SlideShare a Scribd company logo
1 of 114
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ VĂN DINH
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI GIÕT NG¦êI
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ VĂN DINH
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI GIÕT NG¦êI
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
NGÔ VĂN DINH
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI
TỘI GIẾT NGƯỜI......................................................................................8
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI
DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI..............................................................8
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội giết ngƣời.............................................8
1.1.2. Phân loại các trƣờng hợp định tội danh đối với tội giết ngƣời..................12
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời.................................17
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI.......................................................................21
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời...............................21
1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết ngƣời ..........................26
1.3. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI......29
1.3.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật
của vụ án giết ngƣời .....................................................................................30
1.3.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã đƣợc làm rõ với quy định
của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tƣơng đồng..............................32
1.3.3. Đƣa ra kết luận về tội danh ngƣời đã thực hiện hành vi quy định tại
Điều 93 Bộ luật hình sự...............................................................................33
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT
NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................35
2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI.............35
2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, dân cƣ thành phố Đà Nẵng........35
2.1.2. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự về tội giết ngƣời của Tòa án
nhân dân thành phố Đà Nẵng ......................................................................41
2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.........................................................44
2.2.1. Định tội danh đối với tội giết ngƣời trong trƣờng hợp tội phạm hoàn thành ....44
2.2.2. Định tội danh đối với tội giết ngƣời trong các trƣờng hợp đặc biệt............59
2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản....................................68
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................80
3.1. CÁC YÊU CẦU BẢO ĐẢM CHẤT LƢỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........80
3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội.........................................................................80
3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn...................................................................81
3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự .......................................................................82
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI ......................................................................83
3.2.1. Hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam.........................................................83
3.2.2. Giải pháp hƣớng dẫn thi hành pháp luật, tổng kết xét xử ..........................88
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
GIẾT NGƢỜI...............................................................................................91
3.3.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công tác tổ chức,
cán bộ tƣ pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán...........................................91
3.3.2. Giải pháp giám đốc xét xử, xây dựng án lệ ................................................94
3.3.3. Giải pháp nâng cao năng lực ngƣời tiến hành tố tụng và luật sƣ tại
phiên tòa......................................................................................................97
3.3.4. Tăng cƣờng công tác phối hợp, xử lý nghiêm minh khi xét xử và
trong việc áp dụng đúng các tình tiết liên quan đến việc định tội danh
và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...........................98
KẾT LUẬN............................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................104
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu,
bảng, biểu đồ
Tên bảng, biểu đồ Trang
Bảng 2.1: Tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết
ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong
giai đoạn 05 năm (2011 – 2015) 42
Bảng 2.2: Tỷ lệ tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết
ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong
giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) 43
Biểu đồ 2.1: Tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết
ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong
giai đoạn 05 năm (2011 – 2015) 42
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính mạng con ngƣời là giá trị cao nhất của con ngƣời. Quyền đƣợc sống,
đƣợc tôn trọng và bảo vệ là quyền cơ bản hàng đầu của con ngƣời, của công dân.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã thể hiện tinh thần bảo vệ các quyền con ngƣời
thông qua nhiều quy định mà trƣớc tiên phải nhắc đến đó là Điều 19 khẳng định
quyền sống của mọi ngƣời, về sự bảo hộ của pháp luật đối với tính mạng của con
ngƣời và không ai bị tƣớc đoạt tính mạng trái pháp luật. Thêm vào đó Hiến pháp
khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật” [38, Điều 31]. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định: "Không ai bị coi
là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật". Điều đó có nghĩa chừng nào chƣa có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật thì ngƣời bị buộc tội vẫn đƣợc coi là ngƣời chƣa có tội. Nhƣ vậy,
hoạt động xét xử của Tòa án (định tội danh) là hoạt động mang tính chất quyết định,
xác định một ngƣời có tội hay không có tội. Đây là nội dung cơ bản của việc áp
dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và là một trong những biện pháp đƣa
các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định ngƣời phạm tội đã thực
hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, cơ quan
có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm
tội đó. Vì thế, định tội đƣợc xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt
đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Trong trƣờng hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã
tƣơng xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhƣng
việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác mà bị cáo phải
gánh chịu nhƣ: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích…
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng
2
còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc định tội danh, trong đó có cả tội giết
ngƣời. Thời gian gần đây tội giết ngƣời có xu hƣớng gia tăng, diễn biến phức tạp ở
nhiều địa bàn, bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, gây thiệt hại về tính mạng và sức
khỏe của con ngƣời, ảnh hƣởng đến an ninh và trật tự chung của xã hội với nhiều
thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Bộ luật hình sự do Nhà nƣớc ban
hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy những
quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trƣng cơ bản nhất của một cấu thành tội
phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Có khá
nhiều trƣờng hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những
dấu hiệu giống nhau nên thƣờng dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định
tội danh thiếu chính xác, chẳng hạn việc xác định lỗi cũng nhƣ một số tình tiết định
tội của các hành vi xâm phạm tính mạng con ngƣời nhƣ tội giết ngƣời và giết ngƣời
do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng...
Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật,
đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công dân bằng pháp
luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức đƣợc tầm quan trọng đó, Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lƣợng giải quyết,
xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan ngƣời không có tội
và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do
lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy
đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn
một số ít trƣờng hợp áp dụng không đúng, chƣa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ
phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn
còn tồn tại ở tội giết ngƣời.
Với lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Định tội danh đối với tội giết
người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành
phố Đà Nẵng)".
3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị- xã hội, đạo đức và
pháp luật. Vì vậy mà hoạt động định tội đã đƣợc đề cập trong rất nhiều công trình
nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật hình sự của nƣớc ta, trong đó phải kể
đến một số công trình nghiên cứu của PGS.TSKH. Lê Cảm, "Một số vấn đề lý luận
chung về định tội danh", chƣơng I, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Tập thể tác giả do
PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; "Định tội
danh- lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành", Lê Cảm và Trịnh Quốc
Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Trịnh Quốc Toản: "Một số vấn
đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh", Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội; Định tội danh- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của PGS.TS.
Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8, 11 năm 1999; Đỗ Đức Hồng Hà,
Mặt khách quan của Tội giết người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí
Nhà nƣớc và pháp luật, số 06/2004; Đỗ Đức Hồng Hà, Một số quan điểm khác nhau
về định nghĩa về đối tượng tác động của tội giết người, Tạp chí Tòa án, số 13/2004;
Đỗ Đức Hồng Hà, Chủ thể của Tội giết người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
Tạp chí Tòa án, số 23/2004; Đỗ Đức Hồng Hà, Lịch sử phân hóa trách nhiệm hình
sự về Tội giết người từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số
03/2006; Trần Văn Luyện (2001), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Phùng Thế Vắc - Trần
Văn Luyện, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, 2001; Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Những bài nghiên cứu trên đã khái quát đƣợc một số vấn đề lý luận liên quan
đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận định
một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với một số
tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999…
Tuy vậy, hiện nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội
danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội
danh đối với tội giết ngƣời nói riêng, cũng nhƣ đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó đƣa ra đề xuất yêu cầu và những giải pháp
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên
địa bàn Đà Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể nhƣ sau:
1) Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội giết ngƣời;
2) Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời;
3) Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với
tội giết ngƣời; cũng nhƣ các giai đoạn định tội danh đối với tội giết ngƣời;
4) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên
nhân cơ bản;
5) Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn Đà Nẵng nói
riêng, cả nƣớc nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về đối tƣợng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về thực tiễn định tội
danh đối với tội giết ngƣời tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trên cơ sở Bộ
luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật
có liên quan.
Về phạm vi nghiên cứu, luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
về định tội danh đối với tội giết ngƣời theo luâ ̣t hình sƣ̣Viê ̣t Nam (nhƣ: khái niệm,
phân loại, cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học, các giai đoạn của việc định tội danh đối
5
với tội phạm này), đánh giá thực tiễn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn
05 năm (2011 - 2015), trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên
nhân cơ bản, từ đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu
quả của việc định tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng, cả
nƣớc nói chung.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hƣớng của Đảng về chính sách hình sự;
quan điểm, đƣờng lối xử lý các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm nói chung và tội giết ngƣời nói riêng.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số phƣơng
pháp cụ thể nhƣ: phƣơng pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên
những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp Tòa án.
Phƣơng pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với
nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay, việc nghiên cứu để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội
danh đối với tội giết ngƣời nói riêng luôn là một trong những hƣớng cơ bản, đồng
thời cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều
này có ý nghĩa rất quan trọng, đƣợc thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dƣới đây:
Về mặt lập pháp, việc hoàn thiện các quy định hiện hành nhƣ Bộ luật hình sự
năm 1999, đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
chống và phòng ngừa tội giết ngƣời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cũng phải thực sự
chú trọng để làm cơ sở định tội danh, đủ sức răn đe đẩy lùi loại tội phạm nguy hiểm
này. Giải quyết những vƣớng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự vào
việc định tội danh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật.… dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ
trong áp dụng và giải thích pháp luật.
6
Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn định tội danh đối với tội giết ngƣời
trên địa bàn cả nƣớc nói chung và ở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng
đã cho thấy sự yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc nhận thức
cũng nhƣ áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự, dẫn đến hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm chƣa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm,
gây thiệt hại cho các quyền của con ngƣời và của công dân, làm giảm hiệu quả của
cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Về mặt lý luận, vấn đề định tội danh đối với tội giết ngƣời tuy đã đƣợc đề cập
trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau nhƣng hiện chƣa có một nghiên cứu nào
đề cập đến việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Áp dụng vào thực tiễn, đề tài có thể đáp ứng một phần vào công tác cải cách
tƣ pháp, nâng cao chất lƣợng xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cụ thể là:
Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh
pháp lý về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời tại thành
phố Đà Nẵng nói riêng góp phần xây dựng, hoàn thiện lý thuyết định tội danh trong
khoa học pháp lý hình sự.
Thứ hai, Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng
đặc biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết các vụ án giết ngƣời đƣợc
đúng đắn.
Thứ ba, Luận văn là cơ sở để đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình
sự liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời nói
riêng tại Tòa án thành phố Đà Nẵng.
7. Những điểm mới của luận văn
Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác ngành
Tòa án tại thành phố Đà Nẵng - đó là những số liệu thực tế góp phần làm rõ hơn về
thực trạng về định tội danh trên địa bàn này. Do đó, những điểm mới cơ bản của
luận văn nhƣ sau:
1) Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội giết ngƣời;
2) Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời;
7
3) Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với
tội giết ngƣời; cũng nhƣ các giai đoạn định tội danh đối với tội giết ngƣời;
4) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên
nhân cơ bản;
5) Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lƣợng,
hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội giết ngƣời.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lƣợng định tội danh
đối với tội giết ngƣời.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI
TỘI GIẾT NGƯỜI
1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội giết người
Quyền sống đã đƣợc khẳng định về mặt chính trị - pháp lý là quyền thiêng
liêng, bất khả xâm phạm và là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời. Quyền
sống đƣợc ghi nhận và bảo vệ, bảo đảm trong Điều 19 Hiến pháp năm 2013 của
Việt Nam. Ngoài ra, để bảo vệ quyền quan trọng này, pháp luật hình sự của hầu hết
các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều quy định nhóm các tội xâm phạm tính
mạng. Cho nên, định tội danh tối với các tội xâm phạm tính mạng nói chung, đối
với tội giết ngƣời nói riêng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, làm tiền đề cho việc
giải quyết các nhiệm vụ khác của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự.
Nghiên cứu về định tội danh đối với tội giết ngƣời, trƣớc hết cần làm rõ một
số nội dung về mặt lý luận mà trƣớc hết là khái niệm định tội danh. Có nhiều quan
điểm khoa học nghiên cứu về vấn đề này mà điển hình là các quan điểm sẽ đƣợc
nêu dƣới đây.
GS. TSKH. Lê Văn Cảm quan niệm định tội danh là quá trình áp dụng pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự:
Dƣới góc độ khoa học, định tội danh có thể đƣợc hiểu là quá trình
nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và đƣợc tiến hành
trên cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập đƣợc tiến hành trên cơ sở các
chứng cứ các tài liệu thu thập đƣợc và các tình tiết thực tế của vụ án hình
sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tƣơng
ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt đƣợc sự thật khách quan, tức là
9
đƣa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền
đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công
minh, có căn cứ và đúng pháp luật [7, tr. 496]; [8, tr. 21].
Còn GS. TS. Võ Khánh Vinh thì định tội danh chỉ là hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự:
Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác
định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội đƣợc thực
hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu
thành tội phạm tƣơng ứng và mối liên hệ tƣơng đồng giữa các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng
các phƣơng pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [72, tr. 27].
PGS.TS. Lê Văn Đệ quan niệm tƣơng tự:
Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã đƣợc
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đƣợc pháp luật hình
sự quy định [16, tr. 24].
Trong khi đó, PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên định nghĩa bao gồm cả các chủ
thể định tội danh và nêu:
Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một ngƣời có
phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của
Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho
hành vi nguy hiểm đã thực hiện [31, tr. 9]; v.v...
Nhƣ vậy, mặc dù đƣợc diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhƣng về cơ bản
các nhà khoa học đều thống nhất ở một số khía cạnh dƣới đây:
Một là, định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic của con ngƣời về
việc có sự phù hợp hay không phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi
10
xảy ra ngoài thực tiễn khách quan với quy định của pháp luật hình sự về một tội
phạm cụ thể;
Hai là, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, nếu đƣợc thực
hiện bởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và ngƣời có thẩm quyền trong các cơ
quan đó trên cơ sở quy định của pháp luật. Cũng có tác giả cho rằng bao gồm cả hoạt
động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nếu hiểu định tội danh theo nghĩa rộng;
Ba là, định tội danh là cơ sở cho việc quyết định hình phạt và giải quyết các
vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội (trong trƣờng
hợp định tội danh chính thức).
Do đó, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, theo ngƣời viết khái niệm đang
nghiên cứu đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố
tụng hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền để
xác định, so sánh và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu
hiệu của hành vi phạm tội cụ thể trong thực tế đã được thực hiện với các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm của điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật
hình sự quy định, qua đó làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề trách nhiệm
hình sự và hình phạt của người phạm tội.
Ngoài ra, tội giết ngƣời là một loại tội phạm cụ thể đƣợc quy định tại Điều 93
Bộ luật hình sự Việt Nam. Một ngƣời đƣợc coi là chủ thể của tội phạm này khi đáp
ứng các điều kiện là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, đồng thời là ngƣời đã thực hiện hành vi mà Điều 93 Bộ luật này quy
định với lỗi cố ý, xâm phạm bất hợp pháp đến đến quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng.
Do đó, từ cơ sở lý luận về định tội danh nêu trên, kết hợp với quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam về tội giết ngƣời, có thể đƣa ra khái niệm đang nghiên
cứu nhƣ sau:
Định tội danh đối với tội giết người là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và
người có thẩm quyền, được tiến hành trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập
11
được để xác định có hay không có sự phù hợp giữa hành vi xâm phạm tính mạng đã
xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội giết người quy định tại Điều 93
Bộ luật hình sự, làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hình phạt
và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác.
