SlideShare a Scribd company logo
1 of 111
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA VIỆN KIỂM SÁT
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI
VIỆN KIỂM SÁT
HÀ NỘI - 2021
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ BẢO
ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN HÌNH SỰ.......................................................................................................................9
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời, quyền con ngƣời và bảo đảm quyền
con ngƣời trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.................9
1.1.1. Khái niệm quyền con người...........................................................................................9
1.1.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự10
1.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự..............................................................................................................................23
1.2. Vị trí, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.......26
1.2.1. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự...................................................................27
1.2.2. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự.........................................................................................29
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đảm
quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử trƣớc
khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003....................................33
1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 1960...............................................................................................................................33
1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời.............................35
1.3.3. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
39
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NĂM 2003 VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.....44
2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc
bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân..................................................44
2.1.1. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự...................................................................45
2.1.2. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..................................................................50
2.1.3. Về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự................................................62
2.2. Thực tiễn hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát
nhân dân trong các giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.......66
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .. 66
2.2.2. Những hạn chế trong hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện
kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 72
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ...........................................................................................................77
3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự..........................77
3.1.1. Hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.......................77
3.1.2. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn, và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo
đảm quyền con người 83
3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao vai trò của viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự 89
3.2.1. Nâng cao nhận thức của dội ngũ cán bộ Kiểm sát viên về quyền
con người và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm
quyền con người 89
3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về năng lực
trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp 91
3.2.3. Tổ chức thực hiện tốt chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, để
bảo đảm các quyền con người trong tố tụng hình sự 92
3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát ...........94
3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương,
phụ cấp ưu đãi...... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán
bộ ngành Kiểm sát 95
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................................98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 101
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Kết quả kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 05 năm (2010-2014) 678
Bảng 2.2: Kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự 05 năm 2010-2014 70
Bảng 2.3: Số tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn trong giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự 05 năm 2010-2014 734
Bảng 2.4: Số vụ án Tòa án trả điều tra bổ sung 05 năm 2010-2014 74
Bảng 2.5: Số vụ án, bị can đình chỉ điều tra trong 05 năm 2010-2014 74
Bảng 2.6: Số người bị tạm giữ, tạm giam quá hạn trong 05 năm
2010-2014 75
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 08/12/1956, tại lớp Nghiên cứu Chính trị khóa hai trường Đại học
nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân” [29, tr. 276]. Nhân dân là những con người
cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm được. Kế thừa
tư tưởng ấy, trong việc thực hiện và hoạch định các chính sách phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh - quốc phòng những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã
đặt “Con người” là trung tâm - chủ thể của chiến lược, quá trình phát triển.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất
nước và quyền làm chủ của nhân dân” [18]. Gần đây, thể chế hóa đường lối
của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Chương về “Quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã được đưa lên vị trí thứ 2, chỉ sau Chương I
về “Chế độ chính trị”. Quy định này phản ánh quyết tâm của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta trong thực hiện quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh
đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong
việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Việc bảo đảm thực hiện các quyền con người bằng pháp luật là một
trong những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện quyền con người, đặc biệt
là trong lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chính là
công cụ sắc bén của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo đảm những giá trị vật chất, tinh thần
chân chính của con người và xã hội. Việc bảo đảm các quyền con người,
1
quyền công dân bằng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
thực thi pháp luật có hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi quyền con người
trong tố tụng hình sự là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương, nhất là
quyền an toàn về thân thể (quyền được sống, được bảo đảm về tính mạng, sức
khỏe…), danh dự và nhân phẩm của cá nhân.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát nhân dân có
vai trò chủ động trong việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người trong các
hoạt động tố tụng khi các Cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan khác được
giao thực hiện một số hoạt động tố tụng) thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự.
Với việc ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, để
từ đó khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị vi phạm, áp dụng và kiến nghị các
biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân
thực sự là “một lá chắn đáng tin cậy bảo vệ quyền con người” [11, tr. 48].
Thực tiễn cho thấy, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo
đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và việc bảo
đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng đã đạt được
những kết quả nhất định. Các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về cơ
bản đã được bảo đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế
vẫn còn có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Cơ
quan điều tra chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền
công dân, thậm chí là vi phạm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình
sự (có thể là các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố tụng lạm dụng
việc bắt giữ, khởi tố, bắt tạm giam sau đó phải đình chỉ điều tra do không
phạm tội…). Để xảy ra những vi phạm, thiếu sót đó, có trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân chưa thực hiện được đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình
trong hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố - điều tra
các vụ án hình sự.
2
Việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình để đánh giá thực
trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp hoàn thiện bộ luật tố
tụng hình sự, là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ,
kiểm sát viên về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng chống tội phaṃ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tư ̣an toàn xã
hội, bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người
trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân”, làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người và
bảo đảm quyền con người như: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự,
luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Sách tham khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004, của TS. Trần Quang Tiệp; “Quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp Việt Nam” (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội, 2005 của PGS. TS. Nguyễn Văn Động; “Quyền con người,
quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
(Sách chuyên khảo), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 của PGS.
TS. Trần Ngọc Đường; …
Đối với lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, tại Việt Nam đã có những
công trình nghiên cứu như: “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự”, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội,
do GS. TSKH. Lê Văn Cảm; PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí và PGS. TS. Trịnh
Quốc Toản đồng chủ trì, năm 2006; Luận án tiến sĩ “Đảm bảo quyền con
3
người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của Nguyễn Huy Hoàng, Hà Nội,
bảo vệ năm 2005; Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Lại Văn Trình,
TP. Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2011; Luận văn thạc sĩ “Kiểm sát hoạt động tư
pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát” của
Trần Công Hòa, Hà Nội, bảo vệ năm 2004; Luận văn thạc sĩ “Gắn công tốvới
hoạt động điều tra trong tốtung̣ h ình sự theo tinh thần Nghị quyết Đ ại hội
Đảng lần thứ X – Một sốvấn đềlýlu ận và thực tiễn”, của Bùi Mạnh Cường,
Hà Nội, bảo vệ năm 2012; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Bắc Giang trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của
Nguyễn Xuân Hùng, Hà Nội, bảo vệ năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của
Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự”, của Nguyễn Khắc Quang, Hà
Nội, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Viện kiểm sát với vai trò bảo vệ
quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của Nguyễn Thị Phương
Nga, Hà Nội, năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền con người trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam”, của Nguyễn Thị Hạnh Quyên,
Hà Nội, năm 2014…
Các bài viết khoa học đăng tải trên các báo pháp luật, tạp chí nghiên
cứu khoa học như: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận cơ bản, của GS. TS Lê Văn Cảm, Báo
Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, Số 7/2010; Những vấn đề chung về bảo
vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, của
GS. TSKH Lê Văn Cảm, Báo Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, Số 6/2010; “Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự”, của Thạc sĩ Đinh Thế Hưng, Viện Nhà nước và pháp luật –
4
Viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 2010; “Hiến pháp 2013 và việc hoàn
thiện biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự”, của
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội:
Luật học, Tập 30, số 3/2014…
Các công trình khoa học, bài viết nêu trên, các tác giả đã luận giải
những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề bảo đảm quyền con người
nói chung hoặc quyền con người của một nhóm đối tượng nhất định (như
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung hoặc người chưa thành niên là
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), trong toàn bộ quá trình tố tụng từ giai đoạn
điều tra đến giai đoạn xét xử, hoặc chỉ tập trung vào giai đoạn xét xử vụ án
hình sự. Trong Luận văn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề bảo đảm
quyền con người nhằm đưa ra những đánh giá về thực trạng bảo đảm quyền
con người của Viện kiểm sát nhân dân, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện
nhằm phát huy vai trò Viện kiểm sát nhân dân, như là một cơ quan có trách
nhiệm đảm bảo tối ưu quyền con người trong giai đoạn khởi tố,điều tra các vụ
án hình sự được thực hiện trên thực tế và hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm
phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra, tránh oan, sai, bỏ lọt
tội phạm. Để thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các
kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng
mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm
nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
án hình sự.
5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn thực hiện những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như khái
niệm quyền con người, quyền con người và bảo đảm quyền con người trong
tố tụng hình sự; những quy định của pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự; cơ sở xác định
vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và các điều kiện bảo đảm vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc đảm bảo quyền con người trong giai đoạn khởi
tố - điều tra các vụ án hình sự.
+ Phân tích thực trạng, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Từ đó rút ra những hạn chế, bất cập
của một số quy định pháp luật và hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân thực hiện vai trò bảo đảm quyền con người trong
giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự những năm qua.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra các vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên
quan đến vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân trong việc bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan
đến đề tài gắn với quá trình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong
05 năm (2010-2014).
6
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể
và đặc thù của khoa học Luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn
cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như:
phương pháp logic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê... để tổng
hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên
cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp khoa học của Luận văn
Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người, bảo đảm
quyền con người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là luận giải vai trò của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người. Làm rõ cơ sở xác
định nhiệm vụ, quyền hạn Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Phân tích và
đánh giá thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm
quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Thông
qua đó, Luận văn đưa ra được số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung
BLTTHS và một số các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều
tra các vụ án hình sự.
7
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò bảo đảm quyền con
người của Viện kiểm sát nhân dân trong trong giai đoạn
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.
Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và thực trạng
hoạt động bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố,
điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 3. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền con ngƣời, quyền con ngƣời và bảo đảm
quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy tư tưởng về quyền con người
đã xuất hiện từ rất sớm và có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người.
Có thể chia thành ba nhóm quan điểm về quyền con người như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Đặc
quyền tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực
định. Các quyền này không một xã hội hay một chính phủ nào có thể ban
phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không phụ thuộc vào phong tục,
tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng
lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào.
- Quan điểm thứ hai: Trái với quan điểm thứ nhất, quan điểm này cho
rằng các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự
nhiên, không thể bị tước bỏ, quyền con người là quyền pháp lý và nó phụ
thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị cũng như các yếu tố phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa… của các xã hội.
- Quan điểm thứ ba: Là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề
quyền con người. Xuất phát từ việc coi con người là một thực thể tự nhiên, mang
đặc tính xã hội, do đó, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người:
"Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [2]. Quyền con người là một
phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản
9
phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát
triển". Quyền con người "không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn
toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội… [31].
Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những định
nghĩa, các tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người. Theo GS.TSKH Lê
Văn Cảm:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã
hội cáo quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị
tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất,
đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành
viên Liên hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [5, tr. 11].
Còn theo TS Trần Quang Tiệp:
Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có
con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội nhất định [51, tr. 14].
