SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
.............../ ............... ......../ ........
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN THỊ KIM LOAN
QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
VỀ THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS – TS LÊ THỊ HƢƠNG
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên
cứu. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Nguyễn Thị Kim Loan
Lời Câm Ơn
Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời
câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc
gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS .
TS. Lê Thị Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc
định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu. Cô
luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn
thành luận văn này.
Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm
giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để
giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Trån trọng!
Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Kim Loan
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ...............6
1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự..............................6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự.................6
1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự..................................12
1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các
vụ án hình sự.........................................................................................................13
1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự..............................................................................................13
1.2.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự ........................................................................................18
1.2.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự ........................................................................................19
1.2.4. Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự ........................................................................................21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .............................................26
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự ...............................................................26
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự .......................................................................30
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN
THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC
TRẠNG THỰC HIỆN TẠI TỈNH PHÚ YÊN.................................................................35
2.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................35
2.1.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi năm 2001)..................................................................................35
2.1.2. Quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự theo Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện
hành ..................................................................................................................41
2.2. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ...................................57
2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .......................................57
2.2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú
Yên....................................................................................................................63
Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN...........................................................................................69
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự...........................................................69
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ......................69
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và
cải cách tư pháp ...............................................................................................71
3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ............................72
3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................73
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................73
3.2.2. Quy định chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức
trong việc bảo vệ các quyền con người trong điều tra vụ án hình sự..............80
3.2.3. Bảo đảm thực hiện dân chủ, cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các vụ
án hình sự, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng...............83
3.2.4. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong hoạt động tố tụng.....85
3.2.5. Xử lý vi phạm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự................86
KẾT LUẬN.............................................................................................................................89
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................91
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
- BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
- XHCN: Xã hội chủ nghĩa
- TTHS: Tố tụng hình sự
- VAHS: Vụ án hình sự
- VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Quyền con người là một phạm trù chính trị - xã hội – lịch sử, phản ánh
nhu cầu, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn mực
khách quan được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định của pháp
luật.
Hiến pháp năm 2013, với rất nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng ở
Chương II, thể hiện rõ sự thay đổi trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị ở
Việt Nam.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản
của con người, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc
năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Covenant on Civil and
Political Rights - ICCPR) và được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự
kiện gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày
24/9/1982.
Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung chung, đồng nhất
quyền con người và quyền công dân thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo
hướng: quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự nhiên, quyền bẩm
sinh của con người, đồng thời quy định rõ nội hàm và các yêu cầu của quyền
này. Việc Hiến định rõ ràng, cụ thể nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, nhằm ngăn chặn mọi hành vi tùy tiện xâm phạm về thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm con người, có cơ chế để bảo vệ tốt hơn quyền con người
nhất là trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Hoạt động điều tra là quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Hoạt động điều tra các
2
vụ án hình sự giúp tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công
dân, cùng với các hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
Bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một bộ phận của bảo đảm
quyền con người nói chung được ghi nhận trong các đạo luật của hệ thống
pháp luật Việt Nam. Bảo vệ quyền con người là Nhà nước bằng sức mạnh và
ý chí của mình để các quyền con người không bị xâm phạm và được thực thi
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội.
Để quá trình điều tra vụ án hình sự thật sự khách quan, toàn diện, đầy
đủ thì việc đảm bảo quyền con người nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân
thể là một yêu cầu quan trọng, tất yếu.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền bất khả xâm phạm
về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự - Từ thực tiễn tỉnh
Phú Yên” để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Luật Hiến pháp -
Luật hành chính của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người
được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau,
chẳng hạn:
Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình sau:
- Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã
hội của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích (1995).
- Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội của PGS.TS Chu Hồng Thanh (1997).
Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có một
số công trình như:
3
- Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2010);
- Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia (2011);
- Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của
Ngô Thị Thanh, (2013), Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học quốc
gia Hà Nội;
- Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong
tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của Lại Văn Trình (2011)
Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Dưới góc độ nghiên cứu về Luật Hiến pháp có:
- Nguyên tắc hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, Luận văn thạc sĩ của Lưu Đức Quang (2016), Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh;
- Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân của tác
giả Lưu Đức Quang (2016), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người
trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Nguyễn Văn Mạnh (1995), Luận
án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
- Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam,
Tường Duy Kiên (2004), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh…
Ngoài ra, vấn đề này còn được đề cập trong nhiều tạp chí pháp luật, tạp
chí nhân quyền và các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Trong các công trình
nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các vấn đề về
bảo đảm quyền con người nói chung chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu một cách cụ thể về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
4
động điều tra các vụ án hình sự. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có
tính hệ thống và đi vào chuyên sâu so sánh các biện pháp bảo vệ quyền bất
khả xâm phạm về thân thể qua các bản Hiến pháp Việt Nam các thời kỳ, các
quy định về hoạt động điều tra các vụ án hình sự và đưa ra nhận định, đánh
giá về các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận văn là xây dựng luận cứ khoa học cho các
giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự tại trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm về thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trên cơ sở là một quyền của con
người.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi các quy định Hiến pháp và các
quy định pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân
thể theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự.
5
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: nghiên cứu tại tỉnh Phú Yên.
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau:
- Góp phần làm rõ hơn căn cứ lý luận và thực tiễn về quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
- Đề xuất và đưa ra những quan điểm, giải pháp hoàn thiện quyền bất
khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
- Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự và thực trạng thực hiện tại tỉnh Phú Yên
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên
6
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ
XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là
hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận
và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị,
chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội
phạm ở từng nước.
Trong khoa học pháp lý Việt Nam tồn tại các quan điểm khác nhau về
hoạt động điều tra: Từ điển Luật học giải thích rằng: “Điều tra là công tác
trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[ 36].
Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng
thống nhất giải thích: “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình
sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự
quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm
sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc
xét xử của Tòa án”[3]; hoặc, “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng
hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ
luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[7];
hoặc “Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố
tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi
phối cả tiến trình tố tụng” [18].
7
Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động
của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng
điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do
một cơ quan điều tra thực hiện. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ
ràng giữa chức năng của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất
giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt
động tố tụng trong giai đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang
tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được
tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử
vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan
của vụ án.
Thực chất, các định nghĩa trên là định nghĩa về hoạt động điều tra của
cơ quan điều tra nên nó thiếu tính toàn diện, chưa nói lên được tính bản chất
và nội hàm của loại hoạt động này. Quan điểm này chỉ thừa nhận cơ quan
điều tra là chủ thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động
điều tra. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự (BLTTHS) về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. Khoản 1, Điều
65, BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm
quyền thực hiện các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và
Tòa án. Ba cơ quan này được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã được
quy định trong BLTTHS. Theo Điều 88 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền
thu thập chứng cứ là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan tiến
hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có quyền tiến hành hoạt
động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này. Theo tinh thần của
điều luật nêu trên bình đẳng về thẩm quyền được tiến hành tất cả các hoạt
8
động điều tra. Thực hiện hoạt động điều tra chính vì vậy không phải là độc
quyền của cơ quan điều tra.
Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã
nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên cách hiểu thứ
hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều
tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát.
Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm
pháp lý về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi
các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các BLTTHS, chưa có điều luật nào
giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Một số giải thích không
chính thức như đã nói trên đây chưa đủ để có một nhận thức đúng về hoạt
động điều tra.
Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp
luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực
hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa
học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống
nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm
điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều
tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều
tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể,
phạm vi thời gian của hoạt động điều tra. Trong khoa học pháp lý Việt Nam
hoạt động điều tra chưa được tập trung sự chú ý nghiên cứu sâu sắc, mà còn
đang bỏ ngỏ nên có những cách hiểu, nhận thức khác nhau về hoạt động điều
tra là không thể tránh khỏi.
9
Theo tác giả Nguyễn Viết Hoạt: “Từ giác độ bản chất nhận thức của
hoạt động điều tra chúng ta có thể định nghĩa hoạt động điều tra là một sự
kết hợp các thao tác có tính chất tìm kiếm, nhận thức, xác nhận phù hợp với
đặc thù của các dấu vết tội phạm, phát hiện, thu giữ, củng cố một cách có
hiệu quả các thông tin có giá trị chứng minh trong các dấu vết đó theo quy
định của pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
nhằm mục đích thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự
kiện phạm tội” [11].
Theo Pháp lệnh số 23/2004/PL-UBNTQH11 về tổ chức điều tra hình sự
ngày 20/08/2004 quy định một số cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành một
số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội biên phòng, Cơ quan hải quan, Cơ
quan kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Cảnh sát nhân dân, An
ninh nhân dân và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân. Như vậy chủ thể
hoạt động điều tra ngoài điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán còn có các
chủ thể khác thuộc các cơ quan nêu trên.
Cách tiếp cận như vậy về hoạt động điều tra là cơ sở có thể cho phép
chúng ta làm rõ cơ cấu bên trong của hệ thống cấu thành của hoạt động điều
tra, phân loại hoạt động điều tra; phân biệt các hoạt động điều tra giống nhau
nhưng có mục đích rất khác nhau ví dụ như khám nghiệm, khám xét, khám
người; làm rõ hơn khả năng phục vụ hoạt động nhận thức của từng hoạt động
điều tra, cụ thể trên cơ sở xác định vị trí của nó trong hệ thống các hoạt động
điều tra và cho phép thực hiện việc lựa chọn đúng hoạt động điều tra cần thiết
trong thực tiễn.
Hoạt động điều tra là một công cụ, phương tiện khám phá tội phạm, có
bản chất và nội hàm của hoạt động nhận thức. Để nâng cao hiệu quả thực tiễn
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi chủ thể phải nhận thức
10
đúng bản chất, tuân thủ những quy luật hoạt động nhận thức trong việc áp
dụng các hoạt động điều tra trong thực tiễn.
Theo quan điểm của tác giả, hoạt động điều tra các vụ án hình sự là
các hoạt động trong tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền điều tra,
chứng minh tội phạm theo quy định của pháp luật thực hiện nhằm xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Từ khái niệm về hoạt động điều tra các vụ án hình sự nêu trên, có thể
rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của hoạt động điều tra như sau:
- Hoạt động điều tra các vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi nguy
hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm được thực hiện.
Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của tội phạm thì vụ án
phải được khởi tố để điều tra. Điều 13 BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi phát
hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng
các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm”.
- Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ
tục, thẩm quyền do pháp luật quy định.
Khi tiến hành các biện pháp điều tra phải có mặt của những người theo
luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt động điều tra (như khám nghiệm
hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại…).
Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện pháp và các thủ tục tố
tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải bí mật. Việc giữ
bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một nguyên tắc được luật định có ý
nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động điều tra, làm sáng
tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan nhằm
bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
11
dân. Vì vậy, hoạt động điều tra gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Hoạt
động điều tra là một loại hoạt động đặc thù của Nhà nước, thực hiện quyền
lực Nhà nước vì nó đụng chạm nhiều tới các quyền con người, quyền công
dân. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là vừa đấu tranh chống tội phạm vừa bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước ban hành nhiều quy
định pháp luật nhằm hạn chế và loại trừ những tiêu cực có thể xảy ra trong
quá trình điều tra, truy tố tội phạm. Đồng thời, để đạt được mục đích của hoạt
động điều tra, Nhà nước ban hành một số quy định hạn chế quyền con người
trong đó có các biện pháp tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể
của con người. Trong hoạt động điều tra các VAHS có thể áp dụng các biện
pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp cưỡng
chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể. Do đó,
thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người, quyền công dân.
- Trong quá trình điều tra vụ án các cơ quan có thẩm quyền điều tra
phải tuân thủ triệt để các quy định pháp luật, chỉ được áp dụng những biện
pháp, những phương tiện theo quy định của pháp luật để làm rõ vụ án. Kết
quả tiến hành các hoạt động điều tra được phản ánh trong các văn bản tố
tụng có giá trị pháp lý.
