Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông, cho các bạn tham khảo
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
Luận văn: Quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án, HOT
1. ĐẠI HỌC QUỐ C GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG ĐƢ́ C DƢƠNG
§¶M B¶O QUYÒN CON NG¦êI
TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö C¸C Vô ¸N H×NH Sù
TR£N C¥ Së Sè LIÖU CñA TØNH §¾K N¤NG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐ C GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG ĐƢ́ C DƢƠNG
§¶M B¶O QUYÒN CON NG¦êI
TRONG HO¹T §éNG XÐT Xö C¸C Vô ¸N H×NH Sù
TR£N C¥ Së Sè LIÖU CñA TØNH §¾K N¤NG
Chuyên ngành: Luâ ̣t Hình sƣ̣và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớ ng dẫn khoa ho ̣c: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lƣơng Đƣ́ c Dƣơng
4. MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ............................ 9
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ........ 9
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ..........................................................19
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử............19
1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự..................................................................................21
1.3. NỘI DUNG VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ ..........................................................26
1.3.1. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử .............26
1.3.2. Cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử.................37
Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ...........................43
2.1. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ .............................................43
2.1.1. Pháp luật Việt Nam từ 1945 đến trƣớc 2003 với việc bảo đảm
đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử ....................................43
5. 2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về việc bảo đảm đảm
quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử ............................................46
2.2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ NHỮNG NĂM QUA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK NÔNG ............53
2.2.1. Một số đặc điểm tình hình kinh tế - Xã hội và tổ chức bộ máy
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông...................................................53
2.2.2. Tình hình xét xử từ năm 2010 – 2014 trên địa bàn Tỉnh Đắk Nông .........57
2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ.........................................64
2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự còn nhiều bất cập.................64
2.3.2. Những nguyên nhân khác....................................................................71
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ..............................................75
3.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................................75
3.1.1. Tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngƣời nói chung và
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự nói riêng là đƣờng lối,
chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta..................................................75
3.1.2. Khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành về đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử ...........77
3.1.3. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hiệu quả
chƣa cao, chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng tại phiên tòa........................................................................78
3.1.4. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế......................................................78
3.2. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.................................................................79
3.2.1. Bổ sung nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử ........................80
6. 3.2.2. Cần loại bỏ những nhiệm vụ không thuộc chức năng xét xử của
tòa án, đồng thời qui định chặt chẽ, cụ thể thủ tục tại phiên tòa ........82
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng
hình sự đảm bảo mục đích ngăn chặn tội phạm và tôn trọng
quyền con ngƣời.................................................................................84
3.2.4. Hoàn thiện các qui định về quyền bào chữa .......................................86
3.2.5. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về luật sƣ và chế định
bào chữa trong tố tụng hình sự............................................................87
3.2.6. Hoàn thiện pháp luật về việc bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị
oan trong tố tụng hình sự ....................................................................91
3.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC ......................................................................92
3.3.1 Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất
đạo đức cho Thẩm phán......................................................................92
3.3.2. Đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động của Thẩm phán
và cán bộ tòa án...................................................................................93
3.3.3. Nâng cao trình độ năng lực, trách nhiệm nghề nghiệp và số
lƣợng Kiểm sát viên, Luật sƣ..............................................................94
KẾT LUẬN....................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................99
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
THTT: Tiến hành tố tụng
TAND: Tòa án nhân dân
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
ICESCR: Công ƣớc về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
UDHR: Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền
OSCE: Tổ chức an ninh hợp tác Châu Âu
ICCPR: Công ƣớc quôc về các quyền dân sự và chính trị
ECHR: Công ƣớc Châu Âu về nhân quyền
ECOSOC: Hội đồng kinh tế và xã hội
UNHR: Hội đồng nhân quyền
ACHR: Công ƣớc Châu Mỹ về quyền con ngƣời
ACHPR: Hiến chƣơng Châu Phi về quyền con ngƣời
NHRIs: Cơ quan nhân quyền quốc gia
CAT: Công ƣớc chống tra tấn
ICJ: Tòa án công lý
8. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số vụ án đƣợc xét xử 57
Bảng 2.2: Số bị cáo đƣợc xét xử 58
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền con ngƣời là một trong những nội dung và mục tiêu
của xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nƣớc
ta. Nghị quyết số: 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ chính trị về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020” xác định một trong những định hƣớng xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đó là:
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con
ngƣời, quyền tự do, dân chủ của công dân. Củng cố cơ sở pháp lý
về trách nhiệm của các cơ quan nhà nƣớc trong việc xây dựng, ban
hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực thi các pháp luật, các điều
ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con ngƣời, quyền
công dân trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội. Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nƣớc đối với các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của các cơ quan nhà
nƣớc, nhất là Tòa án trong việc bảo vệ các quyền đó [21].
Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị
về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tƣ pháp
ngày càng cao; các cơ quan tƣ pháp phải là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [22].
Trên cơ sở này Nghị quyết đƣa ra phƣơng hƣớng và nhiệm vụ cải cách
tƣ pháp, trong đó nhấn mạnh việc “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
10. 2
quyền con người”, đồng thời “xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là
hoạt động trọng tâm”. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
tiếp tục xác định: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn
trọng và bảo vệ quyền con người”. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đƣợc Quốc
hội thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật” [50, Điều 14].
Trên tinh thần đó hệ thống pháp luật nƣớc ta đã qui định việc bảo đảm
quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự nói chung và trong hoạt động xét xử
nói riêng làm cơ sở cho hoạt động của tòa án và các CQTHTT khác khi tiến
hành tố tụng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc, thực tiễn quá
trình giải quyết vụ án hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế trong việc bảo đảm
quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử. Thực tiễn hoạt động xét xử đã chỉ ra,
khi tiến hành xét xử tòa án đã không tạo điều kiện để bị cáo thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa, việc tiếp cận hồ sơ vụ án, gặp gỡ bị cáo của luật sƣ còn khó
khăn. Tranh tụng tại phiên tòa còn phiến diện, hình thức, bản án, quyết định
của tòa án chƣa thực sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa dẫn đến việc
làm oan ngƣời vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm, hình phạt đƣợc tuyên không phù
hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Việc áp dung các biện pháp
ngăn chặn, đặc biệt là biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với ngƣời bị tình nghi
phạm tội, bị can, bị cáo còn thiếu căn cứ; trong quá trình tạm giam, bị can, bị
cáo chƣa đƣợc đối xử theo qui định của pháp luật. Một trong những quyền
con ngƣời quan trọng trong giai đoạn xét xử là ngƣời bị buộc tội phải đƣợc
xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập nhƣng sự độc lập của thẩm phán và
11. 3
hội thẩm khi xét xử còn phải chịu nhiều áp lực nên chƣa thực sự độc lập...
Các quyền về an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của bị can, bị cáo trong
hoạt động xét xử còn bị vi phạm. Những hạn chế trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự đối với việc bảo đảm quyền con ngƣời nêu trên không chỉ diễn
ra trên địa bàn tỉnh Đắk Nông mà còn là tình hình chung của hoạt động xét xử
trên cả nƣớc. Những hạn chế nêu trên do các những nguyên nhân khách quan
và chủ quan của quá trình lập pháp , thực thi và áp dụng pháp luật của nhâ ̣n
thức và ý thức trách nhiệm của CQTHTT, ngƣời THTT.
Vì vậy, để góp phần bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
tôi lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các
vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông ” làm luận văn thạc sĩ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con ngƣời và đảm bảo quyền con ngƣời là vấn đề cơ bản, đƣợc
nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt coi trọng trong lĩnh vực nghiên cứu lý
luận, cũng nhƣ hoạt động thực tiễn. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, các
giá trị về quyền con ngƣời và đảm bảo quyền con ngƣời luôn gắn liền với
những thành tựu mà nhân loại đã đạt đƣợc vì thế , Tuyên ngôn thế giới về
quyền con ngƣời đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948, đã
đánh dấu nhƣ một cột mốc của lịch sử phát triển quyền con ngƣời . Trong
khoa học pháp lý của quốc tế cũng nhƣ nƣớc ta, vấn đề bảo đảm quyền con
ngƣời nói chung, quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp cũng nhƣ quyền
con ngƣời trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng đã đƣợc nhiều tác giả
nghiên cứu từ các lĩnh vực, góc độ với các cấp độ khác nhau.
Về lĩnh vực xây dựng pháp luật, có các công trình: “Hoàn thiện pháp
luật đảm bảo quyền con người trong xét xử hình sự ở nước ta” (Luận văn thạc
sĩ luật học, 2000) cuả tác giả Hoàng Hải Hùng; đề tài “Xây dựng và hoàn
12. 4
thiện đảm bảo pháp luật thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở
Việt Nam hiện nay” (Luận án Phó tiến sĩ luật học, 1995) của tác giả Nguyễn
Văn Mạnh; tác giả Võ Khánh Vinh với đề tài “Nguyên tắc công bằng trong
luật hình sự Việt Nam” (Luận án Phó tiến sĩ luật học, 1993).
Từ góc độ nghiên cứu về đảm bảo quyền con ngƣời nói chung trong
Nhà nƣớc pháp quyền có các công trình: “Quyền con người, quyền công dân
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” của GS.TS. Trần
Ngọc Đƣờng; chuyên khảo “Quyền lực Nhà nước và quyền con người” của
PGS.TS. Đinh Văn Mậu.
