Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, cho các bạn có thể tham khảo
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MINH NHẬT
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ MINH NHẬT
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN 1,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHAN ANH TUẤN
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Phan Anh Tuấn. Các thông tin và kết
quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự thu thập, phân tích một cách khách
quan, trung thực, phù hợp với thực tế. Các dữ liệu sử dụng trong Luận văn có
nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng theo đúng quy định. Đây là kết quả tôi
đạt được trong quá trình nghiên cứu.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính trung thực của số liệu và các nội
dung viết trong luận văn
Tp.HCM, tháng 8 năm 2019
Học viên
Lê Minh Nhật
4. LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Học viện Khoa
học xã hội, Khoa Luật, cùng các thầy cô giáo tham gia giảng dạy đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt tôi xin cảm ơn Tiến sĩ Phan Anh Tuấn – Người thầy trực tiếp hướng
dẫn khoa học, cảm ơn tập thể lãnh đạo cơ quan, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp, người
thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi kính mong Quý thầy cô, các chuyên gia, những người quan tâm đến
đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ
để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Tp.HCM, tháng 8 năm 2019
Học viên
Lê Minh Nhật
5. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN.................................................10
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............... 10
1.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số
tội phạm khác............................................................................................... 24
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản từ
năm 1945 đến nay........................................................................................ 26
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH .............................................................................................................34
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây .................................. 34
2.2. Định tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh...................................................................................................... 37
2.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối tội cướp giật
tài sản ........................................................................................................... 41
2.4. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản................ 44
2.5. Nhận xét chung về thực tiễn xét xử về tội “Cướp giật tài sản” tại Tòa
án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh............................................ 49
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............52
3.1. Những nhu cầu và yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự khi xét xử
các vụ án cướp giật tài sản........................................................................... 52
3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội cướp giật
7. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và các nhóm tội phạm trên địa bàn Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018............................................ 34
Bảng 2.2. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so
với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh, giai đoạn 2013- 2018............................................................................35
Bảng 2.3. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật tài sản so
với tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 .....................................................................36
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sở hữu tài sản là quyền cơ bản và quan trọng của mỗi con người,
vì thế, pháp luật của quốc gia nào cũng đều có chế định bảo đảm quyền bất
khả xâm phạm về tài sản cho công dân và có các chế tài, hình phạt đối với cá
nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của người khác. Đây là quyền hiến
định và được nêu tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 như sau: “1. Mọi người có
quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức
kinh tế khác; 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo
hộ.”
Để cụ thể hóa quy định trên, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định các nội
dung của quyền sở hữu để chủ sở hữu thực hiện các quyền của mình và sự tôn
trọng của xã hội đối với quyền sở hữu của các cá nhân khác. Bộ luật Hình sự
năm 2015, quy định các chế tài đối với hành vi xâm phạm sở hữu tài sản quy
định tại Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu) trong đó có tội cướp giật tài
sản. Những quy định này là sự bảo vệ của Nhà nước đối với quyền sở hữu của
nhà nước, tổ chức, cá nhân đã được Hiến pháp năm 2013 quy định và thể hiện
thái độ của Nhà nước đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu của nhà
nước, tổ chức, cá nhân.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đô thị lớn nhất nước, đặc
biệt là Quận 1, nơi tập trung các cơ quan hành chính của Thành phố Hồ Chí
Minh, có nhiều danh lam, công trình kiến trúc là nơi thu hút tham quan, vui
chơi giải trí của nhân dân thành phố, nhân dân Quận 1 và du khách trong và
ngoài nước. Những năm gần đây, các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 1 không ngừng gia tăng gây ra ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu
đến trật tự, an toàn xã hội, tác động không tốt đến cuộc sống của người dân.
9. 2
Thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân Quận
1, Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy tội cướp giật tài sản rất đa dạng về: nhân
thân người phạm tội, độ tuổi và giới tính của người phạm tội, thủ đoạn và
phương tiện phạm tội, có những vụ án có đồng phạm và sử dụng thủ đoạn
nguy hiểm. Quá trình xét xử, là việc Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật hình
sự để xác định đúng tội danh, xem xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để quyết định hình phạt. Hình phạt vừa thể hiện thái độ nghiêm
khắc của xã hội đối với hành vi nguy hiểm của tội phạm vừa thể hiện tính
khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện để người phạm tội sớm tái hòa nhập
cộng đồng và làm người có ích cho xã hội. Trong quá trình xét xử các vụ án
cướp giật tài sản cho thấy những khó khăn, bất cập trong việc xác định tội
danh và lượng hình, nhất là việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
Trong khi đó, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng chưa thống nhất; đặc
biệt cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội này theo quy định của
Bộ Luật hình sự năm 2015 dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này
còn lúng túng. Hiện nay, vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn về các tội xâm
phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật nói riêng, và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định.
Học viên đã chọn đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự
Việt Nam từ thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài Luận văn
Thạc sĩ Luật học của mình để nghiên cứu lý luận và thực tiễn xét xử các vụ án
về tội này tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh để rút ra
những đặc điểm chung của các vụ án này, tổng kết đánh giá thực tiễn xét xử
và đưa ra những giải pháp để khắc phục những khó khăn, bất cập khi xét xử
loại án này.
10. 3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để thực hiện đề tài được giao, học viên tham khảo khá nhiều công trình
về hoặc liên quan đến đề tài, trong số đó có thể kể đến:
- Nhóm thứ nhất: Các Giáo trình Luật hình sự, sách về Định tội danh
của các cơ sở đào tạo như: (1) Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam- Phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (2) Lê Cảm –
Trịnh Quốc Toản (2012), Định tội danh – Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài
tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; (3) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển
1, Nxb Hồng Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (4) Võ Khánh Vinh (Chủ biên)
(2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam- Phần Các tội phạm, Nxb Công an
nhân dân; (5) Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội; (7) Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2016),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần Các tội phạm- Quyển 2, Nxb Hồng
Đức- Hội Luật gia Việt Nam; (8) Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; (9) Học viện Tòa án
(2012), Chương trình đào tạo nghiệp vụ xét xử - Phần kỹ năng giải quyết vụ
án hình sự, Nxb Công an nhân dân.
Những tài liệu và giáo trình nêu trên là những tài liệu nghiên cứu bắt
buộc trong việc học tập và nghiên cứu luật hình sự. Nội dung chính của các
tác phẩm này là trình bày lý luận chung về tội phạm, định tội danh và quyết
định hình phạt, phân tích từng đặc trưng pháp lý cơ bản của mỗi tội danh nói
chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Những tài liệu này là tài liệu tham
khảo cho tác giả nghiên cứu về các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
trong luận văn.
- Nhóm thứ hai: Các bài viết liên quan đến tội cướp giật tài sản có thể
kể đến:
11. 4
(1) Bài viết “Về các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ,
Tạp chí Tòa án nhân dân – Số 7, 8 và 9/2018. Bài viết phân tích các dấu hiệu
pháp lý của 13 tội trong chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội
xâm phạm sở hữu và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
(2) Bài viết “Một số góp ý về các tội xâm phạm sở hữu trong dự thảo
Bộ luật Hình sự sửa đổi" của tác giả Nguyễn Văn Trương – Trần Giang Nam,
Tạp chí Tòa án nhân dân - 10/2005, Số 20. Bài viết đưa ra các ý kiến về việc
sửa đổi quy định pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu cụ thể: mô tả hành vi
cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, tình tiết định khung “có tính
chất chuyên nghiệp” trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
(3) Bài viết “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo
pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Minh Tuyên, Tạp chí Tòa án
nhân dân tháng 10/2007, Số 19. Bài viết tập trung phân tích tình tiết định
khung trách nhiệm tăng nặng hình sự là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành
hung khi tẩu thoát” và vấn đề chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản
thành cướp tài sản.
(4) Bài viết “Một số sai lầm phổ biến trong định tội danh đối với tội
cướp tài sản dưới hình thức có tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh" của tác
giả Đoàn Trọng Chỉnh, Tạp chí Kiểm sát, tháng 8/2015, Số 16. Bài viết nêu
các trường hợp có thể nhầm lẫn khi định tội danh giữa cướp tài sản với công
nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản và trộm cắp tài sản.