Tùy theo đặc điểm của VAHS mà Cơ quan điều tra áp dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo, kịp thời các chiến thuật và phương tiện điều tra phù hợp
với các tình huống cụ thể. Đồng thời, trong quá trình điều tra cán bộ điều tra
trực tiếp áp dụng hoặc yêu cầu, đề nghị các lực lượng khác áp dụng các biện
pháp và phương tiện nghiệp vụ để nhanh chóng khám phá tội phạm.
Hoạt động điều tra là hoạt động chỉ được tiến hành bởi các cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật với trình tự, thủ tục chặt chẽ, bảo
đảm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo vệ lợi ích của Nhà
12
nước, quyền lợi hợp pháp của người dân đồng thời tôn trọng và bảo đảm
quyền con người của người tham gia tố tụng.
Ngoài ra, hoạt động điều tra có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền
quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bất khả
xâm phạm về thân thể… Do đó, hoạt động điều tra chịu sự kiểm tra, giám sát
chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra giám sát khác nhau. Cơ chế giám sát việc
thực hiện hoạt động điều tra ở nước ta được thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của
Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo hoạt
động điều tra được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm các quyền con
người trong quá trình điều tra. Sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm
sát trong hoạt động điều tra được thể hiện thông qua việc luật quy định các
nhiệm vụ, quyền hạn cho Viện kiểm sát để đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm
hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của cơ
quan điều tra, yêu cầu điều tra, quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn
chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan
điều tra…)
1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Hoạt động điều tra có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng hình
sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng đó là:
“Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.”
Hoạt động điều tra có vai trò trong chứng minh sự thật vụ án theo
yêu cầu pháp luật. Chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án mới có đủ căn
cứ để khẳng định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội, là cơ sở
để Tòa án quyết định áp dụng hình phạt. Tội phạm chỉ có thể được chứng
minh làm rõ bằng con đường chứng minh, bởi vì tội phạm xảy ra trong quá
khứ so với thời điểm tiến hành điều tra. Tội phạm là sự kiện vật chất, do đó
13
có thể được chứng minh bằng những tài liệu thực tế, đó là những chứng cứ
pháp lý.
Hoạt động điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách
quan của vụ án, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Kết quả xác minh
tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở
để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, quyết định việc khởi tố vụ án, khởi
tố bị can; quyết định hạn chế quyền con người, quyền công dân đối với người
phạm tội, thay đổi giai đoạn tố tụng hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác
động của kết quả điều tra không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ
mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của cơ quan điều
tra. Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự, như truy tố, xét xử oan người vô
tội, bỏ lọt tội phạm [19].
Ngoài ra, hoạt động điều tra tội phạm còn phục vụ nhiều yêu cầu
nghiệp vụ khác, tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công
dân, góp phần có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm
trong toàn xã hội.
1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự
Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của
tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và
phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm, hạnh
phúc của mọi con người [14, tr. 19].
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ
14
thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc
tế có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hiệp quốc về quyền con
người thường được các nhà nghiên cứu trích dẫn. Theo định nghĩa này, quyền
con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá
nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã hội cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự
nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân
nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các
quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế.
Ở Việt Nam, thuật ngữ quyền con người lần đầu tiên được hiến định
trong Hiến pháp năm 1992 “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn
trọng”. Từ quy định chung, cũng trong điều 50 đã cho thấy rằng quyền con
người sẽ “thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp
và luật”. Trên cơ sở đó, nhiều quy định của quyền công dân (thể hiện sự cụ
thể hóa quyền con người) được ban hành và chi tiết.
Theo quy định của Hiến pháp, quyền con người được gắn liền với
quyền công dân và không có sự tách biệt hoàn toàn. Quyền công dân là một
bộ phận của quyền con người được pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ.
Quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội nhất định được
pháp luật của quốc gia cụ thể ghi nhận. Quyền con người và quyền công dân
trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền của cá
nhân. Song, không thể đồng nhất hai khái niệm đó xét cả hai phương diện chủ
thể của quyền và khái niệm của quyền. Quyền con người là khái niệm rộng
hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế,
15
vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định. Một mặt,
quyền con người không lọai trừ khái niệm quyền công dân, bao hàm quyền
công dân như là một bộ phận của quyền con người. Ngược lại, quyền công
dân là khái niệm hẹp hơn. Trong ý nghĩa pháp lý, khái niệm quyền công dân
hẹp hơn chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, không bao quát hết các
quyền của cá nhân con người. Về phương diện chủ thể, quyền con người
ngoài những cá nhân được xác định là công dân, còn những người không phải
là công dân nước đó (người nước ngòai, người không có quốc tịch, người bị
pháp luật tước quyền công dân). Những người này tuy không được hưởng các
quyền công dân nhưng vẫn có các quyền về con người với tư cách là một thực
thể tự nhiên – xã hội.
Ngày nay, với sự phát triển của giá trị nhân đạo, cộng đồng quốc tế
ngày càng quan tâm và có ảnh hưởng nhiều hơn trên lĩnh vực quyền con
người, con người không chỉ tồn tại với tư cách là một thành viên công dân của
một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng đồng quốc tế. Có thể
nói, ở một mức độ nhất định thì trong mỗi nước, việc ghi nhận và bảo vệ
quyền công dân tức là đã ghi nhận và bảo vệ quyền con người nói chung được
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận [15, tr.58-64] [9, tr.25-35].
Hiến pháp năm 2013 ban hành đã quy định chi tiết hơn và làm rõ nội
dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội
trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ
sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 30 năm qua ở nước
ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Quyền con người và việc bảo đảm các quyền con người trong các lĩnh
vực pháp lý cụ thể được quy định phụ thuộc vào tính chất của từng ngành luật
và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực đó. Quyền con người trong tố tụng
16
hình sự Việt Nam là những quyền cơ bản thuộc về con người, được luật pháp
quốc tế ghi nhận và được thể hiện cụ thể trong các quy định của BLTTHS ở
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Tương ứng là nghĩa vụ của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, nghĩa vụ
của những người tham gia tố tụng khác phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh
và đầy đủ, tránh mọi sự xâm hại [10, tr.43].
Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được quy định trên cơ sở
cân nhắc rằng hoạt động tố tụng hình sự gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm
trọng nhất là tội phạm và chức năng của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp
thời và xử lý công minh người phạm tội; nhưng đồng thời hoạt động tố tụng hình
sự cũng liên quan rất nhiều tới các quyền cơ bản của con người. Quyền bất khả
xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản của con người trong hoạt
động tố tụng hình sự, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp
Quốc năm 1948, Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm
1966 và được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24-9-1982.
Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung chung, giới hạn trong phạm vi
quyền công dân trong khi Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng:
quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự nhiên, quyền bẩm sinh của
con người, đồng thời quy định rõ nội hàm và các yêu cầu của quyền này. Việc
Hiến định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là sự ghi nhận thành
quả đạt được trong việc phát triển, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đặt ra những
yêu cầu mới trong việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh và các văn kiện của Đảng đã khẳng định:
“Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm
lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người” [6, 34, tr.85] và quan tâm
17
hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực
hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền con
người cơ bản được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật
trong nước. Tại Điều 5 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948 có nêu rằng “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” và Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 nêu rõ “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp phẩm giá; không ai có thể bị sử
dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự
nguyện của người đó”.
Bên cạnh đó, vấn đề tra tấn còn được đề cập trong một số điều ước
quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước về chống tra tấn và các hình
thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm
1984 (Việt Nam gia nhập công ước này từ 28-11-2014).
Từ các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong các văn
bản pháp lý quốc tế, có thể hiểu: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự là quyền được pháp luật bảo hộ về tự do
thân thể, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức
đối xử nào khác xâm phạm trái pháp luật thân thể trong quá trình cơ quan có
thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản của
con người được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của
nước ta. Đặc biệt, trong tố tụng hình sự pháp luật cho phép trong những
trường hợp nhất định các biện pháp cưỡng chế hình sự nói chung, biện pháp
hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể có thể được áp dụng nhằm phát
18
hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, công minh tội phạm và người phạm tội thì
việc bảo đảm quyền này càng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
quyền con người.
1.2.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ
án hình sự là quyền tự nhiên của con người.
Dù là công dân Việt Nam hay bất cứ người phạm tội, người không có
quốc tịch hay người nước ngoài. Đây là quyền bẩm sinh, vốn có của con
người và được áp dụng bình đẳng, không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì
cho tất cả các chủ thể tham gia vào họat động điều tra các vụ án hình sự. Các
cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo quyền bất khả
xâm phạm về thân thể của các chủ thể có liên quan trong quá trình điều tra
các vụ án hình sự. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự là một trong những quyền con người được Hiến pháp
nước ta ghi nhận, bảo vệ và được cụ thể hóa trong các luật có liên quan nhất
là Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng
hình sự.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ
án hình sự có thể bị hạn chế trong một số trường hợp theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là hoạt động phát hiện và xử lý hành vi nguy hiểm cao
cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm nhằm bảo vệ trật tự pháp
luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, hoạt
động tố tụng gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Để đạt được mục đích
phát hiện, điều tra, xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội,
19
Nhà nước phải ban hành một số quy định hạn chế quyền con người của công
dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng trong một số trường hợp.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ
án hình sự xác định trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong việc
tôn trọng các quyền, nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân. Những
hành vi trái luật, bức cung, dùng nhục hình… đều là những hành động xâm
phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng và xâm phạm các
quyền dân chủ cơ bản của con người.
Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam đã thể hiện rõ được
những tư tưởng bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người. Nhà nước Việt Nam chủ trương bảo vệ quyền
con người, song cũng sẵn sàng nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật
nhằm đảm bảo môi trường lành mạnh cho toàn xã hội, vì lợi ích của mỗi
người dân.
1.2.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự
Trong xã hội văn minh, quyền con người và quyền công dân là
những giá trị thiêng liêng. Hiến pháp của nhiều quốc gia khẳng định
quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm như một nguyên tắc không chỉ
đối với quan hệ nhà nước – cá nhân mà còn là nền tảng sống còn của
chế độ dân chủ. Đối với Nhà nước pháp quyền, việc tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là phương tiện, vừa là
cứu cánh cho sự tồn tại và phát triển đất nước. Hiến pháp với tư cách là
đạo luật gốc của quốc gia, là một văn bản giới hạn chính quyền để bảo
vệ nhân quyền, bởi vậy, cần phải tuyên bố một cách công khai, minh
bạch và có thiện chí trách nhiệm của chính quyền đối với giá trị quyền
20
con người, quyền công dân như những giá trị trân quý nhất và là lẽ
sống duy nhất của chính mình [5, tr.39-47].
Quyền con người và bảo vệ quyền con người luôn là vấn đề quan tâm
hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong tố tụng hình sự, việc giải quyết vụ án
không thể tách rời việc bảo vệ quyền con người trong đó có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, nhất là trong điều tra các vụ án hình sự.
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân
thể nói riêng trong hoạt động điều tra là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả,
hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Đây
không chỉ là nội dung, bản chất mà còn là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta
luôn hướng tới khi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản, yêu cầu quan trọng
của tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự, nơi mà pháp luật cho phép trong
những trường hợp nhất định các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung, biện
pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể có thể được áp dụng nhằm
đạt được mục đích phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và
người phạm tội thì nguyên tắc này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo đảm quyền con người:
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là cơ sở quan trọng cho
việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người khi tham gia tố tụng
hình sự, thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự.
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cùng với
các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự góp phần làm cho quá trình tố
tụng trong thực tế được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ, đạt hiệu quả
cao, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện, định hướng cho việc xây dựng pháp luật tố
tụng hình sự.