Từ góc độ pháp luật chuyên ngành, cũng đã có nhiều công trình về bảo
vệ quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự: “Bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự Việt Nam” (Luận án tiến sĩ) của tác giả Nguyễn Quang
Hiền; chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp; chuyên khảo “Các nguyên tắc
tố tụng hình sự” của PGS.TS. Hoàng Thị Sơn và TS Bùi Kiện Điện…
Ở nƣớc ngoài cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề bảo đảm
quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp: Bảo đảm quyền con ngƣời trong các
nguyên tắc tố tụng hình sự (Princial of Criminal procedure của Neil Andrews);
bảo đảm quyền con ngƣời trong xét xử vụ án hình sự (Human rights in English
criminal trial-Human rights criminal procedure của K.W. Lidstone)…
Đánh giá chung về các công trình đã công bố có nội dung đề cập đến
vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời nói chung và trong hoạt động tố tụng nói
riêng, chƣa có công trình nào tiếp cận một cách toàn diện, hệ thống, đồng bộ
vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Tuy
vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối
với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn, với đề tài “Đảm bảo quyền con
người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh
Đắk Nông”.
13. 5
3. Mục đích và nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hƣớng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử các vụ án
hình sự, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định về đảm bảo
quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử, đề xuất những giải pháp thiết thực
nâng cao hiệu quả việc bảo vệ quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử hình sự.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu lý luận đảm bảo quyền con ngƣời
trong hoạt động xét xử án hình sự, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu làm
sáng tỏ: Khái niệm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử; khái niệm và ý
nghĩa bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử; pháp luật về xét xử
hình sự; thực thi pháp luật trong hoạt động xét xử; nội dung và cơ chế bảo
đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử; các giải pháp nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử.
3.3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi bảo vệ quyền con ngƣời của đề tài này chủ yếu là trong giai
đoạn xét xử hình sự: Đảm bảo cho ngƣời bị tình nghi là tội phạm, bị can, bị
cáo thực hiện các quyền của mình khi tham gia tố tụng hình sự. Vì vậy, phạm
vi nghiên cứu của luận văn đƣợc giới hạn trên các vấn đề cơ bản sau đây:
- Cơ sở lý luận đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử: về
quyền đƣợc xét xử công bằng; bảo đảm các quyền thân thể, tự do, danh dự,
nhân phẩm;
- Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đảm bảo quyền con
ngƣời trong hoạt động xét xử hình sự;
14. 6
- Về thực trạng hoạt động xét xử hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Đắk
Nông trong việc đảm bảo quyền con ngƣời;
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt
động xét xử.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật và quan điểm của Đảng về Nhà ta về
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ
pháp trong các Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số:
48-NQ/TW ngày 24/5 /2005, Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm
2005 của Bộ chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp
cụ thể nhƣ: phƣơng pháp phân tích và tổng hợp; phƣơng pháp so sánh, đối
chiếu; phƣơng pháp diễn dịch; phƣơng pháp quy nạp; phƣơng pháp thống kê;
phƣơng pháp khảo sát thực tiễn trong xét xử án hình sự…
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phƣơng diện
lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ một luận văn
thạc sĩ luật học về bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử hình sự,
mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên
quan tới bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử theo Luật tố tụng
hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về bảo đảm quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử hình sự, để xây dựng nên khái niệm quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử hình sự; khái niệm và ý nghĩa bảo đảm quyền con ngƣời
15. 7
trong hoạt động xét xử; nội dung và cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử;
- Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam trong việc bảo đảm quyền con ngƣời của hoạt động xét xử từ sau cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến nay;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về việc bảo đảm quyền
con ngƣời của hoạt động xét xử hình sự; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn
việc bảo đảm quyền con ngƣời của hoạt động xét xử, cũng nhƣ những nguyên
nhân của các tồn tại, hạn chế đó;
- Xác định rõ vai trò trách nhiệm của Toà án trong việc đảm bảo quyền
con ngƣời; nhận diện việc vi phạm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
hình sự, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
hình sự của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
các định hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao
hiệu quả của việc đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử hình sự
trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp hiện nay
ở Việt Nam;
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự đƣợc khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật;
16. 8
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử
Chương 2: Pháp luật và thực tiễn đảm bảo quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả bảo đảm quyền con ngƣời trong xét xử vụ án hình sự.
17. 9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
Trong bất kỳ một nền tƣ pháp nào, việc đƣa ra quyết định một công dân
có tội hay không có tội là một việc làm hết sức quan trọng, nó không nhƣ̃ng
ảnh hƣởng lớn đến danh dự, nhân phẩm, tài sản, tính mạng và các quyền, lợi
ích của chính công dân đó , mà còn quyết định đến vận mệnh, tƣơng lai, cuộc
sống của mỗi con ngƣời. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nhiệm vụ quan
trọng và nặng nề này thƣờng đƣợc trao cho Tòa án, cơ quan duy nhất có thẩm
quyền đƣa ra phán quyết đối với một cá nhân vi phạm pháp luật.
Trong hệ thống tƣ pháp, Tòa án giữ vai trò đặc biệt, ở hầu hết các nƣớc,
hệ thống Tòa án thƣờng đƣợc trao nhiệm vụ bảo vệ các quyền con ngƣời,
quyền công dân. Bằng hoạt động xét xử của mình, Tòa án không những khôi
phục những thiệt hại do hành vi phạm tội xâm hại đến quyền con ngƣời mà
còn bảo đảm cho quyền con ngƣời trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án
đƣợc tôn trọng và bảo đảm. Do vậy, quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
bao gồm tất cả các lĩnh vực quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự. Theo
PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí thì:
Ở bình diện khái quát nhất, quyền con ngƣời trong tố tụng
hình sự đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, trừng trị ngƣời
phạm tội gây ra những thiệt hại cho các quyền và lợi ích hợp pháp
của con ngƣời, của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần bảo vệ
quyền con ngƣời; Thứ hai, khi tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, các
cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền
con ngƣời của ngƣời bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo [79].
18. 10
Tuy nhiên, theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí thì:
Phạm vi quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự hẹp hơn,
không bao gồm cả hai khuynh hƣớng trên mà chỉ là sự ghi nhận và
bảo đảm quyền của những ngƣời dễ bị tổn thƣơng bao gồm: Ngƣời
bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị tình nghi phạm tội hoặc ngƣời bị kết
án tránh sự lạm dụng của ngƣời tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ án [79].
Chúng tôi, chia sẻ quan điểm này và cho rằng quyền con ngƣời trong
TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng bao gồm hai nhóm quyền:
Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong tố tụng hình sự
và quyền đƣợc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập. Những quyền con
ngƣời này là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục
đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của con ngƣời trong mọi hoàn cảnh, bảo
vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố
tụng và ngƣời tiến hành tố tụng trong các hoạt động tố tụng hình sự.
a. Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong xét xử
Đây là quyền của ngƣời bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện
pháp ngăn chặn nhƣ: bắt, tạm giữ, tạm giam; ngƣời bị kết án phải chấp hành
hình phạt tù trong các trại cải tạo và còn đƣợc mở rộng đến những đối tƣợng
bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những ngƣời này ít nhiều đã gây nguy hại
cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự
do nhƣng quyền của họ vẫn đƣợc ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện
pháp pháp luật. Quyền của những ngƣời này chiếm một vị trí quan trọng trong
luật nhân quyền quốc tế và luật nhân quyền quốc gia. Các quyền cơ bản của
ngƣời bị tƣớc tự do đƣợc bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều
văn kiện khác nhƣ “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những ngƣời bị
19. 11
giam hay cầm tù dƣới bất kỳ hình thức nào” đƣợc Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên
tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên
bị tƣớc tự do” đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết
45/113 ngày 14/12/1990... [86]. Về cơ bản, những ngƣời bị tƣớc tự do đƣợc
bảo đảm các quyền sau đây: a) Quyền đƣợc bảo vệ không bị tra tấn, đối xử
hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; b) Quyền đƣợc bảo vệ để
khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện; c) Quyền đƣợc đối xử nhân đạo và tôn trọng
nhân phẩm của những ngƣời bị tƣớc tự do; d) Quyền thông tin, liên lạc với
bên ngoài; e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; f) Quyền đối với
ngƣời chƣa thành niên.
Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm những quyền
con ngƣời kể trên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cƣỡng chế
trong quá trình giải quyết vụ án cũng nhƣ trong việc ra bản án và quyết định
của tòa án.
b. Quyền được xét xử công bằng
“Quyền đƣợc xét xử công bằng” (right to a fair trial) là một nhân quyền
cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong tất c ả các vụ án hình sự và phi
hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó
là quyền thiết yếu (essential) trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một
ngƣời khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nƣớc tôn trọng nhân quyền đến mức
nào, bởi vậy, quyền đƣợc xét xử công bằng đã đƣợc coi là một hòn đá tảng (a
cornerstone) của các xã hội dân chủ. Giống nhƣ đặc tính của mọi nhân quyền
là phụ thuộc lẫn nhau, quyền đƣợc xét xử công bằng với các quyền khác có
mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo
đảm các quyền cơ bản khác của con ngƣời nhƣ quyền sống, quyền đƣợc an
toàn về thân thể, quyền tự do ngôn luận... Ngƣợc lại, trong một xã hội không
20. 12
dân chủ, các quyền cơ bản của con ngƣời không đƣợc tôn trọng thì khó có thể
có chuyện mọi ngƣời đều đƣợc xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa
quyền đƣợc xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã đƣợc khẳng
định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại
châu Phi. Từ các văn bản pháp luật thì quyền đƣợc xét xử công bằng đƣợc
hiểu nhƣ sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị
buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc phi hình sự trước
cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà án), được pháp luật quốc gia và
quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể (như được bảo đảm
quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi toà án độc lập,
không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công bằng, cũng như
các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.