Như vậy, dù tiếp cận hay nghiên cứu quyền con người ở góc độ nào, thì
khái niệm về quyền con người vẫn cần đảm bảo thể hiện được những thuộc
tính thuộc về quyền tự nhiên và quyền pháp lý của con người. Theo đó:
Quyền con người là những giá trị tự nhiên mà con người được hưởng,
phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định,
được Nhà nước đảm bảo thực hiện. bao gồm các quyền về dân sự, chính trị
như quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền
tự do, quyền bình đẳng trước pháp luật…
1.1.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
1.1.2.1. Quyền con người trong tố tụng hình sự
Như trên đã phân tích, quyền con người là phạm trù phức tạp, nó liên
10
quan đến nhiều ngành khoa học như luật học, triết học, xã hội học, chính trị học,
đạo đức học… Nhưng gần gũi hơn cả là luật học, bởi về nguyên tắc, các nhà
nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – những nhu cầu,
lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã
hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước,
thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân.
Nói cách khác pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa
quyền tự nhiên thành những quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là công cụ
giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ
thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc
bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm
và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [13, tr. 46 - 48]. Vì vậy, pháp luật có vai
trò đặc biệt, không thể thay thế trong việc ghi nhận, đảm bảo việc thực hiện
quyền con người và thúc đẩy các quyền con người.
Hiện nay, quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự, được các nhà
nghiên cứu rất quan tâm, nhất là trong quá trình triển khai, thi hành Hiến pháp
2013, khi mà quyền con người được nhắc đến và ghi nhận một cách chi tiết,
cụ thể hơn.
Có thể nói, trong tố tụng hình sự, quyền con người được thể hiện trên
hai khía cạnh: Thứ nhất, việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý, khắc phục những
thiệt hại và trừng trị những người phạm tội gây ra những thiệt hại cho quyền
và lợi ích hợp pháp của con người, cũng như đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm, là góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân [11, tr. 13].
Thứ hai, những hoạt động tố tụng hình sự rất dễ xâm phạm đến quyền con
người của những người bị tình nghi thực hiện tội phạm - “những người bị đưa
vào vòng quay tố tụng”. Bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
11
tụng là những chủ thể được Nhà nước trao quyền, đại diện cho nhà nước, thể
hiện tính chủ động, độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi mà
khả năng truy nguyên dấu vết, đánh giá chứng cứ còn hạn chế thì khả năng
các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân có thể bị xâm phạm và khả năng
xảy ra việc làm oan sai, bỏ lọt tội phạm là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, khi
giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải
có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người, không được lợi dụng
việc tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền con người.
Theo các Công ước quốc tế về quyền con người thì quyền con người
trong tố tụng hình sự bao gồm:
* Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân hoặc
quyền không bị giam giữ một cách tùy tiện, được quy định tại Điều 9 (1) Công
ước quốc tề về các quyền dân sự và chính trị, 1996 (viết tắt là ICCPR). Cụ
thể: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị
bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc
tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã
quy định” [28].
Trên cơ sở của Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm
1948, thì Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc; Công
ước Châu Mỹ về quyền con người hay Công ước châu Âu về bảo vệ quyền
con người và tự do cơ bản nhấn mạnh yếu tố “không ai bị bắt, giam giữ hay
lưu đày một cách tùy tiện”. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị
tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tòa án, nhằm mục đích để
Tòa án có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ
và trả lại tự do cho họ, nếu giam giữ là bất hợp pháp. Trong trường hợp sử
dụng tạm giữ, tạm giam như là một biện pháp ngăn chặn, việc này không
được tiến hành một cách tùy tiện mà phải tiến hành dựa theo các trình tự thủ
12
tục theo quy định của pháp luật, đồng thời phải đảm bảo được quyền được
Tòa án quyết định tính hợp pháp của việc giam giữ, quyền được yêu cầu bồi
thường trong trường hợp bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp.
Bên cạnh đó, về nguyên tắc, không được phép đối xử với bị can theo
cách thức trái với Điều 7 của Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng
phạt hay đối xử tàn ác vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, để buộc bị can
phải thú tội. “Pháp luật quốc gia phải đảm bảo những lời khai, những lời
nhận tội có được bằng phương thức trái với nguyên tắc không được coi là
chứng cứ, trừ khi chúng được sử dụng làm bằng chứng của việc tra tấn hoặc
những đối xử khác trái quy định”. Công ước trên cũng xác định trách nhiệm
thuộc về nhà nước trong việc phải chứng minh rằng những lời khai của bị cáo
là do họ tự nguyện trình bày.
- Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công
bằng, công khai. Ðiều 10 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người quy định:
“Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai
trước một tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ
của họ, cũng như để phán quyết về bất cứ sự buộc tội nào với họ”.
Theo đó, Điều 14 (1) Công ước quốc tề về các quyền dân sự và chính
trị cũng quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài
phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một
tòa án có thầm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp
luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự..”
Điều 2 – Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật nêu rõ:
Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, các cán bộ thi hành pháp luật phải
tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm và duy trì, nêu cao quyền con người của tất cả
mọi người.
- Quyền được suy đoán vô tội: được quy định cụ thể tại Điều 11 (1)
13
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, Điều 14 (2) Công ước quốc tề về
quyền dân sự và chính trị. Theo đó, nếu một người bị cáo buộc về hình sự, thì
họ có quyền được coi là vô tội cho tới khi được chứng minh là phạm tội theo
pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai mà người đó được bảo đảm
những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình.
Theo Nguyên tắc 8 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những
người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào quy định: “Những người đang
bị giam phải được đối xử đúng với địa vị chưa bị kết án của họ. Do vậy bất cứ
khi nào có thể, họ phải được tách riêng khỏi những người đang bị tù”.
- Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức
chậm trễ. Quyền trên được thể hiện tại các quyền như:
+ Quyền được bảo vệ bởi luật sư: Được quy định tại Điều 14 (3) (b)
của ICCPR, Điều 8 (2) (c) và 8 (2) (d) của Công ước Châu Mỹ về quyền con
người, Nguyên tắc 1, 6 Các Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, Nguyên
tắc 17 (2), 18 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam
hay tù dưới bất kỳ hình thức nào.
Theo đó những người bị bắt hoặc bị giam giữ có hoặc không có tội hình
sự có quyền có luật sư hỗ trợ trong mọi trường hợp không muộn hơn 48 giờ
kể từ thời điểm bị bắt tạm giam và được thường xuyên tiếp xúc với luật sư của
mình; được phép tiếp đón các luật sư của mình. Bất cứ ai trong hoàn cảnh bị
bắt, bị giam giữ mà không có luật sư riêng đều có quyền có một luật sư có
kinh nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho
họ về mặt pháp lý một cách hiệu quả và miễn phí nếu họ không có đầy đủ khả
năng chi trả cho những dịch vụ như vậy.
+ Quyền được thông tin: Quy định tại Điều 9 (2) ICCPR, Nguyên tắc
10, 11 (2), 13, 14 của Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị
giam hay tù bất kỳ hình thức nào, Điều 7 (4), Điều 8 (2) (B) Công ước Châu
14
Mỹ về quyền con người, Điều 5 (2) Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con
người và tự do cơ bản), tức là, bất cứ ai bị bắt đều có quyền được biết chính
xác lý do khiến mình bị bắt và được thông báo kịp thời về bất cứ cáo buộc nào
chống lại mình. Nguyên tắc 14, Nguyên tắc 16 (2) Tập hợp các nguyên tắc về
bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào, Điều 36
Công ước Viên về quan hệ lãnh sự thì một người bị bắt, giam giữ hay bị tù có
quyền được hiểu đầy đủ các thông tin qua ngôn ngữ mình hiểu thông qua sự
trợ giúp miễn phí của phiên dịch. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa với người
nước ngoài hoặc người thuộc dân tộc thiểu số, nhằm bảo đảm quyền bào chữa
cho những người này.
+ Quyền được tiếp cận với thế giới bên ngoài: là biện pháp bảo vệ cơ
bản chống lại vi phạm nhân quyền như tra tấn, ngược đãi và mất tích. Nguyên
tắc 15, 16 (1) (4), 19, 24 Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị
giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào. Một người bị giam tù có quyền được
các thành viên trong gia đình người đó đến thăm, trao đổi thư từ và phải được
tạo cơ hội đầy đủ để liên lạc với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn phải tuân thủ
những điều kiện và hạn chế hợp lý do luật pháp hay các quy chế hợp pháp quy
định.
Một người bị giam hay cầm tù là người nước ngoài thì người đó cũng
phải được thông báo ngay về quyền được liên lạc, bằng các phương tiện thích
hợp, với lãnh sự quán hoặc ngoại giao đoàn của quốc gia mà người đó là công
dân, hoặc nếu không, của quốc gia được quyền nhận những thông tin như vậy
theo pháp luật quốc tế, hoặc được liên lạc với đại diện của tổ chức quốc tế có
thẩm quyền, nếu người đó là người tị nạn hoặc là người được một tổ chức liên
chính phủ bảo vệ.
- Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt.
Điều 14 (4) ICCPR quy định: “Tố tụng áp dụng đối với những người
15
chưa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thức đẩy sự phục
hồi nhân cách của họ”. Theo Quy tắc 20 (a), (b), 21 (a), (b), 22 (a), (b), 27,
31 của Các tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc đối xử với tù nhân,
1995, quy tắc 13 Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp
người chưa thành niên, Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước
quyền tự do: Những tù nhân bị bắt giữ hay đang chờ xét xử phải được giam
giữ riêng với tù nhân đã tuyên án. Những tù nhân trẻ tuổi chưa xét xử phải
được giam giữ riêng với những người lớn tuổi và về nguyên tắc phải được
giam giữ trong những nhà tù riêng… Việc nơi ăn, chốn ở đặc biệt là nơi ngủ
phải đáp ứng các yêu cầu về y tế, có chú ý đến các điều kiện không khí, diện
tích sàn tối thiểu, ánh sáng, sưởi ấm và thông hơi. Ngay cả nơi vệ sinh cũng
phải được thỏa đáng để có thể đáp ứng nhu cầu tự nhiên khi cần thiết.
- Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm. Quyền không bị kết tội
hai lần về cùng 1 hành vi. Quyền được nhanh chóng minh oan và yêu cầu được
bồi thường nếu bị kết án oan… được quy định tại Điều 14 (5), (6), (7) ICCPR.
- Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử.
Ở Việt Nam, về đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự
có hai quan điểm khác nhau, dẫn đến định nghĩa khác nhau về quyền con
người trong tố tụng hình sự
Cụ thể, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014, do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên đưa ra
định nghĩa:
Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự là tổng hợp
các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị, nhằm mục đích khẳng
định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự, nhân phẩm
của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công
bằng bởi một tòa án độc lập khách quan đối với những người
16
yếu thế (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những
người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiền và sự lạm quyền của các
cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự [11,
tr. 43].