Các bài viết trên có ý nghĩa quan trọng trong việc làm rõ các dấu hiệu
pháp lý của tội cướp giật tài sản trong luận văn.
- Nhóm thứ ba: Các luận văn thạc sĩ liên quan đến tội cướp giật tài sản
như: (1) Luận văn thạc sĩ “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội: Một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học” của tác giả Trần Anh
Tuấn, Học viện Khoa học xã hội, 2010. Luận văn phân tích đặc điểm các vụ
12. 5
án cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra các giải pháp về
xã hội, phát triển kinh tế để phòng chống và giảm thiểu các vụ án cướp giật
diễn ra trên địa bàn thành phố Hà Nội.
(2) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn
Tùng, Học viện Khoa học xã hội, 2018. Luận văn nghiên cứu các đặc điểm về
nhân thân của người phạm tội, hiểu rõ các động cơ và mục đích của người
phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú và từ đó đưa ra các giải
pháp phòng ngừa hữu hiệu.
(3) Luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang” của tác giả Hồ Thanh Lam, Học viện Khoa học xã
hội, 2018. Luận văn nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội xâm phạm
sở hữu nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và đề
ra các biện pháp phòng ngừa các tội phạm xâm phạm sở hữu và giúp cho việc
định tội danh, định khung hình phạt chính xác.
Những luận văn nêu trên đã nghiên cứu nhiều góc độ khác nhau về tội
cướp giật tài sản trên các địa bàn cụ thể. Từ đó đề ra nhiều giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản. Đây cũng là nguồn tài liệu
tham khảo quan trọng cho đề tài luận văn.
Qua nghiên cứu các công trình nêu trên, chúng tôi có một vài nhận xét
sau: Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích, trình bày những vấn đề pháp
lý của tội cướp giật tài sản, về cấu thành tội phạm, về nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, và trên các
địa bàn khác nhau. Các công trình trên cũng đưa ra các giải pháp phòng ngừa
các vụ án cướp giật tài sản ở các biện pháp khác nhau trong đó có biện pháp
pháp luật hình sự. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài, các công
trình nêu trên chưa nghiên cứu quá trình phát triển các quy định pháp luật về
13. 6
tội cướp giật tài sản theo các Bộ luật Hình sự năm 1989, năm 1999 và năm
2015; cũng chưa phân tích những dấu hiệu pháp lý và tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự năm 2015 và không nghiên cứu thực tiễn
các vụ án cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua
nghiên cứu thực tiễn xét xử các vụ án cướp giật tài sản tại Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đưa ra những đánh giá chung về
loại tội phạm này, các đưa ra các giải pháp để áp dụng đúng pháp luật khi xét
xử các vụ án cướp giật tài sản.
Do đó, đề tài “Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh” được tác giả sử dụng làm Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận, quy định và thực
tiễn áp dụng quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật Hình sự năm 2015
khi xét xử tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn sẽ
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về các dấu
hiệu định tội, định khung hình phạt đối với tội cướp giật tài sản và đề xuất
những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về loại tội phạm
này và áp dụng thống nhất trên toàn quốc.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, Luận văn đặt ra và giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản theo
luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hình sự về tội cướp giật
tài sản.
14. 7
- Đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định về tội cướp giật tài sản
trong Bộ luật hình sự và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật về tội này trên cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội cướp giật tài sản và thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản
tại Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy
định, áp dụng về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ
luật hình sự.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát thực tiễn áp dụng quy định về tội cướp
giật tài sản từ năm 2013 đến năm 2018.
- Về địa bàn nghiên cứu: Khảo sát, nghiên cứu thông qua các bản án tại
Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt, về cải cách tư pháp, về
đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: để nghiên cứu Luận văn, tác giả đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
15. 8
- Phương pháp thống kê: phương pháp này được sử dụng để làm rõ tình
hình xử lý hình sự đối với tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ
những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội cướp giật tài sản.
- Phương pháp so sánh: được tác giả sử dụng để làm rõ những điểm
giống và khác nhau giữa tội cướp giật tài sản với các tội phạm khác có liên
quan và đối chiếu quy định về tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt
Nam với luật hình sự của một số quốc gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận :
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực
tiễn về tội cướp giật tài sản, từ đó, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật hình sự về tội cướp giật tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn :
Các kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là tài liệu tham khảo có
giá trị cho các cơ quan nhà nước thực hiện việc hoàn thiện hơn quy định về
tội cướp giật tài sản, và góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này tại Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Những kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được còn có thể làm tài
liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu tiếp theo của chính học viên và
cho những người quan tâm trong quá trình công tác, học tập và nghiên cứu.
7. Cơ cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cướp giật tài sản.
16. 9
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp
giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật
hình sự về tội cướp giật tài sản.
17. 10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật đưa ra khái niệm chung về tội cướp
giật tài sản. Qua nghiên cứu, chúng tôi tìm thấy một số tài liệu đề cập đến
khái niệm cướp giật tài sản như sau:
- Theo Từ điển tiếng Việt , “cướp giật” là cướp một cách ngang nhiên
và trắng trợn [59, tr.302]. Khái niệm này hành vi cướp giật giống với hành vi
cướp và không có sự khác nhau giữa hành động cướp và cướp giật.
- Theo từ điển Luật học, cướp giật tài sản là “hành vi công khai chiếm
đoạt tài sản một cách nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản …
là một trong bốn tội phạm của nhóm tội chiếm đoạt có tính công khai về hành
vi khách quan cũng như về ý thức chủ quan của chủ thể …, là hành vi lợi
dụng sơ hở của chủ tài sản nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng
lẩn tránh”. [9, tr.264]. Khái niệm này, nêu được những đặc trưng của hành vi
cướp giật tài sản và là một loại tội phạm do luật hình sự quy định. Theo đó,
người thực hiện tội phạm cướp giật tài sản là người có mục đích chiếm đoạt
tài sản từ trước và thủ đoạn chiếm đoạt tài sản là bằng cách nhanh chóng giật,
giằng lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Việc giật, giằng lấy tài sản diễn ra
một cách công khai, người phạm tội không có ý định che giấu hành vi của
mình đối với chủ sở hữu cũng những nguời xung quanh. Người bị hại biết
hành vi phạm tội nhưng do diễn ra quá nhanh nên chưa kịp thời phản ứng.
Trên cơ sở đó có thể định nghĩa tội cướp giật tài sản như sau: Tội cướp
giật tài sản là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát
của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý.
18. 11
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội cướp giật tại Điều 171 BLHS
[35]. Từ định nghĩa về tội cướp giật tài sản nêu trên và quy định tại Điều 171
BLHS chúng ta thấy tội cướp giật tài sản có những dấu hiệu pháp lý như sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội cướp giật tài sản
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại (gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại) [33, tr.62].
Khách thể của tội phạm bao gồm khách thể chung, khách thể loại và khách
thể trực tiếp của tội phạm. Tội cướp giật tài sản được quy định tại Chương
XVI của BLHS năm 2015 có tên là “Các tội xâm phạm sở hữu” vì thế có
khách thể loại là quan hệ sở hữu tài sản. Quan hệ sở hữu tài sản là mối quan
hệ giữa chủ sở hữu đối với tài sản, bao gồm các quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt đối với tài sản. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm
2015, thì tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Nhưng
chỉ có tài sản là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) mới có thể là đối tượng tác
động của các tội xâm phạm sở hữu.
Do đặc thù của tội cướp giật tài sản là nhanh chóng chiếm đoạt và tẩu
thoát nên đối tượng tác động của tội này thường là những tài sản dưới dạng
vật chất, gọn nhẹ, dễ di chuyển và đồng thời đang nằm trong sự quản lý,
chiếm hữu của chủ tài sản, nhưng đối tượng phạm tội lợi dụng sự sơ hở của
chủ sở hữu trong quá trình quản lý để chiếm đoạt.
Như vậy, khách thể trực tiếp của tội cướp giật tài sản là quan hệ sở hữu
và đối tượng bị tác động trực tiếp là tiền, vật, giấy tờ có giá (vô danh) nêu
trên.