21
- Trong quá trình điều tra, người tiến hành các hoạt động điều tra có
quyền thực hiện những hoạt động nhất định và nó có thể vượt quá giới hạn
cho phép, xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Do đó, quy định về
quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình
sự nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người từ các cơ quan, cán bộ nhà
nước trong hoạt động điều tra, giải quyết các vụ án hình sự. Qua đó, quy định
này giúp xác định trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động điều
tra có vi phạm quyền con người trong hoạt động điều tra.
Tóm lại, pháp luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc cụ
thể hóa các quy định của Hiến pháp về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về
thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Thúc đẩy và bảo vệ quyền
con người trong lĩnh vực tư pháp nói chung cũng như quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự có ý nghĩa quan
trọng trong bối cảnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam.
1.2.4. Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân đã được nêu ra
trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kì (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền Pháp (1789), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc và
Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Việt Nam. Xuất phát từ tầm quan trọng của
việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định
hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
22
phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp
luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân.
Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh:
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật
có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh
dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét
xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.
Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền
con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân
phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể được quy định tại Điều 20 của
Hiến pháp năm 2013:
- Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm.
- Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án
nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân
dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người
do luật định.
Khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận:
Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ,
23
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải
bị xử lý theo pháp luật
Trên cơ sở Hiến pháp, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 coi quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
là một trong những nguyên tắc cơ bản. Các quy định về bắt người, tạm giữ,
tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân.
Qua các quy định của pháp luật nêu trên có thể rút ra nội dung quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của con người nói chung và trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự nói riêng như sau:
Thứ nhất, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Nội dung này bao gồm các vấn đề cụ thể sau đây:
- Để tôn trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, Nhà
nước quy định chỉ trong trường hợp phạm tội quả tang thì công dân mới bị bắt.
Trong các trường hợp khác, nếu muốn bắt giữ một người chỉ khi có quyết định
của Tòa án hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Khi tiến hành bắt và giam giữ
một ai đó thì phải tuân theo những quy trình đã được pháp luật quy định, làm trái
hay thiếu sót một trình tự thì việc bắt và giam giữ người ấy sẽ là hành vi trái
pháp luật và nếu dẫn tới hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý về hình sự.
- Không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tra tấn, dùng bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể
của người khác dù người đó là công dân bình thường hay người phạm tội. Khi
một người bị bắt hay giam giữ thì quyền công dân hay các quyền cơ bản khác
của con người vẫn được pháp luật bảo vệ và yêu cầu các cá nhân, tổ chức
24
khác tôn trọng. Do đó mọi hình thức truy bức, nhục hình đối với người bị bắt,
giam giữ đều bị nghiêm cấm và nếu trong trường hợp dẫn tới hậu quả nghiêm
trọng thì người có hành vi đó có thể bị xử lý về hình sự để đảm bảo tính răn
đe của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, bất kỳ người nào, bao gồm cả
những người đang thi hành công vụ cũng không được truy bức, nhục hình với
những người đang bị tạm giam, tạm giữ, tù nhân. Mặt khác, việc tiến hành
khám người theo thủ tục tố tụng hình sự hay hành chính cũng phải tuân theo
quy định của pháp luật.
- Không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tự ý bắt và giam, giữ
người vì lý do không chính đáng hoặc do nghi ngờ không có căn cứ; việc, bắt,
giam, giữ người phải theo đúng quy định của pháp luật.
Pháp luật cũng quy định, mọi hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm
chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị
đe dọa đến tính mạng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp
dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa một bước đối với người làm chứng. Theo
đó, người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của mình khi tham gia tố tụng.
Thứ hai, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam trái pháp luật có quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi
phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.
Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ các
quyền con người là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm các quyền đó. Pháp luật Việt Nam đã quy định vấn đề bồi thường cho
25
những nạn nhân bị oan sai trong hoạt động tố tụng. Điều 72 Hiến pháp 1992
lần đầu tiên quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp
luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Quy định này tiếp tục được
khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013, theo
đó, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh
thần và phục hồi danh dự; đồng thời những người vi phạm pháp luật trong
việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại
cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. Vấn đề bồi thường oan sai trong
tố tụng hình sự cũng được đề cập trong Điều 24; Điều 29; Điều 30 BLTTHS
năm 2003; Điều 31 BLTTHS năm 2015 và Luật Trách nhiệm bồi
thường của nhà nước năm 2009.
Quy định về bồi thường thiệt hại thể hiện trách nhiệm của Nhà nước
(thông qua cơ quan tiến hành tố tụng) trước công dân trong trường hợp cơ
quan, người tiến hành tố tụng làm oan người không có tội hoặc gây thiệt hại
cho công dân. Quy định này không chỉ nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, mà
còn là biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng
hình sự, lĩnh vực mà quyền con người có nguy cơ bị xâm phạm rất cao.
Điều 29 BLTTHS quy định bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại
và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Điều luật khẳng định: người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi.
Đồng thời, điều luật cũng quy định cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng đã làm oan có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
26
quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn
cho cơ quan đã thực hiện việc bồi thường.
Điều 30 BLTTHS năm 2003 quy định bảo đảm quyền được bồi thường của
người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra.
Điều luật quy định: người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.
Đồng thời, điều luật cũng quy định trong các trường hợp đó, cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan
đã thực hiện việc bồi thường.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm:
- Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức;
- Xử phạt hành chính;
- Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại;
- Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm
trọng quyền con người được BLHS quy định là tội phạm.
Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm quyền con người đòi
hỏi một cơ chế tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các
vi phạm quyền con người được thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ
tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng tư pháp.
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Thứ nhất, yếu tố chính trị
Chính trị là một thành tố hết sức quan trọng của kiến trúc thượng tầng
xã hội. Về mặt bản chất, chính trị là hoạt động liên quan đến quyền lợi giai
27
cấp, đến chính quyền nhà nước. Vấn đề cơ bản nhất trong chính trị là chính
quyền, là thực hiện quyền lực nhà nước. Thể chế chính trị luôn giữ vai trò
định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động trong xã hội. Hệ thống pháp luật
được xây dựng trên nền tảng của hệ thống chính trị. Chính trị giữ vai trò chỉ
đạo đối với nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật.
Chính vì thế, yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Nó tác động
trực tiếp và mạnh mẽ đến xã hội trên nhiều phương diện. Trong lĩnh vực bảo
vệ quyền con người, chính trị có vai trò vô cùng to lớn. Với tư cách là sản
phẩm của lịch sử, con người luôn mang trong nó những đặc trưng, dấu ấn của
thời đại mà nó đang sống đồng thời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các thể chế
chính trị - xã hội nhất định.
Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và
bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người của Đảng
được thể hiện thông qua việc đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phát
triển đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu, động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở những chủ trương, định
hướng của Đảng, các chủ thể của hệ thống chính trị xây dựng các quy tắc, cơ
chế, chính sách để đảm bảo quyền con người trong đó có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể. Hệ thống chính trị (bao gồm Đảng, Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã
hội…) là những chủ thể thúc đẩy và đảm bảo quyền con người. Sự quan tâm
chú trọng của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển quyền con người, sự
phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhánh quyền lực nhà nước và sự đổi
mới hệ thống chính trị theo hướng dân chủ là yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo
vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự hiện nay.
28
Thứ hai, yếu tố kinh tế
Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac
– Lê nin, trong mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì điều kiện kinh tế, các
quan hệ kinh tế quyết định trực tiếp sự ra đời của pháp luật, đồng thời quyết
định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó. Các-Mác đã
viết: "Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những
điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều kiện
kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự
chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế".
Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở kinh tế và kiến
trúc thượng tầng, thường nhấn mạnh đến vai trò quyết định của yếu tố kinh tế,
của sản xuất vật chất đối với sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội. C.Mác đã phát hiện ra quy luật chung, cơ bản của lịch sử: Hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của mỗi
xã hội. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản
xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt nhau mà liên hệ
rất mật thiết, trong đó sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn
tại và phát triển của xã hội, của con người và xét đến cùng, quy định toàn bộ
sự vận động và biến đổi đời sống xã hội.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án
hình sự ở Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế phát
triển, nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng cũng là động lực rất quan
trọng thúc đẩy và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự.
Thứ ba, năng lực lập pháp, lập quy của các chủ thể xây dựng, ban hành
pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự
29
Hoạt động xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói
chung và các văn bản quy phạm liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về thân
thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian qua vẫn
còn có những hạn chế nhất định, nhiều văn bản chồng chéo nhau, có nội dung
trùng lặp, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau làm cho hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó, chất lượng của các văn bản quy
phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả. Trình độ lập
pháp, lập quy chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống
xã hội nên đã không tiên liệu, dự báo được hết những sự kiện, tình huống pháp
lý có thể xảy ra trong thực tế đời sống xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những
quy phạm pháp luật được ban hành không phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc
hậu so với đời sống xã hội, không phát huy được hết hiệu lực trong thực tế đời
sống. Vì vậy, năng lực lập pháp, lập quy của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động
xây dựng, ban hành pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự. Việc xây dựng, ban hành quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một quá trình
phức tạp, đòi hỏi sự tham gia xây dựng pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức và
cá nhân có thẩm quyền. Do đó, mức độ hoàn thiện của pháp luật, sự phù hợp
giữa pháp luật với yêu cầu của thực tiễn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của
các cơ quan, cá nhân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Năng lực lập
pháp, lập quy thể hiện ở việc nắm bắt những đòi hỏi của thực tiễn để xây dựng
và ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật về quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự phù hợp. Đồng
thời, thể chế hóa kịp thời những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
của Nhà nước về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự trong thời kỳ hội nhập.
30
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự
1.3.2.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật
Quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong
Hiến pháp, sự hoàn thiện của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và
pháp luật quy định về hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng là điều
kiện quan trọng, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm
về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Các quy định liên quan đến chế định bắt, tạm giữ, tạm giam, hỏi cung
bị can như quy định về căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, phê chuẩn,
đối tượng áp dụng, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự có ảnh
hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của những người tham gia tố
tụng được quy định một cách cụ thể, thống nhất, khoa học là cơ sở để việc
thực thi các biện pháp bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự.
Ngoài ra, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quyền con người,
quyền công dân cũng có ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Hệ thống pháp luật về quyền con
người, quyền công dân có vai trò quan trọng trong bảo đảm các quyền tự do,
dân chủ của nhân dân, bảo đảm công lý trong Nhà nước pháp quyền XHCN.
Nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
và hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48 -NQ/TW về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020. Đây là văn kiện chính trị pháp lý quan
trọng, xác định các quan điểm chỉ đạo, đề ra 6 định hướng lớn và 2 nhóm giải
pháp cơ bản cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ
31
chức thực thi pháp luật. Việc thực hiện Chiến lược đã tạo ra những chuyển
biến tích cực, thể hiện tư duy lập pháp mới trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Hệ
thống luật pháp rõ ràng, công khai, ổn định và công bằng, bảo vệ các quyền
cơ bản của con người.
1.3.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra và tổ chức, hoạt
động của cơ quan điều tra
Chất lượng đội ngũ những người làm công tác điều tra được coi là điều
kiện đủ, quyết định đến việc bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án
hình sự. Do vậy, những người làm công tác điều tra như Điều tra viên, Kiểm
sát viên phải đạt được trình độ chuyên môn cao, phải có tư chất, đạo đức nghề
nghiệp. Như vậy, cần phải đặt ra tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng hợp lý đáp
ứng nhiệm vụ điều tra; đồng thời phải thường xuyên nâng cao trình độ, chuyên
môn nghiệp vụ cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình
sự. Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách động viên những người
làm công tác điều tra các vụ án hình sự yên tâm công tác, trau đồi đạo đức nghề
nghiệp, giữ vững bản lĩnh chính trị…
Có thể nói, những người làm công tác điều tra trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Để việc
thực hiện nguyên tắc cấm bức cung, dùng nhục hình, xâm phạm quyền bất
khả xâm phạm về thân thể hiệu quả đòi hỏi các cán bộ tiến hành các hoạt
động điều tra phải nhận thức đúng về bức cung, dùng nhục hình, vì đây là
hành vi bị cấm, nếu có vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ hành vi có thể
bị xử lý kỷ luật hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều
373, Điều 274 Bộ luật hình sự năm 2015.
