cho rằng, gọi là "ma túy" bởi vì các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái, có thể chữa một số bệnh và tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh, làm cho con người mê mẩn, ngây ngất, túy lúy. Trong tiềm thức của người Việt Nam ma túy đồng nghĩa với sự xấu xa tội lỗi. Ngày nay, ngoài các sản phẩm của cây thuốc phiện, cây cần sa, cây côca... còn có các chất được tổng hợp trong phòng thí nghiêm. Nên khái niệm ma túy được mở rộng về nội dung, ở các nước khác nhau thì khái niệm ma túy cũng quan niệm khác nhau. Điểm chung của Luật về kiểm soát ma túy của các nước là đều đề cập đến ma túy bao gồm các chất gây nghiện và các chất hướng thần. Ma túy, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma tuý lúc đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện, thì chất ma tuý được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng. Nói một cách tổng quát: Chất ma túy là các chất hóa học có nguồn tự nhiên hoặc nhân tạo khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay
  • 16. 9 đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ làm cho con người bị lệ thuộc khi đó gây tổn thương và nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng. Theo Luật Phòng chống ma túy (LPCMT) của nước ta công bố ngày 22/12/2000 quy định: - Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. - Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc chất ức chế thần kinh dễ gây tình trạng nghiện với người sử dụng. - Chất hướng thần là chất kích thích ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng nghiện đối với người sử dụng. - Tiền chất là các chất hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành. Theo Nghị định số 67/2001/NĐ-CP ngày 01/10/2001 của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất, thì các chất ma túy gồm 227 chất, chia làm 03 danh mục và 22 hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế chất ma túy cần kiểm soát. - Danh mục 1; Các chất ma túy rất độc, tuyệt đối cấm sử dụng, việc sử dụng chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học và điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền (gồm 47 chất trong đó có một số chất thường gặp như hêrôin, morphin, ecstasy, cần sa và nhựa cần sa...). - Danh mục 2: Các chất ma túy độc hại được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 112 chất trong đó có một số chất thường gặp như côcain, thuốc phiện, nhựa côca...)
  • 17. 10 - Danh mục 3: Các chất ma túy độc dược dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị (bao gồm 68 chất trong đó có một số chất thường gặp như diazepam, delorazepam...). - Danh mục 4: Các hóa chất không thể thiếu trong quá trình điều chế ma túy (22 chất trong đó có một số chất thường gặp như acetone, acetic anhydride...) [26]. Như vậy, dưới góc độ khoa học pháp lý thì ma túy có một số các đặc điểm sau: ma túy là một chất gây nghiện, khi thâm nhập vào cơ thể con người làm thay đổi một số chức năng hoạt động thần kinh làm cho con người lệ thuộc vào chất này. Tại Điều 61 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (CHXHCN) Việt Nam 1992 quy định: Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và chất ma túy khác. Tại LPCMT được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa X kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 9/12/2000 đã xác định chất ma túy là chất nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về chất ma túy như sau: Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành, khi sử dụng gây lên tình trạng kích thích hoặc ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần sẽ gây ra tình trạng nghiện đối với người sử dụng. 1.1.2. Khái niệm tội phạm về ma tuý trong Luật hình sự Việt Nam - Khái niệm tội phạm về ma tuý: Cũng như các tội phạm khác, tội phạm về ma tuý là: “những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý…” (khoản 1, điều 8 BLHS 1999). Tội phạm về ma tuý cũng là “ hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”. Các tội
  • 18. 11 phạm về ma tuý được Nhà nước ta xác định là một loại tội phạm nghiêm trọng. Từ những năm 90 của thế kỷ XX, tình hình nghiện hút và buôn lậu ma túy diễn ra hết sức nghiêm trọng, đã trở thành thảm họa chung của toàn nhân loại. Con người khi sử dụng một vài lần các chất ma túy sẽ có nhu cầu được cung cấp thường xuyên với liều lượng ngày càng cao hơn. Chất ma túy vào cơ thể sẽ gây ra sự rối loạn về tâm sinh lý và tàn phá, hủy hoại sức khỏe; khi không đáp ứng được nhu cầu họ sẽ lên cơn vật vã, đau đớn về thể xác và có thể làm tất cả những gì kể cả tội ác để giải tỏa cơn nghiện. Nạn nghiện hút, tiêm chích ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người mà còn làm kiệt quệ kinh tế gia đình và xã hội, là nguyên nhân đẩy người lương thiện vào con đường phạm tội. Vì vậy, Nhà nước phải độc quyền và thống nhất quản lý các chất ma túy với những quy định rất nghiêm ngặt. Vi phạm các quy định về chế độ quản lý các chất ma túy không chỉ gây khó khăn cho việc kiểm soát chất ma túy của Nhà nước mà còn tạo ra một lớp người nghiện, làm suy thoái giống nòi, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự xã hội và an ninh quốc gia. Do tác hại lâu dài và nhiều mặt của việc vi phạm các quy định về chế độ quản lý chất ma túy như vậy, nên mọi hành vi vi phạm ở bất kỳ khâu nào của quá trình quản lý chất ma túy đều bị quy định là tội phạm. Căn cứ vào các điều luật về tội phạm ma túy trong BLHS năm 1999, tội phạm ma túy được hiểu là "hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước”[ 25, tr.175]. BLHS năm 1999 quy định 10 điều luật về tội phạm ma túy gồm: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 192); Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy
  • 19. 12 (Điều 195); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 198); Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199) (Tội này đã được bãi bỏ từ ngày 01/01/2010 theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS ngày 19/6/2009); Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200); Tội vi phạm quy định về quản lý sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác [27, Điều 201]. Tội phạm ma túy cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác về tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu hình phạt. Tuy nhiên tội phạm ma túy cũng có những đặc điểm riêng so với các loại tội phạm khác như: Có tính nguy hiểm cao cho xã hội: Thể hiện ở chỗ, các tội phạm về ma túy đều trực tiếp, hoặc gián tiếp liên quan đến ma túy, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, để cho ma túy xâm nhập vào cộng đồng làm gia tăng số người nghiện, gây tác động xấu về nhiều mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa và trật tự an toàn xã hội; xâm hại nghiêm trọng tới tính mạng, sức khỏe của con người; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác [22,tr.18]. - Có tính chống đối pháp luật rất cao của kẻ phạm tội: Các đối tượng phạm tội ma túy thường có nhân thân xấu, khi bị phát hiện thường chống trả hết sức quyết liệt và sẵn sàng sử dụng vũ khí. Khi một mắt xích trong đường dây tội phạm ma tuý bị lộ, để bảo đảm an toàn cho hoạt động phạm tội của mình, chúng sẩn sàng thủ tiêu đồng phạm.