Quyền đƣợc xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau: a)
Quyền bình đẳng trƣớc tòa án và đƣợc xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên
vị, công khai; b) Quyền bào chữa; c) Quyền đƣợc xét xử theo thủ tục riêng
của ngƣời chƣa thành niên; d) Quyền kháng cáo; e) Quyền đƣợc bồi thƣờng
khi bị kết án oan; g) Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; h)
Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện đƣợc nghĩa vụ hợp đồng;
i) Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật
vào thời điểm thực hiện hành vi; k) Không áp dụng hồi tố cũng đƣợc nghiên
cứu khi đề cập đến quyền đƣợc xét xử công bằng.
Nhƣ vậy, quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử là quyền của ngƣời
yếu thế, của ngƣời bị cáo buộc là phạm tội và họ đƣợc hƣởng những quyền lợi
chính đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền con ngƣời trong hoạt động xét
xử có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: quyền con người trong hoạt động xét xử là quyền của người
thuộc các nhóm người dễ bị tổn thương
21. 13
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời, trong đó
định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thƣờng đƣợc trích dẫn bởi
các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu
có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự
bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của
con người” [85, tr.22].
Nhƣ vậy, quyền con ngƣời đƣợc hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con ngƣời đƣợc thừa nhận và bảo vệ trong
pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Các quyền con ngƣời có
thể gây cản trở lẫn nhau, chúng bị giới hạn bởi các quyền và tự do của ngƣời
khác hay bởi các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung
trong một xã hội dân chủ [11, tr.656].
Bên cạnh các cá nhân, chủ thể của quyền con ngƣời còn là các nhóm xã
hội nhất định, trong đó có các nhóm dễ bị tổn thƣơng. Quyền cá nhân đƣợc
hiểu là "các quyền thuộc về mỗi cá nhân, bất kể họ có hay không là thành
viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc hưởng thụ các quyền này là tùy
thuộc ý chí của mỗi cá nhân" [79, tr.14]. Việc thừa nhận và bảo đảm các
quyền của nhóm là hết sức cần thiết và quan trọng và phủ nhận tính phổ quát
của quyền con ngƣời. Đồng thời, cũng không đi ngƣợc lại với nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế về quyền con ngƣời là nguyên tắc tất cả các quyền con
ngƣời đƣợc áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi ngƣời.
Nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng chiếm phần lớn trong nội dung về quyền
của nhóm và cấu thành một bộ phận quan trọng của luật quốc tế về quyền con
ngƣời. Hiện chƣa có một định nghĩa chính thức về nhóm ngƣời dễ bị tổn
thƣơng, tuy cụm từ này đƣợc sử dụng thƣờng xuyên trong các tài liệu, đặc
biệt là các nghiên cứu về luật nhân quyền quốc tế. Từ những tài liệu đó có thể
hiểu khái niệm nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng chỉ những nhóm, cộng đồng có
22. 14
vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ
cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con ngƣời, và bởi vậy, họ cần
đƣợc chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng ngƣời khác. Luật
nhân quyền quốc tế xác định những nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, gồm: Phụ
nữ; Trẻ em; Ngƣời khuyết tật (thể chất, tâm thần); Ngƣời thiểu số/bản địa;
Ngƣời nƣớc ngoài/ngƣời không quốc tịch; Ngƣời tị nạn/tìm kiếm quy chế tị
nạn; Ngƣời lao động di trú; Ngƣời bị tƣớc tự do; Ngƣời bị cáo buộc phạm tội
trong quá trình tố tụng; Tù binh chiến tranh, dân thƣờng trong vùng chiến sự
hoặc vùng bị lực lƣợng quân sự nƣớc ngoài chiếm đóng; Ngƣời già; Ngƣời
sống chung với HIV... Danh sách trên cho thấy, ngƣời bị cáo buộc phạm tội
trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án thuộc nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng và
cần phải đƣợc quan tâm, bảo vệ. Do địa vị pháp lý, họ là ngƣời bị giới hạn
một số quyền so với các công dân bình thƣờng nên bị giảm đi cơ hội hƣởng
thụ các quyền nhƣ những ngƣời bình thƣờng khác. Đồng thời, do nhận thức
và quan niệm chƣa đƣợc đầy đủ của một số ngƣời trong xã hội, cho nên
những ngƣời bị cáo buộc phạm tội bị khinh miệt, bị xa lánh và kỳ thị nên các
quyền chính đáng của họ bị xâm phạm.
Thứ hai: Quyền con người trong hoạt động xét xử là những quyền cơ
bản cho dù họ có bị tước hoặc hạn chế một số quyền tự do.
Quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép
hƣởng thụ, vận dụng, thi hành... Và khi thiếu đƣợc yêu cầu để có, nếu bị
tƣớc đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Quyền của ngƣời trong hoạt động xét
xử là một bộ phận cấu thành của quyền con ngƣời. Quyền con ngƣời xuất
phát từ chính phẩm giá của mỗi con ngƣời, không phân biệt giới tính, dân
tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ địa vị nào. Ngƣời bị cáo buộc phạm tội
trong giai đoạn xét xử cũng có những phẩm chất và giá trị con ngƣời. Không
phải vì bị cáo buộc phạm tội mà các giá trị con ngƣời của họ bị mất hết và
23. 15
không còn là con ngƣời. Vì vậy, họ cũng phải có các quyền con ngƣời cơ
bản – những quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể tƣớc đoạt. Nhân
phẩm là những phẩm chất, giá trị chỉ con ngƣời mới có và tạo nên tƣ cách, vị
thế, sự khác biệt của con ngƣời trong thế giới động vật. Phẩm giá là nhƣ
nhau và tồn tại bên trong đời sống của mỗi ngƣời. Trong bản thân khái niệm
phẩm giá có chứa tƣ tƣởng về giá trị của mỗi con ngƣời, về tính độc nhất vô
nhị và bản sắc của mỗi cá nhân mà đƣơc mọi ngƣời, mọi thiết chế và toàn xã
hội tôn trọng. Điểm bắt đầu của khái niệm về quyền con ngƣời là khái niệm
về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại nhƣ
đƣợc ghi nhận trong UDHR và hai công ƣớc ICCPR, ICESCR. Ngay trong
lời nói đầu của UDHR đã đề cập đến “phẩm giá vốn có” của con ngƣời và
khẳng định mọi ngƣời đều tự do và bình đẳng về “phẩm giá và các quyền”
(trong Điều 1). Còn trong hai công ƣớc ICCPR, ICESCR đều khẳng định
quyền con ngƣời “bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con ngƣời” (lời nói
đầu). Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con ngƣời nói chung, quyền của
ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử nói riêng là đáp ứng
những đòi hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con ngƣời.
Ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng đƣợc hƣởng
các quyền con ngƣời cơ bản trên cƣơng vị bình đẳng nhƣ bất cứ cá nhân nào
khác. Bên cạnh đó, họ còn đƣợc hƣởng những quyền đặc thù, mà bản chất là
những ƣu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt dành cho nhóm ngƣời này dựa trên
những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ. Đó là các quyền nhƣ quyền
không bị tra tấn, quyền đƣợc đối xử nhân đạo, quyền đƣợc thông tin về lý do
bắt giữ và các quyền đƣợc có khi bị bắt giữ, các quyền thuộc nhóm quyền xét
xử công bằng, quyền của nhóm ngƣời chƣa thành niên…
Nhƣ vậy, khi nói đến quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai
đoạn xét xử thì bên cạnh các quyền cơ bản của con ngƣời họ còn có các quyền
đặc thù của nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng.
24. 16
Thứ ba: các quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét
xử được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Hiện có hai trƣờng phái (học thuyết) về nguồn gốc của nhân quyền:
- Thuyết quyền tự nhiên cho rằng, quyền con ngƣời, bao gồm cả quyền
của ngƣời bị tƣớc tự do là những gì bẩm sinh, vốn có thuộc về con ngƣời mà
ai cũng đƣợc hƣởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại.
Tuyên ngôn độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định:
"Tất cả mọi ngƣời sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể chối cãi đƣợc. Trong những quyền ấy có quyền đƣợc
sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc". Về mặt xã hội, thuyết quyền
tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tƣ tƣởng của các lực lƣợng tiến bộ
chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã
hội phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay
thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết này có điểm tích cực là đề
cao con ngƣời với tƣ cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát
triển tự nhiên. Nhƣng nhƣợc điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã hội của
quyền con ngƣời và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển.
