SlideShare a Scribd company logo
1 of 118
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN MINH THANH
VAI TRß CñA TOµ ¸N TRONG THI HµNH ¸N H×NH Sù
§¸P øNG Y£U CÇU C¶I C¸CH T¦ PH¸P
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Minh Thanh
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
Chương 1: CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ......................8
1.1. Thi hành án hình sự.........................................................................8
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự ..........................8
1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần Cải
cách tư pháp.....................................................................................10
1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự................................ 13
1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự........................... 13
1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự.................................... 14
1.3. Cải cách tư pháp và yêu cầu nâng cao vai trò của toà án
trong thi hành án hình sự.............................................................. 51
1.3.1. Cải cách tư pháp .............................................................................. 51
1.3.2. Yêu cầu nâng cao vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự
theo tinh thần cải cách tư pháp......................................................... 57
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
VÀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH
SỰ TẠI THANH HOÁ TỪ 2009 – 2013 ............................................65
2.1. Thực trạng Thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá....... 65
2.1.1. Tình hình chung và các kết quả đạt được trong công tác Thi hành
án hình sự ........................................................................................65
2.1.2. Những hạn chế trong Thi hành án hình sự........................................70
2.1.3. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động Thi hành án hình sự.... 71
2.2. Thực trạng về vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự
tại Thanh Hoá ................................................................................73
2.2.1. Những hạn chế liên quan đến vai trò của Toà án trong Thi hành
án hình sự ........................................................................................73
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế về vai trò của Toà án trong Thi
hành án hình sự................................................................................85
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI
CÁCH TƯ PHÁP.................................................................................... 91
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .................................................... 91
3.1.1 Nhất thể hóa các quy định về thẩm quyền của Toà án trong Thi
hành án hình sự................................................................................91
3.1.2. Sửa đổi bổ sung các quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn ....... 93
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án ...................96
3.3. Giải pháp đổi mới hệ thống tổ chức Cơ quan Thi hành án hình sự .... 99
3.4. Giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí...................... 103
3.5. Giải pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về Thi
hành án hình sự tại cộng đồng .................................................... 104
KẾT LUẬN............................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 107
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TAND: Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
THAHS: Thi hành án hình sự
TTHS: Tố tụng hình sự
UBND: Ủy ban nhân dân
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5].
Phương hướng cải cách tư pháp đó là:
Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo
đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo
vệ quyền con người; Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định
bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và
điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án là trung
tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt
động bổ trợ tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư
pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao
quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn
về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh
nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện
chế độ thi tuyển đối với một số chức danh [5].
Thi hành án hình sự là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước ở giai
đoạn đặc biệt, nội dung là thi hành chính xác, kịp thời phán quyết của các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; Đánh giá và xem xét tính
2
khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội bằng việc thực hiện các
hoạt động như: xét giảm án, tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, miễn chấp
hành hình phạt, xoá án tích… cho người chấp hành án để người chấp hành án
có cơ hội khắc phục, sửa chữa lỗi lầm và tái hoà nhập cộng đồng, làm công
dân có ích cho xã hội ….
Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi
các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành
một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Do vậy, việc thi hành bản án
hình sự chiếm vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, đảm bảo nguyên tắc:
Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công
dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
chấp hành đó. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan
nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn tổ chức và công dân
phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án,
quyết định của Tòa án trong việc thi hành án [40].
Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, có trách
nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ
thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành. Mặt khác, thi hành
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chính là thể hiện
sự công bằng trong xã hội dựa trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền con
người - yếu tố nhân đạo của pháp luật Nhà nước, đảm bảo bất kì ai phạm tội
cũng đều bị phát hiện, xử lí nghiêm minh và phải chịu hình phạt tương xứng
với hành vi mà họ đã gây ra cho xã hội.
3
Việc tổ chức thi hành bản án của Toà án có tác dụng nhằm giáo dục, cải
tạo đối với người bị kết án, giúp họ nhận ra lầm lỗi và hướng thiện, góp phần
giáo dục ý thức tuân theo pháp luật. Toà án thông qua hoạt động thi hành án
hình sự để động viên người phạm tội tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh
phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Việc chấp hành nghiêm
chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn có ý nghĩa
quan trọng của việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
Thanh Hóa là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, về cả diện tích
và dân số (gần 3,5 triệu dân), với 27 đơn vị hành chính cấp huyện trong đó có
01 thành phố, 02 thị xã, gồm các huyện miền núi, đồng bằng, trung du và
vùng ven biển. Số lượng án hình sự thụ lý giải quyết hàng nghìn vụ mỗi năm,
số trại giam thuộc Bộ công an đóng trên địa bàn nhiều nhất cả nước (04 trại
với khoảng hơn 10.000 người bị kết án). Do vậy, tình hình tội phạm cũng có
nhiều phức tạp, mỗi năm có hàng nghìn bản án, quyết định hình sự được đưa
ra thi hành. Tuy nhiên, việc thi hành án hình sự tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa
đang phát sinh nhiều vấn đề, vẫn còn một số bản án chưa được đưa vào thi
hành một cách nghiêm túc, điều này ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tư
pháp và các cơ quan liên quan trong việc đưa bản án hình sự vào thi hành trên
thực tế. Việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tòa án trong thi hành án hình
sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” là hết sức cần thiết trong tình hình
hiện nay. Vì lí do đó, tác giả viết luận văn thạc sĩ đề tài này mong muốn xác
định vị trí, tầm quan trọng của lĩnh vực này trong các cơ quan Tòa án nhằm
có cái nhìn đúng đắn về vai trò của tòa án trong THAHS và hoàn thiện cho
phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, góp phần nhỏ bé của
mình vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự đất
nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng.
4
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
- Phân tích, khái quát các vấn đề pháp luật cũng như thực tiễn (thông
qua tình hình tỉnh Thanh Hóa) về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự
đặt trong bối cảnh của tiến trình cải cách tư pháp.
- Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của
Tòa án trong Thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện nay
2.2. Mục tiêu cụ thể
Hệ thống những vấn đề lý luận về cải cách tư pháp và những vấn đề
liên quan tới Tòa án và vai trò Tòa án trong lĩnh vực Thi hành án hình sự.
Phân tích, đánh giá quy định pháp luật và thực trạng về vai trò của Toà
án trong công tác thi hành án hình sự từ trước và sau khi Luật Thi hành án
hình sự ra đời, đặc biệt chú trọng nêu ra các hạn chế vướng mắc và giải pháp
kiến nghị bảo đảm vai trò của Toà án trong THAHS nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách
tư pháp là đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, có phạm vi nghiên cứu khá
rộng cả về không gian, thời gian và đối tượng nghiên cứu. Cải cách tư pháp là
lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cơ quan và mang tính bao
quát lớn và Thi hành án hình sự chỉ là một vấn đề trong hệ thống nhiều vấn đề
của cải cách tư pháp
Trong khuôn khổ của đề tài luận văn này, tác giả luận văn chỉ xác định
phạm vi của đề tài tập trung vào nghiên cứu về lĩnh vực Thi hành án hình sự
tại Toà án và phân tích những yếu tố liên quan, có ảnh hưởng và tác động đến
hoạt động thi hành án hình sự của Toà án. Qua đó giúp chúng ta thấy được vai
trò của Toà án và Toà án được nhìn nhận như thế nào trong hệ thống tư pháp
5
hình sự hiện nay. Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư
pháp đặt ra cho ngành Toà án, nhất là vấn đề liên quan đến công tác thi hành
án hình sự.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Sau khi nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị được
ban hành; Luật Thi hành án hình sự ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều địa
phương đã khẩn trương thành lập ban chỉ đạo cải cách tư pháp. Thực tế đã có
rất nhiều bài viết, nhiều nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án hình sự và bàn về
cải cách tư pháp, nhưng phân tích ở góc độ “vai trò của Toà án trong thi hành
án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp qua thực tiễn tại Thanh Hoá chưa
được bàn đến. Một số bài viết tiêu biểu như: “Độc lập tư pháp trong nhà nước
pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Toà án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp” -
Bài viết của Trương Hoà Bình đăng trên báo nhân dân điện tử; “Tính độc lập
của Toà án”, luận án tiến sĩ Luật học - Đại học Luật Hà Nội của Tô Văn Hà
năm 2007; “Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện” của Trương Hòa Bình, đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý tháng
6/2002 tại Hà Nội; “Cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước”, tham luận của
Phạm Duy Nghĩa, tại Hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của Toà
án tại việt Nam năm 2008 tại Hà Nội…
Đề tài khái quát tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, phân tích
những nội dung cơ bản của hoạt động thi hành án tại toà án nhân dân, xem xét
những điểm mới trong Luật thi hành án, phân tích tính ưu việt trong hệ thống
pháp luật Việt Nam và điểm chưa phù hợp về công tác thi hành án hiện nay,
góp phần giúp chúng ta nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí công tác này trong
hệ thống Toà án.
5. Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đang được Đảng và nhà
6
nước ta đặc biệt quan tâm và đã đề ra chiến lược cụ thể đến năm 2020, theo
đó, có nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách. Đây là một đề tài rộng,
bao gồm nhiều vấn đề có liên quan tới cả hệ thống Tòa án cũng như các cơ
quan liên quan như: Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố... Lĩnh vực thi hành án
cũng rất rộng lớn từ hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án
trong các cơ quan Tòa án đến việc đưa bản án hình sự vào thi hành; quá trình
chấp hành bản án hình sự của những người bị kết án tại các cơ sở thi hành án;
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức thi hành án; trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức đối với người chấp hành xong bản án v.v…
Do vậy, Tác giả đề tài chỉ đi vào nghiên cứu nó ở góc độ công tác thi hành
án hình sự mà phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung ở việc làm thế nào
để hoàn thiện công tác thi hành án trong hệ thống hoạt động tư pháp tại Tòa án
nhân dân (không phân tích, đề cập đến lĩnh vực thi hành án hình sự tại các Toà án
Quân sự mặc dù Toà án quân sự vẫn thuộc hệ thống toà án Việt Nam) từ việc bản
án, quyết định hình sự đã có hiệu lực được đưa ra thi hành. Những vấn đề khác có
liên quan đến thi hành án hình sự không được giải quyết trong luận văn này.
Từ đặc điểm tình hình dân cư cũng như tính chất phức tạp đã và đang
nảy sinh trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nên tác giả đề tài chọn Thanh Hóa là địa
điểm để nghiên cứu luận văn. Qua đó đánh giá nhìn nhận chung về thực tiễn
công tác thi hành án hình sự trên phạm vi toàn quốc. Thời gian và số liệu
nghiên cứu trong luận văn lấy từ các báo cáo của ngành Toà án Thanh Hoá
tính từ 01/01/2009 đến 30/12/2013.
6. Nội dung nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những
nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ một số nội dung cơ bản về thi hành án hình sự và các nguyên
tắc của hoạt động thi hành án hình sự.
- Phân tích thực trạng tình hình Thi hành bản án hình sự tại tỉnh Thanh
7
Hóa từ năm 2009 đến 2013, qua đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành bản án hình sự của Toà án theo tinh thần của cải cách tư pháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương
pháp tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành bản án
hình sự trong các công trình của một số nhà nghiên cứu khoa học.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo
của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, tổng kết công tác xét xử và công tác thi
hành án hình sự trong những năm (2009 - 2013), và thông tin trên mạng
Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh việc
thi hành bản án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cải cách tư pháp và việc nâng cao vai trò của Toà án trong
Thi hành án hình sự.
Chương 2: Thực trạng thi hành án hình sự và vai trò của Toà án trong
Thi hành án hình sự tại Thanh Hoá từ 2009 - 2013.
Chương 3: Giải pháp tăng cường vai trò của Toà án trong Thi hành án
hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.
8
Chương 1
CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN
TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
1.1. Thi hành án hình sự
1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm
Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về Thi
hành án hình sự, các quan điểm về thi hành án mới chỉ nêu ra ở dạng quan niệm,
đại ý khái quát. Do vậy, có thể nêu ra quan niệm về thi hành án hình sự đó là:
“Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực
hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn” [28].
Thi hành án hình sự là biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật đã bị bản án của Toà án tuyên có hiệu lực pháp luật.
Theo tôi, Thi hành án hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành án phải tuân thủ, chấp
hành hình phạt, biện pháp mà Toà án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra.
1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự.
Tòa án nhân danh nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng
mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm
do họ gây ra, bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý
được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ
nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, nhiệm vụ của giai đoạn này
nhằm mục đích cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng sống,
ký năng lao động… giúp người phải thi hành án trở thành một công dân tốt
cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung [2].
9
Sau chuỗi hoạt động tiền tố tụng đến hoạt động tố tụng (xét xử) tại
phiên toà, Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án,
thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của
cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một
bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc
thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà
nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án,
quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý
Nhà nước [2].
Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì, quyền tư pháp của Nhà nước chỉ
được thực hiện trọn vẹn, công lý được bảo vệ và thực thi, công bằng xã hội
được đảm bảo và khi phán quyết của toà phải được thực thi nhanh chóng, đầy
đủ, chính xác trên thực tế. Do đó, việc thi hành án của bất kỳ Toà án nào phải
được coi là một phần của công tác xét xử và là công đoạn cuối của việc thực
thi quyền lực tư pháp, hiện thực hoá công lý.
Mặc dù hiện nay, Toà án được đặt ở vị trí trung tâm nhưng những quy
định hiện hành lại không quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền và chịu
trách nhiệm cuối cùng về hiệu quả của cả hệ thống tư pháp.
Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành
án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành
xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Trong quá trình chấp hành
án, họ được tổ chức cho học nghề tại các trại giam, trung tâm dạy nghề và sau
khi chấp hành án xong họ đã tự tìm cho mình một công việc ổn định, tái hoà
nhập công đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Thi hành án hình sự có
10
những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết
định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành án
cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định.
Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự là yêu cầu
khách quan nhằm tạo lập một cơ chế hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội,
thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân,
bảo đảm trật tự an toàn xã hội và môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt
sinh hoạt của đời sống xã hội.
Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi
đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Quyết định hình phạt của
Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội
mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực
hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực Nhà
nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn
chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có
những quy định cụ thể về thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương
nói chung và Toà án nhân dân tối cao nói riêng cũng đã ban hành một số
Thông tư liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của Bộ luật
hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi
hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay.
1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần
Cải cách tư pháp
Qua tổng kết thực tiễn cho thấy một trong những nguyên nhân làm hạn
chế hiệu quả công tác thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp là do bộ máy
11
tổ chức THAHS chưa rõ ràng, thiếu sự quản lý tập trung, thống nhất vào một
đầu mối. Hệ thống văn bản dưới luật nhiều nhưng lan man, chồng chéo và
chưa đồng bộ. Mối quan hệ phối hợp trong lĩnh vực thi hành án hình sự giữa
các ngành, các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ
chức thực hiện chưa cụ thể và thiếu chặt chẽ. Từ yêu cầu hoàn thiện đó, việc
ban hành Luật Thi hành án hình sự là cần thiết, đáp ứng yêu cầu tất yếu,
khách quan và mang tính chuyên môn hoá.
Theo tinh thần cải cách tư pháp, việc ra đời Luật Thi hành án hình sự
là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhằm thống nhất và tập
trung hệ thống văn bản pháp luật, mang tính đồng bộ và chuyên môn hoá.
Luật Thi hành án hình sự ra đời đáp ứng yêu cầu chung về cải cách tư pháp
đó là làm mới các quy định về thi hành án cho phù hợp với điều kiện, tình
hình đất nước đó là:
- Thể chế hoá các quy định về quyền lao động, học tập, nghỉ ngơi của
phạm nhân, quyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng khác của người chấp hành
án vào luật.
- Thay đổi hình thức thi hành án tử hình (hình thức tiêm thuốc độc thay
cho hình thức xử bắn). Giải quyết cho thân nhân nhận tử thi, hài cốt của người
bị thi hành án tử hình khi họ có nguyện vọng và làm đơn có xác nhận của
UBND cấp xã nơi cư trú và được Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đồng ý.
- Luật THAHS mới ra đời đã có quy định cơ quan tổ chức thi hành án
cụ thể, rõ ràng gồm: Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành
án hình sự (Ở Bộ: có Trại giam thuộc Bộ Công an; Ở cấp tỉnh: Có cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Cấp huyện: Có cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện. Ngoài các cơ quan nêu trên Luật Thi hành án hình sự còn
quy định cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự gồm: Trại
giam (thuộc Bộ Công an), Trại tạm giam (thuộc Công an cấp tỉnh); UBND xã,
phường, thị trấn.
