SlideShare a Scribd company logo
1 of 121
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THU HƢƠNG
THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô ¸N §èI VíI TéI
Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I
CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C
(trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn huyÖn Tõ Liªm, thµnh phè Hµ Néi)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THU HƢƠNG
THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô ¸N §èI VíI TéI
Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I
CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C
(trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn huyÖn Tõ Liªm, thµnh phè Hµ Néi)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS BẠCH THÀNH ĐỊNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC........................................... 9
1.1. Khái niệm..........................................................................................9
1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác............................11
1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự......................................................11
1.2.2. Những thủ tục cần lưu ý khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý
gây thương tích.................................................................................22
Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................38
Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG
TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM HÀ NỘI......................40
2.1. Thực tiễn giải quyết các vụ việc cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác.....................................40
2.1.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết các vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............40
2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.......................................45
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong thủ tục giải quyết các vụ án cố ý
gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
và nguyên nhân................................................................................48
2.2.1. Những tồn tại, hạn chế .....................................................................48
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.........................................64
Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................68
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI
VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN
HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC............................70
3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết đối với vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của ngƣời khác ..................................................70
3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội
cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác ......................................................................................72
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết đối với
vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của ngƣời khác................................................................................81
3.3.1. Hoàn thiện quy định về điều tra vụ án hình sự ................................81
3.3.2. Hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giải quyết vụ án hình sự..........................................................86
3.3.3. Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến thủ tục giải
quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ...........................................................93
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thủ tục giải quyết đối với vụ
án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
ngƣời khác.......................................................................................97
3.4.1. Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra..........................97
3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ...............100
3.4.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ...........................102
Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................106
KẾT LUẬN..................................................................................................107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109
PHỤ LỤC.....................................................................................................113
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TNHS : Trách nhiệm hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 2.1: So sánh tình hình tội cố ý gây thương tích với tình hình
tội phạm trên địa bàn huyện Từ Liêm 113
Bảng 2.2: Một số tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm có tính phổ biến trong xã hội 113
Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương
tích trên địa bàn huyện Từ Liêm 114
Bảng 2.4: Tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích trên địa bàn
huyện Từ Liêm 114
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ ngày lập nước, nhà nước ta rất chú trọng bảo vệ quyền con
người. Các tội xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của
con người được quy định sớm trong luật hình sự nước ta. Trong đó tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác {Điều 104 Bộ
luật hình sự (BLHS)} những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Hậu quả
gây ra rất lớn, không chỉ người bị hại bị xâm hại nghiêm trọng tới sức khỏe
do hành vi phạm tội gây ra mà còn làm mất an ninh, trật tự của xã hội, gây
hoang mang trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi nước ta xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mặt trái của cơ chế thị
trường như xuất hiện trên mạng internet phim ảnh bạo lực, các trò chơi điện
tử… tác động đến tình hình tội phạm, tội cố ý gây thương tích có xu hướng
tăng và diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng trẻ hóa, liều lĩnh, coi
thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày
một nhiều hơn các loại vũ khí nguy hiểm… Nhiều vụ cố ý gây thương tích có
quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình
an ninh trật tự ở Thủ đô.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý gây thương
tích trong thời gian qua của nước ta tuy đã được các cấp, các ngành, các cơ
quan tư pháp chú trọng nhưng do những nguyên nhân chủ quan cũng như
khách quan kết quả đạt được chưa thực sự như mong muốn, một trong những
nguyên nhân của tình trạng trên là thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã phát sinh một số
vướng mắc ảnh hưởng đến việc áp dụng chế tài hạn chế sức răn đe, giáo dục,
trừng phạt người phạm tội cũng như phòng ngừa chung.
2
Qua nghiên cứu thực hiện các thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Từ
Liêm (nay là hai quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm)... là địa bàn có tốc độ
đô thị hóa nhanh, nhiều khu dân cư mới, các trường đại học, khu công
nghiệp… được xây dựng và phát triển. Bên cạnh đó công tác quản lý nhà
nước về an ninh trật tự và tình hình tội phạm đặc biệt là tội cố ý gây thương
tích diễn ra phức tạp; công tác giải quyết của các lực lượng chức năng còn
nhiều bất cập, việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố về tội
cố ý gây thương tích còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều vụ cố ý gây
thương tích xảy ra do mâu thuẫn cá nhân nhưng Cơ quan điều tra (CQĐT)
không nắm được tình hình, trong đó rất nhiều vụ đủ yếu tố cấu thành tội phạm
nhưng khó tiến hành hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra tội cố ý gây
thương tích hiện cũng còn nhiều bất cập, công tác khám nghiệm hiện trường
còn chưa thực sự đạt yêu cầu, bỏ sót nhiều dấu vết hoặc vật chứng quan trọng,
nhất là trong các vụ cố ý gây thương tích có nhiều đối tượng tham gia. Bên
cạnh đó trong tội phạm này hoạt động giám định thương tích là yêu cầu bắt
buộc tuy nhiên công tác giám định trong thời gian qua còn nhiều vướng mắc
do quy định của luật cũng như trên thực tiễn áp dụng, nhiều trường hợp không
khởi tố được vì đương sự không đi giám định hoặc giám định lại nhiều lần
cho các kết quả khác nhau dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng khó
khăn trong giải quyết. Hoạt động xét xử đối với các vụ án cố ý gây thương
tích cũng còn nhiều khó khăn, chủ yếu ở trong khâu xét hỏi tại phiên tòa,
nhiều trường hợp các bị cáo phản cung, khai khác với lời khai tại CQĐT, một
số vụ án cố ý gây thương tích xảy ra đông người, có đông các đối tượng côn
đồ cộm cán tham gia nên thái độ chống đối rất quyết liệt. Tính chất xuyên
suốt trong thủ tục giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích cần
được quan tâm và giải quyết một cách triệt để.
3
Vì vậy, từ lý luận và thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này tác giả
chọn đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ là: "Thủ tục giải quyết vụ án đối với
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo pháp luật hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, Luật gia nghiên
cứu ở nhiều góc độ. Trên các sách, báo chí, tạp chí... cũng đã đề cập và có
nhiều quan điểm tiếp cận với loại tội này trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân, đó là "Quyền bất
khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm", "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hạn cho sức
khỏe của người khác" tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận "người nào
có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của
người khác đều bị xử lý theo pháp luật". Có nhiều tác giả quan tâm tới trách
nhiệm hình sự (TNHS) của tội phạm này như Nguyễn Ngọc Hàn, Trần Văn
Độ, tác giả Nguyễn Cường đã quan tâm đến lỗi cố ý, vấn đề khách thể trực
tiếp; các tác giả Vũ Lập Thành, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Quốc Hội tiến
hành nghiên cứu những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS...
Một số sách chuyên khảo đề cập đến việc áp dụng pháp luật của Tòa
án nhân dân (TAND) trong hoạt động xét xử án hình sự, trong đó có đề cập
đến việc xét xử các tội phạm hình sự nói chung và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng như:
- GS. TSKH Đào Trí Úc, "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật",
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993. Tác giả đã đi sâu phân tích về áp
dụng pháp luật và hoạt động xét xử của TAND.
4
- TS. Nguyễn Thị Hồi, "Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay và
một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Tư pháp, năm 2009.
- TSKH.Lê Cảm "Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung luật
hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2002.
- ThS. Đinh Văn Quế "Tìm hiểu về tội phạm và hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam", Nxb Phương Đông, năm 2010.
- ThS. Đinh Văn Quế "Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự những vấn
đề lý luận và thực tiễn", Nxb Phương Đông, năm 2010.
- TS. Dương Tuyết Miên "Định tội danh và quyết định hình phạt",
Nxb Lao động - Xã hội, năm 2007.
Ngoài ra, các tác giả như TS. Phùng Thế Vắc và TS. Trần Văn Luyện
có công trình bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần các tội phạm) do
Nxb Chính trị quốc gia xuất bản trong đó có đề cập đến tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. TS. Phạm Văn Beo với
"Luật hình sự Việt Nam" phân tích rất rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt
của loại tội này. Tác giả Đinh Văn Quế có công trình nghiên cứu là cuốn Bình
luận khoa học Bộ luật hình sự (bình luận chuyên sâu) phần các tội phạm, tập
1, do Nxb Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002 đã đề cập đến tội
phạm này...
Về thủ tục giải quyết vụ án trong tố tụng hình sự cũng có rất nhiều
công trình nghiên cứu dưới các giác độ khác nhau. Có thể kể đến là các giáo
trình Luật tố tụng hình sự của các cơ sở đào tạo luật như Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội. Về các thủ tục tố tụng đặc
biệt cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Tác giả
Đỗ Thị Phượng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành
niên phạm tội" Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Nguyễn Văn
Quảng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam",
5
tại Học viện Khoa học xã hội... Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu ở
cấp độ bài viết khoa học nói riêng về vấn đề thủ tục giải quyết vụ án hình sự.
Các công trình trên là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả nghiên cứu hoàn
thành đề tài.
Các công trình trên nhìn chung đã nghiên cứu tương đối cơ bản về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc
độ luật hình sự hoặc nghiên cứu về thủ tục giải quyết các vụ án hình sự nói
chung mà chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về
thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác. Đặc biệt là nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở số
liệu thực tế của một đơn vị là huyện Từ Liêm Hà Nội (nay là quận Nam Từ
Liêm và Bắc Từ Liêm).
Chính vì vậy, việc tác giả chọn đề tài: "Thủ tục giải quyết vụ án đối
với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà
Nội)" không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố và có ý nghĩa
quan trọng cả lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ những thủ tục trong các giai đoạn
giải quyết vụ án nói chung và đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nói riêng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành, trên sơ sở thực trạng thủ tục giải quyết
vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người
khác trên địa bàn huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội luận văn sẽ chỉ ra
những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại và những vướng mắc, đề
xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện về mặt lý luận, đồng thời góp
6
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây
thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội (nay là hai quận
Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, quá trình nghiên cứu, tác giả
tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Làm sáng rõ những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ án nói
chung và thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe người khác nói riêng.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn quá trình giải quyết vụ
án tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội từ
năm 2010 đến năm 2014. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân
tồn tại và những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về giải quyết vụ án đối
với loại tội phạm này.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ
án, nâng cao khả năng áp dụng pháp luật trong thủ tục giải quyết các vụ án
về tội cố ý gây thương tích nói chung và cụ thể nâng cao năng lực xử lý đối
với tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tư pháp trên địa bàn huyện Từ
Liêm nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện
Từ Liêm (nay là hai quận Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm).
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là làm rõ trên phương diện lý luận các
thủ tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS và BLHS hiện hành và
7
kết quả nghiên cứu thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra từ
năm 2010 đến 2014 tại địa bàn Từ Liêm, Hà Nội.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm cơ bản của Đảng
và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; lý luận về tội phạm học,
Luật hình sự và tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp
khảo sát, thống kê thực tế số liệu xét xử, phương pháp so sánh, tổng hợp, hỏi
ý kiến chuyên gia để rút ra các kết luận khoa học của mình.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề thủ tục giải quyết đối với
vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Những đóng góp mới của luận văn được thể hiện ở các điểm sau:
- Luận văn đã phân tích được đầy đủ các vấn đề lý luận về thủ tục
giải quyết đối với vụ án hình sự nói chung và vụ án về tội cố ý gây thương
tích nói riêng. Ngoài ra luận văn còn nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải
quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích ở các giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử...
- Luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng quá trình
giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ
Liêm thành phố Hà Nội, từ đó rút ra đánh giá về những hạn chế, bất cập trong
quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hình sự cũng như những
hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án đối với
tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tố tụng huyện Từ Liêm.
- Từ những sự phân tích, luận văn cũng đã chỉ rõ được nguyên nhân
8
của những tồn tại hạn chế đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa
bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo về mặt lý
luận khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao khả
năng thực thi pháp luật và các giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích
rút ra qua quá trình áp dụng trên thực tiễn làm cơ sở cho khoa học luật hình sự
và Tố tụng hình sự nói chung và góp phần nâng cao chất lượng khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thủ tục giải quyết vụ án tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2: Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây
thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC
1.1. Khái niệm
Thủ tục giải quyết vụ án hình sự là trình tự, biện pháp do cơ quan có
thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm. Từ khái niệm thủ tục giải
quyết vụ án hình sự có thể rút ra khái niệm: thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trình tự, biện
pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được quy định chung trong tố tụng hình sự, theo
trình tự như đối với các vụ án hình sự thông thường, và có mục đích cơ bản
là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội cố ý gây thương tích, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội.
Xét về hình thức, tố tụng hình sự được phân chia ra các giai đoạn
khác nhau, bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... Mỗi giai đoạn tố
tụng có tính độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, giai
đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau; kết quả của giai đoạn sau là sự
kiểm chứng tính đúng đắn của giai đoạn trước và các giai đoạn hợp thành
một quy trình tố tụng hình sự. Gắn với mỗi giai đoạn là các hoạt động tố
tụng do các chủ thể khác nhau tiến hành (Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện
kiểm sát (VKS), Tòa án) với sự tham gia của các chủ thể khác như bị can,
bị cáo, bị hại, người làm chứng, người bào chữa, giám định, các cơ quan tổ
10
chức nhà nước, tổ chức xã hội… Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, các
chủ thể có nhiệm vụ và thẩm quyền khác nhau nhưng đều có một mục tiêu
chung là xác định sự thật khách quan của sự kiện phạm tội đã xảy ra, nhằm
chứng minh hành vi và chủ thể tội phạm.
Trên cơ sở sự kiện phạm tội xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng
các biện pháp của tố tụng hình sự để làm rõ: có hành vi phạm tội xảy ra hay
không; thời gian; địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có
năng lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS của chủ thể và những đặc điểm về nhân thân của chủ
thể; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [27, Điều 63]. Đó
là những vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh trong vụ án
hình sự nói chung và vụ án cố ý gây thương tích nói riêng. Nhà nước xác định
một hệ thống các biện pháp tố tụng để chứng minh và xử lý tội phạm. Hệ
thống các biện pháp tố tụng, bao gồm: các biện pháp để phát hiện tội phạm
(như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, khởi tố vụ
án…); các biện pháp ngăn chặn tội phạm (như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú)… các biện pháp thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm
(như lấy lời khai, thu giữ vật chứng, giám định…), các biện pháp xử lý tội
phạm (như truy tố, xét xử). Các biện pháp này được thực hiện bởi các chủ thể
là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên không
phải các sự kiện phạm tội xảy ra đều áp dụng tất cả các biện pháp tố tụng để
giải quyết mà tùy thuộc tính chất, mức độ của sự kiện phạm tội để các cơ
quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng cho phù hợp, ví dụ: biện
pháp ngăn chặn tạm giam chỉ đặt ra với các sự kiện phạm tội mà người thực
hiện hành vi có mức nguy hại lớn, cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiếp
tục phạm tội mới… Ngoài ra, các biện pháp và trình tự tố tụng còn được hình
11
thành trên cơ sở tính chất của chủ thể, ví dụ: đối với các chủ thể là người chưa
thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì phải có một trình tự
tố tụng đặc biệt để áp dụng đối với họ.