Bên cạnh học thuyết về quyền tự nhiên, một trƣờng phái khác cho rằng quyền
con ngƣời nói chung, quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động
xét xử nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền con ngƣời phải
đƣợc quy định trong pháp luật. Nhƣ vậy, quyền con ngƣời vẫn là những đặc
quyền tự nhiên, vốn có ngay từ khi sinh ra. Nhƣng khi chƣa đƣợc Nhà nƣớc,
pháp luật ghi nhận thì các quyền tự nhiên chƣa trở thành quyền.
Việc phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp. Bởi
vì, trong UDHR và một số văn kiện khác thì nhân quyền đƣợc khẳng định rõ
ràng là các quyền tự nhiên. Cụ thể trong đoạn 1, lời nói đầu UDHR nêu rằng:
“thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời
25. 17
của mọi thành viên trong gia đình nhân loại”. Ngƣợc lại, về hình thức, hầu
hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con ngƣời là
các quyền pháp lý. Hai học thuyết quyền tự nhiên và quyền pháp lý bổ sung
cho nhau chứ không loại trừ nhau. Mâu thuẫn, đối lập chỉ do cách hiểu và vận
dụng không đúng đắn. Bởi vì thuyết về quyền tự nhiên muốn nói đến nguồn
gốc, bản chất, không nói đến cách thức ghi nhận, thực hiện quyền và không
phủ nhận việc các quyền tự nhiên cần phải đƣợc ghi nhận và bảo vệ bằng
pháp luật. Còn thuyết về quyền pháp lý nhấn mạnh cách thức ghi nhận, thực
hiện quyền chứ không phủ nhận nguồn gốc của quyền là tự nhiên, vốn có.
Quyền pháp lý là tập hợp chọn lọc và đã đƣợc cụ thể hóa của các quyền tự
nhiên. Tập hợp này có thể chƣa bao gồm hết các quyền tự nhiên, nhƣng
không tuyên bố phủ nhận những gì chƣa đƣợc pháp điển hóa. Nhƣ vậy có
nghĩa là quyền con ngƣời vẫn là những gì bẩm sinh , vốn có mà pháp luật chỉ
có thể thừa nhận và đƣợc bảo đảm.
Một lập luận khác chứng minh cho nhận định trên, đó là khi xét đến
bản chất của con ngƣời dƣới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin: Triết học
Mac-Lênin đã chỉ ra rằng con ngƣời là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh
vật với mặt xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con ngƣời là tổng
hoà những quan hệ xã hội; con ngƣời là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Nhƣ vậy là ở con ngƣời vừa có tính tự nhiên (sinh vật) vừa có tính xã hội. Do
đó, quyền con ngƣời một mặt mang tính tự nhiên, là những gì bẩm sinh, vốn
có của mỗi con ngƣời. Mặt khác, quyền con ngƣời cũng mang tính lịch sử và
xã hội. Có nghĩa là quyền con ngƣời là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động
của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn
lịch sử, xác nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm ngƣời trên. Trƣớc hết,
pháp luật là phƣơng tiện loài ngƣời tồn tại những quy phạm và cơ chế khác
nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.
26. 18
Pháp luật là công cụ hữu hiệu của Nhà nƣớc trong việc thực hiện, bảo
vệ quyền của ngƣời bị tƣớc tự do. Những nhu cầu vốn có, tự nhiên của con
ngƣời không thể đƣợc đảm bảo đầy đủ nếu không đƣợc pháp luật thừa nhận
và bảo vệ. Thông qua pháp luật, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở
thành những quy tắc cƣ xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất
cả mọi chủ thể trong xã hội, chứ không phải chỉ tồn tại dƣới dạng những quy
tắc đạo đức. Vai trò của pháp luật đối với việc thúc đẩy các quyền của ngƣời
bị tƣớc tự do thể hiện rõ ở hai khía cạnh là thừa tiện chính thức hóa, pháp lý
hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên. Ngay cả khi đƣợc thừa nhận, các
quyền tự nhiên của ngƣời bị tƣớc tự do cũng không đƣợc mặc định áp dụng ở
nhiều xã hội. Mà chỉ khi đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo vệ thì những quyền
của ngƣời bị tƣớc tự do mới mang đầy đủ giá trị hiện thực. Pháp luật có sứ
mệnh cao cả là biến những nghĩa vụ đạo đức về tôn trọng và thực hiện các
quyền tự nhiên thành các nghĩa vụ pháp lý. Khía cạnh thứ hai thể hiện vai trò
của pháp luật, đó là phƣơng tiện bảo đảm các giá trị thực tế của các quyền của
ngƣời bị ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử.
Thứ tư: những quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn
xét xử được bảo đảm bằng cơ chế không chỉ trong phạm vi quốc tế mà ở cả
phạm vi khu vực và phạm vi quốc gia.
Các quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử đƣợc
quy định trong luật pháp quốc tế và quốc gia. Để các quyền đó đi vào cuộc
sống, trở thành hiện thực thì cần thiết phải có cơ chế bảo đảm. Nói cách khác,
quy định pháp luật là xuất phát điểm bảo đảm quyền con ngƣời nhƣng hiệu
quả của quy định sẽ bị hạn chế nếu không có cơ chế đầy đủ để thực thi vì kinh
nghiệm thực tiễn chứng minh quan trọng là thực thi pháp luật. Cơ chế có
nghĩa là "cách thức sắp xếp, tổ chức để làm đƣờng hƣớng, cơ sở theo đó một
quá trình thực hiện" (giáo trình). Cơ chế bao gồm bộ máy các cơ quan chuyên
27. 19
trách và hệ thống các quy tắc, trình tự, thủ tục để thực hiện việc bảo vệ quyền.
Cơ chế bảo đảm quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử
hiện nay có ba cấp độ, đó là cơ chế quốc tế; cơ chế khu vực; cơ chế quốc gia.
Cơ chế quốc tế có phạm vi rộng lớn, toàn cầu và có vai trò nhất định trong
việc bảo đảm quyền của ngƣời bị tƣớc tự do. Nhƣng ở một mức độ nhất định,
một số cơ chế khu vực (nhƣ cơ chế khu vực châu Âu) lại tỏ ra chặt chẽ, hiệu
quả hơn so với cơ chế quốc tế của Liên hợp quốc.
Từ những phân tíc h trên, tác giả có th ể đƣa ra định nghĩa đầy đủ v ề
quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử nhƣ sau: Quyền con người của người
bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử là quyền được bảo đảm an toàn,
tôn trọng về thân thể, phẩm giá con người và quyền được xét xử công bằng
được thừa nhận trong pháp luật và được bảo đảm bằng cơ chế ở cả phạm vi
quốc tế, khu vực và quốc gia.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
Việc quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án
trong đó có án hình sự là nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tránh những việc làm tùy tiện, bởi vì không phải bất cứ ai hay bất
cứ tổ chức nào cũng có quyền kết tội một công dân. Chỉ có Tòa án là cơ quan
đƣợc pháp luật của nhà nƣớc quy định có quyền thay mặt nhà nƣớc ra phán
quyết một ngƣời là có tội hay không và áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm
tội. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ trên thì Thẩm phán - ngƣời trực tiếp giải
quyết các vụ án và đƣa ra phán quyết giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan
trọng. Thẩm phán đƣợc giao nhiệm vụ quyết định tối cao về sinh mạng, tự do,
các quyền, trách nhiệm và tài sản của công dân. Trong bản các nguyên tắc cơ
bản của Liên hợp quốc về tính độc lập của tƣ pháp đƣợc Đại hội liên hợp
28. 20
quốc lần thứ 7 về ngăn chặn tội ác và đối xử với bị can đƣợc tổ chức tại Milan
từ ngày 26/8 đến ngày 06/9/1985 và đƣợc Đại hội đồng ghi nhận trong Nghị
quyết số 40/32 ngày 29/11/1985 và Nghị quyết số 40/146 ngày 13/12/1985
quy định: "Xét thấy, các Thẩm phán có trách nhiệm đưa ra quyết định cuối
cùng về cuộc sống, sự tự do, nghĩa vụ và tài sản của công dân".
Nhƣ vậy, hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp
pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của Thẩm phán liên
quan trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công
dân. Nó ảnh hƣởng tới những lợi ích của nhà nƣớc, của các tổ chức và những
giá trị đƣợc thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động
xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lƣỡng, tỉ mỉ. Đây chính là cơ sở
của việc Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình.
Khi Thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì
những quyết định của Thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lƣỡng hơn. Từ đó việc
xét xử sẽ đúng ngƣời, đúng tội, đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.
Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền con ngƣời
bên cạnh những chức năng, nhiệm vụ khác của mình. Bảo đảm quyền con
ngƣời trong hoạt động xét xử có những đặc điểm sau:
- Bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử là một trong những
hợp phần có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền trong TTHS. Ở mức độ khái
quát nhất, bảo đảm quyền con ngƣời trong trong hoạt động xét xử là những
yếu tố để quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận, thực thi trong quá trình giải quyết
vụ án nhằm tôn trọng phẩm giá con ngƣời trong mọi hoàn cảnh và đƣợc xét
xử công bằng. Thực hiện tốt bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
là đóng góp tích cực có hiệu quả trong việc bảo đảm quyền con ngƣời nói
chung trong TTHS.
- Bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử là chức năng của nhà
nƣớc với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình.