12
- Luật Thi hành án hình sự quy định cụ thể hơn về việc cho phạm nhân
được gặp vợ (hoặc chồng) tại phòng riêng (phòng hạnh phúc - đặc biệt phạm
nhân là nữ).
- Về xét giảm án: Việc xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt
tù bổ sung thêm thẩm quyền của cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh (trước
kia thuộc trại giam công an tỉnh) (Điều 33 Luật thi hành án hình sự). Theo đó,
liên bộ gồm: Bộ công an, Bộ quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-
BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành các quy
định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân.
- Luật thi hành án hình sự cho phép phạm nhân trong trường hợp cấp
bách thì được gửi điện tín, gọi điện thoại và chi phí do phạm nhân chi trả.
- Các quy định về thi hành án phạt tù được ban hành dưới dạng Luật,
thay thế cho dạng văn bản trước kia đều ban hành dưới hình thức là văn bản
dưới luật, văn bản hành chính (Pháp lệnh, Thông tư liên ngành, Nghị quyết,
Công văn, hướng dẫn…). Cụ thể như: Pháp lệnh thi hành án phạt tù, thông tư
liên tịch, các Công văn hướng dẫn thủ tục trích xuất và đưa phạm nhân vào
chấp hành án tại trại giam, công văn hướng dẫn việc hoãn thi hành án…
- Luật thi hành án hình sự quy định: Nhiệm vụ tổng kết công tác thi
hành án hình sự và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo thuộc Cơ quan thi hành
án hình sự Công an tỉnh. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện
cũng thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo quy định. Trước đây chưa có
quy định cụ thể, thống nhất về chế độ thống kê, báo cáo tình hình, kết quả thi
hành án hình sự.
Tinh thần cải cách tư pháp đã được cụ thể hoá vào Luật thi hành án
hình sự bằng việc thống nhất một cơ quan quản lý nhà nước về Thi hành án
hình sự đó là: Ở Trung ương thành lập Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ
13
trợ tư pháp (Tổng cục VIII-Bộ Công an) và ở địa phương là thành lập Cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện.
Tính nhân đạo trong cải cách tư pháp cũng được đưa vào Luật thi
hành án hình sự bằng việc người bị kết án được cụ thể hoá hơn một số quyền
dân chủ của mình mà trước kia họ không được thừa nhận như gọi điện tín
trực tiếp về gia đình, gần gũi vợ con tại “buồng hạnh phúc” khi họ có nhiều
cải tạo tiến bộ.
1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự
1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự
Luật tổ chức Toà án nhân dân không nêu chức năng thi hành án hình sự
của Toà án nhưng đây là một chức năng lớn rất quan trọng, gắn liền với chức
năng xét xử trong hệ thống toà án địa phương.
Công tác thi hành án hình sự tại toà án rất nhiều lĩnh vực và đa dạng,
phức tạp, không kém chức năng xét xử, khâu cuối của chuỗi hoạt động tố tụng
công khai tại pháp đình. Tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án hình
sự ở mỗi địa phương, tuỳ vào số lượng án xét xử, số lượng phạm nhân của các
trại giam đóng trên địa bàn mà có số lượng cán bộ tương ứng.
Trong cơ cấu các Toà, phòng thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh, công tác
thi hành án hình sự được xem là một bộ phận với vai trò một bộ phận đặc biệt
thuộc Chánh án. Hoạt động chuyên môn trực tiếp thuộc Chánh án nhưng sinh
hoạt hành chính thuộc phòng giám đốc kiểm tra. Ở cấp huyện, việc theo dõi
và phụ trách công tác thi hành án hình sự do một Thư ký đảm nhận và cũng
thuộc Chánh án cấp huyện quản lý trực tiếp.
Đối với các tỉnh, thành phố lớn, số lượng công việc nhiều, có nhiều trại
giam (cả các trại giam của Bộ công an và trại giam thuộc công an tỉnh) đóng
trên địa bàn thì biên chế ngành Toà án cũng chỉ giới hạn tối đa từ 3 đến 4 cán
14
bộ làm công tác thi hành án hình sự. Riêng đối với các toà án cấp tỉnh mà số
lượng các vụ án hình sự ít, số phạm nhân đóng trên địa bàn tỉnh không nhiều
thì đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án hình sự không quá 02 người.
Ở hệ thống các Toà án nhân dân cấp huyện, cán bộ làm công tác Thi
hành án hình sự có nơi có, có nơi chưa có chuyên trách mà chủ yếu là thư ký,
kiêm nghiệm lĩnh vực công tác này bao gồm cả việc tham gia phiên toà xét
xử, theo dõi và ra quyết định thi hành án, tổ chức thực hiện quyết định thì
hành án cũng như các công tác liên quan đến hoạt động này.
1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự
Tại Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” [45, Điều 102, Khoản 1]. Như vậy, ngay trong Hiến pháp 1992, sửa
đổi năm 2013 đã khẳng định ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn
thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý để
khẳng định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên
quan đến quyền con người, quyền của công dân, mà một trong những quyền
đó chính là những quyền con người trong lĩnh vực Thi hành án hình sự.
Thực tế hiện nay cho thấy vẫn có một số quan điểm khác nhau về
thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự. Có quan điểm cho rằng thi
hành án hình sự không phải là một hoạt động chủ yếu của Toà án mà đó chỉ
là những việc liên quan đến Toà án sau quá trình xét xử; có quan điểm cho
rằng thi hành án hình sự là việc chung của nhiều cơ quan tư pháp chứ không
phải của riêng Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là một lĩnh
vực công tác chủ yếu của Toà án. Thực tế thì các văn bản quy phạm pháp
luật hiện nay cũng không phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng
“cầm trịch” trong thi hành án. Do đó, mỗi quan điểm trên đều đưa ra những
15
lập luận riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Xét về góc độ thực tiễn thì
hiện nay một bản án, quyết định về hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành,
nhất là trong trường hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại
hình phạt được áp dụng hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ
sung (phạt tù giam, tù cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt
tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề… trong cùng một vụ án có nhiều
bị án). Vì lẽ đó, trong phạm vi bài này, tác giả luận văn chỉ đề cập đến vấn
đề thẩm quyền của Tòa án trong công tác thi hành án mà không đi sâu về
việc phân tích xem các quan điểm nào về việc “chủ trì” thi hành án hình sự
là của cơ quan tư pháp nào.
Theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án
có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là:
- Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án
hình sự.
- Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
- Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp
hành hình phạt tù;
- Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo;
- Quyết định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích;
- Theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án
hoặc theo dõi việc thi hành án của những người bị kết án mà Toà án đã giao
cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú hoặc cơ quan tổ chức
nơi người bị kết án làm việc.
- Xem xét việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí;
- Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình;
- Lập hồ sơ đặc xá (đối tượng đặc biệt), tham gia giúp Hội đồng đặc xá
trung ương thực hiện việc đặc xá.
16
Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án,
quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ
vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện bao quát, đầy
đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra
thi hành được thực hiện nghiêm chỉnh.
Thẩm quyền Thi hành án hình sự của Toà án được thể hiện cụ thể trong
các công đoạn của Thi hành án hình sự như sau:
a. Ra quyết định thi hành án hình sự
Sau khi bản án được tuyên và có hiệu lực pháp luật thì Toà án có nhiệm
vụ ra các quyết định thi hành án và chuyển giao quyết định cho các cơ quan
có thẩm quyền thi hành. Về nguyên tắc, mọi bản án, quyết định của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành nghiêm chỉnh và phải được các
cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu
quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản
án, quyết định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc
chấp hành đó.
Về cơ bản, Toà án là cơ quan ra các loại quyết định thi hành án và đưa
ra thi hành, theo dõi việc thi hành trong thực tế. Toà án ra quyết định thi hành
án hình sự đối với những trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật mà bản án, quyết định đó đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tù
chung thân, tử hình, hình phạt trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
phạt tù nhưng cho hưởng án treo…
Trong thực tiễn công tác thi hành án hình sự hiện nay, việc đưa ra thi
hành án và tổ chức thi hành các bản án, quyết địnhcủa Toà án có lúc, có nơi
còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu, tình hình cải cách tư pháp bởi lẽ:
Các bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm hoặc quyết định của Hội
17
đồng giám đốc thẩm, tái thẩm thường được gửi muộn, không đáp ứng được
quy định của pháp luật. Việc giao nhận bản án, quyết định thường rất chậm do
sau khi xét xử, việc đánh máy bản án, quyết định chậm, việc rà soát, xin chữ
ký trong bản án, quyết định cũng chậm và việc chuyển giao bản án, quyết
định (gửi thông qua đường Bưu điện và gửi thường)… những việc phải làm
sau khi xét xử mỗi khâu chậm một ít cũng khiến cho hầu hết Toà án cấp phúc
thẩm, giám đốc thẩm không đảm bảo thời hạn giao bản án, quyết định trong
thời hạn mười ngày đối với Toà án cấp phúc thẩm giám đốc thẩm cấp tỉnh,
giám đốc thẩm, tái thẩm ở TANDTC và 25 ngày đối với Toà án cấp phúc
thẩm của Toà án nhân dân tối cao.
Từ những sự chậm trễ nêu trên đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra
quyết định thi hành án hình sự của Toà án cấp sơ thẩm. Nếu đúng quy định
của pháp luật thì từ khi bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên án
hoặc ra quyết định thì chậm nhất là trong 17 ngày (10 ngày giao bản án, quyết
định và 7 ngày ra quyết định thi hành án) và đối với các Toà phúc thẩm Toà
án nhân dân tối cao là 32 ngày (25 ngày giao bản án, quyết định và 7 ngày ra
quyết định thi hành án); 17 ngày (10 ngày giao quyết định giám đốc thẩm, tái
thẩm và 7 ngày ra quyết định thi hành án) thì các bản án, quyết định phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm phải được đưa ra thi hành. Trong thực tiễn,
thời hạn trên không thực hiện được vì các lý do chậm trễ nên có thể Toà án
cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án không đúng với thời hạn nêu trên.
Trong trường hợp kéo dài thời hạn ra quyết định thi hành án, dù bất cứ lý do
nào thì đó cũng là lỗi của Toà án và người bị kết án sẽ phải chịu thiệt thòi về
“khoảng trống” mà Toà án đã tạo ra. Khi chưa có quyết định thi hành án thì
người bị kết án chưa được chuyển sang trại cải tạo, trại giam và chưa được
tham gia lao động, học tập để được tính thời hạn giảm án theo quy định.
+ Trong việc uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành
18
án. Toà án khác cùng cấp là cùng cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh. Hiện
nay tất cả các Toà án nhân dân cấp huyện, đều đã thực hiện thẩm quyền xét
xử theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS.
Việc uỷ thác cho Toà án cùng cấp ra quyết định thi hành án hình sự chỉ
được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Sau khi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết
định thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng
cơ quan Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Toà án cùng cấp biết
là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cư trú cụ thể, rõ ràng
mà không phải là cố tình trốn tránh;
Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác như: quá trình điều
tra của cơ quan công an bị án có các địa chỉ cư trú và thường trú khác nhau
hoặc tại phiên toà bị cáo khai địa chỉ cư trú hiện tại.
Như vậy ở trường hợp thứ nhất thì Toà án sẽ phải ra hai quyết định,
một là quyết định thi hành án và hai là quyết định uỷ thác thi hành án. Vấn đề
là khi Toà án ra quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định này chỉ ban hành
sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án, đã gửi cho cơ quan Công an cùng
cấp và nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an cùng cấp cho
Toà án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể.
Trường hợp này sẽ phát sinh vấn đề là quyết định thi hành án của Toà án cấp
sơ thẩm đã ban hành nhưng không được thực hiện bởi Toà án sẽ phải ra quyết
định uỷ thác thi hành án và có thể hiểu là quyết định uỷ thác thi hành án đã
phủ định quyết định thi hành án trước đó, tức là quyết định thi hành án này
không còn hiệu lực thi hành. Như vậy, Toà án ra quyết định uỷ thác cần huỷ
bỏ quyết định thi hành án trước đó và thay thế bằng quyết định uỷ thác thi
hành án mới và gửi quyết định uỷ thác thi hành án cùng với hai bản sao bản
19
án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho toà án nhận uỷ thác theo
đúng mẫu số 07 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP, ngày
02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định
của toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự).
Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác. Vấn đề đặt ra là:
Căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác xuất
hiện vào thời điểm nào, trước hay sau khi Toà án ra quyết định thi hành án
hình sự để thực hiện việc uỷ thác. Về vấn đề này, điểm 2 mục I Nghị quyết
Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao cũng không hướng dẫn cụ thể phải giải
quyết thế nào. Theo tôi, có thể giải quyết như sau:
- Nếu Toà án chưa ra quyết định thi hành án mà có căn cứ người bị kết
án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác thì ra quyết định uỷ thác thi hành
án, gửi cho Toà án được uỷ thác các tài liệu kèm theo, trong đó có tài liệu mà
căn cứ vào tài liệu này, Toà án biết rõ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn
của Toà án được uỷ thác thi hành án. Tài liệu này giúp cho Toà án được uỷ
thác thi hành án ra quyết định thi hành án và tạo điều kiện thuận lợi để cơ
quan Công an thi hành quyết định của Toà án.
- Nếu sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án mới biết là có căn cứ
người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác, có thể thông tin (căn
cứ) này không phải do cơ quan Công an cung cấp hoặc thông báo bằng văn
bản mà do từ các nguồn thông tin khác thì Toà án sơ thẩm vận dụng, thực
hiện việc uỷ thác thi hành án như hướng dẫn ở trường hợp thứ nhất (như việc
nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an về việc người bị kết
án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể).
20
+ Về việc Toà án được uỷ thác
Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác thi
hành án, Chánh án Toà án được uỷ thác phải ra quyết định thi hành án.
- Nếu cơ quan Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại
địa bàn khác thì trả hồ sơ uỷ thác thi hành án cho Toà án đã uỷ thác và giải quyết:
+ Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án biết địa chỉ của người bị kết án
thì thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này tiếp tục thực hiện việc uỷ
thác cho Toà án nơi người bị kết án đang cư trú (có thể là Toà án thứ 3 nào đó);
+ Nếu Toà án được uỷ thác không xác định được địa chỉ mới của người
bị kết án thì cũng thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này ra quyết
định thi hành án và yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định truy nã.
+ Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án thấy việc uỷ thác là không có
căn cứ, không đúng thì phải thông báo bằng văn bản, trả lại hồ sơ uỷ thác và
nêu rõ lý do để Toà án đã uỷ thác biết. Toà án đã uỷ thác nếu thấy việc từ chối
uỷ thác là có căn cứ thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định
hủy quyết định uỷ thác không có căn cứ. Việc ra quyết định thi hành án hay
tiếp tục ra quyết định uỷ thác cho Toà án khác tuỳ thuộc vào việc có căn cứ để
ra một trong hai quyết định này không.
Để đảm bảo theo dõi, quản lý tốt việc uỷ thác, nhận uỷ thác thi hành án,
tránh tình trạng Toà án đã uỷ thác thi hành án cho rằng sau khi đã gửi các tài
liệu về uỷ thác thi hành án là đã hoàn thành nhiệm vụ, không còn thẩm quyền,
không còn trách nhiệm và Toà án được uỷ thác có nhận được quyết định, tài
liệu kèm theo việc uỷ thác thi hành án không, có ra quyết định thi hành án
không, đồng thời tránh tình trạng Toà án được uỷ thác tuy nhận được là hồ sơ
uỷ thác thi hành án nhưng không thực hiện việc ra quyết định thi hành án.
Như vậy, có thể xảy ra (và trong thực tiễn đã xảy ra) trường hợp quyết định
thi hành án được ban hành nhưng không gửi hoặc đã nhận hồ sơ thi hành án
21
nhưng không thực hiện. Cả hai trường hợp này đều dẫn tới người bị kết án
vẫn không có quyết định thi hành án và nếu không bị phát hiện thì họ đương
nhiên được hưởng thời hiệu thi hành án; điều này có nghĩa là bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật không còn được thi hành. Để quản lý chặt chẽ
trong trường hợp này thì Toà án đã uỷ thác phải gửi kèm theo phiếu gửi hồ sơ,
(văn kiện) và yêu cầu hoàn phiếu để làm căn cứ. Sau khi toà án nhận uỷ thác
ra quyết định thi hành án (hoặc có công văn phản hồi) gửi hoàn phiếu gửi kèm
theo quyết định thi hành án đối với người bị kết án cho toà án đã uỷ thác để
Toà án đã uỷ thác làm căn cứ lưu hồ sơ kết thúc việc uỷ thác.