1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác
Như đã đề cập ở trên, thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải được tiến hành theo
những trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nhằm chứng minh một người đã
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà BLHS quy định phải chịu TNHS. Hay nói
cách khác, để làm sáng tỏ thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng là làm sáng tỏ các
trình tự, biện pháp được áp dụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử vụ án hình sự thông thường, nhưng đối với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có một số những điểm cần lưu
ý theo từng giai đoạn do một số đặc điểm riêng của tội phạm này.
1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự
1.2.1.1. Giai đoạn khởi tố
Theo Từ điển Luật học thì khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát
hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu
các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố
tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm [44, tr. 429].
Theo tác giả Lê Cảm thì giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền
căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành việc xác
định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho
12
xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ
án (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó [5, tr. 26].
Do vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của trình tự giải quyết vụ
án, có nhiệm vụ xác định một sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi
tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn được tiến hành
trước các giai đoạn tố tụng tiếp theo như: điều tra, truy tố, xét xử... Do đó,
giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
xác lập cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh
tội phạm, người phạm tội, lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố người phạm tội ra
trước Tòa án để xét xử.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm
vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có
dấu hiệu tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết
định đó là: quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ
án hình sự [7, tr. 64]. Tương tự như thế, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự
của Trường Đại học Luật Hà Nội có viết: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay
không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án
hình sự [38, tr. 231].
Các quan điểm nêu trên tuy được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau
nhưng đều thể hiện sự thống nhất đó là coi khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn
đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn khởi động quá trình tố tụng hình sự, có
vai trò làm căn cứ pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo.
Trong giai đoạn khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, tin báo, tố giác về tội phạm để từ đó có
13
khởi tố vụ án hình sự hay không. Việc khởi tố hay không khởi tố phải căn cứ
vào quy định tại BLTTHS. Theo đó:
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú [27, Điều 100].
Trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình
sự chủ yếu quy định cho CQĐT, còn tòa án và VKS chỉ có thẩm quyền khởi
tố rất hạn chế. Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi
tố phải xác định sự tồn tại của sự việc và đánh giá xem sự việc đó có hay
không có dấu hiệu tội phạm để quyết định việc có hay không khởi tố vụ án.
Tại giai đoạn này, CQĐT phải làm những thủ tục sau: tiếp nhận thông
tin về tội phạm (có thể là tin báo hoặc tố giác về tội phạm), qua đơn thư, công
văn kiến nghị hoặc nêu trên phương tiện thông tin đại chúng thì phải tiếp nhận
và vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nếu cá
nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp
đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Nếu cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức báo tin về tội
phạm qua điện thoại, các phương tiện thông tin khác thì phải tiếp nhận và ghi
vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nếu là tin
quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có thể ghi âm, ghi hình. Trường hợp người
phạm tội đến tự thú thì phải lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú.
14
Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT phải tiến
hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng CQĐT phải ra
Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị
khởi tố và gửi ngay một bản đến VKS cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật.
Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã
rõ về dấu hiệu tội phạm thì CQĐT ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và
thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 BLTTHS năm
2003, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm hoặc kiến nghị khởi tố.
Khi xác minh có dấu hiệu tội phạm, để có thể khởi tố vụ án, Thủ
trưởng CQĐT ký quyết định phân công phó thủ trưởng CQĐT và điều tra
viên điều tra vụ án. Sau đó, Phó Thủ trưởng CQĐT được phân công sẽ trực
tiếp ký quyết định khởi tố vụ án. Nội dung của quyết định khởi tố vụ án hình
sự phải bao gồm thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của BLHS được áp
dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định. Quyết định khởi tố vụ án hình
sự của CQĐT, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra cần
phải gửi đến VKS cùng cấp trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định. Điều
này đảm bảo tính chặt chẽ và hợp pháp của quyết định khởi tố. Đảm bảo
nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự, tránh oan, sai trong khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời
cũng thể hiện quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQĐT.
Thực tế cho thấy, để soạn thảo quyết định khởi tố vụ án, cán bộ thụ lý
chỉ cần khoảng thời gian rất ngắn nhưng để chứng minh có hay không hành vi
phạm tội xảy ra, thời hạn phụ thuộc vào độ phức tạp của thông tin tội phạm. Ở
15
những vụ việc có đông đối tượng, khó xác định dấu hiệu phạm tội, CQĐT cần
xác minh tại nhiều nơi, ghi lời khai của nhiều người, thời hạn có thể kéo dài
hai tháng hoặc dài hơn. Những việc làm này không những xác định dấu hiệu
phạm tội mà còn xác định rõ điều khoản của BLHS được áp dụng, thời gian
phạm tội, địa điểm phạm tội (thể hiện qua việc lấy lời khai và vẽ sơ đồ hiện
trường, khám nghiệm hiện trường nếu có), dùng làm căn cứ ra Quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản tố tụng đánh dấu quá trình
giải quyết vụ án bắt đầu chuyển sang giai đoạn điều tra.
1.2.1.2. Giai đoạn điều tra
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến
chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết
luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất
nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm
dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời
điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án [5, tr.24-29].
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra
được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể
cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4
tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm
trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20
tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra
nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,
16
thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp
của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Thầm quyền điều tra thuộc về CQĐT và các cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra được quyền tiến hành các biện pháp điều tra.
Trong giai đoạn này mối quan hệ giữa CQĐT và VKS thể hiện rõ nét.
Trong giai đoạn điều tra vụ án, quyết định chiếm vị trí quan trọng đầu
tiên là quyết định khởi tố bị can. Theo quy định của Điều 126 BLTTHS thì
quyết định khởi tố bị can được ban hành khi có đủ căn cứ để xác định một
người đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở những vụ án đơn giản, Quyết định khởi
tố bị can có thể được CQĐT ra cùng thời điểm với Quyết định khởi tố vụ án.
Quyết định khởi tố bị can gồm các nội dung chủ yếu về thời gian, địa
điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng,
năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội
gì, theo điều khoản nào của BLHS; thời gian, địa điểm phạm tội và những
tình tiết khác của tội phạm… Trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định khởi
tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định này đến VKSND cùng cấp để xét việc
phê chuẩn, và trong thời hạn 3 ngày VKSND cùng cấp phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can [27, Điều 126].
Các hoạt động của giai đoạn điều tra là hoạt động thu thập chứng cứ
để chứng minh tội phạm. Theo quy định của BLTTHS trong giai đoạn điều
tra, CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được
quyền tiến hành các biện pháp điều tra quy định như: hỏi cung bị can, lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra,
trưng cầu giám định, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể. Các
hoạt động điều tra trên phải được tiến hành theo thủ tục được pháp luật quy
17
định và đặt dưới sự kiểm sát của VKS nhằm đảm bảo quá trình thu thập
chứng cứ khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. VKS đề ra các
yêu cầu điều tra giúp CQĐT điều tra đúng hướng. Khi cần thiết, VKS có thể
tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm chứng minh tội phạm, đảm
bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy
tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Khi có đầy đủ
chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì CQĐT làm bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra vụ án phải ghi rõ ngày, tháng, năm,
họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận, nội dung bản kết luận điều
tra đề nghị truy tố sẽ trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng
cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý
do và căn cứ đề nghị truy tố. Nội dung bản kết luận điều tra để đình chỉ điều
tra vụ án nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra. Kèm theo
bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã
được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân
sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu
có. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, CQĐT phải
gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo
quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp; gửi bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can,
người bào chữa.
Nếu giai đoạn điều tra vụ án kết thúc bằng việc CQĐT ra bản kết luận
điều tra đề nghị truy tố, vụ án sẽ chuyển sang giai đoạn truy tố.
1.2.1.3. Giai đoạn truy tố
Giai đoạn truy tố là giai đoạn tố tụng mà thẩm quyền chủ yếu thuộc về
VKS, cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp có chức năng thực hành
18
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có nghĩa là VKS nhân
danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội nghi can trước Tòa án để xét xử.
Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà
trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành
các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài
liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị
truy tố) do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định: Truy tố bị
can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để
điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự [5, tr. 26].
Giai đoạn truy tố thể hiện quyền công tố nhà nước của VKS đối với
người phạm tội, bằng việc VKS truy tố tội phạm ra trước Tòa án bằng bản cáo
trạng. Trong giai đoạn truy tố Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án và Bản kết
luận điều tra đề nghị truy tố. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS trong giai
đoạn truy tố, để bổ sung chứng cứ, bổ sung những tài liệu khác cần thiết cho
việc chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố chính xác, Kiểm sát viên có
quyền tiến hành thực hiện một số hoạt động điều tra như hỏi cung, đối chất,
thực nghiệm điều tra, lấy lời khai... khi tiến hành các hoạt động điều tra này,
Kiểm sát viên cũng phải tuân thủ các thủ tục đã được quy định trong BLTTHS.
Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội
phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết
luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau đây: Truy tố bị
can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ vụ án. VKS quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ nhất định quy định tại
Điều 168, Điều 169 BLTTHS.
Quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng là quyết định quan trọng
19
nhất. Bản cáo trạng là văn bản tố tụng do VKSND ban hành sau khi xác định
được các yếu tố đủ để thực hiện việc truy tố đối với bị can. Bản cáo trạng phải
ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích,
động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác;
những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và
tình tiết giảm nhẹ TNHS; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý
nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều
khoản của BLHS được áp dụng. Sau khi ban hành bản cáo trạng trong thời
hạn ba ngày VKSND phải gửi bản cáo trạng cho Tòa án cùng với hồ sơ vụ án.
Kết thúc giai đoạn truy tố, vụ án chuyển sang giai đoạn xét xử.
1.2.1.4. Giai đoạn xét xử
Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư, trung tâm và quan trọng nhất
của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ
vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện
pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ
thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng
công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề
tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo
(hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ
thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng
nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã
có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án
hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của
Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề TNHS một cách công
minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục.
Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ
sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo
20
trạng) do VKS chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu
lực pháp luật của Tòa án.
Trong giai đoạn xét xử, nội dung quan trọng nhất là đảm bảo việc xét
xử đúng người, đúng tội, áp dụng hình phạt chính xác đối với người phạm tội.
Giai đoạn xét xử là giai đoạn kết thúc của quá trình tố tụng, kết thúc của quá
trình chứng minh. Việc xét xử là kết quả của các hoạt động chứng minh trước
đó ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Đồng thời xét xử có vị trí trung tâm
nhất trong các giai đoạn tố tụng.
Ở Việt Nam áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, bao gồm xét xử sơ
thẩm và xét xử phúc thẩm. Nội dung của giai đoạn xét xử cần được tuân thủ
chặt chẽ các quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, thành phần hội đồng xét
xử, trình tự, thủ tục của phiên tòa xét xử vụ án hình sự...
Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn
mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày
nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một
trong những quyết định sau đây: trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 179
BLTTHS), đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự (Điều 180 BLTTHS),
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Các quyết định tố tụng này dẫn đến các hậu
quả pháp lý nhất định khác nhau. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyết
định được ban hành khi xét thấy việc nghiên cứu hồ sơ vụ án đã đạt được điều
kiện và thời gian cần thiết để đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Quyết định đưa vụ
án ra xét xử phải ghi rõ: Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp,
nơi cư trú của bị cáo; Tội danh và điều khoản của BLHS mà VKS áp dụng đối
với hành vi của bị cáo; Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt cho bị cáo chậm nhất mười ngày trước
khi mở phiên tòa. Thủ tục của phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm:
21
- Giai đoạn bắt đầu phiên tòa: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm các
thủ tục cần thiết trước khi xét hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những người
tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố
tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng...
- Giai đoạn xét hỏi: trước khi bắt đầu xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng, sau đó Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi làm sáng tỏ các tình tiết
của vụ án, trực tiếp xem xét vật chứng, tài liệu tại phiên tòa. Khi xét hỏi,
Thẩm phán hỏi trước sau đó đến Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa. Bị
cáo, người tham gia tố tụng khác có quyền yêu cầu xét hỏi thêm về những vấn
đề chưa được làm rõ.
- Giai đoạn tranh luận: mở đầu giai đoạn tranh luận Kiểm sát viên
trình bày lời luận tội, sau đó người bào chữa (nếu có), bị cáo trình bày lời bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý
kiến để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Kiểm sát viên phải tham gia
đối đáp về những vấn đề còn mâu thuẫn giữa lời luận tội, quan điểm xử lý vụ
án của Kiểm sát viên với lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác. Trong trường hợp qua tranh luận mà phát hiện thêm những vấn đề
chưa được làm rõ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi, sau khi
xét hỏi xong lại trở lại phần tranh luận. Kết thúc phần tranh luận bị cáo được
trình bày "lời nói sau cùng".
- Giai đoạn nghị án và tuyên án: khi nghị án chỉ có thành viên Hội
đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm) mới có quyền này. Hội đồng xét xử phải
lần lượt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề của vụ án; các thành viên của
Hội đồng xét xử đều phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề của vụ án,
Hội thẩm phát biểu trước, Thẩm phán phát biểu sau và là người biểu quyết
sau cùng. Bản án, các quyết định của Hội đồng xét xử phải được đa số thành
22
viên của Hội đồng xét xử biểu quyết thông qua, người có ý kiến thiểu số được
bảo lưu ý kiến trong hồ sơ; việc nghị án phải được lập thành biên bản, bản án,
các quyết định của Hội đồng xét xử và biên bản nghị án phải được thông qua
tại phòng nghị án.
Sau khi nghị án xong Thư ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và người tham
gia tố tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét
xử đọc bản án.
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm
phải giao bản án cho bị cáo, VKS cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho
người bị xử vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn bản
cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú
hoặc làm việc. Trong thời hạn luật định (mười lăm ngày đối với kháng cáo và
kháng nghị của VKS cùng cấp, ba mươi ngày đối với kháng nghị của VKS
cáp trên) nếu bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo không kháng cáo, VKS
không kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu bản án sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc
thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. Bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa vào thi hành cũng là lúc quá
trình giải quyết vụ án kết thúc.
1.2.2. Những thủ tục cần lưu ý khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý
gây thương tích
Do đặc điểm của vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác mà những thông tin ban đầu về tội phạm phần lớn tập
trung chủ yếu từ tố giác của công dân (trực tiếp là từ người bị hại hoặc cha
mẹ, người giám hộ của những người này), hoặc tin báo từ cơ quan, tổ chức.
Đặc điểm của vụ án cố ý gây thương tích là luôn có người bị hại, tức là người
bị hành vi gây thương tích tác động đến gây nên thương tích hoặc tổn hại cho
23
sức khỏe của họ. Bên cạnh đó khoản 1 Điều 104 BLHS về tội cố ý gây thương
tích thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên đơn tố giác,
đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại là người bị gây thương tích có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong giải quyết vụ án, nếu hành vi phạm tội của bị can
thuộc khoản 1 Điều 104 nhưng bị hại không có yêu cầu khởi tố thể hiện bằng
văn bản thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể khởi tố để có những
bước xử lý tiếp theo. Tuy nhiên, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại
phát sinh từ thời điểm nào? trước hay sau khi có kết luận giám định thương
tích?, đây cũng là một vấn đề cần được quy định rõ. Người bị hại chỉ được
yêu cầu khởi tố nếu vụ án thuộc khoản 1 Điều 104, tuy nhiên thời gian giám
định kéo dài một vài tháng, mà kết quả giám định lại được dùng làm căn cứ
xác định vụ án thuộc khoản nào? nếu người bị hại có yêu cầu nhưng CQĐT
không khởi tố thì vi phạm Điều 13 BLTTHS về trách nhiệm khởi tố và xử lý
vụ án hình sự:
Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các
biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm
tội. Như vậy, đối với bất kỳ vụ án hình sự nào, CQĐT, VKS, Tòa án trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều có trách nhiệm khởi tố vụ án và
áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội
ngay khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm [27, Điều 13].