Từ khái niệm định tội danh đối với tội giết ngƣời phản ánh các đặc điểm cơ
bản sau đây:
* Định tội danh đối với tội giết người là định tội danh đối với một loại tội
phạm cụ thể - tội giết người
Nhƣ vậy, ngoài đặc điểm chung của định tội danh với tƣ cách là hoạt động
nhận thức có tính logic của con ngƣời, thì định tội danh đối với tội giết ngƣời có đặc
điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi giết ngƣời xảy ra trong thực tế khách
quan và quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này.
Chủ thể định tội danh phải đối chiếu, so sánh và đƣa ra kết luận về việc có hay
không có sự phù hợp giữa hành vi xâm phạm tính mạng xảy ra trong thực tế với quy
phạm pháp luật quy định tội giết ngƣời trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
* Định tội danh đối với tội giết người là hoạt động áp dụng pháp luật, nếu chủ
thể định tội danh là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền
Do đó, quá trình định tội danh phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ về mặt tố
tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành. Mọi sự vi phạm pháp luật tố
tụng đều có nguy cơ dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt ngƣời phạm tội, hạn
chế hiệu quả của cuộc đấu tranh. Còn để ra tội danh chính xác và phù hợp với các tình
tiết thực tế khách quan của vụ án, phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự.
* Định tội danh đối với tội giết người liên quan đến vấn đề chứng cứ đã
được thu thập, kiểm tra, đánh giá
Đối với hình thức định tội danh không chính thức, các tình tiết của vụ án đã
đƣợc mặc nhiệm coi là đúng và đã đƣợc chứng minh bằng các chứng cứ mà các cơ
quan tiến hành tố tụng thu thập đƣợc. Tuy nhiên, đối với hình thức định tội danh
chính thức, xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các
cơ quan tiến hành tố tụng nên chƣa thể khẳng định ngay từ đầu bị can có phải là
12
ngƣời phạm tội hay không. Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động đƣợc
tiến hành song song và tiếp liền với hoạt động thu thập, củng cố, kiểm tra, đánh giá
và sử dụng chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, định tội danh đối
với tội giết ngƣời gắn liền với hoạt động chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội
của các cơ quan nói trên.
1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh đối với tội giết người
“Căn cứ vào các chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, khoa học
luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: định tội danh chính thức và định
tội danh không chính thức” [8, tr. 23]. Nhƣ vậy, theo cách tiếp cận này, có thể phân
chia định tội danh đối với tội giết ngƣời làm hai dạng (hay hai trƣờng hợp) tƣơng ứng
- định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời.
* Hình thức định tội danh chính thức đối với tội giết người
Hiện nay, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, “định tội danh chính thức là sự
đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể
do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện” [8, tr. 23]. Do đó, định tội danh
đối với tội giết ngƣời là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong hoạt động đấu tranh với
tôi phạm giết ngƣời. Vì vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức định tội danh này có thể
đƣợc xác định nhƣ nhƣ sau:
Thứ nhất, định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời là hoạt động mang
tính tổ chức - quyền lực Nhà nƣớc. Chủ thể tiến hành hình thức định tội danh này
đƣợc Nhà nƣớc quy định rõ trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là các cơ quan tiến
hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003, các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm
sát, Tòa án. Ngƣời tiến hành tố tụng gồm có: Điều tra viên, Phó Thủ trƣởng, Thủ
trƣởng Cơ quan Điều tra; Kiểm sát viên, Phó Viện trƣởng, Viện trƣởng Viện Kiểm
sát nhân dân và Viện Kiểm sát Quân sự các cấp; Thẩm phán, Hội thẩm (bao gồm
Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân) và Thƣ ký Tòa án. Những chủ thể nói
trên tiến hành định tội danh đối với tội giết ngƣời khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của họ.
13
Thứ hai, định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời đƣợc tiến hành trong
tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử (gồm cả xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm). Ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án,
Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
1. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy
đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến
nghị khởi tố do cơ quan nhà nƣớc chuyển đến. Viện kiểm sát có trách
nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan Điều tra có
thẩm quyền. 2. Trong thời hạn hai mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan Điều tra trong
phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và
quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trƣờng hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều
địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn,
nhƣng không quá hai tháng.
Từ kết quả xác minh nguồn tin, khi xác định có dấu hiệu của tội phạm, Cơ
quan Điều tra phải sơ bộ định tội danh đối với tội phạm đó. Trƣờng hợp xác định có
dấu hiệu của tội giết ngƣời thì phải ra quyết định khởi tố vụ án giết ngƣời. Quyết
định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ
luật hình sự đƣợc áp dụng (khoản 1, 2, 3 hay 4 Điều 140 Bộ luật hình sự) và họ tên,
chức vụ ngƣời ra quyết định.
Các quyết định hoặc văn bản tố tụng trong các giai đoạn sau nhƣ quyết định
khởi tố bị can, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và bản án đều phải thể hiện chính
thức quan điểm chính thức của ngƣời tiến hành tố tụng về tội giết ngƣời trong đó.
Trƣờng hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố xét xử về tội phạm khác, song trong quá
trình tố tụng mà phát hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội giết ngƣời thì
phải định tội danh lại, nghĩa là phải thay đổi tội danh trong các văn bản tố tụng nói
trên theo các trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
14
Thứ ba, hậu quả của hình thức định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời
là việc xác định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội này. Định tội danh
chính thức đối với tội giết ngƣời là sự đánh giá về mặt pháp lý chính thức của các
cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng nói trên đối với hành vi giết
ngƣời xảy ra trong thực tế thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời quy định
tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam và luật hình sự các nƣớc trên
thể giới đều đƣa ra nguyên tắc: một ngƣời chỉ phải chị trách nhiệm hình sự khi hành
vi nguy hiểm cho xã hội của họ đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm
của một tội đƣợc quy định trong luật hình sự và ngƣợc lại khi hành vi nguy hiểm
cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì ngƣời thực
hiện hành vi đó không tránh khỏi việc phải gánh chịu trách nhiệm hình sự. Xuất
phát từ nguyên tắc nói trên, khi cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiền hành tố tụng
đã có đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm giết ngƣời thì ngƣời thực hiện hành
vi đó tất yếu phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hình sự nhƣ hình phạt, các
biện pháp tƣ pháp... Việc ngƣời phạm tội phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm
hình sự (và kể cả các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc khác nhƣ bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bị kê biên tài sản...) đều có liên quan đến hoạt động
định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời đã nêu trên.
Cũng cần lƣu ý rằng: định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời không
đồng nghĩa với việc khẳng định đối tƣợng phải gánh chịu kết quả của hoạt động
định tội danh đó là ngƣời phạm tội giết ngƣời. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
quy định rõ: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [35, Điều 9]. Định tội danh chính thức
đối với tội giết ngƣời do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành song chỉ
duy nhất một chủ thể là Tòa án, bằng phiên tòa xét xử công khai, với đầy đủ chứng
cứ thu thập đƣợc mới có thẩm quyền đƣa ra kết luận cuối cùng về việc bị cáo là
ngƣời phạm tội giết ngƣời trong bản án có hiệu lực pháp luật. Nói một cách khác,
bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án (thực chất phải là bản án phúc thẩm của
Tòa án) là văn bản định tội danh cuối cùng, chính thức khẳng định về tội danh giết
ngƣời đối với hành vi giết ngƣời đã xảy ra.
15
* Hình thức định tội danh không chính thức đối với tội giết người
Theo quan điểm của GS. TS. Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh không chính
thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp
lý, tác giả bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một
người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra” [72, tr. 28].
Nhƣ vậy, khác với định tội danh chính thức, định tội danh không chính thức đối với
tội giết ngƣời không phải do những chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định
của pháp luật. Khái niệm “chính thức” ở đây phải đƣợc hiểu là chính thức về mặt Nhà
nƣớc. Định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời không phải là sự đánh
giá chính thức về mặt nhà nƣớc, không đƣợc thể hiện trong các văn bản tố tụng và
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tƣợng bị định tội danh.
Nhƣ vậy, có thể tóm tắt sự khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và
định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời qua một số điểm sau đây:
Một là, khác nhau về chủ thể tiến hành. Chủ thể tiến hành hoạt động định
tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời có thể là bất kỳ ai quan tâm đến
vụ án hình sự và nắm đƣợc các tình tiết của vụ án đó. Ngƣời định tội danh không
chính thức có thể liên quan đến hoạt động tố tụng hoặc không liên quan đến hoạt
động tố tụng. Cần thấy rằng ngay bản thân những ngƣời tiến hành tố tụng cũng có
hoạt động tƣ duy theo hƣớng định tội danh cho hành vi chiếm đoạt tài sản của bị
can, bị cáo. Trong thực thế, bị can, bị cáo cũng có thể định tội danh cho chính bản
thân mình. Đƣơng nhiên, họ có thể không thừa nhận hành vi phạm tội đã thực
hiện. Trong trƣờng hợp này, họ định tội danh theo hƣớng phủ định. Trƣờng hợp
khác, bị can, bị cáo thừa nhận đã phạm tội giết ngƣời nhƣng xin đƣợc hƣởng
lƣợng khoan hồng,giảm nhẹ hình phạt. Trƣờng hợp này, việc tự định tội danh của
bị can, bị cáo theo hƣớng khẳng định. Cũng có thể bị can, bị cáo tiếp nhận kết quả
định tội danh của các chủ thể khác, nhất là của các cơ quan tiến hành tố tụng,
ngƣời tiến hành tố tụng áp dụng cho họ. Ngƣời bị hại, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo
vệ quyền lợi của đƣơng sự cũng có thể có hoạt động định tội danh không chính
thức theo các hƣớng nêu trên.
16
Tuy nhiên, phải thấy rằng: chủ thể phổ biến của hoạt động định tội danh không
chính thức đối với tội giết ngƣời là các nhà khoa học hoặc những ngƣời đang nghiên
cứu, tìm hiểu, học tập luật hình sự. Các chủ thể nói trên quan tâm đến việc định tội
danh vì việc đó là thuộc nội dung chuyên môn mà họ theo đuổi. Chính vì vậy, định
tội danh không chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc phát triển ngành
khoa học pháp lý hình sự và là một trong những kênh để đƣa lý luận khoa học tiếp
cận với thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cũng nhƣ thực tiễn cuộc sống.
Hai là, khác nhau về hình thức thể hiện. Nhƣ đã trình bày ở trên, hình thức
thể hiện của định tội danh chính thức là các quyết định hoặc văn bản tố tụng đƣợc
ban hành bởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Trong khi đó, hình thức của
định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời lại chủ yếu là các công trình
khoa học, các bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật. Ngoài
ra, định tội danh không chính thức có thể đƣợc thể hiện trong một số văn bản khác
nhƣ đơn kháng án của bị cáo, ngƣời bị hại, bản luận cứ bào chữa của luật sƣ... Do
là không chính thức nên nói chung hình thức thể hiện của định tội danh không
chính thức đối với tội giết ngƣời không đƣợc pháp luật điều chỉnh mà đƣợc viết
theo ý chủ quan của chủ thể định tội danh không chính thức.
Ba là, khác nhau về hậu quả pháp lý. Kết quả của định tội danh không chính
thức đối với tội giết ngƣời không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối
tƣợng của hoạt động định tội danh. Do không xuất phát từ quyền lực nhà nƣớc và
không đại diện cho quyền lực nhà nƣớc nên chủ thể của hoạt động định tội danh
không chính thức không có quyền áp đặt các biện pháp cƣỡng chế bảo đảm cho kết
quả định tội danh của mình. Tuy nhiên, nếu hoạt động định tội danh không chính
thức đƣợc dƣ luận xã hội, báo chí quan tâm, nhất là trong trƣờng hợp nó đối lập với
kết quả hoạt động định tội danh chính thức và phản ánh đúng yêu cầu của pháp luật
hình sự thì có thể xuất hiện khả năng có sự chuyển hóa từ định tội danh không chính
thức thành định tội danh chính thức.
Nhƣ vậy, thực tế là không phải lúc nào việc định tội danh của các cơ quan
tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng cũng luôn đúng. Các vụ án oan, sai tuy
17
không nhiều nhƣng cũng đã xảy ra và đƣợc dƣ luận chú ý. Trong trƣờng hợp này,
có thể sẽ xuất hiện hiện tƣợng song hành định tội danh: định tội danh không chính
thức ở bên ngoài xã hội và định tội danh lại từ trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố
tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng có thể tham khảo kết
quả định tội danh không chính thức của giới khoa học pháp lý. Sự chuyển hóa các
hình thức định tội danh nói ở trên có thể xảy ra đối với trƣờng hợp cụ thể này.
Ngoài ra, định tội danh chính thức và không chính thức đối với tội giết ngƣời
có ý nghĩa quan trọng nhƣ nhau và có vị trí, vai trò riêng trong việc bảo đảm tính
hiện thực hóa của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, trong đó có tội
giết ngƣời quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự.
1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết người
Định tội danh đối với tội giết ngƣời có ý nghĩa rất quan trọng và trên nhiều
phƣơng diện khác nhau. Trong các công trình khoa học đã công bố hiện nay, có
nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Có tác giả tập trung
phân tích ý nghĩa của định tội danh về mặt pháp lý. Tác giả khác chỉ ra ý nghĩa của
định tội danh về mặt xã hội và pháp luật [72, tr. 28]. Do đó, kế thừa các quan điểm
nêu trên, có thể khẳng định định tội danh đối với tội giết ngƣời phản ánh những ý
nghĩa cụ thể dƣới đây.
* Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội
Định tội danh đối với tội giết ngƣời, nếu đƣợc tiến hành bởi cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền và ngƣời có thẩm quyền trong các cơ quan đó là hoạt động
thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nƣớc là tổ chức chính
trị đặc biệt, là công cụ của giai cấp thống trị có chức năng duy trì trật tự, ổn định xã
hội và quyền lợi của giai cấp thống trị. Do đó, có thể xem định tội danh đối với tội
giết ngƣời là một hoạt động mang tính chính trị sâu sắc. Tính chính trị của hoạt
động này thể hiện ở chỗ:
- Định tội danh đối với tội giết ngƣời có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt
kinh tế (quyền sở hữu tài sản) cho giai cấp thống trị xã hội. Trong xã hội xã hội chủ
18
nghĩa, hoạt động này bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp tài sản cho các chủ thể trong xã
hội, mà chủ yếu là tài sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chống lại
mọi hành vi xâm hại của đối tƣợng phạm tội.
- Định tội danh đối với tội giết ngƣời góp phần đƣa các quy định của pháp
luật, nhất là quy định của Bộ luật hình sự vào thực tiễn cuộc sống. Điều này đúng
nhƣ GS. TS Võ Khánh Vinh đã viết:
Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nƣớc của nhân dân ta đối
với vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm... Việc tuân thủ nghiêm chỉnh
đạo luật hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cần thiết và quan trọng
của việc thực hiện chính sách của Nhà nƣớc nhằm khắc phục tình trạng tội
phạm ở nƣớc ta. Và theo Lê-nin: Một đạo luật là một biện pháp chính trị, là
chính trị”. Do vậy, định tội danh đúng là một biểu hiện của việc thực hiện
đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của
nhân dân đã đƣợc thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã
hội, của Nhà nƣớc và của con ngƣời, của công dân [72, tr. 29].
- Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc
có tính áp đặt một chiều đối với đối tƣợng bị áp dụng. Nói một cách khác, đó là hoạt
động thể hiện quyền lực chính trị trong thực tiễn đời sống xã hội.