Hiện nay, trong việc ra quyết định uỷ thác thi hành án, cách làm ở mỗi
Toà án là khác nhau. Do vậy, Toà án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn, quy
định cụ thể về vấn đề này. Theo tôi, nên có quy định cụ thể về thủ tục giao
nhận hồ sơ uỷ thác thi hành án đối với các Toà án. Chẳng hạn Toà án đã uỷ
thác phải gửi cùng hồ sơ uỷ thác phiếu gửi, Toà án được uỷ thác phải ký,
đóng dấu vào phiếu gửi và gửi trả lại Toà án đã uỷ thác như một xác nhận đã
nhận được hồ sơ uỷ thác thi hành án, phiếu gửi này được lưu tại Toà án đã uỷ
thác để xác định đã gửi hồ sơ uỷ thác và Toà án đã nhận uỷ thác thi hành án.
Cũng có thể quy định Toà án được uỷ thác phải gửi cho Toà án đã uỷ thác
quyết định thi hành án hoặc thông báo bằng văn bản cho Toà án đã uỷ thác và
các tài liệu này được lưu tại Toà án đã uỷ thác để quản lý, theo dõi chặt chẽ
việc uỷ thác thi hành án hình sự.
Vai trò của Toà án trong trường hợp này cần được khẳng định, nhìn
nhận đúng đắn để các cơ quan bổ trợ tư pháp (Cơ quan Thi hành án hình sự)
và Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền cần có trách nhiệm và nghĩa vụ xác định
nơi cư trú của người bị kết án kịp thời, để việc ban hành quyết định thi hành
án của Toà án đưa vào thực thi trên thực tế có hiệu quả và đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, tránh tình trạng kéo dài việc thi hành bản án khi
phát sinh trường hợp người bị kết án có thay đổi về địa chỉ cư trú.
22
b. Hoãn chấp hành án phạt tù
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Toà án đã ra quyết định thi hành án
đối với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại, nhưng xét thấy có những căn
cứ quy định tại Điều 61 BLHS hoặc xét thấy có căn cứ khác để chưa buộc họ
phải chấp hành hình phạt ngay. Quy định về việc tạm hoãn thi hành án là biểu
hiện một cách sâu sắc nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với người
phạm tội. Thẩm quyền hoãn chấp hành hình phạt tù thuộc Chánh án Toà án đã
ra quyết định thi hành án phạt tù (chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm).
Về nguyên tắc luật không bắt buộc toà án phải cho hoãn trong tất cả
mọi trường hợp mà có thể cho hoãn thi hành án. Do đó, pháp luật hiện hành
đã tôn trọng quyền quyết định của Toà án bằng việc để toà án xem xét có thể
cho người bị kết án đó được hoãn hay không nếu thấy cần thiết và xét thấy họ
đủ điều kiện. Trên tinh thần cải cách tư pháp, để thống nhất trong việc xét
hoãn chấp hành hình phạt tù, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết
số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 “Hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình
phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt”.
Mục 7.2 của Nghị quyết quy định: Khi người bị xử phạt tù thuộc một
trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 này, thì toà án cho
họ được hoãn chấp hành hình phạt tù. Toà án cũng có thể cho người bị xử phạt
tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của BLHS mà
không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7
này được hoãn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ [64].
Hồ sơ hoãn thi hành án cần có Đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù
của người bị kết án hoặc của người thân thích của người bị kết án có xác nhận
của chính quyền nơi người đó cư trú về lý do xin hoãn chấp hành hình phạt tù
và thái độ chấp hành chính sách pháp luật tại địa phương. Việc Toà án yêu
23
cầu phải có đơn để thể hiện ý chí của người bị kết án đồng thời thái độ của
chính quyền địa phương về yêu cầu hoãn chấp hành án của họ để Tòa án xem
xét. Trong thực tiễn, nhiều người bị kết án lợi dụng chính sách này để chây ì
nên không làm đơn, cơ quan công an không thể áp giải vì họ có điều kiện để
được hoãn chấp hành hình phạt tù. Khi gặp trường hợp này, Tòa án cần phải
lập biên bản giải thích, quy định thời hạn nộp đơn, quá thời hạn quy định mà
họ không nộp đơn thì không có cơ sở để xem xét việc hoãn chấp hành án, Tòa
án cần có văn bản báo cho cơ quan công an được biết và yêu cầu cơ quan
công an áp giải thi hành án đối với người bị kết án.
Các tài liệu chứng minh về lý do hoãn thi hành án như: Bản sao khai
sinh của con dưới 36 tháng tuổi; các loại giấy tờ của cơ quan y tế về trường
hợp bị bệnh nặng; bản toàn sao hộ khẩu để xác định hoàn cảnh gia đình có
phải là lao động duy nhất; giấy chứng nhận vì nhu cầu công vụ…
Pháp luật quy định việc tạm hoãn thi hành án đối với người bị bệnh
hiểm nghèo là “đến khi sức khoẻ hồi phục”. Nhưng thực tế hiện nay, các Toà
án nhiều địa phương cũng đã và đang vận dụng linh hoạt trong việc tạm hoãn,
tạm đình chỉ bằng việc ấn định thời gian tạm hoãn, tạm đình chỉ cụ thể đối với
các trường hợp người bị kết án được tạm hoãn, tạm đình chỉ vì lý do “bệnh
hiểm nghèo”. Hoặc đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ thì được
hoãn đến 36 tháng tuổi nhưng nếu Tòa án ra quyết định hoãn 3 năm thì sẽ khó
theo dõi lý do hoãn có sự thay đổi nào không (ví dụ như họ không còn mang
thai hoặc con đã chết hay giao cho người khác nuôi dưỡng). Do vậy, khi xem
xét để có thể cho hoãn chấp hành án thì Tòa án cần chú ý về thời hạn, mặc dù
luật đã quy định thời gian là 36 tháng đối với trường hợp “phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi”; 01 năm đối với “Lao động duy nhất” và
đến khi sức khoẻ hồi phục đối với trường hợp “Bệnh hiểm nghèo”.
Bằng quyền tự quyết của mình, các Toà án đã ấn định thời gian tạm
24
hoãn thi hành án ngắn lại nhằm mục đích dễ theo dõi, quản lý người được tạm
hoãn thi hành án. Khi hết thời hạn tạm hoãn, nếu họ đủ điều kiện và thủ tục,
Toà án tiếp tục xem xét để ra quyết định hoãn thi hành án đối với họ.
Do đó, việc theo dõi, giám sát của chính quyền địa phương, cơ quan thi
hành án hình sự công an cấp huyện trong việc định kỳ trình diện, báo cáo (3
tháng một lần) của người được hoãn thi hành án (quy định tại Khoản 3, Điều
24 Luật Thi hành án hình sự) cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ, đặc
biệt là đối tượng về các tội ma tuý, coi đây là kẽ hở để lợi dụng trốn tránh
pháp luật và tiếp tục hành vi phạm tội.
Đối với những trường hợp bị bệnh nặng thì phải có kết luận của bệnh
viện cấp tỉnh trở lên thì Tòa án cho hoãn có thời hạn như trên, nếu Tòa án cho
hoãn đến khi sức khỏe phục hồi thì phải có sự kiểm tra về sức khỏe để xác
định bệnh chưa hồi phục.
Đối với trường hợp là lao động duy nhất thì phải hiểu trong gia đình chỉ
có người bị kết án là người lao động, ngoài họ ra không còn ai có thể lao động
để nuôi sống gia đình (ví dụ trong gia đình còn lại người trên 60 tuổi, trẻ em,
người khuyết tật mà họ phải nuôi dưỡng…), đơn của người bị kết án xin hoãn
với lý do là lao động duy nhất phải có xác nhận của chính quyền địa phương
về điều kiện, hoàn cảnh là thực tế.
Nếu thấy có đủ điều kiện thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành
án cho người bị kết án được hoãn chấp hành án; trường hợp không chấp nhận
thì phải thông báo nêu rõ lý do không chấp nhận.
Chậm nhất là 7 ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt
tù, Chánh án Tòa án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi
hành hình phạt tù và gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định
phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan công an cùng cấp và người bị kết
án trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
25
Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù có thể tự mình xét
và ra quyết định cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù nếu
người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em…) hoặc
cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc chính quyền địa phương
nơi người bị kết án thường trú có đề nghị bằng văn bản.
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị hoặc xin hoãn chấp hành án phạt tù,
Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy
có tài liệu nào chưa đủ hoặc cần làm rõ hơn thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù bổ sung, làm rõ thêm (kể cả cơ
quan Công an hoặc Viện kiểm sát đề nghị). Trong thời hạn năm ngày làm việc
kể từ ngày nhận được yêu cầu bổ sung, làm rõ, Chánh án Toà án phải quyết
định cho hoãn hoặc không cho hoãn chấp hành án phạt tù.
Nếu không chấp nhận thì Chánh án phải thông báo bằng văn bản cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn biết, trong đó phải nêu rõ lý do về việc
không chấp nhận đề nghị hoãn.
Nếu chấp nhận thì Chánh án ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù
và quyết định này được gửi cho người được hoãn chấp hành hình phạt tù cho
các cơ quan có thẩm quyền để theo dõi, quản lý theo quy định của pháp luật.
Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị đối với văn bản thông báo không chấp nhận
đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù ví lý do không xác đáng hoặc kháng nghị
quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù vì không có căn cứ thì Chánh án phải
xem xét để nếu có căn cứ thì huỷ bỏ thông báo hoặc quyết định hoãn chấp
hành hình phạt tù và thay bằng quyết định mới.
Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt
tù, Chánh án Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi
hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt
tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan Công an cùng cấp và người bị kết án
trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
26
Nếu quá thời hạn bảy ngày kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành hình
phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành
hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải
người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Như vậy, các Toà án cấp sơ thẩm phải có sổ theo dõi về việc hoãn chấp
hành hình phạt tù. Sổ theo dõi, quản lý được thể hiện đầy đủ thông tin người
được tạm hoãn thi hành án, các tiêu chí theo dõi phải được thể hiện như: họ và
tên người bị kết án; số bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, ngày tháng
năm của bản án, quyết định đó; tội danh và mức hình phạt tù; Lý do được hoãn
chấp hành hình phạt tù; Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số, ngày tháng
năm; thời gian được hoãn; ngày hết hạn hoãn; hoãn lần thứ mấy…
Từ những tiêu chí theo dõi, quản lý nêu trên, Toà án có căn cứ để ra
quyết định thi hành án (tiếp tục thi hành án), có căn cứ để khi thấy cần thiết
Chánh án tự mình cho hoãn (nếu như thời hạn được hoãn vẫn còn, ví dụ như
hoãn lần 1 là 6 tháng, vẫn có thể cho hoãn tiếp lần thứ hai 6 tháng hoặc 2 lần
nữa mỗi lần 3 tháng để tổng các lần hoãn vì người bị kết án là lao động duy
nhất hoặc vì lý do công vụ không quá một năm).
Trường hợp không có căn cứ cho hoãn nữa (con đã đủ 36 tháng tuổi, có
thai nhưng đã sảy thai, con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đã bị chết hoặc không
được Toà án giao nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn…) thì thủ tục để
buộc người bị kết án chấp hành hình phạt tù đúng như quy định tại đoạn một,
khoản 2 Điều 261 BLTTHS.
Nếu quá 7 ngày kể từ ngày hết hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người
bị kết án không có mặt tại cơ quan công an, không có lý do chính đáng thì cơ
quan Công an phải áp giải người đó đi chấp hành hình phạt tù.
c. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Toà án cho người đang
27
chấp hành hình phạt tù tạm thời không phải chấp hành hình phạt tù khi có các
căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS.
Người đang chấp hành hình phạt tù thuộc đối tượng của việc tạm đình chỉ
là người bị kết án phạt tù giam, đang bị giam giữ hoặc cải tạo tại các trại giam.
c.1. Thẩm quyền và thủ tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
- Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình
phạt tù có thể cho người bị kết án phạt tù, đang chấp hành hình phạt tù
được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu người đó bị bệnh nặng (điểm
a, khoản 1, Điều 61 BLHS).
Đây là một quy định mới so với quy định trước đây là Chánh án đã ra
quyết định thi hành án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ trong mọi
trường hợp. Sở dĩ có sự thay đổi này vì quy định trước đây không phù hợp bởi
lẽ sau khi có quyết định thi hành án, cơ quan Công an sẽ đưa người phải chấp
hành hình phạt tù đi cải tạo tại các trại giam và thực tế là không phải trại giam
nào cũng gần nơi Toà án đã ra quyết định thi hành án. Do đó, khi người bị kết
án bị bệnh nặng, việc xem xét, giải quyết để có thể ra quyết định tạm đình chỉ
thường không kịp thời. Quy đinh Chánh án TAND cấp tỉnh nơi người đang
chấp hành hình phạt tù có thẩm quyền xem xét, ra quyết định tạm đình chỉ sẽ
đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng, kịp thời hơn khi người chấp hành hình
phạt tù bị bệnh nặng.
- Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có thể cho người đang
chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các
trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS.
Thẩm quyền này thuộc Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc cấp huyện nếu
Chánh án Toà án đó đã ra quyết định thi hành án (nghĩa là Chánh án Toà án
đã xét xử sơ thẩm vụ án). Quy định này không có gì khác với quy định trước
đây, vì việc tạm đình chỉ trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù
28
là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; là người lao động
duy nhất trong gia đình hoặc bị kết án về tội ít nghiêm trọng nhưng do nhu
cầu công vụ được đề nghị xét tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trong thực
tiễn áp dụng là phù hợp, không phát sinh các vướng mắc lớn đến mức phải
sửa đổi, bổ sung.
c.2. Thủ tục để tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
- Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án xem xét, quyết định cho
người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
khi có hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù do Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp hoặc Ban giám thị Trại giam, Trại tạm giam lập và gửi
Toà án hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành
hình phạt tù bị bệnh nặng được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên
tịch số 02/2006/TTLT ngày 18/5/2006 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ
Y tế, TANDTC, VKSNDTC “Hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp
luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành
hình phạt tù bị bệnh nặng”.
c.3. Thời hạn ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù,
trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chánh án Toà
án đã ra quyết định thi hành án phải xem xét các căn cứ, điều kiện tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù quy định của pháp luật để quyết định cho hoặc
không cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù.
Trường hợp tài liệu trong hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ không đầy đủ,
không rõ ràng thì Chánh án yêu cầu cơ quan đề nghị (lập hồ sơ) bổ sung, làm
rõ thêm. Yêu cầu này của Chánh án phải bằng văn bản. Thời hạn 5 ngày để
29
xem xét chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị cho người đang chấp hành
hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được tính lại kể từ khi
Chánh án Toà án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản trả lời
của cơ quan đề nghị tạm đình chỉ về vấn đề Toà án yêu cầu cần phải bổ sung
hoặc làm rõ thêm.
+ Nếu chấp nhận đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Chánh
án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù phải ra quyết định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù và gửi cho người được tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù; Trại giam hoặc Trại tạm giam nơi người đang chấp hành hình phạt tù;
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Chính quyền xã, phường, thị thẩm hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người được tạm đình chỉ thường trú hoặc làm việc, để quản
lý người đó.
+ Nếu Toà án không chấp nhận đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt
tù thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan đề nghị tạm đình chỉ nêu rõ lý do
về việc không chấp nhận cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Nếu Viện kiểm sát kháng nghị đối với thông
báo không chấp nhận cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì lý do Toà án
đưa ra không xác đáng hoặc đủ căn cứ, thì Chánh án Toà án đã ra quyết định
tạm đình chỉ hoặc ra thông báo phải xem xét. Trường hợp kháng nghị của
Viện kiểm sát có căn cứ thì nếu kháng nghị thông báo thì phải ra quyết định
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; nếu kháng nghị quyết định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù thì phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù.
Chánh án Toà án nơi người được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù cư trú hoặc làm việc còn có trách nhiệm phối hợp với chính
quyền địa phương, cơ quan, tổ chức để theo dõi việc chấp hành quyết định
hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để nếu trong thời gian được
30
hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà người đó có hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ bỏ trốn thì phải thông báo cho Chánh
án Toà án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù biết để huỷ
bỏ các quyết định đó và ra ngay quyết định thi hành án phạt tù để cơ quan Thi
hành án hình sự áp giải vào trại giam, buộc người đó phải tiếp tục chấp hành
hình phạt tù.
d. Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
Giảm thời hạn chấp hành án phạt là việc Toà án nhân dân cấp tỉnh căn
cứ vào những quy định tại Điều 58 BLHS, Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự
và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-
VKSNDTC, ngày 15/5/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân
dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành các quy
định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân” để quyết
định giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người bị kết án.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự
thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi họ
đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định trong quá trình cải tạo và được công
nhận là có tiến bộ. Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị
kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra.