Theo định nghĩa trên, đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình
sự là quyền của những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội,
bao gồm 03 nhóm sau:
- Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (gọi chung là nhóm
người bị tình nghi phạm tội);
- Người người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do
Tòa án tuyên;
- Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
làm chứng…
Còn trong bài viết “Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố tụng
hình sự” của Th.S Đinh Thế Hưng - Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Khoa
học xã hội Việt Nam, năm 2010 thì: “Quyền con người trong Tố tụng hình sự
là những giá trị thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ
pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến
pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện và bảo vệ khi bị xâm hại [25]. Theo
quan điểm này, ngoài 03 nhóm người như định nghĩa đã nêu trên, đối tượng
của quyền con người trong tố tụng hình sự còn có quyền con người của những
người tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán.
Theo chúng tôi, về bản chất, quyền con người trong tố tụng hình sự nói
riêng và quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng chỉ nên đề
cập của những người bị yếu thế - là những người bị động trong việc bảo đảm
quyền con người của mình. Đối với những người tiến hành tố tụng như điều
17
tra viên, kiểm sát viên là những người đại diện Nhà nước, sử dụng quyền lực
Nhà nước, họ có sự chủ động nhất định trong việc bảo đảm quyền con người.
Do vậy, việc mở rộng phạm vi đối tượng như trên là không đúng với bản chất
của quyền con người trong tố tụng hình sự.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra: Quyền con người trong tố tụng
hình sự là những quyền về dân sự, chính trị dành cho những người tham gia
tố tụng hình sự, và được Nhà nước ghi nhận, và bảo đảm thực hiện bằng pháp
luật tố tụng hình sự.
1.1.2.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án
hình sự
Quá trình giải quyết vụ án hình sự là quá trình chứng minh, xử lý tội
phạm được thực hiện thông qua những trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi giai
đoạn tố tụng hình sự đều thực hiện những nhiệm vụ nhất định nhằm giải quyết
những yêu cầu cụ thể do luật định, được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành
tố tụng khác nhau có những chức năng tương ứng với từng giai đoạn đó. Mục
đích cuối cùng của mỗi giai đoạn tố tụng hình sự là nhằm xác định bản chất
vụ án, để có căn cứ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, giải
quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, đúng pháp luật, góp phần củng
cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Ở Việt Nam, tố tụng hình sự được chia thành bốn giai đoạn, gồm: Giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự; Giai đoạn điều tra và truy tố; Giai đoạn xét xử; Và
giai đoạn thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các
giai đoạn tố tụng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn đầu làm cơ
sở pháp lý, tạo tiền đề cho hoạt động của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra
tính có căn cứ, đúng pháp luật trong hoạt động của giai đoạn trước.
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền
18
bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra…
được áp dụng một số biện pháp điều tra ban đầu do Bộ luật tố tụng hình sự
quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tố
giác, tin báo về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác
nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và
thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết
luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc;
khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm
giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm
v.v...
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này chỉ là xác định sự việc đã được
thông tin có hay không có dấu hiệu tội phạm, nhằm khẳng định về mặt pháp
lý có hay không có tội phạm xảy ra, để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan đến thông tin đó. Do vậy, ở giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận
chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, mà chỉ
tạo các tiền đề pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức của việc điều
tra vụ án hình sự.
Với những phân tích trên có thể khẳng định: Giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, được bắt đầu từ khi các cơ quan
tiến hành tố tụng có thầm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố của cá nhân, cơ quan, tổ chức và kết thúc khi cơ quan có
thẩm quyền ra một trong hai quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự
hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, nhằm làm cơ sở cho các hoạt
động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
19
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự, được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết
thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ, tài liệu sang
Viện kiểm sát đề nghị truy tố; hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình
chỉ điều tra.
Giai đoạn điều tra được Bộ luật tố tụng hình sự quy định trong 6
chương, từ chương VIII đến chương XIII. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là
rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt
động điều tra là để phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và phục vụ hoạt động xét xử
của Tòa án. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như mọi quyết định
của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên
cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra.
Trong giai đoạn này, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án,
Cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra được áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, để chứng
minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan
đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các
cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm, đảm bảo việc điều
tra là chính xác, khách quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân. Các biện pháp đó là:
Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm
giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Việc áp
dụng các biện pháp trên phải đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn tố
tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một
20
số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật định để thu thập
chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên
quan đến việc xác định sự thật của vụ án.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong hoạt
động tố tụng hình sự nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn mà quyền con người dễ
dàng bị xâm phạm hơn cả so với các giai đoạn tố tụng hình sự khác, bởi các lý
do sau:
- Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đi tìm sự thật
khách quan của vụ án thông qua công tác truy nguyên hình sự. Lý luận về truy
nguyên hình sự chỉ ra rằng: đối tượng của truy nguyên hình sự là đối tượng
vật chất (người, động vật, đồ vật, các đơn chất, hợp chất vô cơ, hữu cơ, hay
tổng thể một đối tượng vật chất có tính không gian), tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức của con người. Hoạt động truy nguyên hình sự được thực hiện
chủ yếu bởi cơ quan và người tiến hành tố tụng. Quá trình này chính là quá
trình nhận thức nhằm đi tìm một thực tế khách quan đã xảy ra. Có thể nói,
hoạt động nhận thức của con người là một quá trình rất phức tạp, phụ thuộc
vào việc vận dụng đúng các nguyên tắc truy nguyên hình sự, áp dụng đúng
các phương pháp theo một trình tự logic; năng lực, trình độ của những người
tiến hành tố tụng quyết định. Do vậy, rất dễ mắc phải những sai lầm dẫn đến
nhận thức về thực tế khách quan đã xảy ra không đúng. Từ đó, có thể ra
những quyết định khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra,
làm ảnh hưởng, thậm chí xâm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
- Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, những người tiến hành tố tụng có vị
trí độc lập về nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện các hoạt động tố tụng được
21
giao, việc họ có thể lợi dụng quyền hạn để thực hiện các hành vi vi phạm
quyền con người, rất khó để phát hiện kịp thời. Đặc biệt, cơ quan điều tra là
cơ quan có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất và con người trong việc thực
hiện nhiệm vụ được giao, được trực tiếp sử dụng những biện pháp mang tính
cưỡng chế đối với những người tham gia tố tụng, để làm sáng tỏ và xử lý các
hành vi vi phạm pháp luật, ở mức độ nhất định có thể gây ảnh hưởng trực tiếp
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp
pháp khác của công dân.
- Thứ ba, Bộ luật tố tụng hình sự quy định những biện pháp điều tra và
những biện pháp ngăn chặn có liên quan trực tiếp đến quyền con người, hạn
chế quyền con người của công dân nói chung và quyền con người của những
người tham gia tố tụng nói riêng, để đảm bảo việc phát hiện, điều tra và xử lý
chính xác tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như ngăn chặn tội phạm bỏ
trốn, tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau như: sự tác động
của những yếu tố bên ngoài bao gồm cả những mối quan hệ quen biết, áp lực
từ phía chính quyền địa phương, từ thời hạn điều tra…; sự chống đối, không
hợp tác của những người tham gia tố tụng, thậm chí là từ sự tha hóa về đạo
đức lối sống và đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng… mà
trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng có thể thực hiện những
hành vi trái pháp luật, đưa ra những quyết định thiếu khách quan, toàn diện,
không đúng quy định, không đạt được mục đích tố tụng trong giai đoạn điều
tra, vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thứ tư, một số quy định của pháp luật về các biện pháp điều tra cũng
như biện pháp ngăn chặn chưa phù hợp có thể dẫn đến việc áp dụng một cách
không thống nhất, dẫn đến quyền con người của những người tham gia tố
tụng không được bảo vệ một cách đầy đủ.
Như trên đã phân tích, đối tượng của quyền con người trong tố tụng
22
hình sự gồm 03 nhóm chính là: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
(gọi chung là nhóm người bị tình nghi phạm tội); Người người phạm tội đã bị
kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên; Những người tham gia tố
tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng…
Tuy nhiên, giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chỉ
là 02 giai đoạn trong quá trình tố tụng hình sự, do đó, đối tượng của quyền
con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, có sự khác biệt
nhất định so với đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự nói
chung. Theo đó, đối tượng của quyền con người trong hai giai đoạn này chỉ
bao gồm:
- Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can;
- Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên
quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
làm chứng…
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra: Quyền con người trong giai
đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những quyền về dân sự, chính trị dành
cho những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, những người tham gia tố tụng
khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án, khi họ tham gia vào các quan hệ
tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, được Nhà
nước ghi nhận, và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tố tụng hình sự.
1.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các
vụ án hình sự
Khác với bảo vệ quyền con người, quyền công dân là việc xác định các
biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân khi bị xâm phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ
các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm phạm; thì bảo đảm các
23
quyền con người, quyền công dân lại là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về
chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức
của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã
được pháp luật ghi nhận [52].
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là sự thể chế
hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có
tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để
bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa
dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công
dân, đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ
chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu tư tưởng chỉ đạo mang tính định hướng
chiến lược trong việc bảo đảm quyền con người:
Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân
và vì dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng
bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo đảm quyền con
người [17].
Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là một trong các bảo
đảm pháp lý có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung,
xuất phát từ việc các hoạt động tố tụng hình sự thực hiện quyền lực nhà nước
làm hạn chế hoặc có thể xâm phạm một cách nghiêm trọng quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là
chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế -
24
xã hội, pháp lý của mình, hướng tới sự kết hợp giữa địa vị pháp lý và địa vị
thực tế của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác [11, tr. 43 - 44].
Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng ngoài việc thực hiện trách nhiệm chứng minh tội
phạm của mình, còn phải có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền
con người của người bị bắt, bị tạm giữ bị can, bị cáo và những người tham gia
tố tụng khác. Nếu có những hành vi vi phạm những quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hay vi phạm trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ
để xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng trên, đặc biệt là
những người bị buộc tội, thì phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi cho người bị oan sai; trường hợp vi phạm nghiêm trọng có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự phải được vận
hành bởi một cơ chế có hiệu quả, trong đó: cần quy định rõ các quyền con
người của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như những người tham
gia tố tụng có liên quan khác, trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về quyền con
người, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người ở mỗi quốc gia; Đồng
thời, quy định trình tự, thủ tục cũng như trách nhiệm của các chủ thể có liên
quan bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người của những đối tượng này
trên thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Như vậy, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là sự ghi
nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự, xác định cách
thức, biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các
quyền đó trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự.
Còn, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ
25
án hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong giai đoạn
khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, xác định các cách thức, biện pháp pháp lý
nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các quyền đó trong thực tiễn
quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
1.2. Vị trí, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của Viện kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự
Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013, Viện kiểm sát nhân dân là
cơ quan quan trọng có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Với chức năng trên, Viện kiểm sát nhân dân có phạm vi hoạt động
và quyền năng pháp lý rộng lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự.