32
Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra quyết định
trực tiếp đến hoạt động bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án
hình sự. Cơ quan điều tra trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập,
củng cố và chứng minh các chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ
án hình sự, làm căn cứ cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Trong việc thực
hiện nhiệm vụ, cơ quan điều tra có thẩm quyền tiến hành các biện pháp nghiệp
vụ là áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như bắt, tạm giữ người có hành
vi vi phạm pháp luật hình sự, tam giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, khám người,
khám chỗ ở, tạm giữ đồ vật, kê biên tài sản, tiến hành các biện pháp hỏi cung bị
can. Các hoạt động trên đây liên quan, tác động trực tiếp đến quyền con người
của bị cáo, góp phần to lớn trong hoạt động bảo đảm quyền con người của bị
cáo trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Do
vậy, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng đổi mới tổ chức, kiện toàn, nâng cao
chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra, nâng cao trình độ, chuyên môn,
nghiệp vụ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức nhằm thực hiện tốt nhất
nhiệm vụ của người điều tra.
Suy cho cùng, hoạt động của các cơ quan điều tra là hoạt động bảo vệ
chế độ, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Do vậy, việc kiện toàn tổ
chức và hoạt động của các cơ quan điều tra là yêu cầu luôn được đặt ra để các
cơ quan này hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đảm bảo được
quyền con người, quyền công dân.
1.3.2.3. Cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối với việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến bảo đảm quyền con người trong
điều tra các vụ án hình sự phải được tiến hành thường xuyên nhằm bảo
đảm các chủ thể tiến hành điều tra thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ
được giao; hạn chế thấp những vi phạm pháp luật, không ngừng bảo đảm
33
hoạt động bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra các vụ án
hình sự. Ở nước ta hiện nay, các nhiều chủ thể có chức năng giám sát hoạt
động điều tra các vụ án hình sự. Đó là Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp còn bao gồm hoạt động giám sát của Chủ tịch nước, của các ban
chuyên trách của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, của các tổ
chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và phương tiện
truyền thông, công dân. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền con người trong điều
tra các vụ án hình sự đạt hiệu quả cao cần hoàn thiện cơ chế giám sát trong
đó quy định hình thức, phương pháp, trình tự, thủ tục giám sát phù hợp với
từng chủ thể; đặc biệt cần có những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng về
hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát đối với việc bảo đảm quyền con
người trong điều tra các vụ án hình sự.
1.3.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Trụ sở làm việc của cơ quan điều tra, các công cụ, phương tiện làm việc,
các trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, đến hoạt động bảo đảm quyền con
người trong điều tra các vụ án hình sự.
Do vậy, các cấp có thẩm quyền quan tâm đầu tư kinh phí, tăng cường
trang bị máy móc, phương tiện hiện đại; tiếp tục đầu tư xây dựng cơ bản, kinh
phí hoạt động của cơ quan điều tra , nhằm đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu của
cải cách tư pháp.
Các hoạt động tố tụng hình sự là quá trình chứng minh tội phạm và
người phạm tội. Do đó, việc rút ngắn tối đa các thời hạn tố tụng là biện pháp
tốt nhất để bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam và quyền
lợi hợp pháp của công dân. Điều này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng tuân
thủ triệt để các quy định về thời hạn tố tụng, trình tự thủ tục áp dụng các biện
34
pháp ngăn chặn… để hạn chế và loại bỏ những trường hợp xâm phạm quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong quá trình điều tra vụ án.
Hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Kết quả của hoạt động điều tra sẽ là
căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm. Do đó, để đảm bảo
tính có căn cứ, đúng pháp luật của các chứng cứ thu thập được trong quá trình
điều tra thì hoạt động điều tra phải được tiến hành theo đúng trình tự thủ tục
luật định để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xâm phạm
các quyền con người, quyền công dân.
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, quyền con người là thiêng liêng,
bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người là một trong
những đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Là Nhà nước của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam luôn
coi con người là vị trí trung tâm trong mọi chính sách kinh tế, xã hội và tạo
mọi điều kiện để con người phát triển.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền con
người cơ bản rất dễ bị xâm phạm trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Để công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả, các cơ quan tiến
hành tố tụng phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa một bên là đấu tranh, làm
sáng tỏ sự thật vụ án với một bên là các quyền con người, quyền công dân của
người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.
35
Chương 2:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN
THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TẠI TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự
2.1.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)
Chế định quyền con người, quyền công dân là một trong những nội
dung cơ bản, quan trọng nhất của các Hiến pháp hiện đại. Nhân quyền vừa là
động lực, vừa là mục tiêu của Hiến pháp, cho dù Hiến pháp được xây dựng
dưới chế độ chính trị khác nhau.
Việt Nam trải qua thời gian dài nằm dưới chế độ phong kiến rồi đến
chế độ thuộc địa của đế quốc thực dân. Để có thể giải quyết được vấn đề nhân
quyền và bảo đảm thực hiện nhân quyền, nước ta phải trải qua quá trình đấu
tranh giành độc lập dân tộc, đây là chìa khóa tiên quyết để xây dựng một nhà
nước dân chủ, đảm bảo, bảo vệ và thực hiện các quyền con người.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngay từ phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử
đầu tiên càng sớm càng tốt với mục đích để nhân dân thực hiện quyền tự do
chính trị của mình bầu ra Quốc hội và Quốc hội này có quyền thông qua Hiến
Pháp ghi nhận tự do và dân chủ cho nhân dân. Người nói: “Nước ta đã bị chế
độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên
nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân
chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”[16, tr. 356].
36
Trong quan niệm của Bác, quyền con người đã gắn liền với văn bản
Hiến pháp. Hiến pháp không chỉ là văn bản quy định việc tổ chức bộ máy nhà
nước mà còn là văn bản bảo đảm thực hiện nhân quyền. Trước khi quy định
quyền con người của người dân Việt Nam, việc quy định có tính chất ngăn
ngừa những bản tính xấu của con người có thể xảy ra khi nắm giữ quyền lực
nhà nước, các Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam đều quy định bản chất
quyền lực nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là
cơ sở đầu tiên, tính nhân bản của Hiến pháp Việt Nam.
Ngày 09-11-1946 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa được thông qua. Những tư tưởng cơ bản về quyền con người nói chung và
quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra được ghi nhận
từ rất sớm trong lịch sử lập hiến, lập pháp của nước ta. Tại Điều 11 Hiến pháp
1946 quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm
người công dân Việt Nam”. Điều 68 Hiến pháp năm 1946 quy định về cấm tra
tấn: “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân”.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng
trước pháp luật (Điều 7). Trong tư duy của Người, quan niệm về độc lập, tự do
của nhân dân và nhân quyền của mỗi cá nhân có sự gắn kết với nhau và điều rất
đặc trưng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đó là chủ quyền của dân tộc, tự do
của nhân dân, các quyền tự do dân chủ của cá nhân trong một nhà nước phải
được thể chế hóa bằng Hiến pháp. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nước
Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Lần đầu tiên, Điều 68 Hiến pháp năm 1946 đã quy định: “Cấm không
được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân”.
Trước khi có Hiến pháp năm 1946, Điều 19 Sắc lệnh số 40-SL ngày 29-
3-1946 của Nhà nước ta về đảm bảo quyền tự do cá nhân đã quy định:
37
“Những nhân viên sau này sẽ bị phạt từ 5 đến 10 năm tội đồ và 3.000 đồng
đến 10.000 đồng tiền phạt. Những người dùng lối tra tấn để lấy cung. Nếu lối
tra tấn làm chết người hay làm cho người thành tật thì kẻ phạm pháp còn có
thể bị truy tố về những tội đó nữa”. Sắc lệnh quy định ngoài trường hợp phạm
khinh tội hay trọng tội quả tang, việc bắt người phải có lệnh bằng văn bản của
Thẩm phán viên; việc giam cứu, gia hạn giam cứu người phạm tội do Tòa án
quyết định; quy định về thời hạn giam cứu… Đồng thời Sắc lệnh cũng quy
định trách nhiệm đối với cơ quan, cá nhân bắt, giam giữ người trái pháp luật
Việc bảo đảm quyền con người cũng được quy định tương đối cụ thể tại Sắc
lệnh số 13 ngày 24- 01-1946 tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán.
Ngày 20-5-1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc
lệnh số 103/SL-L-005 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm
phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không chỉ quy
định nguyên tắc chung, việc bắt người, tạm giữ, tạm giam, khám người, đồ
vật, nhà ở, thư tín mà còn quy định các thủ tục để tiến hành các hoạt động tố
tụng đó. Đặc biệt Luật còn quy định việc tạm giam phải do cơ quan tư pháp
(Tòa án) cấp tỉnh trở lên hoặc tòa án binh quyết định với thời hạn cụ thể.
Có thể thấy ngay từ bản Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã rất quan
tâm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong hoạt động
điều tra, giải quyết các vụ án hình sự. Điều này thể hiện tầm quan trọng của
quyền này trong việc bảo đảm xây dựng một chế độ dân chủ, do con người và vì
con người. Hiến định về quyền trên nguyên tắc các quyền con người là tự nhiên,
bẩm sinh và vốn có của mọi cá nhân không chỉ giúp đảm bảo nội dung hiến định
phản ánh đúng bản chất của các quyền con người mà còn nhằm phòng ngừa sự
tùy tiện của Nhà nước trong việc quy định, thu lại, xóa bỏ, giảm bớt hay đặt ra
những điều kiện không thích đáng đối với việc hưởng thụ các quyền con người
của công dân thông qua Hiến pháp và pháp luật. Đây là cách thức hiến định
38
quyền thể hiện rõ tính dân chủ, pháp quyền của một thể chế hoặc một nhà nước.
Cách thức này không chỉ được thực hiện trên thế giới mà trên thực tế đã được
thực hiện ở Việt Nam thông qua Hiến pháp năm 1946. Các quy định của chương
II Hiến pháp năm 1946 thể hiện rất rõ vị thế chủ quyền của người dân. Với Hiến
pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử, địa vị pháp lý của công dân được xác
lập gắn liền với việc đất nước độc lập. Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh khó khăn
nhưng Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận những giá trị quyền con người mà nhân
dân ta đã giành được.
Ngày 31-12-1959 Quốc hội thông qua Hiến pháp lần thứ hai của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định các
quyền liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự trong đó có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể.
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế thừa và phát
triển các quy định và nguyên tắc của Hiến pháp năm 1946 về quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Cả ba Hiến pháp đều dành một chương riêng quy định các quyền và
nghĩa vụ của công dân, và luôn đặt vào vị trí trang trọng chỉ sau các chương
về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng,
trước các chương quy định về các cơ quan Nhà nước.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân được quy định tại
Chương III Quyền lợi và các nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp năm
1959, Điều 27 ghi nhận: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu
không có sự quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện
kiểm sát nhân dân”.
Hiến pháp năm 1980 tại Chương V Quyền lợi và các nghĩa vụ cơ bản
của công dân, Điều 69 tiếp tục quy định về quyền bất khả xâm phạm thân thể
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án
Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án

More Related Content

What's hot

LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAYLuận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
Luận văn: Các biện pháp khuyến khích theo Luật Đầu tư, HAY
 
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
115+ Danh sách đề tài tiểu luận luật đất đai hay nhất, nên tham khảo
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt NamLuận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
Luận văn: Văn hóa pháp lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAYĐề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc UBND tỉnh Đăk Lăk, HAY
 
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOTLuận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
Luận văn: Quyền con người và giáo dục quyền con người, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAYLuận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về quyền sử dụng đất nông nghiệp, HAY
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOTLuận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
Luận văn: Luật La Mã trong xây dựng chế định vật quyền, HOT
 

Similar to Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án

VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTOnTimeVitThu
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....OnTimeVitThu
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 

Similar to Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án (20)

Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự doQuyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Quyền con người qua biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁTVAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777....