  • 20. 13 - Tính bí mật, khép kín, cắt đoạn và kéo dài của hoạt động phạm tội: Đặc tính hình sự nổi bật của tội phạm ma tuý là tính “cắt đoạn” và tính “liên hoàn”, hoạt động theo đường dây chặt chẽ thường là các thành viên trong gia đình họ hàng, chất ma tuý gọn nhẹ, lãi suất cao. Vì vậy, để bảo đảm tuyệt đối bí mật cho hoạt động phạm tội, các đối tượng phạm tội về ma túy thường hình thành các đường dây chìm, khép kín từ người mua đến người vận chuyển và người bán, khép kín trong một nhóm đối tượng và thường là những người thân như: vợ chồng, con cái, anh chị em..., đặc biệt là tính cắt đoạn, người nào biết việc người ấy, không biết tới người thứ ba thể hiện tính chia cắt rất nghiêm ngặt. Tính liên hoàn đó là một chuỗi hành vi phạm tội, từ sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán đến người sử dụng; đặc biệt do tính chất siêu lợi nhuận của mua bán ma túy mang lại, nên không dễ gì khi đã bước vào con đường phạm tội mà tự dứt bỏ ra được; mặt khác, đã tham gia đường dây mua bán ma túy lớn nếu tự ý rút khỏi đường dây cũng rất dễ bị đồng bọn thủ tiêu. Nên các đối tượng phạm tội thường diễn ra nhiều năm. Vì vậy, BLHS quy định về tội phạm ma túy có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các tội phạm khác (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), nên trong 10 điều luật quy định về tội phạm ma túy, có hai điều quy định tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình (khoản 4 Điều 193, khoản 4 Điều 194), bốn điều quy định tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân (khoản 4 Điều 195, khoản 4 Điều 197, khoản 4 Điều 200, khoản 4 Điều 201); 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, 8 trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng, 10 trường hợp là tội phạm nghiêm trọng và chỉ có 2 trường hợp là tội ít nghiêm trọng. Xuất phát từ đặc điểm này mà việc xét xử đối với người phạm tội về ma túy thường nghiêm khắc hơn so với các tội phạm khác [28]; [29]; [30].
  • 21. 14 Do vậy, khái niệm tội phạm về ma tuý được hiểu như sau: Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây thiệt hại cho lợi ích của xã hội, của công dân và gây mất trật tự an toàn xã hội và phải chịu hình phạt do Bộ luật hình sự quy định. Tội phạm về ma tuý có nhiều loại: Đối với các vụ án mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy với quy mô lớn thường được người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, nhưng lại không giống như tổ chức của các vụ án có tính chất tổ chức khác, người chỉ huy, phân công, điều hành không lộ diện, có vụ có rất đông người tham gia vào đường dây vận chuyển, mua bán ma túy nhưng thông thường chỉ người thứ nhất biết người thứ hai chứ không biết người thứ ba. Cũng chính vì đặc điểm này mà hoạt động điều tra, khám phá các đường dây ma túy rất khó khăn, không ít những vụ án sau khi xét xử mói phát hiện trong đường dây vận chuyển, mua bán ma túy còn có những người phạm tội khác, cá biệt có trường hợp trước khi thi hành án tử hình, người bị kết án tử hình mới khai ra đồng phạm. Đối với những hành vi mua bán ma túy có tính chất tiêu thụ, người phạm tội thường chia ma túy thành những gói nhỏ (tép, chỉ...) để bán cho các con nghiện. Việc tổ chức tiêu thụ ma túy rất tinh vi, người phạm tội thường sử dụng những địa điểm thuận lợi, có phân công người canh gác, khi các lực lượng chống ma túy phát hiện thì chúng tẩu thoát dễ dàng. Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, người phạm tội chủ yếu là những người bán lẻ ma túy cho con nghiện, sau đó cho họ mượn luôn địa điểm, dụng cụ để họ hút, chích ma túy, ít có trường hợp người phạm tội đứng ra tổ chức như kiểu tổ chức đánh bạc. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy thời gian qua
  • 22. 15 còn cho thấy, người có hành vi vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy ít khi bị bắt quả tang, nếu có bị bắt quả tang thì cũng chỉ bị bắt với trọng lượng ma túy ít và nhờ có tin tố giác của nhân dân, còn lại đa số các vụ án ma tuý được điều tra, truy tố thuộc dạng án truy xét đó là bắt được người mua ma túy để sử dụng và từ lời khai của người sử dụng ma túy CQĐT mới xác minh, truy tìm người bán ma túy. Khi người mua ma túy để sử dụng bị bắt thì lập tức người bán ma túy đã kịp tẩu tán hoặc bỏ trốn nếu có nguy cơ bị lộ. Trường hợp người mua chất ma túy khai ra người bán chất ma túy cho mình, nhưng nếu chỉ có lời khai của người mua chất ma túy mà không có các nguồn chứng cứ khác mà người bán ma túy không nhận tội thì cũng rất khó xử lý [33,tr.275]. Nắm chắc những đặc điểm của tội phạm về ma túy sẽ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có những phương pháp phù hợp trong việc áp dụng các quy định của BLHS và BLTTHS vào việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma túy. 1.2. Những qui định về các tội phạm về ma túy trong luật hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Cũng như các loại tội phạm khác, tội phạm ma tuý từ khi xuất hiện đã gây tác hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Do vậy, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề ngăn chặn thuốc phiện. Xác định được việc đấu tranh ngăn chặn thuốc phiện không thể là công việc một sớm, một chiều, nên ngoài việc giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân hiểu đực tác hại của thuốc phiện để nhân dân tự giác tránh xa thuốc phiện thì Chính phủ còn sử dụng cả biện pháp quá độ để sớm ổn định tình hình. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại một số luật lệ cũ quy định về các tội phạm ma
  • 23. 16 túy không trái với nội dung chính thể Cộng hoà. Đây chính là một trong những văn bản pháp lý quan trọng nhằm sớm ổn định tình hình đất nước. Song do điều kiện lịch sử lúc đó cả dân tộc ta đang dồn hết sức lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nên việc xoá bỏ trồng cây thuốc phiện và quản lý thuốc phiện cha thể thực hiện được. Cho tới ngày 05/3/1952, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Nghị định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện. Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 255/TTg ngày 22/12/1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý như: Phạt tiền từ một đến năm lần trị giá thuốc phiện lậu, tịch thu thuốc phiện khi mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép. Người vi phạm có thể còn bị truy tố ra trước Toà án nhân dân. Ngày 15/9/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 580/TTg bổ sung Nghị định số 150/TTg, quy định những trường hợp có thể bị đưa ra Toà án để xét xử. Cùng với Nghị định này, theo thẩm quyền, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 635/VHH-HS ngày 29/3/1958 và Thông tư số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất đường lối xét xử đối với những vụ án buôn lậu thuốc phiện [46]; [48]. Từ năm 1954 đất nước ta tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị, trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy ở mỗi miền rất khác nhau, ở miền Nam, tình hình buôn bán ma tuý, tình trạng nghiện hút phát triển nhanh, việc buôn bán ngày càng có quy mô lớn có tính tổ chức cao, hình thành các tổ chức sử dụng ma túy công khai. Tính đến năm 1975 (sau giải phóng) có khoảng 170.000 người nghiện ma túy. Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết áp dụng nhiều biện pháp để bài trừ tệ nạn nghiên hút, do đó chỉ sau bảy năm (đến năm 1982) con số người nghiện giảm xuống chỉ còn 40.000 người . Ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 76/CP về