29. 21
- Bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử có vai trò quan
trọng trong việc biến những nỗ lực, những ý tƣởng tiến bộ của nhân loại ở các
điều luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ án. Nói cách khác,
bản thân các qui phạm pháp luật về quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
đã là một thành tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con ngƣời nhƣng chỉ
dừng lại ở đó quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự sẽ không có trong thực tế
và những qui phạm pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, hình thành cơ chế
bảo đảm quyền con ngƣời trong tố tụng hình sự là đòi hỏi khách quan mang
tính chất quyết định mà nhà nƣớc nào cũng cần quan tâm.
- Bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử mang tính chất
đặc thù xuất phát từ những đặc điểm của tố tụng hình sự là một lĩnh vực
hoạt động thực hiện quyền lực nhà nƣớc mà ở đó việc hạn chế các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân là không thể tránh khỏi và các quyền và lợi
ích đó có thể bị xâm phạm một cách nghiêm trọng bởi những ngƣời đại
diện cho công quyền.
Từ những phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm về bảo đảm quyền con
ngƣời trong tố tụng hình sự nhƣ sau: Bảo đảm quyền con người trong hoạt
động xét xử là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích
công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong trong hoạt
động xét xử và bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình xét xử giải
quyết vụ án hình sự.
1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động
xét xử vụ án hình sự
Việc bảo đảm các quyền con ngƣời của ngƣời bị cáo buộc phạm tội
trong hoạt động xét xử có ý nghĩa sau:
1.2.2.1. Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử góp phần
bảo đảm quyền con người
Ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử là thành viên của xã
30. 22
hội nên bảo đảm quyền cho họ cũng chính là bảo đảm quyền con ngƣời nói
chung. Việc thừa nhận các quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai
đoạn xét xử và cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó sẽ là công cụ pháp lý
trừng trị những chủ thể có hành vi xâm hại quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm
tội trong giai đoạn xét xử. Quyền con ngƣời không đƣợc sử dụng để vi phạm
quyền của ngƣời khác (Điều 30 của UDHR). Do vậy, tất cả các xung đột phải
đƣợc giải quyết mà vẫn phải tôn trọng quyền con ngƣời kể cả vào những lúc
khẩn cấp và trong trƣờng hợp cần áp đặt một vài hạn chế. Ngƣời bị cáo buộc
phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng có nhân phẩm và họ cần phải đƣợc tôn
trọng với phẩm giá vốn có. Không thể vì họ là ngƣời bị tƣớc tự do mà nhân
phẩm của họ bị giảm sút hay mất đi. Ngƣợc lại, họ cần đƣợc bảo vệ hơn bởi
vị thế dễ bị tổn thƣơng của mình.
Luật nhân quyền quốc tế đã thừa nhận quyền của ngƣời bị cáo buộc
phạm tội trong giai đoạn xét xử bằng một hệ thống các quy định trong các văn
kiện pháp lý. Bên cạnh đó các cơ chế bảo đảm quyền của ngƣời bị cáo buộc
phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng đƣợc thiết lập. Điều đó sẽ góp phần làm
hạn chế các hành vi xâm hại đến quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong
giai đoạn xét xử. Do đó, việc quy định quyền và cơ chế thực thi quyền cho
ngƣời cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử có ý nghĩa quan trọng trong
việc bảo đảm quyền cho họ, chống lại các hành vi xâm hại tới quyền của họ
do các chủ thể khác thực hiện.
1.2.2.2. Bảo đảm quyền con người trong xét xử góp phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền
Nhà nƣớc pháp quyền là một hiện tƣợng chính trị - pháp lý phức tạp
đƣợc hiểu và nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, song chúng ta có thể hiểu
nhà nƣớc pháp quyền theo cách đơn giản, đó là một nhà nƣớc quản lý kinh tế
- xã hội bằng pháp luật và nhà nƣớc hoạt động tuân theo pháp luật. Pháp luật
31. 23
đó đƣợc các chủ thể thực hiện một cách tự giác chứ không ép buộc. Bởi lẽ đó
là pháp luật vì quyền con ngƣời, phục vụ con ngƣời, là pháp luật của dân chủ,
bình đẳng và văn minh. Đó là nhà nƣớc bảo đảm quyền con ngƣời tốt nhất
trong lịch sử loài ngƣời.
Trong một nền dân chủ hiện đại, không thể thiếu vắng vai trò của việc
đề cao pháp luật, xem pháp luật là nguyên tắc tối thƣợng; đồng thời, có những
cơ chế để kiềm chế xu hƣớng tha hóa, lạm dụng quyền lực nhà nƣớc của bất
cứ nhánh quyền lực nào cũng nhƣ của từng cá nhân - công chức và quan chức
nhà nƣớc - là những ngƣời đại diện cho nhân dân. Hơn thế nữa pháp luật đó
phải đƣợc xây dựng theo một quy trình dân chủ, minh bạch và công khai.
Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ hoạt
động Nhà nƣớc và hoạt động xã hội, quyết định tính hợp hiến và hợp pháp
của mọi tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc. Tuy nhiên không phải
mọi chế độ lập Hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có thể đƣa lại khả năng xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền, mà chỉ có Hiến pháp và hệ thống pháp luật dân
chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền trong nhà nƣớc
và xã hội.
Quyền con ngƣời là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nƣớc. Mọi hoạt động của Nhà nƣớc đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm
bảo quyền con ngƣời, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của
mình theo đúng các quy định của luật pháp. Nền tảng của nhà nƣớc pháp
quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng. Do vậy,
một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện
cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn đƣợc tôn trọng, đề cao
và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phƣơng thức bảo vệ Hiến pháp và
pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhƣng đều hƣớng tới
mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ
32. 24
hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc và chủ
thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nƣớc pháp
quyền luôn đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tƣ pháp thật sự dân
chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh
vực hoạt động của Nhà nƣớc và xã hội.
Bản chất của nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc tôn trọng giá trị nhân
quyền và bảo đảm cho các giá trị đó đƣợc thực thi trong thực tế. Khi quyền
của những ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử đƣợc bảo vệ tức
là đã góp phần xây dựng một Nhà nƣớc pháp quyền và đó cũng là một tiêu chí
để xác định nhà nƣớc đó có phải là Nhà nƣớc pháp quyền hay không?
1.2.2.3. Bảo vệ quyền con người trong hoạt động xét xử góp phần
bảo vệ công lý và văn minh nhân loại
Quyền con ngƣời là thành quả đấu tranh lâu dài qua các thời đại của
nhân loại, của các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm xác lập quyền bình
đẳng, tự do trong các quan hệ giữa ngƣời và ngƣời, cũng nhƣ giữa các dân
tộc; và đó cũng là thành quả đấu tranh của loài ngƣời nhằm hƣớng tới làm chủ
thiên nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân mình. Ở thời kỳ nô lệ, có tầng
lớp nô lệ - những kẻ không đƣợc coi là ngƣời, không đƣợc hƣởng các quyền
con ngƣời tối thiểu. Họ có thể bị bắt, giam cầm bất cứ lúc nào, vì bất cứ lý do
gì. Và khi đó, họ bị đối xử tàn tệ, bị tra tấn, đánh đập, bị kết tội không cần lý
do. Chế độ phong kiến so với chế độ nô lệ đã là một bƣớc tiến trong việc
giành lại quyền tự do và giải phóng con ngƣời. Tuy vậy, các quyền con ngƣời
trong đó có quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử vẫn
bị xâm phạm không thƣơng tiếc. Việc tra khảo (tra tấn) đƣợc coi nhƣ là một
nghiệp vụ điều tra dƣới các triều đại phong kiến. Trong xã hội này bị tƣớc tự
do đồng nghĩa với bị tƣớc bỏ mọi quyền con ngƣời khác. Cùng với sự phát
triển kinh tế - xã hội của loài ngƣời, nội dung các quyền con ngƣời tiếp tục
33. 25
phát triển. Cuộc cách mạng nhân quyền quốc tế hiện đại bắt đầu bằng sự ra
đời của Hiến chƣơng Liên Hợp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền UDHR - hai văn kiện quốc tế quan trọng đầu tiên về nhân quyền.
Ngay tại UDHR, rất nhiều quyền của ngƣời bị tƣớc tự do đã đƣợc khẳng định.
Đó là tại các Điều 5 (về quyền không bị tra tấn, đối xử, xử phạt một cách tàn
bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm); Điều 7 (về quyền bình đẳng trƣớc
pháp luật); Điều 9 (về quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện); Điều 10 (về
quyền đƣợc xét xử công bằng); Điều 11 (về quyền đƣợc suy đoán vô tội)…
Sau đó, quyền con ngƣời đƣợc pháp điển hoá trong một loạt Công ƣớc quốc tế
về nhân quyền. Đặc biệt trong ICCPR nhiều quyền quan trọng của ngƣời bị
tƣớc tự do đã đƣợc ghi nhận. Đó là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng
phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm (Điều 7); quyền
không bị bắt hoặc giam giữ tùy tiện (Điều 9), quyền đƣợc đối xử nhân đạo
(Điều 10); quyền đƣợc xét xử công bằng… Hệ thống các quyền trên của
ngƣời bị tƣớc tự do sau đó đƣợc cụ thể hóa tại hoàng loạt các văn kiện quốc tế
nhƣ: Công ƣớc CAT, tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những ngƣời bị
giam hay bị cầm tù dƣới bất kỳ hình thức nào, 1988; các quy tắc của Liên
Hợp Quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc tự do, 1990…
Sự phát triển của các quyền con ngƣời nói chung, quyền của ngƣời bị
tƣớc tự do nói riêng phản ánh sự phát triển của xã hội ngày càng văn minh
hơn. Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của tất cả con ngƣời là cốt lõi của khái
niệm quyền con ngƣời, coi cá nhân con ngƣời là trọng tâm của sự quan tâm.