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chínhLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính
 
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOTĐề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
Đề tài: Pháp luật về giải quyết khiếu nại hành chính ở Phú Yên, HOT
 
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOTLuận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
Luận văn: Quyền công tố trong vụ án cố ý gây thương tích tại Quận 9
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOTQuyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
Quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdfdong92356
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiTruongThiDiemQuynhQP
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (20)

BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
TỔNG HỢP 30 ĐỀ THI CHỌN HSG CÁC TRƯỜNG THPT CHUYÊN VÙNG DUYÊN HẢI & ĐỒNG BẰNG...
 
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập  PLDC.pdf
200 câu hỏi trắc nghiệm ôn tập PLDC.pdf
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Luận văn: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong điều tra vụ án

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ .............../ ............... ......../ ........ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ KIM LOAN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM VỀ THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS – TS LÊ THỊ HƢƠNG THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh khách quan quá trình nghiên cứu. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Nguyễn Thị Kim Loan
  • 3. Lời Câm Ơn Với lòng kính trọng và sự tri ån såu sắc, trước tiên tôi xin gửi lời câm ơn chån thành đến quý Thæy, Cô Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian qua. Đặc biệt, tôi xin chån thành câm ơn Giâng viên PGS . TS. Lê Thị Hương đã hết lòng giúp đỡ, hướng dẫn tận tình từ lúc định hướng chọn đề tài cũng như quá trình hoàn thiện nghiên cứu. Cô luôn động viên và täo mọi điều kiện thuận lợi để giúp tôi có thể hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin câm ơn các bän bè, đồng nghiệp đã luôn quan tåm giúp đỡ, cung cçp rçt nhiều số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành nghiên cứu này. Trån trọng! Thừa Thiên Huế, tháng năm 2017 Học viên Nguyễn Thị Kim Loan
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn MỞ ĐẦU...................................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ...............6 1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự..............................6 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự.................6 1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự..................................12 1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.........................................................................................................13 1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự..............................................................................................13 1.2.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................18 1.2.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................19 1.2.4. Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ........................................................................................21 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .............................................26 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ...............................................................26 1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .......................................................................30 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TẠI TỈNH PHÚ YÊN.................................................................35
  • 5. 2.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................35 2.1.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001)..................................................................................35 2.1.2. Quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự theo Hiến pháp 2013 và các văn bản pháp luật hiện hành ..................................................................................................................41 2.2. Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên ...................................57 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .......................................57 2.2.2. Đánh giá thực trạng thực hiện các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên....................................................................................................................63 Chƣơng 3: CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN...........................................................................................69 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự...........................................................69 3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân ......................69 3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp ...............................................................................................71 3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế ............................72 3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................................................73 3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự .....................................................73
  • 6. 3.2.2. Quy định chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong việc bảo vệ các quyền con người trong điều tra vụ án hình sự..............80 3.2.3. Bảo đảm thực hiện dân chủ, cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng...............83 3.2.4. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong hoạt động tố tụng.....85 3.2.5. Xử lý vi phạm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự................86 KẾT LUẬN.............................................................................................................................89 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................91
  • 7. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự - XHCN: Xã hội chủ nghĩa - TTHS: Tố tụng hình sự - VAHS: Vụ án hình sự - VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Quyền con người là một phạm trù chính trị - xã hội – lịch sử, phản ánh nhu cầu, năng lực vốn có, chỉ có ở con người dưới hình thức các chuẩn mực khách quan được xã hội thừa nhận và bảo đảm bằng các quy định của pháp luật. Hiến pháp năm 2013, với rất nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng ở Chương II, thể hiện rõ sự thay đổi trong việc tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là các quyền dân sự, chính trị ở Việt Nam. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản của con người, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948 (Universal Declaration of Human Rights - UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights - ICCPR) và được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung chung, đồng nhất quyền con người và quyền công dân thì Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng: quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự nhiên, quyền bẩm sinh của con người, đồng thời quy định rõ nội hàm và các yêu cầu của quyền này. Việc Hiến định rõ ràng, cụ thể nguyên tắc này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhằm ngăn chặn mọi hành vi tùy tiện xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, có cơ chế để bảo vệ tốt hơn quyền con người nhất là trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Hoạt động điều tra là quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Hoạt động điều tra các
  • 9. 2 vụ án hình sự giúp tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, cùng với các hoạt động tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. Bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một bộ phận của bảo đảm quyền con người nói chung được ghi nhận trong các đạo luật của hệ thống pháp luật Việt Nam. Bảo vệ quyền con người là Nhà nước bằng sức mạnh và ý chí của mình để các quyền con người không bị xâm phạm và được thực thi trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế - xã hội. Để quá trình điều tra vụ án hình sự thật sự khách quan, toàn diện, đầy đủ thì việc đảm bảo quyền con người nhất là quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một yêu cầu quan trọng, tất yếu. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Luật Hiến pháp - Luật hành chính của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Trong khoa học pháp lý nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người được nhiều tác giả nghiên cứu trong các công trình với các góc độ khác nhau, chẳng hạn: Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình sau: - Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội của GS.TS Hoàng Văn Hảo và Phạm Khiêm Ích (1995). - Quyền con người và luật quốc tế về quyền con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội của PGS.TS Chu Hồng Thanh (1997). Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có một số công trình như:
  • 10. 3 - Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh (2010); - Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc Gia (2011); - Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Ngô Thị Thanh, (2013), Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội; - Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của Lại Văn Trình (2011) Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Dưới góc độ nghiên cứu về Luật Hiến pháp có: - Nguyên tắc hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Luận văn thạc sĩ của Lưu Đức Quang (2016), Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; - Nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người, quyền công dân của tác giả Lưu Đức Quang (2016), Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội; - Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Nguyễn Văn Mạnh (1995), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; - Đảm bảo quyền con người trong hoạt động của Quốc hội Việt Nam, Tường Duy Kiên (2004), Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh… Ngoài ra, vấn đề này còn được đề cập trong nhiều tạp chí pháp luật, tạp chí nhân quyền và các hội thảo khoa học trên toàn quốc. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các vấn đề về bảo đảm quyền con người nói chung chứ chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
  • 11. 4 động điều tra các vụ án hình sự. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có tính hệ thống và đi vào chuyên sâu so sánh các biện pháp bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể qua các bản Hiến pháp Việt Nam các thời kỳ, các quy định về hoạt động điều tra các vụ án hình sự và đưa ra nhận định, đánh giá về các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát của luận văn là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trên cơ sở là một quyền của con người. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực thi các quy định Hiến pháp và các quy định pháp luật có liên quan đến bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự tại tỉnh Phú Yên. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể theo Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật liên quan trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
  • 12. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: nghiên cứu tại tỉnh Phú Yên. - Về thời gian: Từ năm 2011 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn lấy lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, thống kê... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu đề tài có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau: - Góp phần làm rõ hơn căn cứ lý luận và thực tiễn về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. - Đề xuất và đưa ra những quan điểm, giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. - Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham khảo về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Chương 2: Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự và thực trạng thực hiện tại tỉnh Phú Yên Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên
  • 13. 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Nhận thức chung về hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động điều tra các vụ án hình sự Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chính sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội phạm ở từng nước. Trong khoa học pháp lý Việt Nam tồn tại các quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra: Từ điển Luật học giải thích rằng: “Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”[ 36]. Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, một nhóm tác giả cùng thống nhất giải thích: “Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án”[3]; hoặc, “Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người phạm tội”[7]; hoặc “Điều tra tội phạm là giai đoạn đầu, giữ vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự (TTHS). Giai đoạn này kéo dài, rất phức tạp và có ý nghĩa chi phối cả tiến trình tố tụng” [18].
  • 14. 7 Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động của cơ quan điều tra trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một cơ quan điều tra thực hiện. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm mọi hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Thực chất, các định nghĩa trên là định nghĩa về hoạt động điều tra của cơ quan điều tra nên nó thiếu tính toàn diện, chưa nói lên được tính bản chất và nội hàm của loại hoạt động này. Quan điểm này chỉ thừa nhận cơ quan điều tra là chủ thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động điều tra. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. Khoản 1, Điều 65, BLTTHS năm 2003 quy định thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ba cơ quan này được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã được quy định trong BLTTHS. Theo Điều 88 BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền thu thập chứng cứ là cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này. Theo tinh thần của điều luật nêu trên bình đẳng về thẩm quyền được tiến hành tất cả các hoạt
  • 15. 8 động điều tra. Thực hiện hoạt động điều tra chính vì vậy không phải là độc quyền của cơ quan điều tra. Cách hiểu thứ hai coi hoạt động điều tra là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Điểm khác biệt lớn nhất của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là đã nhìn nhận chủ thể của hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên cách hiểu thứ hai lại nhầm lẫn giữa các hoạt động của cơ quan điều tra với hoạt động điều tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của các cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Về mặt luật thực định, ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền. Trong tất cả các BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Một số giải thích không chính thức như đã nói trên đây chưa đủ để có một nhận thức đúng về hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vô tình đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra. Trong khoa học pháp lý Việt Nam hoạt động điều tra chưa được tập trung sự chú ý nghiên cứu sâu sắc, mà còn đang bỏ ngỏ nên có những cách hiểu, nhận thức khác nhau về hoạt động điều tra là không thể tránh khỏi.