  • 24. 17 chống buôn lậu thuốc phiện. Trên cơ sở Nghị định này, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an đã ra Thông tư liên ngành hướng dẫn áp dụng pháp luật trong cả nước, trong đó xác định: Nghị định số 580/TTg về trừng trị tội buôn lậu thuốc phiện tiếp tục có hiệu lực thi hành và cho áp dụng thống nhất trong cả nước. Song Nghị định số 150/TTg và Nghị định số 225/TTg, chỉ đề cập xử lý hành vi tàng trữ và vận chuyển trái phép, không đề cập đến việc xử lý hành vi sản xuất hoặc buôn bán trái phép thuốc phiện, chỉ tới khi ban hành Nghị định số 580/TTg thì mới quy định những trường hợp: buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham dự và có thủ đoạn gian lận; tang vật trị giá trên 1.000đ (tính theo thời giá năm 1955); buôn nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp đã bị phạt tiền nhiều lần; các vụ có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội và không thi hành quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan có thể bị đa ra Toà án để xét xử. Người có các hành vi phạm tội nêu trên có thể bị phạt tù từ ba tháng đến năm năm, phạt tiền từ một đến năm lần trị giá thuốc phiện lậu, tịch thu tang vật và các phương tiện dùng vào việc phạm tội. Thông tư số 635/VHH-HS và Thông tư số 33/VHH-HS của Bộ Tư pháp hướng dẫn: Trường hợp buôn lậu thuốc phiện gây tác hại lớn làm cản trở việc thực hiện chính sách và kế hoạch Nhà nước thì có thể áp dụng sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 để xử phạt trên năm năm tù. Đối với bọn cầm đầu những tổ chức buôn lậu có thể phạt từ năm năm tù đến mời năm tù; bọn tay chân chuyên nghiệp phạt từ ba đến năm năm tù; bọn cơ hội phạm tội đã giáo dục nhiều lần mà còn vi phạm thì phạt từ một đến ba năm tù, trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì vẫn có thể phạt dưới một năm tù hoặc cho hưởng án treo...
  • 25. 18 Đến năm 1982, Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn bán, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trong đó ma tuý được coi là đối tượng của buôn lậu và mức phạt có thể lên tới tử hình. Tuy nhiên pháp lệnh mới chỉ đề cập tới vấn đề buôn lậu ma tuý dưới góc độ xử phạt hành chính và xử phạt hình sự, chứ cha đề cập tới khía cạnh khác của ma túy [19]. 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành bộ luật hình sự năm 1999 Vào những năm 1980, tình hình sản xuất, lưu thông và sử dụng ma túy có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là buôn bán qua biên giới. Trước tình hình đó, Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước ta đã được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 đã quy định trách nhiệm hình sự đối với các hành vi phạm tội liên quan đến ma túy tại ba điều: Điều 97: Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Điều 166: Tội buôn bán hàng cấm; và Điều 203: Tội tổ chức dùng chất ma túy. Theo Bộ luật hình sự năm 1985, chỉ có một Điều (Điều 203) quy định riêng về “tội tổ chức dùng chất ma túy”, còn các hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép các chất ma túy chưa được quy định thành tội riêng mà những hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu theo Điều 97 “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới” [35] và những hành vi mua bán, vận chuyển ma tuý trong nội địa thì truy tố theo Điều 166 là “Tội buôn bán hàng cấm” [35]. Bộ luật hình sự 1985 là công cụ sắc bén để đấu tranh, chống các tội phạm về ma túy. Song việc quy định không tách bạch chung và chưa bao quát đã làm giảm hiệu quả của Bộ luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Theo Bộ luật hình sự năm 1985, hành vi buôn bán, tàng trữ các chất ma tuý phải xử lý theo tội "Buôn bán hàng cấm", còn hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép
  • 26. 19 chất ma túy thì chưa được quy định cụ thể. Trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra là cần phải xử lý nghiêm khắc với cả hành vi “sản xuất”, “vận chuyển” trái phép các chất ma túy. Ngày 28/12/1989 Quốc hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó tách tội phạm ma túy thành một điều riêng nằm ở Mục B thuộc chương "Các tội xâm phạm an ninh quốc gia". Như vậy, đến thời điểm này thì tội phạm về ma túy lại được quy định thành hai tội nằm ở hai chương khác nhau trong Bộ luật hình sự đó là: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy (Điều 96a BLHS) với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, với mức hình phạt cao nhất đến tử hình đối với các trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và Tội tổ chức dùng chất ma túy (Điều 203 BLHS) với mức hình phạt cao nhất là mười năm tù [6]; [27]. Đối với tệ nạn nghiện ma tuý, Luật bảo về sức khỏe nhân dân ngày 30/6/1989 tại Điều 29 cũng đã quy định: Các cơ sở y tế phải tiến hành các biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh nghiện ma tuý . Để tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với tệ nạn ma tuý và các tội phạm về ma tuý của Đảng và Nhà nước ta, Hiến pháp 1992 tại Điều 61 đã quy định "...Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm..” [34]. Để tạo sức mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh phòng, chống ma tuý, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 06/CP ngày 29/01/1993 về tăng cường chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy với kinh phí cho chương trình từ 1993 đến 1997 là 300 tỷ đổng. Nhằm tạo cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma túy nên các ngành Tòa án, Viện kiểm sát, Bộ Nội vụ đã cùng xây dựng Thông tư liên ngành số 07/TTLN ngày 05/12/1992, số 05/TTLN ngày 14/2/1995, số 09/TTLN ngày 10/10/1996 hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 Bộ luật hình sự năm 1985 [2].