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 và Bộ luật tố tụng
hình sự 2003, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng tham gia vào
tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội,
xử lý kịp thời sai phạm của người tiến hành tố tụng trong thi hành nhiệm vụ…
Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ,
tạm giam thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố -
26
thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng,
được áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ
việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Với vai trò,
trách nhiệm chứng minh, buộc tội của mình, Viện kiểm sát vừa phải đảm bảo
quyền con người được thực hiện trên thực tế, vừa có trách nhiệm phòng,
chống oan sai, vừa có trách nhiệm không để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm,
người phạm tội, đồng thời còn có trách nhiệm phải phát hiện, ngăn chặn và có
biện pháp xử lý các hành vi vi phạm các quyền con người trong các giai đoạn
tố tụng hình sự. Các quy định của pháp luật nêu trên, cho phép Viện kiểm sát
nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, được áp
dụng các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử
nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Do đó, có thể rút ra “Bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong
giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát thông qua việc
thực hiện các quyền năng pháp lý được ghi nhận trong giai đoạn khởi tố, điều
tra vụ án hình sự, xác định các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm bảo đảm quyền
con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra được thực hiện trên thực tế và
không bị xâm phạm bởi cơ quan, tổ chức hay cá nhân nhân nào”.
1.2.1. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Như trên đã phân tích, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng từ
phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều
tra, và xử lý một cách kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật hành vi phạm
27
tội và người phạm tội. Bởi lẽ, trong giai đoạn khởi tố, việc xác định “có dấu
hiệu tội phạm” dựa trên rất nhiều nguồn tin khác nhau. Nguồn tin này có thể
chính xác hoặc không chính xác và cần có thời gian để xác minh, kiểm chứng,
đánh giá, để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Nên, hoạt động khởi tố vụ án
hình sự kịp thời, chính xác sẽ góp phần tăng cường pháp chế, bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình
sự, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án
có căn cứ, đúng pháp luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, để
đảm bảo tính kịp thời, có căn cứ trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, Viện
kiểm sát phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ giai đoạn tiếp nhận tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó, để bảo đảm các quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, và những người tham gia tố
tụng khác được thực hiện và không bị xâm phạm, Viện kiểm sát có thể sử
dụng các quyền năng pháp lý như:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra thông báo đầy đủ số lượng, nội dung tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do Cơ quan điều tra tiếp nhận;
- Yêu cầu cơ quan điều tra thông báo về kết quả giải quyết cũng như
yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ của việc khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự;
- Kiến nghị cơ quan điều tra trong việc phân loại, xử lý tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong các trường hợp như vi phạm về thời
hạn giải quyết, trình tự, thủ tục giải quyết;
- Nếu thấy quyết định của Cơ quan điều tra rõ ràng là không có căn cứ,
thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra;
28
- Yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án hình sự;
- Trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu cơ quan điều tra không thực hiện các yêu
cầu của Viện kiểm sát.
- Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định
huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ.
- Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc
bắt khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt
khẩn cấp hoặc người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu
thuẫn, … hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Viện kiểm sát trực tiếp gặp,
hỏi người bị bắt trước quyết định việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc
bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
- Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu
người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ [24].
1.2.2. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
Trong giai đoạn điều tra, Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố. Viện kiểm sát được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp
lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự
người phạm tội, đưa người phạm tội ra truy tố để xét xử. Đồng thời, kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện và
đầy đủ, bảo đảm những vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra được phát
hiện, khắc phục kịp thời. Hoạt động điều tra là nội dung quan trọng của quyền
29
công tố, về nguyên tắc, nếu hoạt động điều tra có thể làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ án, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội góp phần
bảo đảm pháp chế, bảo đảm quyền con người quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Tuy nhiên, nếu hoạt động điều tra vi phạm các quy định của pháp luật,
thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự dựa trên kết quả điều tra, sẽ dễ xâm hại đến
quyền lợi cơ bản của những người liên quan, đặc biệt là người bị bắt, bị tạm giữ,
bị can. Do đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân
dân có trách nhiệm đảm bảo hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng phải khách quan, thận trọng, vô tư, không bỏ lọt tội
phạm, đồng thời không làm oan người vô tội, hay bỏ lọt người phạm tội, không
để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công
dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một
cách trái pháp luật; việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện
kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có
nhiệm vụ, quyền hạn: Khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc
thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều
tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực
tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu
Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp
luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình
sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp
luật. Trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không
30
phê chuẩn phải nêu rõ lý do; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết
định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ,
quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu
cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều
tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra
viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ
chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi
phạm pháp luật.
Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, để bảo đảm quyền con
người trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể thực hiện các biện pháp
như:
Nếu thấy quyết định khởi tố bị can, hồ sơ xin phê chuẩn lệnh tạm giam
của Cơ quan điều tra chưa rõ căn cứ, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra
bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố, căn cứ xem xét, quyết định
việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam. Bên cạnh đó, Viện kiểm
sát có thể hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại để làm
rõ căn cứ khởi tố bị can trước quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết
định khởi tố bị can.
Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng thấy biện pháp tạm giam đối với bị
can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam
đối với bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp gặp, hỏi
cung bị can khi thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không
31
thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn
cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can
bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ
vụ án từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hỏi
cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai
giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải nhận
dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối
chất hoặc nhận dạng.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người
bào chữa theo mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời
người bào chữa, thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu
Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề
nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử
người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Ngoài ra, nếu phát hiện cơ quan điều tra không đảm bảo thực hiện đầy
đủ các quyền của những người tham gia tố tụng khác, thì Viện kiểm sát yêu
cầu cơ quan điều tra thực hiện nghiêm túc. Nếu Cơ quan điều tra không thực
hiện, Viện kiểm sát phải có văn bản kiến nghị.
Sau khi nhận được kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều
tra chuyển sang, nếu có một trong những căn cứ xác định bị can không phạm
tội; bị can phạm tội nhưng thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại và người bị hại không yêu cầu hoặc rút yêu cầu hoặc có căn cứ để miễn
trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ
án [24].
Như vậy, với nhiệm vụ, quyền hạn và các biện pháp thực hiện trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát vừa là người quyết định việc
32
truy tố người phạm tội trước Tòa án để xét xử, bảo đảm nguyên tắc, bất cứ
hành vi phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát
hiện, xử lý trước pháp luật, vừa bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng
quy định của pháp luật. Như vậy, sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai
đọan điều tra vụ án hình sự để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều được phát hiện,
xử lý theo quy định của pháp luật; đồng thời, bảo đảm việc điều tra tuân thủ
đúng pháp luật, mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con người không
bị pháp luật tước bỏ đều phải được phát hiện và xử lý.
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đảm
quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử trƣớc khi ban hành Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003
1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1960
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành
được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày
đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan
chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản
cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu là
bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng
của nhân dân.
Ngày 13/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập
Tòa án quân sự - đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân
dân, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, đồng thời cũng là văn bản đầu
tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố trong bộ máy nhà
33
nước ta. Theo đó, vào giai đoạn này, Công tố viện là một bộ phận trong hệ
thống cơ quan Tòa án. Nội dung của quyền công tố theo Sắc lệnh này là đưa
một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa
án, chưa có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946;
Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số
19 ngày 16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án
thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc
Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị
cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này Công tố viện vẫn chỉ có chức
năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử..
Năm 1950, yêu cầu của cuộc cánh mạng đặt ra là phải xây dựng một
Nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng một nền tư pháp mới, nền tư pháp
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Trên cơ sở kết quả Hội nghị cải cách
tư pháp và bản thuyết trình của Bộ tư pháp trình Chính phủ về việc đề nghị
cho ban hành sắc lệnh về cải cách bộ máy tư pháp và thẩm quyền tố tụng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85-Sl ngày 22/5/1950 về cải cách tư pháp
và luật tố tụng và Sắc lệnh số 103-SL ngày 05/6/1950 quy định mối quan hệ
giữa Ủy ban kháng chiến hành chính với các cơ quan chuyên môn, Về vị trí
của cơ quan công tố so với các quy định được ban hành trước cải cách tư pháp
năm 1950 về cơ bản không thay đổi, vẫn được tổ chức trong hệ thống Tòa án.
Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày
29/4/1958, thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên
Quốc hội đã quyết định thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ
thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách khỏi tổ chức của Toà
án và sự quản lý của Bộ tư pháp, đặt Viện công tố trung ương trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Sau đó, Phủ Thủ
34
tướng đã ban hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ
và tổ chức của Viện công tố, trong đó có quy định nhiệm vụ chung của Viện
công tố là: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra và truy tố trước Tòa án
những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong
công tác điều tra của Cơ quan điều tra...", như vậy ngoài chức năng truy tố
theo luật hình sự những kẻ phạm pháp, Viện công tố còn có chức năng trong
việc giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự.
Ngoài ra, Nghị định 256 còn quy định việc thực hiện nhiệm vụ của Viện
công tố là: "… để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo
vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm công cuộc
kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Như vậy, trong giai
đoạn này, đã có những quy định về việc bảo đảm quyền con người, quyền công
dân của Viện công tố, tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân.
1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời
Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân thay thế cho Viện công tố được
đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 thay thế cho Hiến pháp năm
1946. Hiến pháp năm 1959 bao gồm 10 chương, 112 Điều trong đó Chương
VIII quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Điều 105 của
Hiến pháp năm 1959 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội
đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ
quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương và kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi luật
định [34, Điều 105].
Ngày 15 tháng 7 năm 1960, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
khóa II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,
35
một trong các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy
Nhà nước. Ngày 26-7-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20-L/CTN
công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, đánh dấu sự ra đời
của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1960 gồm 6 chương, 25 Điều. Nội dung của đạo luật quy định các vấn đề về
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, các công tác thực hiện chức
năng, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp, các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân khi thực hiện các công tác kiểm sát cụ thể, nhân viên, bộ máy
làm việc và biên chế của Viện kiểm sát. Theo các quy định nêu trên, Viện
kiểm sát nhân dân có chức năng “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho
pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế
dân chủ nhân dân được giữ vững”. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế
độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp
pháp của công dân, góp phần đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thông nhất đất nước
được tiến hành thắng lợi [35]. Những quy định này phù hợp với tình hình đất
nước lúc bấy giờ.
Theo quy định tại luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960,
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có các chức
năng, nhiệm vụ: Điều tra những việc làm phạm pháp về hình sự và truy tố
trước Tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan Công an và của cơ quan điều
tra khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử của các Tòa án nhân
dân và việc chấp hành các bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giam giữ của các trại giam.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, trên cơ sở đường lối và nhiệm
36
vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
năm 1976, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, thay thế cho Hiến
pháp năm 1959, lúc này đã không còn phù hợp với giai đoạn cách mạng mới.
Hiến pháp năm 1980 ra đời là cơ sở cho sự ra đời hàng loạt văn bản pháp lý
quan trọng. Hiến pháp năm 1980 tại Chương X có 5 điều trực tiếp quy định về
Viện kiểm sát nhân dân, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
trong bộ máy Nhà nước và bổ sung những quy định mới về Viện kiểm sát
nhân dân so với Hiến pháp năm 1959.