  • 16. 9 Theo tác giả Nguyễn Viết Hoạt: “Từ giác độ bản chất nhận thức của hoạt động điều tra chúng ta có thể định nghĩa hoạt động điều tra là một sự kết hợp các thao tác có tính chất tìm kiếm, nhận thức, xác nhận phù hợp với đặc thù của các dấu vết tội phạm, phát hiện, thu giữ, củng cố một cách có hiệu quả các thông tin có giá trị chứng minh trong các dấu vết đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm mục đích thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội” [11]. Theo Pháp lệnh số 23/2004/PL-UBNTQH11 về tổ chức điều tra hình sự ngày 20/08/2004 quy định một số cơ quan khác có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội biên phòng, Cơ quan hải quan, Cơ quan kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân và các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân. Như vậy chủ thể hoạt động điều tra ngoài điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán còn có các chủ thể khác thuộc các cơ quan nêu trên. Cách tiếp cận như vậy về hoạt động điều tra là cơ sở có thể cho phép chúng ta làm rõ cơ cấu bên trong của hệ thống cấu thành của hoạt động điều tra, phân loại hoạt động điều tra; phân biệt các hoạt động điều tra giống nhau nhưng có mục đích rất khác nhau ví dụ như khám nghiệm, khám xét, khám người; làm rõ hơn khả năng phục vụ hoạt động nhận thức của từng hoạt động điều tra, cụ thể trên cơ sở xác định vị trí của nó trong hệ thống các hoạt động điều tra và cho phép thực hiện việc lựa chọn đúng hoạt động điều tra cần thiết trong thực tiễn. Hoạt động điều tra là một công cụ, phương tiện khám phá tội phạm, có bản chất và nội hàm của hoạt động nhận thức. Để nâng cao hiệu quả thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi chủ thể phải nhận thức
  • 17. 10 đúng bản chất, tuân thủ những quy luật hoạt động nhận thức trong việc áp dụng các hoạt động điều tra trong thực tiễn. Theo quan điểm của tác giả, hoạt động điều tra các vụ án hình sự là các hoạt động trong tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền điều tra, chứng minh tội phạm theo quy định của pháp luật thực hiện nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Từ khái niệm về hoạt động điều tra các vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của hoạt động điều tra như sau: - Hoạt động điều tra các vụ án hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm được thực hiện. Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu của tội phạm thì vụ án phải được khởi tố để điều tra. Điều 13 BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm”. - Hoạt động điều tra được tiến hành công khai theo các trình tự, thủ tục, thẩm quyền do pháp luật quy định. Khi tiến hành các biện pháp điều tra phải có mặt của những người theo luật định và họ phải ký vào biên bản hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại…). Tính công khai của hoạt động điều tra thể hiện ở biện pháp và các thủ tục tố tụng được tiến hành, còn nội dung, kết quả điều tra thì phải bí mật. Việc giữ bí mật điều tra là yêu cầu nghiệp vụ, một nguyên tắc được luật định có ý nghĩa quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động điều tra, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
  • 18. 11 dân. Vì vậy, hoạt động điều tra gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động điều tra là một loại hoạt động đặc thù của Nhà nước, thực hiện quyền lực Nhà nước vì nó đụng chạm nhiều tới các quyền con người, quyền công dân. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là vừa đấu tranh chống tội phạm vừa bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước ban hành nhiều quy định pháp luật nhằm hạn chế và loại trừ những tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình điều tra, truy tố tội phạm. Đồng thời, để đạt được mục đích của hoạt động điều tra, Nhà nước ban hành một số quy định hạn chế quyền con người trong đó có các biện pháp tác động đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người. Trong hoạt động điều tra các VAHS có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam và áp dụng các biện pháp cưỡng chế như khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể. Do đó, thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền con người, quyền công dân. - Trong quá trình điều tra vụ án các cơ quan có thẩm quyền điều tra phải tuân thủ triệt để các quy định pháp luật, chỉ được áp dụng những biện pháp, những phương tiện theo quy định của pháp luật để làm rõ vụ án. Kết quả tiến hành các hoạt động điều tra được phản ánh trong các văn bản tố tụng có giá trị pháp lý. Tùy theo đặc điểm của VAHS mà Cơ quan điều tra áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, kịp thời các chiến thuật và phương tiện điều tra phù hợp với các tình huống cụ thể. Đồng thời, trong quá trình điều tra cán bộ điều tra trực tiếp áp dụng hoặc yêu cầu, đề nghị các lực lượng khác áp dụng các biện pháp và phương tiện nghiệp vụ để nhanh chóng khám phá tội phạm. Hoạt động điều tra là hoạt động chỉ được tiến hành bởi các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật với trình tự, thủ tục chặt chẽ, bảo đảm giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, kịp thời, bảo vệ lợi ích của Nhà
  • 19. 12 nước, quyền lợi hợp pháp của người dân đồng thời tôn trọng và bảo đảm quyền con người của người tham gia tố tụng. Ngoài ra, hoạt động điều tra có ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền quan trọng nhất của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền bất khả xâm phạm về thân thể… Do đó, hoạt động điều tra chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ chế kiểm tra giám sát khác nhau. Cơ chế giám sát việc thực hiện hoạt động điều tra ở nước ta được thể hiện rõ nét nhất ở vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo hoạt động điều tra được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo đảm các quyền con người trong quá trình điều tra. Sự chế ước và kiểm sát chặt chẽ của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra được thể hiện thông qua việc luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn cho Viện kiểm sát để đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự có căn cứ và hợp pháp (xét phê chuẩn các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, yêu cầu điều tra, quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra…) 1.1.2. Vai trò của hoạt động điều tra các vụ án hình sự Hoạt động điều tra có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, phục vụ cho việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng đó là: “Phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.” Hoạt động điều tra có vai trò trong chứng minh sự thật vụ án theo yêu cầu pháp luật. Chỉ sau khi chứng minh sự thật của vụ án mới có đủ căn cứ để khẳng định một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội, là cơ sở để Tòa án quyết định áp dụng hình phạt. Tội phạm chỉ có thể được chứng minh làm rõ bằng con đường chứng minh, bởi vì tội phạm xảy ra trong quá khứ so với thời điểm tiến hành điều tra. Tội phạm là sự kiện vật chất, do đó
  • 20. 13 có thể được chứng minh bằng những tài liệu thực tế, đó là những chứng cứ pháp lý. Hoạt động điều tra có nhiệm vụ thu thập chứng cứ làm rõ sự thật khách quan của vụ án, kể cả chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Kết quả xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu là cơ sở để Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; quyết định hạn chế quyền con người, quyền công dân đối với người phạm tội, thay đổi giai đoạn tố tụng hoặc chấm dứt hoạt động tố tụng. Tác động của kết quả điều tra không chỉ giới hạn ở số lượng, chất lượng chứng cứ mà còn là nhận định, đánh giá tội phạm, áp dụng pháp luật của cơ quan điều tra. Những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động điều tra tất yếu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến việc giải quyết vụ án hình sự, như truy tố, xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm [19]. Ngoài ra, hoạt động điều tra tội phạm còn phục vụ nhiều yêu cầu nghiệp vụ khác, tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. 1.2. Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.2.1. Khái niệm quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm, hạnh phúc của mọi con người [14, tr. 19]. Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ
  • 21. 14 thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên hiệp quốc về quyền con người thường được các nhà nghiên cứu trích dẫn. Theo định nghĩa này, quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người. Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế. Ở Việt Nam, thuật ngữ quyền con người lần đầu tiên được hiến định trong Hiến pháp năm 1992 “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng”. Từ quy định chung, cũng trong điều 50 đã cho thấy rằng quyền con người sẽ “thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Trên cơ sở đó, nhiều quy định của quyền công dân (thể hiện sự cụ thể hóa quyền con người) được ban hành và chi tiết. Theo quy định của Hiến pháp, quyền con người được gắn liền với quyền công dân và không có sự tách biệt hoàn toàn. Quyền công dân là một bộ phận của quyền con người được pháp luật quốc gia ghi nhận và bảo vệ. Quyền công dân chính là quyền con người trong một xã hội nhất định được pháp luật của quốc gia cụ thể ghi nhận. Quyền con người và quyền công dân trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền của cá nhân. Song, không thể đồng nhất hai khái niệm đó xét cả hai phương diện chủ thể của quyền và khái niệm của quyền. Quyền con người là khái niệm rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế,
  • 22. 15 vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định. Một mặt, quyền con người không lọai trừ khái niệm quyền công dân, bao hàm quyền công dân như là một bộ phận của quyền con người. Ngược lại, quyền công dân là khái niệm hẹp hơn. Trong ý nghĩa pháp lý, khái niệm quyền công dân hẹp hơn chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, không bao quát hết các quyền của cá nhân con người. Về phương diện chủ thể, quyền con người ngoài những cá nhân được xác định là công dân, còn những người không phải là công dân nước đó (người nước ngòai, người không có quốc tịch, người bị pháp luật tước quyền công dân). Những người này tuy không được hưởng các quyền công dân nhưng vẫn có các quyền về con người với tư cách là một thực thể tự nhiên – xã hội. Ngày nay, với sự phát triển của giá trị nhân đạo, cộng đồng quốc tế ngày càng quan tâm và có ảnh hưởng nhiều hơn trên lĩnh vực quyền con người, con người không chỉ tồn tại với tư cách là một thành viên công dân của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng đồng quốc tế. Có thể nói, ở một mức độ nhất định thì trong mỗi nước, việc ghi nhận và bảo vệ quyền công dân tức là đã ghi nhận và bảo vệ quyền con người nói chung được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi nhận [15, tr.58-64] [9, tr.25-35]. Hiến pháp năm 2013 ban hành đã quy định chi tiết hơn và làm rõ nội dung quyền con người, quyền công dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; bổ sung một số quyền mới là kết quả của quá trình đổi mới 30 năm qua ở nước ta, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quyền con người và việc bảo đảm các quyền con người trong các lĩnh vực pháp lý cụ thể được quy định phụ thuộc vào tính chất của từng ngành luật và chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực đó. Quyền con người trong tố tụng
  • 23. 16 hình sự Việt Nam là những quyền cơ bản thuộc về con người, được luật pháp quốc tế ghi nhận và được thể hiện cụ thể trong các quy định của BLTTHS ở các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tương ứng là nghĩa vụ của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng khác phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ, tránh mọi sự xâm hại [10, tr.43]. Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được quy định trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động tố tụng hình sự gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng của Nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm tội; nhưng đồng thời hoạt động tố tụng hình sự cũng liên quan rất nhiều tới các quyền cơ bản của con người. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong các quyền cơ bản của con người trong hoạt động tố tụng hình sự, được ghi nhận tại Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948, Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị năm 1966 và được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 24-9-1982. Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định chung chung, giới hạn trong phạm vi quyền công dân trong khi Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng: quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền tự nhiên, quyền bẩm sinh của con người, đồng thời quy định rõ nội hàm và các yêu cầu của quyền này. Việc Hiến định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là sự ghi nhận thành quả đạt được trong việc phát triển, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đặt ra những yêu cầu mới trong việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cương lĩnh và các văn kiện của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người” [6, 34, tr.85] và quan tâm
  • 24. 17 hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền con người cơ bản được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế và pháp luật trong nước. Tại Điều 5 của Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 có nêu rằng “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” và Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 nêu rõ “Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp phẩm giá; không ai có thể bị sử dụng để làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó”. Bên cạnh đó, vấn đề tra tấn còn được đề cập trong một số điều ước quốc tế về quyền con người, đặc biệt là Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984 (Việt Nam gia nhập công ước này từ 28-11-2014). Từ các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong các văn bản pháp lý quốc tế, có thể hiểu: Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là quyền được pháp luật bảo hộ về tự do thân thể, không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm trái pháp luật thân thể trong quá trình cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản của con người được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nước ta. Đặc biệt, trong tố tụng hình sự pháp luật cho phép trong những trường hợp nhất định các biện pháp cưỡng chế hình sự nói chung, biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể có thể được áp dụng nhằm phát
  • 25. 18 hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, công minh tội phạm và người phạm tội thì việc bảo đảm quyền này càng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người. 1.2.2. Đặc điểm của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự - Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là quyền tự nhiên của con người. Dù là công dân Việt Nam hay bất cứ người phạm tội, người không có quốc tịch hay người nước ngoài. Đây là quyền bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng, không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì cho tất cả các chủ thể tham gia vào họat động điều tra các vụ án hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của các chủ thể có liên quan trong quá trình điều tra các vụ án hình sự. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một trong những quyền con người được Hiến pháp nước ta ghi nhận, bảo vệ và được cụ thể hóa trong các luật có liên quan nhất là Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng hình sự. - Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự có thể bị hạn chế trong một số trường hợp theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là hoạt động phát hiện và xử lý hành vi nguy hiểm cao cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là tội phạm nhằm bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, hoạt động tố tụng gắn liền chặt chẽ với quyền con người. Để đạt được mục đích phát hiện, điều tra, xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội,
  • 26. 19 Nhà nước phải ban hành một số quy định hạn chế quyền con người của công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng trong một số trường hợp. - Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự xác định trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng các quyền, nghĩa vụ cơ bản của con người và công dân. Những hành vi trái luật, bức cung, dùng nhục hình… đều là những hành động xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan tiến hành tố tụng và xâm phạm các quyền dân chủ cơ bản của con người. Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam đã thể hiện rõ được những tư tưởng bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Nhà nước Việt Nam chủ trương bảo vệ quyền con người, song cũng sẵn sàng nghiêm trị những hành vi vi phạm pháp luật nhằm đảm bảo môi trường lành mạnh cho toàn xã hội, vì lợi ích của mỗi người dân. 1.2.3. Ý nghĩa của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Trong xã hội văn minh, quyền con người và quyền công dân là những giá trị thiêng liêng. Hiến pháp của nhiều quốc gia khẳng định quyền bất khả xâm phạm về nhân phẩm như một nguyên tắc không chỉ đối với quan hệ nhà nước – cá nhân mà còn là nền tảng sống còn của chế độ dân chủ. Đối với Nhà nước pháp quyền, việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh cho sự tồn tại và phát triển đất nước. Hiến pháp với tư cách là đạo luật gốc của quốc gia, là một văn bản giới hạn chính quyền để bảo vệ nhân quyền, bởi vậy, cần phải tuyên bố một cách công khai, minh bạch và có thiện chí trách nhiệm của chính quyền đối với giá trị quyền
  • 27. 20 con người, quyền công dân như những giá trị trân quý nhất và là lẽ sống duy nhất của chính mình [5, tr.39-47]. Quyền con người và bảo vệ quyền con người luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong tố tụng hình sự, việc giải quyết vụ án không thể tách rời việc bảo vệ quyền con người trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhất là trong điều tra các vụ án hình sự. Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể nói riêng trong hoạt động điều tra là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Đây không chỉ là nội dung, bản chất mà còn là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới khi xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một trong những nguyên tắc cơ bản, yêu cầu quan trọng của tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự, nơi mà pháp luật cho phép trong những trường hợp nhất định các biện pháp cưỡng chế tố tụng nói chung, biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể có thể được áp dụng nhằm đạt được mục đích phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh tội phạm và người phạm tội thì nguyên tắc này lại càng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người: - Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con người khi tham gia tố tụng hình sự, thể hiện tính dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự. - Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân cùng với các nguyên tắc cơ bản khác của tố tụng hình sự góp phần làm cho quá trình tố tụng trong thực tế được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ, đạt hiệu quả cao, tạo cơ sở cho việc hoàn thiện, định hướng cho việc xây dựng pháp luật tố tụng hình sự.