1.2.2.2. Chủ thể của tội cướp giật tài sản
Theo Bộ luật hình sự năm 2015, chủ thể của tội phạm không chỉ là con
người cụ thể mà còn pháp nhân thương mại. Đối với tội cướp giật tài sản, chủ
19. 12
thể của tội phạm chỉ có thể là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định và thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm.
Năng lực trách nhiệm hình sự thể hiện độ tuổi và nhận thức của chủ thể
về hành vi của mình. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Điều 21 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tình trạng không có
năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải
chịu trách nhiệm hình sự”.
Từ những quy định nêu trên, chủ thể của tội phạm phải là người có
năng lực trách nhiệm hình sự. Trong một số cấu thành tội phạm đòi hỏi chủ
thể phải có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ chủ thể có dấu hiệu này
mới có thể thực hiện được hành vi phạm tội mà cấu thành tội phạm đó phản
ánh. Theo Điều 171, thì chủ thể của tội cướp giật tài sản không phải là chủ thể
đặc biệt. Nên, người có hành vi cướp giật tài sản chỉ trở thành chủ thể của tội
cướp giật tài sản khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản họ có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định.
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh thái độ tâm
lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra, bao
gồm các dấu hiệu về lỗi, động cơ và mục đích. Trong đó, lỗi được phản ánh
trong tất cả cấu thành tội phạm và là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ
20. 13
cấu thành tội phạm nào.
Tội cướp giật tài sản luôn là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết tài
sản đang có người quản lý, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội nhưng vẫn thực hiện. Động cơ và mục đích của người phạm tội cướp gật
tài sản là mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác.
1.1.2.4. Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao
gồm hành vi nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và
hậu quả; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội [50,
tr.71]. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều có những biểu hiện bên ngoài,
nếu không có những biểu hiện này thì cũng không có yếu tố khác của tội
phạm và cũng không có tội phạm.
Hành vi cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác
của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi chiếm đoạt của tội cướp
giật tài sản có dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.
* Dấu hiệu công khai:
Dấu hiệu công khai vừa thể hiện tính khách quan của hành vi chiếm
đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi chiếm đoạt
được coi là công khai, khi hành vi phạm tội được thực hiện thì chủ tài sản có
khả năng biết ngay khi hành vi xảy ra, nghĩa là người phạm tội công khai và
hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi phạm tội của mình đối với người
đang chiếm giữ tài sản và những người xung quanh.
Dấu hiệu công khai là đặc trưng cơ bản của tội cướp giật tài sản giúp
phân biệt với dấu hiệu lén lút trong tội trộm cắp tài sản hay dấu hiệu gian dối
trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
* Dấu hiệu nhanh chóng:
Dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn, phương thức thực hiện hành
21. 14
vi phạm tội phải khẩn trương, vội vã. Người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ
tài sản (sơ hở này có thể là có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra)
nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu
thoát. Thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới những hình thức
khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm của tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức
giữ tài sản cũng như những hoàn cảnh bên ngoài khác. Thông thường, hình
thức nhanh chóng có thể chiếm đoạt có thể là giật lấy tài sản, giành lấy tài sản
và nhanh chóng lẩn tránh.
Với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt như vậy, người phạm tội triệt
tiêu khả năng phản ứng, ngăn cản của chủ tài sản đối với hành vi chiếm đoạt.
vì thế, trong tội cướp giật tài sản không có bất cứ hành vi dùng vũ lực nào để
chiếm đoạt tài sản, hay dùng bất cứ thủ đoạn khác để đối phó trực tiếp với chủ
tài sản.
Tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội thực hiện
hành vi khách quan được mô tả trong điều luật. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt
không phải là dấu hiệu định tội của tội cướp giật tài sản, nhưng có thể là dấu
hiệu định khung của tội này.
1.1.3. Các dấu hiệu cấu thành tăng nặng của tội cướp giật tài sản
Ngoài khung hình phạt cơ bản, khoản 2, 3, 4 Điều 171 Bộ luật hình sự
quy định hình phạt trong các trường hợp tăng năng trách nhiệm hình sự theo
các khung hình phạt tăng nặng. Những dấu hiệu định khung trong tội cướp
giật tài sản như sau:
- Khoản 2 Điều 171 BLHS quy định: Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là “hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ
giữa những người cùng thực hiện tội phạm” (khoản 2 Điều 17 BLHS). Đó là
22. 15
một dạng đồng phạm đặc biệt có sự cấu kết chặt chẽ thể hiện ở mặt chủ quan
và khách quan. Sự cấu kết chặt chẽ thể hiện trong cơ cấu tổ chức của đồng
phạm, có sự phân công vị trí, vai trò và nhiệm vụ của mỗi cá thể trong tổ
chức, mỗi người được giao nhiệm vụ cụ thể và tất cả họ cùng nhau liên kết lại
thực hiện tội hạm và che giấu tội phạm. Sự cấu kết chặt chẽ còn thể hiện trong
sự thống nhất ý chí của những người đồng phạm từ khi chuẩn bị đến khi phạm
tội và kết thúc, kể cả việc đề ra các biện pháp lẫn tránh pháp luật. Phạm tội có
tổ chức luôn có người tổ chức và người thực hành, thường người tổ chức giữ
vai trò quan trọng, là người đề ra các biện pháp, kế hoạch phạm tội và luôn
được mỗi cá nhân trong tổ chức nể trọng và phục tùng.
b) Có tính chất chuyên nghiệp
Về tính tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2006/NQ- HĐTP ngày
12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự như sau, chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau:
“a. Cố ý phạm tội từ 05 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân
biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa
án tích;
b. Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy
kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính”.
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
Trong các tội xâm phạm sở hữu, việc xác định giá trị tài sản bị chiếm
đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt, nó có thể làm tăng
khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Vì vậy, khi xác định giá trị tài sản bị
23. 16
chiếm đoạt cần chú ý một số điểm sau đây:
“1. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ trái phép, bị sử dụng trái
phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng được xác định theo giá trị thị trường
của tài sản đó tại địa phương vào thời điểm tài sản bị chiếm đoạt, bị chiếm giữ
trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng.
2. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý
thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm.
3. Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành
vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản, nhưng không quan tâm
đến giá trị tài sản bị xâm phạm (trị giá bao nhiêu cũng được) thì lấy giá thị
trường của tài sản bị xâm phạm tại địa phương vào thời điểm tài sản bị xâm
phạm để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
xâm phạm” [57, tr.4]
Như vậy, khi điều tra các vụ án cướp giật tài sản để xác định giá trị tài
sản, cơ quan điều tra phải tiến hành định giá tài sản bị chiếm đoạt đối với
những tài sản là vật (không phải tiền). Nguyên tắc chung của việc định giá tài
sản là xác định giá của tài sản được xác định là giá tại địa phương nơi xảy ra
hành vi cướp giật và vào thời điểm tài sản bị xâm hại. Ngoại lệ, trường hợp có
căn cứ xác định được người phạm tội có ý định xâm phạm tài sản có giá trị cụ
thể thì áp dụng giá trị của tài sản đó để truy cứu trách nhiệm hình sự.
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
Dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng này hiện nay được hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ công an và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định
24. 17
tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999
như sau:
“... 5.3. “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều
136 Bộ luật Hình sự là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến
tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô
tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi
mô tô, xe máy... cần chú ý là trong trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm để
cướp giật tài sản mà gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì phải áp dụng cả hai tình
tiết định khung hình phạt quy định tại các điểm d và h khoản 2 Điều 136 Bộ
luật Hình sự”.