Hiến pháp năm 1980 đã xác định chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác
thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ
chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và
công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [36, Điều 138].
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được Quốc hội khoá
VIII kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1981; một mặt đã giữ lại
những quy định về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động còn
phù hợp của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960; mặt khác đã có
những bổ sung và cụ thể hoá về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân. Về chức năng, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ và cơ quan
khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương,
tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang, các nhân viên nhà nước và công
dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát địa phương, các
37
Kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình [37, Điều 1].
Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài
sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 2 Hiến pháp 1981). Đồng
thời, lần đầu tiên Luật đã ghi nhận thực hành quyền công tố như là một chức
năng chính của ngành Kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Luật này, trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có chức năng:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và
các cơ quan điều tra khác; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử
của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành
các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật; Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo.
Trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự, chức năng kiểm sát
việc tuân thủ pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan Công an và của cơ
quan điều tra khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân được ghi nhận trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ năm
1960 và đã được tiếp tục ghi nhận và có sự bổ sung trong Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 1981. Cụ thể như sau:
Theo quy định tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan
Công an và của cơ quan điều tra khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
với mục đích: Không để một hành vi phạm tội và người phạm tội nào tránh
khỏi việc xử lý của pháp luật; Không để một công dân nào bị bắt giam, bị đưa
ra xét xử hoặc bị hạn chế về các quyền dân chủ một cách trái pháp luật. Đến
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 mục đích này đã
38
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT
VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT

More Related Content

Similar to VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nayhieu anh
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT (20)

Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay
 
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ quyền con người, HOT
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOTLuận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
Luận văn: Cơ chế bồi thường nhà nước cho người bị oan, HOT
 
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oanQuyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
Quyền con người thông qua cơ chế bồi thường cho người bị oan
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giamLuận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
Luận văn: Bảo vệ quyền công dân của phạm nhân tại các trại giam
 
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOTĐề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
Đề tài: Vai trò của pháp luật trong bảo đảm quyền con người, HOT
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOTBảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
Luận văn: Vai trò của Viện kiểm sát trong bảo vệ quyền con người - Gửi miễn p...
 
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con ngườiLuận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
 
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con ngườiĐề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOTVai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
Vai trò của Viện kiểm sát trong ngăn chặn giai đoạn điều tra, HOT
 

More from OnTimeVitThu

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNOnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnOnTimeVitThu
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...OnTimeVitThu
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnOnTimeVitThu
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhOnTimeVitThu
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOOnTimeVitThu
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍOnTimeVitThu
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...OnTimeVitThu
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyOnTimeVitThu
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...OnTimeVitThu
 

More from OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 

VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI VIỆN KIỂM SÁT HÀ NỘI - 2021
  • 2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ.......................................................................................................................9 1.1. Khái niệm quyền con ngƣời, quyền con ngƣời và bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.................9 1.1.1. Khái niệm quyền con người...........................................................................................9 1.1.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự10 1.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự..............................................................................................................................23 1.2. Vị trí, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự.......26 1.2.1. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự...................................................................27 1.2.2. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.........................................................................................29 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử trƣớc khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003....................................33 1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960...............................................................................................................................33
  • 3. 1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời.............................35 1.3.3. Giai đoạn từ 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 39 Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.....44 2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân..................................................44 2.1.1. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự...................................................................45 2.1.2. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự..................................................................50 2.1.3. Về mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan điều tra trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự................................................62 2.2. Thực tiễn hoạt động bảo đảm quyền con ngƣời của Viện Kiểm sát nhân dân trong các giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.......66 2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự .. 66 2.2.2. Những hạn chế trong hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 72 Chƣơng 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ...........................................................................................................77 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự..........................77
  • 4. 3.1.1. Hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.......................77 3.1.2. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền con người 83 3.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự 89 3.2.1. Nâng cao nhận thức của dội ngũ cán bộ Kiểm sát viên về quyền con người và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền con người 89 3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cả về năng lực trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp 91 3.2.3. Tổ chức thực hiện tốt chủ trương “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, để bảo đảm các quyền con người trong tố tụng hình sự 92 3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát ...........94 3.2.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, chế độ lương, phụ cấp ưu đãi...... đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, trong đó có cán bộ ngành Kiểm sát 95 KẾT LUẬN ..........................................................................................................................................98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................... 101
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Kết quả kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 05 năm (2010-2014) 678 Bảng 2.2: Kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự 05 năm 2010-2014 70 Bảng 2.3: Số tố giác, tin báo về tội phạm quá hạn trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 05 năm 2010-2014 734 Bảng 2.4: Số vụ án Tòa án trả điều tra bổ sung 05 năm 2010-2014 74 Bảng 2.5: Số vụ án, bị can đình chỉ điều tra trong 05 năm 2010-2014 74 Bảng 2.6: Số người bị tạm giữ, tạm giam quá hạn trong 05 năm 2010-2014 75
  • 6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 08/12/1956, tại lớp Nghiên cứu Chính trị khóa hai trường Đại học nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân” [29, tr. 276]. Nhân dân là những con người cụ thể có những quyền thiêng liêng, không ai có thể xâm phạm được. Kế thừa tư tưởng ấy, trong việc thực hiện và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặt “Con người” là trung tâm - chủ thể của chiến lược, quá trình phát triển. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân” [18]. Gần đây, thể chế hóa đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 2013, Chương về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã được đưa lên vị trí thứ 2, chỉ sau Chương I về “Chế độ chính trị”. Quy định này phản ánh quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thực hiện quyền con người, quyền công dân. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Việc bảo đảm thực hiện các quyền con người bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để thực hiện quyền con người, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự chính là công cụ sắc bén của Nhà nước và xã hội trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên, bảo đảm những giá trị vật chất, tinh thần chân chính của con người và xã hội. Việc bảo đảm các quyền con người, 1
  • 7. quyền công dân bằng hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực thi pháp luật có hiệu quả là hết sức quan trọng. Bởi quyền con người trong tố tụng hình sự là quyền dễ bị xâm phạm, dễ bị tổn thương, nhất là quyền an toàn về thân thể (quyền được sống, được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe…), danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát nhân dân có vai trò chủ động trong việc bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người trong các hoạt động tố tụng khi các Cơ quan tiến hành tố tụng (các cơ quan khác được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng) thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự. Với việc ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền con người, phát hiện vi phạm, để từ đó khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị vi phạm, áp dụng và kiến nghị các biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân thực sự là “một lá chắn đáng tin cậy bảo vệ quyền con người” [11, tr. 48]. Thực tiễn cho thấy, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định. Các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân về cơ bản đã được bảo đảm, đã hạn chế được tình trạng oan, sai. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn có nhiều trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Cơ quan điều tra chưa bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, quyền công dân, thậm chí là vi phạm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự (có thể là các cơ quan tố tụng và những người tiến hành tố tụng lạm dụng việc bắt giữ, khởi tố, bắt tạm giam sau đó phải đình chỉ điều tra do không phạm tội…). Để xảy ra những vi phạm, thiếu sót đó, có trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân chưa thực hiện được đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình trong hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự. 2
  • 8. Việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình để đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất những giải pháp hoàn thiện bộ luật tố tụng hình sự, là hết sức cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, kiểm sát viên về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phaṃ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tư ̣an toàn xã hội, bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân”, làm đề tài Luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền con người và bảo đảm quyền con người như: “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam” (Sách tham khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, của TS. Trần Quang Tiệp; “Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam” (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005 của PGS. TS. Nguyễn Văn Động; “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Sách chuyên khảo), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008 của PGS. TS. Trần Ngọc Đường; … Đối với lĩnh vực pháp luật chuyên ngành, tại Việt Nam đã có những công trình nghiên cứu như: “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự”, Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, do GS. TSKH. Lê Văn Cảm; PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí và PGS. TS. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì, năm 2006; Luận án tiến sĩ “Đảm bảo quyền con 3
  • 9. người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam” của Nguyễn Huy Hoàng, Hà Nội, bảo vệ năm 2005; Luận án tiến sĩ “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Lại Văn Trình, TP. Hồ Chí Minh, bảo vệ năm 2011; Luận văn thạc sĩ “Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát” của Trần Công Hòa, Hà Nội, bảo vệ năm 2004; Luận văn thạc sĩ “Gắn công tốvới hoạt động điều tra trong tốtung̣ h ình sự theo tinh thần Nghị quyết Đ ại hội Đảng lần thứ X – Một sốvấn đềlýlu ận và thực tiễn”, của Bùi Mạnh Cường, Hà Nội, bảo vệ năm 2012; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh Bắc Giang trong việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” của Nguyễn Xuân Hùng, Hà Nội, bảo vệ năm 2013; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự”, của Nguyễn Khắc Quang, Hà Nội, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Viện kiểm sát với vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”, của Nguyễn Thị Phương Nga, Hà Nội, năm 2014; Luận văn thạc sĩ “Bảo vệ quyền con người trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở Việt Nam”, của Nguyễn Thị Hạnh Quyên, Hà Nội, năm 2014… Các bài viết khoa học đăng tải trên các báo pháp luật, tạp chí nghiên cứu khoa học như: Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận cơ bản, của GS. TS Lê Văn Cảm, Báo Dân chủ và Pháp luật - Bộ Tư pháp, Số 7/2010; Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, của GS. TSKH Lê Văn Cảm, Báo Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Số 6/2010; “Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự”, của Thạc sĩ Đinh Thế Hưng, Viện Nhà nước và pháp luật – 4