Cũng như giai đoạn xét xử, việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
cho người bị kết án được pháp luật giao cho Toà án là cơ quan quyết định.
Căn cứ vào quá trình chấp hành hình phạt của người bị kết án, mức án, mức
đề nghị của cơ quan quản lý phạm nhân và nhân thân của người bị kết án, Toà
án có thể quyết định mức giảm nhiều hay ít trên cơ sở đánh giá toàn diện,
khách quan được phản ảnh qua hồ sơ cải tạo của người bị kết án.
Theo quy định tại Điều 58 BLHS, Toà án chỉ có thẩm quyền xét giảm
mức hình phạt đã tuyên đối với các loại hình phạt: Cải tạo không giam giữ, tù
31
có thời hạn, tù chung thân, phạt tiền. Việc xem xét để ân giảm hình phạt tử
hình thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước.
Trường hợp người bị kết án đã được đề nghị xét giảm thời hạn chấp
hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ
hoặc có hành vi vi phạm pháp luật trước khi có quyết định giảm của Tòa án,
thì Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện phải báo cáo kịp thời với Toà án đã ra quyết định xét giảm
án để Tòa án đã xét giảm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án để loại phạm
nhân đó ra khỏi danh sách xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
Thủ tục xét giảm án: Tòa án nhân dân cấp tỉnh mở phiên họp xét giảm
thời hạn chấp hành án phạt tù bằng Hội đồng gồm ba Thẩm phán, có sự tham
gia của Kiểm sát viên cùng cấp.
Hội đồng có thể họp tại trụ sở Tòa án hoặc tại trại giam, trại tạm giam
nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù.
Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được tiến hành như sau:
+ Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị xét giảm thời
hạn chấp hành án phạt tù do trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ
Quốc phòng hoặc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi
hành án hình sự cấp quân khu gửi đến;
+ Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến;
+ Hội đồng thảo luận và xem xét, quyết định.
- Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng
quyết định:
+ Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù;
+ Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn chấp hành
án phạt tù.
Hội đồng không được quyết định mức giảm cao hơn mức đề nghị của
32
trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc
quân khu hoặc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi
hành án hình sự cấp quân khu;
- Đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm, đến ngày Hội đồng họp
xét giảm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá một tháng, thì
Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn tù còn lại [13].
d.1. Thi hành Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án
phạt tù
- Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu
lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
trường hợp thời gian được giảm bằng thời hạn tù còn lại phải chấp hành thì
quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay.
- Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện phải tổ chức công bố công khai quyết định của Tòa án về giảm thời hạn
chấp hành án phạt tù cho toàn thể phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại
trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ biết và làm thủ tục trừ thời hạn chấp
hành án phạt tù cho phạm nhân để lưu hồ sơ phạm nhân.
d.2. Những điểm mới về xét giảm án so với trước khi ban hành Thông
tư 02/2003/TTLT, ngày 15/5/2013
- Về điều kiệm giảm án:
+ Người bị kết án đã chấp hành được ít nhất 1/3 thời hạn đối với hình
phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc 12 năm đối với tù chung thân; Chấp hành
tốt Nội quy trại giam, tích cực học tập, lao động cải tạo; Đủ kỳ xếp loại chấp
hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định.
+ Mỗi phạm nhân mỗi năm chỉ được xét giảm án một lần, khoảng
cách giữa 2 lần xét giảm ít nhất là 1 năm, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm
nghèo có thể được xét giảm thêm nhưng không được quá 2 lần/năm. Nếu
33
phạm nhân đã được xét giảm mà hạn tù còn lại không đủ 1 năm thì năm tiếp
theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn trước một đợt, nhưng bảo đảm chỉ
được xét giảm 1 lần/năm.
- Về mức giảm:
+ Phạm nhân bị phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mỗi lần có thể được
giảm từ một tháng đến ba năm (trước đây quy định từ 3 tháng đến 3 năm).
+ Mỗi năm một phạm nhân chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án
phạt tù một lần. Trường hợp đã được giảm mà thời hạn tù còn lại không đủ một
năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn trước một đợt, nhưng
vẫn phải bảo đảm mỗi năm chỉ được xét giảm một lần.
+ Đối với những trường hợp phạm nhân lập công, đã quá già yếu, mắc
bệnh hiểm nghèo thì mỗi lần giảm cao nhất cỏ thể là 4 năm nhưng phải bảo
đảm thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã
tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân.
+ Đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội đã lập công
hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm ngay mà không cần điều
kiện đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên và mức
giảm mỗi lần cao nhất đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội
là bốn năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án ít nhất là hai
phần năm mức hình phạt đã tuyên và sau khi được xét giảm, thời hạn chấp
hành án phạt tù còn lại không quá một năm thì có thể được miễn chấp hành
phần hình phạt tù còn lại.
+ Đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm, đến ngày Hội đồng họp
xét giảm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá một tháng, thì
Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn tù còn lại
- Những trường hợp có nhiều tiền án, phạm tội mới:
Nếu phạm nhân có tiền án phải có thời gian thử thách và có số kỳ xếp
34
loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những phạm nhân chưa có tiền án, ứng
với mỗi tiền án là một kỳ sáu tháng xếp loại từ khá trở lên. Đối với phạm
nhân bị phạt tù từ 3 năm trở xuống, ứng với mỗi tiền án là một quý xếp loại
từ khá trở lên.
Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà phạm tội
mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp
hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là
tù chung thân và phải có đủ điều kiện xếp loại theo quy định quy định thì mới
được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
đ. Miễn chấp hành án phạt tù
Miễn chấp hành án phạt tù là việc Toà án có thẩm quyền ra quyết định
không buộc người đã bị kết án phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên
đối với họ.
- Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết miễn chấp hành hình phạt.
+ Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh.
Theo quy định tại Điều 269 BLTTHS, Tòa án có thẩm quyền quyết
định miễn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị
kết án cư trú hoặc làm việc. Như vậy, chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi
người bị kết án cư trú hoặc làm việc mới có thẩm quyền giải quyết miễn chấp
hành hình phạt tù; quy định này không lệ thuộc bản án do cấp nào xét xử.
Đối với các trường hợp miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết
32/1999/QH10 của Quốc hội khoá X được thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị
quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra
quyết định miễn chấp hành hình phạt tù;
+ Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
Việc miễn chấp hành các hình phạt khác thuộc thẩm quyền quyết định của
Tòa án nhân dân cấp huyện. Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện ra quyết định
35
miễn chấp hành đối với các hình phạt không phải là hình phạt tù và cải tạo ở đơn
vị kỷ luật quân đội đối với trường hợp theo Nghị quyết 32/1999/QH10
- Thủ tục miễn chấp hành hình phạt tù: Tòa án thành lập hội đồng xét
miễn chấp hành hình phạt tù gồm 3 Thẩm phán (trong đó có một Thẩm phán chủ
tọa và hai Thẩm phán thành viên), phiên họp xét miễn chấp hành hình phạt phải
có sự tham gia của Đại diện Viện kiểm sát và thư ký Tòa án ghi biên bản.
Đối với các trường hợp miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết
32/1999/QH10 thì phải do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị và
Chánh án tự mình ra quyết định mà không cần thành lập Hội đồng.
e. Miễn, giảm chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
Về cơ bản, thẩm quyền và các điều kiện để miễn, giảm chấp hành án
phạt cải tạo không giam giữ cũng tương tự như miễn, giảm chấp hành án phạt
tù (Các Điều 57, 58, 59, 76 Bộ luật hình sự Điều 269 BLTTHS và mục IV
Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 12/10/2007).
- Thẩm quyền quyết định miễn, giảm án hạt cải tạo không giam giữ
thuộc Toà án nhân dân cấp huyện, nơi người bị kết án chấp hành hình phạt.
Hội đồng xét giảm án phạt cải tạo không giam giữ được thành lập ở Toà án
cấp huyện, thành phần có thể là hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân
(khi các Toà án này không đủ ba Thẩm phán).
- Quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo
không giam giữ cũng giống như quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù, (chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không
chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ).
g. Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí
Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí là những trường
hợp người phải thi hành các khoản tiền này theo bản án, quyết định của Toà
án, nhưng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định nên được Toà án có thẩm
quyền quyết định miễn hoặc giảm khoản tiền mà họ phải thi hành.
36
Việc miễn giảm thi hành đối với khoản tiền phạt, án phí, tuy không
phải vấn đề lớn đối với hệ thống các quy phạm pháp luật chung, nhưng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống xã hội, mà đặc biệt là đối với
người vi phạm pháp luật phải chịu hình phạt cả về kinh tế lẫn nhân thân.
Chính sách này của nhà nước nhằm mục đích lớn lao là cho người phạm tội
thấy được sự khoan hồng của nhà nước, tính nhân đạo trong nhìn nhận, đánh
giá điều kiện kinh tế, sự khó khăn của người đã từng vướng vòng lao lý mà
hiện tại, họ chưa thể vượt qua khó khăn và khắc phục được hậu quả mà mình
gây ra cho người khác, cho xã hội
Thẩm quyền xem xét, quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân
sự đã được quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc xét miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc
thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện, nơi cơ quan thi hành án dân sự
đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở” [41, Điều 63].
Thẩm quyền xét miễn, giảm hình phạt tiền được quy định tại đoạn 3
khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự: “... Việc giảm thời hạn hoặc miễn
chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền
quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người
bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách” [40, Điều 269, Khoản 1].
Căn cứ vào hồ sơ được lập từ cơ quan Thi hành án dân sự, Toà án mở
phiên họp xét việc miễn, giảm thi hành án để xem xét chấp nhận hay không
chấp nhận việc đề nghị miễn, giảm thi hành án. Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ
thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của
Toà án nhân dân cấp huyện) nơi cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức
việc thi hành án có trụ sở.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị
xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Toà án phải thụ lý hồ sơ; Trong thời hạn
37
20 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
việc phải mở phiên họp xét miễn, giảm án phí, tiền phạt (nghĩa vụ thi hành
án). Phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án do một Thẩm phán chủ trì,
có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan Thi hành án dân
sự đã đề nghị xét miễn, giảm. Căn cứ vào hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm, Thẩm
phán ra quyết định chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề
nghị miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án (tiền phạt, án phí).
h. Rút ngắn thời gian thử thách của án treo
Rút ngắn thời gian thử thách của án treo là việc Toà án căn cứ vào các
quy định của pháp luật để rút ngắn thời gian thử thách đã tuyên trong bản án
đối với người bị kết án treo có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo tại địa
phương. Theo quy định tại Bộ luật hình sự thì: “Người được hưởng án treo
đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì
theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà
án có thể rút ngắn thời gian thử thách” [42, Điều 60, Khoản 4].
- Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị
rút ngắn thời gian thử thách của án treo, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện
nơi người chấp hành án treo cư trú thành lập Hội đồng xét rút ngắn thời gian
thử thách của án treo và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ. Trong thời
hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ việc ấn định ngày mở phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách
của án treo và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử
Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Trường hợp cần phải bổ sung tài liệu hoặc
tài liệu chưa rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự bổ sung
hoặc làm rõ thêm.
Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo gồm ba Thẩm phán
(đối với toà án có đủ thẩm phán) hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với
38
Tòa án cấp huyện không có đủ ba Thẩm phán) và có sự tham gia của Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp. Hội đồng có thể mở phiên họp tại trụ sở của Tòa
án hoặc tại trụ sở của cơ quan thi hành án hình sự đã lập hồ sơ đề nghị.
Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét rút
ngắn thời gian thử thách của án treo có quyền: Chấp nhận toàn bộ đề nghị rút
ngắn thời gian thử thách của án treo. (Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị
rút ngắn thời gian thử thách của án treo mà thời gian thử thách còn lại không
quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách
còn lại); Chấp nhận một phần đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo
hoặc không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo.
Việc Toà án có chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án treo đối
với người bị kết án hay không là do nhận định của thẩm phán và trên cơ sở hồ
sơ được lập theo các bước, trình tự mà pháp luật quy định. Toà án có thể
quyết định hoặc không, rút ngắn một phần hoặc toàn bộ phần còn lại của thời
gian thử thách tuỳ thuộc vào đánh giá mức độ chấp hành của người bị kết án
và đánh giá, nhận xét của cơ quan đề nghị.
i. Thời hiệu thi hành án
Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy
định mà khi hết thời hạn đó, người bị kết án không phải chấp hành bản án đã
tuyên. Theo đó, khi hết thời hiệu thi hành án, Toà án ra văn bản “thông báo
thời hiệu” cho người bị kết án và chuyển cho cơ quan thi hành án hình sự và
các cơ quan liên quan để dừng hay kết thúc việc thi hành án đối với người
được hưởng thời hiệu. Thông báo này được coi như một quyết định tố tụng,
tuyên bố họ được hưởng thời hiệu và không phải chấp hành hình phạt mà bản
án đã tuyên trước đó đối với họ.
Với vai trò là cơ quan xét xử, Toà án đã tuyên bản án có hiệu lực pháp
luật và đưa ra thi hành trên thực tế. Nhưng do lỗi ở một khâu nào đó mà bản
39
án, quyết định của Toà án bị bỏ quên hoặc bị thất lạc do lỗi của cơ quan có
thẩm quyền gây ra thì Toà án có trách nhiệm xét thời hiệu cho họ khi đủ các
điều kiện mà pháp luật quy định họ được hưởng thời hiệu.
Quy định này đưa ra là nhân đạo và có tính dự phòng cao trên thực tế
bởi lẽ: Không tránh khỏi trường hợp có lúc, có nơi để xảy ra trường hợp này
mà không phải do lỗi của người bị kết án. Trong tiến trình cải cách tư pháp,
thiết nghĩ cần nâng cao vai trò của các cơ quan trong việc quản lý, theo dõi thi
hành án, đặc biệt là Toà án. Bởi lẽ, Toà án là cơ quan ra quyết định và có
trách nhiệm đôn đốc, theo dõi việc thi hành bản án một cách có hiệu quả nhất.
Muốn vậy, đội ngũ cán bộ toà án phải đủ mạnh, đủ lớn để quán xuyến, theo
dõi một cách hệ thống, có khoa học, tránh sơ suất trong quá trình các cơ quan
có thẩm quyền thi hành bản án của toà án dẫn đến pháp luật bị coi thường và
thiếu tính công bằng, nghiêm minh.
k. Xoá án tích
Xóa án tích là một chế định quan trọng, thể hiện nguyên tắc nhân đạo,
dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người, góp phần giúp người
phạm tội không bị mặc cảm trong quá trình hòa nhập cộng đồng. Xoá án tích
là việc Toà án (cơ quan đại diện cho nhà nước về tư pháp) thừa nhận hành vi
phạm tội trước kia của người được xoá án tích đã sạch sẽ, lý lịch của họ được
coi như chưa bị kết án. Người được xoá án tích được thực hiện đầy đủ, trọn
vẹn các quyền của mình như những người công dân bình thường khác sau khi
đã được Toà án cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích.
- Đương nhiên xoá án tích
Toà án xem xét hồ sơ của người xin xoá án tích nếu thấy đủ điều kiện
quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự, Thông tư 02/TTLN ngày 01/8/1986 của
TANDTC, VKSNDTC, BNV thì tự mình ra “Giấy chứng nhận xoá án tích”
cho người bị kết án. Giấy chứng nhận xoá án tích là văn bản xác nhận của Toà
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT
Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk NôngLuận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
Luận văn: Cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Đắk Nông
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án trong Luật Tố tụng
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò của Tòa án trong giải thích pháp luật, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sựLuận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 

Similar to Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT

Similar to Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT (20)

Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Vai trò người bào chữa trong điều tra vụ án hình sự - Gửi miễn phí ...