đ) Hành hung để tẩu thoát;
Trong một số trường hợp cướp giật tài sản, quá trình tẩu thoát người
phạm tội có dùng vũ lực để tẩu thoát. Khi quyết định hình phạt đối với những
trường hợp này, các Tòa án thường không thống nhất với nhau. Tại Mục VII,
Nghị quyết 01-HĐTP/NQ ngày 19/04/1989 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của Bộ
luật Hình hướng dẫn như sau:
“a. Nếu là trường hợp do chưa chiếm đoạt được tài sản mà kẻ phạm tội
dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt tài sản cho
bằng được thì cần định tội là cướp tài sản.
b. Nếu là trường hợp kẻ phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản rồi, nhưng
chủ tài sản hoặc người khác đã lấy lại được tài sản đó hoặc đang giành giật tài
sản còn ở trong tay kẻ phạm tội, mà kẻ phạm tội dùng vũ lực, hoặc đe dọa
dùng ngay tức khắc vũ lực để chiếm đoạt tài sản cho bằng được thì cần định
tội cướp tài sản …
Đối với trường hợp trên đây chỉ cần kết án kẻ phạm tội về một tội là
cướp tài sản … và coi việc chiếm đoạt (chưa thành hoặc đã thành) trước khi
25. 18
dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực là tình tiết diễn biến của
tội phạm.
c. Nếu việc dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) là nhằm để tẩu thoát
(kể cả khi tẩu thoát cùng với tài sản đã chiếm đoạt được), thì không kết án kẻ
phạm tội về cướp tài sản … và tùy trường hợp mà kết án họ về tội phạm xảy
ra trước khi dùng vũ lực (hoặc đe dọa dùng vũ lực) và coi việc dùng vũ lực là
tình tiết “hành hung để tẩu thoát”” [25, Mục VII]
Theo hướng dẫn này, việc dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tẩu
thoát của người phạm tội sẽ được định tội là cướp tài sản khi tội xâm phạm sở
hữu khác phụ thuộc vào ý định dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt được tài sản hay
dùng vũ lực để tẩu thoát của người phạm tội.
Tình tiết “hành hung để tẩu thoát” lần nữa được làm rõ và hướng dẫn
tại Thông tư liên tịch số 01/2001 ngày 25/12/2001 như sau:
“6. Khi áp dụng tình tiết “hành hung để tẩu thoát” (điểm đ khoản 2
Điều 136, điểm a khoản 2 Điều 137, điểm đ khoản 2 Điều 138 BLHS) cần
chú ý:
6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp
mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài
sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có những
hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ như đánh,
chém, bắn, xô ngã … nhằm tẩu thoát.
6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm
đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà
người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc tấn
công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài sản, thì
trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà có đầy đủ các dấu
hiệu của tội cướp tài sản.”
26. 19
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bỏ tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
“gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và đã cụ thể hóa
quy định này bằng cách đưa ra các định lượng về tổn thương sức khỏe, tính
mạng và tài sản.
Như vậy, khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản mà gây ra thiệt hại về
sức khỏe, tùy thuộc vào tỷ lệ tổn thương cơ thể mà áp dụng khung hình phạt
tăng nặng phù hợp.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể có thể là tỷ lệ tổn hại sức khỏe, tỷ lệ thương tật,
tỷ lệ thương tích. Việc xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể phải được cơ quan có
chức năng giám định thực hiện và kết luận căn cứ vào Bảng tỷ lệ phần trăm
cơ thể do thương tích do Bộ Y tế ban hành.
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai,
người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
Quy định này nhằm bảo vệ những đối tượng yếu thế trong xã hội, đó là
trẻ em (người dưới 16 tuổi), phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc
người không có khả năng tự vệ. Đây là những đối tượng có nhược điểm về
sức khỏe, khả năng phản ứng với các tác động của hành vi cướp giật kém và
cần được xã hội bảo vệ nên việc phạm tội đối với họ sẽ phải chịu hình phạt
nghiêm khắc hơn.
Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 về phối hợp thực hiện một số quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi, quy định
về việc xác định độ tuổi của người bị hại, người bị buộc tội như sau:
27. 20
“1. Việc xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi
căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
a) Giấy chứng sinh;
b) Giấy khai sinh;
c) Chứng minh nhân dân;
d) Thẻ căn cước công dân;
đ) Sổ hộ khẩu;
e) Hộ chiếu.
2. Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu tại khoản 1 Điều này có mâu
thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp
với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người
dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh
làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về
tuổi của người đó.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định
được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm
sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 Bộ luật Tố
tụng hình sự để xác định tuổi của họ.
3. Trường hợp kết quả giám định tuổi chỉ xác định được khoảng độ tuổi
của người bị buộc tội, người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy tuổi thấp nhất trong khoảng
độ tuổi đã xác định được để xác định tuổi của họ.
Ví dụ: Kết luận giám định A có độ tuổi trong khoảng từ 13 tuổi 6 tháng
đến 14 tuổi 2 tháng thì xác định tuổi của A là 13 tuổi 6 tháng.”
Như vậy, để xác định người bị hại phải căn cứ vào các tài liệu giấy
28. 21
chứng sinh, giấy khai sinh, căn cước công dân hoặc hộ chiếu. Trường hợp
không có các giấy tờ trên hoặc có căn cứ xác định những tài liệu này không
chính xác thì tiến hành giám định xương để xác định độ tuổi.
Bộ luật Hình sự quy định “phụ nữ mà biết là có thai”, nghĩa là bị cáo
biết được phụ nữ có thai mà vẫn thực hiện hành vi cướp giật đối với họ thì
mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng này.
Theo Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hình phạt, giảm thời
hạn chấp hành hình phạt thì “người già” được xác định là người từ đủ 70 tuổi
trở lên; “người quá già yếu” là người từ 70 tuổi trở lên hoặc người từ đủ 60
tuổi nhưng thường xuyên đau ốm.
Người không có khả năng tự vệ là người đang trong thể trạng yếu đuối,
bất lực về thể chất hoặc tinh thần, người bị bệnh tật, người đang ngủ say,
người đang ở trong tình trạng không thể chống đỡ hoặc không thể tự bảo vệ
mình được...
Khác với quy định đối tượng bị tác động là “phụ nữ mà biết là có thai”,
các đối tượng là người dưới 16 tuổi, người già yếu hoặc người không có khả
năng, Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là bị cáo phải biết người bị
hại dưới 16 tuổi hay người già yếu, không có khả năng tự vệ.
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
Việc cướp giật tài sản diễn ra thường xuyên và có tính chất lặp đi, lặp
lại trong thời gian dài sẽ gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác
động tiêu cực đến trật tự, an toàn xã hội. Khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ
vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh,
trật tự, an toàn xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.
Do vậy, trường hợp gây ảnh hưởng rất xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
29. 22
xã hội hoặc gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội thì
cũng chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo khung
hình phạt tại điểm h khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
i) Tái phạm nguy hiểm.
Tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình
sự [35].
Các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng
đều là lỗi cố ý. Người phạm tội đã bị kết án về các tội rất nghiêm trọng do lỗi
cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng được coi là tái phạm nguy hiểm. Bởi lẽ, việc tiếp tục
phạm tội này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo, không ăn năn
hối cải để làm công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Vì thế, cần có hình phạt
nghiêm khắc đối với bị cáo.
Lưu ý, khi áp dụng tình tiết định khung này thì không áp dụng tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm” quy định tại Điều 53 Bộ
luật Hình sự.
Một ngoại lệ khi áp dụng tình tiết “tái phạm nguy hiểm” khi người
phạm tội là người dưới 18 tuổi. Đó là “người dưới 18 tuổi bị kết án được coi
là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Người từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội
phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng
do lỗi vô ý” [35, khoản 1 Đ.107]. Như vậy, những người này, khi đã đủ 18
tuổi thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tình tiết “tái phạm nguy hiểm”.
Khoản 3 Điều 171 BLHS quy định phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
30. 23
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Là trường hợp người phạm tội lợi dụng vào hoàn cảnh thiên tai, dịch
bệnh để thực hiện hành vi phạm tội cướp giật tài sản. Mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội trong trường hợp này phụ thuộc vào phạm vi, mức độ của
thiên tai, dịch bệnh, hoặc tính chất, mức độ của những khó khăn khác của xã
hội trong tình trạng thiên tai, dịch bệnh.
Khoản 4 Điều 171 BLHS quy định phạm tội thuộc một trong các
trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31%
trở lên;
c) Làm chết người;
Làm chết người là trường hợp khi thực hiện hành vi cướp giật, người
phạm tội đã tấn công người bị hại hoặc người khác để chiếm đoạt tài sản hoặc
để tẩu thoát và gây ra cái chết cho họ. Như vậy, lỗi trong trường hợp này là
lỗi vô ý, bởi lẽ, nếu cố ý gây ra cái chết cho người bị hại trong khi thực hiện
hành vi cướp giật, thì hành vi của họ cấu thành 02 tội cướp giật tài sản và giết
người.