  • 27. 20 Để ngăn chặn tệ nạn ma túy với phương châm “triệt nguồn ma túy” ngày 16/1/1986 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã ra Chỉ thị số 243/CT về việc cấm gieo trồng cây thuốc phiện và giải thể các đơn vị chuyên doanh dược liệu này; Chỉ thị số 99/CT ngày 8/4/1991 của Chính phủ về việc vận động nhân dân không trồng cây anh túc và quy định về trách nhiệm của các cấp, các ngành hữu quan. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong hoạt động lập pháp cũng như thực tiễn đấu tranh chống các tội phạm ma túy nhưng tội phạm về ma túy và cùng với nó là tệ nạn ma túy vẫn tiếp tục tăng nhanh. Tinh hình mới khiến cho quy định tại Điều 96a cũng không đủ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy. Do vậy ngày 10/5/1997 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, trong đó có tội phạm về ma tuý, thể hiện cách tiếp cận, giải quyết vấn đề của Nhà nước ta đối với tội phạm về ma túy một cách toàn diện, có hệ thống, triệt để hơn và nghiêm khắc hơn. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự quy định tội phạm về ma tuý thành một chương riêng, bổ sung một số tội danh, định lượng các chất ma tuý trong từng khung hình phạt, tăng nặng mức hình phạt, nâng cao hình phạt tiền và tịch thu tài sản, thêm một số hình phạt bổ sung khác, đó là những điểm mới quan trọng nhất trong Chính sách hình sự của Nhà nước ta về tội phạm ma tuý. Tại điều 2 của “Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS” đã quy định Chương VIIa “Các tội phạm về ma túy”. các tội phạm về ma túy được tách ra thành 13 điều: Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tội sản xuất trái phép chất ma túy; tội tàng trữ trái phép chất ma túy; tội vận chuyển trái phép chất ma túy; tội chiếm đoạt chất ma túy; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển mua bán các phương tiện dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; tội sử dụng trái phép chất ma túy; tội cưỡng bức, lôi kéo người
  • 28. 21 khác sử dụng trái phép chất ma túy; tội vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng chất gây nghiện hoặc các chất ma túy khác. 1.2.3. Nhưng qui định về các tội phạm về ma túy theo Bộ luật hình sự năm 1999 Trong điều kiện đất nước ta đã và đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa hợp tác rộng rãi với các nước trong khu vực và trên thế giới, từng bước hoà nhập với khu vực và thế giới. Bộ luật hình sự năm 1985, dù qua vài lần sửa đổi vẫn chưa theo kịp tình hình, phát triển của xã hội. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1985 một cách toàn diện đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống các tội phạm nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng. Trên cơ sở đó Bộ luật hình sự năm 1999 đã ra đời. Trong Bộ luật hình sự năm 1999 tội phạm về ma túy được quy định thành một chương riêng (Chương XVIII) với 10 tội danh khác nhau. So với Bộ luật hình sự năm 1985 thì Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều thay đổi, bổ sung phù hợp với cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy trong giai đoạn hiện nay [4;5]. Các tội phạm về ma tuý được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 tại một chương riêng (Chương XVIII- Các tội phạm về ma tuý) gồm 10 điều từ Điều 192 đến Điều 201, về mức hình phạt cụ thể với từng tội như sau: Điều 192 Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý. Có 2 khung hình phạt chính, tối thiểu 06 tháng tù, tối đa 07 năm tù, hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 01 triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Điều 193 Tội sản xuất trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt chính, tối thiểu là 02 năm tù, tối đa là tử hình. Điều 194 Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt chính, tối thiểu là 02 năm tù, tối đa là tử hình.
  • 29. 22 Điều 195 Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Có 4 khung hình phạt chính, tối thiểu là 01 năm tù, tối đa là tù chung thân. Điều 196 Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy. Có 2 khung hình phạt chính, tối thiểu là 01 năm tù, tối đa là 10 năm tù. Điều 197 Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 04 khung hình phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa đến tử hình. Điều 198 Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 02 khung hình phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa 15 năm tù. Điều 199 Tội sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 02 khung hình phạt chính, tối thiểu 03 tháng tù, tối đa 05 năm tù. Điều 200 Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý. Có 04 khung hình phạt chính, tối thiểu 02 năm tù, tối đa là tù chung thân. Điều 201 Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc có chất ma túy khác. Có 04 khung hình phạt chính, tối thiểu là phạt tiền 05 triệu đồng, tối đa là tù chung thân. Ngoài hình phạt chính nói trên thì người phạm các tội từ Điều 193 đến Điều 198, các Điều 200 và Điều 201 có thể còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 05 triệu đến 500 triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985 đã chặt chẽ hơn về mặt khoa học, dễ hiểu và dễ áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Đồng thời Bộ luật hình sự năm 1999 đã bổ sung thêm tình tiết "phạm tội đối với trẻ em" là tình tiết tăng nặng định khung trong khoản 2 Điều 198 "Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy".
  • 30. 23 Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta luôn xác định thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước do vậy cần phải tạo điều kiện, quan tâm bồi dưỡng, giáo dục, bảo vệ và tạo mọi điều kiện cho thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện. Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Việc ban hành luật này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình từng bước hoàn thiện pháp luật hình sự của Nhà nước ta, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của BLHS, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bổi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hành vi bị coi là tội phạm trong BLHS năm 1999 nay không còn nguy hiếm cho xã hội nữa. Theo Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân [30]. Khoản 3 điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS nhà làm luật đã phi hình sự hóa (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS, trong đó có tội sử dụng trái phép chất ma túy. Việc bãi bỏ điều luật này, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nhưng cũng xác định rõ trong thời gian qua các hành vi nêu trên không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma túy là xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua cho thấy hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối với người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy là rất hạn chế. Mặt khác, người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, không có khả năng xử lý bằng hình sự hết được, xảy ra tình trạng không công bằng của pháp luật. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng dưới góc độ xã hội thì người nghiện ma túy được coi là nạn nhân của một tệ nạn. Hơn nữa, việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma
  • 31. 24 túy là tội phạm không có nghĩa là dung túng đối với hành vi này mà cần có biện pháp xử lý hiệu quả, bền vững hơn như biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nâng cao các biện pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục tại gia đình và cộng đồng. Trường hợp người nghiện ma túy mà có hành vi phạm tội thì sẽ bị xử lý hình sự theo các tội danh tương ứng của BLHS. Bên cạnh đó, tham khảo pháp luật nước ngoài cho thấy pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm. Như vậy, đến nay theo quy định của BLHS thì có 9 điều luật quy định về các tội phạm ma túy, là cơ sở pháp lý cho việc xử lý về hình sự các hành vi phạm tội ma túy trên thực tế, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này. Cùng với việc thông qua Bộ luật hình sự mới, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật phòng, chống ma túy, có hiệu lực từ ngày 01/6/2001. Đây là đạo luật đầu tiên quy định toàn diện về công tác phòng, chống ma túy. Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh phòng, chống ma túy, điều đó cũng thể hiện chính sách hình sự và quan điểm của Nhà nước ta quyết tâm phòng, chống ma túy một cách quyết tâm nhất. Cùng với việc ban hành Bộ luật hình sự quy định các tội phạm về ma tuý và hình phạt áp dụng đối với người phạm tội, ban hành Luật phòng, chống ma tuý, Đảng và nhà nước ta cũng luôn quan tâm công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động toàn dân tích cực phòng, chống các tệ nạn về ma tuý cũng như tội phạm về ma tuý. Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác này như Nghị quyết số 06/CP ngày 29/01/1993 của Chính phủ về công tác phòng chống ma tuý, Chỉ thị số 33/CT/TW ngày 01/03/1994 của Ban bí thư trung ương Đảng (khoáVII), Chỉ thị số 06 /CT/TW ngày 30/11/1996 của Bộ chính trị (khoá VIII) về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý, gần đây nhất là Chỉ thị số 21/CT-TW ngày
  • 32. 25 26/3/2008 của Bộ Chính trị (khoá X) về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý trong tình hình mới [43]. 1.3. Đường lối xử lý hình sự đối với các tội phạm về ma túy Trong những năm vừa qua, công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, tình tình mua bán, vận chuyển, tàng trữ vẫn chưa giảm; tình hình nghiện hút, tiêm chích, hút hít và tổ chức sử dụng ma tuý đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên. Ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tệ nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý là việc xử lý các hành vi phạm tội về ma tuý. Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 quy định các tội phạm về ma tuý gồm 10 Điều tương ứng với 10 tội danh khác nhau. So với Chương VIIA (phần tội phạm) Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định ít hơn 4 Điều (Bộ luật hình sự năm 1985 có 14 Điều). Tuy có ít hơn 4 điều nhưng các hành vi phạm tội về ma tuý vẫn bị xử lý không sót một hành vi nào. Các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về ma tuý, nói chung không có gì thay đổi lớn, vì Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 là chương được sửa đổi bổ sung tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX ngày 10-5-1997 (có hiệu lực từ ngày 22-5-1997). Các quy định tại chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tương đối đầy đủ, các hành vi, các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định một số tình tiết (đúng ra là cụ thể hoá một số tình tình tiết) như: Gây tổn
  • 33. 26 hại nặng cho sức khoẻ, thì quy định cụ thể tỷ lệ thương tật là bao nhiêu %; điều chỉnh lại mức hình phạt trong từng khung hình phạt cho phù hợp với thực tiễn xét xử, nhất là hình phạt bổ sung. Một thay đổi lớn nhất đối với các tội phạm về ma tuý quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 so với chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 là nhập bốn tội quy định các Điều 185c,185d,185đ và 185e thành một tội quy định tại Điều 194 với đầy đủ các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán và chiếm đoạt chất ma tuý, đồng thời quy định hình phạt bổ sung ngay trong từng điều luật mà không quy định thành một điều luật riêng như Bộ luật hình sự năm 1985 (Điều 185o). Việc nhập 4 điều thành một điều và quy định hình phạt bổ sung ngay trong cùng một điều luật đã làm cho chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ còn 10 điều so với 14 điều của Bộ luật hình sự năm 1985. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được bổ sung chương VIIA, các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương cũng đã kịp thời ban hành Thông tư liên tịch số 01-1998/TTLT ngày 2 tháng 1 năm 1998 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ và ngay sau đó các cơ quan trên lại ban hành Thông tư liên tịch số 02-1998/TTLT ngày 5 tháng 8 năm 1998 hướng dẫn áp dụng Chương VIIA quy định các tội phạm về ma tuý. Các hướng dẫn này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cán bộ làm công tác điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm về ma tuý, các nội dung trong các Thông tư này vẫn còn giá trị tham khảo khi áp dụng các quy định tại chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về ma tuý. Do pháp luật quy định các tội phạm về ma tuý trong từng thời ký có khác nhau nên nhất là từ khi Quốc hội bổ sung chương VIIA quy định các tội phạm về ma tuý có hiệu lực từ ngày 22-5-1997, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những hành vi phạm tội về ma tuý trước ngày 22-5-1997 cần
  • 34. 27 chú ý hiệu lực về thời gian. Mặt khác, trước và sau khi Quốc hội bổ sung Chương VIIA, các cơ quan chức năng như Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự khi xử lý các hành vi phạm tội có Hên quan đến ma tuý và mỗi văn bản đó cũng có nội dung khác nhau, cũng như hiệu lực thi hành cũng khác nhau nên việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đế xử lý đối với hành vi phạm tội về ma tuý cũng khá phức tạp. Tuy nhiên, do những quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 đối với các tội phạm về ma tuý và các hướng dẫn áp dụng về tội phạm ma tuý vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn xét xử đặt ra. Mặt khác, dù không có thay đổi nhiều, nhưng các quy định của chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội phạm ma tuý có nhiều điểm nếu không được tìm hiểu thì khó có thể áp dụng đúng khi giải quyết các hành vi phạm tội về ma tuý. Ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Việc ban hành luật này đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình từng bước hoàn thiện pháp luật hình sự của Nhà nước ta, góp phần khắc phục những hạn chế, bất cập của BLHS, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra và bảo đảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Luật sửa đổi, bổ sung BLHS đã thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước; hình sự hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử lý về hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, nhất là các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ thông tin, chứng khoán, tài chính-kế toán, sở hữu trí tuệ trong hợp tác quốc tế về chống khủng bố, chống mua bán phụ nữ, trẻ em...; phi hình sự hóa một số hành vi bị coi là tội phạm trong BLHS năm 1999 nay không còn nguy hiếm cho xã hội nữa.