Thực tế cho thấy, khi có dấu hiệu tội phạm cố ý gây thương tích, dù
đối tượng có sử dụng hung khí hay không, thương tích nặng hay nhẹ thì
CQĐT tại nhiều địa phương vẫn phải chứng minh người bị hại có yêu cầu
khởi tố và đồng ý đi giám định thương tích thì CQĐT mới ra quyết định khởi
tố vụ án. Bởi lẽ, trước khi chưa có kết luận giám định chính thức từ Cơ quan
chuyên môn về tỷ lệ tổn hại sức khỏe, khó có thể suy đoán thương tích mà
24
hành vi phạm tội gây ra trên cơ thể người bị hại là bao nhiêu phần trăm. Tóm
lại, khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là đặc điểm nổi bật trong hoạt động
khởi tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Từ đặc điểm nổi bật trên, việc chứng minh người bị hại có yêu
cầu khởi tố và có nguyện vọng giám định thương tích trước khi ra quyết định
khởi tố vụ án là một thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án đối với tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Hậu quả của thương tích là đối tượng chứng minh không thể thiếu khi
giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích. Đây là vấn đề quan trọng nhất
cần phải chứng minh trong vụ án này bởi lẽ xác định tỷ lệ thương tích có ý
nghĩa quan trọng trong việc định tội danh, tức là xác định người phạm tội có
phạm tội này hay không? Bên cạnh đó tỉ lệ thương tích còn có ý nghĩa quan
trọng trong việc truy tố xét xử người phạm tội ở khung nào của điều luật. Hay
nói cách khác tỉ lệ thương tật có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.
Chính vì lẽ đó, trong vụ án cố ý gây thương tích điều quan trọng nhất là cần
đưa người bị hại đi giám định thương tích. Giám định là biện pháp điều tra
được quy định tại Điều 155 BLTTHS, theo đó khi có những vấn đề cần được
xác định theo quy định tại khoản 3 Điều này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ
quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định, và nguyên nhân
chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao
động là vấn đề đầu tiên được liệt kê. Bản kết luận giám định thương tích sẽ là
nguồn chứng cứ quan trọng để chứng minh tội phạm.
Điều 64 BLTTHS quy định, chứng cứ là những gì có thật, được thu
thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, VKS và Tòa án
dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực
hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của
25
người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các
tài liệu, đồ vật khác. Như vậy, ngoài kết luận giám định, việc thu thập chứng
cứ để chứng minh trong các vụ án hình sự về cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người có liên quan trực tiếp đến hoạt động khám
nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, hỏi cung, lấy lời khai, đối chất...
Như chúng ta đã biết, vụ án cố ý gây thương tích là vụ án mà hiện
trường là một nét nổi bật, nơi xảy ra vụ án là hiện trường quan trọng nhất
trong vụ án này bởi lẽ nơi đó để lại các chứng cứ vật chất rất quan trọng trong
việc chứng minh tội phạm. Ví dụ như công cụ, phương tiện phạm tội, dấu vết
máu, lông, tóc, sợi, dấu vết cày xước khi ẩu đả lẫn nhau... Điều này sẽ là
chứng cứ quan trọng bậc nhất trong việc xác định thực tế xảy ra tại hiện
trường như thế nào, để từ đó dựng lại hiện trường, tái hiện lại hành vi phạm
tội của nghi can. Việc khám nghiệm hiện trường, thu thập các tài liệu chứng
cứ trong vụ án cố ý gây thương tích là rất quan trọng. Trong đó xác định được
hung khi gây án có một ý nghĩa quan trọng trong định tội và định khung hình
phạt. Ví dụ nếu bị can gây thương tích dưới 11% nhưng dùng hung khí nguy
hiểm thì sẽ bị khởi tố tại khoản 1 Điều 111 hoặc bị can gây thương tích dưới
21% nhưng dùng hung khí nguy hiểm thì bị truy tố khoản 2 Điều 111 BLHS.
Hoạt động hỏi cung bị can, đây là hoạt động rất quan trọng bởi lẽ nó
cung cấp thông tin một cách trực tiếp đặc biệt có ý nghĩa trong việc bị can
nhận tội. Bị can là người bị tình nghi trực tiếp thực hiện tội phạm chính vì vậy
họ có vai trò rất quan trọng trong vụ án, họ là người trực tiếp tham gia vào vụ
việc do đó, hỏi cung bị can thành công là một nguồn chứng cứ rất quan trọng.
Bên cạnh đó trong vụ án cố ý gây thương tích còn có người bị hại là người bị
gây thương tích và các người làm chứng (nếu có) chính vì vậy hoạt động lấy
26
lời khai của các đối tượng này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình chứng
minh. Người bị hại tham gia trực tiếp vào vụ việc chính vì vậy họ cũng biết
rất rõ các tình tiết của vụ án chính vì vậy lấy lời khai người bị hại trong vụ án
cố ý gây thương tích có một vai trò quan trọng trong việc chứng minh hành vi
phạm tội của bị can.
Các biên bản hoạt động điều tra như biên bản khám nghiệm hiện
trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản đối chất, nhận dạng, biên bản
xác minh, biên bản hỏi cung, ghi lời khai… của CQĐT cũng là nguồn chứng
cứ được thiết lập bởi các cơ quan tiến hành tố tụng và được lưu giữ trong hồ
sơ vụ án. Các biên bản trên được coi là chứng cứ khi chúng được lập theo
trình tự, qui định của BLTTHS với nội dung mang tính khách quan, liên quan
và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Ví dụ: CQĐT thu giữ
tại hiện trường vụ án 01 con dao nhọn dài 10 cm (có mô tả trong biên bản
khám nghiệm hiện trường và biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu) phù hợp với lời
khai của người bị hại, người làm chứng về hung khí gây án, phù hợp với kết
luận trong kết luận giám định về vật gây thương tích, do vậy sẽ là chứng cứ
quan trọng của vụ án.
Tóm lại, qua đặc điểm của tội cố ý gây thương tích, có thể rút ra một
số thủ tục cần đặc biệt lưu ý khi giải quyết vụ án bao gồm: thủ tục khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại, thủ tục giám định thương tích, khám nghiệm
hiện trường, thực nghiệm điều tra, hỏi cung, ghi lời khai, đối chất...
1.2.2.1. Trong khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thương tích
a. Thủ tục khởi tố vụ án theo yêu cầu người bị hại
Quyền năng của người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích rất lớn
(đặc biệt là khi chưa có đủ căn cứ chứng minh vụ án thuộc khoản nào), người
bị hại không những có quyền yêu cầu khởi tố để khởi động một quá trình tố
tụng mà còn có thể chấm dứt quá trình giải quyết vụ án bất cứ lúc nào trước
khi mở phiên tòa sơ thẩm nếu như họ không bị ép buộc, cưỡng bức:
27
Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước
ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Trong
trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Người
bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức [27, Điều 105].
Như vậy, thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích phụ thuộc
nhiều vào yêu cầu của người bị hại, vụ án có thể đình chỉ tại các giai đoạn tố
tụng khác nhau, chỉ cần người bị hại rút yêu cầu khởi tố và không bị ép buộc,
cưỡng bức. Tuy họ không có quyền yêu cầu khởi tố lại nhưng vô hình chung,
thủ tục khởi tố theo yêu cầu người bị hại cũng gây ra nhiều rắc rối cho các cơ
quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự đối với tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Ở nhiều vụ án, người
bị hại nhất quyết yêu cầu khởi tố nhưng lại không đi giám định thương tích
hoặc kéo dài thời hạn đi giám định thương tích để xác định tỷ lệ tổn hại sức
khỏe, hoặc có những hành vi phạm tội có dấu hiệu cấu thành tội phạm khoản
2 các điều luật được liệt kê tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS, mặc dù người bị
hại không có quyền yêu cầu khởi tố nhưng họ lại không hợp tác trong giám
định thương tích nên đã gây khó khăn cho công tác đấu tranh trong chống tội
phạm. Sau khi làm rõ và bắt giữ đối tượng về hành vi cố ý gây thương tích,
gây tổn hại sức khỏe cho người khác, không phải vụ án nào cũng xử lý
nghiêm được đối tượng gây án vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có
nguyên nhân là người bị hại từ chối giám định hay giám định lại thương tích.
Không có kết quả giám định hoặc giám định lại thương tích của người bị hại
thì việc truy tố đối tượng gây án sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu
tranh chống tội phạm.
28
Ví dụ 1: Vụ án "Cố ý gây thương tích" xảy ra ngày 27/8/2011 tại
khóm 5, phường 7, thành phố S, tỉnh S. Do mâu thuẫn trong việc tranh giành
địa bàn làm ăn với nhau, Trần Văn D (sinh năm 1985) dùng mã tấu chém
người bị hại là anh Lê Văn T (sinh năm 1988) liên tiếp 04 nhát với các vết
thương: 01 vết thương vành tai trái; 01 vết thương ở đầu vùng thái dương trái;
01 vết cẳng tay trái và 01 vết ở lưng phải. Khi ra viện, gia đình D đã thỏa
thuận bồi thường cho T số tiền 40 triệu nên T đã làm đơn xin bãi nại cho D và
làm đơn từ chối giám định. CQĐT đã nhiều lần mời T đến trụ sở làm việc và
đưa đi giám định nhưng T vẫn không chịu hợp tác với CQĐT mà cố tình lánh
mặt gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án.
Ví dụ 2: Vụ án "Cố ý gây thương tích" xảy ra ngày ngày 27/4/2010 tại
huyện T, tỉnh P. Chiều ngày 27/4/2010, Nguyễn Văn Tịnh cùng em ruột là
Nguyễn Minh Vương đến sân bóng chuyền thì gặp Hồ Văn Tân. Do có mâu
thuẫn từ trước nên hai bên cãi vã rồi xông vào đánh nhau; Tân bỏ chạy đến
nhà bạn là Trương Văn Vũ nói bị anh em Tịnh đuổi đánh nên nhờ Vũ dẫn về.
Khi Vũ dẫn Tân đi được khoảng 100m thì gặp anh em Tịnh và Nguyễn Văn
Trung. Tân chỉ tay nói có giỏi thì đánh tao nữa đi. Nghe vậy, Tịnh cùng
Vương, Trung chạy đến thì Tân và Vũ bỏ chạy. Vũ chạy vào một nhà ở gần
đó lấy 01 con dao chạy ra. Thấy Vũ cầm dao, Trung dùng ghế nhựa ném. Vũ
cầm dao xông vào chém Tịnh trúng mặt và tay trái. Ngày 28/4/2010, Trung
tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Tịnh là 19% nhưng cuối bản
giám định có ghi thêm: "Nạn nhân đang trong thời gian còn điều trị, do đó
chúng tôi chỉ đánh giá tạm thời. Kính đề nghị CQĐT Công an huyện T trưng
cầu giám định bổ sung sau khi đã điều trị ổn định". Ngày 01/6/2010 CQĐT đã
trưng cầu giám định bổ sung đối với Nguyễn Văn Tịnh. Ngày 11/6/2010,
Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Nguyễn Văn Tịnh là
13%. Trên cơ sở đó, VKSND huyện T đã truy tố Vũ về tội "Cố ý gây thương
29
tích" theo quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS (dùng hung khí nguy hiểm).
Ngày 13/01/2011, TAND huyện T đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghị án, Hội
đồng xét xử đã quyết định trưng cầu giám định lại đối với người bị hại. Kết
quả giám định lại, tỷ lệ thương tích của bị hại giảm xuống còn 09%. Tuy
nhiên, người bị hại đã có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo trước ngày
mở phiên tòa nên Hội đồng xét xử đã căn cứ vào khoản 2 Điều 105 BLTTHS
ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì cho rằng Tòa án trưng cầu giám định không
đúng quy định của BLTTHS (không triệu tập người giám định tham gia tố
tụng mà căn cứ khoản 5 Điều 215 BLTTHS để ra quyết định trưng cầu giám
định lại là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) nên VKSND tỉnh P đã kháng
nghị Quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án huyện T. TAND tỉnh P chấp nhận
kháng nghị của VKSND tỉnh P, hủy quyết định đình chỉ vụ án của TAND
huyện T để điều tra lại. Quá trình điều tra lại, do người bị hại từ chối giám
định lại và sau đó bị hại đã không có mặt ở địa phương nên việc giám định
chưa thể tiến hành được, đã ảnh hưởng đến việc điều tra, giải quyết vụ án.
Thông thường, để khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, cơ
quan tiến hành tố tụng phải làm những thủ tục sau: tiếp nhận tố giác của công
dân, xác minh yêu cầu khởi tố của người bị hại, xem xét nguyện vọng giám
định thương tích của người bị hại, hướng dẫn người bị hại viết đơn yêu cầu
khởi tố và đồng ý giám định thương tích; ghi lời khai người bị hại về việc yêu
cầu khởi tố là tự nguyện, không bị cưỡng bức, ép buộc... khi người bị hại
muốn rút đơn yêu cầu khởi tố và thể hiện muốn hòa giải, cơ quan tiến hành tố
tụng phải hướng dẫn người bị hại viết đơn xin rút yêu cầu khởi tố, miễn truy
cứu TNHS và lại phải xác minh yêu cầu đó tự nguyện hay không, sau đó lập
biên bản hòa giải bồi thường dân sự (nếu có) hoặc hướng dẫn người bị hại
giải quyết theo thủ tục dân sự về yêu cầu bồi thường của mình... Nếu người bị
hại là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tinh thần, thể chất,
30
cơ quan tiến hành tố tụng phải mời người đại diện hợp pháp ký xác nhận vào
đơn yêu cầu, lời khai của người bị hại hoặc trực tiếp viết đơn, lấy lời khai
trong trường hợp bị hại là người có nhược điểm về tinh thần, thể chất.
Khi vụ án có dấu hiệu tại khoản 2, 3, 4 Điều 104 nhưng người bị hại
nhất quyết không đi giám định thương tích, CQĐT chỉ có thể động viên
thuyết phục chứ không thể cưỡng chế do luật chưa quy định nghĩa vụ của
người bị hại trong những trường hợp như vậy.
b. Thủ tục giám định thương tích
Như đã phân tích ở trên, hậu quả thương tích gây ra cho người bị hại
là yêu cầu bắt buộc nên khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích,
một thủ tục quan trọng, cần thiết phải tiến hành sớm là ra quyết định trưng
cầu giám định thương tích. Tuy nhiên, Luật không quy định thời điểm cụ thể
phải ban hành quyết định trưng cầu giám định và trách nhiệm, chế tài đối với
người bị hại trong trường hợp không đi giám định hoặc người tiến hành tố
tụng chậm làm thủ tục giám định. Khoản 3 của Điều 155 BLTTHS mới chỉ
quy định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao
động là trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Do đó, thời điểm ban
hành quyết định trưng cầu giám định không thống nhất mà tùy tình hình của
từng địa phương, từng vụ việc. Quyết định trưng cầu giám định thương tích
có thể ban hành trước khi ra quyết định khởi tố vụ án hoặc sau khi có quyết
định khởi tố vụ án. Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS, Quyết định trưng
cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được
trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và
nghĩa vụ của người giám định.