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Sự độc lập của hoạt động xét xử, HOT
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAYLuận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
Luận văn: Vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp, HAY
 
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nayvai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
vai trò của Toà án nhân dân trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAIGIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
 
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đLuận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Luận văn: Quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 

Luận văn: Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN MINH THANH VAI TRß CñA TOµ ¸N TRONG THI HµNH ¸N H×NH Sù §¸P øNG Y£U CÇU C¶I C¸CH T¦ PH¸P Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ANH HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Minh Thanh
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU.......................................................................................................1 Chương 1: CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ......................8 1.1. Thi hành án hình sự.........................................................................8 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự ..........................8 1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần Cải cách tư pháp.....................................................................................10 1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự................................ 13 1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự........................... 13 1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự.................................... 14 1.3. Cải cách tư pháp và yêu cầu nâng cao vai trò của toà án trong thi hành án hình sự.............................................................. 51 1.3.1. Cải cách tư pháp .............................................................................. 51 1.3.2. Yêu cầu nâng cao vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp......................................................... 57 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ TẠI THANH HOÁ TỪ 2009 – 2013 ............................................65 2.1. Thực trạng Thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá....... 65 2.1.1. Tình hình chung và các kết quả đạt được trong công tác Thi hành án hình sự ........................................................................................65
  • 4. 2.1.2. Những hạn chế trong Thi hành án hình sự........................................70 2.1.3. Nguyên nhân làm giảm hiệu quả của hoạt động Thi hành án hình sự.... 71 2.2. Thực trạng về vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự tại Thanh Hoá ................................................................................73 2.2.1. Những hạn chế liên quan đến vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự ........................................................................................73 2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế về vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự................................................................................85 Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ THEO TINH THẦN CẢI CÁCH TƯ PHÁP.................................................................................... 91 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .................................................... 91 3.1.1 Nhất thể hóa các quy định về thẩm quyền của Toà án trong Thi hành án hình sự................................................................................91 3.1.2. Sửa đổi bổ sung các quy định về áp dụng biện pháp ngăn chặn ....... 93 3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án ...................96 3.3. Giải pháp đổi mới hệ thống tổ chức Cơ quan Thi hành án hình sự .... 99 3.4. Giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí...................... 103 3.5. Giải pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về Thi hành án hình sự tại cộng đồng .................................................... 104 KẾT LUẬN............................................................................................... 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................. 107
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao THAHS: Thi hành án hình sự TTHS: Tố tụng hình sự UBND: Ủy ban nhân dân VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ Quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [5]. Phương hướng cải cách tư pháp đó là: Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác định Tòa án là trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn, nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ, tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh [5]. Thi hành án hình sự là hoạt động thực thi quyền lực Nhà nước ở giai đoạn đặc biệt, nội dung là thi hành chính xác, kịp thời phán quyết của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; Đánh giá và xem xét tính
  • 7. 2 khoan hồng của nhà nước đối với người phạm tội bằng việc thực hiện các hoạt động như: xét giảm án, tạm hoãn, tạm đình chỉ thi hành án, miễn chấp hành hình phạt, xoá án tích… cho người chấp hành án để người chấp hành án có cơ hội khắc phục, sửa chữa lỗi lầm và tái hoà nhập cộng đồng, làm công dân có ích cho xã hội …. Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử chỉ có ý nghĩa trên thực tế khi các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành một cách nghiêm túc, kịp thời và có hiệu quả. Do vậy, việc thi hành bản án hình sự chiếm vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, đảm bảo nguyên tắc: Bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn tổ chức và công dân phải phối hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án [40]. Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành. Mặt khác, thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án chính là thể hiện sự công bằng trong xã hội dựa trên cơ sở nguyên tắc tôn trọng quyền con người - yếu tố nhân đạo của pháp luật Nhà nước, đảm bảo bất kì ai phạm tội cũng đều bị phát hiện, xử lí nghiêm minh và phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi mà họ đã gây ra cho xã hội.
  • 8. 3 Việc tổ chức thi hành bản án của Toà án có tác dụng nhằm giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án, giúp họ nhận ra lầm lỗi và hướng thiện, góp phần giáo dục ý thức tuân theo pháp luật. Toà án thông qua hoạt động thi hành án hình sự để động viên người phạm tội tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Việc chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án còn có ý nghĩa quan trọng của việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự. Thanh Hóa là một trong những tỉnh lớn của Việt Nam, về cả diện tích và dân số (gần 3,5 triệu dân), với 27 đơn vị hành chính cấp huyện trong đó có 01 thành phố, 02 thị xã, gồm các huyện miền núi, đồng bằng, trung du và vùng ven biển. Số lượng án hình sự thụ lý giải quyết hàng nghìn vụ mỗi năm, số trại giam thuộc Bộ công an đóng trên địa bàn nhiều nhất cả nước (04 trại với khoảng hơn 10.000 người bị kết án). Do vậy, tình hình tội phạm cũng có nhiều phức tạp, mỗi năm có hàng nghìn bản án, quyết định hình sự được đưa ra thi hành. Tuy nhiên, việc thi hành án hình sự tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa đang phát sinh nhiều vấn đề, vẫn còn một số bản án chưa được đưa vào thi hành một cách nghiêm túc, điều này ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tư pháp và các cơ quan liên quan trong việc đưa bản án hình sự vào thi hành trên thực tế. Việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của tòa án trong thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” là hết sức cần thiết trong tình hình hiện nay. Vì lí do đó, tác giả viết luận văn thạc sĩ đề tài này mong muốn xác định vị trí, tầm quan trọng của lĩnh vực này trong các cơ quan Tòa án nhằm có cái nhìn đúng đắn về vai trò của tòa án trong THAHS và hoàn thiện cho phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự đất nước nói chung và Thanh Hóa nói riêng.
  • 9. 4 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát - Phân tích, khái quát các vấn đề pháp luật cũng như thực tiễn (thông qua tình hình tỉnh Thanh Hóa) về vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự đặt trong bối cảnh của tiến trình cải cách tư pháp. - Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao vai trò của Tòa án trong Thi hành án hình sự ở Việt Nam hiện nay 2.2. Mục tiêu cụ thể Hệ thống những vấn đề lý luận về cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan tới Tòa án và vai trò Tòa án trong lĩnh vực Thi hành án hình sự. Phân tích, đánh giá quy định pháp luật và thực trạng về vai trò của Toà án trong công tác thi hành án hình sự từ trước và sau khi Luật Thi hành án hình sự ra đời, đặc biệt chú trọng nêu ra các hạn chế vướng mắc và giải pháp kiến nghị bảo đảm vai trò của Toà án trong THAHS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình hiện nay. 3. Đối tượng nghiên cứu Vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp là đề tài có tính lý luận và thực tiễn cao, có phạm vi nghiên cứu khá rộng cả về không gian, thời gian và đối tượng nghiên cứu. Cải cách tư pháp là lĩnh vực rộng lớn liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều cơ quan và mang tính bao quát lớn và Thi hành án hình sự chỉ là một vấn đề trong hệ thống nhiều vấn đề của cải cách tư pháp Trong khuôn khổ của đề tài luận văn này, tác giả luận văn chỉ xác định phạm vi của đề tài tập trung vào nghiên cứu về lĩnh vực Thi hành án hình sự tại Toà án và phân tích những yếu tố liên quan, có ảnh hưởng và tác động đến hoạt động thi hành án hình sự của Toà án. Qua đó giúp chúng ta thấy được vai trò của Toà án và Toà án được nhìn nhận như thế nào trong hệ thống tư pháp
  • 10. 5 hình sự hiện nay. Luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư pháp đặt ra cho ngành Toà án, nhất là vấn đề liên quan đến công tác thi hành án hình sự. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Sau khi nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị được ban hành; Luật Thi hành án hình sự ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều địa phương đã khẩn trương thành lập ban chỉ đạo cải cách tư pháp. Thực tế đã có rất nhiều bài viết, nhiều nghiên cứu về lĩnh vực thi hành án hình sự và bàn về cải cách tư pháp, nhưng phân tích ở góc độ “vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp qua thực tiễn tại Thanh Hoá chưa được bàn đến. Một số bài viết tiêu biểu như: “Độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Toà án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp” - Bài viết của Trương Hoà Bình đăng trên báo nhân dân điện tử; “Tính độc lập của Toà án”, luận án tiến sĩ Luật học - Đại học Luật Hà Nội của Tô Văn Hà năm 2007; “Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của Trương Hòa Bình, đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý tháng 6/2002 tại Hà Nội; “Cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước”, tham luận của Phạm Duy Nghĩa, tại Hội thảo về sự độc lập trong hoạt động xét xử của Toà án tại việt Nam năm 2008 tại Hà Nội… Đề tài khái quát tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, phân tích những nội dung cơ bản của hoạt động thi hành án tại toà án nhân dân, xem xét những điểm mới trong Luật thi hành án, phân tích tính ưu việt trong hệ thống pháp luật Việt Nam và điểm chưa phù hợp về công tác thi hành án hiện nay, góp phần giúp chúng ta nhìn nhận và đánh giá đúng vị trí công tác này trong hệ thống Toà án. 5. Phạm vi nghiên cứu Vấn đề cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay đang được Đảng và nhà
  • 11. 6 nước ta đặc biệt quan tâm và đã đề ra chiến lược cụ thể đến năm 2020, theo đó, có nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách. Đây là một đề tài rộng, bao gồm nhiều vấn đề có liên quan tới cả hệ thống Tòa án cũng như các cơ quan liên quan như: Cơ quan điều tra, cơ quan truy tố... Lĩnh vực thi hành án cũng rất rộng lớn từ hệ thống tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án trong các cơ quan Tòa án đến việc đưa bản án hình sự vào thi hành; quá trình chấp hành bản án hình sự của những người bị kết án tại các cơ sở thi hành án; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức thi hành án; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức đối với người chấp hành xong bản án v.v… Do vậy, Tác giả đề tài chỉ đi vào nghiên cứu nó ở góc độ công tác thi hành án hình sự mà phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung ở việc làm thế nào để hoàn thiện công tác thi hành án trong hệ thống hoạt động tư pháp tại Tòa án nhân dân (không phân tích, đề cập đến lĩnh vực thi hành án hình sự tại các Toà án Quân sự mặc dù Toà án quân sự vẫn thuộc hệ thống toà án Việt Nam) từ việc bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực được đưa ra thi hành. Những vấn đề khác có liên quan đến thi hành án hình sự không được giải quyết trong luận văn này. Từ đặc điểm tình hình dân cư cũng như tính chất phức tạp đã và đang nảy sinh trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nên tác giả đề tài chọn Thanh Hóa là địa điểm để nghiên cứu luận văn. Qua đó đánh giá nhìn nhận chung về thực tiễn công tác thi hành án hình sự trên phạm vi toàn quốc. Thời gian và số liệu nghiên cứu trong luận văn lấy từ các báo cáo của ngành Toà án Thanh Hoá tính từ 01/01/2009 đến 30/12/2013. 6. Nội dung nghiên cứu Với phạm vi nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính như sau: - Làm rõ một số nội dung cơ bản về thi hành án hình sự và các nguyên tắc của hoạt động thi hành án hình sự. - Phân tích thực trạng tình hình Thi hành bản án hình sự tại tỉnh Thanh
  • 12. 7 Hóa từ năm 2009 đến 2013, qua đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành bản án hình sự của Toà án theo tinh thần của cải cách tư pháp. 7. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được những mục đích đã đặt ra, trên cơ sở phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, nghiên cứu lịch sử và phương pháp tổng hợp, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành bản án hình sự trong các công trình của một số nhà nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào số liệu trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, tổng kết công tác xét xử và công tác thi hành án hình sự trong những năm (2009 - 2013), và thông tin trên mạng Internet để phân tích, đánh giá, tổng hợp các vấn đề thực tiễn xung quanh việc thi hành bản án hình sự trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cải cách tư pháp và việc nâng cao vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự. Chương 2: Thực trạng thi hành án hình sự và vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự tại Thanh Hoá từ 2009 - 2013. Chương 3: Giải pháp tăng cường vai trò của Toà án trong Thi hành án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp.
  • 13. 8 Chương 1 CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ 1.1. Thi hành án hình sự 1.1.1. Khái niệm, ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự 1.1.1.1. Khái niệm Cho đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng về Thi hành án hình sự, các quan điểm về thi hành án mới chỉ nêu ra ở dạng quan niệm, đại ý khái quát. Do vậy, có thể nêu ra quan niệm về thi hành án hình sự đó là: “Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn” [28]. Thi hành án hình sự là biện pháp cưỡng chế Nhà nước đối với người có hành vi vi phạm pháp luật đã bị bản án của Toà án tuyên có hiệu lực pháp luật. Theo tôi, Thi hành án hình sự là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật buộc người chấp hành án phải tuân thủ, chấp hành hình phạt, biện pháp mà Toà án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra. 1.1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của Thi hành án hình sự. Tòa án nhân danh nhà nước tuyên án với bị cáo tại phiên tòa, áp dụng mức và loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra, bản án, quyết định của Tòa án được thi hành chính là lúc công lý được thực hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự là giai đoạn thể hiện rõ nét chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm mục đích cảm hóa tư tưởng, giáo dục nhân cách, văn hóa, kỹ năng sống, ký năng lao động… giúp người phải thi hành án trở thành một công dân tốt cho xã hội, mặt khác góp phần răn đe, ngăn ngừa chung [2].
  • 14. 9 Sau chuỗi hoạt động tiền tố tụng đến hoạt động tố tụng (xét xử) tại phiên toà, Thi hành án hình sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi hành án có mối quan hệ hữu cơ với giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Nếu như một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường. Chính vì vậy, việc bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án là một yêu cầu khách quan trong hoạt động quản lý Nhà nước [2]. Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì, quyền tư pháp của Nhà nước chỉ được thực hiện trọn vẹn, công lý được bảo vệ và thực thi, công bằng xã hội được đảm bảo và khi phán quyết của toà phải được thực thi nhanh chóng, đầy đủ, chính xác trên thực tế. Do đó, việc thi hành án của bất kỳ Toà án nào phải được coi là một phần của công tác xét xử và là công đoạn cuối của việc thực thi quyền lực tư pháp, hiện thực hoá công lý. Mặc dù hiện nay, Toà án được đặt ở vị trí trung tâm nhưng những quy định hiện hành lại không quy định rõ cơ quan nào có thẩm quyền và chịu trách nhiệm cuối cùng về hiệu quả của cả hệ thống tư pháp. Chúng ta không thể phủ nhận những kết quả đã đạt được của thi hành án hình sự trong những năm vừa qua, hàng vạn người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt, trở về với cuộc sống lương thiện. Trong quá trình chấp hành án, họ được tổ chức cho học nghề tại các trại giam, trung tâm dạy nghề và sau khi chấp hành án xong họ đã tự tìm cho mình một công việc ổn định, tái hoà nhập công đồng, trở thành người có ích cho xã hội. Thi hành án hình sự có
  • 15. 10 những đóng góp quan trọng nhằm bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định của Tòa án, góp phần giữ vững trật tự kỷ cương và ổn định xã hội. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, hệ thống tổ chức và hoạt động thi hành án cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định. Vì vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động Thi hành án hình sự là yêu cầu khách quan nhằm tạo lập một cơ chế hữu hiệu đảm bảo thực thi có hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong toàn xã hội, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và môi trường pháp lý tin cậy trong mọi mặt sinh hoạt của đời sống xã hội. Thi hành án hình sự là một giai đoạn trong tố tụng hình sự và có thể coi đó là giai đoạn cuối cùng của một vụ án hình sự. Quyết định hình phạt của Toà án chính là sự đánh giá, sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Nếu chỉ dừng ở mức đánh giá, lên án mà không thực hiện bằng các biện pháp mang tính cưỡng chế đặc trưng của quyền lực Nhà nước thì tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa và tính chịu hình phạt hạn chế, thậm chí là không có tác dụng. Chính vì vậy, pháp luật hình sự đã có những quy định cụ thể về thi hành án hình sự, các ngành tư pháp trung ương nói chung và Toà án nhân dân tối cao nói riêng cũng đã ban hành một số Thông tư liên tịch, Nghị quyết để hướng dẫn một số quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự về thi hành án hình sự nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm túc các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay. 1.1.2. Những đổi mới của Luật Thi hành án hình sự theo tinh thần Cải cách tư pháp Qua tổng kết thực tiễn cho thấy một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp là do bộ máy
  • 16. 11 tổ chức THAHS chưa rõ ràng, thiếu sự quản lý tập trung, thống nhất vào một đầu mối. Hệ thống văn bản dưới luật nhiều nhưng lan man, chồng chéo và chưa đồng bộ. Mối quan hệ phối hợp trong lĩnh vực thi hành án hình sự giữa các ngành, các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc tổ chức thực hiện chưa cụ thể và thiếu chặt chẽ. Từ yêu cầu hoàn thiện đó, việc ban hành Luật Thi hành án hình sự là cần thiết, đáp ứng yêu cầu tất yếu, khách quan và mang tính chuyên môn hoá. Theo tinh thần cải cách tư pháp, việc ra đời Luật Thi hành án hình sự là cần thiết để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới, nhằm thống nhất và tập trung hệ thống văn bản pháp luật, mang tính đồng bộ và chuyên môn hoá. Luật Thi hành án hình sự ra đời đáp ứng yêu cầu chung về cải cách tư pháp đó là làm mới các quy định về thi hành án cho phù hợp với điều kiện, tình hình đất nước đó là: - Thể chế hoá các quy định về quyền lao động, học tập, nghỉ ngơi của phạm nhân, quyền, nghĩa vụ và lợi ích chính đáng khác của người chấp hành án vào luật. - Thay đổi hình thức thi hành án tử hình (hình thức tiêm thuốc độc thay cho hình thức xử bắn). Giải quyết cho thân nhân nhận tử thi, hài cốt của người bị thi hành án tử hình khi họ có nguyện vọng và làm đơn có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú và được Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm đồng ý. - Luật THAHS mới ra đời đã có quy định cơ quan tổ chức thi hành án cụ thể, rõ ràng gồm: Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án hình sự (Ở Bộ: có Trại giam thuộc Bộ Công an; Ở cấp tỉnh: Có cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; Cấp huyện: Có cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Ngoài các cơ quan nêu trên Luật Thi hành án hình sự còn quy định cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự gồm: Trại giam (thuộc Bộ Công an), Trại tạm giam (thuộc Công an cấp tỉnh); UBND xã, phường, thị trấn.