  • 35. 28 Theo đó, bỏ hình phạt tử hình ở 8 điều luật trong đó có Khoản 4 Điều 197 (Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy) BLHS năm 1999 quy định người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên; gây chết nhiều người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác. Theo Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS, người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì bị phạt tù 20 năm hoặc tù chung thân. Khoản 3 điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung BLHS nhà làm luật đã phi hình sự hóa (hoàn toàn) 4 tội danh trong BLHS, trong đó có tội sử dụng trái phép chất ma túy. Việc bãi bỏ điều luật này, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự nhưng cũng xác định rõ trong thời gian qua các hành vi nêu trên không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Việc bỏ tội sử dụng trái phép chất ma túy là xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua cho thấy hiệu quả răn đe, phòng ngừa chung của việc xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này không cao. Hiệu quả giáo dục, cải tạo, phục hồi đối với người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy là rất hạn chế. Mặt khác, người phạm tội sử dụng trái phép chất ma túy trong thực tế rất nhiều, không có khả năng xử lý bằng hình sự hết được, xảy ra tình trạng không công bằng của pháp luật. Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng dưới góc độ xã hội thì người nghiện ma túy được coi là nạn nhân của một tệ nạn. Hơn nữa, việc không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm không có nghĩa là dung túng đối với hành vi này mà cần có biện pháp xử lý hiệu quả, bền vững hơn như biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nâng cao các biện pháp điều trị y tế kết hợp với lao động, giáo dục tại gia đình và cộng đồng. Trường hợp người nghiện ma túy mà có hành vi phạm tội thì sẽ
  • 36. 29 bị xử lý hình sự theo các tội danh tương úng của BLHS. Bên cạnh đó, tham khảo pháp luật nước ngoài cho thấy pháp luật hình sự nhiều nước trên thế giới không coi hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là tội phạm. Như vậy, đến nay theo quy định của BLHS thì có 9 điều luật quy định về các tội phạm ma túy, là cơ sở pháp lý cho việc xử lý về hình sự các hành vi phạm tội ma túy trên thực tế, góp phần phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này. Trong những năm qua liên ngành Trung ương. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toàn án nhân dân tối cao đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn giải quyết các vụ án ma túy, các văn bản đó đã định hướng và góp phần tích cực trong việc đấu tranh với các loại tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, do có sự thay đổi, bổ sung của Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng Hình sự và diễn biến tình hình tội phạm ma túy ngày càng phức tạp, nghiêm trọng thì những văn bản trên còn có những bất hợp lý trong việc xử lý các loại tội phạm về ma túy cụ thể: Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quyết định hình phạt đối với tội phạm về ma túy. Đến nay văn bản này không phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy đẫn đến việc áp dụng và quyết định hình phạt chưa đảm bảo nguyên tắc công bằng. Mục 3.1 Nghị quyết hướng dẫn: Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ nhưng đánh giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau thì xử phạt người phạm tội mức án tương ứng với trọng lượng chất ma túy như sau: - Xử phạt 20 năm tù nếu Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 100g đến 300g;
  • 37. 30 - Xử phạt trung thân nếu Heroin hoặc Cocain có trọng lượng từ 300g đến 600g. Khi quyết định hình phạt dựa vào trọng lượng các chất ma túy, trọng lượng các chất ma túy càng nhiều thì mức phạt càng cao và ngược lại. Theo hướng dẫn trên thì người phạm tội với trọng lượng l00g Heroin cũng phải chịu mức hình phạt như người tội phạm về ma túy với trọng lương 299g Heroin và ngược lại. Với hướng dẫn trên thì định hướng từ l00g đến dưới 300g là khoảng cách quá xa và bất hợp lý khi quyết định hình phạt. Mặt khác, nếu mỗi bị can phạm tội đom lẻ về mua bán, tàng trử, vận chuyển trái phép từ l00g Heroin hoặc Cocain trở lên thi bị xét xử theo khoản 4 điều 194 Bộ luật hình sự với khung hình phạt thấp nhất là 20 năm, cao nhất là tử hình. Tuy nhiên, nhiều vụ án ma túy được đưa ra xét xử có tính chất đồng phạm, có nhiều bị cáo tham gia, được tổ chức chặt chẽ, buôn bán vận chuyển số lượng lớn ma túy là Heroin với trọng lượng hàng chục kilogam nhưng khi xét xử án tử hình còn có án chung thân và án tù có thời hạn. Trong khi đó hành vi phạm tội có tổ chức bao giờ cũng nguy hiểm hơn phạm tội mang tính đơn lẻ. Tại Nghị quyết 02/2013 ngày 17/4/2003 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn hình sự đối với người thực hiện tội phạm về ma túy trong một số trường hợp cụ thể tại các tiết c, d, đ, e, g điểm 2 mục 2 có ghi: “Người nào nghiện ma túy...” theo luật phòng chống ma túy thì người nghiện ma túy là người bị lệ thuộc vào việc sử dụng ma túy. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi nhiều đối tượng tụ tập sử dụng trái phép chất ma túy bị bắt giữ có khai là đã sử dụng ma túy nhưng không thường xuyên, xác minh không có hồ sơ quản lý đối tượng ở cơ sở vì vậy xác định đối tượng nghiện ma túy hay không rất khó khăn. Do đó, khi vận dụng hướng dẫn trên có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến đường lối xử lý khác nhau. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành, việc áp dụng
  • 38. 31 quy định về trọng lượng ma túy để xét xử bị cáo theo Điều 194 Bộ luật hình sự có nhiều thuận lợi. Điều 194 đã quy định cụ thể về trọng lượng ma túy áp dụng cho từng khoản tương ứng với hành vi phạm tội của người thực hiện tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án nhân dân các cấp trong việc định tội, định khung hình phạt trong hoạt động xét xử, đảm bảo được tính nghiêm minh, khách quan, công bằng khi ban hành các bản án. Để hướng dẫn áp dụng thống nhất về đường lối xử lý giữa các ngành, các địa phương, nhằm đảm bảo sự công bằng, đúng pháp luật, cũng như nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, điều tra, truy tố người phạm tội trước pháp luật đối với các tội phạm về ma túy. Liên ngành Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó hướng dẫn cách thức, phương pháp tính, quy đổi định lượng ma túy, định lượng xác định cấu thành tội phạm đổi với các hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ án về ma túy. Các quy định này đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết về định lượng, tỷ lệ phần trăm về trọng lượng của các chất ma túy, là căn cứ để xác định khung hình phạt áp dụng và mức hình phạt tương ứng với trọng lượng do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra giúp cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng dễ dàng áp dụng, tránh được sự tùy tiện khi áp dụng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng nội dung hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 17 về định lượng ma túy để truy cứu trách nhiệm hình sự còn nhiều vướng mắc trong quá trình vận dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng rất cần được làm rõ, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.