Không chỉ có tính chất chính trị, định tội danh đối với tội giết ngƣời còn là
hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Ý nghĩa chính trị - xã hội của
hoạt động này thể hiện qua một số khía cạnh cụ thể sau đây:
- Thông qua định tội danh đối với tội giết ngƣời, Nhà nƣớc ta thực hiện
nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con ngƣời. Nhƣ đã khẳng định ở trên,
quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời
mà pháp luật quốc gia và quốc tế đều quan tâm bảo vệ. “Mọi người đều có quyền
sống, tự do và an toàn cá nhân” (Điều 3 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
ngƣời năm 1948) [28, tr. 51]. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam cũng quy định:
“Mọi người đều có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” (Điều 19). Do quyền đƣợc bảo hộ
19
về tính mạng nói trên bị hành vi giết ngƣời xâm phạm nên định tội danh có chức
năng góp phần xác định trách nhiệm hình sự, đấu tranh phòng chống lại hành vi
phạm tội này.
- Thông qua định tội danh, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện
việc bảo vệ sinh mạng chính trị cho ngƣời dân. Phải nhận thức rằng: định tội danh
đối với tội giết ngƣời là một hoạt động và kết quả của hoạt động đó có thể phát triển
theo hai hƣớng: khẳng định là có tội và hai là khẳng định không có tội. Do đó, định
tội danh đối với tội giết ngƣời đúng, chính xác góp phần quan trọng trong phòng
chống oan sai, phòng, chống việc lạm dụng quyền lực của một số ngƣời có chức, có
quyền tha hóa biến chất xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân.
- Định tội danh đúng đối với tội giết ngƣời còn góp phần vào việc cụ thể hóa
các cam kết quốc tế của nhà nƣớc Việt Nam, nhất là các cam kết liên quan đến
quyền con ngƣời nêu trên.
- Ngoài ra, định tội danh đúng còn góp phần củng cố lòng tin của ngƣời dân
vào công lý và sự chí công, vô tƣ của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng
tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của pháp luật
Việt Nam.
* Ý nghĩa về phương diện pháp lý
Về mặt pháp lý, có thể khẳng định rằng định tội danh đúng là tiền đề và cơ sở
để áp dụng một loạt các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
Trƣớc hết, định tội danh đúng là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng.
Định tội danh đối với tội giết ngƣời là cơ sở để áp dụng các chế tài hình sự đƣợc quy
định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, đây cũng là tiền đề để áp dụng các quy
định khác nhƣ quy định về nguyên tắc xử lý, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, án treo, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; v.v...
Đối với pháp luật hình sự, định tội danh đúng là cơ sở để ra các quyết định tố
tụng đúng, không bắt oan, bắt sai ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm và ngƣời
phạm tội. Định tội danh đúng còn là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố,
20
xét xử đúng, xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng nhƣ thời hạn áp dụng
các biện pháp ngăn chặn phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành đối với ngƣời phạm tội nói chung, ngƣời phạm tội giết ngƣời nói riêng.
Đối lập với định tội danh đúng là trƣờng hợp có sự sai lầm trong định tội
danh đối với tội giết ngƣời.
Định tội danh sai không chỉ làm việc quyết định hình phạt không
đúng, không công bằng mà còn áp dụng không có căn cứ, không công
bằng hoặc không áp dụng một loạt các biện pháp pháp lý khác (quyết
định hình phạt bổ sung…), áp dụng hoặc không áp dụng đại xá, miễn
trách nhiệm hình sự, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không
đúng thời hiệu, án tích… Cũng không kém phần có hại và bất công
những trƣờng hợp ngƣợc lại, khi hành vi của ngƣời có lỗi cấu thành tội
phạm nghiêm trọng hơn nhƣng lại đƣợc định tội danh theo tội nhẹ hơn.
Trong trƣờng hợp đó, ngƣời có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn so
với hình phạt đáng lẽ ngƣời đó phải chịu theo pháp luật, còn tội phạm lại
đƣợc giảm nhẹ về đạo đức, chính trị và pháp lý một cách thiếu cơ sở.
Điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm
mà cùng lúc gây sự công phẫn hợp pháp, công bằng của nhân dân, làm
nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp
đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tƣ pháp. Rõ
ràng đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên tắc công
bằng, pháp chế [72, tr. 29].
Tóm lại, định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động nhận thức mang
tính logic, thể hiện sự đánh giá của chủ thể định tội danh về sự phù hợp hay không
phù hợp giữa hành vi tƣớc đoạt tính mạng của ngƣời khác một cách trái pháp luật
trong thực tế với cấu thành tội phạm tội giết ngƣời. Có thể có nhiều loại chủ thể khác
nhau tham gia vào hoạt động định tội danh, trong đó có các chủ thể là các cơ quan
tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Định tội danh đối với tội giết ngƣời có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị - xã hội
21
và về mặt pháp lý, là một trong những phƣơng thực để bảo vệ quyền đƣợc bảo hộ
về tính mạng – một trong những quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc pháp luật quốc
gia Việt Nam và pháp luật quốc tế bảo vệ.
1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI
Định tội danh đối với tội giết ngƣời, dù là chính thức hay không chính thức
cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất định. Do định tội danh là sự đánh giá về
mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định tội danh lại là hoạt động nhận
thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có cơ sở khoa học. Nhƣ vậy, có hai cơ
sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết ngƣời.
1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết người
Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời là toàn bộ các quy
định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề định tội danh đối với tội phạm
này. Theo quan điểm của các nhà khoa học pháp lý hình sự Việt Nam hiện nay, có
thể có hai cách tiếp cận đối với vấn đề cơ sở pháp lý của định tội danh: một cách
tiếp cận theo nghĩa hẹp và cách tiếp cận kia theo nghĩa rộng.
Trƣớc hết, GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng:
Về cơ bản, những căn cứ pháp lý của việc định tội danh có thể
đƣợc hiểu trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp dƣới đây:
- Trên bình diện rộng (hay hiểu theo nghĩa cả về nội dung và hình
thức) thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các quy
phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp)
cũng nhƣ hệ thống các quy phạm luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ
sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu
của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện là tội phạm.
- Trên bình diện hẹp (chỉ hiểu theo nghĩa về nội dung) thì những
căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ thống các quy phạm
luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn
bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
đƣợc thực hiện là tội phạm [8, tr. 26-27].
22
Trong hai cách tiếp cận nêu trên, cách tiếp cận theo nghĩa rộng thƣờng đƣợc
xem là hợp lý hơn vì nó cho phép đánh gia một cách toàn diện các quy định pháp
luật làm nền tảng cho việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên cả hai phƣơng
diện nội dung và hình thức. Mặt khác, cũng cần thấy rằng: các quy định của pháp
luật hình sự không thể áp dụng đƣợc nếu thiếu quy định của pháp luật tố tụng hình
sự. Thực tiễn đã chứng minh: các quan hệ pháp luật hình sự luôn phải đƣợc tồn tại
trong những hình thức tố tụng nhất định. Do đó, định tội danh, với nghĩa là sự đánh
giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, phải đƣợc đánh trên cả hai
phƣơng diện: pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Về phƣơng
diện pháp luật hình sự, chủ thể định tội danh phải đƣa ra kết luận hành vi nguy hiểm
cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự hay không. Về
phƣơng diện pháp luật tố tụng hình sự, cần chỉ rõ việc xác định tội danh giết ngƣời
đƣợc phản ánh trong quyết định hay văn bản pháp luật tố tụng hình sự nào. Về vấn
đề này, lý luận pháp luật xã hội chủ nghĩa khẳng định: luật hình sự là luật nội dung
còn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở pháp lý trên phƣơng diện hình
thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
* Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội giết người
Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội giết ngƣời là các văn
bản pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự, mà trƣớc hết và chủ yếu là Bộ luật hình sự.
Theo quy định của Điều 2 và Điều 8 Bộ luật hình sự, mọi hành vi phạm tội
phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó, có quan điểm cho rằng Bộ luật
hình sự là nguồn duy nhất của luật hình sự Việt Nam [68, tr.32]. Trong thực tiễn
định tội danh, các điều luật của Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất các cơ
quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong các quyết định và văn bản tố tụng khác khi
quy kết trách nhiệm hình sự cho ngƣời phạm tội.
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành đƣợc cấu trúc thành hai phần là Phần
chung và Phần các tội phạm. Có thể thấy cả Phần chung và Phần các tội phạm đều
là căn cứ (cơ sở) pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời.
Khi định tội danh đối với tội giết ngƣời, chủ thể định tội danh phải căn cứ
23
vào quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự. Điều luật này đƣợc quy định trong Bộ
luật hình sự nhƣ sau:
Điều 93. Tội giết ngƣời
1. Ngƣời nào giết ngƣời thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ mƣời hai năm đến hai mƣơi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết nhiều ngƣời;
b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
c) Giết trẻ em;
d) Giết ngƣời đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của
nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, ngƣời nuôi dƣỡng, thầy giáo, cô giáo
của mình;
e) Giết ngƣời mà liền trƣớc đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội
rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phƣơng pháp có khả năng làm chết nhiều ngƣời;
m) Thuê giết ngƣời hoặc giết ngƣời thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 1
Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm.
3. Ngƣời phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt
quản chế hoặc cấm cƣ trú từ một năm đến năm năm.
24
Điều luật nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và các chủ thể khác xác định hành vi chiếm đoạt tài
sản xảy ra trong thực tế có cấu thành tội giết ngƣời hay không; nếu phạm tội giết
ngƣời thì thuộc vào khoản 1 hay khoản cụ thể nào của điều luật đó.
Ngoài Điều 93 Bộ luật hình sự, các chủ thể định tội danh đối với tội giết
ngƣời còn phải căn cứ vào các quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự, nhất
là các quy định liên quan đến việc xác định tội phạm nhƣ chuẩn bị phạm tội (Điều
17), phạm tội chƣa đạt (Điều 18), đồng phạm (Điều 20), tái phạm, tái phạm nguy
hiểm (Điều 49); v.v...
Cùng với quy định của Bộ luật hình sự, quy định trong các văn bản hƣớng
dẫn thi hành Bộ luật hình sự cũng có ý nghĩa quan trọng trong định tội danh. Liên
quan đến hoạt động định tội danh đối với tội giết ngƣời, cần phải kể đến Nghị quyết
số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng thẩm phán, Tòa án nhân dân
tối cao hƣớng dẫn một số quy định trong phần chung Bộ luật hình sự, trong đó liên
quan đến việc áp dụng Khoản 1 Điều 93...
* Cơ sở pháp lý về hình thức của định tội danh đối với tội giết người
Cơ sở pháp lý về hình thức đƣợc hiểu là các băn bản pháp luật quy định về
thủ tục tố tụng làm cơ sở cho việc định tội danh và giải quyết vụ án hình sự. GS.
TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng:
Mặc dù các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự ở chừng mực nhất
định có ý nghĩa gián tiếp đối với việc định tội danh nhƣng chúng có ý
nghĩa pháp lí quan trọng đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công
dân trong lĩnh vực pháp luật hình sự, nhất là trong giai đoạn xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay [8, tr. 30-31].
Với tính cách là cơ sở pháp lý về hình thức của việc định tội danh đối với tội
giết ngƣời, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là Bộ luật tố tụng hình sự
quy định những vấn đề sau đây:
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền định tội danh chính thức về
mặt nhà nƣớc đối với tội giết ngƣời. Nhƣ đã trình bày trên, việc định tội danh đối với
25
tội giết ngƣời đƣợc thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, từ giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự đến giai đoạn xét xử. Trong từng giai đoạn này là các cơ quan
và ngƣời có thẩm quyền định tội danh tƣơng ứng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án hình sự, thẩm quyền định tội danh đƣợc quy định cho Cơ quan điều tra. Theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, tội giết ngƣời
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra các cấp trong Công an nhân
dân và Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng, tùy thuộc vào đối tƣợng phạm tội cụ
thể. Trong giai đoạn truy tố, thẩm quyền định tội danh định tội danh đối với tội giết
ngƣời thuộc về Viện Kiểm sát. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án (mà trực tiếp là Hội
đồng xét xử) là chủ thể có thẩm quyền định tội danh đối với tội phạm nêu trên.
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định hình thức pháp lý của định tội danh định
tội danh đối với tội giết ngƣời. Hình thức pháp lý đƣợc quy định trong Bộ luật hình
sự mà các chủ thể định tội danh phải tuân theo là ban hành các quyết định hoặc văn
bản tố tụng. Đó có thể là các quyết định thể hiện quan điểm của chủ thể định tội
danh về hƣớng giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự (nhƣ quyết
định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng,
bản án) hoặc quyết định về các biện pháp cƣỡng chế trong tố tụng nhƣ quyết định
bắt, tạm giữ, tạm giam...
- Pháp luật tố tụng hình sự quy định về chứng cứ, về trình tự, thủ tục thu
thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh tội giết ngƣời. Định tội danh
luôn đi kèm theo vấn đề chứng cứ chứng minh tội phạm. Trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải bằng các biện pháp hợp pháp thu
thập và phản ánh chứng cứ thu thập đƣợc trong những nguồn mà Bộ luật tố tụng
hình sự quy định. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bởi nếu không chứng minh
đƣợc sự tồn tại tội phạm giết ngƣời và ngƣời thực hiện hành vi đó thì không thể
định tội danh đối với tội phạm này.
- Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các vấn đề khác liên quan
đến việc thay đổi tội danh, việc tách hoặc nhập vụ án hình sự và các vấn đề khác
phục vụ cho định tội danh định tội danh đối với tội giết ngƣời.
26
1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết người
Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động nhận thức mang tính logic.
Để hoạt động nhận thức này đƣợc tiến hành một cách hiệu quả, chủ thể nhận thức
không chỉ đơn giản là căn cứ vào các điều luật của Bộ luật hình sự mà còn cần phải
dựa trên cơ sở lý luận khoa học về mô hình pháp lý của tội phạm cụ thể mà hoạt
động định tội danh hƣớng tới. Mô hình pháp lý về tội phạm cụ thể mà chủ thể định
tội danh dựa vào đƣợc gọi là cơ sở lý luận của việc định tội danh.
Theo quy định của khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự thì: tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội
đƣợc luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội giết ngƣời luôn tồn tại và diễn ra ngoài
thế giới khách quan. Để mô tả và luật hóa hành vi này, khoa học luật hình sự sử
dụng phƣơng pháp điển hình hóa thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng. Tổng
hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng cho tội giết ngƣời đƣợc quy định trong Bộ luật
hình sự đƣợc gọi là cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời.
Cấu thành tội phạm đƣợc coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm
cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự.
Quan hệ giữa tội phạm với cấu thành tội phạm là quan hệ giữa hiện tƣợng
và khái niệm. Tội phạm là hiện tƣợng xã hội cụ thể, tồn tại khách quan còn
cấu thành tội phạm là khái niệm pháp lý của hiện tƣợng đó [68, tr. 74].
Nhƣ vậy, có thể khẳng định cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời là cơ sở lý
luận để định tội danh đối với loại tội phạm này. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm tội
giết ngƣời đƣợc ghi nhận trong cả Phần chung và Phần các tội phạm Bộ luật hình
sự. Qua nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự, có thể rút ra các dấu hiệu cấu
thành của tội giết ngƣời nhƣ sau:
* Khách thể của tội giết người
Tội giết ngƣời xâm phạm quyền đƣợc sống của con ngƣời. Do đó, quyền
đƣợc sống là khách thể trực tiếp của tội phạm này. Để gây thiệt hại cho quyền đƣợc
sống, hành vi giết ngƣời phải tác động đến những đối tƣợng nhất định. Đối tƣợng
tác động của tội giết ngƣời là thân thể con ngƣời đang sống một cách bình thƣờng.