  • 28. 21 - Trong quá trình điều tra, người tiến hành các hoạt động điều tra có quyền thực hiện những hoạt động nhất định và nó có thể vượt quá giới hạn cho phép, xâm phạm quyền con người, quyền công dân. Do đó, quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người từ các cơ quan, cán bộ nhà nước trong hoạt động điều tra, giải quyết các vụ án hình sự. Qua đó, quy định này giúp xác định trách nhiệm của người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra có vi phạm quyền con người trong hoạt động điều tra. Tóm lại, pháp luật tố tụng hình sự có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp nói chung cũng như quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. 1.2.4. Nội dung của quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân đã được nêu ra trong Tuyên ngôn độc lập Hoa Kì (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp (1789), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Việt Nam. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân Điều 71 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định: Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
  • 29. 22 phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi truy bức, nhục hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Điều 72 Hiến pháp 1992 cũng nhấn mạnh: Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh. Những quy định trên của Hiến pháp nhằm ngăn ngừa sự vi phạm quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự của công dân từ phía các cơ quan, cán bộ nhà nước. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể được quy định tại Điều 20 của Hiến pháp năm 2013: - Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. - Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do luật định. Khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ,
  • 30. 23 khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật Trên cơ sở Hiến pháp, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 coi quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân là một trong những nguyên tắc cơ bản. Các quy định về bắt người, tạm giữ, tạm giam là một trong các quy định nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Qua các quy định của pháp luật nêu trên có thể rút ra nội dung quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người nói chung và trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng như sau: Thứ nhất, mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Nội dung này bao gồm các vấn đề cụ thể sau đây: - Để tôn trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, Nhà nước quy định chỉ trong trường hợp phạm tội quả tang thì công dân mới bị bắt. Trong các trường hợp khác, nếu muốn bắt giữ một người chỉ khi có quyết định của Tòa án hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Khi tiến hành bắt và giam giữ một ai đó thì phải tuân theo những quy trình đã được pháp luật quy định, làm trái hay thiếu sót một trình tự thì việc bắt và giam giữ người ấy sẽ là hành vi trái pháp luật và nếu dẫn tới hậu quả nghiêm trọng có thể bị xử lý về hình sự. - Không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tra tấn, dùng bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm đến thân thể của người khác dù người đó là công dân bình thường hay người phạm tội. Khi một người bị bắt hay giam giữ thì quyền công dân hay các quyền cơ bản khác của con người vẫn được pháp luật bảo vệ và yêu cầu các cá nhân, tổ chức
  • 31. 24 khác tôn trọng. Do đó mọi hình thức truy bức, nhục hình đối với người bị bắt, giam giữ đều bị nghiêm cấm và nếu trong trường hợp dẫn tới hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi đó có thể bị xử lý về hình sự để đảm bảo tính răn đe của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, bất kỳ người nào, bao gồm cả những người đang thi hành công vụ cũng không được truy bức, nhục hình với những người đang bị tạm giam, tạm giữ, tù nhân. Mặt khác, việc tiến hành khám người theo thủ tục tố tụng hình sự hay hành chính cũng phải tuân theo quy định của pháp luật. - Không một ai, dù ở cương vị nào có quyền tự ý bắt và giam, giữ người vì lý do không chính đáng hoặc do nghi ngờ không có căn cứ; việc, bắt, giam, giữ người phải theo đúng quy định của pháp luật. Pháp luật cũng quy định, mọi hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đều bị xử lý theo pháp luật. Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa một bước đối với người làm chứng. Theo đó, người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng. Thứ hai, người bị bắt, tạm giữ, tạm giam trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quyền đó. Pháp luật Việt Nam đã quy định vấn đề bồi thường cho
  • 32. 25 những nạn nhân bị oan sai trong hoạt động tố tụng. Điều 72 Hiến pháp 1992 lần đầu tiên quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Quy định này tiếp tục được khẳng định và cụ thể hóa hơn trong khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013, theo đó, những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự; đồng thời những người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật. Vấn đề bồi thường oan sai trong tố tụng hình sự cũng được đề cập trong Điều 24; Điều 29; Điều 30 BLTTHS năm 2003; Điều 31 BLTTHS năm 2015 và Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước năm 2009. Quy định về bồi thường thiệt hại thể hiện trách nhiệm của Nhà nước (thông qua cơ quan tiến hành tố tụng) trước công dân trong trường hợp cơ quan, người tiến hành tố tụng làm oan người không có tội hoặc gây thiệt hại cho công dân. Quy định này không chỉ nâng cao trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự, mà còn là biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong tố tụng hình sự, lĩnh vực mà quyền con người có nguy cơ bị xâm phạm rất cao. Điều 29 BLTTHS quy định bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Điều luật khẳng định: người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Đồng thời, điều luật cũng quy định cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng đã làm oan có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
  • 33. 26 quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan đã thực hiện việc bồi thường. Điều 30 BLTTHS năm 2003 quy định bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra. Điều luật quy định: người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại. Đồng thời, điều luật cũng quy định trong các trường hợp đó, cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan đã thực hiện việc bồi thường. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm: - Xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức; - Xử phạt hành chính; - Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại; - Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền con người được BLHS quy định là tội phạm. Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm quyền con người đòi hỏi một cơ chế tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các vi phạm quyền con người được thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng tư pháp. 1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng và các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Thứ nhất, yếu tố chính trị Chính trị là một thành tố hết sức quan trọng của kiến trúc thượng tầng xã hội. Về mặt bản chất, chính trị là hoạt động liên quan đến quyền lợi giai
  • 34. 27 cấp, đến chính quyền nhà nước. Vấn đề cơ bản nhất trong chính trị là chính quyền, là thực hiện quyền lực nhà nước. Thể chế chính trị luôn giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động trong xã hội. Hệ thống pháp luật được xây dựng trên nền tảng của hệ thống chính trị. Chính trị giữ vai trò chỉ đạo đối với nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật. Chính vì thế, yếu tố chính trị có ảnh hưởng mạnh mẽ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Nó tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến xã hội trên nhiều phương diện. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, chính trị có vai trò vô cùng to lớn. Với tư cách là sản phẩm của lịch sử, con người luôn mang trong nó những đặc trưng, dấu ấn của thời đại mà nó đang sống đồng thời chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các thể chế chính trị - xã hội nhất định. Đảng cộng sản Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người của Đảng được thể hiện thông qua việc đề ra các chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước. Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng của Đảng, các chủ thể của hệ thống chính trị xây dựng các quy tắc, cơ chế, chính sách để đảm bảo quyền con người trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Hệ thống chính trị (bao gồm Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội…) là những chủ thể thúc đẩy và đảm bảo quyền con người. Sự quan tâm chú trọng của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển quyền con người, sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhánh quyền lực nhà nước và sự đổi mới hệ thống chính trị theo hướng dân chủ là yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự hiện nay.
  • 35. 28 Thứ hai, yếu tố kinh tế Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lê nin, trong mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì điều kiện kinh tế, các quan hệ kinh tế quyết định trực tiếp sự ra đời của pháp luật, đồng thời quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó. Các-Mác đã viết: "Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được. Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế". Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, thường nhấn mạnh đến vai trò quyết định của yếu tố kinh tế, của sản xuất vật chất đối với sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. C.Mác đã phát hiện ra quy luật chung, cơ bản của lịch sử: Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình này không tách biệt nhau mà liên hệ rất mật thiết, trong đó sản xuất vật chất, hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, của con người và xét đến cùng, quy định toàn bộ sự vận động và biến đổi đời sống xã hội. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay cũng không nằm ngoài quy luật đó. Kinh tế phát triển, nguồn thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng cũng là động lực rất quan trọng thúc đẩy và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Thứ ba, năng lực lập pháp, lập quy của các chủ thể xây dựng, ban hành pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
  • 36. 29 Hoạt động xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nói chung và các văn bản quy phạm liên quan đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian qua vẫn còn có những hạn chế nhất định, nhiều văn bản chồng chéo nhau, có nội dung trùng lặp, thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn nhau làm cho hiệu quả điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế rất nhiều. Bên cạnh đó, chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật chưa được cao, thiếu tính chặt chẽ và hiệu quả. Trình độ lập pháp, lập quy chưa theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng của thực tiễn đời sống xã hội nên đã không tiên liệu, dự báo được hết những sự kiện, tình huống pháp lý có thể xảy ra trong thực tế đời sống xã hội. Từ đó dẫn đến tình trạng có những quy phạm pháp luật được ban hành không phù hợp hoặc nhanh chóng trở nên lạc hậu so với đời sống xã hội, không phát huy được hết hiệu lực trong thực tế đời sống. Vì vậy, năng lực lập pháp, lập quy của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cũng là một trong những yếu tố có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động xây dựng, ban hành pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Việc xây dựng, ban hành quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia xây dựng pháp luật của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Do đó, mức độ hoàn thiện của pháp luật, sự phù hợp giữa pháp luật với yêu cầu của thực tiễn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của các cơ quan, cá nhân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật. Năng lực lập pháp, lập quy thể hiện ở việc nắm bắt những đòi hỏi của thực tiễn để xây dựng và ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung những văn bản pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự phù hợp. Đồng thời, thể chế hóa kịp thời những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong thời kỳ hội nhập.