  • 39. 40 Chương 2 THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ MA TÚY TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH NĂM 2001 - 2013 2.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến hoạt động xét xử các vụ án Hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh Tỉnh Bắc Ninh được tái lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế lớn Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Mặc dù là tỉnh nhỏ, có diện tích tự nhiên rất hẹp khoảng 807,6km2 , dân số là 1.024.151 người, mật độ dân số đứng thứ ba của cả nước với 1.245 người/lkm2 , dân số sống chủ yếu ở vùng nông thôn với 782.428 người, chiếm 76,4%. Tỉnh Bắc Ninh được chia thành 8 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện, tiếp giáp với các tỉnh, thành phố là Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên và Bắc Giang, có đường giao thông đường bộ, đường sắt và đường sông thuận lợi. Với truyền thống văn hoá lâu đời, Bắc Ninh là vùng quê có nhiều lễ hội truyền thống, hàng năm thu hút hàng vạn khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm các khu di tích lịch sử, văn hoá, thăm các làng nghề truyền thống cùng các hoạt động buôn bán, giao lưu kinh tế, văn hoá. Từ khi tái lập tỉnh, đặc biệt là sau Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XVI năm 2000 và Đại hội đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII năm 2005, nền kinh tế tỉnh Bắc Ninh đã và đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một tỉnh thuần nông, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, tỷ trọng giữa chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản so với trồng trọt hiện nay đã chiếm 60% giá trị toàn ngành. Trong công nghiệp, công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các làng nghề được đặc biệt quan tâm và chú
  • 40. 41 trọng đầu tư. Tính đến nay, đã quy hoạch được 7 khu công nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với diện tích hơn 6.459 ha; đồng thời trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung 6 khu công nghiệp với hơn 1.424 ha, cấp giấy phép đầu tư cho 300 dự án, trong đó có gần 137 dự án nước ngoài đầu tư với số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD và 5.157 tỷ đồng và quy hoạch được 54 cụm công nghiệp nhỏ và vừa, cụm công nghiệp làng nghề có ở khắp các địa phương trong tỉnh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua đã làm cho nền kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển tương đối toàn diện, giáo dục, y tế, văn hoá được nâng lên một bước, đã giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, đời sống nhân dân đặc biệt là ở nông thôn đã có nhiều thay đổi và được cải thiện rõ rệt. Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội cũng trở nên rõ rệt, tạo ra những mâu thuẫn, vấn đề việc làm cho người lao động vãn còn nan giải, các chính sách xã hội còn nhiều bất cập, tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, hoạt động tội phạm ngày càng tinh vi xảo quyệt. Trong điều kiện chung của đất nước, kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh có sự phát triển, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung, tội phạm về ma tuý và tệ nạn ma tuý nói riêng luôn có chiều hướng gia tăng, tính chất và mức độ phạm tội cũng như hình thức sử dụng ngày càng tinh vi và đa dạng hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm nói chung cũng như tình hình tội phạm về ma tuý và tệ nạn ma tuý đã và đang gây ra những tác hại về kinh tế - chính trị - xã hội; ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân và truyền thống đạo đức cũng như hình ảnh của vùng quê Kinh Bắc văn hiến lâu đời [51]. Những điều kiện tự nhiên, sự chuyển biến về kinh tế - văn hoá - xã hội trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến việc ADPL trong hoạt động xét xử án hình sự nói chung và án hình sự về ma tuý của TAND các cấp ở tỉnh Bắc Ninh. Những ảnh hưởng đó biểu hiện tập trung trên một số phương diện sau:
  • 41. 42 Thứ nhất: Những ảnh hưởng từ đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội. Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, số lượng đơn vị hành chính không nhiều. Nhưng Bắc Ninh có 5 tuyến đường quốc lộ đi qua và 12 đường tỉnh lộ nối tất cả các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh với nhau. Hệ thống thông tin liên lạc, mạng viễn thông đã được triển khai tới tất cả các huyện và các xã trong tỉnh. Những điều kiện về tự nhiên và hạ tầng giao thông liên lạc trên là điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý nói chung và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Việc đầu tư xây dựng trụ sở Toà án các cấp ở tỉnh Bắc Ninh đã được chú trọng. Tính đến nay, Toà án cấp huyện và Toà án tỉnh Bắc Ninh đều đã được đầu tư xây mới, nâng cấp khang trang đảm bảo tạo ra sự uy nghiêm chốn pháp đình. Trình độ dân trí trong dân cư tương đối cao, đã phát huy được tính tích cực, chủ động và dân chủ trong hoạt động tham gia tố tụng của các chủ thể, bảo đảm cho hoạt động xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng của Toà án đúng đắn, khách quan. Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn phức tạp, mặt trái của sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn xã hội dẫn đến các vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm và tội phạm về ma tuý nói riêng. Tốc độ phát triển kinh tế cao, sự hình thành các khu công nghiệp tập trung nhanh chóng làm cho đất đai, sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, đẩy một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn không có việc làm, dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về văn hoá - xã hội. Ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai, tư tưởng hưởng thụ, tiêu xài lãng phí xuất hiện trong một bộ phận nhân dân. Đây chính là những nguyên nhân của các tệ nạn xã hội đặc biệt là tệ nạn ma tuý, từ đó dẫn đến các hành vi phạm tội khác. Trong tổng số các vụ án được
  • 42. 43 đưa ra xét xử ở cả hai cấp của ngành Toà án ở tỉnh Bắc Ninh, thì số vụ liên quan đến ma tuý luôn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Nếu như năm 2009, tổng số vụ án đưa ra xét xử là 492 vụ thì án ma tuý chiếm 165 vụ (33,54%); năm 2010, tổng số vụ án đưa ra xét xử là 568 vụ thì án ma tuý chiếm 235 vụ (41,37%). Những điểu kiện về kinh tế - xã hội nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xét xử án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm án hình sự về ma tuý nói riêng của các cấp Toà án ở tỉnh Bắc Ninh. Sự đánh giá chứng cứ, việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội của các bị cáo có những khó khăn nhất định; việc cân nhắc quyết định trách nhiệm hình sự và nghĩa vụ pháp lý đối với các bị cáo phạm tội đòi hỏi phải cân nhắc kỹ càng để đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong giai đoạn hiện nay [47]. . Thứ hai: Sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương đã tăng cường về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động giải quyết các vụ án hình sự nói chung và giải quyết các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh. Vì kết quả xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về ma tuý nói riêng đồng thời phản ánh kết quả điều tra, truy tố đã được tiến hành trước đó. Nên các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác điều tra xác định tội phạm và người phạm tội cũng chính là đảm bảo cung cấp đầy đủ chứng cứ, tạo điều kiện cho việc xét xử của Toà án được đầy đủ, chính xác. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh đã được trang bị tương đối đầy đủ máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc, phương tiện đi lại hiện đại. Riêng đối với Toà án tỉnh đã thực hiện kết nối mạng Internet đến tất cả các máy tính ở Toà án tỉnh và các Toà án cấp huyện, đặc biệt Toà án tỉnh đã có trang thông tin điện tử nhằm mục tiêu từng bước công khai, minh bạch hoá các hoạt động của Toà án và tích cực phục vụ nhân dân đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định tư pháp,