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Là dấu hiệu định khung chỉ bị áp dụng khi người phạm tội lợi dụng các
hoàn cảnh nêu trên để thực hiện tội phạm. Mức độ nguy hiểm của hành vi
31. 24
phục thuộc vào tính chất của hoàn cảnh chiến tranh, tính chất và mức độ của
tình trạng khẩn cấp. Trong đó, tình trạng chiến tranh là trạng thái xã hội đặc
biệt của đất nước trong thời gian từ khi nhà nước bị xâm lược đến khi hành
động xâm lược đó được chấm dứt trên thực tế. Tình trạng khẩn cấp về quốc
phòng là trạng thái xã hội của đất nước khi có nguy cơ trực tiếp bị xâm lược
hoặc đã xảy ra hành động vũ trang xâm lược hoặc bạo loạn nhưng chưa đến
mức tuyên bố tình trạng chiến tranh.
- Khoản 5 Điều 171 quy định hình phạt bổ sung của tội này: người
phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
1.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam với
một số tội phạm khác
1.2.1. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản
Điều 172 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản như sau: “Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000
đồng ….”. Cũng như quy định về tội cướp giật tài sản, nhà làm luật không mô
tả hành vi phạm tội và cũng không định nghĩa thế nào là “công nhiên chiếm
đoạt” tài sản. Theo từ điển Tiếng Việt, “công nhiên” là công khai trước mọi
người [59, tr.271]. Về mặt khách quan, công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành
vi chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác một cách công khai khi người
chiếm hữu không có điều kiện ngăn cách bảo vệ. Tuy nhiên, chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự khi giá trị tài sản chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên hoặc
giá trị tài sản chiếm đoạt dưới 2 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội
này hoặc các tội xâm phạm sở hữu nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm.
32. 25
Xét về kỹ thuật lập pháp, tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản, nhà làm luật không mô tả hành vi phạm tội. Mặt khác, tội cướp
giật tài sản có cấu thành hình thức nghĩa là tội phạm hoàn thành khi thực hiện
hành vi. Ngược lại, tội công nhiên chiếm đoạt tài sản có cấu thành vật chất,
nghĩa là ngoài hành vi phạm tội còn có hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả.
Về hành vi khách quan, cả hai tội cướp giật tài sản và công nhiên chiếm
đoạt tài sản đều có dấu hiệu công khai chiếm đoạt tài sản, người phạm tội
không có ý định che dấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ sở hữu và
người xung quanh. Điểm khác nhau, tội cướp giật tài sản còn có dấu hiệu
nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Ngược lại, trong cấu thành
tội phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không có dấu hiệu nhanh chóng
tẩu thoát mà lợi dụng tình trạng chủ tài sản do gặp vướng mắc khách quan mà
không có điều kiện quản lý được tài sản của mình.
1.2.2. Phân biệt tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản
Thực tiễn xét xử thường xung đột giữa tội cướp giật tài sản với tội cướp
tài sản. Vì thế, việc phân biệt giữa hai tội này có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định tội danh và hình phạt.
Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội cướp tài sản như
sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành
vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản”.
Xét về kỹ thuật lập pháp, cả hai tội cướp giật tài sản với tội cướp tài sản
đều có cấu thành hình thức, nghĩa là điều luật chỉ quy định hành vi khách
quan. Điểm khác nhau là, nhà làm luật mô tả hành vi khách quan của tội cướp
tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản có dùng vũ lực, hoặc đe dọa dùng vũ lực
nguy tức khắc hoặc những hành vi khác làm cho người chiếm giữ tài sản
33. 26
không thể chống cự được mà giao tài sản cho người phạm tội, hoặc người
phạm tội chiếm lấy tài sản. Ngược lại, hành vi khách quan của tội cướp giật
tài sản không dùng vũ lực và không đe dọa dùng vũ lực làm cho chủ sở hữu
lầm vào tình trạng không thể chống cự để chiếm đoạt tài sản.
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội cướp giật tài
sản từ năm 1945 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985
Đây là giai đoạn nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới thành
lập, ở trong tình trạng vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa xây
dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 47/SL ngày
10/10/1945 cho phép áp dụng một số văn bản của pháp luật cũ không trái với
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lúc này, nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa chưa có văn bản pháp luật hình sự riêng biệt. Khi đó,
ở Bắc Kỳ áp dụng Hoàng Việt hình luật và ở Nam Kỳ áp dụng luật pháp tu
chính.
Đến năm 1970, Ủy ban Thường vụ quốc ban hành Pháp lệnh số 149-
LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 5 của
Pháp lệnh này [74]. Để bảo vệ các tài sản riêng của công dân, Ủy ban Thường
vụ quốc ban hành Pháp lệnh số 150-LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của công dân. Theo đó, tội cướp giật tài sản xã hội
chủ nghĩa được quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh này [74]. Những pháp lệnh
này tuy còn sơ khai nhưng đã bước đầu khái quát và nhận diện các tội xâm
phạm sở hữu làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, do đặc điểm
của đất nước vào lúc này, Nhà nước chỉ thừa nhận hai hình thức sở hữu là sở
hữu nhà nước xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân và coi trọng sở
hữu nhà nước nên hình phạt đối với tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa cao
34. 27
hơn tội cướp giật tài sản công dân.
1.3.2. Theo Bộ luật Hình sự năm 1985
Đối với cá nhân tài sản và quyền sở hữu tài sản là quyền hiến định, là
động lực để con người lao động, tạo ra của cải và phát triển xã hội. Vì vậy, tài
sản và quyền bất khả xâm phạm về tài sản là nội dung quan trọng trong hệ
thống pháp luật của mỗi quốc gia. Tài sản của Nhà nước, của tập thể và của
công dân được bảo vệ một cách hiệu quả bằng các quy định của pháp luật
hình sự.
Tội cướp giật tài sản là một trong các tội được Bộ luật hình sự quy định
tại, có cùng khách thể là quan hệ sở hữu. Đó là những hành vi có lỗi gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể
hiện được đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua vào ngày
27/6/2985, có hiệu lực vào ngày 01/01/1986, tại Chương 4 các tội xâm phạm
sở hữu xã hội chủ nghĩa và Chương 6 các tội xâm phạm sở hữu của công dân.
Đây đều là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho
quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất bản chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi, trong đó có tội cướp giật tài sản. Khách thể
của hai chương này đều là quan hệ sở hữu, có sự phân chia bởi hình thức sở
hữu khác nhau.
Điều 131: Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa quy định:
“1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 129, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười hai năm:
35. 28
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm.”
Điều 154: Tội cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của công
dân quy định:
“1. Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của người
khác, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 151, thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai
năm đến 10 năm.
a. Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp.
b. Dùng thủ đoạn nguy hiểm, hành hung để tẩu thoát.
c. Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác.
d. Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
bảy đến hai mươi năm.”
Như vậy, do tình hình kinh tế xã hội giai đoạn này, nhà nước đặc biệt
chú trọng bảo vệ tài sản chung (tài sản xã hội chủ nghĩa) hơn tài sản riêng (tài
sản tư nhân), mức hình phạt tối đa là tù 15 năm đối với tội cướp giật tài sản
riêng của công dân và 20 năm tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa. Về kỹ
thuật lập pháp, Tội cướp giật tài sản được thể hiện dưới dạng tội ghép trong
một điều luật, quy định chung với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
36. 29
1.3.3. Theo Bộ luật Hình sự năm 1999
Từ sau năm 1986, đất nước bước vào giai đoạn đổi mới và đạt được
những thành tựu to lớn về kinh tế dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ trong đời
sống xã hội. Nhằm giải phóng sức lao động, sáng tạo của các tầng lớp trong
xã hội và phù hợp với giai đoạn đất nước chuyển mình, gia nhập vào đời sống
kinh tế quốc tế đòi hỏi nhà nước phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế đòi hỏi Nhà nước ta cần có quan điểm bình đẳng giữa sở hữu
chung và sở hữu riêng
Thực tiễn thực thi Bộ luật hình sự năm 1985, việc phân định hai hình
thức sở hữu để quy định thành hai khách thể bảo vệ độc lập là tài sản thuộc sở
hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu của công dân dẫn đến việc định tội danh là rất
khó và không chính xác, không đảm bảo quyền bình đẳng về sở hữu đối với
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy, đến Bộ luật hình
sự năm 1999, các nhà lập pháp đã nhập hai khách thể riêng được quy định tại
Chương 4 và Chương 6 của Bộ luật hình sự năm 1985 thành Chương XIV các
tội xâm phạm sở hữu, gồm có 13 điều. Theo đó, có 12/13 tội danh không
phân biệt tài sản bị xâm phạm thuộc hình thức sở hữu nào và đã chuyển tội
tham ô tài sản về chương các tội phạm về chức vụ. Tội cướp giật tài sản cũng
được quy định tại chương này.