27
* Mặt khách quan của tội giết người
Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành
động. Trƣờng hợp hành động thƣờng đƣợc biểu hiện nhƣ: đâm, chém, bắn, đấm đá,
đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v...
Trƣờng hợp không hành động ít gặp nhƣng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y
tá cố tình không cho ngƣời bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ để ngƣời bệnh
chết mặc dù ngƣời Y tá này phải có nghĩa vụ cho ngƣời bệnh uống thuốc.
Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật,
tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm. Nhƣ vậy, sẽ có trƣờng hợp
tƣớc đoạt tính mạng ngƣời khác đƣợc pháp luật cho phép nhƣ: hành vi tƣớc đoạt
tính mạng của ngƣời khác trong trƣờng hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp
thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách.
Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết ngƣời, tức là
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao
giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết
ngƣời. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải
xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên
nhân và kết quả với những đặc điểm sau:
- Hành vi là nguyên nhân gây ra chết ngƣời phải là hành vi xảy ra trƣớc hậu
quả về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải
bất cứ hành vi nào xảy ra trƣớc hậu quả chết ngƣời đều là nguyên nhân mà chỉ
những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân.
Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở
ngay trong hành vi cả ngƣời phạm tội; hành vi của ngƣời phạm tội đã mang trong
nó mầm mống sinh ra hậu quả chết ngƣời; hành vi của ngƣời phạm tội trong những
điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết ngƣời chứ không thể khác đƣợc. Ví
dụ: một ngƣời dùng súng bắn vào đầu của ngƣời khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết
cho ngƣời này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết cho
nạn nhân, nhƣng hành vi đó lại đƣợc thực hiện trong hoàn cảnh không có những
28
điều kiện cần thiết để hậu quả chết ngƣời xảy ra và thực tế hậu quả đó chƣa xảy ra,
thì ngƣời có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết ngƣời nhƣng ở
giai đoạn phạm tội chƣa đạt. Ví dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tƣớc đoạt tính
mạng của B, nhƣng đạn không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết.
- Hậu quả chết ngƣời có trƣờng hợp không phải do một nguyên nhân gây ra
mà do nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là
nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên
nhân mà nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc
trƣng tất yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ
quyết định những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác
dụng vào kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví
dụ: có nhiều ngƣời cùng đánh một ngƣời, ngƣời bị đánh chết là do đòn tập thể,
nhƣng trong đó có hành vi của một ngƣời là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết
cho nạn nhân, còn hành vi của những ngƣời khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là
chủ yếu hay thứ yếu thì tất cả những ngƣời có hành vi đều phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội giết ngƣời, nhƣng mức độ có khác nhau [32, tr. 11-12].
* Mặt chủ quan của tội giết người
Tội giết ngƣời đƣợc thực hiện do lỗi cố ý. Ngƣời phạm tội nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền đƣợc sống của
ngƣời khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Mục đích nhằm tƣớc đoạt mạng sống của
ngƣời khác.
* Chủ thể của tội giết người
Chủ thể của tội giết ngƣời là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ vào các cấu thành tội phạm nêu trên, các chủ thể định tội danh nắm
bắt đƣợc bản chất và những đặc trƣng pháp lý của tội giết ngƣời, từ đó có cơ sở về
mặt lý luận củng cố niềm tin nội tâm của mình trong quá trình định tội danh đối với
tội phạm này.
29
1.3. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI
Định tội danh là tập hợp các hoạt động tuân theo quy luật của quá trình nhận
thức thế giới khách quan mang tính logic liên quan đến việc đối chiếu, so sánh, tìm
kiếm sự phù hợp giữa những gì xảy ra ngoài thực tiễn khách quan và mô hình của
nó đƣợc phản ánh trong luật. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật của
nhận thức của con ngƣời cho rằng: để nắm đƣợc chân lý, chủ thể nhận thức phải đi
từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn.
Đây là một quá trình, trải qua nhiều giai đoạn cụ thể khác nhau.
Vận dụng lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoạt động định
tội danh đối với tội giết ngƣời, có thể thấy rằng: định tội danh đối với tội giết ngƣời
cũng là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn cụ thể. Mỗi giai đoạn là một khâu
đƣợc tiến hành theo một trình tự nhất định phù hợp với logic của hoạt động nhận
thức để đạt đến chân lý của chủ thể định tội danh. Do vậy, có thể đƣa ra định nghĩa
của khái niệm này nhƣ sau: Các giai đoạn định tội danh đối với tội giết người là
các khâu cụ thể trong quá trình định tội danh, đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ
hành vi giết người xảy ra ngoài xã hội đến các quy định của Bộ luật hình sự về tội
phạm này để đi đến kết luận về sự tồn tại của tội phạm giết người một cách có căn
cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan đến khác nhau về các giai
đoạn cụ thể trong quá trình định tội danh. Có quan điểm cho rằng định tội danh có
ba bƣớc. Quan điểm khác lại khẳng định định tội danh phải trải qua bốn giai đoạn.
Nội dung của các bƣớc hay giai đoạn định tội danh đƣợc các tác giả trình bày cũng
không giống nhau.
Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm thì:
Định tội danh với tính chất là dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng luật hình sự và luật tố tụng hình sự đƣợc tiến hành, về cơ bản theo
bốn bƣớc dƣới đây:
- Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự
phù hợp với hiện thực khách quan;
30
- Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy
phạm luật hình sự đang có hiệu lực thi hành;
- Lựa chọn đúng điều khoản tƣơng ứng trong Phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm đối với tội phạm cụ thể để so
sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với
các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đƣợc thực hiện.
- Ra văn bản áp dụng pháp luật, trong đó đƣa ra kết luận có căn cứ
và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp (tƣơng đồng) của hành vi
thực tế đã đƣợc thực hiện trong thực tế khách quan với cấu thành tội
phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong luật hình sự [8, tr. 25-26].
Trong khi đó, PGS. TS Lê Văn Đệ lại cho rằng:
Quá trình định tội danh thƣờng diễn ra ba giai đoạn có tính logic
sau đây: a) Giai đoạn thứ nhất: xác định quan hệ pháp luật...; b) Giai đoạn
thứ hai: tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự...; c) Giai đoạn thứ ba: tìm
quy phạm pháp luật hình sự cụ thể... [16, tr. 32-34].
Ngoài ra, PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên lại cho rằng định tội danh phải trải
qua ba bƣớc:
- Bƣớc 1: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và đánh giá các tình
tiết của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan.
- Bƣớc 2: Tìm ra tội danh và điều luật tƣơng ứng (phù hợp) với
hành vi đã thực hiện trên thực tế.
- Bƣớc 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một
cách có căn cứ hành vi đã thực hiện có phạm tội không, nếu phạm tội thì
theo điều luật nào của Bộ luật hình sự [30, tr. 13-15].
Kế thừa các quan điểm nêu trên, trên cơ sở kết hợp lý luận nhận thức của chủ
nghĩa Mác - Lê nin và lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật, có thể rút ra các giai
đoạn cụ thể của quá trình định tội danh nhƣ sau:
1.3.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự
thật của vụ án giết người
Trong giai đoạn này, có hai nhiệm vụ cụ thể mà chủ thể định tội danh phải làm:
31
Một là, làm rõ sự thật của vụ án thông qua các chứng cứ đã đƣợc thu thập,
củng cố và kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong thực
tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt động định tội danh chính thức với chủ thể
định tội danh là Cơ quan Điều tra, Điều tra viên trực tiếp thụ lý điều tra vụ án, Phó
Thủ trƣởng, Thủ trƣởng Cơ quan Điều tra. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng
khác, nhiệm vụ trực tiếp của họ là kiểm tra lại chứng cứ đã thu thập đƣợc để xác
định xem toàn bộ sự thật vụ án đã đƣợc làm rõ hay chƣa. Nếu là định tội danh
không chính thức đối với tội giết ngƣời, sự thật vụ án mặc nhiên đƣợc coi là đã
đƣợc làm rõ. Các tình tiết của vụ án đƣợc coi là đúng nên không đặt vấn đề phải thu
thập, củng cố, kiểm tra chứng cứ nữa.
Hai là, trên cơ sở các tình tiết vụ án đã đƣợc làm rõ, phải phân tích một cách
khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình tiết có ý nghĩa
đối với việc giải quyết vụ án cũng nhƣ đối với định tội danh.
Trong định tội danh tội giết ngƣời, cần làm rõ các nội dung cụ thể sau:
a) Quyền sống có bị xâm hại hay không.
b) Có hay không có hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời
khác. Dựa trên cơ sở, chứng cứ nào để khẳng định có hành vi tƣớc đoạt trái pháp
luật quyền sống của ngƣời khác.
c) Hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời khác đƣợc thực
hiện bằng phƣơng thức, thủ đoạn nào. Ngƣời bị tƣớc đoạt quyền sống trái pháp luật
có nhân thân ra sao, có mối quan hệ nhƣ thế nào với ngƣời phạm tội v.v…
d) Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có mục đích gì; có lỗi hay
không có lỗi; trƣờng hợp có lỗi thì có phải là lỗi cố ý hay không.
đ) Bị can, bị cáo có đúng là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
hay không. Họ có năng lực trách nhiệm hình sự hay không có năng lực trách nhiệm
hình sự. Có những biểu hiện mắc bệnh tâm thần hay là ngƣời bình thƣờng. Tuổi của
họ là bao nhiều.
e) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện trong điều kiện, hoàn cảnh nào.
f) Các tình tiết khác xuất hiện trong vụ án có ý nghĩa đối với hoạt động định
32
tội danh đối với tội giết ngƣời. Điều quan trong nhất trong giai đoạn này đối với chủ
thể định tội danh là phải nắm đƣợc bản chất của vụ án xảy ra, phải bƣớc đầu khẳng
định đƣợc khả năng có dấu hiệu của tội giết ngƣời để tiếp tục chuyển sang giai đoạn
thứ hai của quá trình định tội danh đối với tội phạm này.
1.3.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy
định của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tương đồng
Đây là giai đoạn thứ hai - giai đoạn so sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ
án đã đƣợc làm rõ với quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tƣơng
đồng; xác định sự tƣơng đồng về mặt pháp lý giữa hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật
quyền sống của ngƣời khác đƣợc thực hiện trong thực tế với cấu thành tội phạm
của tội giết ngƣời. Do đó, đây là giai đoạn trung tâm trong quá trình định tội danh
đối với tội giết ngƣời. Trong giai đoạn này, chủ thể định tội danh phải làm những
việc sau đây:
Một là, phải đối chiếu các từng tình tiết của vụ án xảy ra với các dấu hiệu
cầu thành tội phạm tƣơng ứng của tội giết ngƣời. Sau đó, phải đối chiếu, so sánh
tổng thể tất cả các tình tiết của vụ án với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm
của tội phạm nêu trên.
Hai là, phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ
án với các dấu hiệu pháp lý mà Bộ luật hình sự mô tả trong Điều 93. Trƣờng hợp có
căn cứ khẳng định không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại. Sau khi xác định
chắc nhắn không có sự đồng nhất với cấu thành tội phạm tội giết ngƣời thì có thể
chuyển sang kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự khác để kết luận có hay
không có tội phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra không thuộc trƣờng hợp tội giết
ngƣời thì cấu thành tội phạm nào khác.
Trƣờng hợp có căn cứ xác định có dấu hiệu của tội giết ngƣời thì chủ thể
định tội danh vẫn phải kiểm tra lại trƣớc khi đi đến kết luận về việc đối tƣợng vụ án
phạm tội nói trên.
Sau khi xác định đƣợc đối tƣợng vụ án là ngƣời có hành vi phạm tội giết
ngƣời thì phải xác định các khoản cụ thể của Điều 93 Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng.
33
Tiếp đó, phải xác định xem vụ án có yếu tố đồng phạm không, ai là ngƣời đồng
phạm, thực hiện tội giết ngƣời với vai trò cụ thể nào.
Tiếp đó phải xác định giai đoạn thực hiện tội phạm: tội giết ngƣời đƣợc thực
hiện ở giai đoạn hoàn thành hay chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt và kiểm tra
các vấn đề khác có liên quan, đặc biệt là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật hình sự.
Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có căn cứ để xác định đối
tƣợng vụ án đã thực hiện hành vi giết ngƣời và hành vi này đã cấu thành tội giết
ngƣời quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự, xác định đƣợc các điều luật khác trong
phần chung của Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng để giải quyết vụ án
1.3.3. Đưa ra kết luận về tội danh người đã thực hiện hành vi quy định
tại Điều 93 Bộ luật hình sự
Đây là giai đoạn đƣa ra kết luận về việc đối tƣợng vụ án đã thực hiện tội
phạm giết ngƣời. Trong trƣờng hợp định tội danh chính thức, các cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng ra các quyết định tố tụng cần thiết theo quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời
phạm tội về tội phạm nêu trên. Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng trong quá trình
định tội danh. Chủ thể định tội danh phải bằng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và
niệm nin nội tâm khẳng định một cách dứt khoát rằng đối tƣợng vụ án đã phạm tội
giết ngƣời và nêu ra các điều luật đƣợc áp dụng trong cả Bộ luật hình sự và Bộ luật
tố tụng hình sự.
Đối với định tội danh không chính thức, quá trình định tội danh có thể đƣợc
xem là đã kết thúc. Chủ thể định tội danh thể hiện quan điểm của mình trong các bài
báo, bài viết, công trình khoa học hoặc các hình thức khác theo sự lựa chọn của họ.
Đối với định tội danh chính thức, chủ thể định tội danh phải thể hiện sự đánh
giá pháp lý của mình trong các quyết định và văn bản tố tụng và tiếp tục nghĩa vụ
chứng minh về kết luận của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các giai đoạn định tội danh nêu trên
chỉ có tính chất tƣơng đối. Nhiều khi các chủ thể định tội danh có sự gộp giai đoạn
34
này vào giai đoạn khác. Cũng có trƣờng hợp việc định tội danh lại phải quay lại bắt
đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả định tội danh hoặc để định tội
danh đƣợc đúng đắn, phù hợp với chân lý khách quan và quy định của pháp luật nếu
nhƣ chủ thể định tội danh có những sai lầm nào đó trong quá trình định tội danh.
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAYLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản tại TP Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túyLuận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
Luận văn: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội về ma túy
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đLuận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
Luận văn: Phòng ngừa tội cướp giật tài sản tại quận Thủ Đức, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại Tp Hà Nội, 9đ
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng SơnLuận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Lạng Sơn
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 

Similar to Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT

Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT (20)

Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở s...
 
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
Định Tội Danh Đối Với Tội Giết Người Theo Luật Hình Sự Việt Nam (Trên Cơ Sở S...