  • 10. Viện khoa học xã hội Việt Nam, năm 2010; “Hiến pháp 2013 và việc hoàn thiện biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự”, của PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 30, số 3/2014… Các công trình khoa học, bài viết nêu trên, các tác giả đã luận giải những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung hoặc quyền con người của một nhóm đối tượng nhất định (như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói chung hoặc người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), trong toàn bộ quá trình tố tụng từ giai đoạn điều tra đến giai đoạn xét xử, hoặc chỉ tập trung vào giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trong Luận văn, chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền con người nhằm đưa ra những đánh giá về thực trạng bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân, từ đó đề ra những giải pháp hoàn thiện nhằm phát huy vai trò Viện kiểm sát nhân dân, như là một cơ quan có trách nhiệm đảm bảo tối ưu quyền con người trong giai đoạn khởi tố,điều tra các vụ án hình sự được thực hiện trên thực tế và hạn chế đến mức thấp nhất việc xâm phạm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Để thực hiện luận văn, tác giả đã lựa chọn, kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học nêu trên. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu lý luận, trên cơ sở khảo sát thực tiễn, làm rõ những vướng mắc, khó khăn và những hạn chế để đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. 5
  • 11. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như khái niệm quyền con người, quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự; những quy định của pháp luật tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự; cơ sở xác định vai trò của Viện kiểm sát nhân dân và các điều kiện bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc đảm bảo quyền con người trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự. + Phân tích thực trạng, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Từ đó rút ra những hạn chế, bất cập của một số quy định pháp luật và hạn chế, bất cập trong thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thực hiện vai trò bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự những năm qua. + Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Về thời gian Luận văn nghiên cứu: Những vấn đề thực tiễn liên quan đến đề tài gắn với quá trình thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong 05 năm (2010-2014). 6
  • 12. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học Luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp logic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp khoa học của Luận văn Luận văn đề cập một số vấn đề lý luận về quyền con người, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, đặc biệt là luận giải vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người. Làm rõ cơ sở xác định nhiệm vụ, quyền hạn Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Phân tích và đánh giá thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Thông qua đó, Luận văn đưa ra được số giải pháp, kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTHS và một số các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. 7
  • 13. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vị trí, vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Chương 2: Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và thực trạng hoạt động bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 3. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. 8
  • 14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm quyền con ngƣời, quyền con ngƣời và bảo đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm quyền con người Theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy tư tưởng về quyền con người đã xuất hiện từ rất sớm và có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người. Có thể chia thành ba nhóm quan điểm về quyền con người như sau: - Quan điểm thứ nhất: Quyền con người là đặc quyền tự nhiên. Đặc quyền tự nhiên này do pháp luật tự nhiên đứng trên, cao hơn pháp luật thực định. Các quyền này không một xã hội hay một chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. - Quan điểm thứ hai: Trái với quan điểm thứ nhất, quan điểm này cho rằng các quyền con người không phải những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên, không thể bị tước bỏ, quyền con người là quyền pháp lý và nó phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị cũng như các yếu tố phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa… của các xã hội. - Quan điểm thứ ba: Là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề quyền con người. Xuất phát từ việc coi con người là một thực thể tự nhiên, mang đặc tính xã hội, do đó, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề quyền con người: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [2]. Quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là "chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản 9
  • 15. phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con người "không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội… [31]. Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa, các tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người. Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm: Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị xã hội cáo quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế [5, tr. 11]. Còn theo TS Trần Quang Tiệp: Quyền con người là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định [51, tr. 14]. Như vậy, dù tiếp cận hay nghiên cứu quyền con người ở góc độ nào, thì khái niệm về quyền con người vẫn cần đảm bảo thể hiện được những thuộc tính thuộc về quyền tự nhiên và quyền pháp lý của con người. Theo đó: Quyền con người là những giá trị tự nhiên mà con người được hưởng, phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định, được Nhà nước đảm bảo thực hiện. bao gồm các quyền về dân sự, chính trị như quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; quyền tự do, quyền bình đẳng trước pháp luật… 1.1.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự 1.1.2.1. Quyền con người trong tố tụng hình sự Như trên đã phân tích, quyền con người là phạm trù phức tạp, nó liên 10
  • 16. quan đến nhiều ngành khoa học như luật học, triết học, xã hội học, chính trị học, đạo đức học… Nhưng gần gũi hơn cả là luật học, bởi về nguyên tắc, các nhà nước trên thế giới chỉ bảo đảm thực hiện những quyền pháp lý – những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người đã được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Nói cách khác pháp luật chính là phương tiện để thực hiện quá trình chuyển hóa quyền tự nhiên thành những quyền con người. Pháp luật đóng vai trò là công cụ giúp nhà nước bảo đảm sự tuân thủ, thực thi các quyền con người của các chủ thể khác nhau trong xã hội, đồng thời cũng là công cụ của các cá nhân trong việc bảo vệ các quyền con người của chính họ thông qua việc vận dụng các quy phạm và cơ chế pháp lý quốc gia và quốc tế [13, tr. 46 - 48]. Vì vậy, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong việc ghi nhận, đảm bảo việc thực hiện quyền con người và thúc đẩy các quyền con người. Hiện nay, quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự, được các nhà nghiên cứu rất quan tâm, nhất là trong quá trình triển khai, thi hành Hiến pháp 2013, khi mà quyền con người được nhắc đến và ghi nhận một cách chi tiết, cụ thể hơn. Có thể nói, trong tố tụng hình sự, quyền con người được thể hiện trên hai khía cạnh: Thứ nhất, việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý, khắc phục những thiệt hại và trừng trị những người phạm tội gây ra những thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của con người, cũng như đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, là góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân [11, tr. 13]. Thứ hai, những hoạt động tố tụng hình sự rất dễ xâm phạm đến quyền con người của những người bị tình nghi thực hiện tội phạm - “những người bị đưa vào vòng quay tố tụng”. Bởi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố 11
  • 17. tụng là những chủ thể được Nhà nước trao quyền, đại diện cho nhà nước, thể hiện tính chủ động, độc lập trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khi mà khả năng truy nguyên dấu vết, đánh giá chứng cứ còn hạn chế thì khả năng các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân có thể bị xâm phạm và khả năng xảy ra việc làm oan sai, bỏ lọt tội phạm là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm tôn trọng và bảo đảm quyền con người, không được lợi dụng việc tiến hành giải quyết vụ án xâm phạm đến quyền con người. Theo các Công ước quốc tế về quyền con người thì quyền con người trong tố tụng hình sự bao gồm: * Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân hoặc quyền không bị giam giữ một cách tùy tiện, được quy định tại Điều 9 (1) Công ước quốc tề về các quyền dân sự và chính trị, 1996 (viết tắt là ICCPR). Cụ thể: “Mọi người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định” [28]. Trên cơ sở của Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người năm 1948, thì Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền dân tộc; Công ước Châu Mỹ về quyền con người hay Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản nhấn mạnh yếu tố “không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tòa án, nhằm mục đích để Tòa án có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do cho họ, nếu giam giữ là bất hợp pháp. Trong trường hợp sử dụng tạm giữ, tạm giam như là một biện pháp ngăn chặn, việc này không được tiến hành một cách tùy tiện mà phải tiến hành dựa theo các trình tự thủ 12
  • 18. tục theo quy định của pháp luật, đồng thời phải đảm bảo được quyền được Tòa án quyết định tính hợp pháp của việc giam giữ, quyền được yêu cầu bồi thường trong trường hợp bị bắt hoặc bị giam giữ bất hợp pháp. Bên cạnh đó, về nguyên tắc, không được phép đối xử với bị can theo cách thức trái với Điều 7 của Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, để buộc bị can phải thú tội. “Pháp luật quốc gia phải đảm bảo những lời khai, những lời nhận tội có được bằng phương thức trái với nguyên tắc không được coi là chứng cứ, trừ khi chúng được sử dụng làm bằng chứng của việc tra tấn hoặc những đối xử khác trái quy định”. Công ước trên cũng xác định trách nhiệm thuộc về nhà nước trong việc phải chứng minh rằng những lời khai của bị cáo là do họ tự nguyện trình bày. - Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục TTHS và tòa án công bằng, công khai. Ðiều 10 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người quy định: “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai trước một tòa án độc lập và khách quan, để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như để phán quyết về bất cứ sự buộc tội nào với họ”. Theo đó, Điều 14 (1) Công ước quốc tề về các quyền dân sự và chính trị cũng quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước các tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thầm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự..” Điều 2 – Quy ước đạo đức của quan chức thi hành pháp luật nêu rõ: Trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, các cán bộ thi hành pháp luật phải tôn trọng, bảo vệ nhân phẩm và duy trì, nêu cao quyền con người của tất cả mọi người. - Quyền được suy đoán vô tội: được quy định cụ thể tại Điều 11 (1) 13
  • 19. Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, Điều 14 (2) Công ước quốc tề về quyền dân sự và chính trị. Theo đó, nếu một người bị cáo buộc về hình sự, thì họ có quyền được coi là vô tội cho tới khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tòa xét xử công khai mà người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Theo Nguyên tắc 8 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào quy định: “Những người đang bị giam phải được đối xử đúng với địa vị chưa bị kết án của họ. Do vậy bất cứ khi nào có thể, họ phải được tách riêng khỏi những người đang bị tù”. - Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ. Quyền trên được thể hiện tại các quyền như: + Quyền được bảo vệ bởi luật sư: Được quy định tại Điều 14 (3) (b) của ICCPR, Điều 8 (2) (c) và 8 (2) (d) của Công ước Châu Mỹ về quyền con người, Nguyên tắc 1, 6 Các Nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư, Nguyên tắc 17 (2), 18 Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào. Theo đó những người bị bắt hoặc bị giam giữ có hoặc không có tội hình sự có quyền có luật sư hỗ trợ trong mọi trường hợp không muộn hơn 48 giờ kể từ thời điểm bị bắt tạm giam và được thường xuyên tiếp xúc với luật sư của mình; được phép tiếp đón các luật sư của mình. Bất cứ ai trong hoàn cảnh bị bắt, bị giam giữ mà không có luật sư riêng đều có quyền có một luật sư có kinh nghiệm và năng lực phù hợp với tính chất của tội phạm đã quy kết cho họ về mặt pháp lý một cách hiệu quả và miễn phí nếu họ không có đầy đủ khả năng chi trả cho những dịch vụ như vậy. + Quyền được thông tin: Quy định tại Điều 9 (2) ICCPR, Nguyên tắc 10, 11 (2), 13, 14 của Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù bất kỳ hình thức nào, Điều 7 (4), Điều 8 (2) (B) Công ước Châu 14
  • 20. Mỹ về quyền con người, Điều 5 (2) Công ước châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản), tức là, bất cứ ai bị bắt đều có quyền được biết chính xác lý do khiến mình bị bắt và được thông báo kịp thời về bất cứ cáo buộc nào chống lại mình. Nguyên tắc 14, Nguyên tắc 16 (2) Tập hợp các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào, Điều 36 Công ước Viên về quan hệ lãnh sự thì một người bị bắt, giam giữ hay bị tù có quyền được hiểu đầy đủ các thông tin qua ngôn ngữ mình hiểu thông qua sự trợ giúp miễn phí của phiên dịch. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa với người nước ngoài hoặc người thuộc dân tộc thiểu số, nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho những người này. + Quyền được tiếp cận với thế giới bên ngoài: là biện pháp bảo vệ cơ bản chống lại vi phạm nhân quyền như tra tấn, ngược đãi và mất tích. Nguyên tắc 15, 16 (1) (4), 19, 24 Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào. Một người bị giam tù có quyền được các thành viên trong gia đình người đó đến thăm, trao đổi thư từ và phải được tạo cơ hội đầy đủ để liên lạc với thế giới bên ngoài, nhưng vẫn phải tuân thủ những điều kiện và hạn chế hợp lý do luật pháp hay các quy chế hợp pháp quy định. Một người bị giam hay cầm tù là người nước ngoài thì người đó cũng phải được thông báo ngay về quyền được liên lạc, bằng các phương tiện thích hợp, với lãnh sự quán hoặc ngoại giao đoàn của quốc gia mà người đó là công dân, hoặc nếu không, của quốc gia được quyền nhận những thông tin như vậy theo pháp luật quốc tế, hoặc được liên lạc với đại diện của tổ chức quốc tế có thẩm quyền, nếu người đó là người tị nạn hoặc là người được một tổ chức liên chính phủ bảo vệ. - Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt. Điều 14 (4) ICCPR quy định: “Tố tụng áp dụng đối với những người 15