Điều 136: Tội cướp giật tài sản quy định:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ ba năm đến mười năm:
a. Có tổ chức.
b. Có tính chất chuyên nghiệp.
c. Tái phạm nguy hiểm.
37. 30
d. Dùng thủ đoạn nguy hiểm,
đ. Hành hung để tẩu thoát.
e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% đến 30%.
g. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng.
h. Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm:
a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 31% đến 60%.
b. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng.
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người.
b. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.
c. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm
triệu đồng.
Điểm khác biệt quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật Hình sự
năm 1985 với Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật đã lượng hóa cụ thể
mức độ hậu quả của hành vi phạm tội và có sự phân hóa trách nhiệm hình sự
cao hơn qua việc xây dựng nhiều khung hình phạt với nhiều tình tiết tăng nặng
khung cụ thể hơn. Lần đầu tiên, Bộ luật hình sự quy định về mức phạt tiền.
38. 31
1.3.4. Theo Bộ luật Hình sự năm 2015
BLHS năm 2015 ra đời, trên cơ sở chuyển hóa các quy định của Hiến
pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền sở hữu tài sản hợp pháp
của Nhà nước và của công dân, kế thừa những quy định của Bộ luật hình sự
năm 1999. Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XVI vẫn gồm
13 tội. Việc quy định hình phạt xây dựng theo bảo đảm đối xử bình đẳng giữa
chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm
phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; tăng mức phạt
tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu và bãi bỏ hình phạt tử hình
(đối với tội Cướp tài sản). Về tội cướp giật tài sản vẫn không có thay đổi
nhiều so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Cụ thể:
Điều 171: Tội cướp giật tài sản quy định
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ 03 năm đến 10 năm:
a. Có tổ chức;
b. Có tính chất chuyên nghiệp;
c. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đ;
d. Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ. Hành hung để tẩu thoát.
e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g. Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ biết mà có thai, người
già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
h. Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
i. Tái phạm nguy hiểm.
39. 32
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ bảy năm đến mười lăm năm:
a. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c. Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị thì bị phạt tù
từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a. Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên;
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c. Làm chết người;
d. Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng.
Những điểm mới của quy định về tội cướp giật tài sản theo Bộ luật
Hình sự năm 2015 là, nhà làm luật đã bổ sung các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự tại điểm g, điểm h khoản 2. Bỏ tình tiết “gây hậu quả nghiêm
trọng và gây hậu quả rất nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 2, điểm c
khoản 3 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999. Điểm b khoản 4 Điều này bổ
sung tình tiết“Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người
trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên” và tách
tình tiết “làm chết người” thành tình tiết riêng, quy định tại điểm c khoản
4 “làm chết người”. Bỏ tình tiết “Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy
định tại điểm c khoản 4 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999 thay bằng
tình tiết “Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” (điểm d
40. 33
khoản 4 Điều 171).
Qua nghiên cứu lịch sử phát triển quy định của tội cướp giật từ năm
1945 đến nay cho thấy: các quy định về tội cướp giật tài sản luôn thay đổi cho
phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản trong từng
giai đoạn lịch sử và ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo hơn các yêu cầu của
các nguyên tắc của luật hình sự.
Tiểu kết chương 1
Cho đến nay, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban
hành 03 bộ luật hình sự, đó là Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999 và năm 2015.
Tội cướp giật tài sản được quy định tại các bộ luật hình sự này được nhà các nhà lập
pháp thể hiện dưới dạng quy định giản đơn và có cấu thành tội phạm hình thức,
nghĩa là chỉ nêu tội danh, không mô tả hành vi phạm tội và tội phạm hoàn thành khi
thực hiện hành vi, hậu quả của hành vi phạm tội có ý nghĩa là tình tiết định khung
hình phạt không có ý nghĩa định tội danh. Tại chương một, Luận văn đã chỉ ra
“cướp giật tài sản là hành vi công khai chiếm đoạt tài sản của người khác và nhanh
chóng tẩu thoát”. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định các mức hình phạt khác
nhau của tội cướp giật tài sản tùy vào các tình tiết định khung tăng nặng trách
nhiệm hình sự khác nhau.
41. 34
Chương 2:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái quát tình hình xét xử tội cướp giật tài sản trên địa bàn
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây
Quận 1 là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của Thành phố Hồ Chí
Minh. Là nơi tập trung các cơ sở kinh doanh, tụ điểm giải trí nên thu hút đông
đảo người dân thành phố nói chung và du khách trong và ngoài nước. Vì thế,
tình hình an ninh trật tự của khu vực này cũng phức tạp.
Trong các năm từ 2013 đến 2018, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố
Hồ Chí Minh đã xét xử nhiều vụ án hình sự về tất cả các loại tội phạm, trong
đó có các tội xâm phạm sở hữu và tội cướp giật tài sản. Vì thẩm quyền xét xử
của Tòa án nhân dân cấp huyện, nên chỉ xét xử đối với các tội ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng và rất nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù.
Bảng 2.1. Thống kê số vụ phạm tội và các nhóm tội phạm trên địa
bàn Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018
Nhóm tội phạm
Năm 2013 Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Xâm phạm sở
hữu
146 190 157 198 163 175 159 195 145 201 155 217
Tính mạng sức
khoẻ
55 70 54 66 50 55 59 77 37 49 26 37
Ma tuý 43 57 65 79 75 87 63 79 72 92 59 75
Trật tự xã hội 35 62 30 42 33 39 29 47 33 48 51 63
Khác 16 23 26 40 29 41 31 52 20 23 35 49
Tổng 295 402 332 425 350 397 341 450 307 413 326 441
Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
42. 35
Qua bảng thống kê trên, tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018 diễn biến phức tạp, tăng trong năm
2013 đến 2015, giảm trong các năm 2016 đến 2018. Tuy nhiên, số lượng các
vụ án về xâm phạm sở hữu luôn tăng trong các năm và chiếm tỷ lệ từ trên 45
đến 55% trong tổng số các vụ án đưa ra xét xử tại Tòa án nhân dân Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.2. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật
tài sản so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018
Năm
Tình hình tội phạm Tội cướp giật tài sản Tỷ lệ %
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
2013 295 402 59 76 20 18,9
2014 332 425 47 59 14,15 13,88
2015 350 397 63 82 18 20,6
2016 341 450 68 98 19,9 21,8
2017 307 413 70 101 22,8 24,45
2018 326 441 71 99 21,8 22,44
Tổng 1.952 2.528 378 515 19,3 20,37
Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
Qua số liệu trên thống kê bảng 2.2 nêu trên cho thấy, từ năm 2013 đến
năm 2018, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử tổng
cộng 1.952 vụ án hình sự, trong đó có 378 vụ án cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ
19,3%, xét xử 2.528 bị cáo, số bị cáo cướp giật tài sản là 515, chiếm tỷ lệ
20,37%. Trong đó, các vụ án cướp giật tài sản năm sau cao hơn năm trước,
năm 2018 cao nhất với 71 vụ án, năm 2013 thấp nhất với 59 vụ, đặc biệt năm
2014 giảm hơn năm 2013 là 12 vụ sau đó năm 2015 tăng lên 68 vụ án. Trong
năm 27 và 2018 tăng không đáng kể, chỉ 01 vụ án.