  • 17. 12 - Luật Thi hành án hình sự quy định cụ thể hơn về việc cho phạm nhân được gặp vợ (hoặc chồng) tại phòng riêng (phòng hạnh phúc - đặc biệt phạm nhân là nữ). - Về xét giảm án: Việc xét đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù bổ sung thêm thẩm quyền của cơ quan thi hành án hình sự cấp tỉnh (trước kia thuộc trại giam công an tỉnh) (Điều 33 Luật thi hành án hình sự). Theo đó, liên bộ gồm: Bộ công an, Bộ quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA- BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 Hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân. - Luật thi hành án hình sự cho phép phạm nhân trong trường hợp cấp bách thì được gửi điện tín, gọi điện thoại và chi phí do phạm nhân chi trả. - Các quy định về thi hành án phạt tù được ban hành dưới dạng Luật, thay thế cho dạng văn bản trước kia đều ban hành dưới hình thức là văn bản dưới luật, văn bản hành chính (Pháp lệnh, Thông tư liên ngành, Nghị quyết, Công văn, hướng dẫn…). Cụ thể như: Pháp lệnh thi hành án phạt tù, thông tư liên tịch, các Công văn hướng dẫn thủ tục trích xuất và đưa phạm nhân vào chấp hành án tại trại giam, công văn hướng dẫn việc hoãn thi hành án… - Luật thi hành án hình sự quy định: Nhiệm vụ tổng kết công tác thi hành án hình sự và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo thuộc Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cũng thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo quy định. Trước đây chưa có quy định cụ thể, thống nhất về chế độ thống kê, báo cáo tình hình, kết quả thi hành án hình sự. Tinh thần cải cách tư pháp đã được cụ thể hoá vào Luật thi hành án hình sự bằng việc thống nhất một cơ quan quản lý nhà nước về Thi hành án hình sự đó là: Ở Trung ương thành lập Tổng cục thi hành án hình sự và hỗ
  • 18. 13 trợ tư pháp (Tổng cục VIII-Bộ Công an) và ở địa phương là thành lập Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện. Tính nhân đạo trong cải cách tư pháp cũng được đưa vào Luật thi hành án hình sự bằng việc người bị kết án được cụ thể hoá hơn một số quyền dân chủ của mình mà trước kia họ không được thừa nhận như gọi điện tín trực tiếp về gia đình, gần gũi vợ con tại “buồng hạnh phúc” khi họ có nhiều cải tạo tiến bộ. 1.2. Toà án trong hoạt động thi hành án hình sự 1.2.1. Tổ chức Toà án làm công tác Thi hành án hình sự Luật tổ chức Toà án nhân dân không nêu chức năng thi hành án hình sự của Toà án nhưng đây là một chức năng lớn rất quan trọng, gắn liền với chức năng xét xử trong hệ thống toà án địa phương. Công tác thi hành án hình sự tại toà án rất nhiều lĩnh vực và đa dạng, phức tạp, không kém chức năng xét xử, khâu cuối của chuỗi hoạt động tố tụng công khai tại pháp đình. Tổ chức bộ máy cán bộ làm công tác thi hành án hình sự ở mỗi địa phương, tuỳ vào số lượng án xét xử, số lượng phạm nhân của các trại giam đóng trên địa bàn mà có số lượng cán bộ tương ứng. Trong cơ cấu các Toà, phòng thuộc Toà án nhân dân cấp tỉnh, công tác thi hành án hình sự được xem là một bộ phận với vai trò một bộ phận đặc biệt thuộc Chánh án. Hoạt động chuyên môn trực tiếp thuộc Chánh án nhưng sinh hoạt hành chính thuộc phòng giám đốc kiểm tra. Ở cấp huyện, việc theo dõi và phụ trách công tác thi hành án hình sự do một Thư ký đảm nhận và cũng thuộc Chánh án cấp huyện quản lý trực tiếp. Đối với các tỉnh, thành phố lớn, số lượng công việc nhiều, có nhiều trại giam (cả các trại giam của Bộ công an và trại giam thuộc công an tỉnh) đóng trên địa bàn thì biên chế ngành Toà án cũng chỉ giới hạn tối đa từ 3 đến 4 cán
  • 19. 14 bộ làm công tác thi hành án hình sự. Riêng đối với các toà án cấp tỉnh mà số lượng các vụ án hình sự ít, số phạm nhân đóng trên địa bàn tỉnh không nhiều thì đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án hình sự không quá 02 người. Ở hệ thống các Toà án nhân dân cấp huyện, cán bộ làm công tác Thi hành án hình sự có nơi có, có nơi chưa có chuyên trách mà chủ yếu là thư ký, kiêm nghiệm lĩnh vực công tác này bao gồm cả việc tham gia phiên toà xét xử, theo dõi và ra quyết định thi hành án, tổ chức thực hiện quyết định thì hành án cũng như các công tác liên quan đến hoạt động này. 1.2.2. Vai trò của Toà án trong thi hành án hình sự Tại Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [45, Điều 102, Khoản 1]. Như vậy, ngay trong Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2013 đã khẳng định ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân còn thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Đây là cơ sở pháp lý để khẳng định Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quan đến quyền con người, quyền của công dân, mà một trong những quyền đó chính là những quyền con người trong lĩnh vực Thi hành án hình sự. Thực tế hiện nay cho thấy vẫn có một số quan điểm khác nhau về thẩm quyền của Toà án trong thi hành án hình sự. Có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự không phải là một hoạt động chủ yếu của Toà án mà đó chỉ là những việc liên quan đến Toà án sau quá trình xét xử; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là việc chung của nhiều cơ quan tư pháp chứ không phải của riêng Toà án; có quan điểm cho rằng thi hành án hình sự là một lĩnh vực công tác chủ yếu của Toà án. Thực tế thì các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cũng không phân định rõ rệt cơ quan tư pháp nào có chức năng “cầm trịch” trong thi hành án. Do đó, mỗi quan điểm trên đều đưa ra những
  • 20. 15 lập luận riêng để bảo vệ quan điểm của mình. Xét về góc độ thực tiễn thì hiện nay một bản án, quyết định về hình sự có thể do nhiều cơ quan thi hành, nhất là trong trường hợp bản án, quyết định đó có nhiều bị cáo, có nhiều loại hình phạt được áp dụng hoặc có nhiều quyết định về dân sự, về hình phạt bổ sung (phạt tù giam, tù cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề… trong cùng một vụ án có nhiều bị án). Vì lẽ đó, trong phạm vi bài này, tác giả luận văn chỉ đề cập đến vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong công tác thi hành án mà không đi sâu về việc phân tích xem các quan điểm nào về việc “chủ trì” thi hành án hình sự là của cơ quan tư pháp nào. Theo quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự thì Toà án có thẩm quyền thực hiện các việc về thi hành án hình sự, đó là: - Ra quyết định thi hành án hình sự hoặc quyết định uỷ thác thi hành án hình sự. - Ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; - Quyết định giảm thời gian chấp hành hình phạt tù hoặc miễn chấp hành hình phạt tù; - Quyết định việc giảm thời gian thử thách của án treo; - Quyết định xoá án tích hoặc cấp giấy chứng nhận xoá án tích; - Theo dõi việc đưa người bị phạt tù giam vào trại giam để thi hành án hoặc theo dõi việc thi hành án của những người bị kết án mà Toà án đã giao cho chính quyền địa phương nơi người bị kết án cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi người bị kết án làm việc. - Xem xét việc miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí; - Tổ chức việc thi hành hình phạt tử hình; - Lập hồ sơ đặc xá (đối tượng đặc biệt), tham gia giúp Hội đồng đặc xá trung ương thực hiện việc đặc xá.
  • 21. 16 Như vậy, từ khi bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành án cho đến khi bản án, quyết định đó được thi hành xong đều là công việc của Toà án, tức là căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự, Toà án phải thực hiện bao quát, đầy đủ, nghiêm túc và chính xác nhằm đảm bảo các bản án, quyết định phải đưa ra thi hành được thực hiện nghiêm chỉnh. Thẩm quyền Thi hành án hình sự của Toà án được thể hiện cụ thể trong các công đoạn của Thi hành án hình sự như sau: a. Ra quyết định thi hành án hình sự Sau khi bản án được tuyên và có hiệu lực pháp luật thì Toà án có nhiệm vụ ra các quyết định thi hành án và chuyển giao quyết định cho các cơ quan có thẩm quyền thi hành. Về nguyên tắc, mọi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật đều phải được thi hành nghiêm chỉnh và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó. Về cơ bản, Toà án là cơ quan ra các loại quyết định thi hành án và đưa ra thi hành, theo dõi việc thi hành trong thực tế. Toà án ra quyết định thi hành án hình sự đối với những trường hợp bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà bản án, quyết định đó đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình, hình phạt trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng cho hưởng án treo… Trong thực tiễn công tác thi hành án hình sự hiện nay, việc đưa ra thi hành án và tổ chức thi hành các bản án, quyết địnhcủa Toà án có lúc, có nơi còn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu, tình hình cải cách tư pháp bởi lẽ: Các bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm hoặc quyết định của Hội
  • 22. 17 đồng giám đốc thẩm, tái thẩm thường được gửi muộn, không đáp ứng được quy định của pháp luật. Việc giao nhận bản án, quyết định thường rất chậm do sau khi xét xử, việc đánh máy bản án, quyết định chậm, việc rà soát, xin chữ ký trong bản án, quyết định cũng chậm và việc chuyển giao bản án, quyết định (gửi thông qua đường Bưu điện và gửi thường)… những việc phải làm sau khi xét xử mỗi khâu chậm một ít cũng khiến cho hầu hết Toà án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm không đảm bảo thời hạn giao bản án, quyết định trong thời hạn mười ngày đối với Toà án cấp phúc thẩm giám đốc thẩm cấp tỉnh, giám đốc thẩm, tái thẩm ở TANDTC và 25 ngày đối với Toà án cấp phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao. Từ những sự chậm trễ nêu trên đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định thi hành án hình sự của Toà án cấp sơ thẩm. Nếu đúng quy định của pháp luật thì từ khi bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên án hoặc ra quyết định thì chậm nhất là trong 17 ngày (10 ngày giao bản án, quyết định và 7 ngày ra quyết định thi hành án) và đối với các Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao là 32 ngày (25 ngày giao bản án, quyết định và 7 ngày ra quyết định thi hành án); 17 ngày (10 ngày giao quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm và 7 ngày ra quyết định thi hành án) thì các bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm phải được đưa ra thi hành. Trong thực tiễn, thời hạn trên không thực hiện được vì các lý do chậm trễ nên có thể Toà án cấp sơ thẩm ra quyết định thi hành án không đúng với thời hạn nêu trên. Trong trường hợp kéo dài thời hạn ra quyết định thi hành án, dù bất cứ lý do nào thì đó cũng là lỗi của Toà án và người bị kết án sẽ phải chịu thiệt thòi về “khoảng trống” mà Toà án đã tạo ra. Khi chưa có quyết định thi hành án thì người bị kết án chưa được chuyển sang trại cải tạo, trại giam và chưa được tham gia lao động, học tập để được tính thời hạn giảm án theo quy định. + Trong việc uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định thi hành
  • 23. 18 án. Toà án khác cùng cấp là cùng cấp huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh. Hiện nay tất cả các Toà án nhân dân cấp huyện, đều đã thực hiện thẩm quyền xét xử theo khoản 1 Điều 170 BLTTHS. Việc uỷ thác cho Toà án cùng cấp ra quyết định thi hành án hình sự chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau: Trường hợp thứ nhất: Sau khi Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định thi hành án và đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp để thi hành, nhưng cơ quan Công an cùng cấp thông báo bằng văn bản cho Toà án cùng cấp biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cư trú cụ thể, rõ ràng mà không phải là cố tình trốn tránh; Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác như: quá trình điều tra của cơ quan công an bị án có các địa chỉ cư trú và thường trú khác nhau hoặc tại phiên toà bị cáo khai địa chỉ cư trú hiện tại. Như vậy ở trường hợp thứ nhất thì Toà án sẽ phải ra hai quyết định, một là quyết định thi hành án và hai là quyết định uỷ thác thi hành án. Vấn đề là khi Toà án ra quyết định uỷ thác thi hành án và quyết định này chỉ ban hành sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án, đã gửi cho cơ quan Công an cùng cấp và nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an cùng cấp cho Toà án biết là người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể. Trường hợp này sẽ phát sinh vấn đề là quyết định thi hành án của Toà án cấp sơ thẩm đã ban hành nhưng không được thực hiện bởi Toà án sẽ phải ra quyết định uỷ thác thi hành án và có thể hiểu là quyết định uỷ thác thi hành án đã phủ định quyết định thi hành án trước đó, tức là quyết định thi hành án này không còn hiệu lực thi hành. Như vậy, Toà án ra quyết định uỷ thác cần huỷ bỏ quyết định thi hành án trước đó và thay thế bằng quyết định uỷ thác thi hành án mới và gửi quyết định uỷ thác thi hành án cùng với hai bản sao bản
  • 24. 19 án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho toà án nhận uỷ thác theo đúng mẫu số 07 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP, ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự). Trường hợp thứ hai: Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án có căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác. Vấn đề đặt ra là: Căn cứ về việc người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác xuất hiện vào thời điểm nào, trước hay sau khi Toà án ra quyết định thi hành án hình sự để thực hiện việc uỷ thác. Về vấn đề này, điểm 2 mục I Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao cũng không hướng dẫn cụ thể phải giải quyết thế nào. Theo tôi, có thể giải quyết như sau: - Nếu Toà án chưa ra quyết định thi hành án mà có căn cứ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác thì ra quyết định uỷ thác thi hành án, gửi cho Toà án được uỷ thác các tài liệu kèm theo, trong đó có tài liệu mà căn cứ vào tài liệu này, Toà án biết rõ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn của Toà án được uỷ thác thi hành án. Tài liệu này giúp cho Toà án được uỷ thác thi hành án ra quyết định thi hành án và tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan Công an thi hành quyết định của Toà án. - Nếu sau khi Toà án đã ra quyết định thi hành án mới biết là có căn cứ người bị kết án đang cư trú trên địa bàn hành chính khác, có thể thông tin (căn cứ) này không phải do cơ quan Công an cung cấp hoặc thông báo bằng văn bản mà do từ các nguồn thông tin khác thì Toà án sơ thẩm vận dụng, thực hiện việc uỷ thác thi hành án như hướng dẫn ở trường hợp thứ nhất (như việc nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan Công an về việc người bị kết án đã chuyển đi nơi khác và có địa chỉ cụ thể).