  • 21. chưa thành niên phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thức đẩy sự phục hồi nhân cách của họ”. Theo Quy tắc 20 (a), (b), 21 (a), (b), 22 (a), (b), 27, 31 của Các tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc đối xử với tù nhân, 1995, quy tắc 13 Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về tư pháp người chưa thành niên, Quy tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do: Những tù nhân bị bắt giữ hay đang chờ xét xử phải được giam giữ riêng với tù nhân đã tuyên án. Những tù nhân trẻ tuổi chưa xét xử phải được giam giữ riêng với những người lớn tuổi và về nguyên tắc phải được giam giữ trong những nhà tù riêng… Việc nơi ăn, chốn ở đặc biệt là nơi ngủ phải đáp ứng các yêu cầu về y tế, có chú ý đến các điều kiện không khí, diện tích sàn tối thiểu, ánh sáng, sưởi ấm và thông hơi. Ngay cả nơi vệ sinh cũng phải được thỏa đáng để có thể đáp ứng nhu cầu tự nhiên khi cần thiết. - Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm. Quyền không bị kết tội hai lần về cùng 1 hành vi. Quyền được nhanh chóng minh oan và yêu cầu được bồi thường nếu bị kết án oan… được quy định tại Điều 14 (5), (6), (7) ICCPR. - Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử. Ở Việt Nam, về đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự có hai quan điểm khác nhau, dẫn đến định nghĩa khác nhau về quyền con người trong tố tụng hình sự Cụ thể, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, do PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí chủ biên đưa ra định nghĩa: Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị, nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh cũng như bảo đảm việc xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập khách quan đối với những người 16
  • 22. yếu thế (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác) khỏi sự tùy tiền và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động tố tụng hình sự [11, tr. 43]. Theo định nghĩa trên, đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự là quyền của những nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, bao gồm 03 nhóm sau: - Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (gọi chung là nhóm người bị tình nghi phạm tội); - Người người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên; - Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng… Còn trong bài viết “Bảo vệ quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự” của Th.S Đinh Thế Hưng - Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2010 thì: “Quyền con người trong Tố tụng hình sự là những giá trị thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện và bảo vệ khi bị xâm hại [25]. Theo quan điểm này, ngoài 03 nhóm người như định nghĩa đã nêu trên, đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự còn có quyền con người của những người tiến hành tố tụng như điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán. Theo chúng tôi, về bản chất, quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng và quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng chỉ nên đề cập của những người bị yếu thế - là những người bị động trong việc bảo đảm quyền con người của mình. Đối với những người tiến hành tố tụng như điều 17
  • 23. tra viên, kiểm sát viên là những người đại diện Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước, họ có sự chủ động nhất định trong việc bảo đảm quyền con người. Do vậy, việc mở rộng phạm vi đối tượng như trên là không đúng với bản chất của quyền con người trong tố tụng hình sự. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những quyền về dân sự, chính trị dành cho những người tham gia tố tụng hình sự, và được Nhà nước ghi nhận, và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật tố tụng hình sự. 1.1.2.2. Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự Quá trình giải quyết vụ án hình sự là quá trình chứng minh, xử lý tội phạm được thực hiện thông qua những trình tự, thủ tục nhất định. Mỗi giai đoạn tố tụng hình sự đều thực hiện những nhiệm vụ nhất định nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể do luật định, được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau có những chức năng tương ứng với từng giai đoạn đó. Mục đích cuối cùng của mỗi giai đoạn tố tụng hình sự là nhằm xác định bản chất vụ án, để có căn cứ áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Ở Việt Nam, tố tụng hình sự được chia thành bốn giai đoạn, gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; Giai đoạn điều tra và truy tố; Giai đoạn xét xử; Và giai đoạn thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Các giai đoạn tố tụng trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai đoạn đầu làm cơ sở pháp lý, tạo tiền đề cho hoạt động của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra tính có căn cứ, đúng pháp luật trong hoạt động của giai đoạn trước. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn này, các cơ quan có thẩm quyền 18
  • 24. bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao tiến hành một số hoạt động điều tra… được áp dụng một số biện pháp điều tra ban đầu do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v... Nhiệm vụ chính của giai đoạn này chỉ là xác định sự việc đã được thông tin có hay không có dấu hiệu tội phạm, nhằm khẳng định về mặt pháp lý có hay không có tội phạm xảy ra, để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự liên quan đến thông tin đó. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, mà chỉ tạo các tiền đề pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức của việc điều tra vụ án hình sự. Với những phân tích trên có thể khẳng định: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, được bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng có thầm quyền nhận được tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cá nhân, cơ quan, tổ chức và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra một trong hai quyết định: Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự. 19
  • 25. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự, được bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra, chuyển hồ sơ, tài liệu sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố; hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Giai đoạn điều tra được Bộ luật tố tụng hình sự quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và phục vụ hoạt động xét xử của Tòa án. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng như mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn này, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án, Cơ quan điều tra, các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm, đảm bảo việc điều tra là chính xác, khách quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân. Các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Việc áp dụng các biện pháp trên phải đảm bảo theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là giai đoạn tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một 20
  • 26. số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến việc xác định sự thật của vụ án. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn mà quyền con người dễ dàng bị xâm phạm hơn cả so với các giai đoạn tố tụng hình sự khác, bởi các lý do sau: - Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn đi tìm sự thật khách quan của vụ án thông qua công tác truy nguyên hình sự. Lý luận về truy nguyên hình sự chỉ ra rằng: đối tượng của truy nguyên hình sự là đối tượng vật chất (người, động vật, đồ vật, các đơn chất, hợp chất vô cơ, hữu cơ, hay tổng thể một đối tượng vật chất có tính không gian), tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Hoạt động truy nguyên hình sự được thực hiện chủ yếu bởi cơ quan và người tiến hành tố tụng. Quá trình này chính là quá trình nhận thức nhằm đi tìm một thực tế khách quan đã xảy ra. Có thể nói, hoạt động nhận thức của con người là một quá trình rất phức tạp, phụ thuộc vào việc vận dụng đúng các nguyên tắc truy nguyên hình sự, áp dụng đúng các phương pháp theo một trình tự logic; năng lực, trình độ của những người tiến hành tố tụng quyết định. Do vậy, rất dễ mắc phải những sai lầm dẫn đến nhận thức về thực tế khách quan đã xảy ra không đúng. Từ đó, có thể ra những quyết định khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra, làm ảnh hưởng, thậm chí xâm phạm đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, những người tiến hành tố tụng có vị trí độc lập về nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện các hoạt động tố tụng được 21
  • 27. giao, việc họ có thể lợi dụng quyền hạn để thực hiện các hành vi vi phạm quyền con người, rất khó để phát hiện kịp thời. Đặc biệt, cơ quan điều tra là cơ quan có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất và con người trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, được trực tiếp sử dụng những biện pháp mang tính cưỡng chế đối với những người tham gia tố tụng, để làm sáng tỏ và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ở mức độ nhất định có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân. - Thứ ba, Bộ luật tố tụng hình sự quy định những biện pháp điều tra và những biện pháp ngăn chặn có liên quan trực tiếp đến quyền con người, hạn chế quyền con người của công dân nói chung và quyền con người của những người tham gia tố tụng nói riêng, để đảm bảo việc phát hiện, điều tra và xử lý chính xác tội phạm, tránh bỏ lọt tội phạm cũng như ngăn chặn tội phạm bỏ trốn, tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau như: sự tác động của những yếu tố bên ngoài bao gồm cả những mối quan hệ quen biết, áp lực từ phía chính quyền địa phương, từ thời hạn điều tra…; sự chống đối, không hợp tác của những người tham gia tố tụng, thậm chí là từ sự tha hóa về đạo đức lối sống và đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng… mà trong quá trình tố tụng, những người tiến hành tố tụng có thể thực hiện những hành vi trái pháp luật, đưa ra những quyết định thiếu khách quan, toàn diện, không đúng quy định, không đạt được mục đích tố tụng trong giai đoạn điều tra, vi phạm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Thứ tư, một số quy định của pháp luật về các biện pháp điều tra cũng như biện pháp ngăn chặn chưa phù hợp có thể dẫn đến việc áp dụng một cách không thống nhất, dẫn đến quyền con người của những người tham gia tố tụng không được bảo vệ một cách đầy đủ. Như trên đã phân tích, đối tượng của quyền con người trong tố tụng 22
  • 28. hình sự gồm 03 nhóm chính là: Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (gọi chung là nhóm người bị tình nghi phạm tội); Người người phạm tội đã bị kết án và phải chấp hành hình phạt do Tòa án tuyên; Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng… Tuy nhiên, giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chỉ là 02 giai đoạn trong quá trình tố tụng hình sự, do đó, đối tượng của quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, có sự khác biệt nhất định so với đối tượng của quyền con người trong tố tụng hình sự nói chung. Theo đó, đối tượng của quyền con người trong hai giai đoạn này chỉ bao gồm: - Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; - Những người tham gia tố tụng hình sự do có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, như người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng… Từ những phân tích trên, có thể đưa ra: Quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những quyền về dân sự, chính trị dành cho những người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, những người tham gia tố tụng khác có quyền, lợi ích liên quan đến vụ án, khi họ tham gia vào các quan hệ tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, được Nhà nước ghi nhận, và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp tố tụng hình sự. 1.1.3. Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự Khác với bảo vệ quyền con người, quyền công dân là việc xác định các biện pháp pháp lý, các biện pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người, quyền công dân khi bị xâm phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các quyền đã bị xâm phạm; thì bảo đảm các 23
  • 29. quyền con người, quyền công dân lại là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tổ chức của công dân thực hiện được các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận [52]. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các bảo đảm pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và là sự thể chế hóa các bảo đảm chính trị, kinh tế, xã hội, tổ chức thành các chuẩn mực có tính bắt buộc mà nhà nước, các cơ quan nhà nước và xã hội phải thực hiện để bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Các bảo đảm pháp lý rất đa dạng, phong phú, trước hết là sự ghi nhận các quyền con người, quyền công dân, đến việc tạo các điều kiện pháp lý, các điều kiện tổ chức, việc thiết lập cơ chế, bộ máy chuyên trách bảo đảm các quyền con người, quyền công dân. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu tư tưởng chỉ đạo mang tính định hướng chiến lược trong việc bảo đảm quyền con người: Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo đảm quyền con người [17]. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là một trong các bảo đảm pháp lý có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung, xuất phát từ việc các hoạt động tố tụng hình sự thực hiện quyền lực nhà nước làm hạn chế hoặc có thể xâm phạm một cách nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là chức năng của nhà nước với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - 24
  • 30. xã hội, pháp lý của mình, hướng tới sự kết hợp giữa địa vị pháp lý và địa vị thực tế của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác [11, tr. 43 - 44]. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ngoài việc thực hiện trách nhiệm chứng minh tội phạm của mình, còn phải có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nếu có những hành vi vi phạm những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án, áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay vi phạm trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ để xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng trên, đặc biệt là những người bị buộc tội, thì phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan sai; trường hợp vi phạm nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự phải được vận hành bởi một cơ chế có hiệu quả, trong đó: cần quy định rõ các quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng có liên quan khác, trên cơ sở các tiêu chí quốc tế về quyền con người, phù hợp với yêu cầu bảo đảm quyền con người ở mỗi quốc gia; Đồng thời, quy định trình tự, thủ tục cũng như trách nhiệm của các chủ thể có liên quan bảo đảm cho việc thực hiện quyền con người của những đối tượng này trên thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Như vậy, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự, xác định cách thức, biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các quyền đó trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Còn, bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ 25