 
Luận văn: Định tội danh các tội phạm về ma túy tại Cao Bằng, 9đ
Luận văn: Định tội danh các tội phạm về ma túy tại Cao Bằng, 9đLuận văn: Định tội danh các tội phạm về ma túy tại Cao Bằng, 9đ
Luận văn: Định tội danh các tội phạm về ma túy tại Cao Bằng, 9đ
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạmĐề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
Đề tài: Trách nhiệm hình sự đối với tội không tố giác tội phạm
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật tố tụng
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOTĐề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
Đề tài: Tổng hợp hình phạt trong các trường hợp đặc biệt, HOT
 
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niênĐối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11zedgaming208
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...PhcTrn274398
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiTruongThiDiemQuynhQP
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11cuộc cải cách của Lê Thánh Tông -  Sử 11
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông - Sử 11
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN GIÀNH ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯ...
 
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mạiNhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
Nhóm 10-Xác suất và thống kê toán-đại học thương mại
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ + CUỐI HỌC KÌ 2 NĂ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ VĂN DINH §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI GIÕT NG¦êI THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ VĂN DINH §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI GIÕT NG¦êI THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn NGÔ VĂN DINH
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng, biểu đồ MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI......................................................................................8 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI..............................................................8 1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội giết ngƣời.............................................8 1.1.2. Phân loại các trƣờng hợp định tội danh đối với tội giết ngƣời..................12 1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời.................................17 1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI.......................................................................21 1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời...............................21 1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết ngƣời ..........................26 1.3. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI......29 1.3.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án giết ngƣời .....................................................................................30 1.3.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã đƣợc làm rõ với quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tƣơng đồng..............................32 1.3.3. Đƣa ra kết luận về tội danh ngƣời đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự...............................................................................33 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................35 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI.............35 2.1.1. Khái quát tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, dân cƣ thành phố Đà Nẵng........35
  • 5. 2.1.2. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự về tội giết ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng ......................................................................41 2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.........................................................44 2.2.1. Định tội danh đối với tội giết ngƣời trong trƣờng hợp tội phạm hoàn thành ....44 2.2.2. Định tội danh đối với tội giết ngƣời trong các trƣờng hợp đặc biệt............59 2.2.3. Một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản....................................68 Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.......................................................80 3.1. CÁC YÊU CẦU BẢO ĐẢM CHẤT LƢỢNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ........80 3.1.1. Yêu cầu về chính trị, xã hội.........................................................................80 3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn...................................................................81 3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự .......................................................................82 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI ......................................................................83 3.2.1. Hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam.........................................................83 3.2.2. Giải pháp hƣớng dẫn thi hành pháp luật, tổng kết xét xử ..........................88 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI...............................................................................................91 3.3.1. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và làm tốt công tác tổ chức, cán bộ tƣ pháp, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán...........................................91 3.3.2. Giải pháp giám đốc xét xử, xây dựng án lệ ................................................94 3.3.3. Giải pháp nâng cao năng lực ngƣời tiến hành tố tụng và luật sƣ tại phiên tòa......................................................................................................97 3.3.4. Tăng cƣờng công tác phối hợp, xử lý nghiêm minh khi xét xử và trong việc áp dụng đúng các tình tiết liên quan đến việc định tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự...........................98 KẾT LUẬN............................................................................................................101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................104
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ Số hiệu, bảng, biểu đồ Tên bảng, biểu đồ Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2011 – 2015) 42 Bảng 2.2: Tỷ lệ tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2011 - 2015) 43 Biểu đồ 2.1: Tình hình xét xử chung và tình hình xét xử tội giết ngƣời của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2011 – 2015) 42
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tính mạng con ngƣời là giá trị cao nhất của con ngƣời. Quyền đƣợc sống, đƣợc tôn trọng và bảo vệ là quyền cơ bản hàng đầu của con ngƣời, của công dân. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã thể hiện tinh thần bảo vệ các quyền con ngƣời thông qua nhiều quy định mà trƣớc tiên phải nhắc đến đó là Điều 19 khẳng định quyền sống của mọi ngƣời, về sự bảo hộ của pháp luật đối với tính mạng của con ngƣời và không ai bị tƣớc đoạt tính mạng trái pháp luật. Thêm vào đó Hiến pháp khẳng định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [38, Điều 31]. Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định: "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Điều đó có nghĩa chừng nào chƣa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì ngƣời bị buộc tội vẫn đƣợc coi là ngƣời chƣa có tội. Nhƣ vậy, hoạt động xét xử của Tòa án (định tội danh) là hoạt động mang tính chất quyết định, xác định một ngƣời có tội hay không có tội. Đây là nội dung cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử và là một trong những biện pháp đƣa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Trên cơ sở xác định ngƣời phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội gì, quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ quyết định một hình phạt phù hợp đối với hành vi phạm tội đó. Vì thế, định tội đƣợc xem là tiền đề, điều kiện cho việc quyết định hình phạt đúng đắn, góp phần mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong trƣờng hợp định tội không chính xác, mặc dù mức hình phạt có thể đã tƣơng xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện nhƣng việc kết án sai tội danh sẽ liên quan đến nhiều hậu quả pháp lý khác mà bị cáo phải gánh chịu nhƣ: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm, tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hạn xác định án tích… Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng
  • 8. 2 còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc định tội danh, trong đó có cả tội giết ngƣời. Thời gian gần đây tội giết ngƣời có xu hƣớng gia tăng, diễn biến phức tạp ở nhiều địa bàn, bao gồm cả thành phố Đà Nẵng, gây thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của con ngƣời, ảnh hƣởng đến an ninh và trật tự chung của xã hội với nhiều thủ đoạn tinh vi từ chủ thể thực hiện tội phạm. Bộ luật hình sự do Nhà nƣớc ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, tuy vậy những quy định này chỉ nêu lên các dấu hiệu đặc trƣng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong khi trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng phức tạp và đa dạng. Có khá nhiều trƣờng hợp khi tập hợp các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm có những dấu hiệu giống nhau nên thƣờng dễ bị lúng túng gây nhiều tranh cãi và dẫn đến định tội danh thiếu chính xác, chẳng hạn việc xác định lỗi cũng nhƣ một số tình tiết định tội của các hành vi xâm phạm tính mạng con ngƣời nhƣ tội giết ngƣời và giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ chính đáng... Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ một cách vững chắc các quyền và tự do của công dân bằng pháp luật hình sự là một trong những nguyên tắc trong giai đoạn xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam hiện nay. Ý thức đƣợc tầm quan trọng đó, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lƣợng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan ngƣời không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao và có tính khả thi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít trƣờng hợp áp dụng không đúng, chƣa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội giết ngƣời. Với lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)".
  • 9. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị- xã hội, đạo đức và pháp luật. Vì vậy mà hoạt động định tội đã đƣợc đề cập trong rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các chuyên gia luật hình sự của nƣớc ta, trong đó phải kể đến một số công trình nghiên cứu của PGS.TSKH. Lê Cảm, "Một số vấn đề lý luận chung về định tội danh", chƣơng I, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Tập thể tác giả do PGS.TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; "Định tội danh- lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành", Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Trịnh Quốc Toản: "Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương pháp định tội danh", Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Định tội danh- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của PGS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân các số 3, 4, 5, 8, 11 năm 1999; Đỗ Đức Hồng Hà, Mặt khách quan của Tội giết người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 06/2004; Đỗ Đức Hồng Hà, Một số quan điểm khác nhau về định nghĩa về đối tượng tác động của tội giết người, Tạp chí Tòa án, số 13/2004; Đỗ Đức Hồng Hà, Chủ thể của Tội giết người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tòa án, số 23/2004; Đỗ Đức Hồng Hà, Lịch sử phân hóa trách nhiệm hình sự về Tội giết người từ năm 1945 đến nay, Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 03/2006; Trần Văn Luyện (2001), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Phùng Thế Vắc - Trần Văn Luyện, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Trần Văn Luyện (2000), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Những bài nghiên cứu trên đã khái quát đƣợc một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội; phân tích, đánh giá, nhận định một số nhận định liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999… Tuy vậy, hiện nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
  • 10. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời nói riêng, cũng nhƣ đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó đƣa ra đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể nhƣ sau: 1) Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội giết ngƣời; 2) Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời; 3) Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời; cũng nhƣ các giai đoạn định tội danh đối với tội giết ngƣời; 4) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản; 5) Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Về đối tƣợng nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên cứu về thực tiễn định tội danh đối với tội giết ngƣời tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng trên cơ sở Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009 và những văn bản pháp luật có liên quan. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội giết ngƣời theo luâ ̣t hình sƣ̣Viê ̣t Nam (nhƣ: khái niệm, phân loại, cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học, các giai đoạn của việc định tội danh đối
  • 11. 5 với tội phạm này), đánh giá thực tiễn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 05 năm (2011 - 2015), trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản, từ đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn Đà Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hƣớng của Đảng về chính sách hình sự; quan điểm, đƣờng lối xử lý các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nói chung và tội giết ngƣời nói riêng. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một số phƣơng pháp cụ thể nhƣ: phƣơng pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của các cấp Tòa án. Phƣơng pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn Trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời nói riêng luôn là một trong những hƣớng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, đƣợc thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dƣới đây: Về mặt lập pháp, việc hoàn thiện các quy định hiện hành nhƣ Bộ luật hình sự năm 1999, đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chống và phòng ngừa tội giết ngƣời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cũng phải thực sự chú trọng để làm cơ sở định tội danh, đủ sức răn đe đẩy lùi loại tội phạm nguy hiểm này. Giải quyết những vƣớng mắc trong áp dụng quy định của pháp luật hình sự vào việc định tội danh là một trong những nhiệm vụ quan trọng của việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật.… dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ trong áp dụng và giải thích pháp luật.
  • 12. 6 Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn cả nƣớc nói chung và ở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng nói riêng đã cho thấy sự yếu kém của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc nhận thức cũng nhƣ áp dụng đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự, dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm chƣa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm, gây thiệt hại cho các quyền của con ngƣời và của công dân, làm giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh chống tội phạm. Về mặt lý luận, vấn đề định tội danh đối với tội giết ngƣời tuy đã đƣợc đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau nhƣng hiện chƣa có một nghiên cứu nào đề cập đến việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Áp dụng vào thực tiễn, đề tài có thể đáp ứng một phần vào công tác cải cách tƣ pháp, nâng cao chất lƣợng xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cụ thể là: Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh pháp lý về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời tại thành phố Đà Nẵng nói riêng góp phần xây dựng, hoàn thiện lý thuyết định tội danh trong khoa học pháp lý hình sự. Thứ hai, Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết các vụ án giết ngƣời đƣợc đúng đắn. Thứ ba, Luận văn là cơ sở để đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội giết ngƣời nói riêng tại Tòa án thành phố Đà Nẵng. 7. Những điểm mới của luận văn Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác ngành Tòa án tại thành phố Đà Nẵng - đó là những số liệu thực tế góp phần làm rõ hơn về thực trạng về định tội danh trên địa bàn này. Do đó, những điểm mới cơ bản của luận văn nhƣ sau: 1) Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội giết ngƣời; 2) Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời;
  • 13. 7 3) Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời; cũng nhƣ các giai đoạn định tội danh đối với tội giết ngƣời; 4) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản; 5) Luận chứng và đề xuất yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, cả nƣớc nói chung. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề chung về định tội danh đối với tội giết ngƣời. Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội giết ngƣời trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lƣợng định tội danh đối với tội giết ngƣời.
  • 14. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƯỜI 1.1. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI 1.1.1. Khái niệm định tội danh đối với tội giết người Quyền sống đã đƣợc khẳng định về mặt chính trị - pháp lý là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm và là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời. Quyền sống đƣợc ghi nhận và bảo vệ, bảo đảm trong Điều 19 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam. Ngoài ra, để bảo vệ quyền quan trọng này, pháp luật hình sự của hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam đều quy định nhóm các tội xâm phạm tính mạng. Cho nên, định tội danh tối với các tội xâm phạm tính mạng nói chung, đối với tội giết ngƣời nói riêng là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, làm tiền đề cho việc giải quyết các nhiệm vụ khác của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. Nghiên cứu về định tội danh đối với tội giết ngƣời, trƣớc hết cần làm rõ một số nội dung về mặt lý luận mà trƣớc hết là khái niệm định tội danh. Có nhiều quan điểm khoa học nghiên cứu về vấn đề này mà điển hình là các quan điểm sẽ đƣợc nêu dƣới đây. GS. TSKH. Lê Văn Cảm quan niệm định tội danh là quá trình áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự: Dƣới góc độ khoa học, định tội danh có thể đƣợc hiểu là quá trình nhận thức lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và đƣợc tiến hành trên cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập đƣợc tiến hành trên cơ sở các chứng cứ các tài liệu thu thập đƣợc và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tƣơng ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt đƣợc sự thật khách quan, tức là
  • 15. 9 đƣa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [7, tr. 496]; [8, tr. 21]. Còn GS. TS. Võ Khánh Vinh thì định tội danh chỉ là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự: Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội đƣợc thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tƣơng ứng và mối liên hệ tƣơng đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phƣơng pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [72, tr. 27]. PGS.TS. Lê Văn Đệ quan niệm tƣơng tự: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đƣợc pháp luật hình sự quy định [16, tr. 24]. Trong khi đó, PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên định nghĩa bao gồm cả các chủ thể định tội danh và nêu: Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một ngƣời có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [31, tr. 9]; v.v... Nhƣ vậy, mặc dù đƣợc diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhƣng về cơ bản các nhà khoa học đều thống nhất ở một số khía cạnh dƣới đây: Một là, định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic của con ngƣời về việc có sự phù hợp hay không phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi
  • 16. 10 xảy ra ngoài thực tiễn khách quan với quy định của pháp luật hình sự về một tội phạm cụ thể; Hai là, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, nếu đƣợc thực hiện bởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và ngƣời có thẩm quyền trong các cơ quan đó trên cơ sở quy định của pháp luật. Cũng có tác giả cho rằng bao gồm cả hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nếu hiểu định tội danh theo nghĩa rộng; Ba là, định tội danh là cơ sở cho việc quyết định hình phạt và giải quyết các vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội (trong trƣờng hợp định tội danh chính thức). Do đó, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, theo ngƣời viết khái niệm đang nghiên cứu đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Định tội danh là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền để xác định, so sánh và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể trong thực tế đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của điều luật tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định, qua đó làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề trách nhiệm hình sự và hình phạt của người phạm tội. Ngoài ra, tội giết ngƣời là một loại tội phạm cụ thể đƣợc quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự Việt Nam. Một ngƣời đƣợc coi là chủ thể của tội phạm này khi đáp ứng các điều kiện là ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời là ngƣời đã thực hiện hành vi mà Điều 93 Bộ luật này quy định với lỗi cố ý, xâm phạm bất hợp pháp đến đến quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng. Do đó, từ cơ sở lý luận về định tội danh nêu trên, kết hợp với quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội giết ngƣời, có thể đƣa ra khái niệm đang nghiên cứu nhƣ sau: Định tội danh đối với tội giết người là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền, được tiến hành trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập
  • 17. 11 được để xác định có hay không có sự phù hợp giữa hành vi xâm phạm tính mạng đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội giết người quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự, làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác. Từ khái niệm định tội danh đối với tội giết ngƣời phản ánh các đặc điểm cơ bản sau đây: * Định tội danh đối với tội giết người là định tội danh đối với một loại tội phạm cụ thể - tội giết người Nhƣ vậy, ngoài đặc điểm chung của định tội danh với tƣ cách là hoạt động nhận thức có tính logic của con ngƣời, thì định tội danh đối với tội giết ngƣời có đặc điểm riêng liên quan đến đặc điểm của hành vi giết ngƣời xảy ra trong thực tế khách quan và quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này. Chủ thể định tội danh phải đối chiếu, so sánh và đƣa ra kết luận về việc có hay không có sự phù hợp giữa hành vi xâm phạm tính mạng xảy ra trong thực tế với quy phạm pháp luật quy định tội giết ngƣời trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. * Định tội danh đối với tội giết người là hoạt động áp dụng pháp luật, nếu chủ thể định tội danh là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người có thẩm quyền Do đó, quá trình định tội danh phải tuân theo những thủ tục chặt chẽ về mặt tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành. Mọi sự vi phạm pháp luật tố tụng đều có nguy cơ dẫn đến oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt ngƣời phạm tội, hạn chế hiệu quả của cuộc đấu tranh. Còn để ra tội danh chính xác và phù hợp với các tình tiết thực tế khách quan của vụ án, phải căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự. * Định tội danh đối với tội giết người liên quan đến vấn đề chứng cứ đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá Đối với hình thức định tội danh không chính thức, các tình tiết của vụ án đã đƣợc mặc nhiệm coi là đúng và đã đƣợc chứng minh bằng các chứng cứ mà các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập đƣợc. Tuy nhiên, đối với hình thức định tội danh chính thức, xuất phát từ nguyên tắc trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng nên chƣa thể khẳng định ngay từ đầu bị can có phải là
  • 18. 12 ngƣời phạm tội hay không. Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động đƣợc tiến hành song song và tiếp liền với hoạt động thu thập, củng cố, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, định tội danh đối với tội giết ngƣời gắn liền với hoạt động chứng minh tội phạm và ngƣời phạm tội của các cơ quan nói trên. 1.1.2. Phân loại các trường hợp định tội danh đối với tội giết người “Căn cứ vào các chủ thể tương ứng thực hiện việc định tội danh, khoa học luật hình sự phân chia định tội danh làm hai dạng: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức” [8, tr. 23]. Nhƣ vậy, theo cách tiếp cận này, có thể phân chia định tội danh đối với tội giết ngƣời làm hai dạng (hay hai trƣờng hợp) tƣơng ứng - định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời. * Hình thức định tội danh chính thức đối với tội giết người Hiện nay, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, “định tội danh chính thức là sự đánh giá về mặt nhà nước, tính chất pháp lý hình sự về một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện” [8, tr. 23]. Do đó, định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong hoạt động đấu tranh với tôi phạm giết ngƣời. Vì vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức định tội danh này có thể đƣợc xác định nhƣ nhƣ sau: Thứ nhất, định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời là hoạt động mang tính tổ chức - quyền lực Nhà nƣớc. Chủ thể tiến hành hình thức định tội danh này đƣợc Nhà nƣớc quy định rõ trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án. Ngƣời tiến hành tố tụng gồm có: Điều tra viên, Phó Thủ trƣởng, Thủ trƣởng Cơ quan Điều tra; Kiểm sát viên, Phó Viện trƣởng, Viện trƣởng Viện Kiểm sát nhân dân và Viện Kiểm sát Quân sự các cấp; Thẩm phán, Hội thẩm (bao gồm Hội thẩm nhân dân và Hội thẩm quân nhân) và Thƣ ký Tòa án. Những chủ thể nói trên tiến hành định tội danh đối với tội giết ngƣời khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ.