43. 36
Bảng 2.3. Thống kê số vụ phạm tội và số người phạm tội cướp giật
tài sản so với tình hình các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 1,
Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2013- 2018
Nhóm
tội
phạm
Năm
2013
Năm
2014
Năm 2015
Năm
2016
Năm 2017 Năm 2018
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Số
vụ
Số
bị
cáo
Cướp
giật tài
sản
32 46 37 56 32 34 39 58 36 60 40 65
Trộm
cắp tài
sản
67 81 79 92 81 87 72 77 85 112 79 109
Cưỡng
đoạt tài
sản lạm
5 12 0 0 3 4 1 1 0 0 9 13
Lừa đảo
chiếm
đoạt tài
sản
12 17 8 10 15 15 18 27 5 5 12 12
Lạm
dụng tín
nhiệm
chiếm
đoạt tài
sản
25 25 19 21 22 25 12 12 10 12 8 8
Khác 5 9 14 19 10 10 17 20 9 12 7 10
Tổng 146 190 157 198 163 175 159 195 145 201 155 217
44. 37
Qua bảng 2.3 thống kê số liệu nêu trên, nhận thấy, từ năm 2013 đến
năm 2018, các vụ án cướp giật tài sản chiếm tỷ trọng cao trong nhóm các tội
xâm phạm sở hữu từ trên 30%, chỉ sau tội trộm cắp tài sản. Hầu như, những
vụ cướp giật tài sản có số bị cáo cao, cho thấy các vụ án này thường có đồng
phạm.
Các số liệu thống kê về tình hình tội cướp giật tài sản tại Quận 1 TP.
Hồ Chí Minh cho thấy nhu cầu cần phải đưa ra các biện pháp trong đó có biện
pháp bằng pháp luật hình sự để phòng, chống tội cướp giật tài sản một cách
có hiệu quả hơn nữa.
2.2. Định tội danh tội cướp giật tài sản trên địa bàn Quận 1, Thành
phố Hồ Chí Minh
Dưới góc độ khoa học “định tội danh là quá trình nhận thức lý luận có
tính lô-gich, là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ,
các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định
sụ phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực
hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy
định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác
tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cá thể hóa và phân hóa trách
nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [62,
tr.1712]. Điều đó có nghĩa là, Bộ luật Hình sự là đánh giá về mặt pháp lý của
nhà nước đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, việc thực hiện tội
phạm là thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các
dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong pháp
luật hình sự.
Định tội danh là tiền đề để áp dụng các quy định pháp luật tố tụng hình
sự và luật hình sự. Đó là các quy định về thẩm quyền điều tra, truy tố và xét
45. 38
xử và tính thời hạn tạm giam, tạm giữ, điều tra, truy tố và xét xử … Định tội
danh đúng sẽ loại trừ việc kết án vô căn cứ những người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc
quyết định hình phạt công bằng đối với những người phạm tội. Hậu quả cơ
bản nhất của quyết định hình phạt là việc áp dụng hình phạt hoặc các biện
pháp khác do luật quy định đối với người phạm tội. Vì vậy, việc định tội danh
ảnh hưởng rất lớn lớn đến lợi ích lớn đến lợi ích xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
Để định tội danh đúng phải nắm vững cấu thành của tội phạm. Nếu
không nắm vững cấu thành của tội “Cướp giật tài sản” dễ dẫn đến sai lầm khi
định tội danh. Cấu thành tội phạm bao gồm những dấu hiệu cần và đủ. Vì nếu
thiếu một trong các dấu hiệu đó thì cấu thành tội phạm không được xác định.
Và cũng là dấu hiệu đủ cho một cấu thành tội phạm vì không cần thêm một
dấu hiệu nào cho bất cứ một cấu thành tội phạm nào vì nó đã được xác định
và có đủ cơ sở để phân biệt với một cấu thành tội phạm cụ thể này với cấu
thành tội phạm khác.
Ví dụ, Bản án số 79/2016/HSST ngày 14/3/2016 của Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mô tả hành vi phạm tội như sau:
“Khoảng 04 giờ 30 ngày 08/08/2015, chị Đinh Thị Kim Liên đi taxi
đến trước nhà số 50 Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1. Chị Liên
xuống xe lấy tiền trả cho anh Phạm Thanh Tùng, tài xế taxi, thì bất ngờ bị
Nguyễn Minh Tiến đi bộ từ phía sau áp sát người chị Liên dùng tay phải cướp
giật lấy tiền trên tay chị Liên rồi nhanh chóng tẩu thoát.”
Phần quyết định của Bản án số 79/2016/HSST ngày 14/3/2016 tuyên
bố bị cáo Nguyễn Minh Tiến phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Để tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Tiến phạm tội “Cướp giật tài sản”,
Hội đồng xét xử đã đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội do bị cáo thực
46. 39
hiện với cấu thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản” do Bộ luật Hình sự
quy định. Hội đồng xét xử nhận định “căn cứ lời khai của bị cáo tại Cơ quan
điều tra, lời khai người bị hại, người làm chứng, tang vật đã thu giữ và các tài
liệu khác có trong hồ sơ có cơ sở xác định bị cáo Tiến có hành vi chiếm đoạt
tài sản là 590.000 đồng của chị Đinh Thị Kim Liên rồi nhanh chóng tẩu
thoát”. Thực vậy, hành vi phạm tội của bị cáo Tiến “đi bộ từ phía sau áp sát
người chị Liên dùng tay phải cướp giật lấy tiền trên tay chị Liên rồi nhanh
chóng tẩu thoát” có đầy đủ dấu hiệu đặc trưng của tội “Cướp giật tài sản” là
công khai chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát.
Tuy nhiên, thực tế xét xử, có những vụ án hành vi phạm tội của bị cáo
không thấy rõ các dấu hiệu của tội “ Cướp giật tài sản” và dễ nhầm lẫn sang
các tội khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải nắm vững cấu thành tội phạm để
định đúng tội danh, không gây oan sai cho người phạm tội.
Tại Bản án số 238/2016/HSST ngày 26/5/2016 của Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh mô tả hành vi phạm tội như sau:
“Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 11/12/2015, Trịnh Anh Tuấn thuê xe
ôm của ông Nguyễn Ngọc Hải đi từ giao lộ Nguyễn Tri Phương gặp Bà Hạt,
đến trước nhà số 102/7/23 Công Quỳnh, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Khi đến nơi, Tuấn xuống xe và mượn điện thoại ông Hải để gọi cho bạn. Ông
Hải vẫn đứng cạnh quan sát Tuấn. Lúc này, Tuấn nảy sinh ý định chiếm đoạt
chiếc điện thoại nên cầm điện thoại nhanh chóng bỏ chạy vào hẻm 102 tẩu
thoát. Ông Hải có đuổi theo nhưng do hẻm sâu và không biết đường nên ông
Hải không tìm được Tuấn. Khoảng 10 phút sau, ông Hải đi lòng vòng tìm
Tuấn thì nhìn thấy Tuấn đang đi bộ ở xa lộ Trần Hưng Đạo, Đề Thám Quận 1
nên truy hô và đuổi theo liên tục đến hẻm 100 Trần Hưng Đạo thì có ông Hồ
Văn Mỹ (là bảo vệ dân phố đang trực tại hẻm trên), nhìn thấy liền bắt giữ
Tuấn và thu giữ trên tay phải Tuấn chiếc điện thoại Nokia 220 của ông Hải.
47. 40
Sau đó, ông Mỹ, ông Hải đưa Tuấn cùng vật chứng về trụ sở công an phường
Phạm Ngũ Lão lập biên bản xử lý”.
Phần Quyết định của bản án: “Tuyên bố bị cáo Trịnh Anh Tuấn phạm
tội “Cướp giật tài sản””.