Theo Luật giám định tư pháp hiện nay cơ quan có thẩm quyền giám
định thương tích cơ quan giám định pháp y y tế [28]. Tuy nhiên Luật cũng
không quy định rõ thời gian phải trả lời quyết định trưng cầu giám định nên
31
nhiều trường hợp cơ quan giám định chậm gửi quyết định giám định cho
CQĐT từ đó làm chậm quá trình giải quyết vụ án.
Trên thực tế, khi giải quyết vụ án cố ý gây thương tích, CQĐT chủ yếu
là đơn vị tiến hành thủ tục trưng cầu giám định, thường làm những thủ tục sau:
(1) Điều tra viên tiến hành xác minh thương tích ban đầu của người bị
hại tại bệnh viện nơi người đó cấp cứu, khám và điều trị (biên bản xác minh
thương tích ban đầu phải có dấu, chữ ký của bác sĩ trực tiếp cấp cứu, khám và
điều trị cho người bị hại);
(2) Điều tra viên thu thập giấy chứng thương và hồ sơ bệnh án của
người bị hại (giấy chứng thương phải có xác nhận của Lãnh đạo bệnh viện,
hồ sơ bệnh án phải thể hiện rõ tình hình thương tích và quá trình chữa trị
vết thương);
(3) Điều tra viên đề nghị thủ trưởng (phó thủ trưởng) CQĐT ra quyết
định trưng cầu giám định;
(4) Tùy từng đơn vị, ĐTV có thể viết phiếu cho người bị hại tự mình
đến cơ quan giám định để tiến hành giám định hoặc Điều tra viên đưa người
bị hại đến cơ quan giám định.
Tóm lại, việc giám định nhanh chóng hay không phụ thuộc vào trách
nhiệm của Điều tra viên, sự hợp tác của bị hại và trách nhiệm của cơ quan
giám định pháp y.
c. Hoạt động thu thập chứng cứ khác
Theo số liệu thống kê của VKS thành phố Hà Nội, trong năm 2014,
CQĐT Công an thành phố Hà Nội đã khởi tố 413 vụ án cố ý gây thương tích.
Nhờ đề cao hoạt động khám nghiệm hiện trường, 100% số vụ đều có sự tham
gia của CQĐT và VKS làm công tác khám nghiệm nên đã phát hiện, thu giữ
được nhiều chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa chứng minh tội phạm và người
phạm tội. Trong số 413 vụ, có trên 200 vụ cần thực nghiệm điều tra, gần 50
32
vụ cần đối chất, gần 300 vụ VKS tham gia phúc cung để thu thập và củng cố
chứng cứ... điều đó cho thấy, không chỉ hoạt động khám nghiệm hiện trường
cần được chú trọng mà hoạt động thực nghiệm điều tra và kỹ năng hỏi cung,
ghi lời khai, đối chất cũng vô cùng cần thiết khi giải quyết vụ án đối với tội cố
ý gây thương tích.
Cơ quan điều tra phải tiến hành khám nghiệm hiện trường thật tỉ mỉ,
cụ thể, chi tiết, không được bỏ qua bất cứ một dấu vết liên quan đến hành vi
phạm tội (như vết máu, lông tóc, mảnh vỡ của hung khí...). Điều tra viên bắt
buộc phải chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu
lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến
vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trách
nhiệm của VKS trong hoạt động này cũng cần được nêu cao. Theo khoản 2
Điều 150 BLTTHS trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm,
Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có
mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có
người chứng kiến; có thể để cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời
nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm. Việc khám nghiệm hiện trường
vụ án gây thương tích đầy đủ, cụ thể, tỉ mỉ sẽ giúp CQĐT, VKS bước đầu
hình dung về cách thức thực hiện hành vi phạm tội, phương tiện phạm tội, số
người tham gia, đồng thời qua đó có thể xây dựng hướng điều tra chính xác,
không mất nhiều thời gian, công sức.
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, CQĐT lập các biên bản sau
đây: biên bản khám nghiệm hiện trường theo mẫu số 19, biên bản thu giữ đồ
vật, tài liệu (nếu có) theo mẫu số 10, ban hành kèm theo QĐ số 789/2007/QĐ-
BCA ngày 12/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an. Kèm theo việc khám
nghiệm hiện trường, CQĐT phải vẽ sơ đồ hiện trường vụ án để xác định rõ
địa điểm phạm tội hoặc địa điểm phát hiện tội phạm.
33
Thực nghiệm điều tra là hoạt động điều tra dựng lại hiện trường, diễn
lại mộ hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác của một sự việc nhất định nhàm
kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án
trong điều kiện tương tự như lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người bị
hại, người làm chứng, CQĐT tiến hành thực nghiệm điều tra bằng cách cho
dựng lại hiện trường, diễn lại một hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác
của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết
như thực nghiệm về khả năng hành động, khả năng quan sát, thụ cảm, khả
năng diễn ra sự việc tại hiện trường. Trước khi tiến hành thực nghiệm, điều
tra viên phải lập kế hoạch thực nghiệm, trong đó xác định yêu cầu của việc
thực nghiệm; nội dung, phương pháp tiến hành thực nghiệm; thời gian, địa
điểm thực nghiệm, những người tham gia thực nghiệm và chuẩn bị những
phương tiện cần thiết cho việc thực nghiệm. Điều 53 BLTTHS quy định phải
có người chứng kiến tham gia khi tiến hành thực nghiệm, Trong trường hợp
cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể
tham gia. Khi tiến hành thực nghiệm nếu thấy cần, điều tra viên có thể đo đạc,
chụp ảnh, vẽ sơ đồ để xác định hiện trường, xác định cơ chế hình thành
thương tích, xác định bị can tham gia, công cụ, phương tiện. Điều tra viên
không được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, gây ảnh hưởng đến sức khỏe
của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều
tra phải lập biên bản theo mẫu số 18, ban hành kèm theo Quyết định số
789/2007/QĐ-BCA ngày 12/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an.
Để đảm bảo giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách chính xác, nhanh chóng, cần
tiến hành các hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm
điều tra, giám định thương tích, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
34
chứng, người bị hại... một cách đồng bộ để chứng minh tội phạm. Bởi lẽ, tội
cố ý gây thương tích là tội phạm có tính chất phức tạp. Nhất là các vụ có đông
đối tượng tham gia, hiện trường không thể hiện rõ ràng, không thu giữ được
hung khí gây án...
Hoạt động hỏi cung, lấy lời khai trong các vụ án cố ý gây thương tích
cũng quan trọng và nếu làm đúng quy định, trình tự và có kỹ năng sẽ đạt hiệu
quả cao trong chứng minh hành vi phạm tội. Các bị can trong một số vụán cố
ý gây thương tích , có thể lúc nhận tội , lúc không nhận tội hoặc phản cung .
Khi bi ̣can nhâ ̣n tô ̣i, Điều tra viên và Kiểm sát viên không được thỏa mãn với
viê ̣c đã nhâ ̣n tội này của bi ̣can . Đối với trườ ng hợp này , Điều tra viên phải
hỏi kỹ, hỏi chi tiết về hành vi phạm tội của bị can theo các nội dung như hỏi
cung đối với các bi ̣can đã thành khẩn khai báo nhâ ̣n tội , để đề phòng sau này
bị can phản cung cho là bị Điều t ra viên ép cung… Khi hỏi cung các đối
tượng này, Kiểm sát viên , Điều tra viên cần mời Luâ ̣t sư tham gia bào chữa
cho bi ̣can cùng tham gia hỏi cung.
Đối với các bị can giữ vai trò chủ mưu , cầm đầu trong vụán c ố ý gây
thương tích, thông thường các bi ̣can này trong quá trình điều tra không nhâ ̣n
tội hoă ̣c khai nhâ ̣n rất nhỏ giọt , có tài liệu, chứ ng cứ đến đâu khai nhâ ̣n đến
đó; do đó , giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp chă ̣t chẽ khi
nghiên cứ u hồ sơ vụán, chuẩn bi ̣đưa ra các tài liê ̣u, chứ ng cứ buộc tô ̣i để đấu
tranh với bi ̣can . Trường hợp đã đưa ra các l ời khai nhân chứ ng , tang vâ ̣t
chứ ng trong buổi hỏi cung mà bi ̣can vẫn không nhâ ̣n tội thì trước khi đối chất
đề phòng trường hợp các bị can đã khai nhận tại Cơ quan điều tra nhưng sau
đó la ̣i phản cung , không nhâ ̣n tô ̣i . Khi gă ̣p các đối tượng này , thì Điều tra
viên, Kiểm sát viên cần thuyết phục , đô ̣ng viên để các đối tượng này tiế p tục
khai nhâ ̣n tội. Cần cách ly các bị can trong cùng một vụ án , nhất là các bi ̣can
có quyền lợi, nghĩa vụ đối lập nhau, những bi ̣can là nhân chứ ng… thực hiê ̣n
được như vâ ̣y mới đảm bảo viê ̣c hỏi cung bi ̣can đa ̣t yêu cầu.
35
Đối tượng tội phạm tác động đến trong vụ án hình sự về tội cố ý gây
thương tích thường liên quan đến nhân thân của người bị hại. Vì vậy, khi có
tội phạm xảy không chỉ gây căm phẫn trong xã hội, mà còn ảnh hưởng trực
tiếp đến quá trình sinh hoạt, của người bị hại. Việc tiến hành các biện pháp
điều tra như lấy lời khai, trưng cầu giám định, xem xét dấu vết trên thân thể
v.v… bên cạnh yêu cầu đảm bảo tính khẩn trương, khách quan cũng cần thiết
phải có sự khéo léo, thận trọng và đặc biệt là việc tiến hành phải được thực
hiện một cách nhẹ nhàng, tránh gây dư luận "ầm ĩ" trong xã hội.
Việc phát hiện và thu thập chứng cứ trong vụ án cố ý gây thương tích
thường gặp nhiều khó khăn do nguồn chứng cứ và nội dung thông tin bị hạn
chế. Khi tiến hành hoạt động điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải trực
tiếp lấy lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng để có cái nhìn tổng
thể và khách quan về vụ việc. Việc lấy lời khai này cần được tiến hành trong
cùng một giai đoạn ngắn để có thể đánh giá tính chính xác trong lời khai của
từng đối tượng đặc biệt là tìm được những mâu thuẫn trong khai báo của các
đối tượng này. Bên cạnh đó cũng cần có hoạt động giám sát, quản lý di biến
động, tiếp xúc của người bị hại và người làm chứng. Bởi vì trong một số vụ
án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà đối
tượng phạm tội là đối tượng có thành phần bất hảo, thuộc đối tượng xã hội
đen thường có hành vi dùng đồng bọn của mình để đe dọa, cưỡng bức người
bị hại và người làm chứng khai theo hướng có lợi cho chúng hoặc ép buộc
người bị hại làm đơn xin miễn truy tố đối với bị can. Điều này làm ảnh hưởng
đến quá trình điều tra, làm người làm chứng, người bị hại vì sợ sệt mà không
dám khai sự thật. Người bị hại là người trực tiếp bị xâm hại tới sức khỏe do
hành vi phạm tội gây ra, có thể cần một thời gian điều trị thương tích. CQĐT
cần đặc biệt lưu ý đến thời điểm người bị hại hồi phục để nhanh chóng thu
thập lời khai củng cố chứng cứ của vụ án. Ngoài ra, hành vi gây thương tích
36
có thể diễn ra rất nhanh, do vậy khi lấy lời khai người làm chứng cần hỏi rõ
về những tình tiết người làm chứng đã chứng kiến, đánh giá độ tin cậy, chắc
chắn trong lời khai… Hoạt động đối chất cũng cần được cân nhắc kỹ trước
khi tiến hành, do hình thức đối chất là mặt đối mặt sẽ khiến người được đưa ra
đối chất sợ bị trả thù (ví dụ đối chất giữa bị can và người làm chứng) nên
trước khi tiến hành CQĐT, VKS cần cân nhắc giữa hiệu quả và hậu quả của
hoạt động này.
1.2.2.2. Hoạt động truy tố trong các vụ án cố ý gây thương tích
Việc truy tố trong các vụ án cố ý gây thương tích có ý nghĩa quan
trọng bởi lẽ đây là giai đoạn VKSND thực hiện quyền công tố Nhà nước đối
với người phạm tội. Trong các vụ án cố ý gây thương tích ở giai đoạn truy tố
Kiểm sát viên cần chú trọng những hoạt động sau:
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án cố ý gây thương tích do CQĐT gửi sang và
xác định các tình tiết của vụ án. Trong đó kiểm tra chặt chẽ các chứng cứ, tài
liệu để làm căn cứ cho việc truy tố. Đặc biệt chú ý đến hồ sơ đã có đơn yêu
cầu khởi tố của người bị hại hay chưa, các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ
chưa. Ví dụ như thu thập về công cụ, phương tiện phạm tội, đã xác định được
chưa, có thu giữ được không? Quyết định trưng cầu giám định, kết luận giám
định về thương tích của bị hại có chính xác không để làm căn cứ truy tố bị can
theo khoản nào của BLHS.
- Tiến hành các hoạt động điều tra, xác minh bổ sung để làm căn cứ
truy tố. Trong giai đoạn này VKSND được quyền ra quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung khi có các căn cứ quy định của BLTTHS mà không thể bổ
sung được trong giai đoạn truy tố. Quyết định này cần phải gửi kịp thời cho
CQĐT cùng cấp để thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, bên cạnh
đó VKSND trong giai đoạn này vẫn có thể tiến hành một số hoạt động điều
tra để xác minh sự việc như thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can, lấy lời khai
37
người làm chứng, người bị hại, đối chất... Các hoạt động này nhằm thu thập
chứng cứ bổ sung để khắc phục những thiếu sót của chứng cứ đã có trong giai
đoạn điều tra, từ đó có thể quyết định việc truy tố một cách chính xác.
- Quyết định trung tâm trong giai đoạn truy tố tội cố ý gây thương tích
là bản cáo trạng. Thể hiện quyền công tố của Nhà nước đối với người phạm
tội cố ý gây thương tích. Trong bản cáo trạng của vụ án cố ý gây thương tích
cần phải thể hiện được các nội dung cơ bản liên quan đến tình tiết gây thương
tích của bị can, nội dung sự việc, vai trò của các bị can trong việc gây thương
tích, công cụ, phương tiện gây thương tích của các bị can. Các tài liệu chứng
cứ khác phục vụ cho việc chứng minh hành vi phạm tội của bị can.
1.2.2.3. Hoạt động xét xử vụ án cố ý gây thương tích
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án cố ý gây thương tích, Tòa án
cần nghiên cứu về hồ sơ vụ án và bản cáo trạng do VKSND cùng cấp gửi để
xác định căn cứ có đưa vụ án ra xét xử hay không hay trả hồ sơ để điều tra bổ
sung, định chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Hoạt động nghiên cứu trên là sự đánh
giá tổng hợp các vấn đề liên quan đến chứng cứ và chứng minh của vụ án cố ý
gây thương tích để ra quyết định phù hợp với từng trường hợp.
Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi xét xử, Tòa án phải triệu tập
người bị hại có mặt để tham gia tố tụng tại phiên tòa. Trong vụ án hình sự về
tội cố ý gây thương tích, việc triệu tập người bị hại đến tòa mang tính chất bắt
buộc bởi lẽ đây là thành phần tham gia tố tụng quan trọng trong vụ án để có
thể xét hỏi công khai tại phiên tòa từ đó đi đến một bản án chính xác. Tuy
nhiên khi xác định triệu tập bị hại cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý, hoàn
cảnh của người bị hại để có quyết định mang tính hợp tình, hợp lý. Trong quá
trình xét xử, việc hỏi bị cáo và người bị hại cần được tiến hành lần lượt, chốt
được vấn đề nào của từng đối tượng thì mới hỏi đến đối tượng khác. Nếu cần
có thể đối chất công khai tại phiên tòa để bị cáo không thể chối cãi. Hoạt động
này cũng có thể áp dụng đối với người làm chứng.
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT
Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khácTình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
Tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến người khác
 
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khácTội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
 
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luậtLuận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
Luận văn: Các tội cố ý gây thương tích cho người khác theo luật
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp lu...
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp lu...Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp lu...
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác thì pháp lu...
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội hành hạ người khác trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOTĐề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Tội môi giới mại dâm trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tội cố ý gây thương tích theo pháp luật tại Bắc Ninh - Gửi miễn phí...
 
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAYĐề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
Đề tài: Tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOTPhòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnhTội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Tội phạm thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội “Làm nhục người khác” theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụLuận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
Luận văn: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ
 
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội giết người trong pháp luật hình sự Việt Nam, HAY
 

Similar to Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT

Similar to Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT (20)

Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTLuận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Luận văn: Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con ngườiTrách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội không chấp hành án theo luật hình sự, HAY
 
Kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án cố ý gây thương tích cho người khác
Kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án cố ý gây thương tích cho người khácKiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án cố ý gây thương tích cho người khác
Kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án cố ý gây thương tích cho người khác
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đLuận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
Luận văn: Quy định của pháp luật về tội xâm hại tình dục trẻ em, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đángLuận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Luận văn: Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOTĐề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
Đề tài: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con ngườiLuận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
Luận văn: Hình phạt đối với tội phạm xâm phạm sức khỏe của con người
 
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

Đề tài: Thủ tục giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THU HƢƠNG THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô ¸N §èI VíI TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn huyÖn Tõ Liªm, thµnh phè Hµ Néi) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THU HƢƠNG THñ TôC GI¶I QUYÕT Vô ¸N §èI VíI TéI Cè ý G¢Y TH¦¥NG TÝCH HOÆC G¢Y TæN H¹I CHO SøC KHáE CñA NG¦êI KH¸C (trªn c¬ së nghiªn cøu thùc tiÔn ®Þa bµn huyÖn Tõ Liªm, thµnh phè Hµ Néi) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS BẠCH THÀNH ĐỊNH HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Thu Hƣơng
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC........................................... 9 1.1. Khái niệm..........................................................................................9 1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác............................11 1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự......................................................11 1.2.2. Những thủ tục cần lưu ý khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích.................................................................................22 Kết luận chƣơng 1 .........................................................................................38 Chƣơng 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TỪ LIÊM HÀ NỘI......................40 2.1. Thực tiễn giải quyết các vụ việc cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác.....................................40 2.1.1. Những kết quả đạt được trong giải quyết các vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............40 2.1.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được.......................................45 2.2. Những tồn tại, hạn chế trong thủ tục giải quyết các vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác và nguyên nhân................................................................................48 2.2.1. Những tồn tại, hạn chế .....................................................................48
  • 5. 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.........................................64 Kết luận chƣơng 2 .........................................................................................68 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC............................70 3.1. Quan điểm về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết đối với vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ..................................................70 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác ......................................................................................72 3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết đối với vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác................................................................................81 3.3.1. Hoàn thiện quy định về điều tra vụ án hình sự ................................81 3.3.2. Hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giải quyết vụ án hình sự..........................................................86 3.3.3. Hoàn thiện một số quy định khác có liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...........................................................93 3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thủ tục giải quyết đối với vụ án cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác.......................................................................................97 3.4.1. Nâng cao hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra..........................97 3.4.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động truy tố của Viện kiểm sát ...............100 3.4.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án ...........................102 Kết luận chƣơng 3 .......................................................................................106 KẾT LUẬN..................................................................................................107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109 PHỤ LỤC.....................................................................................................113
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: So sánh tình hình tội cố ý gây thương tích với tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Từ Liêm 113 Bảng 2.2: Một số tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm có tính phổ biến trong xã hội 113 Bảng 2.3: Tình hình khởi tố, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm 114 Bảng 2.4: Tình hình xét xử tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm 114
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngay từ ngày lập nước, nhà nước ta rất chú trọng bảo vệ quyền con người. Các tội xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của con người được quy định sớm trong luật hình sự nước ta. Trong đó tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác {Điều 104 Bộ luật hình sự (BLHS)} những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Hậu quả gây ra rất lớn, không chỉ người bị hại bị xâm hại nghiêm trọng tới sức khỏe do hành vi phạm tội gây ra mà còn làm mất an ninh, trật tự của xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt, khi nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mặt trái của cơ chế thị trường như xuất hiện trên mạng internet phim ảnh bạo lực, các trò chơi điện tử… tác động đến tình hình tội phạm, tội cố ý gây thương tích có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng trẻ hóa, liều lĩnh, coi thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày một nhiều hơn các loại vũ khí nguy hiểm… Nhiều vụ cố ý gây thương tích có quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự ở Thủ đô. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý gây thương tích trong thời gian qua của nước ta tuy đã được các cấp, các ngành, các cơ quan tư pháp chú trọng nhưng do những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan kết quả đạt được chưa thực sự như mong muốn, một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã phát sinh một số vướng mắc ảnh hưởng đến việc áp dụng chế tài hạn chế sức răn đe, giáo dục, trừng phạt người phạm tội cũng như phòng ngừa chung.
  • 9. 2 Qua nghiên cứu thực hiện các thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở huyện Từ Liêm (nay là hai quận Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm)... là địa bàn có tốc độ đô thị hóa nhanh, nhiều khu dân cư mới, các trường đại học, khu công nghiệp… được xây dựng và phát triển. Bên cạnh đó công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự và tình hình tội phạm đặc biệt là tội cố ý gây thương tích diễn ra phức tạp; công tác giải quyết của các lực lượng chức năng còn nhiều bất cập, việc tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố về tội cố ý gây thương tích còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều vụ cố ý gây thương tích xảy ra do mâu thuẫn cá nhân nhưng Cơ quan điều tra (CQĐT) không nắm được tình hình, trong đó rất nhiều vụ đủ yếu tố cấu thành tội phạm nhưng khó tiến hành hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra tội cố ý gây thương tích hiện cũng còn nhiều bất cập, công tác khám nghiệm hiện trường còn chưa thực sự đạt yêu cầu, bỏ sót nhiều dấu vết hoặc vật chứng quan trọng, nhất là trong các vụ cố ý gây thương tích có nhiều đối tượng tham gia. Bên cạnh đó trong tội phạm này hoạt động giám định thương tích là yêu cầu bắt buộc tuy nhiên công tác giám định trong thời gian qua còn nhiều vướng mắc do quy định của luật cũng như trên thực tiễn áp dụng, nhiều trường hợp không khởi tố được vì đương sự không đi giám định hoặc giám định lại nhiều lần cho các kết quả khác nhau dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng khó khăn trong giải quyết. Hoạt động xét xử đối với các vụ án cố ý gây thương tích cũng còn nhiều khó khăn, chủ yếu ở trong khâu xét hỏi tại phiên tòa, nhiều trường hợp các bị cáo phản cung, khai khác với lời khai tại CQĐT, một số vụ án cố ý gây thương tích xảy ra đông người, có đông các đối tượng côn đồ cộm cán tham gia nên thái độ chống đối rất quyết liệt. Tính chất xuyên suốt trong thủ tục giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích cần được quan tâm và giải quyết một cách triệt để.
  • 10. 3 Vì vậy, từ lý luận và thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này tác giả chọn đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ là: "Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội)" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, Luật gia nghiên cứu ở nhiều góc độ. Trên các sách, báo chí, tạp chí... cũng đã đề cập và có nhiều quan điểm tiếp cận với loại tội này trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đây là một trong những quyền cơ bản của công dân, đó là "Quyền bất khả xâm phạm về thân thể được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm", "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hạn cho sức khỏe của người khác" tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận "người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác đều bị xử lý theo pháp luật". Có nhiều tác giả quan tâm tới trách nhiệm hình sự (TNHS) của tội phạm này như Nguyễn Ngọc Hàn, Trần Văn Độ, tác giả Nguyễn Cường đã quan tâm đến lỗi cố ý, vấn đề khách thể trực tiếp; các tác giả Vũ Lập Thành, Nguyễn Văn Sơn, Nguyễn Quốc Hội tiến hành nghiên cứu những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS... Một số sách chuyên khảo đề cập đến việc áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân (TAND) trong hoạt động xét xử án hình sự, trong đó có đề cập đến việc xét xử các tội phạm hình sự nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng như: - GS. TSKH Đào Trí Úc, "Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1993. Tác giả đã đi sâu phân tích về áp dụng pháp luật và hoạt động xét xử của TAND.
  • 11. 4 - TS. Nguyễn Thị Hồi, "Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Tư pháp, năm 2009. - TSKH.Lê Cảm "Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung luật hình sự", Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2002. - ThS. Đinh Văn Quế "Tìm hiểu về tội phạm và hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Nxb Phương Đông, năm 2010. - ThS. Đinh Văn Quế "Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự những vấn đề lý luận và thực tiễn", Nxb Phương Đông, năm 2010. - TS. Dương Tuyết Miên "Định tội danh và quyết định hình phạt", Nxb Lao động - Xã hội, năm 2007. Ngoài ra, các tác giả như TS. Phùng Thế Vắc và TS. Trần Văn Luyện có công trình bình luận khoa học BLHS năm 1999 (phần các tội phạm) do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản trong đó có đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. TS. Phạm Văn Beo với "Luật hình sự Việt Nam" phân tích rất rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của loại tội này. Tác giả Đinh Văn Quế có công trình nghiên cứu là cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (bình luận chuyên sâu) phần các tội phạm, tập 1, do Nxb Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2002 đã đề cập đến tội phạm này... Về thủ tục giải quyết vụ án trong tố tụng hình sự cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu dưới các giác độ khác nhau. Có thể kể đến là các giáo trình Luật tố tụng hình sự của các cơ sở đào tạo luật như Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội. Về các thủ tục tố tụng đặc biệt cũng đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: Tác giả Đỗ Thị Phượng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội" Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Tác giả Nguyễn Văn Quảng với luận án tiến sĩ: "Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự Việt Nam",
  • 12. 5 tại Học viện Khoa học xã hội... Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ bài viết khoa học nói riêng về vấn đề thủ tục giải quyết vụ án hình sự. Các công trình trên là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả nghiên cứu hoàn thành đề tài. Các công trình trên nhìn chung đã nghiên cứu tương đối cơ bản về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới góc độ luật hình sự hoặc nghiên cứu về thủ tục giải quyết các vụ án hình sự nói chung mà chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu về thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đặc biệt là nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở số liệu thực tế của một đơn vị là huyện Từ Liêm Hà Nội (nay là quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm). Chính vì vậy, việc tác giả chọn đề tài: "Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội)" không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố và có ý nghĩa quan trọng cả lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ những thủ tục trong các giai đoạn giải quyết vụ án nói chung và đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành, trên sơ sở thực trạng thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trên địa bàn huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội luận văn sẽ chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại và những vướng mắc, đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện về mặt lý luận, đồng thời góp
  • 13. 6 phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội (nay là hai quận Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm). 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, quá trình nghiên cứu, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như sau: - Làm sáng rõ những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ án nói chung và thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác nói riêng. - Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn quá trình giải quyết vụ án tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế, nguyên nhân tồn tại và những vướng mắc trong áp dụng pháp luật về giải quyết vụ án đối với loại tội phạm này. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án, nâng cao khả năng áp dụng pháp luật trong thủ tục giải quyết các vụ án về tội cố ý gây thương tích nói chung và cụ thể nâng cao năng lực xử lý đối với tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tư pháp trên địa bàn huyện Từ Liêm nói riêng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn huyện Từ Liêm (nay là hai quận Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm). - Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là làm rõ trên phương diện lý luận các thủ tục giải quyết vụ án theo quy định của BLTTHS và BLHS hiện hành và
  • 14. 7 kết quả nghiên cứu thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác xảy ra từ năm 2010 đến 2014 tại địa bàn Từ Liêm, Hà Nội. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm; lý luận về tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp khảo sát, thống kê thực tế số liệu xét xử, phương pháp so sánh, tổng hợp, hỏi ý kiến chuyên gia để rút ra các kết luận khoa học của mình. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề thủ tục giải quyết đối với vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Những đóng góp mới của luận văn được thể hiện ở các điểm sau: - Luận văn đã phân tích được đầy đủ các vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết đối với vụ án hình sự nói chung và vụ án về tội cố ý gây thương tích nói riêng. Ngoài ra luận văn còn nghiên cứu về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... - Luận văn đã nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng quá trình giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm thành phố Hà Nội, từ đó rút ra đánh giá về những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án hình sự cũng như những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích của các cơ quan tố tụng huyện Từ Liêm. - Từ những sự phân tích, luận văn cũng đã chỉ rõ được nguyên nhân
  • 15. 8 của những tồn tại hạn chế đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo về mặt lý luận khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao khả năng thực thi pháp luật và các giải pháp phòng ngừa tội cố ý gây thương tích rút ra qua quá trình áp dụng trên thực tiễn làm cơ sở cho khoa học luật hình sự và Tố tụng hình sự nói chung và góp phần nâng cao chất lượng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích nói riêng. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về thủ tục giải quyết vụ án tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chương 2: Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích trên địa bàn huyện Từ Liêm. Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích.