  • 25. 20 + Về việc Toà án được uỷ thác Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày nhận được quyết định uỷ thác thi hành án, Chánh án Toà án được uỷ thác phải ra quyết định thi hành án. - Nếu cơ quan Công an thông báo là người bị kết án đã chuyển đi cư trú tại địa bàn khác thì trả hồ sơ uỷ thác thi hành án cho Toà án đã uỷ thác và giải quyết: + Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án biết địa chỉ của người bị kết án thì thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này tiếp tục thực hiện việc uỷ thác cho Toà án nơi người bị kết án đang cư trú (có thể là Toà án thứ 3 nào đó); + Nếu Toà án được uỷ thác không xác định được địa chỉ mới của người bị kết án thì cũng thông báo cho Toà án đã uỷ thác để Toà án này ra quyết định thi hành án và yêu cầu cơ quan Công an ra quyết định truy nã. + Nếu Toà án được uỷ thác thi hành án thấy việc uỷ thác là không có căn cứ, không đúng thì phải thông báo bằng văn bản, trả lại hồ sơ uỷ thác và nêu rõ lý do để Toà án đã uỷ thác biết. Toà án đã uỷ thác nếu thấy việc từ chối uỷ thác là có căn cứ thì Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định hủy quyết định uỷ thác không có căn cứ. Việc ra quyết định thi hành án hay tiếp tục ra quyết định uỷ thác cho Toà án khác tuỳ thuộc vào việc có căn cứ để ra một trong hai quyết định này không. Để đảm bảo theo dõi, quản lý tốt việc uỷ thác, nhận uỷ thác thi hành án, tránh tình trạng Toà án đã uỷ thác thi hành án cho rằng sau khi đã gửi các tài liệu về uỷ thác thi hành án là đã hoàn thành nhiệm vụ, không còn thẩm quyền, không còn trách nhiệm và Toà án được uỷ thác có nhận được quyết định, tài liệu kèm theo việc uỷ thác thi hành án không, có ra quyết định thi hành án không, đồng thời tránh tình trạng Toà án được uỷ thác tuy nhận được là hồ sơ uỷ thác thi hành án nhưng không thực hiện việc ra quyết định thi hành án. Như vậy, có thể xảy ra (và trong thực tiễn đã xảy ra) trường hợp quyết định thi hành án được ban hành nhưng không gửi hoặc đã nhận hồ sơ thi hành án
  • 26. 21 nhưng không thực hiện. Cả hai trường hợp này đều dẫn tới người bị kết án vẫn không có quyết định thi hành án và nếu không bị phát hiện thì họ đương nhiên được hưởng thời hiệu thi hành án; điều này có nghĩa là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không còn được thi hành. Để quản lý chặt chẽ trong trường hợp này thì Toà án đã uỷ thác phải gửi kèm theo phiếu gửi hồ sơ, (văn kiện) và yêu cầu hoàn phiếu để làm căn cứ. Sau khi toà án nhận uỷ thác ra quyết định thi hành án (hoặc có công văn phản hồi) gửi hoàn phiếu gửi kèm theo quyết định thi hành án đối với người bị kết án cho toà án đã uỷ thác để Toà án đã uỷ thác làm căn cứ lưu hồ sơ kết thúc việc uỷ thác. Hiện nay, trong việc ra quyết định uỷ thác thi hành án, cách làm ở mỗi Toà án là khác nhau. Do vậy, Toà án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn, quy định cụ thể về vấn đề này. Theo tôi, nên có quy định cụ thể về thủ tục giao nhận hồ sơ uỷ thác thi hành án đối với các Toà án. Chẳng hạn Toà án đã uỷ thác phải gửi cùng hồ sơ uỷ thác phiếu gửi, Toà án được uỷ thác phải ký, đóng dấu vào phiếu gửi và gửi trả lại Toà án đã uỷ thác như một xác nhận đã nhận được hồ sơ uỷ thác thi hành án, phiếu gửi này được lưu tại Toà án đã uỷ thác để xác định đã gửi hồ sơ uỷ thác và Toà án đã nhận uỷ thác thi hành án. Cũng có thể quy định Toà án được uỷ thác phải gửi cho Toà án đã uỷ thác quyết định thi hành án hoặc thông báo bằng văn bản cho Toà án đã uỷ thác và các tài liệu này được lưu tại Toà án đã uỷ thác để quản lý, theo dõi chặt chẽ việc uỷ thác thi hành án hình sự. Vai trò của Toà án trong trường hợp này cần được khẳng định, nhìn nhận đúng đắn để các cơ quan bổ trợ tư pháp (Cơ quan Thi hành án hình sự) và Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền cần có trách nhiệm và nghĩa vụ xác định nơi cư trú của người bị kết án kịp thời, để việc ban hành quyết định thi hành án của Toà án đưa vào thực thi trên thực tế có hiệu quả và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tránh tình trạng kéo dài việc thi hành bản án khi phát sinh trường hợp người bị kết án có thay đổi về địa chỉ cư trú.
  • 27. 22 b. Hoãn chấp hành án phạt tù Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc Toà án đã ra quyết định thi hành án đối với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại, nhưng xét thấy có những căn cứ quy định tại Điều 61 BLHS hoặc xét thấy có căn cứ khác để chưa buộc họ phải chấp hành hình phạt ngay. Quy định về việc tạm hoãn thi hành án là biểu hiện một cách sâu sắc nguyên tắc nhân đạo của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Thẩm quyền hoãn chấp hành hình phạt tù thuộc Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù (chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm). Về nguyên tắc luật không bắt buộc toà án phải cho hoãn trong tất cả mọi trường hợp mà có thể cho hoãn thi hành án. Do đó, pháp luật hiện hành đã tôn trọng quyền quyết định của Toà án bằng việc để toà án xem xét có thể cho người bị kết án đó được hoãn hay không nếu thấy cần thiết và xét thấy họ đủ điều kiện. Trên tinh thần cải cách tư pháp, để thống nhất trong việc xét hoãn chấp hành hình phạt tù, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 “Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt”. Mục 7.2 của Nghị quyết quy định: Khi người bị xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 này, thì toà án cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù. Toà án cũng có thể cho người bị xử phạt tù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 61 của BLHS mà không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 7.1 mục 7 này được hoãn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét rất chặt chẽ [64]. Hồ sơ hoãn thi hành án cần có Đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù của người bị kết án hoặc của người thân thích của người bị kết án có xác nhận của chính quyền nơi người đó cư trú về lý do xin hoãn chấp hành hình phạt tù và thái độ chấp hành chính sách pháp luật tại địa phương. Việc Toà án yêu
  • 28. 23 cầu phải có đơn để thể hiện ý chí của người bị kết án đồng thời thái độ của chính quyền địa phương về yêu cầu hoãn chấp hành án của họ để Tòa án xem xét. Trong thực tiễn, nhiều người bị kết án lợi dụng chính sách này để chây ì nên không làm đơn, cơ quan công an không thể áp giải vì họ có điều kiện để được hoãn chấp hành hình phạt tù. Khi gặp trường hợp này, Tòa án cần phải lập biên bản giải thích, quy định thời hạn nộp đơn, quá thời hạn quy định mà họ không nộp đơn thì không có cơ sở để xem xét việc hoãn chấp hành án, Tòa án cần có văn bản báo cho cơ quan công an được biết và yêu cầu cơ quan công an áp giải thi hành án đối với người bị kết án. Các tài liệu chứng minh về lý do hoãn thi hành án như: Bản sao khai sinh của con dưới 36 tháng tuổi; các loại giấy tờ của cơ quan y tế về trường hợp bị bệnh nặng; bản toàn sao hộ khẩu để xác định hoàn cảnh gia đình có phải là lao động duy nhất; giấy chứng nhận vì nhu cầu công vụ… Pháp luật quy định việc tạm hoãn thi hành án đối với người bị bệnh hiểm nghèo là “đến khi sức khoẻ hồi phục”. Nhưng thực tế hiện nay, các Toà án nhiều địa phương cũng đã và đang vận dụng linh hoạt trong việc tạm hoãn, tạm đình chỉ bằng việc ấn định thời gian tạm hoãn, tạm đình chỉ cụ thể đối với các trường hợp người bị kết án được tạm hoãn, tạm đình chỉ vì lý do “bệnh hiểm nghèo”. Hoặc đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ thì được hoãn đến 36 tháng tuổi nhưng nếu Tòa án ra quyết định hoãn 3 năm thì sẽ khó theo dõi lý do hoãn có sự thay đổi nào không (ví dụ như họ không còn mang thai hoặc con đã chết hay giao cho người khác nuôi dưỡng). Do vậy, khi xem xét để có thể cho hoãn chấp hành án thì Tòa án cần chú ý về thời hạn, mặc dù luật đã quy định thời gian là 36 tháng đối với trường hợp “phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi”; 01 năm đối với “Lao động duy nhất” và đến khi sức khoẻ hồi phục đối với trường hợp “Bệnh hiểm nghèo”. Bằng quyền tự quyết của mình, các Toà án đã ấn định thời gian tạm
  • 29. 24 hoãn thi hành án ngắn lại nhằm mục đích dễ theo dõi, quản lý người được tạm hoãn thi hành án. Khi hết thời hạn tạm hoãn, nếu họ đủ điều kiện và thủ tục, Toà án tiếp tục xem xét để ra quyết định hoãn thi hành án đối với họ. Do đó, việc theo dõi, giám sát của chính quyền địa phương, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện trong việc định kỳ trình diện, báo cáo (3 tháng một lần) của người được hoãn thi hành án (quy định tại Khoản 3, Điều 24 Luật Thi hành án hình sự) cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ, đặc biệt là đối tượng về các tội ma tuý, coi đây là kẽ hở để lợi dụng trốn tránh pháp luật và tiếp tục hành vi phạm tội. Đối với những trường hợp bị bệnh nặng thì phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên thì Tòa án cho hoãn có thời hạn như trên, nếu Tòa án cho hoãn đến khi sức khỏe phục hồi thì phải có sự kiểm tra về sức khỏe để xác định bệnh chưa hồi phục. Đối với trường hợp là lao động duy nhất thì phải hiểu trong gia đình chỉ có người bị kết án là người lao động, ngoài họ ra không còn ai có thể lao động để nuôi sống gia đình (ví dụ trong gia đình còn lại người trên 60 tuổi, trẻ em, người khuyết tật mà họ phải nuôi dưỡng…), đơn của người bị kết án xin hoãn với lý do là lao động duy nhất phải có xác nhận của chính quyền địa phương về điều kiện, hoàn cảnh là thực tế. Nếu thấy có đủ điều kiện thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án cho người bị kết án được hoãn chấp hành án; trường hợp không chấp nhận thì phải thông báo nêu rõ lý do không chấp nhận. Chậm nhất là 7 ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Tòa án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành hình phạt tù và gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
  • 30. 25 Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù có thể tự mình xét và ra quyết định cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù nếu người thân thích của người bị kết án (cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em…) hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú có đề nghị bằng văn bản. Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị hoặc xin hoãn chấp hành án phạt tù, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy có tài liệu nào chưa đủ hoặc cần làm rõ hơn thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù bổ sung, làm rõ thêm (kể cả cơ quan Công an hoặc Viện kiểm sát đề nghị). Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu bổ sung, làm rõ, Chánh án Toà án phải quyết định cho hoãn hoặc không cho hoãn chấp hành án phạt tù. Nếu không chấp nhận thì Chánh án phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn biết, trong đó phải nêu rõ lý do về việc không chấp nhận đề nghị hoãn. Nếu chấp nhận thì Chánh án ra quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù và quyết định này được gửi cho người được hoãn chấp hành hình phạt tù cho các cơ quan có thẩm quyền để theo dõi, quản lý theo quy định của pháp luật. Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị đối với văn bản thông báo không chấp nhận đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù ví lý do không xác đáng hoặc kháng nghị quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù vì không có căn cứ thì Chánh án phải xem xét để nếu có căn cứ thì huỷ bỏ thông báo hoặc quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù và thay bằng quyết định mới. Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan Công an cùng cấp và người bị kết án trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
  • 31. 26 Nếu quá thời hạn bảy ngày kể từ ngày hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù. Như vậy, các Toà án cấp sơ thẩm phải có sổ theo dõi về việc hoãn chấp hành hình phạt tù. Sổ theo dõi, quản lý được thể hiện đầy đủ thông tin người được tạm hoãn thi hành án, các tiêu chí theo dõi phải được thể hiện như: họ và tên người bị kết án; số bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, ngày tháng năm của bản án, quyết định đó; tội danh và mức hình phạt tù; Lý do được hoãn chấp hành hình phạt tù; Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù số, ngày tháng năm; thời gian được hoãn; ngày hết hạn hoãn; hoãn lần thứ mấy… Từ những tiêu chí theo dõi, quản lý nêu trên, Toà án có căn cứ để ra quyết định thi hành án (tiếp tục thi hành án), có căn cứ để khi thấy cần thiết Chánh án tự mình cho hoãn (nếu như thời hạn được hoãn vẫn còn, ví dụ như hoãn lần 1 là 6 tháng, vẫn có thể cho hoãn tiếp lần thứ hai 6 tháng hoặc 2 lần nữa mỗi lần 3 tháng để tổng các lần hoãn vì người bị kết án là lao động duy nhất hoặc vì lý do công vụ không quá một năm). Trường hợp không có căn cứ cho hoãn nữa (con đã đủ 36 tháng tuổi, có thai nhưng đã sảy thai, con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đã bị chết hoặc không được Toà án giao nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi ly hôn…) thì thủ tục để buộc người bị kết án chấp hành hình phạt tù đúng như quy định tại đoạn một, khoản 2 Điều 261 BLTTHS. Nếu quá 7 ngày kể từ ngày hết hạn hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan công an, không có lý do chính đáng thì cơ quan Công an phải áp giải người đó đi chấp hành hình phạt tù. c. Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù là việc Toà án cho người đang
  • 32. 27 chấp hành hình phạt tù tạm thời không phải chấp hành hình phạt tù khi có các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS. Người đang chấp hành hình phạt tù thuộc đối tượng của việc tạm đình chỉ là người bị kết án phạt tù giam, đang bị giam giữ hoặc cải tạo tại các trại giam. c.1. Thẩm quyền và thủ tục tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù - Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thể cho người bị kết án phạt tù, đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù nếu người đó bị bệnh nặng (điểm a, khoản 1, Điều 61 BLHS). Đây là một quy định mới so với quy định trước đây là Chánh án đã ra quyết định thi hành án có thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ trong mọi trường hợp. Sở dĩ có sự thay đổi này vì quy định trước đây không phù hợp bởi lẽ sau khi có quyết định thi hành án, cơ quan Công an sẽ đưa người phải chấp hành hình phạt tù đi cải tạo tại các trại giam và thực tế là không phải trại giam nào cũng gần nơi Toà án đã ra quyết định thi hành án. Do đó, khi người bị kết án bị bệnh nặng, việc xem xét, giải quyết để có thể ra quyết định tạm đình chỉ thường không kịp thời. Quy đinh Chánh án TAND cấp tỉnh nơi người đang chấp hành hình phạt tù có thẩm quyền xem xét, ra quyết định tạm đình chỉ sẽ đảm bảo thuận lợi và nhanh chóng, kịp thời hơn khi người chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng. - Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án có thể cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 61 và Điều 62 BLHS. Thẩm quyền này thuộc Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc cấp huyện nếu Chánh án Toà án đó đã ra quyết định thi hành án (nghĩa là Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án). Quy định này không có gì khác với quy định trước đây, vì việc tạm đình chỉ trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù
  • 33. 28 là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; là người lao động duy nhất trong gia đình hoặc bị kết án về tội ít nghiêm trọng nhưng do nhu cầu công vụ được đề nghị xét tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trong thực tiễn áp dụng là phù hợp, không phát sinh các vướng mắc lớn đến mức phải sửa đổi, bổ sung. c.2. Thủ tục để tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù - Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án xem xét, quyết định cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù khi có hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù do Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hoặc Ban giám thị Trại giam, Trại tạm giam lập và gửi Toà án hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT ngày 18/5/2006 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, TANDTC, VKSNDTC “Hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng”. c.3. Thời hạn ra Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phải xem xét các căn cứ, điều kiện tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù quy định của pháp luật để quyết định cho hoặc không cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Trường hợp tài liệu trong hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ không đầy đủ, không rõ ràng thì Chánh án yêu cầu cơ quan đề nghị (lập hồ sơ) bổ sung, làm rõ thêm. Yêu cầu này của Chánh án phải bằng văn bản. Thời hạn 5 ngày để
  • 34. 29 xem xét chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được tính lại kể từ khi Chánh án Toà án nhận được tài liệu bổ sung hoặc ý kiến bằng văn bản trả lời của cơ quan đề nghị tạm đình chỉ về vấn đề Toà án yêu cầu cần phải bổ sung hoặc làm rõ thêm. + Nếu chấp nhận đề nghị tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án phạt tù phải ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù và gửi cho người được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; Trại giam hoặc Trại tạm giam nơi người đang chấp hành hình phạt tù; Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; Chính quyền xã, phường, thị thẩm hoặc cơ quan, tổ chức nơi người được tạm đình chỉ thường trú hoặc làm việc, để quản lý người đó. + Nếu Toà án không chấp nhận đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì thông báo bằng văn bản cho cơ quan đề nghị tạm đình chỉ nêu rõ lý do về việc không chấp nhận cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Nếu Viện kiểm sát kháng nghị đối với thông báo không chấp nhận cho tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù vì lý do Toà án đưa ra không xác đáng hoặc đủ căn cứ, thì Chánh án Toà án đã ra quyết định tạm đình chỉ hoặc ra thông báo phải xem xét. Trường hợp kháng nghị của Viện kiểm sát có căn cứ thì nếu kháng nghị thông báo thì phải ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; nếu kháng nghị quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù. Chánh án Toà án nơi người được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù cư trú hoặc làm việc còn có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức để theo dõi việc chấp hành quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để nếu trong thời gian được