Nó dựa trên một hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự
linh thiêng của cuộc sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống
quyền con ngƣời, đƣợc các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Quyền
con ngƣời cũng bảo đảm sự bình đẳng, chẳng hạn nhƣ bảo vệ quyền bình
đẳng chống lại mọi hình thức phân biệt đối xử trong hƣởng thụ tất cả các
34. 26
quyền con ngƣời. Ngƣời bị tƣớc tự do cũng có quyền sống, quyền hƣởng thụ
các giá trị văn hóa… nhƣ những công dân bình thƣờng. Quyền con ngƣời của
những ngƣời khác cần đƣợc tôn trọng chứ không chỉ khoan dung. Những
ngƣời bị tƣớc tự do đƣợc hƣởng các quyền con ngƣời chỉ đơn giản bởi họ là
thành viên của đại gia đình nhân loại. Việc họ đƣợc hƣởng các quyền là chính
đáng chứ không phải xã hội, nhà nƣớc hay bất kỳ chủ thể nào đang ban phát
cho họ các quyền đó.
Tóm lại, quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử
nói riêng, quyền con ngƣời nói chung là sự phát triển tất yếu của xã hội văn
minh. Trong một cuộc khảo sát do CNN – một trong các cơ quan truyền thông
nổi tiếng nhất thế giới - tiến hành, quyền con ngƣời đƣợc xem là một trong
mƣời phát minh làm thay đổi thế giới (cùng với nông nghiệp, phân tâm học,
thuyết tƣơng đối, vắcxin, thuyết tiến hóa, mạng thông tin toàn cầu, xà phòng,
số không và lực hấp dẫn). Quyền của ngƣời bị tƣớc tự do là một bộ phận của
quyền con ngƣời, việc bảo đảm quyền của ngƣời bị tƣớc tự do chính là đã bảo
đảm quyền con ngƣời – một trong các phát minh làm thay đổi thế giới.
1.3. NỘI DUNG VÀ CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
1.3.1. Nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
Các nghiên cứu về quyền con ngƣời trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự gần
đây đều cho rằng nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong TTHS thể hiện
trên ba phƣơng diện, đó là:
Thứ nhất, hình thành hệ thống pháp luật quốc gia trên cơ sở các tiêu chí
quốc tế về quyền con ngƣời;
Thứ hai, có các biện pháp bảo đảm thực thi có hiệu quả pháp luật về
quyền con ngƣời;
Thứ ba, có cơ chế giám sát bảo đảm quyền con ngƣời [9, tr.56]. Vì vậy,
35. 27
khi nghiên cứu nội dung bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử,
trƣớc hết cần xem xét các tiêu chí quốc tế về quyền con ngƣời trong lĩnh vực
xét xử vụ án hình sự.
Những chuẩn mực quốc tế cơ bản liên quan đến quyền con ngƣời trong
hoạt động xét xử bao gồm hai nhóm: 1) các quyền an toàn thân thể, danh dự,
nhân phẩm… của cá nhân khi họ bị tƣớc tự do (bị áp dụng biện pháp ngăn
chặn); 2) quyền đƣợc xét xử công bằng. Về cơ bản, các quyền này đƣợc ghi
nhận trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR
- Việt Nam là thành viên từ năm 1982), trong các Bình luận chung của cơ
quan giám sát Công ƣớc này, cũng nhƣ trong một số hƣớng dẫn, nguyên tắc
đã đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận liên quan.
1.3.1.1. Nhóm quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá
nhân bị tước tự do
Bảo vệ quyền của “những ngƣời bị tƣớc tự do” (deprived of liberty)
chiếm một vị trí quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế. Họ bao gồm những
ngƣời bị cầm tù hay bị giam giữ vì nhiều lý do khác nhau (tạm giữ hành
chính, chờ ra tòa xét xử…). Trong phạm vi nghiên cứu này, do cách hiểu luật
tố tụng hình sự không bao gồm luật thi hành án hình sự, “những ngƣời bị tƣớc
tự do” đƣợc hiểu là những ngƣời bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn (bắt,
tạm giam, tạm giữ).
Các quyền cơ bản của ngƣời bị tƣớc tự do đƣợc bảo vệ tại Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị (1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện khác nhƣ “Tập hợp các nguyên tắc bảo
vệ tất cả những ngƣời bị giam hay cầm tù dƣới bất kỳ hình thức nào” đƣợc
Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày
9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc
về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị tƣớc tự do” đƣợc Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990... [28].
36. 28
Về cơ bản, những ngƣời bị tƣớc tự do đƣợc bảo đảm các quyền sau đây:
a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục
Quyền này đầu tiên đƣợc đề cập trong Điều 5 Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền (UDHR), trong đó nêu rằng, không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng
phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Điều 7 ICCPR cụ thể
hóa, trong đó nêu rõ, không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác,
vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng để làm thí
nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.
Bên cạnh các quy định trên của UDHR và ICCPR, vấn đề chống tra tấn còn
đƣợc đề cập trong một số điều ƣớc quốc tế khác về quyền con ngƣời, đặc biệt
là Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm (CAT, 1984). Tuy nhiên, một điều cần lƣu
ý là, chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
đƣợc coi là một quy phạm tập quán quốc tế (international custom law) về
quyền con người. Bởi vậy, tất cả các quốc gia trên thế giới đều có nghĩa vụ
phải tuân thủ, bất kể quốc gia đó có là thành viên của ICCPR, CAT hay bất cứ
điều ƣớc quốc tế nào khác có liên quan hay không.
Định nghĩa về hành động tra tấn đã đƣợc nêu ở Điều 1 của CAT. Tuy
nhiên, nhƣ Điều này cũng nêu rõ, khái niệm tra tấn không bao gồm những
đau đớn hoặc đau khổ xuất phát từ, gắn liền với hoặc có liên quan đến các
biện pháp trừng phạt hợp pháp. Định nghĩa về tra tấn trong Điều 1 CAT hiện
đƣợc sử dụng nhƣ một quy định tham chiếu chung trong luật quốc tế về quyền
con ngƣời và luật hình sự quốc tế khi đề cập đến vấn đề tra tấn, tuy nó bị phê
phán là đã loại trừ những đối tƣợng và hoàn cảnh mà hành động tra tấn đƣợc
thực hiện bởi những thủ phạm phi công chức (ví dụ, việc một nhóm phiến
quân bắt cóc con tin và tra tấn họ hay việc một ngƣời chồng đánh đập vợ
mình sẽ không thuộc nội hàm của hành động tra tấn theo định nghĩa này).
37. 29
b) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
Quyền này đầu tiên đƣợc quy định trong Điều 9 UDHR, trong đó nêu
rằng, không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tuỳ tiện. Điều 9 ICCPR cụ
thể hóa Điều 9 UDHR bằng những quy định khá chi tiết. Ngoài những nội dung
này, trong Bình luận chung số 8 thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982,
HRC đã giải thích thêm một số khía cạnh có liên quan đến Điều 9 ICCPR.
c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những
người bị tước tự do
Quyền này đƣợc quy định trong Điều 10 ICCPR. Theo Điều này,
những người bị tước tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân
phẩm vốn có của con người. Khoản 2 Điều này quy định trừ những hoàn
cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với những người đã
bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành
cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên phải được giam
giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt.
Đặc biệt, khoản 3 Điều này đề cập đến một nguyên tắc định hƣớng việc đối
xử với những ngƣời bị tƣớc tự do, theo đó, việc đối xử với tù nhân trong hệ
thống trại giam nhằm mục đích chính yếu là cải tạo và đưa họ trở lại xã hội,
chứ không phải nhằm mục đích chính là trừng phạt hay hành hạ họ. Những
văn kiện của Liên hợp quốc đƣợc sử dụng để làm tiêu chuẩn đánh giá việc
thực hiện quyền đƣợc đối xử nhân đạo khi bị tƣớc tự do và để lập báo cáo
quốc gia về việc thực hiện quyền này bao gồm: Các tiêu chuẩn tối thiểu của
Liên hợp quốc về việc đối xử với tù nhân (1955); Tập hợp các nguyên tắc bảo
vệ tất cả những người bị giam hay bị cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào
(1988)… Các chuẩn mực quốc tế khuyến nghị các quốc gia nên xác định dƣới
18 là độ tuổi đƣợc coi là vị thành niên trong tố tụng hình sự. Việc đối xử phù
hợp với lứa tuổi và tư cách pháp lý của ngƣời chƣa thành niên nêu ở khoản 3
38. 30
Điều 10 ICCPR phải thể hiện ở những yếu tố nhƣ: điều kiện giam giữ tốt hơn
phạm nhân đã thành niên; giờ lao động ngắn hơn; đƣợc liên lạc với ngƣời
thân...Văn kiện của Liên hợp quốc đƣợc sử dụng để làm tiêu chuẩn đánh giá
việc thực hiện và để lập báo cáo quốc gia trong vấn đề này là Các quy tắc tiêu
chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp với người chưa thành
niên (Các quy tắc Bắc Kinh, 1985) (đoạn 5).
d) Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài
Tập hợp nguyên tắc đặc biệt quan tâm bảo vệ quyền của ngƣời bị tƣớc
tự do phải đƣợc liên lạc với thế bên ngoài, với thân nhân và đặc biệt là luật sƣ.