  • 16. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI KHÁC 1.1. Khái niệm Thủ tục giải quyết vụ án hình sự là trình tự, biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm. Từ khái niệm thủ tục giải quyết vụ án hình sự có thể rút ra khái niệm: thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trình tự, biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng để phát hiện và xử lý tội phạm cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định chung trong tố tụng hình sự, theo trình tự như đối với các vụ án hình sự thông thường, và có mục đích cơ bản là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội cố ý gây thương tích, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Xét về hình thức, tố tụng hình sự được phân chia ra các giai đoạn khác nhau, bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử... Mỗi giai đoạn tố tụng có tính độc lập tương đối nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau; kết quả của giai đoạn sau là sự kiểm chứng tính đúng đắn của giai đoạn trước và các giai đoạn hợp thành một quy trình tố tụng hình sự. Gắn với mỗi giai đoạn là các hoạt động tố tụng do các chủ thể khác nhau tiến hành (Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), Tòa án) với sự tham gia của các chủ thể khác như bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng, người bào chữa, giám định, các cơ quan tổ
  • 17. 10 chức nhà nước, tổ chức xã hội… Ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, các chủ thể có nhiệm vụ và thẩm quyền khác nhau nhưng đều có một mục tiêu chung là xác định sự thật khách quan của sự kiện phạm tội đã xảy ra, nhằm chứng minh hành vi và chủ thể tội phạm. Trên cơ sở sự kiện phạm tội xảy ra, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để làm rõ: có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian; địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực TNHS hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của chủ thể và những đặc điểm về nhân thân của chủ thể; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [27, Điều 63]. Đó là những vấn đề mà cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh trong vụ án hình sự nói chung và vụ án cố ý gây thương tích nói riêng. Nhà nước xác định một hệ thống các biện pháp tố tụng để chứng minh và xử lý tội phạm. Hệ thống các biện pháp tố tụng, bao gồm: các biện pháp để phát hiện tội phạm (như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, khởi tố vụ án…); các biện pháp ngăn chặn tội phạm (như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú)… các biện pháp thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm (như lấy lời khai, thu giữ vật chứng, giám định…), các biện pháp xử lý tội phạm (như truy tố, xét xử). Các biện pháp này được thực hiện bởi các chủ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên không phải các sự kiện phạm tội xảy ra đều áp dụng tất cả các biện pháp tố tụng để giải quyết mà tùy thuộc tính chất, mức độ của sự kiện phạm tội để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng cho phù hợp, ví dụ: biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ đặt ra với các sự kiện phạm tội mà người thực hiện hành vi có mức nguy hại lớn, cần ngăn chặn người đó bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội mới… Ngoài ra, các biện pháp và trình tự tố tụng còn được hình
  • 18. 11 thành trên cơ sở tính chất của chủ thể, ví dụ: đối với các chủ thể là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì phải có một trình tự tố tụng đặc biệt để áp dụng đối với họ. 1.2. Thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác Như đã đề cập ở trên, thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định nhằm chứng minh một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà BLHS quy định phải chịu TNHS. Hay nói cách khác, để làm sáng tỏ thủ tục giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cũng là làm sáng tỏ các trình tự, biện pháp được áp dụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự thông thường, nhưng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có một số những điểm cần lưu ý theo từng giai đoạn do một số đặc điểm riêng của tội phạm này. 1.2.1. Thủ tục giải quyết vụ án hình sự 1.2.1.1. Giai đoạn khởi tố Theo Từ điển Luật học thì khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm [44, tr. 429]. Theo tác giả Lê Cảm thì giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành việc xác định có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho
  • 19. 12 xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ án (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó [5, tr. 26]. Do vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của trình tự giải quyết vụ án, có nhiệm vụ xác định một sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn được tiến hành trước các giai đoạn tố tụng tiếp theo như: điều tra, truy tố, xét xử... Do đó, giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội, lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết định đó là: quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự [7, tr. 64]. Tương tự như thế, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội có viết: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự [38, tr. 231]. Các quan điểm nêu trên tuy được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng đều thể hiện sự thống nhất đó là coi khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn khởi động quá trình tố tụng hình sự, có vai trò làm căn cứ pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn khởi tố, các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, tin báo, tố giác về tội phạm để từ đó có
  • 20. 13 khởi tố vụ án hình sự hay không. Việc khởi tố hay không khởi tố phải căn cứ vào quy định tại BLTTHS. Theo đó: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; 4. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; 5. Người phạm tội tự thú [27, Điều 100]. Trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự chủ yếu quy định cho CQĐT, còn tòa án và VKS chỉ có thẩm quyền khởi tố rất hạn chế. Khi tiếp nhận tin tức về tội phạm, cơ quan có thẩm quyền khởi tố phải xác định sự tồn tại của sự việc và đánh giá xem sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội phạm để quyết định việc có hay không khởi tố vụ án. Tại giai đoạn này, CQĐT phải làm những thủ tục sau: tiếp nhận thông tin về tội phạm (có thể là tin báo hoặc tố giác về tội phạm), qua đơn thư, công văn kiến nghị hoặc nêu trên phương tiện thông tin đại chúng thì phải tiếp nhận và vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Nếu cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tổ chức báo tin về tội phạm qua điện thoại, các phương tiện thông tin khác thì phải tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nếu là tin quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có thể ghi âm, ghi hình. Trường hợp người phạm tội đến tự thú thì phải lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú.
  • 21. 14 Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQĐT phải tiến hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng CQĐT phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản đến VKS cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm thì CQĐT ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 BLTTHS năm 2003, không phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố. Khi xác minh có dấu hiệu tội phạm, để có thể khởi tố vụ án, Thủ trưởng CQĐT ký quyết định phân công phó thủ trưởng CQĐT và điều tra viên điều tra vụ án. Sau đó, Phó Thủ trưởng CQĐT được phân công sẽ trực tiếp ký quyết định khởi tố vụ án. Nội dung của quyết định khởi tố vụ án hình sự phải bao gồm thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của BLHS được áp dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định. Quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra cần phải gửi đến VKS cùng cấp trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định. Điều này đảm bảo tính chặt chẽ và hợp pháp của quyết định khởi tố. Đảm bảo nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, tránh oan, sai trong khởi tố vụ án hình sự. Đồng thời cũng thể hiện quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND và CQĐT. Thực tế cho thấy, để soạn thảo quyết định khởi tố vụ án, cán bộ thụ lý chỉ cần khoảng thời gian rất ngắn nhưng để chứng minh có hay không hành vi phạm tội xảy ra, thời hạn phụ thuộc vào độ phức tạp của thông tin tội phạm. Ở
  • 22. 15 những vụ việc có đông đối tượng, khó xác định dấu hiệu phạm tội, CQĐT cần xác minh tại nhiều nơi, ghi lời khai của nhiều người, thời hạn có thể kéo dài hai tháng hoặc dài hơn. Những việc làm này không những xác định dấu hiệu phạm tội mà còn xác định rõ điều khoản của BLHS được áp dụng, thời gian phạm tội, địa điểm phạm tội (thể hiện qua việc lấy lời khai và vẽ sơ đồ hiện trường, khám nghiệm hiện trường nếu có), dùng làm căn cứ ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản tố tụng đánh dấu quá trình giải quyết vụ án bắt đầu chuyển sang giai đoạn điều tra. 1.2.1.2. Giai đoạn điều tra Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án [5, tr.24-29]. Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết,
  • 23. 16 thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn. Thầm quyền điều tra thuộc về CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền tiến hành các biện pháp điều tra. Trong giai đoạn này mối quan hệ giữa CQĐT và VKS thể hiện rõ nét. Trong giai đoạn điều tra vụ án, quyết định chiếm vị trí quan trọng đầu tiên là quyết định khởi tố bị can. Theo quy định của Điều 126 BLTTHS thì quyết định khởi tố bị can được ban hành khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Ở những vụ án đơn giản, Quyết định khởi tố bị can có thể được CQĐT ra cùng thời điểm với Quyết định khởi tố vụ án. Quyết định khởi tố bị can gồm các nội dung chủ yếu về thời gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố về tội gì, theo điều khoản nào của BLHS; thời gian, địa điểm phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm… Trong thời hạn 24h kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định này đến VKSND cùng cấp để xét việc phê chuẩn, và trong thời hạn 3 ngày VKSND cùng cấp phải ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can [27, Điều 126]. Các hoạt động của giai đoạn điều tra là hoạt động thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm. Theo quy định của BLTTHS trong giai đoạn điều tra, CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền tiến hành các biện pháp điều tra quy định như: hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể. Các hoạt động điều tra trên phải được tiến hành theo thủ tục được pháp luật quy
  • 24. 17 định và đặt dưới sự kiểm sát của VKS nhằm đảm bảo quá trình thu thập chứng cứ khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. VKS đề ra các yêu cầu điều tra giúp CQĐT điều tra đúng hướng. Khi cần thiết, VKS có thể tự mình tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm chứng minh tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra. Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm và bị can thì CQĐT làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra vụ án phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận, nội dung bản kết luận điều tra đề nghị truy tố sẽ trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ đề nghị truy tố. Nội dung bản kết luận điều tra để đình chỉ điều tra vụ án nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra. Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê về thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền, bồi thường và tịch thu tài sản, nếu có. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết luận điều tra, CQĐT phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra cho bị can, người bào chữa. Nếu giai đoạn điều tra vụ án kết thúc bằng việc CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, vụ án sẽ chuyển sang giai đoạn truy tố. 1.2.1.3. Giai đoạn truy tố Giai đoạn truy tố là giai đoạn tố tụng mà thẩm quyền chủ yếu thuộc về VKS, cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp có chức năng thực hành
  • 25. 18 quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có nghĩa là VKS nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội nghi can trước Tòa án để xét xử. Quyết định việc truy tố là giai đoạn thứ ba của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm đánh giá một cách toàn diện, khách quan các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và quyết định đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và trên cơ sở đó VKS ra quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng); Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự [5, tr. 26]. Giai đoạn truy tố thể hiện quyền công tố nhà nước của VKS đối với người phạm tội, bằng việc VKS truy tố tội phạm ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Trong giai đoạn truy tố Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án và Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS trong giai đoạn truy tố, để bổ sung chứng cứ, bổ sung những tài liệu khác cần thiết cho việc chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố chính xác, Kiểm sát viên có quyền tiến hành thực hiện một số hoạt động điều tra như hỏi cung, đối chất, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai... khi tiến hành các hoạt động điều tra này, Kiểm sát viên cũng phải tuân thủ các thủ tục đã được quy định trong BLTTHS. Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau đây: Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. VKS quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án khi có căn cứ nhất định quy định tại Điều 168, Điều 169 BLTTHS. Quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng là quyết định quan trọng
  • 26. 19 nhất. Bản cáo trạng là văn bản tố tụng do VKSND ban hành sau khi xác định được các yếu tố đủ để thực hiện việc truy tố đối với bị can. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ TNHS; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của BLHS được áp dụng. Sau khi ban hành bản cáo trạng trong thời hạn ba ngày VKSND phải gửi bản cáo trạng cho Tòa án cùng với hồ sơ vụ án. Kết thúc giai đoạn truy tố, vụ án chuyển sang giai đoạn xét xử. 1.2.1.4. Giai đoạn xét xử Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn thứ tư, trung tâm và quan trọng nhất của hoạt động tố tụng hình sự, mà trong đó cấp Tòa án có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành: 1) áp dụng các biện pháp chuẩn bị cho việc xét xử, 2) Đưa vụ án hình sự ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm để xem xét về thực chất vụ án, đồng thời trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai và dân chủ của hai bên (buộc tội và bào chữa) phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay không) của hành vi, có tội (hay không) của bị cáo (hoặc xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm đã được tuyên và chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm - nếu bản án hay quyết định đó bị kháng nghị) và cuối cùng, tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhằm giải quyết vấn đề TNHS một cách công minh và đúng pháp luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án hình sự (với quyết định truy tố bị can trước Tòa án kèm theo bản cáo
  • 27. 20 trạng) do VKS chuyển sang và kết thúc bằng một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Trong giai đoạn xét xử, nội dung quan trọng nhất là đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, áp dụng hình phạt chính xác đối với người phạm tội. Giai đoạn xét xử là giai đoạn kết thúc của quá trình tố tụng, kết thúc của quá trình chứng minh. Việc xét xử là kết quả của các hoạt động chứng minh trước đó ở giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Đồng thời xét xử có vị trí trung tâm nhất trong các giai đoạn tố tụng. Ở Việt Nam áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử, bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Nội dung của giai đoạn xét xử cần được tuân thủ chặt chẽ các quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, thành phần hội đồng xét xử, trình tự, thủ tục của phiên tòa xét xử vụ án hình sự... Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây: trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 179 BLTTHS), đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự (Điều 180 BLTTHS), quyết định đưa vụ án ra xét xử. Các quyết định tố tụng này dẫn đến các hậu quả pháp lý nhất định khác nhau. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là quyết định được ban hành khi xét thấy việc nghiên cứu hồ sơ vụ án đã đạt được điều kiện và thời gian cần thiết để đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ: Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề nghiệp, nơi cư trú của bị cáo; Tội danh và điều khoản của BLHS mà VKS áp dụng đối với hành vi của bị cáo; Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải tống đạt cho bị cáo chậm nhất mười ngày trước khi mở phiên tòa. Thủ tục của phiên tòa hình sự sơ thẩm bao gồm:
  • 28. 21 - Giai đoạn bắt đầu phiên tòa: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa làm các thủ tục cần thiết trước khi xét hỏi như: kiểm tra sự có mặt của những người tham gia tố tụng, giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng... - Giai đoạn xét hỏi: trước khi bắt đầu xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng, sau đó Hội đồng xét xử tiến hành xét hỏi làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, trực tiếp xem xét vật chứng, tài liệu tại phiên tòa. Khi xét hỏi, Thẩm phán hỏi trước sau đó đến Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác có quyền yêu cầu xét hỏi thêm về những vấn đề chưa được làm rõ. - Giai đoạn tranh luận: mở đầu giai đoạn tranh luận Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, sau đó người bào chữa (nếu có), bị cáo trình bày lời bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Kiểm sát viên phải tham gia đối đáp về những vấn đề còn mâu thuẫn giữa lời luận tội, quan điểm xử lý vụ án của Kiểm sát viên với lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp qua tranh luận mà phát hiện thêm những vấn đề chưa được làm rõ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi, sau khi xét hỏi xong lại trở lại phần tranh luận. Kết thúc phần tranh luận bị cáo được trình bày "lời nói sau cùng". - Giai đoạn nghị án và tuyên án: khi nghị án chỉ có thành viên Hội đồng xét xử (Thẩm phán, Hội thẩm) mới có quyền này. Hội đồng xét xử phải lần lượt thảo luận và biểu quyết từng vấn đề của vụ án; các thành viên của Hội đồng xét xử đều phải trình bày ý kiến của mình về các vấn đề của vụ án, Hội thẩm phát biểu trước, Thẩm phán phát biểu sau và là người biểu quyết sau cùng. Bản án, các quyết định của Hội đồng xét xử phải được đa số thành