Trong vụ án nêu trên, hành vi phạm tội của bị cáo Trịnh Anh Tuấn
không thấy rõ đặc điểm của tội “Cướp giật tài sản” là công khai chiếm đoạt
tài sản thể hiện hành động “giật tài sản”. Bị cáo Tuấn, nhận được chiếc điện
thoại hợp pháp từ người bị hại và nhanh chóng bỏ chạy. Chỉ có dấu hiệu
“nhanh chóng tẩu thoát” là nhận thấy rõ. Liệu dấu hiệu “nhanh chóng tẩu
thoát” có phải là dấu hiệu đặc trưng riêng có của tội tội “Cướp giật tài sản”
mà không có trong các tội phạm khác. Trong các tội xâm phạm sở hữu dấu
hiệu “nhanh chóng tẩu thoát” cũng xuất hiện trong cấu thành của các tội xâm
phạm sở hữu khác như cướp, trộm cắp.
Nếu xét hành vi của bị cáo Tuấn, thuê xe ôm, mượn điện thoại của bị
hại Hải - người lái xe ôm, gọi điện thoại và cầm điện thoại bỏ chạy rất dễ
nhầm lẫn với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Điều 174 Bộ luật Hình sự năm
2015 quy định “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác”. Ở đây, bị cáo Tuấn đã có hành vi gian dối là thuê xe ôm làm
người lái xe ôm tin tưởng giao điện thoại cho Tuấn sử dụng. Tuy nhiên, nếu
xem xét kỹ nội dung “Ông Hải vẫn đứng cạnh quan sát Tuấn”, nghĩa là tài sản
vẫn nằm trong sự quản lý của chủ tài sản, bị cáo Tuấn chưa chiếm đoạt được
tài sản. Nên “việc thuê xe ôm, mượn điện thoại để gọi” chỉ là thủ đoạn tiếp
cận người bị hại của bị cáo, nhằm khi người bị hại sơ hở để chiếm đoạt tài sản
của họ. Hành vi “cầm điện thoại nhanh chóng bỏ chạy”, lúc này, bị cáo Tuấn
mới chiếm đoạt được tài sản và xuất hiện dấu hiệu “nhanh chóng tẩu thoát”
đặc trưng của tội “Cướp giật tài sản”. Như vậy, Hội đồng xét xử nắm rõ cấu
thành tội phạm của tội “Cướp giật tài sản”, đã phân tích đánh giá hành vi
48. 41
phạm tội để ghi nhận và xác định những điểm đặc trưng, phù hợp giữa hành
vi phạm tội và cấu thành tội phạm để định tội danh đúng.
Thực tiễn xét xử trên cho thấy, có sự tương đồng trong hành vi phạm
tội của bị cáo Tuấn với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo Tuấn đã có thủ
đoạn gian dối mượn điện thoại của ông Hải và nhanh chóng tẩu thoát. Tuy
nhiên theo phân tích ở trên, lúc này tài sản vẫn trong tầm quản lý của ông Hải,
bị cáo Tuấn chưa chiếm đoạt tài sản.
Thông qua vụ án này, thực tiễn áp dụng quy định của Điều 171 Bộ luật
Hình sự cho thấy nên mô tả hành vi cướp giật tài sản để áp dụng pháp luật
thống nhất khi điều tra, truy tố, xét xử các vụ án cướp giật tài sản.
2.3. Thực tiễn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt đối tội
cướp giật tài sản
2.3.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ
đoạn nguy hiểm”
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải đánh giá hành vi phạm
tội phù hợp với cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng của tội phạm do Bộ
luật Hình sự đã quy định để quyết định hình phạt cụ thể áp dụng đối với từng
bị cáo. Để định khung hình phạt tăng nặng làm cơ sở để quyết định hình phạt
thì phải áp dụng đúng các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của tội
cướp giật tài sản. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng
thủ đoạn nguy hiểm” được thể hiện thông qua bản án sau:
Tại Bản án số 213/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử đã xem xét, nhận định tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để quyết định mức hình phạt cụ
thể áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Thái như sau:
Hành vi phạm tội của bị cáo được mô tả như sau: “Vào khoảng 00 giờ
30 phút ngày 13/4/2017, Nguyễn Ngọc Thái điều khiển xe mô tô biển số
49. 42
76V9- 2911 đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường tìm người có tài sản để cướp
giật. Khi đi đến trước số nhà 17 Đặng Trần Côn, phường Bến Thành, Quận 1,
phát hiện chị Nguyễn Thị Hồng đang đứng trước cửa nhà trên tay cầm chiếc
túi xách, Thái liền điều khiển xe mô tô áp sát chị Hồng dùng tay trái giật
chiếc túi xách rồi tăng ga bỏ chạy thoát. Chị Hồng liên truy hô, có hai đồng
chí Nguyễn Đình Tuấn, Nguyễn Công Hiệu (Công an Quận 1) đi tuần tra
chứng kiến sự việc nên đuổi theo qua nhiều tuyến đường đến trước nhà số 01
Bùi Thị Xuân, Quận 1 thì bắt giữ được Thái thu giữ vật chứng đưa về phường
Bến Thành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.”
Tại phần Quyết định của Bản án số 213/2017/HSST ngày 22/9/2017
nêu trên quyết định như sau:
“Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc Thái phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136, điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ
luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Thái 04 (bốn) năm tù.”
Để có quyết định hình phạt như trên, Hội đồng xét xử đã nhận định
hành vi của bị cáo Thái như sau: “Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, nguy
hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản
của công dân … Trong vụ việc, bị cáo sử dụng xe gắn máy để làm phương
tiện thực hiện hành vi phạm tội, là tình tiết định khung tăng nặng “dùng thủ
đoạn nguy hiểm được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Hình
sự” và cũng phù hợp theo hướng dẫn tại điểm 5.3 của Thông tư liên tịch số
02/2001 ngày 25/12/2001 về “dùng thủ đoạn nguy hiểm” như dùng xe mô tô,
xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản.
2.3.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ
đoạn nguy hiểm” và “tái phạm nguy hiểm”
Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “sử dụng thủ đoạn
nguy hiểm” và “tái phạm nguy hiểm” được thể hiện qua bản án sau:
50. 43
Tại Bản án số 14/2015/HSST ngày 28/01/2015 của Tòa án nhân dân
Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử đã xem xét, nhận định tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm
tội để quyết định mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với bị cáo.
“Vào khoảng 12 giờ 45 phút ngày 01/9/2014, một mình Huỳnh Quốc
Cường sinh năm 1985 điều khiển xe gắn máy BS 54T5-4138 qua nhiều tuyến
đường khu vực nhà thờ Đức Bà nhằm người có tài sản sơ hở để cướp giật tài
sản. Khi đến đối diện cổng chính nhà thờ Đức Bà, Công xã Pari, phường Bến
Nghé, Quận 1, thì Cường phát hiện chị Hồ Thị Hiền đang đứng phía sau
tượng Đức Mẹ, trên tay có cầm một máy chụp hình hiệu Canon, Cường liền
điều khiển xe áp sát trước mặt chị Hiền đồng thời dùng tay trái giật chiếc máy
chụp hình của chị Hiền. Sau khi cướp giật được tài sản, Cường tăng ga bỏ
chạy theo hướng ngược chiều đường Nguyễn Du ra đường Hai Bà Trưng. Khi
bị cướp giật tài sản, chị Hiền truy hô cướp, lúc này có các đồng chí Tuyến,
đồng chí Minh (trinh sát Đội CSĐTTP về TTXH CAQ1) đang đi tuần tra phát
hiện vụ việc cướp giật tài sản và tuy đuổi, áp sát đối tượng Cường đến giao lộ
Nguyễn Siêu – Thi Sách, đồng chí Tuyến bắn 03 phát súng chỉ thiên yêu cầu
Cường dừng xe nhưng Cường vẫn tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Đồng chí
tuyến bắn tiếp 01 phát súng vào đùi phải của Cường làm Cường ngã xe xuống
đường và bị bắt giữ cùng vật chứng giao về Công an phường Bến Nghé lập hồ
sơ phạm tội quả tang”.
Phần quyết định của Bản án như sau: “Tuyên bố bị cáo Huỳnh Quốc
Cường phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 136;
điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Xử phạt bị cáo
Huỳnh Quốc Cường 05 (năm) năm tù. Thời hạn tính từ ngày 01/9/2014.”
Trong vụ án nêu trên, hành vi của bị cáo Cường “điều khiển xe áp sát
trước mặt chị Hiền đồng thời dùng tay trái giật chiếc máy chụp hình của chị