  • 37. 30 1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự 1.3.2.1. Chất lượng của hệ thống pháp luật Quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong Hiến pháp, sự hoàn thiện của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung và pháp luật quy định về hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói riêng là điều kiện quan trọng, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Các quy định liên quan đến chế định bắt, tạm giữ, tạm giam, hỏi cung bị can như quy định về căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, phê chuẩn, đối tượng áp dụng, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự có ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể của những người tham gia tố tụng được quy định một cách cụ thể, thống nhất, khoa học là cơ sở để việc thực thi các biện pháp bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Ngoài ra, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân cũng có ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân có vai trò quan trọng trong bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, bảo đảm công lý trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48 -NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Đây là văn kiện chính trị pháp lý quan trọng, xác định các quan điểm chỉ đạo, đề ra 6 định hướng lớn và 2 nhóm giải pháp cơ bản cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ
  • 38. 31 chức thực thi pháp luật. Việc thực hiện Chiến lược đã tạo ra những chuyển biến tích cực, thể hiện tư duy lập pháp mới trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Hệ thống luật pháp rõ ràng, công khai, ổn định và công bằng, bảo vệ các quyền cơ bản của con người. 1.3.2.2. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra và tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra Chất lượng đội ngũ những người làm công tác điều tra được coi là điều kiện đủ, quyết định đến việc bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự. Do vậy, những người làm công tác điều tra như Điều tra viên, Kiểm sát viên phải đạt được trình độ chuyên môn cao, phải có tư chất, đạo đức nghề nghiệp. Như vậy, cần phải đặt ra tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng hợp lý đáp ứng nhiệm vụ điều tra; đồng thời phải thường xuyên nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách động viên những người làm công tác điều tra các vụ án hình sự yên tâm công tác, trau đồi đạo đức nghề nghiệp, giữ vững bản lĩnh chính trị… Có thể nói, những người làm công tác điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Để việc thực hiện nguyên tắc cấm bức cung, dùng nhục hình, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể hiệu quả đòi hỏi các cán bộ tiến hành các hoạt động điều tra phải nhận thức đúng về bức cung, dùng nhục hình, vì đây là hành vi bị cấm, nếu có vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ hành vi có thể bị xử lý kỷ luật hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 373, Điều 274 Bộ luật hình sự năm 2015.
  • 39. 32 Bên cạnh đó, chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra quyết định trực tiếp đến hoạt động bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự. Cơ quan điều tra trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra, thu thập, củng cố và chứng minh các chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự, làm căn cứ cho việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Trong việc thực hiện nhiệm vụ, cơ quan điều tra có thẩm quyền tiến hành các biện pháp nghiệp vụ là áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự như bắt, tạm giữ người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, tam giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, khám người, khám chỗ ở, tạm giữ đồ vật, kê biên tài sản, tiến hành các biện pháp hỏi cung bị can. Các hoạt động trên đây liên quan, tác động trực tiếp đến quyền con người của bị cáo, góp phần to lớn trong hoạt động bảo đảm quyền con người của bị cáo trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng đổi mới tổ chức, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan điều tra, nâng cao trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức nhằm thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của người điều tra. Suy cho cùng, hoạt động của các cơ quan điều tra là hoạt động bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý. Do vậy, việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra là yêu cầu luôn được đặt ra để các cơ quan này hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, đảm bảo được quyền con người, quyền công dân. 1.3.2.3. Cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự Hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ liên quan đến bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự phải được tiến hành thường xuyên nhằm bảo đảm các chủ thể tiến hành điều tra thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ được giao; hạn chế thấp những vi phạm pháp luật, không ngừng bảo đảm
  • 40. 33 hoạt động bảo đảm quyền con người trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Ở nước ta hiện nay, các nhiều chủ thể có chức năng giám sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Đó là Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp còn bao gồm hoạt động giám sát của Chủ tịch nước, của các ban chuyên trách của Đảng, của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên, của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và phương tiện truyền thông, công dân. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự đạt hiệu quả cao cần hoàn thiện cơ chế giám sát trong đó quy định hình thức, phương pháp, trình tự, thủ tục giám sát phù hợp với từng chủ thể; đặc biệt cần có những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng về hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát đối với việc bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự. 1.3.2.4. Cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ hoạt động điều tra các vụ án hình sự Trụ sở làm việc của cơ quan điều tra, các công cụ, phương tiện làm việc, các trang thiết bị phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, đến hoạt động bảo đảm quyền con người trong điều tra các vụ án hình sự. Do vậy, các cấp có thẩm quyền quan tâm đầu tư kinh phí, tăng cường trang bị máy móc, phương tiện hiện đại; tiếp tục đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí hoạt động của cơ quan điều tra , nhằm đảm bảo thực hiện tốt yêu cầu của cải cách tư pháp. Các hoạt động tố tụng hình sự là quá trình chứng minh tội phạm và người phạm tội. Do đó, việc rút ngắn tối đa các thời hạn tố tụng là biện pháp tốt nhất để bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam và quyền lợi hợp pháp của công dân. Điều này đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ triệt để các quy định về thời hạn tố tụng, trình tự thủ tục áp dụng các biện
  • 41. 34 pháp ngăn chặn… để hạn chế và loại bỏ những trường hợp xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong quá trình điều tra vụ án. Hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Kết quả của hoạt động điều tra sẽ là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý tội phạm. Do đó, để đảm bảo tính có căn cứ, đúng pháp luật của các chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra thì hoạt động điều tra phải được tiến hành theo đúng trình tự thủ tục luật định để không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xâm phạm các quyền con người, quyền công dân. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN, quyền con người là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo đảm quyền con người là một trong những đặc tính quan trọng của Nhà nước pháp quyền. Là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam luôn coi con người là vị trí trung tâm trong mọi chính sách kinh tế, xã hội và tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền con người cơ bản rất dễ bị xâm phạm trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Để công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa một bên là đấu tranh, làm sáng tỏ sự thật vụ án với một bên là các quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự.
  • 42. 35 Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TẠI TỈNH PHÚ YÊN 2.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự 2.1.1. Quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) Chế định quyền con người, quyền công dân là một trong những nội dung cơ bản, quan trọng nhất của các Hiến pháp hiện đại. Nhân quyền vừa là động lực, vừa là mục tiêu của Hiến pháp, cho dù Hiến pháp được xây dựng dưới chế độ chính trị khác nhau. Việt Nam trải qua thời gian dài nằm dưới chế độ phong kiến rồi đến chế độ thuộc địa của đế quốc thực dân. Để có thể giải quyết được vấn đề nhân quyền và bảo đảm thực hiện nhân quyền, nước ta phải trải qua quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, đây là chìa khóa tiên quyết để xây dựng một nhà nước dân chủ, đảm bảo, bảo vệ và thực hiện các quyền con người. Cách mạng tháng Tám thành công, ngay từ phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt với mục đích để nhân dân thực hiện quyền tự do chính trị của mình bầu ra Quốc hội và Quốc hội này có quyền thông qua Hiến Pháp ghi nhận tự do và dân chủ cho nhân dân. Người nói: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”[16, tr. 356].
  • 43. 36 Trong quan niệm của Bác, quyền con người đã gắn liền với văn bản Hiến pháp. Hiến pháp không chỉ là văn bản quy định việc tổ chức bộ máy nhà nước mà còn là văn bản bảo đảm thực hiện nhân quyền. Trước khi quy định quyền con người của người dân Việt Nam, việc quy định có tính chất ngăn ngừa những bản tính xấu của con người có thể xảy ra khi nắm giữ quyền lực nhà nước, các Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam đều quy định bản chất quyền lực nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đây là cơ sở đầu tiên, tính nhân bản của Hiến pháp Việt Nam. Ngày 09-11-1946 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thông qua. Những tư tưởng cơ bản về quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử lập hiến, lập pháp của nước ta. Tại Điều 11 Hiến pháp 1946 quy định: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam”. Điều 68 Hiến pháp năm 1946 quy định về cấm tra tấn: “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân”. Hiến pháp năm 1946 khẳng định tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 7). Trong tư duy của Người, quan niệm về độc lập, tự do của nhân dân và nhân quyền của mỗi cá nhân có sự gắn kết với nhau và điều rất đặc trưng trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đó là chủ quyền của dân tộc, tự do của nhân dân, các quyền tự do dân chủ của cá nhân trong một nhà nước phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp. Điều 1 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Lần đầu tiên, Điều 68 Hiến pháp năm 1946 đã quy định: “Cấm không được tra tấn, đánh đập, ngược đãi những bị cáo và tội nhân”. Trước khi có Hiến pháp năm 1946, Điều 19 Sắc lệnh số 40-SL ngày 29- 3-1946 của Nhà nước ta về đảm bảo quyền tự do cá nhân đã quy định:
  • 44. 37 “Những nhân viên sau này sẽ bị phạt từ 5 đến 10 năm tội đồ và 3.000 đồng đến 10.000 đồng tiền phạt. Những người dùng lối tra tấn để lấy cung. Nếu lối tra tấn làm chết người hay làm cho người thành tật thì kẻ phạm pháp còn có thể bị truy tố về những tội đó nữa”. Sắc lệnh quy định ngoài trường hợp phạm khinh tội hay trọng tội quả tang, việc bắt người phải có lệnh bằng văn bản của Thẩm phán viên; việc giam cứu, gia hạn giam cứu người phạm tội do Tòa án quyết định; quy định về thời hạn giam cứu… Đồng thời Sắc lệnh cũng quy định trách nhiệm đối với cơ quan, cá nhân bắt, giam giữ người trái pháp luật Việc bảo đảm quyền con người cũng được quy định tương đối cụ thể tại Sắc lệnh số 13 ngày 24- 01-1946 tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm phán. Ngày 20-5-1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 103/SL-L-005 bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Luật này không chỉ quy định nguyên tắc chung, việc bắt người, tạm giữ, tạm giam, khám người, đồ vật, nhà ở, thư tín mà còn quy định các thủ tục để tiến hành các hoạt động tố tụng đó. Đặc biệt Luật còn quy định việc tạm giam phải do cơ quan tư pháp (Tòa án) cấp tỉnh trở lên hoặc tòa án binh quyết định với thời hạn cụ thể. Có thể thấy ngay từ bản Hiến pháp năm 1946, Nhà nước ta đã rất quan tâm bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người trong hoạt động điều tra, giải quyết các vụ án hình sự. Điều này thể hiện tầm quan trọng của quyền này trong việc bảo đảm xây dựng một chế độ dân chủ, do con người và vì con người. Hiến định về quyền trên nguyên tắc các quyền con người là tự nhiên, bẩm sinh và vốn có của mọi cá nhân không chỉ giúp đảm bảo nội dung hiến định phản ánh đúng bản chất của các quyền con người mà còn nhằm phòng ngừa sự tùy tiện của Nhà nước trong việc quy định, thu lại, xóa bỏ, giảm bớt hay đặt ra những điều kiện không thích đáng đối với việc hưởng thụ các quyền con người của công dân thông qua Hiến pháp và pháp luật. Đây là cách thức hiến định
  • 45. 38 quyền thể hiện rõ tính dân chủ, pháp quyền của một thể chế hoặc một nhà nước. Cách thức này không chỉ được thực hiện trên thế giới mà trên thực tế đã được thực hiện ở Việt Nam thông qua Hiến pháp năm 1946. Các quy định của chương II Hiến pháp năm 1946 thể hiện rất rõ vị thế chủ quyền của người dân. Với Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử, địa vị pháp lý của công dân được xác lập gắn liền với việc đất nước độc lập. Mặc dù ra đời trong hoàn cảnh khó khăn nhưng Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận những giá trị quyền con người mà nhân dân ta đã giành được. Ngày 31-12-1959 Quốc hội thông qua Hiến pháp lần thứ hai của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định các quyền liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế thừa và phát triển các quy định và nguyên tắc của Hiến pháp năm 1946 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Cả ba Hiến pháp đều dành một chương riêng quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân, và luôn đặt vào vị trí trang trọng chỉ sau các chương về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng, trước các chương quy định về các cơ quan Nhà nước. Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân được quy định tại Chương III Quyền lợi và các nghĩa vụ cơ bản của công dân Hiến pháp năm 1959, Điều 27 ghi nhận: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm. Không ai có thể bị bắt nếu không có sự quyết định của Toà án nhân dân hoặc sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân”. Hiến pháp năm 1980 tại Chương V Quyền lợi và các nghĩa vụ cơ bản của công dân, Điều 69 tiếp tục quy định về quyền bất khả xâm phạm thân thể