  • 29. 22 viên của Hội đồng xét xử biểu quyết thông qua, người có ý kiến thiểu số được bảo lưu ý kiến trong hồ sơ; việc nghị án phải được lập thành biên bản, bản án, các quyết định của Hội đồng xét xử và biên bản nghị án phải được thông qua tại phòng nghị án. Sau khi nghị án xong Thư ký Tòa án yêu cầu các bị cáo và người tham gia tố tụng vào phòng xử án, sau đó Chủ tọa phiên tòa thay mặt Hội đồng xét xử đọc bản án. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, VKS cùng cấp, người bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc. Trong thời hạn luật định (mười lăm ngày đối với kháng cáo và kháng nghị của VKS cùng cấp, ba mươi ngày đối với kháng nghị của VKS cáp trên) nếu bị cáo hoặc người bào chữa của bị cáo không kháng cáo, VKS không kháng nghị thì bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được đưa vào thi hành cũng là lúc quá trình giải quyết vụ án kết thúc. 1.2.2. Những thủ tục cần lưu ý khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích Do đặc điểm của vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà những thông tin ban đầu về tội phạm phần lớn tập trung chủ yếu từ tố giác của công dân (trực tiếp là từ người bị hại hoặc cha mẹ, người giám hộ của những người này), hoặc tin báo từ cơ quan, tổ chức. Đặc điểm của vụ án cố ý gây thương tích là luôn có người bị hại, tức là người bị hành vi gây thương tích tác động đến gây nên thương tích hoặc tổn hại cho
  • 30. 23 sức khỏe của họ. Bên cạnh đó khoản 1 Điều 104 BLHS về tội cố ý gây thương tích thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên đơn tố giác, đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại là người bị gây thương tích có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giải quyết vụ án, nếu hành vi phạm tội của bị can thuộc khoản 1 Điều 104 nhưng bị hại không có yêu cầu khởi tố thể hiện bằng văn bản thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể khởi tố để có những bước xử lý tiếp theo. Tuy nhiên, quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bị hại phát sinh từ thời điểm nào? trước hay sau khi có kết luận giám định thương tích?, đây cũng là một vấn đề cần được quy định rõ. Người bị hại chỉ được yêu cầu khởi tố nếu vụ án thuộc khoản 1 Điều 104, tuy nhiên thời gian giám định kéo dài một vài tháng, mà kết quả giám định lại được dùng làm căn cứ xác định vụ án thuộc khoản nào? nếu người bị hại có yêu cầu nhưng CQĐT không khởi tố thì vi phạm Điều 13 BLTTHS về trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự: Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Như vậy, đối với bất kỳ vụ án hình sự nào, CQĐT, VKS, Tòa án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội ngay khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm [27, Điều 13]. Thực tế cho thấy, khi có dấu hiệu tội phạm cố ý gây thương tích, dù đối tượng có sử dụng hung khí hay không, thương tích nặng hay nhẹ thì CQĐT tại nhiều địa phương vẫn phải chứng minh người bị hại có yêu cầu khởi tố và đồng ý đi giám định thương tích thì CQĐT mới ra quyết định khởi tố vụ án. Bởi lẽ, trước khi chưa có kết luận giám định chính thức từ Cơ quan chuyên môn về tỷ lệ tổn hại sức khỏe, khó có thể suy đoán thương tích mà
  • 31. 24 hành vi phạm tội gây ra trên cơ thể người bị hại là bao nhiêu phần trăm. Tóm lại, khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là đặc điểm nổi bật trong hoạt động khởi tố đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Từ đặc điểm nổi bật trên, việc chứng minh người bị hại có yêu cầu khởi tố và có nguyện vọng giám định thương tích trước khi ra quyết định khởi tố vụ án là một thủ tục đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Hậu quả của thương tích là đối tượng chứng minh không thể thiếu khi giải quyết vụ án về tội cố ý gây thương tích. Đây là vấn đề quan trọng nhất cần phải chứng minh trong vụ án này bởi lẽ xác định tỷ lệ thương tích có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh, tức là xác định người phạm tội có phạm tội này hay không? Bên cạnh đó tỉ lệ thương tích còn có ý nghĩa quan trọng trong việc truy tố xét xử người phạm tội ở khung nào của điều luật. Hay nói cách khác tỉ lệ thương tật có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Chính vì lẽ đó, trong vụ án cố ý gây thương tích điều quan trọng nhất là cần đưa người bị hại đi giám định thương tích. Giám định là biện pháp điều tra được quy định tại Điều 155 BLTTHS, theo đó khi có những vấn đề cần được xác định theo quy định tại khoản 3 Điều này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định, và nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động là vấn đề đầu tiên được liệt kê. Bản kết luận giám định thương tích sẽ là nguồn chứng cứ quan trọng để chứng minh tội phạm. Điều 64 BLTTHS quy định, chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, VKS và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Chứng cứ được xác định bằng: vật chứng; lời khai của
  • 32. 25 người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Như vậy, ngoài kết luận giám định, việc thu thập chứng cứ để chứng minh trong các vụ án hình sự về cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người có liên quan trực tiếp đến hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, hỏi cung, lấy lời khai, đối chất... Như chúng ta đã biết, vụ án cố ý gây thương tích là vụ án mà hiện trường là một nét nổi bật, nơi xảy ra vụ án là hiện trường quan trọng nhất trong vụ án này bởi lẽ nơi đó để lại các chứng cứ vật chất rất quan trọng trong việc chứng minh tội phạm. Ví dụ như công cụ, phương tiện phạm tội, dấu vết máu, lông, tóc, sợi, dấu vết cày xước khi ẩu đả lẫn nhau... Điều này sẽ là chứng cứ quan trọng bậc nhất trong việc xác định thực tế xảy ra tại hiện trường như thế nào, để từ đó dựng lại hiện trường, tái hiện lại hành vi phạm tội của nghi can. Việc khám nghiệm hiện trường, thu thập các tài liệu chứng cứ trong vụ án cố ý gây thương tích là rất quan trọng. Trong đó xác định được hung khi gây án có một ý nghĩa quan trọng trong định tội và định khung hình phạt. Ví dụ nếu bị can gây thương tích dưới 11% nhưng dùng hung khí nguy hiểm thì sẽ bị khởi tố tại khoản 1 Điều 111 hoặc bị can gây thương tích dưới 21% nhưng dùng hung khí nguy hiểm thì bị truy tố khoản 2 Điều 111 BLHS. Hoạt động hỏi cung bị can, đây là hoạt động rất quan trọng bởi lẽ nó cung cấp thông tin một cách trực tiếp đặc biệt có ý nghĩa trong việc bị can nhận tội. Bị can là người bị tình nghi trực tiếp thực hiện tội phạm chính vì vậy họ có vai trò rất quan trọng trong vụ án, họ là người trực tiếp tham gia vào vụ việc do đó, hỏi cung bị can thành công là một nguồn chứng cứ rất quan trọng. Bên cạnh đó trong vụ án cố ý gây thương tích còn có người bị hại là người bị gây thương tích và các người làm chứng (nếu có) chính vì vậy hoạt động lấy
  • 33. 26 lời khai của các đối tượng này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình chứng minh. Người bị hại tham gia trực tiếp vào vụ việc chính vì vậy họ cũng biết rất rõ các tình tiết của vụ án chính vì vậy lấy lời khai người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích có một vai trò quan trọng trong việc chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Các biên bản hoạt động điều tra như biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm tử thi, biên bản đối chất, nhận dạng, biên bản xác minh, biên bản hỏi cung, ghi lời khai… của CQĐT cũng là nguồn chứng cứ được thiết lập bởi các cơ quan tiến hành tố tụng và được lưu giữ trong hồ sơ vụ án. Các biên bản trên được coi là chứng cứ khi chúng được lập theo trình tự, qui định của BLTTHS với nội dung mang tính khách quan, liên quan và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Ví dụ: CQĐT thu giữ tại hiện trường vụ án 01 con dao nhọn dài 10 cm (có mô tả trong biên bản khám nghiệm hiện trường và biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu) phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng về hung khí gây án, phù hợp với kết luận trong kết luận giám định về vật gây thương tích, do vậy sẽ là chứng cứ quan trọng của vụ án. Tóm lại, qua đặc điểm của tội cố ý gây thương tích, có thể rút ra một số thủ tục cần đặc biệt lưu ý khi giải quyết vụ án bao gồm: thủ tục khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, thủ tục giám định thương tích, khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, hỏi cung, ghi lời khai, đối chất... 1.2.2.1. Trong khởi tố, điều tra các vụ án cố ý gây thương tích a. Thủ tục khởi tố vụ án theo yêu cầu người bị hại Quyền năng của người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích rất lớn (đặc biệt là khi chưa có đủ căn cứ chứng minh vụ án thuộc khoản nào), người bị hại không những có quyền yêu cầu khởi tố để khởi động một quá trình tố tụng mà còn có thể chấm dứt quá trình giải quyết vụ án bất cứ lúc nào trước khi mở phiên tòa sơ thẩm nếu như họ không bị ép buộc, cưỡng bức:
  • 34. 27 Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ. Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức [27, Điều 105]. Như vậy, thủ tục giải quyết vụ án cố ý gây thương tích phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người bị hại, vụ án có thể đình chỉ tại các giai đoạn tố tụng khác nhau, chỉ cần người bị hại rút yêu cầu khởi tố và không bị ép buộc, cưỡng bức. Tuy họ không có quyền yêu cầu khởi tố lại nhưng vô hình chung, thủ tục khởi tố theo yêu cầu người bị hại cũng gây ra nhiều rắc rối cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án hình sự đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Ở nhiều vụ án, người bị hại nhất quyết yêu cầu khởi tố nhưng lại không đi giám định thương tích hoặc kéo dài thời hạn đi giám định thương tích để xác định tỷ lệ tổn hại sức khỏe, hoặc có những hành vi phạm tội có dấu hiệu cấu thành tội phạm khoản 2 các điều luật được liệt kê tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS, mặc dù người bị hại không có quyền yêu cầu khởi tố nhưng họ lại không hợp tác trong giám định thương tích nên đã gây khó khăn cho công tác đấu tranh trong chống tội phạm. Sau khi làm rõ và bắt giữ đối tượng về hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác, không phải vụ án nào cũng xử lý nghiêm được đối tượng gây án vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là người bị hại từ chối giám định hay giám định lại thương tích. Không có kết quả giám định hoặc giám định lại thương tích của người bị hại thì việc truy tố đối tượng gây án sẽ rất khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh chống tội phạm.
  • 35. 28 Ví dụ 1: Vụ án "Cố ý gây thương tích" xảy ra ngày 27/8/2011 tại khóm 5, phường 7, thành phố S, tỉnh S. Do mâu thuẫn trong việc tranh giành địa bàn làm ăn với nhau, Trần Văn D (sinh năm 1985) dùng mã tấu chém người bị hại là anh Lê Văn T (sinh năm 1988) liên tiếp 04 nhát với các vết thương: 01 vết thương vành tai trái; 01 vết thương ở đầu vùng thái dương trái; 01 vết cẳng tay trái và 01 vết ở lưng phải. Khi ra viện, gia đình D đã thỏa thuận bồi thường cho T số tiền 40 triệu nên T đã làm đơn xin bãi nại cho D và làm đơn từ chối giám định. CQĐT đã nhiều lần mời T đến trụ sở làm việc và đưa đi giám định nhưng T vẫn không chịu hợp tác với CQĐT mà cố tình lánh mặt gây khó khăn cho quá trình điều tra vụ án. Ví dụ 2: Vụ án "Cố ý gây thương tích" xảy ra ngày ngày 27/4/2010 tại huyện T, tỉnh P. Chiều ngày 27/4/2010, Nguyễn Văn Tịnh cùng em ruột là Nguyễn Minh Vương đến sân bóng chuyền thì gặp Hồ Văn Tân. Do có mâu thuẫn từ trước nên hai bên cãi vã rồi xông vào đánh nhau; Tân bỏ chạy đến nhà bạn là Trương Văn Vũ nói bị anh em Tịnh đuổi đánh nên nhờ Vũ dẫn về. Khi Vũ dẫn Tân đi được khoảng 100m thì gặp anh em Tịnh và Nguyễn Văn Trung. Tân chỉ tay nói có giỏi thì đánh tao nữa đi. Nghe vậy, Tịnh cùng Vương, Trung chạy đến thì Tân và Vũ bỏ chạy. Vũ chạy vào một nhà ở gần đó lấy 01 con dao chạy ra. Thấy Vũ cầm dao, Trung dùng ghế nhựa ném. Vũ cầm dao xông vào chém Tịnh trúng mặt và tay trái. Ngày 28/4/2010, Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Tịnh là 19% nhưng cuối bản giám định có ghi thêm: "Nạn nhân đang trong thời gian còn điều trị, do đó chúng tôi chỉ đánh giá tạm thời. Kính đề nghị CQĐT Công an huyện T trưng cầu giám định bổ sung sau khi đã điều trị ổn định". Ngày 01/6/2010 CQĐT đã trưng cầu giám định bổ sung đối với Nguyễn Văn Tịnh. Ngày 11/6/2010, Trung tâm pháp y tỉnh P kết luận tỷ lệ thương tích của Nguyễn Văn Tịnh là 13%. Trên cơ sở đó, VKSND huyện T đã truy tố Vũ về tội "Cố ý gây thương
  • 36. 29 tích" theo quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS (dùng hung khí nguy hiểm). Ngày 13/01/2011, TAND huyện T đưa vụ án ra xét xử. Sau khi nghị án, Hội đồng xét xử đã quyết định trưng cầu giám định lại đối với người bị hại. Kết quả giám định lại, tỷ lệ thương tích của bị hại giảm xuống còn 09%. Tuy nhiên, người bị hại đã có đơn rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo trước ngày mở phiên tòa nên Hội đồng xét xử đã căn cứ vào khoản 2 Điều 105 BLTTHS ra quyết định đình chỉ vụ án. Vì cho rằng Tòa án trưng cầu giám định không đúng quy định của BLTTHS (không triệu tập người giám định tham gia tố tụng mà căn cứ khoản 5 Điều 215 BLTTHS để ra quyết định trưng cầu giám định lại là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) nên VKSND tỉnh P đã kháng nghị Quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án huyện T. TAND tỉnh P chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh P, hủy quyết định đình chỉ vụ án của TAND huyện T để điều tra lại. Quá trình điều tra lại, do người bị hại từ chối giám định lại và sau đó bị hại đã không có mặt ở địa phương nên việc giám định chưa thể tiến hành được, đã ảnh hưởng đến việc điều tra, giải quyết vụ án. Thông thường, để khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm những thủ tục sau: tiếp nhận tố giác của công dân, xác minh yêu cầu khởi tố của người bị hại, xem xét nguyện vọng giám định thương tích của người bị hại, hướng dẫn người bị hại viết đơn yêu cầu khởi tố và đồng ý giám định thương tích; ghi lời khai người bị hại về việc yêu cầu khởi tố là tự nguyện, không bị cưỡng bức, ép buộc... khi người bị hại muốn rút đơn yêu cầu khởi tố và thể hiện muốn hòa giải, cơ quan tiến hành tố tụng phải hướng dẫn người bị hại viết đơn xin rút yêu cầu khởi tố, miễn truy cứu TNHS và lại phải xác minh yêu cầu đó tự nguyện hay không, sau đó lập biên bản hòa giải bồi thường dân sự (nếu có) hoặc hướng dẫn người bị hại giải quyết theo thủ tục dân sự về yêu cầu bồi thường của mình... Nếu người bị hại là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tinh thần, thể chất,
  • 37. 30 cơ quan tiến hành tố tụng phải mời người đại diện hợp pháp ký xác nhận vào đơn yêu cầu, lời khai của người bị hại hoặc trực tiếp viết đơn, lấy lời khai trong trường hợp bị hại là người có nhược điểm về tinh thần, thể chất. Khi vụ án có dấu hiệu tại khoản 2, 3, 4 Điều 104 nhưng người bị hại nhất quyết không đi giám định thương tích, CQĐT chỉ có thể động viên thuyết phục chứ không thể cưỡng chế do luật chưa quy định nghĩa vụ của người bị hại trong những trường hợp như vậy. b. Thủ tục giám định thương tích Như đã phân tích ở trên, hậu quả thương tích gây ra cho người bị hại là yêu cầu bắt buộc nên khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích, một thủ tục quan trọng, cần thiết phải tiến hành sớm là ra quyết định trưng cầu giám định thương tích. Tuy nhiên, Luật không quy định thời điểm cụ thể phải ban hành quyết định trưng cầu giám định và trách nhiệm, chế tài đối với người bị hại trong trường hợp không đi giám định hoặc người tiến hành tố tụng chậm làm thủ tục giám định. Khoản 3 của Điều 155 BLTTHS mới chỉ quy định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động là trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định. Do đó, thời điểm ban hành quyết định trưng cầu giám định không thống nhất mà tùy tình hình của từng địa phương, từng vụ việc. Quyết định trưng cầu giám định thương tích có thể ban hành trước khi ra quyết định khởi tố vụ án hoặc sau khi có quyết định khởi tố vụ án. Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS, Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được trưng cầu giám định hoặc tên cơ quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định. Theo Luật giám định tư pháp hiện nay cơ quan có thẩm quyền giám định thương tích cơ quan giám định pháp y y tế [28]. Tuy nhiên Luật cũng không quy định rõ thời gian phải trả lời quyết định trưng cầu giám định nên
  • 38. 31 nhiều trường hợp cơ quan giám định chậm gửi quyết định giám định cho CQĐT từ đó làm chậm quá trình giải quyết vụ án. Trên thực tế, khi giải quyết vụ án cố ý gây thương tích, CQĐT chủ yếu là đơn vị tiến hành thủ tục trưng cầu giám định, thường làm những thủ tục sau: (1) Điều tra viên tiến hành xác minh thương tích ban đầu của người bị hại tại bệnh viện nơi người đó cấp cứu, khám và điều trị (biên bản xác minh thương tích ban đầu phải có dấu, chữ ký của bác sĩ trực tiếp cấp cứu, khám và điều trị cho người bị hại); (2) Điều tra viên thu thập giấy chứng thương và hồ sơ bệnh án của người bị hại (giấy chứng thương phải có xác nhận của Lãnh đạo bệnh viện, hồ sơ bệnh án phải thể hiện rõ tình hình thương tích và quá trình chữa trị vết thương); (3) Điều tra viên đề nghị thủ trưởng (phó thủ trưởng) CQĐT ra quyết định trưng cầu giám định; (4) Tùy từng đơn vị, ĐTV có thể viết phiếu cho người bị hại tự mình đến cơ quan giám định để tiến hành giám định hoặc Điều tra viên đưa người bị hại đến cơ quan giám định. Tóm lại, việc giám định nhanh chóng hay không phụ thuộc vào trách nhiệm của Điều tra viên, sự hợp tác của bị hại và trách nhiệm của cơ quan giám định pháp y. c. Hoạt động thu thập chứng cứ khác Theo số liệu thống kê của VKS thành phố Hà Nội, trong năm 2014, CQĐT Công an thành phố Hà Nội đã khởi tố 413 vụ án cố ý gây thương tích. Nhờ đề cao hoạt động khám nghiệm hiện trường, 100% số vụ đều có sự tham gia của CQĐT và VKS làm công tác khám nghiệm nên đã phát hiện, thu giữ được nhiều chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa chứng minh tội phạm và người phạm tội. Trong số 413 vụ, có trên 200 vụ cần thực nghiệm điều tra, gần 50
  • 39. 32 vụ cần đối chất, gần 300 vụ VKS tham gia phúc cung để thu thập và củng cố chứng cứ... điều đó cho thấy, không chỉ hoạt động khám nghiệm hiện trường cần được chú trọng mà hoạt động thực nghiệm điều tra và kỹ năng hỏi cung, ghi lời khai, đối chất cũng vô cùng cần thiết khi giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích. Cơ quan điều tra phải tiến hành khám nghiệm hiện trường thật tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết, không được bỏ qua bất cứ một dấu vết liên quan đến hành vi phạm tội (như vết máu, lông tóc, mảnh vỡ của hung khí...). Điều tra viên bắt buộc phải chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trách nhiệm của VKS trong hoạt động này cũng cần được nêu cao. Theo khoản 2 Điều 150 BLTTHS trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm. Việc khám nghiệm hiện trường vụ án gây thương tích đầy đủ, cụ thể, tỉ mỉ sẽ giúp CQĐT, VKS bước đầu hình dung về cách thức thực hiện hành vi phạm tội, phương tiện phạm tội, số người tham gia, đồng thời qua đó có thể xây dựng hướng điều tra chính xác, không mất nhiều thời gian, công sức. Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, CQĐT lập các biên bản sau đây: biên bản khám nghiệm hiện trường theo mẫu số 19, biên bản thu giữ đồ vật, tài liệu (nếu có) theo mẫu số 10, ban hành kèm theo QĐ số 789/2007/QĐ- BCA ngày 12/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an. Kèm theo việc khám nghiệm hiện trường, CQĐT phải vẽ sơ đồ hiện trường vụ án để xác định rõ địa điểm phạm tội hoặc địa điểm phát hiện tội phạm.