  • 43. 44 Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý... cũng được quan tâm và hoạt động có hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị này ngày càng phát huy được vai trò phản biện xã hội và hỗ trợ cho hoạt động tư pháp, bảo đảm cho hoạt động xét xử nói chung của Toà án được chính xác và đạt hiệu quả cao. 2.2. Những kết quả đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự về ma túy tại Tòa án nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh Theo số liệu thống kê được từ nguồn thống kê của Công an tỉnh Bắc Ninh, từ năm 2000 đến năm 2013. Công an tỉnh Bắc Ninh đã điều tra, khám phá được 7188 vụ. Trong số đó các vụ án về ma tuý đã được điều tra, khám phá là 1953 vụ [47]. Bảng 2.1: So sánh tình hình tội phạm về ma tuý với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tình Bắc Ninh Năm Số liệu tình hình tội phạm Tổng số vụ phạm tội đã được khám phá Số vụ phạm tội về ma tuý đã được khám phá Tỷ lệ % 2000 419 85 20,29 2001 371 52 14,01 2002 442 82 18,55 2003 457 172 37,63 2004 448 148 33,03 2005 449 154 34,30 2006 472 161 34,11 2007 496 138 27,82 2008 508 214 42,12 2009 498 141 28,31 2010 568 235 41,37 2011 635 118 18,58 2012 710 136 19,15 2013 715 117 16,36 Tổng số 7188 1953 27,17 Nguồn: Công an tỉnh Bắc Ninh
  • 44. 45 Xét tương quan giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm về ma tuý trong thời gian qua, diễn biến không ổn định, tăng, giảm thất thường không theo quy luật. Diễn biến của các tội phạm về ma tuý không giống như diễn biến của các tội phạm nói chung mặc dù qua các năm số tội phạm đều có chiều hướng gia tăng. Nếu như các tội phạm nói chung có sự tăng đột biến vào năm 2013 thì các tội phạm về ma tuý tăng đột biến vào năm 2010. Các tội phạm về ma tuý chiếm 23,89% so với tổng số các tội phạm nói chung đã được điều tra truy tố. Đây là một tỷ lệ không nhỏ nếu biết rằng các tội phạm nói chung bên trên bao gồm: các tội phạm về kinh tế, chức vụ; các tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông; các tội phạm về trật tự xã hội; các tội phạm về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của con người... Trong 13 năm qua, Công an tỉnh Bắc Ninh đã điều tra, khám phá được 1993 vụ án về ma tuý, bắt giữ 2972 đối tượng. Diễn biến từng năm được thể hiện như sau: Bảng 2.2: Tình hình tội phạm ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (các vụ án đã được điều tra, khám phá) Năm Số vụ án Số đối tượng Tỷ lệ 2000 85 175 2,06 2001 52 108 2,08 2002 82 84 1,02 2003 172 196 1,14 2004 148 169 1,14 2005 154 178 1,16 2006 165 189 1,15 2007 181 197 1,09 2008 205 255 1,24 2009 141 157 1,11 2010 235 285 1,21 2011 118 128 1,08 2012 136 152 1,11 2013 117 136 1,16 Tổng số 1993 2972 1,49 Nguồn: Công an tỉnh Bắc Ninh
  • 45. 46 Nhìn trên bảng thống kê trên thấy rằng, các tội phạm về ma tuý có sự đồng phạm, chỉ hơn 1 bị can/1 vụ phạm tội, tức là vẫn có sự đồng phạm trong các vụ phạm tội về ma tuý, nhưng mức độ không cao. Tình hình khỏi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2000 đến năm 2013 như sau: Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 20013 (cả cấp tỉnh và cấp huyện) Năm Số khởi tố Số truy tố Số xét xử Vụ Đối tượng Vụ Bị can Tỷ lệ Vụ Bị cáo Tỷ lệ 2000 44 49 43 48 43 48 2001 85 93 74 77 74 77 2002 163 172 148 158 140 150 2003 158 169 162 169 155 164 2004 133 141 130 138 140 146 2005 129 143 114 127 114 126 2006 122 128 111 116 109 115 2007 101 109 96 101 94 98 2008 117 125 112 116 107 108 2009 122 128 111 116 109 115 2010 111 119 106 111 104 108 2011 127 135 122 126 117 118 2012 129 142 124 127 124 127 2013 108 121 101 113 101 113 Tổng số 1649 1774 1554 1643 1531 1613 Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh
  • 46. 47 Nhìn vào bảng 2.3 chúng ta thấy, số vụ án về ma tuý được khởi tố từ năm 2000 đến năm 2013 là 1649 vụ với 1774 đối tượng, trong khi đó số vụ án được điều tra khám phá từ năm 2000 đến hết năm 2013 ( là 1992 vụ với 2972 đối tượng. Như vậy, tỷ lệ các vụ án khởi tố ít hơn rất nhiều so với các vụ án đã được điều tra, khám phá. Số các vụ án Viện kiểm sát truy tố trong vòng 13 năm là 1554 vụ với 1643 bị can. Số các vụ án Toà án đưa ra xét xử là 1531 vụ với 1613 bị cáo. Đây là một tỷ lệ tương đối cao, chứng tỏ có sự phối hợp chặt chẽ của cả 3 ngành Công an - Viện Kiểm sát - Toà án trong việc đưa các vụ án về ma tuý ra xét xử nhanh chóng, kịp thời với mục đích vừa tuyên truyền, vừa trừng trị, răn đe và phòng ngừa chung. Xem xét số liệu các vụ án khởi tố, truy tố, xét xử thấy có sự không giống nhau, số liệu các vụ án đưa ra xét xử luôn thấp hơn so với số các vụ án khởi tố và truy tố. Tình trạng trên là do một số nguyên nhân sau: - Do thời điểm thống kê của 3 ngành không giống nhau; - Do Toà án hoàn hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung; - Một số vụ án bị tồn đọng từ năm này sang năm khác; - Một số vụ án đã bị khởi tố nhưng đến giai đoạn truy tố hoặc xét xử thì bị đình chỉ do một số nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan như bị cáo chết hoặc căn cứ để khởi tố không còn... Xem xét tình hình tội phạm về ma tuý thông qua số liệu các vụ án được đưa ra xét xử, chúng tôi nhận thấy, trong các vụ án về ma tuý tỷ lệ đồng phạm không cao, chỉ hơn 1 bị cáo trên 1 vụ phạm tội. Như vậy các đối tượng phạm tội ma tuý thường có tính chất hoạt động đơn lẻ. Tuy nhiên, do Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, chỉ là địa bàn trung chuyển nên các đối tượng phạm tội về ma tuý bắt được tại đây chỉ là những đối tượng buôn bán nhỏ, những kẻ được thuê vận chuyển... chỉ là một mắt xích nhỏ trong những đường dây tội phạm về ma tuý. Mặc dù tỷ lệ các vụ án về ma tuý ở Bắc Ninh được đưa ra xét xử thấp
  • 47. 48 hơn so với nhiều địa bàn khác trên phạm vi cả nước, nhất là với những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh, nhưng tính chất của các vụ án ngày càng mang tính nguy hiểm và phức tạp hơn. Theo số liệu thống kê của TAND tỉnh Bắc Ninh từ năm 2009 đến năm 2013, tình hình xét xử các vụ án về ma tuý như sau: Bảng 2.4: Tình hình xét xử các vụ án vê ma tuý Tội danh Vụ Bị cáo Hình phạt Từ 7 năm trở xuống Từ 7 - 15 năm Từ 15 - 20 năm Chung thân Tử hình Mua bán TPCMT 132 132 57 23 45 5 2 Tàng trữ TPCMT 333 341 310 28 2 1 0 Vận chuyển TPCMT 11 17 7 6 2 2 0 Sử dụng TPCMT 21 24 19 5 0 0 0 Tổ chức SDTPCMT 33 42 27 14 1 0 0 Chứa chấp SDTPCMT 25 25 21 4 0 0 0 Tổng cộng 555 581 441 80 50 8 2 Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Bắc ninh Xem xét các vụ án được đưa ra xét xử trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, chúng ta thấy, các vụ án phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" chiếm số lượng cao nhất là 333 vụ với 341 bị cáo. Các vụ án phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" là 132 vụ với 132 bị cáo. Đây là hai loại tội chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các tội phạm về ma tuý đã được đưa ra xét xử và cũng là loại tội có tỷ lệ đổng phạm cao nhất, còn lại các tội phạm "Vận chuyển trái phép chất ma tuý", "Sử dụng trái phép chất ma tuý", "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý", "Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý” chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Về mức hình phạt, chúng ta thấy đa số các bị cáo phạm tội có mức hình