Theo Nguyên tắc 15 của Tập hợp nguyên tắc: Mặc dù có những trƣờng hợp
ngoại lệ (theo khoản 4 Nguyên tắc 16 và khoản 3 Nguyên tắc 18), việc liên
lạc của ngƣời bị giam hay bị cầm tù với thế giới bên ngoài, đặc biệt là với gia
đình hay luật sƣ của ngƣời đó đều không bị khƣớc từ vì bất cứ lý do gì ngoài
vấn đề số ngày. Các Nguyên tắc 17 và 18 (đƣợc cung cấp luật sƣ, đƣợc liên
lạc với luật sƣ), Nguyên tắc 19 (trao đổi thƣ tín, đƣợc ngƣời đến thăm)...
e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu
Do vị thế bị hạn chế các quyền căn bản, những ngƣời bị tƣớc tự do cần
đƣợc bảo đảm quyền khiếu kiện bất kỳ lúc nào về tính hợp pháp của việc
giam, quyền khiếu nại, tố cái khi bị đối xử tàn tệ, bị tra tấn (Nguyên tắc 32, 33
của Tập hợp nguyên tắc).
g) Đối với người chưa thành niên
“Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ ngƣời chƣa thành niên bị
tƣớc tự do” đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết
45/113 ngày 14/12/1990 và “Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về hoạt động tƣ
pháp đối với ngƣời vị thành niên” (Các quy tắc Bắc Kinh) đƣợc thông qua
theo Nghị quyết 40/33 ngày 29/11/1985 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Theo các quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu thì biện pháp tạm giam chờ xét xử
39. 31
chỉ nên là hình thức “đƣợc sử dụng đến nhƣ một phƣơng kế cuối cùng và chỉ
trong thời gian ngắn nhất có thể” (khoản 1 đoạn 13). Và “Bất cứ khi nào có
thể, hình thức tạm giam chờ xét xử cần đƣợc thay thế bằng những phƣơng
pháp khác nhƣ giám sát chặt chẽ, chăm sóc đặc biệt hoặc đƣa về sống với gia
đình hay tại một trung tâm giáo dục hoặc tại nhà” (13.2). Ngƣời chƣa thành
niên, trong thời gian bị tạm giam chờ xét xử phải đƣợc hƣởng tất cả các quyền
và sự bảo đảm của Các Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu về đối xử với tù nhân do
Liên Hợp Quốc thông qua. (13.3)
Ngƣời chƣa thành niên bị tạm giam chờ xét xử phải đƣợc giam giữ tách
riêng khỏi ngƣời lớn, giam giữ trong một trại giam riêng biệt hay trong một
khu riêng của một trại giam có giam cả ngƣời lớn. (13.4.) Trong khi bị giam
giữ, ngƣời chƣa thành niên phải đƣợc bảo vệ, chăm sóc và đƣợc nhận tất cả
những sự giúp đỡ riêng cần thiết về mặt xã hội, giáo dục dạy nghề, tâm lý, y tế
và thể chất mà các em có thể cần tuỳ theo tuổi tác, giới tính và cá tính (13.5.)
1.3.1.2. Quyền được xét xử công bằng
Quyền đƣợc xét xử công bằng đã đƣợc coi là một hòn đá tảng (a
cornerstone) của các xã hội dân chủ [36]. Giống nhƣ đặc tính của mọi nhân
quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền đƣợc xét xử công bằng với các quyền
khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để
bảo đảm các quyền cơ bản khác của con ngƣời nhƣ quyền sống, quyền đƣợc
an toàn về thân thể, tự do ngôn luận... Về mặt lập pháp, ngoài hệ thông pháp
luật của các quốc gia, quyền đƣợc xét xử công bằng đƣợc ghi nhận trong
nhiều điều ƣớc quốc tế và khu vực. Trƣớc hết phải kể đến Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), đã đƣợc đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966. Tuy nhiên, theo nhiều quan điểm
thì quyền đƣợc xét xử công bằng không chỉ gồm các quy định liên quan đến
giai đoạn xét xử, đƣợc quy định tại Điều 14 mà cả ở nhiều điều luật khác
40. 32
(Điều 7, 9, 15...) của ICCPR. Về thời điểm phát sinh, nhiều luật gia cho rằng
ngay từ khi một cá nhân bị bắt họ đã có quyền này [70]. Bởi lẽ các quyền
trƣớc, trong và sau khi xét xử đều có quan hệ chặt chẽ với nhau. Theo PGS.
TS Nguyễn Ngọc Chí thì:
Quyền đƣợc xét xử công bằng là quyền cơ bản của ngƣời bị
buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc phi hình
sự trƣớc cơ quan tƣ pháp (công an, công tố và toà án), đƣợc pháp
luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền
cụ thể (nhƣ đƣợc bảo đảm quyền bào chữa, đƣợc xét xử nhanh
chóng, công khai bởi toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo
đảm cho việc xét xử đƣợc công bằng, cũng nhƣ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mọi cá nhân [9].
Tập hợp các văn kiện văn kiện mang tính ràng buộc và không mang
tính ràng buộc pháp lý tạo nên một hệ thống các chuẩn mực quốc tế về quyền
đƣợc xét xử công bằng. Hệ thống chuẩn mực này có thể dùng làm thƣớc đo
mức độ tuân thủ của các quốc gia trên khía cạnh pháp luật thực định và thực
tiễn thi hành pháp luật. Đó là:
- Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập,
không thiên vị, công khai
Trƣớc hết, bình đẳng thể hiện ở sự ngang bằng về quyền giữa các bên
trong tố tụng. Các buộc tội với bên gỡ tội có quyền nhƣ nhau trong việc đƣa ra
chứng cứ, quan điểm, yêu cầu là những đòi hỏi đầu tiên của công bằng trong
xét xử. Đây cũng là yêu cầu của Điều 7 Tuyên ngôn rằng mọi ngƣời đều bình
đẳng trƣớc pháp luật và có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng.
Thứ hai, tòa án cần phải độc lập, không thiên vị cũng là nội dung quan
trọng đảm bảo công bằng. Toà án là cơ quan có thẩm quyền đƣa ra phán quyết
về việc một ngƣời có tội hay không và trách nhiệm hình sự mà ngƣời đó phải
41. 33
gánh chịu. Tại Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của Tòa án (Basic
Principles on the Independence of the Judiciary) do Hội nghị Liên hợp quốc
về phòng chống tội phạm và xử lý ngƣời phạm tội thông qua và đƣợc Đại hội
đồng Liên hợp quốc chấp thuận cùng trong năm 1985, tính độc lập của toà án
đã đƣợc cụ thể hoá từ nhiều góc độ nhƣ cần có sự bảo đảm của nhà nƣớc, bảo
đảm của hiến pháp, toà án không bị ảnh hƣởng bởi dụ dỗ, sức ép, can thiệp sai
trái... [5, tr.126]. Bên cạnh sự độc lập của tòa án và các thẩm phán, sự độc lập
của cảnh sát và công tố viên cũng ảnh hƣởng đáng kể đến tính độc lập của hệ
thống tƣ pháp. Hướng dẫn về vai trò của công tố viên (đƣợc Hội nghị Liên
hợp quốc thông qua năm 1990) đã khẳng định trách nhiệm của nhà nƣớc trong
bảo đảm cho công tố viên thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn mà không bị đe
doạ, ngăn cản, can thiệp (Khoản 4) và văn phòng công tố viên phải triệt để tách
khỏi chức năng xét xử (Khoản 10)... [7, tr.64, 69]. Trong Quy ước đạo đức của
quan chức thi hành pháp luật (đƣợc Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1979),
một số khía cạnh liên quan đến tính độc lập nhƣ các quan chức thi hành pháp
luật (thực thi quyền lực cảnh sát) không đƣợc tham nhũng (Điều 7) [8, tr.118].
Công khai và minh bạch là những đòi hỏi thiết yếu của công bằng. Toà
án xét xử công khai là một yêu cầu trong Điều 14/1 ICCPR. Tuy nhiên, việc
xét xử công khai có thể bị hạn chế vì lý do an ninh quốc gia hoặc để giữ kín
đời tƣ của các bên. Trong Công ƣớc Châu Âu về nhân quyền (ECHR), tính
công khai của việc xét xử (Điều 6) cũng nhƣ việc đảm bảo quyền thông tin
của công chúng đƣợc đề cao (Điều 10). Gần đây, Hội đồng châu Âu nêu lên
kiến nghị liên quan đến tính minh bạch và khuyến cáo các quốc gia bảo đảm
quyền của công chúng trong việc nhận các thông tin về hoạt động của cơ quan
tƣ pháp, công an thông qua các phƣơng tiện truyền thông, đồng thời, các
phóng viên phải đƣợc tự do viết, bình luận về hệ thống tƣ pháp. Năm 2005,
Hội đồng tƣ vấn Thẩm phán châu Âu (the Consultative Council of European
42. 34
Judges) cũng đã đề cao mối quan hệ giữa toà án với các phƣơng tiện truyền
thông đại chúng [41].