  • 35. 30 hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù mà người đó có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có căn cứ bỏ trốn thì phải thông báo cho Chánh án Toà án đã cho hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù biết để huỷ bỏ các quyết định đó và ra ngay quyết định thi hành án phạt tù để cơ quan Thi hành án hình sự áp giải vào trại giam, buộc người đó phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù. d. Giảm thời hạn chấp hành án phạt tù Giảm thời hạn chấp hành án phạt là việc Toà án nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào những quy định tại Điều 58 BLHS, Điều 268 Bộ luật tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC- VKSNDTC, ngày 15/5/2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “Hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân” để quyết định giảm mức hình phạt đã tuyên đối với người bị kết án. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, giảm mức hình phạt đã tuyên là sự thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội khi họ đáp ứng đầy đủ một số điều kiện nhất định trong quá trình cải tạo và được công nhận là có tiến bộ. Chính sách này của Nhà nước nhằm khuyến khích người bị kết án cải tạo tốt, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Cũng như giai đoạn xét xử, việc giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho người bị kết án được pháp luật giao cho Toà án là cơ quan quyết định. Căn cứ vào quá trình chấp hành hình phạt của người bị kết án, mức án, mức đề nghị của cơ quan quản lý phạm nhân và nhân thân của người bị kết án, Toà án có thể quyết định mức giảm nhiều hay ít trên cơ sở đánh giá toàn diện, khách quan được phản ảnh qua hồ sơ cải tạo của người bị kết án. Theo quy định tại Điều 58 BLHS, Toà án chỉ có thẩm quyền xét giảm mức hình phạt đã tuyên đối với các loại hình phạt: Cải tạo không giam giữ, tù
  • 36. 31 có thời hạn, tù chung thân, phạt tiền. Việc xem xét để ân giảm hình phạt tử hình thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước. Trường hợp người bị kết án đã được đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà vi phạm Nội quy trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ hoặc có hành vi vi phạm pháp luật trước khi có quyết định giảm của Tòa án, thì Giám thị trại giam, trại tạm giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải báo cáo kịp thời với Toà án đã ra quyết định xét giảm án để Tòa án đã xét giảm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án để loại phạm nhân đó ra khỏi danh sách xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Thủ tục xét giảm án: Tòa án nhân dân cấp tỉnh mở phiên họp xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù bằng Hội đồng gồm ba Thẩm phán, có sự tham gia của Kiểm sát viên cùng cấp. Hội đồng có thể họp tại trụ sở Tòa án hoặc tại trại giam, trại tạm giam nơi phạm nhân đang chấp hành án phạt tù. Việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được tiến hành như sau: + Một thành viên của Hội đồng trình bày hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù do trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hoặc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu gửi đến; + Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến; + Hội đồng thảo luận và xem xét, quyết định. - Trên cơ sở xem xét hồ sơ và ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng quyết định: + Không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù; + Chấp nhận toàn bộ hoặc một phần đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Hội đồng không được quyết định mức giảm cao hơn mức đề nghị của
  • 37. 32 trại giam, trại tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu hoặc Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu; - Đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm, đến ngày Hội đồng họp xét giảm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn tù còn lại [13]. d.1. Thi hành Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù - Quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp thời gian được giảm bằng thời hạn tù còn lại phải chấp hành thì quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay. - Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải tổ chức công bố công khai quyết định của Tòa án về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho toàn thể phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ biết và làm thủ tục trừ thời hạn chấp hành án phạt tù cho phạm nhân để lưu hồ sơ phạm nhân. d.2. Những điểm mới về xét giảm án so với trước khi ban hành Thông tư 02/2003/TTLT, ngày 15/5/2013 - Về điều kiệm giảm án: + Người bị kết án đã chấp hành được ít nhất 1/3 thời hạn đối với hình phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc 12 năm đối với tù chung thân; Chấp hành tốt Nội quy trại giam, tích cực học tập, lao động cải tạo; Đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định. + Mỗi phạm nhân mỗi năm chỉ được xét giảm án một lần, khoảng cách giữa 2 lần xét giảm ít nhất là 1 năm, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo có thể được xét giảm thêm nhưng không được quá 2 lần/năm. Nếu
  • 38. 33 phạm nhân đã được xét giảm mà hạn tù còn lại không đủ 1 năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn trước một đợt, nhưng bảo đảm chỉ được xét giảm 1 lần/năm. - Về mức giảm: + Phạm nhân bị phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mỗi lần có thể được giảm từ một tháng đến ba năm (trước đây quy định từ 3 tháng đến 3 năm). + Mỗi năm một phạm nhân chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù một lần. Trường hợp đã được giảm mà thời hạn tù còn lại không đủ một năm thì năm tiếp theo có thể đề nghị xét giảm sớm hơn trước một đợt, nhưng vẫn phải bảo đảm mỗi năm chỉ được xét giảm một lần. + Đối với những trường hợp phạm nhân lập công, đã quá già yếu, mắc bệnh hiểm nghèo thì mỗi lần giảm cao nhất cỏ thể là 4 năm nhưng phải bảo đảm thực tế chấp hành án phạt tù ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên hoặc 15 năm đối với hình phạt tù chung thân. + Đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội đã lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm ngay mà không cần điều kiện đã chấp hành được ít nhất một phần tư mức hình phạt đã tuyên và mức giảm mỗi lần cao nhất đối với phạm nhân là người chưa thành niên phạm tội là bốn năm, nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên và sau khi được xét giảm, thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá một năm thì có thể được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại. + Đối với phạm nhân được đề nghị xét giảm, đến ngày Hội đồng họp xét giảm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định giảm hết thời hạn tù còn lại - Những trường hợp có nhiều tiền án, phạm tội mới: Nếu phạm nhân có tiền án phải có thời gian thử thách và có số kỳ xếp
  • 39. 34 loại từ khá trở lên nhiều hơn so với những phạm nhân chưa có tiền án, ứng với mỗi tiền án là một kỳ sáu tháng xếp loại từ khá trở lên. Đối với phạm nhân bị phạt tù từ 3 năm trở xuống, ứng với mỗi tiền án là một quý xếp loại từ khá trở lên. Phạm nhân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù mà phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phải chấp hành được ít nhất hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là tù chung thân và phải có đủ điều kiện xếp loại theo quy định quy định thì mới được xem xét, đề nghị giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. đ. Miễn chấp hành án phạt tù Miễn chấp hành án phạt tù là việc Toà án có thẩm quyền ra quyết định không buộc người đã bị kết án phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên đối với họ. - Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết miễn chấp hành hình phạt. + Thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh. Theo quy định tại Điều 269 BLTTHS, Tòa án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc. Như vậy, chỉ có Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc mới có thẩm quyền giải quyết miễn chấp hành hình phạt tù; quy định này không lệ thuộc bản án do cấp nào xét xử. Đối với các trường hợp miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết 32/1999/QH10 của Quốc hội khoá X được thực hiện theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh ra quyết định miễn chấp hành hình phạt tù; + Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện Việc miễn chấp hành các hình phạt khác thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện. Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện ra quyết định
  • 40. 35 miễn chấp hành đối với các hình phạt không phải là hình phạt tù và cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội đối với trường hợp theo Nghị quyết 32/1999/QH10 - Thủ tục miễn chấp hành hình phạt tù: Tòa án thành lập hội đồng xét miễn chấp hành hình phạt tù gồm 3 Thẩm phán (trong đó có một Thẩm phán chủ tọa và hai Thẩm phán thành viên), phiên họp xét miễn chấp hành hình phạt phải có sự tham gia của Đại diện Viện kiểm sát và thư ký Tòa án ghi biên bản. Đối với các trường hợp miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết 32/1999/QH10 thì phải do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị và Chánh án tự mình ra quyết định mà không cần thành lập Hội đồng. e. Miễn, giảm chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ Về cơ bản, thẩm quyền và các điều kiện để miễn, giảm chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cũng tương tự như miễn, giảm chấp hành án phạt tù (Các Điều 57, 58, 59, 76 Bộ luật hình sự Điều 269 BLTTHS và mục IV Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 12/10/2007). - Thẩm quyền quyết định miễn, giảm án hạt cải tạo không giam giữ thuộc Toà án nhân dân cấp huyện, nơi người bị kết án chấp hành hình phạt. Hội đồng xét giảm án phạt cải tạo không giam giữ được thành lập ở Toà án cấp huyện, thành phần có thể là hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân (khi các Toà án này không đủ ba Thẩm phán). - Quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cũng giống như quyền hạn của Hội đồng xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, (chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị giảm thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ). g. Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí Miễn, giảm thi hành án đối với khoản tiền phạt, án phí là những trường hợp người phải thi hành các khoản tiền này theo bản án, quyết định của Toà án, nhưng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định nên được Toà án có thẩm quyền quyết định miễn hoặc giảm khoản tiền mà họ phải thi hành.
  • 41. 36 Việc miễn giảm thi hành đối với khoản tiền phạt, án phí, tuy không phải vấn đề lớn đối với hệ thống các quy phạm pháp luật chung, nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống xã hội, mà đặc biệt là đối với người vi phạm pháp luật phải chịu hình phạt cả về kinh tế lẫn nhân thân. Chính sách này của nhà nước nhằm mục đích lớn lao là cho người phạm tội thấy được sự khoan hồng của nhà nước, tính nhân đạo trong nhìn nhận, đánh giá điều kiện kinh tế, sự khó khăn của người đã từng vướng vòng lao lý mà hiện tại, họ chưa thể vượt qua khó khăn và khắc phục được hậu quả mà mình gây ra cho người khác, cho xã hội Thẩm quyền xem xét, quyết định miễn giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự đã được quy định tại Luật Thi hành án dân sự năm 2008: “Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện, nơi cơ quan thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở” [41, Điều 63]. Thẩm quyền xét miễn, giảm hình phạt tiền được quy định tại đoạn 3 khoản 1 Điều 269 Bộ luật Tố tụng hình sự: “... Việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình phạt hoặc chịu thử thách” [40, Điều 269, Khoản 1]. Căn cứ vào hồ sơ được lập từ cơ quan Thi hành án dân sự, Toà án mở phiên họp xét việc miễn, giảm thi hành án để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận việc đề nghị miễn, giảm thi hành án. Việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện) nơi cơ quan Thi hành án dân sự đang tổ chức việc thi hành án có trụ sở. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, Toà án phải thụ lý hồ sơ; Trong thời hạn
  • 42. 37 20 ngày, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phải mở phiên họp xét miễn, giảm án phí, tiền phạt (nghĩa vụ thi hành án). Phiên họp xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án do một Thẩm phán chủ trì, có sự tham dự của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan Thi hành án dân sự đã đề nghị xét miễn, giảm. Căn cứ vào hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm, Thẩm phán ra quyết định chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận đề nghị miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án (tiền phạt, án phí). h. Rút ngắn thời gian thử thách của án treo Rút ngắn thời gian thử thách của án treo là việc Toà án căn cứ vào các quy định của pháp luật để rút ngắn thời gian thử thách đã tuyên trong bản án đối với người bị kết án treo có nhiều tiến bộ trong quá trình cải tạo tại địa phương. Theo quy định tại Bộ luật hình sự thì: “Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể rút ngắn thời gian thử thách” [42, Điều 60, Khoản 4]. - Trình tự, thủ tục, thẩm quyền xét, quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành án treo cư trú thành lập Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo và phân công Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định ngày mở phiên họp xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo và thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để cử Kiểm sát viên tham dự phiên họp. Trường hợp cần phải bổ sung tài liệu hoặc tài liệu chưa rõ thì Thẩm phán yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự bổ sung hoặc làm rõ thêm. Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo gồm ba Thẩm phán (đối với toà án có đủ thẩm phán) hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm (đối với
  • 43. 38 Tòa án cấp huyện không có đủ ba Thẩm phán) và có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Hội đồng có thể mở phiên họp tại trụ sở của Tòa án hoặc tại trụ sở của cơ quan thi hành án hình sự đã lập hồ sơ đề nghị. Trên cơ sở hồ sơ và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét rút ngắn thời gian thử thách của án treo có quyền: Chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo. (Trường hợp chấp nhận toàn bộ đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo mà thời gian thử thách còn lại không quá một tháng, thì Hội đồng có thể quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại); Chấp nhận một phần đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo hoặc không chấp nhận đề nghị rút ngắn thời gian thử thách của án treo. Việc Toà án có chấp nhận rút ngắn thời gian thử thách của án treo đối với người bị kết án hay không là do nhận định của thẩm phán và trên cơ sở hồ sơ được lập theo các bước, trình tự mà pháp luật quy định. Toà án có thể quyết định hoặc không, rút ngắn một phần hoặc toàn bộ phần còn lại của thời gian thử thách tuỳ thuộc vào đánh giá mức độ chấp hành của người bị kết án và đánh giá, nhận xét của cơ quan đề nghị. i. Thời hiệu thi hành án Thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó, người bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên. Theo đó, khi hết thời hiệu thi hành án, Toà án ra văn bản “thông báo thời hiệu” cho người bị kết án và chuyển cho cơ quan thi hành án hình sự và các cơ quan liên quan để dừng hay kết thúc việc thi hành án đối với người được hưởng thời hiệu. Thông báo này được coi như một quyết định tố tụng, tuyên bố họ được hưởng thời hiệu và không phải chấp hành hình phạt mà bản án đã tuyên trước đó đối với họ. Với vai trò là cơ quan xét xử, Toà án đã tuyên bản án có hiệu lực pháp luật và đưa ra thi hành trên thực tế. Nhưng do lỗi ở một khâu nào đó mà bản
  • 44. 39 án, quyết định của Toà án bị bỏ quên hoặc bị thất lạc do lỗi của cơ quan có thẩm quyền gây ra thì Toà án có trách nhiệm xét thời hiệu cho họ khi đủ các điều kiện mà pháp luật quy định họ được hưởng thời hiệu. Quy định này đưa ra là nhân đạo và có tính dự phòng cao trên thực tế bởi lẽ: Không tránh khỏi trường hợp có lúc, có nơi để xảy ra trường hợp này mà không phải do lỗi của người bị kết án. Trong tiến trình cải cách tư pháp, thiết nghĩ cần nâng cao vai trò của các cơ quan trong việc quản lý, theo dõi thi hành án, đặc biệt là Toà án. Bởi lẽ, Toà án là cơ quan ra quyết định và có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi việc thi hành bản án một cách có hiệu quả nhất. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ toà án phải đủ mạnh, đủ lớn để quán xuyến, theo dõi một cách hệ thống, có khoa học, tránh sơ suất trong quá trình các cơ quan có thẩm quyền thi hành bản án của toà án dẫn đến pháp luật bị coi thường và thiếu tính công bằng, nghiêm minh. k. Xoá án tích Xóa án tích là một chế định quan trọng, thể hiện nguyên tắc nhân đạo, dân chủ xã hội chủ nghĩa và tôn trọng quyền con người, góp phần giúp người phạm tội không bị mặc cảm trong quá trình hòa nhập cộng đồng. Xoá án tích là việc Toà án (cơ quan đại diện cho nhà nước về tư pháp) thừa nhận hành vi phạm tội trước kia của người được xoá án tích đã sạch sẽ, lý lịch của họ được coi như chưa bị kết án. Người được xoá án tích được thực hiện đầy đủ, trọn vẹn các quyền của mình như những người công dân bình thường khác sau khi đã được Toà án cấp giấy chứng nhận hoặc ra quyết định xoá án tích. - Đương nhiên xoá án tích Toà án xem xét hồ sơ của người xin xoá án tích nếu thấy đủ điều kiện quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự, Thông tư 02/TTLN ngày 01/8/1986 của TANDTC, VKSNDTC, BNV thì tự mình ra “Giấy chứng nhận xoá án tích” cho người bị kết án. Giấy chứng nhận xoá án tích là văn bản xác nhận của Toà