  • 19. 13 Thứ hai, định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời đƣợc tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử (gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm). Ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án, Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự quy định: 1. Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nƣớc chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền. 2. Trong thời hạn hai mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan Điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong trƣờng hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhƣng không quá hai tháng. Từ kết quả xác minh nguồn tin, khi xác định có dấu hiệu của tội phạm, Cơ quan Điều tra phải sơ bộ định tội danh đối với tội phạm đó. Trƣờng hợp xác định có dấu hiệu của tội giết ngƣời thì phải ra quyết định khởi tố vụ án giết ngƣời. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng (khoản 1, 2, 3 hay 4 Điều 140 Bộ luật hình sự) và họ tên, chức vụ ngƣời ra quyết định. Các quyết định hoặc văn bản tố tụng trong các giai đoạn sau nhƣ quyết định khởi tố bị can, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng và bản án đều phải thể hiện chính thức quan điểm chính thức của ngƣời tiến hành tố tụng về tội giết ngƣời trong đó. Trƣờng hợp đã khởi tố, điều tra, truy tố xét xử về tội phạm khác, song trong quá trình tố tụng mà phát hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội giết ngƣời thì phải định tội danh lại, nghĩa là phải thay đổi tội danh trong các văn bản tố tụng nói trên theo các trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
  • 20. 14 Thứ ba, hậu quả của hình thức định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời là việc xác định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội này. Định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời là sự đánh giá về mặt pháp lý chính thức của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng nói trên đối với hành vi giết ngƣời xảy ra trong thực tế thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam và luật hình sự các nƣớc trên thể giới đều đƣa ra nguyên tắc: một ngƣời chỉ phải chị trách nhiệm hình sự khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ đã thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm của một tội đƣợc quy định trong luật hình sự và ngƣợc lại khi hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì ngƣời thực hiện hành vi đó không tránh khỏi việc phải gánh chịu trách nhiệm hình sự. Xuất phát từ nguyên tắc nói trên, khi cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiền hành tố tụng đã có đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm giết ngƣời thì ngƣời thực hiện hành vi đó tất yếu phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hình sự nhƣ hình phạt, các biện pháp tƣ pháp... Việc ngƣời phạm tội phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hình sự (và kể cả các biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc khác nhƣ bị bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cƣ trú, bị kê biên tài sản...) đều có liên quan đến hoạt động định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời đã nêu trên. Cũng cần lƣu ý rằng: định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời không đồng nghĩa với việc khẳng định đối tƣợng phải gánh chịu kết quả của hoạt động định tội danh đó là ngƣời phạm tội giết ngƣời. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rõ: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [35, Điều 9]. Định tội danh chính thức đối với tội giết ngƣời do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành song chỉ duy nhất một chủ thể là Tòa án, bằng phiên tòa xét xử công khai, với đầy đủ chứng cứ thu thập đƣợc mới có thẩm quyền đƣa ra kết luận cuối cùng về việc bị cáo là ngƣời phạm tội giết ngƣời trong bản án có hiệu lực pháp luật. Nói một cách khác, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án (thực chất phải là bản án phúc thẩm của Tòa án) là văn bản định tội danh cuối cùng, chính thức khẳng định về tội danh giết ngƣời đối với hành vi giết ngƣời đã xảy ra.
  • 21. 15 * Hình thức định tội danh không chính thức đối với tội giết người Theo quan điểm của GS. TS. Võ Khánh Vinh thì: “Định tội danh không chính thức là sự đánh giá pháp lý về hành vi phạm tội do các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý, tác giả bài báo, tạp chí, công trình khoa học, sinh viên, học viên hoặc bất kỳ một người nào đó quan tâm nghiên cứu cụ thể vụ án này hay vụ án khác đưa ra” [72, tr. 28]. Nhƣ vậy, khác với định tội danh chính thức, định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời không phải do những chủ thể có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Khái niệm “chính thức” ở đây phải đƣợc hiểu là chính thức về mặt Nhà nƣớc. Định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời không phải là sự đánh giá chính thức về mặt nhà nƣớc, không đƣợc thể hiện trong các văn bản tố tụng và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tƣợng bị định tội danh. Nhƣ vậy, có thể tóm tắt sự khác biệt cơ bản giữa định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời qua một số điểm sau đây: Một là, khác nhau về chủ thể tiến hành. Chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời có thể là bất kỳ ai quan tâm đến vụ án hình sự và nắm đƣợc các tình tiết của vụ án đó. Ngƣời định tội danh không chính thức có thể liên quan đến hoạt động tố tụng hoặc không liên quan đến hoạt động tố tụng. Cần thấy rằng ngay bản thân những ngƣời tiến hành tố tụng cũng có hoạt động tƣ duy theo hƣớng định tội danh cho hành vi chiếm đoạt tài sản của bị can, bị cáo. Trong thực thế, bị can, bị cáo cũng có thể định tội danh cho chính bản thân mình. Đƣơng nhiên, họ có thể không thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện. Trong trƣờng hợp này, họ định tội danh theo hƣớng phủ định. Trƣờng hợp khác, bị can, bị cáo thừa nhận đã phạm tội giết ngƣời nhƣng xin đƣợc hƣởng lƣợng khoan hồng,giảm nhẹ hình phạt. Trƣờng hợp này, việc tự định tội danh của bị can, bị cáo theo hƣớng khẳng định. Cũng có thể bị can, bị cáo tiếp nhận kết quả định tội danh của các chủ thể khác, nhất là của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng áp dụng cho họ. Ngƣời bị hại, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự cũng có thể có hoạt động định tội danh không chính thức theo các hƣớng nêu trên.
  • 22. 16 Tuy nhiên, phải thấy rằng: chủ thể phổ biến của hoạt động định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời là các nhà khoa học hoặc những ngƣời đang nghiên cứu, tìm hiểu, học tập luật hình sự. Các chủ thể nói trên quan tâm đến việc định tội danh vì việc đó là thuộc nội dung chuyên môn mà họ theo đuổi. Chính vì vậy, định tội danh không chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc phát triển ngành khoa học pháp lý hình sự và là một trong những kênh để đƣa lý luận khoa học tiếp cận với thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cũng nhƣ thực tiễn cuộc sống. Hai là, khác nhau về hình thức thể hiện. Nhƣ đã trình bày ở trên, hình thức thể hiện của định tội danh chính thức là các quyết định hoặc văn bản tố tụng đƣợc ban hành bởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Trong khi đó, hình thức của định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời lại chủ yếu là các công trình khoa học, các bài viết, bài báo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật. Ngoài ra, định tội danh không chính thức có thể đƣợc thể hiện trong một số văn bản khác nhƣ đơn kháng án của bị cáo, ngƣời bị hại, bản luận cứ bào chữa của luật sƣ... Do là không chính thức nên nói chung hình thức thể hiện của định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời không đƣợc pháp luật điều chỉnh mà đƣợc viết theo ý chủ quan của chủ thể định tội danh không chính thức. Ba là, khác nhau về hậu quả pháp lý. Kết quả của định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tƣợng của hoạt động định tội danh. Do không xuất phát từ quyền lực nhà nƣớc và không đại diện cho quyền lực nhà nƣớc nên chủ thể của hoạt động định tội danh không chính thức không có quyền áp đặt các biện pháp cƣỡng chế bảo đảm cho kết quả định tội danh của mình. Tuy nhiên, nếu hoạt động định tội danh không chính thức đƣợc dƣ luận xã hội, báo chí quan tâm, nhất là trong trƣờng hợp nó đối lập với kết quả hoạt động định tội danh chính thức và phản ánh đúng yêu cầu của pháp luật hình sự thì có thể xuất hiện khả năng có sự chuyển hóa từ định tội danh không chính thức thành định tội danh chính thức. Nhƣ vậy, thực tế là không phải lúc nào việc định tội danh của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng cũng luôn đúng. Các vụ án oan, sai tuy
  • 23. 17 không nhiều nhƣng cũng đã xảy ra và đƣợc dƣ luận chú ý. Trong trƣờng hợp này, có thể sẽ xuất hiện hiện tƣợng song hành định tội danh: định tội danh không chính thức ở bên ngoài xã hội và định tội danh lại từ trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng có thể tham khảo kết quả định tội danh không chính thức của giới khoa học pháp lý. Sự chuyển hóa các hình thức định tội danh nói ở trên có thể xảy ra đối với trƣờng hợp cụ thể này. Ngoài ra, định tội danh chính thức và không chính thức đối với tội giết ngƣời có ý nghĩa quan trọng nhƣ nhau và có vị trí, vai trò riêng trong việc bảo đảm tính hiện thực hóa của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, trong đó có tội giết ngƣời quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. 1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội giết người Định tội danh đối với tội giết ngƣời có ý nghĩa rất quan trọng và trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Trong các công trình khoa học đã công bố hiện nay, có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Có tác giả tập trung phân tích ý nghĩa của định tội danh về mặt pháp lý. Tác giả khác chỉ ra ý nghĩa của định tội danh về mặt xã hội và pháp luật [72, tr. 28]. Do đó, kế thừa các quan điểm nêu trên, có thể khẳng định định tội danh đối với tội giết ngƣời phản ánh những ý nghĩa cụ thể dƣới đây. * Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội Định tội danh đối với tội giết ngƣời, nếu đƣợc tiến hành bởi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và ngƣời có thẩm quyền trong các cơ quan đó là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nƣớc. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nƣớc là tổ chức chính trị đặc biệt, là công cụ của giai cấp thống trị có chức năng duy trì trật tự, ổn định xã hội và quyền lợi của giai cấp thống trị. Do đó, có thể xem định tội danh đối với tội giết ngƣời là một hoạt động mang tính chính trị sâu sắc. Tính chính trị của hoạt động này thể hiện ở chỗ: - Định tội danh đối với tội giết ngƣời có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế (quyền sở hữu tài sản) cho giai cấp thống trị xã hội. Trong xã hội xã hội chủ
  • 24. 18 nghĩa, hoạt động này bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp tài sản cho các chủ thể trong xã hội, mà chủ yếu là tài sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chống lại mọi hành vi xâm hại của đối tƣợng phạm tội. - Định tội danh đối với tội giết ngƣời góp phần đƣa các quy định của pháp luật, nhất là quy định của Bộ luật hình sự vào thực tiễn cuộc sống. Điều này đúng nhƣ GS. TS Võ Khánh Vinh đã viết: Đạo luật hình sự thể hiện ý chí về mặt Nhà nƣớc của nhân dân ta đối với vấn đề đấu tranh với tình hình tội phạm... Việc tuân thủ nghiêm chỉnh đạo luật hình sự trong khi định tội danh là điều kiện cần thiết và quan trọng của việc thực hiện chính sách của Nhà nƣớc nhằm khắc phục tình trạng tội phạm ở nƣớc ta. Và theo Lê-nin: Một đạo luật là một biện pháp chính trị, là chính trị”. Do vậy, định tội danh đúng là một biểu hiện của việc thực hiện đúng biện pháp chính trị, thực thi đúng chính trị, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã đƣợc thể hiện trong luật, bảo vệ có hiệu quả các lợi ích của xã hội, của Nhà nƣớc và của con ngƣời, của công dân [72, tr. 29]. - Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động của các cơ quan Nhà nƣớc có tính áp đặt một chiều đối với đối tƣợng bị áp dụng. Nói một cách khác, đó là hoạt động thể hiện quyền lực chính trị trong thực tiễn đời sống xã hội. Không chỉ có tính chất chính trị, định tội danh đối với tội giết ngƣời còn là hoạt động mang ý nghĩa chính trị - xã hội sâu sắc. Ý nghĩa chính trị - xã hội của hoạt động này thể hiện qua một số khía cạnh cụ thể sau đây: - Thông qua định tội danh đối với tội giết ngƣời, Nhà nƣớc ta thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con ngƣời. Nhƣ đã khẳng định ở trên, quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời mà pháp luật quốc gia và quốc tế đều quan tâm bảo vệ. “Mọi người đều có quyền sống, tự do và an toàn cá nhân” (Điều 3 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948) [28, tr. 51]. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam cũng quy định: “Mọi người đều có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” (Điều 19). Do quyền đƣợc bảo hộ
  • 25. 19 về tính mạng nói trên bị hành vi giết ngƣời xâm phạm nên định tội danh có chức năng góp phần xác định trách nhiệm hình sự, đấu tranh phòng chống lại hành vi phạm tội này. - Thông qua định tội danh, các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện việc bảo vệ sinh mạng chính trị cho ngƣời dân. Phải nhận thức rằng: định tội danh đối với tội giết ngƣời là một hoạt động và kết quả của hoạt động đó có thể phát triển theo hai hƣớng: khẳng định là có tội và hai là khẳng định không có tội. Do đó, định tội danh đối với tội giết ngƣời đúng, chính xác góp phần quan trọng trong phòng chống oan sai, phòng, chống việc lạm dụng quyền lực của một số ngƣời có chức, có quyền tha hóa biến chất xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời dân. - Định tội danh đúng đối với tội giết ngƣời còn góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế của nhà nƣớc Việt Nam, nhất là các cam kết liên quan đến quyền con ngƣời nêu trên. - Ngoài ra, định tội danh đúng còn góp phần củng cố lòng tin của ngƣời dân vào công lý và sự chí công, vô tƣ của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của pháp luật Việt Nam. * Ý nghĩa về phương diện pháp lý Về mặt pháp lý, có thể khẳng định rằng định tội danh đúng là tiền đề và cơ sở để áp dụng một loạt các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Trƣớc hết, định tội danh đúng là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng. Định tội danh đối với tội giết ngƣời là cơ sở để áp dụng các chế tài hình sự đƣợc quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, đây cũng là tiền đề để áp dụng các quy định khác nhƣ quy định về nguyên tắc xử lý, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo, miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; v.v... Đối với pháp luật hình sự, định tội danh đúng là cơ sở để ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan, bắt sai ngƣời vô tội, không bỏ lọt tội phạm và ngƣời phạm tội. Định tội danh đúng còn là cơ sở để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố,