  • 40. 33 Thực nghiệm điều tra là hoạt động điều tra dựng lại hiện trường, diễn lại mộ hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác của một sự việc nhất định nhàm kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án. Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án trong điều kiện tương tự như lời khai của người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng, CQĐT tiến hành thực nghiệm điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường, diễn lại một hành vi, tình huống hoặc mọi tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm cần thiết như thực nghiệm về khả năng hành động, khả năng quan sát, thụ cảm, khả năng diễn ra sự việc tại hiện trường. Trước khi tiến hành thực nghiệm, điều tra viên phải lập kế hoạch thực nghiệm, trong đó xác định yêu cầu của việc thực nghiệm; nội dung, phương pháp tiến hành thực nghiệm; thời gian, địa điểm thực nghiệm, những người tham gia thực nghiệm và chuẩn bị những phương tiện cần thiết cho việc thực nghiệm. Điều 53 BLTTHS quy định phải có người chứng kiến tham gia khi tiến hành thực nghiệm, Trong trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng cũng có thể tham gia. Khi tiến hành thực nghiệm nếu thấy cần, điều tra viên có thể đo đạc, chụp ảnh, vẽ sơ đồ để xác định hiện trường, xác định cơ chế hình thành thương tích, xác định bị can tham gia, công cụ, phương tiện. Điều tra viên không được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra phải lập biên bản theo mẫu số 18, ban hành kèm theo Quyết định số 789/2007/QĐ-BCA ngày 12/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Công an. Để đảm bảo giải quyết vụ án đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cách chính xác, nhanh chóng, cần tiến hành các hoạt động điều tra như khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, giám định thương tích, hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm
  • 41. 34 chứng, người bị hại... một cách đồng bộ để chứng minh tội phạm. Bởi lẽ, tội cố ý gây thương tích là tội phạm có tính chất phức tạp. Nhất là các vụ có đông đối tượng tham gia, hiện trường không thể hiện rõ ràng, không thu giữ được hung khí gây án... Hoạt động hỏi cung, lấy lời khai trong các vụ án cố ý gây thương tích cũng quan trọng và nếu làm đúng quy định, trình tự và có kỹ năng sẽ đạt hiệu quả cao trong chứng minh hành vi phạm tội. Các bị can trong một số vụán cố ý gây thương tích , có thể lúc nhận tội , lúc không nhận tội hoặc phản cung . Khi bi ̣can nhâ ̣n tô ̣i, Điều tra viên và Kiểm sát viên không được thỏa mãn với viê ̣c đã nhâ ̣n tội này của bi ̣can . Đối với trườ ng hợp này , Điều tra viên phải hỏi kỹ, hỏi chi tiết về hành vi phạm tội của bị can theo các nội dung như hỏi cung đối với các bi ̣can đã thành khẩn khai báo nhâ ̣n tội , để đề phòng sau này bị can phản cung cho là bị Điều t ra viên ép cung… Khi hỏi cung các đối tượng này, Kiểm sát viên , Điều tra viên cần mời Luâ ̣t sư tham gia bào chữa cho bi ̣can cùng tham gia hỏi cung. Đối với các bị can giữ vai trò chủ mưu , cầm đầu trong vụán c ố ý gây thương tích, thông thường các bi ̣can này trong quá trình điều tra không nhâ ̣n tội hoă ̣c khai nhâ ̣n rất nhỏ giọt , có tài liệu, chứ ng cứ đến đâu khai nhâ ̣n đến đó; do đó , giữa Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp chă ̣t chẽ khi nghiên cứ u hồ sơ vụán, chuẩn bi ̣đưa ra các tài liê ̣u, chứ ng cứ buộc tô ̣i để đấu tranh với bi ̣can . Trường hợp đã đưa ra các l ời khai nhân chứ ng , tang vâ ̣t chứ ng trong buổi hỏi cung mà bi ̣can vẫn không nhâ ̣n tội thì trước khi đối chất đề phòng trường hợp các bị can đã khai nhận tại Cơ quan điều tra nhưng sau đó la ̣i phản cung , không nhâ ̣n tô ̣i . Khi gă ̣p các đối tượng này , thì Điều tra viên, Kiểm sát viên cần thuyết phục , đô ̣ng viên để các đối tượng này tiế p tục khai nhâ ̣n tội. Cần cách ly các bị can trong cùng một vụ án , nhất là các bi ̣can có quyền lợi, nghĩa vụ đối lập nhau, những bi ̣can là nhân chứ ng… thực hiê ̣n được như vâ ̣y mới đảm bảo viê ̣c hỏi cung bi ̣can đa ̣t yêu cầu.
  • 42. 35 Đối tượng tội phạm tác động đến trong vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích thường liên quan đến nhân thân của người bị hại. Vì vậy, khi có tội phạm xảy không chỉ gây căm phẫn trong xã hội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sinh hoạt, của người bị hại. Việc tiến hành các biện pháp điều tra như lấy lời khai, trưng cầu giám định, xem xét dấu vết trên thân thể v.v… bên cạnh yêu cầu đảm bảo tính khẩn trương, khách quan cũng cần thiết phải có sự khéo léo, thận trọng và đặc biệt là việc tiến hành phải được thực hiện một cách nhẹ nhàng, tránh gây dư luận "ầm ĩ" trong xã hội. Việc phát hiện và thu thập chứng cứ trong vụ án cố ý gây thương tích thường gặp nhiều khó khăn do nguồn chứng cứ và nội dung thông tin bị hạn chế. Khi tiến hành hoạt động điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên phải trực tiếp lấy lời khai của bị can, người bị hại, người làm chứng để có cái nhìn tổng thể và khách quan về vụ việc. Việc lấy lời khai này cần được tiến hành trong cùng một giai đoạn ngắn để có thể đánh giá tính chính xác trong lời khai của từng đối tượng đặc biệt là tìm được những mâu thuẫn trong khai báo của các đối tượng này. Bên cạnh đó cũng cần có hoạt động giám sát, quản lý di biến động, tiếp xúc của người bị hại và người làm chứng. Bởi vì trong một số vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà đối tượng phạm tội là đối tượng có thành phần bất hảo, thuộc đối tượng xã hội đen thường có hành vi dùng đồng bọn của mình để đe dọa, cưỡng bức người bị hại và người làm chứng khai theo hướng có lợi cho chúng hoặc ép buộc người bị hại làm đơn xin miễn truy tố đối với bị can. Điều này làm ảnh hưởng đến quá trình điều tra, làm người làm chứng, người bị hại vì sợ sệt mà không dám khai sự thật. Người bị hại là người trực tiếp bị xâm hại tới sức khỏe do hành vi phạm tội gây ra, có thể cần một thời gian điều trị thương tích. CQĐT cần đặc biệt lưu ý đến thời điểm người bị hại hồi phục để nhanh chóng thu thập lời khai củng cố chứng cứ của vụ án. Ngoài ra, hành vi gây thương tích
  • 43. 36 có thể diễn ra rất nhanh, do vậy khi lấy lời khai người làm chứng cần hỏi rõ về những tình tiết người làm chứng đã chứng kiến, đánh giá độ tin cậy, chắc chắn trong lời khai… Hoạt động đối chất cũng cần được cân nhắc kỹ trước khi tiến hành, do hình thức đối chất là mặt đối mặt sẽ khiến người được đưa ra đối chất sợ bị trả thù (ví dụ đối chất giữa bị can và người làm chứng) nên trước khi tiến hành CQĐT, VKS cần cân nhắc giữa hiệu quả và hậu quả của hoạt động này. 1.2.2.2. Hoạt động truy tố trong các vụ án cố ý gây thương tích Việc truy tố trong các vụ án cố ý gây thương tích có ý nghĩa quan trọng bởi lẽ đây là giai đoạn VKSND thực hiện quyền công tố Nhà nước đối với người phạm tội. Trong các vụ án cố ý gây thương tích ở giai đoạn truy tố Kiểm sát viên cần chú trọng những hoạt động sau: - Nghiên cứu hồ sơ vụ án cố ý gây thương tích do CQĐT gửi sang và xác định các tình tiết của vụ án. Trong đó kiểm tra chặt chẽ các chứng cứ, tài liệu để làm căn cứ cho việc truy tố. Đặc biệt chú ý đến hồ sơ đã có đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại hay chưa, các chứng cứ đã được thu thập đầy đủ chưa. Ví dụ như thu thập về công cụ, phương tiện phạm tội, đã xác định được chưa, có thu giữ được không? Quyết định trưng cầu giám định, kết luận giám định về thương tích của bị hại có chính xác không để làm căn cứ truy tố bị can theo khoản nào của BLHS. - Tiến hành các hoạt động điều tra, xác minh bổ sung để làm căn cứ truy tố. Trong giai đoạn này VKSND được quyền ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi có các căn cứ quy định của BLTTHS mà không thể bổ sung được trong giai đoạn truy tố. Quyết định này cần phải gửi kịp thời cho CQĐT cùng cấp để thực hiện yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, bên cạnh đó VKSND trong giai đoạn này vẫn có thể tiến hành một số hoạt động điều tra để xác minh sự việc như thực nghiệm điều tra, hỏi cung bị can, lấy lời khai
  • 44. 37 người làm chứng, người bị hại, đối chất... Các hoạt động này nhằm thu thập chứng cứ bổ sung để khắc phục những thiếu sót của chứng cứ đã có trong giai đoạn điều tra, từ đó có thể quyết định việc truy tố một cách chính xác. - Quyết định trung tâm trong giai đoạn truy tố tội cố ý gây thương tích là bản cáo trạng. Thể hiện quyền công tố của Nhà nước đối với người phạm tội cố ý gây thương tích. Trong bản cáo trạng của vụ án cố ý gây thương tích cần phải thể hiện được các nội dung cơ bản liên quan đến tình tiết gây thương tích của bị can, nội dung sự việc, vai trò của các bị can trong việc gây thương tích, công cụ, phương tiện gây thương tích của các bị can. Các tài liệu chứng cứ khác phục vụ cho việc chứng minh hành vi phạm tội của bị can. 1.2.2.3. Hoạt động xét xử vụ án cố ý gây thương tích Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án cố ý gây thương tích, Tòa án cần nghiên cứu về hồ sơ vụ án và bản cáo trạng do VKSND cùng cấp gửi để xác định căn cứ có đưa vụ án ra xét xử hay không hay trả hồ sơ để điều tra bổ sung, định chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Hoạt động nghiên cứu trên là sự đánh giá tổng hợp các vấn đề liên quan đến chứng cứ và chứng minh của vụ án cố ý gây thương tích để ra quyết định phù hợp với từng trường hợp. Bộ luật tố tụng hình sự quy định khi xét xử, Tòa án phải triệu tập người bị hại có mặt để tham gia tố tụng tại phiên tòa. Trong vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích, việc triệu tập người bị hại đến tòa mang tính chất bắt buộc bởi lẽ đây là thành phần tham gia tố tụng quan trọng trong vụ án để có thể xét hỏi công khai tại phiên tòa từ đó đi đến một bản án chính xác. Tuy nhiên khi xác định triệu tập bị hại cần chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh của người bị hại để có quyết định mang tính hợp tình, hợp lý. Trong quá trình xét xử, việc hỏi bị cáo và người bị hại cần được tiến hành lần lượt, chốt được vấn đề nào của từng đối tượng thì mới hỏi đến đối tượng khác. Nếu cần có thể đối chất công khai tại phiên tòa để bị cáo không thể chối cãi. Hoạt động này cũng có thể áp dụng đối với người làm chứng.