  • 31. án hình sự là sự ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự, xác định các cách thức, biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ các quyền con người và thực thi các quyền đó trong thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự. 1.2. Vị trí, vai trò bảo đảm quyền con ngƣời của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố, điều tra các vụ án hình sự Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan quan trọng có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với chức năng trên, Viện kiểm sát nhân dân có phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý rộng lớn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 và Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng tham gia vào tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự. Xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời sai phạm của người tiến hành tố tụng trong thi hành nhiệm vụ… Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi trách nhiệm của mình. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố - 26
  • 32. thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, được áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Với vai trò, trách nhiệm chứng minh, buộc tội của mình, Viện kiểm sát vừa phải đảm bảo quyền con người được thực hiện trên thực tế, vừa có trách nhiệm phòng, chống oan sai, vừa có trách nhiệm không để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, đồng thời còn có trách nhiệm phải phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp xử lý các hành vi vi phạm các quyền con người trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Các quy định của pháp luật nêu trên, cho phép Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, được áp dụng các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, có thể rút ra “Bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát thông qua việc thực hiện các quyền năng pháp lý được ghi nhận trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, xác định các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra được thực hiện trên thực tế và không bị xâm phạm bởi cơ quan, tổ chức hay cá nhân nhân nào”. 1.2.1. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Như trên đã phân tích, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra, và xử lý một cách kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật hành vi phạm 27
  • 33. tội và người phạm tội. Bởi lẽ, trong giai đoạn khởi tố, việc xác định “có dấu hiệu tội phạm” dựa trên rất nhiều nguồn tin khác nhau. Nguồn tin này có thể chính xác hoặc không chính xác và cần có thời gian để xác minh, kiểm chứng, đánh giá, để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Nên, hoạt động khởi tố vụ án hình sự kịp thời, chính xác sẽ góp phần tăng cường pháp chế, bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, để đảm bảo tính kịp thời, có căn cứ trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, Viện kiểm sát phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó, để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, và những người tham gia tố tụng khác được thực hiện và không bị xâm phạm, Viện kiểm sát có thể sử dụng các quyền năng pháp lý như: - Yêu cầu Cơ quan điều tra thông báo đầy đủ số lượng, nội dung tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do Cơ quan điều tra tiếp nhận; - Yêu cầu cơ quan điều tra thông báo về kết quả giải quyết cũng như yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rõ căn cứ của việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự; - Kiến nghị cơ quan điều tra trong việc phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong các trường hợp như vi phạm về thời hạn giải quyết, trình tự, thủ tục giải quyết; - Nếu thấy quyết định của Cơ quan điều tra rõ ràng là không có căn cứ, thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra; 28
  • 34. - Yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; - Trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu cơ quan điều tra không thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát. - Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. - Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc bắt khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn cấp hoặc người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, … hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Viện kiểm sát trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước quyết định việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp. - Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ [24]. 1.2.2. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự Trong giai đoạn điều tra, Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố. Viện kiểm sát được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra truy tố để xét xử. Đồng thời, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ, bảo đảm những vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra được phát hiện, khắc phục kịp thời. Hoạt động điều tra là nội dung quan trọng của quyền 29
  • 35. công tố, về nguyên tắc, nếu hoạt động điều tra có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội góp phần bảo đảm pháp chế, bảo đảm quyền con người quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, nếu hoạt động điều tra vi phạm các quy định của pháp luật, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự dựa trên kết quả điều tra, sẽ dễ xâm hại đến quyền lợi cơ bản của những người liên quan, đặc biệt là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Do đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm đảm bảo hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải khách quan, thận trọng, vô tư, không bỏ lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô tội, hay bỏ lọt người phạm tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: Khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không 30
  • 36. phê chuẩn phải nêu rõ lý do; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, để bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể thực hiện các biện pháp như: Nếu thấy quyết định khởi tố bị can, hồ sơ xin phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra chưa rõ căn cứ, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố, căn cứ xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát có thể hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can. Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng thấy biện pháp tạm giam đối với bị can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can. Trong quá trình điều tra vụ án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can khi thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không 31
  • 37. thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hỏi cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng. Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người bào chữa theo mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Ngoài ra, nếu phát hiện cơ quan điều tra không đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền của những người tham gia tố tụng khác, thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện nghiêm túc. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện, Viện kiểm sát phải có văn bản kiến nghị. Sau khi nhận được kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển sang, nếu có một trong những căn cứ xác định bị can không phạm tội; bị can phạm tội nhưng thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và người bị hại không yêu cầu hoặc rút yêu cầu hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án [24]. Như vậy, với nhiệm vụ, quyền hạn và các biện pháp thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát vừa là người quyết định việc 32
  • 38. truy tố người phạm tội trước Tòa án để xét xử, bảo đảm nguyên tắc, bất cứ hành vi phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý trước pháp luật, vừa bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Như vậy, sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai đọan điều tra vụ án hình sự để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật; đồng thời, bảo đảm việc điều tra tuân thủ đúng pháp luật, mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con người không bị pháp luật tước bỏ đều phải được phát hiện và xử lý. 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đảm quyền con ngƣời trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử trƣớc khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Ngày 13/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập Tòa án quân sự - đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, đồng thời cũng là văn bản đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố trong bộ máy nhà 33
  • 39. nước ta. Theo đó, vào giai đoạn này, Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống cơ quan Tòa án. Nội dung của quyền công tố theo Sắc lệnh này là đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án, chưa có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày 16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này Công tố viện vẫn chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử.. Năm 1950, yêu cầu của cuộc cánh mạng đặt ra là phải xây dựng một Nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng một nền tư pháp mới, nền tư pháp phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Trên cơ sở kết quả Hội nghị cải cách tư pháp và bản thuyết trình của Bộ tư pháp trình Chính phủ về việc đề nghị cho ban hành sắc lệnh về cải cách bộ máy tư pháp và thẩm quyền tố tụng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85-Sl ngày 22/5/1950 về cải cách tư pháp và luật tố tụng và Sắc lệnh số 103-SL ngày 05/6/1950 quy định mối quan hệ giữa Ủy ban kháng chiến hành chính với các cơ quan chuyên môn, Về vị trí của cơ quan công tố so với các quy định được ban hành trước cải cách tư pháp năm 1950 về cơ bản không thay đổi, vẫn được tổ chức trong hệ thống Tòa án. Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách khỏi tổ chức của Toà án và sự quản lý của Bộ tư pháp, đặt Viện công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Sau đó, Phủ Thủ 34
  • 40. tướng đã ban hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố, trong đó có quy định nhiệm vụ chung của Viện công tố là: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra...", như vậy ngoài chức năng truy tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp, Viện công tố còn có chức năng trong việc giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự. Ngoài ra, Nghị định 256 còn quy định việc thực hiện nhiệm vụ của Viện công tố là: "… để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Như vậy, trong giai đoạn này, đã có những quy định về việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân của Viện công tố, tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân. 1.3.2. Giai đoạn từ 1960 đến trước khi BLTTHS 1988 ra đời Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân thay thế cho Viện công tố được đánh dấu bằng sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 thay thế cho Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959 bao gồm 10 chương, 112 Điều trong đó Chương VIII quy định về Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Điều 105 của Hiến pháp năm 1959 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi luật định [34, Điều 105]. Ngày 15 tháng 7 năm 1960, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa II, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, 35
  • 41. một trong các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Ngày 26-7-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20-L/CTN công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, đánh dấu sự ra đời của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 gồm 6 chương, 25 Điều. Nội dung của đạo luật quy định các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, các công tác thực hiện chức năng, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân các cấp, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện các công tác kiểm sát cụ thể, nhân viên, bộ máy làm việc và biên chế của Viện kiểm sát. Theo các quy định nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững”. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thông nhất đất nước được tiến hành thắng lợi [35]. Những quy định này phù hợp với tình hình đất nước lúc bấy giờ. Theo quy định tại luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có các chức năng, nhiệm vụ: Điều tra những việc làm phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan Công an và của cơ quan điều tra khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử của các Tòa án nhân dân và việc chấp hành các bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, trên cơ sở đường lối và nhiệm 36
  • 42. vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng năm 1976, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, thay thế cho Hiến pháp năm 1959, lúc này đã không còn phù hợp với giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp năm 1980 ra đời là cơ sở cho sự ra đời hàng loạt văn bản pháp lý quan trọng. Hiến pháp năm 1980 tại Chương X có 5 điều trực tiếp quy định về Viện kiểm sát nhân dân, tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước và bổ sung những quy định mới về Viện kiểm sát nhân dân so với Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1980 đã xác định chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [36, Điều 138]. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1981; một mặt đã giữ lại những quy định về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động còn phù hợp của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960; mặt khác đã có những bổ sung và cụ thể hoá về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân. Về chức năng, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát địa phương, các 37
  • 43. Kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình [37, Điều 1]. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự tôn trọng tính mạng, tài sản, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân (Điều 2 Hiến pháp 1981). Đồng thời, lần đầu tiên Luật đã ghi nhận thực hành quyền công tố như là một chức năng chính của ngành Kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Luật này, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự Viện kiểm sát nhân dân có chức năng: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và các cơ quan điều tra khác; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Toà án nhân dân; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc chấp hành các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ và cải tạo. Trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự, chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan Công an và của cơ quan điều tra khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1960 và đã được tiếp tục ghi nhận và có sự bổ sung trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Cụ thể như sau: Theo quy định tại Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và của cơ quan điều tra khác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự với mục đích: Không để một hành vi phạm tội và người phạm tội nào tránh khỏi việc xử lý của pháp luật; Không để một công dân nào bị bắt giam, bị đưa ra xét xử hoặc bị hạn chế về các quyền dân chủ một cách trái pháp luật. Đến Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 mục đích này đã 38