  • 26. 20 xét xử đúng, xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử cũng nhƣ thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đối với ngƣời phạm tội nói chung, ngƣời phạm tội giết ngƣời nói riêng. Đối lập với định tội danh đúng là trƣờng hợp có sự sai lầm trong định tội danh đối với tội giết ngƣời. Định tội danh sai không chỉ làm việc quyết định hình phạt không đúng, không công bằng mà còn áp dụng không có căn cứ, không công bằng hoặc không áp dụng một loạt các biện pháp pháp lý khác (quyết định hình phạt bổ sung…), áp dụng hoặc không áp dụng đại xá, miễn trách nhiệm hình sự, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tính toán không đúng thời hiệu, án tích… Cũng không kém phần có hại và bất công những trƣờng hợp ngƣợc lại, khi hành vi của ngƣời có lỗi cấu thành tội phạm nghiêm trọng hơn nhƣng lại đƣợc định tội danh theo tội nhẹ hơn. Trong trƣờng hợp đó, ngƣời có lỗi chịu hình phạt ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đáng lẽ ngƣời đó phải chịu theo pháp luật, còn tội phạm lại đƣợc giảm nhẹ về đạo đức, chính trị và pháp lý một cách thiếu cơ sở. Điều đó làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với tình hình tội phạm mà cùng lúc gây sự công phẫn hợp pháp, công bằng của nhân dân, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tƣ pháp. Rõ ràng đó là những vi phạm nghiêm trọng các đòi hỏi của nguyên tắc công bằng, pháp chế [72, tr. 29]. Tóm lại, định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động nhận thức mang tính logic, thể hiện sự đánh giá của chủ thể định tội danh về sự phù hợp hay không phù hợp giữa hành vi tƣớc đoạt tính mạng của ngƣời khác một cách trái pháp luật trong thực tế với cấu thành tội phạm tội giết ngƣời. Có thể có nhiều loại chủ thể khác nhau tham gia vào hoạt động định tội danh, trong đó có các chủ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật hiện hành. Định tội danh đối với tội giết ngƣời có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị - xã hội
  • 27. 21 và về mặt pháp lý, là một trong những phƣơng thực để bảo vệ quyền đƣợc bảo hộ về tính mạng – một trong những quyền cơ bản của con ngƣời đƣợc pháp luật quốc gia Việt Nam và pháp luật quốc tế bảo vệ. 1.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI Định tội danh đối với tội giết ngƣời, dù là chính thức hay không chính thức cũng đều phải dựa trên những cơ sở nhất định. Do định tội danh là sự đánh giá về mặt pháp lý nên nó có cơ sở pháp lý. Mặt khác, định tội danh lại là hoạt động nhận thức mang tính logic nên nó đồng thời cũng có cơ sở khoa học. Nhƣ vậy, có hai cơ sở - cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết ngƣời. 1.2.1. Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết người Cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời là toàn bộ các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề định tội danh đối với tội phạm này. Theo quan điểm của các nhà khoa học pháp lý hình sự Việt Nam hiện nay, có thể có hai cách tiếp cận đối với vấn đề cơ sở pháp lý của định tội danh: một cách tiếp cận theo nghĩa hẹp và cách tiếp cận kia theo nghĩa rộng. Trƣớc hết, GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng: Về cơ bản, những căn cứ pháp lý của việc định tội danh có thể đƣợc hiểu trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp dƣới đây: - Trên bình diện rộng (hay hiểu theo nghĩa cả về nội dung và hình thức) thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cũng nhƣ hệ thống các quy phạm luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện là tội phạm. - Trên bình diện hẹp (chỉ hiểu theo nghĩa về nội dung) thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ thống các quy phạm luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện là tội phạm [8, tr. 26-27].
  • 28. 22 Trong hai cách tiếp cận nêu trên, cách tiếp cận theo nghĩa rộng thƣờng đƣợc xem là hợp lý hơn vì nó cho phép đánh gia một cách toàn diện các quy định pháp luật làm nền tảng cho việc định tội danh đối với tội giết ngƣời trên cả hai phƣơng diện nội dung và hình thức. Mặt khác, cũng cần thấy rằng: các quy định của pháp luật hình sự không thể áp dụng đƣợc nếu thiếu quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Thực tiễn đã chứng minh: các quan hệ pháp luật hình sự luôn phải đƣợc tồn tại trong những hình thức tố tụng nhất định. Do đó, định tội danh, với nghĩa là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội, phải đƣợc đánh trên cả hai phƣơng diện: pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự hiện hành. Về phƣơng diện pháp luật hình sự, chủ thể định tội danh phải đƣa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội có thỏa mãn quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự hay không. Về phƣơng diện pháp luật tố tụng hình sự, cần chỉ rõ việc xác định tội danh giết ngƣời đƣợc phản ánh trong quyết định hay văn bản pháp luật tố tụng hình sự nào. Về vấn đề này, lý luận pháp luật xã hội chủ nghĩa khẳng định: luật hình sự là luật nội dung còn luật tố tụng hình sự là luật về hình thức, là cơ sở pháp lý trên phƣơng diện hình thức trong công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. * Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội giết người Cơ sở pháp lý về nội dung của định tội danh đối với tội giết ngƣời là các văn bản pháp luật trong lĩnh vực luật hình sự, mà trƣớc hết và chủ yếu là Bộ luật hình sự. Theo quy định của Điều 2 và Điều 8 Bộ luật hình sự, mọi hành vi phạm tội phải đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Do đó, có quan điểm cho rằng Bộ luật hình sự là nguồn duy nhất của luật hình sự Việt Nam [68, tr.32]. Trong thực tiễn định tội danh, các điều luật của Bộ luật hình sự là căn cứ pháp lý duy nhất các cơ quan tiến hành tố tụng viện dẫn trong các quyết định và văn bản tố tụng khác khi quy kết trách nhiệm hình sự cho ngƣời phạm tội. Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành đƣợc cấu trúc thành hai phần là Phần chung và Phần các tội phạm. Có thể thấy cả Phần chung và Phần các tội phạm đều là căn cứ (cơ sở) pháp lý của định tội danh đối với tội giết ngƣời. Khi định tội danh đối với tội giết ngƣời, chủ thể định tội danh phải căn cứ
  • 29. 23 vào quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự. Điều luật này đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự nhƣ sau: Điều 93. Tội giết ngƣời 1. Ngƣời nào giết ngƣời thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mƣời hai năm đến hai mƣơi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết nhiều ngƣời; b) Giết phụ nữ mà biết là có thai; c) Giết trẻ em; d) Giết ngƣời đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, ngƣời nuôi dƣỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết ngƣời mà liền trƣớc đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phƣơng pháp có khả năng làm chết nhiều ngƣời; m) Thuê giết ngƣời hoặc giết ngƣời thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. 3. Ngƣời phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cƣ trú từ một năm đến năm năm.
  • 30. 24 Điều luật nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và các chủ thể khác xác định hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra trong thực tế có cấu thành tội giết ngƣời hay không; nếu phạm tội giết ngƣời thì thuộc vào khoản 1 hay khoản cụ thể nào của điều luật đó. Ngoài Điều 93 Bộ luật hình sự, các chủ thể định tội danh đối với tội giết ngƣời còn phải căn cứ vào các quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự, nhất là các quy định liên quan đến việc xác định tội phạm nhƣ chuẩn bị phạm tội (Điều 17), phạm tội chƣa đạt (Điều 18), đồng phạm (Điều 20), tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 49); v.v... Cùng với quy định của Bộ luật hình sự, quy định trong các văn bản hƣớng dẫn thi hành Bộ luật hình sự cũng có ý nghĩa quan trọng trong định tội danh. Liên quan đến hoạt động định tội danh đối với tội giết ngƣời, cần phải kể đến Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn một số quy định trong phần chung Bộ luật hình sự, trong đó liên quan đến việc áp dụng Khoản 1 Điều 93... * Cơ sở pháp lý về hình thức của định tội danh đối với tội giết người Cơ sở pháp lý về hình thức đƣợc hiểu là các băn bản pháp luật quy định về thủ tục tố tụng làm cơ sở cho việc định tội danh và giải quyết vụ án hình sự. GS. TSKH. Lê Văn Cảm cho rằng: Mặc dù các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự ở chừng mực nhất định có ý nghĩa gián tiếp đối với việc định tội danh nhƣng chúng có ý nghĩa pháp lí quan trọng đối với việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực pháp luật hình sự, nhất là trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay [8, tr. 30-31]. Với tính cách là cơ sở pháp lý về hình thức của việc định tội danh đối với tội giết ngƣời, các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là Bộ luật tố tụng hình sự quy định những vấn đề sau đây: - Pháp luật tố tụng hình sự quy định thẩm quyền định tội danh chính thức về mặt nhà nƣớc đối với tội giết ngƣời. Nhƣ đã trình bày trên, việc định tội danh đối với
  • 31. 25 tội giết ngƣời đƣợc thực hiện ở tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự, từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự đến giai đoạn xét xử. Trong từng giai đoạn này là các cơ quan và ngƣời có thẩm quyền định tội danh tƣơng ứng. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, thẩm quyền định tội danh đƣợc quy định cho Cơ quan điều tra. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự, tội giết ngƣời thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan Cảnh sát Điều tra các cấp trong Công an nhân dân và Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng, tùy thuộc vào đối tƣợng phạm tội cụ thể. Trong giai đoạn truy tố, thẩm quyền định tội danh định tội danh đối với tội giết ngƣời thuộc về Viện Kiểm sát. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án (mà trực tiếp là Hội đồng xét xử) là chủ thể có thẩm quyền định tội danh đối với tội phạm nêu trên. - Pháp luật tố tụng hình sự quy định hình thức pháp lý của định tội danh định tội danh đối với tội giết ngƣời. Hình thức pháp lý đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự mà các chủ thể định tội danh phải tuân theo là ban hành các quyết định hoặc văn bản tố tụng. Đó có thể là các quyết định thể hiện quan điểm của chủ thể định tội danh về hƣớng giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự (nhƣ quyết định khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can, bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án) hoặc quyết định về các biện pháp cƣỡng chế trong tố tụng nhƣ quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam... - Pháp luật tố tụng hình sự quy định về chứng cứ, về trình tự, thủ tục thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh tội giết ngƣời. Định tội danh luôn đi kèm theo vấn đề chứng cứ chứng minh tội phạm. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải bằng các biện pháp hợp pháp thu thập và phản ánh chứng cứ thu thập đƣợc trong những nguồn mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng bởi nếu không chứng minh đƣợc sự tồn tại tội phạm giết ngƣời và ngƣời thực hiện hành vi đó thì không thể định tội danh đối với tội phạm này. - Ngoài ra, pháp luật tố tụng hình sự còn quy định các vấn đề khác liên quan đến việc thay đổi tội danh, việc tách hoặc nhập vụ án hình sự và các vấn đề khác phục vụ cho định tội danh định tội danh đối với tội giết ngƣời.
  • 32. 26 1.2.2. Cơ sở khoa học của định tội danh đối với tội giết người Định tội danh đối với tội giết ngƣời là hoạt động nhận thức mang tính logic. Để hoạt động nhận thức này đƣợc tiến hành một cách hiệu quả, chủ thể nhận thức không chỉ đơn giản là căn cứ vào các điều luật của Bộ luật hình sự mà còn cần phải dựa trên cơ sở lý luận khoa học về mô hình pháp lý của tội phạm cụ thể mà hoạt động định tội danh hƣớng tới. Mô hình pháp lý về tội phạm cụ thể mà chủ thể định tội danh dựa vào đƣợc gọi là cơ sở lý luận của việc định tội danh. Theo quy định của khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự thì: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại các quan hệ xã hội đƣợc luật hình sự bảo vệ. Hành vi phạm tội giết ngƣời luôn tồn tại và diễn ra ngoài thế giới khách quan. Để mô tả và luật hóa hành vi này, khoa học luật hình sự sử dụng phƣơng pháp điển hình hóa thông qua các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng. Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng cho tội giết ngƣời đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự đƣợc gọi là cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời. Cấu thành tội phạm đƣợc coi là khái niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm nhất định trong luật hình sự. Quan hệ giữa tội phạm với cấu thành tội phạm là quan hệ giữa hiện tƣợng và khái niệm. Tội phạm là hiện tƣợng xã hội cụ thể, tồn tại khách quan còn cấu thành tội phạm là khái niệm pháp lý của hiện tƣợng đó [68, tr. 74]. Nhƣ vậy, có thể khẳng định cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời là cơ sở lý luận để định tội danh đối với loại tội phạm này. Các dấu hiệu cấu thành tội phạm tội giết ngƣời đƣợc ghi nhận trong cả Phần chung và Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Qua nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự, có thể rút ra các dấu hiệu cấu thành của tội giết ngƣời nhƣ sau: * Khách thể của tội giết người Tội giết ngƣời xâm phạm quyền đƣợc sống của con ngƣời. Do đó, quyền đƣợc sống là khách thể trực tiếp của tội phạm này. Để gây thiệt hại cho quyền đƣợc sống, hành vi giết ngƣời phải tác động đến những đối tƣợng nhất định. Đối tƣợng tác động của tội giết ngƣời là thân thể con ngƣời đang sống một cách bình thƣờng.