- Quyền được suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội đƣợc hình thành tƣơng đối sớm trong
nhiều nền tƣ pháp trên thế giới. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp (1789) đã khẳng định mọi ngƣời đều đƣợc coi là vô tội cho đến khi bị
tuyên bố phạm tội (Điều 9). Trong Hiến pháp Mỹ, dù không trực tiếp đề cập
đến nhƣng có thể đƣợc suy ra từ các tu chính án 4, 5 và 14. Tuyên ngôn quốc
tế nhân quyền (1948) tại Điều 11 và ECHR tại khoản 2 Điều 6 cũng khẳng
định quyền này.
Điều 14/2 ICCPR đã ghi nhận quyền đƣợc suy đoán vô tội của bị can, bị
cáo, cạnh đó, Khoản 7 của Bình luận chung số 13 nhấn mạnh mối quan hệ của
quyền này với nghĩa vụ chứng minh của bên công tố, bên công tố có nghĩa vụ
chứng minh trong suốt quá trình xét xử. Quy định về suy đoán vô tội có quan
hệ chặt chẽ với quy định về toà án không thiên vị. Các cơ quan tiến hành tố
tụng, các thẩm phán, công tố viên có nghĩa vụ không đƣợc có định kiến trƣớc
về kết quả của việc xét xử. Cụ thể, việc tiến hành phiên toà phải đƣợc dựa trên
việc giả định/suy đoán là vôi tội. Liên quan đến suy đoán vô tội, các yếu tố có
thể tạo nên định kiến cũng cần phải tránh nhƣ việc yêu cầu bị can, bị cáo đeo
còng tay, mặc đồng phục trại giam hoặc buộc phải cạo trọc đầu.
- Quyền bào chữa
Quyền bào chữa có vai trò đặc biệt là quyền bảo vệ các quyền khác.
Điều 14/3 ICCPR khẳng định trong quá trình xét xử hình sự, mọi ngƣời phải
đƣợc các bảo đảm tối thiểu liên quan đến quyền bào chữa. Các quyền đó bao
gồm quyền đƣợc biết lý do buộc tội, quyền bào chữa, đƣợc trợ giúp pháp lý,
đƣợc xét xử nhanh chóng, đƣợc đối chất với ngƣời làm chứng...
Trƣớc hết, để có thể thực hiện việc bào chữa, ngƣời bị buộc tội phải
43. 35
đƣợc thông báo về lý do buộc tội (Điều 14/3/a). Nguyên tắc 10 trong Các
nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới bất kỳ hình
thức nào (1988) cũng nhấn mạnh quyền đƣợc thông báo này của ngƣời bị bắt
giữ [6, tr.152]. Bên cạnh quyền có đủ thời gian để chuẩn bị cho việc bào chữa
(Điều 14/3/b), bị cáo lại có quyền đƣợc xét xử nhanh chóng (Điều 14/3/c).
Quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và
quyền nhờ luật sƣ. Điều 14/3/d ghi nhận cả hai quyền này của bị cáo. Khắp
nơi trên thế giới, luật sƣ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm
quyền bào chữa của ngƣời bị buộc tội. Nguyên tắc 10 trong Các nguyên tắc về
bảo vệ tất cả những người bị giam giữ hay tù dưới bất kỳ hình thức nào cũng
khẳng định quyền của bị can, bị cáo đƣợc liên lạc, tham khảo ý kiến với luật
sƣ, việc tiếp xúc với luật sƣ phải ngoài tầm nghe của quan chức thi hành pháp
luật [6, tr.156]. Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư (1990) cũng đặc
biệt chú ý đến vai trò của luật sƣ trong tƣ pháp hình sự. Theo đó, các chính
phủ có nghĩa vụ bảo đảm cho ngƣời bị bắt nhanh chóng, trong mọi trƣờng
hợp không quá 48 giờ, tiếp xúc với luật sƣ [6, tr.105]. Bên cạnh quyền nhờ
luật sƣ, cá nhân còn có quyền đƣợc có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu và
nói đƣợc ngôn ngữ sử dụng tại phiên toà (Điều 14/3/f).
Để bảo đảm quyền bào chữa còn có các quy định liên quan đến chứng
minh, ngƣời làm chứng. Cá nhân có quyền thẩm vấn và yêu cầu thẩm vấn
những nhân chứng buộc tội mình, đƣợc mời ngƣời làm chứng gỡ tội cho mình
tới phiên toà (Điều 14/3/e). Về nghĩa vụ chứng minh, bị can, bị cáo không phải
đƣa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội (Điều
14/3/g) và nghĩa vụ chứng minh trong vụ án hình sự thuộc về phía công tố.
- Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên
Do đặc điểm của ngƣời chƣa thành niên có nhiều hạn chế về thể chất,
tâm sinh lý, cộng đồng quốc tế đã giành nhiều quan tâm để bảo vệ ngƣời chƣa
44. 36
thành niên về mặt pháp lý. Điều 14/4 ICCPR quy định thủ tục áp dụng đối với
ngƣời chƣa thành niên phải xem xét đến độ tuổi và khuyến khích sự phục hồi
của trẻ. Công ước về quyền trẻ em (1989) tại Điều 40/2/b cũng đã khẳng định
các quyền của trẻ em đƣợc các đảm bảo khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành
niên (Quy tắc Bắc Kinh 1985) đã dành rất nhiều ƣu đãi đặc biệt cho ngƣời
chƣa thanh niên. Ngoài ra Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa
thành niên bị tước quyền tự do (1990), bên cạnh việc quy định rất nhiều bảo
đảm đối với ngƣời chƣa thành niên, cũng nhấn mạnh quyền có luật sƣ bào
chữa và đƣợc yêu cầu trợ giúp pháp lý không phải trả tiền trong giai đoạn chờ
xét xử của họ (Khoản 18, phần III) [8, tr.272, 273].
Nhìn chung, hệ thống quy phạm pháp luật quốc tế bảo vệ quyền của ngƣời
chƣa thành niên trong lĩnh vực tƣ pháp hình sự tƣơng đối đầy đủ. Tuy nhiên, sự
cam kết tuân thủ của các quốc gia có nhiều mức độ tích cực khác nhau.
- Quyền kháng cáo
Điều 14/5 ICCPR quy định quyền kháng cáo quyền đƣợc xét xử phúc
thẩm. Ngƣời nào bị kết án đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét
lại bản án và hình phạt đối với họ mà toà án cấp dƣới đã tuyên. Quyền này
nhằm hạn chế những sai lầm của các cơ quan tiên hành tố tụng cấp dƣới có
thể gây thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của các đƣơng sự. Trong Khoản 7
của Bình luận chung số 13 về quyền kháng cáo đã nhấn mạnh rằng, trong các
vụ án hình sự, quyền này không chỉ áp dụng đối với những tội phạm nghiêm
trọng mà áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm.
- Một số quyền khác
Điều 14 ICCPR còn quy định về quyền đƣợc bồi thƣờng khi bị kết án oan,
quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh. Khi một cá nhân bị kết tội,
kèm theo đó bị tuyên một hình phạt, nhân phẩm và danh dự của họ đã bị ảnh
45. 37
hƣởng. Điều 14/6 ICCPR quy định quyền đƣợc yêu cầu bồi thƣờng khi bị kết án
oan. Điều luật quy định cụ thể nếu bản án có hiệu lực chung thẩm bị huỷ bỏ hoặc
tuyên vô tội trên cơ sở tình tiết mới cho thấy việc xét xử là oan, ngƣời bị kết án
oan có quyền yêu cầu bồi thƣờng. Điều 14/7 ICCPR còn quy định quyền không
bị xét xử hay phải chịu hình phạt hai lần về cùng một tội danh.
Trong ICCPR, ngoài các nội dung quy định tại Điều 14 nêu trên, các
nội dung quy định trong Điều 11 về không bị truy cứu hình sự vì lý do không
thực hiện đƣợc nghĩa vụ hợp đồng và Điều 15 về không bị coi là có tội nếu
hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện
hành vi, không áp dụng hồi tố cũng đƣợc nghiên cứu khi đề cập đến quyền
đƣợc xét xử công bằng.
Trên đây là những nội dung cơ bản của các quy phạm pháp luật quốc tế
về quyền đƣợc xét xử công bằng. Mức độ tuân thủ của các quốc gia, trên khía
cạnh pháp luật thực định và thực tiễn thi hành pháp luật, lại là một vấn đề lớn
và phức tạp hơn nhiều.
1.3.2. Cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời trong hoạt động xét xử
Cơ chế bảo đảm quyền của ngƣời bị tƣớc tự do theo luật nhân quyền
quốc tế, bao gồm:
1.3.2.1. Cơ chế quốc tế
Dựa trên vị thế pháp lý và chức năng, nhiệm vụ, các cơ quan nhân
quyền Liên hợp quốc đƣợc chia làm hai dạng là cơ chế dựa trên Hiến chƣơng
và cơ chế dựa trên Công ƣớc. Cụ thể:
a. Cơ chế dựa trên Hiến chương
Là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức và thủ tục hoạt động của các cơ quan
chính của Liên hợp quốc trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền nói chung,
quyền của ngƣời bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử nói riêng. Dựa
trên Hiến chƣơng, Liên hợp quốc thành lập 6 cơ quan chính, trong đó, hiện