  • 33. 27 * Mặt khách quan của tội giết người Hành vi khách quan của tội phạm bao gồm cả hành động và không hành động. Trƣờng hợp hành động thƣờng đƣợc biểu hiện nhƣ: đâm, chém, bắn, đấm đá, đốt cháy, đầu độc, bóp cổ, treo cổ, trói ném xuống vực, xuống sông, chôn sống v.v... Trƣờng hợp không hành động ít gặp nhƣng vẫn có thể xảy ra. Ví dụ: Một Y tá cố tình không cho ngƣời bệnh uống thuốc theo chỉ định của bác sỹ để ngƣời bệnh chết mặc dù ngƣời Y tá này phải có nghĩa vụ cho ngƣời bệnh uống thuốc. Hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là hành vi trái pháp luật, tức là luật cấm mà cứ làm, luật bắt làm mà không làm. Nhƣ vậy, sẽ có trƣờng hợp tƣớc đoạt tính mạng ngƣời khác đƣợc pháp luật cho phép nhƣ: hành vi tƣớc đoạt tính mạng của ngƣời khác trong trƣờng hợp phòng vệ chính đáng, trong tình thế cấp thiết hoặc thi hành một mệnh lệnh hợp pháp của nhà chức trách. Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân gây ra hậu quả chết ngƣời, tức là có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Thực tiễn xét xử không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết ngƣời. Vì vậy, khi xác định mối quan hệ nhân qủa giữa hành vi và hậu quả phải xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả với những đặc điểm sau: - Hành vi là nguyên nhân gây ra chết ngƣời phải là hành vi xảy ra trƣớc hậu quả về mặt thời gian. Ví dụ: sau khi bị bắn, nạn nhân chết. Tuy nhiên không phải bất cứ hành vi nào xảy ra trƣớc hậu quả chết ngƣời đều là nguyên nhân mà chỉ những hành vi có mối quan hệ nội tại, tất yếu với hậu quả thì mới là nguyên nhân. Mối quan hệ nội tại tất yếu đó thể hiện ở chỗ: khi cái chết của nạn nhân có cơ sở ngay trong hành vi cả ngƣời phạm tội; hành vi của ngƣời phạm tội đã mang trong nó mầm mống sinh ra hậu quả chết ngƣời; hành vi của ngƣời phạm tội trong những điều kiện nhất định phải dẫn đến hậu quả chết ngƣời chứ không thể khác đƣợc. Ví dụ: một ngƣời dùng súng bắn vào đầu của ngƣời khác, tất yếu sẽ dẫn đến cái chết cho ngƣời này. Nếu một hành vi đã mang trong đó mầm mống dẫn đến cái chết cho nạn nhân, nhƣng hành vi đó lại đƣợc thực hiện trong hoàn cảnh không có những
  • 34. 28 điều kiện cần thiết để hậu quả chết ngƣời xảy ra và thực tế hậu quả đó chƣa xảy ra, thì ngƣời có hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết ngƣời nhƣng ở giai đoạn phạm tội chƣa đạt. Ví dụ: A có ý định bắn vào đầu B nhằm tƣớc đoạt tính mạng của B, nhƣng đạn không trúng đầu của B mà chỉ trúng tay nên B không chết. - Hậu quả chết ngƣời có trƣờng hợp không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân cùng gây ra, thì cần phải phân biệt nguyên nhân nào là nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân nào là thứ yếu. nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà nếu không có nó thì hậu quả không xuất hiện, nó quyết định những đặc trƣng tất yếu chung của hậu quả ấy, còn nguyên nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời cá biệt không ổn định của hậu quả; khi nó tác dụng vào kết quả thì chỉ có tính chất hạn chế và phục tùng nguyên nhân chủ yếu. Ví dụ: có nhiều ngƣời cùng đánh một ngƣời, ngƣời bị đánh chết là do đòn tập thể, nhƣng trong đó có hành vi của một ngƣời là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái chết cho nạn nhân, còn hành vi của những ngƣời khác chỉ là nguyên nhân thứ yếu. Dù là chủ yếu hay thứ yếu thì tất cả những ngƣời có hành vi đều phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết ngƣời, nhƣng mức độ có khác nhau [32, tr. 11-12]. * Mặt chủ quan của tội giết người Tội giết ngƣời đƣợc thực hiện do lỗi cố ý. Ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền đƣợc sống của ngƣời khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Mục đích nhằm tƣớc đoạt mạng sống của ngƣời khác. * Chủ thể của tội giết người Chủ thể của tội giết ngƣời là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào các cấu thành tội phạm nêu trên, các chủ thể định tội danh nắm bắt đƣợc bản chất và những đặc trƣng pháp lý của tội giết ngƣời, từ đó có cơ sở về mặt lý luận củng cố niềm tin nội tâm của mình trong quá trình định tội danh đối với tội phạm này.
  • 35. 29 1.3. CÁC GIAI ĐOẠN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI GIẾT NGƢỜI Định tội danh là tập hợp các hoạt động tuân theo quy luật của quá trình nhận thức thế giới khách quan mang tính logic liên quan đến việc đối chiếu, so sánh, tìm kiếm sự phù hợp giữa những gì xảy ra ngoài thực tiễn khách quan và mô hình của nó đƣợc phản ánh trong luật. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật của nhận thức của con ngƣời cho rằng: để nắm đƣợc chân lý, chủ thể nhận thức phải đi từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu tƣợng và từ tƣ duy trừu tƣợng đến thực tiễn. Đây là một quá trình, trải qua nhiều giai đoạn cụ thể khác nhau. Vận dụng lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoạt động định tội danh đối với tội giết ngƣời, có thể thấy rằng: định tội danh đối với tội giết ngƣời cũng là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn cụ thể. Mỗi giai đoạn là một khâu đƣợc tiến hành theo một trình tự nhất định phù hợp với logic của hoạt động nhận thức để đạt đến chân lý của chủ thể định tội danh. Do vậy, có thể đƣa ra định nghĩa của khái niệm này nhƣ sau: Các giai đoạn định tội danh đối với tội giết người là các khâu cụ thể trong quá trình định tội danh, đi từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, từ hành vi giết người xảy ra ngoài xã hội đến các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này để đi đến kết luận về sự tồn tại của tội phạm giết người một cách có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều quan đến khác nhau về các giai đoạn cụ thể trong quá trình định tội danh. Có quan điểm cho rằng định tội danh có ba bƣớc. Quan điểm khác lại khẳng định định tội danh phải trải qua bốn giai đoạn. Nội dung của các bƣớc hay giai đoạn định tội danh đƣợc các tác giả trình bày cũng không giống nhau. Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm thì: Định tội danh với tính chất là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng luật hình sự và luật tố tụng hình sự đƣợc tiến hành, về cơ bản theo bốn bƣớc dƣới đây: - Xem xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan;
  • 36. 30 - Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy phạm luật hình sự đang có hiệu lực thi hành; - Lựa chọn đúng điều khoản tƣơng ứng trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự quy định trách nhiệm đối với tội phạm cụ thể để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đƣợc thực hiện. - Ra văn bản áp dụng pháp luật, trong đó đƣa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp (tƣơng đồng) của hành vi thực tế đã đƣợc thực hiện trong thực tế khách quan với cấu thành tội phạm cụ thể tƣơng ứng đƣợc quy định trong luật hình sự [8, tr. 25-26]. Trong khi đó, PGS. TS Lê Văn Đệ lại cho rằng: Quá trình định tội danh thƣờng diễn ra ba giai đoạn có tính logic sau đây: a) Giai đoạn thứ nhất: xác định quan hệ pháp luật...; b) Giai đoạn thứ hai: tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự...; c) Giai đoạn thứ ba: tìm quy phạm pháp luật hình sự cụ thể... [16, tr. 32-34]. Ngoài ra, PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên lại cho rằng định tội danh phải trải qua ba bƣớc: - Bƣớc 1: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét và đánh giá các tình tiết của vụ án trong sự phù hợp với hiện thực khách quan. - Bƣớc 2: Tìm ra tội danh và điều luật tƣơng ứng (phù hợp) với hành vi đã thực hiện trên thực tế. - Bƣớc 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật trong đó kết luận một cách có căn cứ hành vi đã thực hiện có phạm tội không, nếu phạm tội thì theo điều luật nào của Bộ luật hình sự [30, tr. 13-15]. Kế thừa các quan điểm nêu trên, trên cơ sở kết hợp lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lê nin và lý luận về hoạt động áp dụng pháp luật, có thể rút ra các giai đoạn cụ thể của quá trình định tội danh nhƣ sau: 1.3.1. Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án giết người Trong giai đoạn này, có hai nhiệm vụ cụ thể mà chủ thể định tội danh phải làm:
  • 37. 31 Một là, làm rõ sự thật của vụ án thông qua các chứng cứ đã đƣợc thu thập, củng cố và kiểm tra theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trong thực tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt động định tội danh chính thức với chủ thể định tội danh là Cơ quan Điều tra, Điều tra viên trực tiếp thụ lý điều tra vụ án, Phó Thủ trƣởng, Thủ trƣởng Cơ quan Điều tra. Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, nhiệm vụ trực tiếp của họ là kiểm tra lại chứng cứ đã thu thập đƣợc để xác định xem toàn bộ sự thật vụ án đã đƣợc làm rõ hay chƣa. Nếu là định tội danh không chính thức đối với tội giết ngƣời, sự thật vụ án mặc nhiên đƣợc coi là đã đƣợc làm rõ. Các tình tiết của vụ án đƣợc coi là đúng nên không đặt vấn đề phải thu thập, củng cố, kiểm tra chứng cứ nữa. Hai là, trên cơ sở các tình tiết vụ án đã đƣợc làm rõ, phải phân tích một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án cũng nhƣ đối với định tội danh. Trong định tội danh tội giết ngƣời, cần làm rõ các nội dung cụ thể sau: a) Quyền sống có bị xâm hại hay không. b) Có hay không có hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời khác. Dựa trên cơ sở, chứng cứ nào để khẳng định có hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời khác. c) Hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời khác đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức, thủ đoạn nào. Ngƣời bị tƣớc đoạt quyền sống trái pháp luật có nhân thân ra sao, có mối quan hệ nhƣ thế nào với ngƣời phạm tội v.v… d) Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có mục đích gì; có lỗi hay không có lỗi; trƣờng hợp có lỗi thì có phải là lỗi cố ý hay không. đ) Bị can, bị cáo có đúng là ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hay không. Họ có năng lực trách nhiệm hình sự hay không có năng lực trách nhiệm hình sự. Có những biểu hiện mắc bệnh tâm thần hay là ngƣời bình thƣờng. Tuổi của họ là bao nhiều. e) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện trong điều kiện, hoàn cảnh nào. f) Các tình tiết khác xuất hiện trong vụ án có ý nghĩa đối với hoạt động định
  • 38. 32 tội danh đối với tội giết ngƣời. Điều quan trong nhất trong giai đoạn này đối với chủ thể định tội danh là phải nắm đƣợc bản chất của vụ án xảy ra, phải bƣớc đầu khẳng định đƣợc khả năng có dấu hiệu của tội giết ngƣời để tiếp tục chuyển sang giai đoạn thứ hai của quá trình định tội danh đối với tội phạm này. 1.3.2. So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ với quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tương đồng Đây là giai đoạn thứ hai - giai đoạn so sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã đƣợc làm rõ với quy định của Điều 93 Bộ luật hình sự để xác định sự tƣơng đồng; xác định sự tƣơng đồng về mặt pháp lý giữa hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật quyền sống của ngƣời khác đƣợc thực hiện trong thực tế với cấu thành tội phạm của tội giết ngƣời. Do đó, đây là giai đoạn trung tâm trong quá trình định tội danh đối với tội giết ngƣời. Trong giai đoạn này, chủ thể định tội danh phải làm những việc sau đây: Một là, phải đối chiếu các từng tình tiết của vụ án xảy ra với các dấu hiệu cầu thành tội phạm tƣơng ứng của tội giết ngƣời. Sau đó, phải đối chiếu, so sánh tổng thể tất cả các tình tiết của vụ án với tổng thể các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội phạm nêu trên. Hai là, phải phát hiện, tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ án với các dấu hiệu pháp lý mà Bộ luật hình sự mô tả trong Điều 93. Trƣờng hợp có căn cứ khẳng định không có sự đồng nhất thì phải kiểm tra lại. Sau khi xác định chắc nhắn không có sự đồng nhất với cấu thành tội phạm tội giết ngƣời thì có thể chuyển sang kiểm tra các quy phạm pháp luật hình sự khác để kết luận có hay không có tội phạm xảy ra, nếu có tội phạm xảy ra không thuộc trƣờng hợp tội giết ngƣời thì cấu thành tội phạm nào khác. Trƣờng hợp có căn cứ xác định có dấu hiệu của tội giết ngƣời thì chủ thể định tội danh vẫn phải kiểm tra lại trƣớc khi đi đến kết luận về việc đối tƣợng vụ án phạm tội nói trên. Sau khi xác định đƣợc đối tƣợng vụ án là ngƣời có hành vi phạm tội giết ngƣời thì phải xác định các khoản cụ thể của Điều 93 Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng.
  • 39. 33 Tiếp đó, phải xác định xem vụ án có yếu tố đồng phạm không, ai là ngƣời đồng phạm, thực hiện tội giết ngƣời với vai trò cụ thể nào. Tiếp đó phải xác định giai đoạn thực hiện tội phạm: tội giết ngƣời đƣợc thực hiện ở giai đoạn hoàn thành hay chuẩn bị phạm tội, phạm tội chƣa đạt và kiểm tra các vấn đề khác có liên quan, đặc biệt là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 46 và Điều 48 Bộ luật hình sự. Kết thúc giai đoạn này, chủ thể định tội danh đã có căn cứ để xác định đối tƣợng vụ án đã thực hiện hành vi giết ngƣời và hành vi này đã cấu thành tội giết ngƣời quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự, xác định đƣợc các điều luật khác trong phần chung của Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng để giải quyết vụ án 1.3.3. Đưa ra kết luận về tội danh người đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự Đây là giai đoạn đƣa ra kết luận về việc đối tƣợng vụ án đã thực hiện tội phạm giết ngƣời. Trong trƣờng hợp định tội danh chính thức, các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng ra các quyết định tố tụng cần thiết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội về tội phạm nêu trên. Giai đoạn này là giai đoạn cuối cùng trong quá trình định tội danh. Chủ thể định tội danh phải bằng ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và niệm nin nội tâm khẳng định một cách dứt khoát rằng đối tƣợng vụ án đã phạm tội giết ngƣời và nêu ra các điều luật đƣợc áp dụng trong cả Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với định tội danh không chính thức, quá trình định tội danh có thể đƣợc xem là đã kết thúc. Chủ thể định tội danh thể hiện quan điểm của mình trong các bài báo, bài viết, công trình khoa học hoặc các hình thức khác theo sự lựa chọn của họ. Đối với định tội danh chính thức, chủ thể định tội danh phải thể hiện sự đánh giá pháp lý của mình trong các quyết định và văn bản tố tụng và tiếp tục nghĩa vụ chứng minh về kết luận của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các giai đoạn định tội danh nêu trên chỉ có tính chất tƣơng đối. Nhiều khi các chủ thể định tội danh có sự gộp giai đoạn
  • 40. 34 này vào giai đoạn khác. Cũng có trƣờng hợp việc định tội danh lại phải quay lại bắt đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả định tội danh hoặc để định tội danh đƣợc đúng đắn, phù hợp với chân lý khách quan và quy định của pháp luật nếu nhƣ chủ thể định tội danh có những sai lầm nào đó trong quá trình định tội danh.