SlideShare a Scribd company logo
1 of 122
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI QUỐC HÀ
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI C¦íP TµI S¶N
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
BÙI QUỐC HÀ
§ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI C¦íP TµI S¶N
THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM
(Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Bùi Quốc Hà
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.....10
1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH.......................................................................10
1.1.1. Khái niệm định tội danh .....................................................................10
1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh ...............................................18
1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh.............................................20
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ............................................................24
1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản ...............................24
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản......25
1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN .........................................27
1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản.....................27
1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội
cướp tài sản.........................................................................................29
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI
CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ..................42
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI
VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ....................................................................42
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự..............................................................42
2.1.2. Hình phạt ............................................................................................47
2.1.3. Một số vấn đề khác cần lưu ý trong việc định tội danh đối với
tội cướp tài sản....................................................................................50
2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.......................................................53
2.2.1. Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................53
2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk ................................................................................57
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ..........80
3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN..........................................80
3.1.1. Về phương diện chính trị - xã hội.......................................................80
3.1.2. Về phương diện lý luận và thực tiễn ..................................................82
3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự.......................................................84
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN .............................................................85
3.2.1. Nhận xét chung...................................................................................85
3.2.2. Những đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể...............................................88
3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP KHÁC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN.............94
3.3.1. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.........................94
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ................................................96
3.3.3. Các giải pháp khác............................................................................103
KẾT LUẬN..................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk 54
Bảng 2.2: Số vụ án cướp tài sản với các vụ án khác trong nhóm các
tội xâm phạm sở hữu trong thời gian 05 năm (2009-
2013) trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 58
Bảng 2.3: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời gian 05
năm (2009-2013) 61
Bảng 2.4: Tổng số vụ án về tội cướp tài sản và các tội phạm khác trong
nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm (2009-2013) 62
Bảng 2.5: Tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cướp tài sản và các
tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị
Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm
(2009-2013) 63
Bảng 2.6: Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị
thay đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian 05 năm (2009-2013) 64
Bảng 2.7: Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm tội
cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian 05 năm (2009-2013) 65
Bảng 3.1: Tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk từ năm 2009 đến năm 2013 82
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang
Biểu 2.1: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời
gian 05 năm (2009-2013) 62
Biểu 2.2. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài
sản bị thay đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 64
Biểu 2.3: Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm
tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk
trong thời gian 05 năm (2009-2013) 65
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén và hữu
hiệu của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội,
đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội,
giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn và
bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 31 đã
quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật...” [28, tr.22]. Vì vậy, để có một bản án công minh, khách quan,
toàn diện và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt
phải thực sự đúng đắn, có như vậy mới bảo vệ các quyền, lợi ích và tự do của
con người, thậm chí tính mạng con người. Ngoài ra, cũng chỉ có Tòa án mới
có quyền định tội danh và quyết định hình phạt chính thức đối với một người,
trong đó hoạt động định tội danh nhằm xác định một người có tội hay không
có tội, nếu họ có tội thì tên tội mà họ đã phạm là tội gì căn cứ vào các quy
định của Bộ luật hình sự để có hình phạt tương xứng.
Do đó, định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định
hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự
và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân trong tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội danh sai đương
2
nhiên sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính công
minh và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định, dẫn đến truy cứu
trách nhiệm hình sự người không có tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm
phạm thô bạo đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân…,
làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm
hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm [8, tr.17-18].
Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan
tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội
danh, nhất là đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung, riêng tội cướp tài
sản nói riêng. Thời gian gần đây, tội phạm này đang có diễn biến phức tạp,
đặc biệt là trong lĩnh vực đòi nợ, xiết nợ do chủ tài sản không trả nên nhiều
người đã manh động, tìm đến việc dùng vũ lực để đòi nợ; hoặc còn có sự
nhầm lẫn giữa tội cướp tài sản với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hay
tội cưỡng đoạt tài sản; hoặc trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định
tội danh là một tội; v.v… từ đó dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt
không đúng, qua đó gây dư luận không tốt và làm giảm hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Nhận thức và xem xét vấn đề quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử
các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội
và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy,
sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết định của Tòa án đúng
pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao, có tính khả thi và
được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Chẳng hạn, năm 2009, tổng số vụ án
và bị cáo phạm tội cướp tài sản cả ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm như sau: 48 vụ
án và 131 bị cáo; năm 2010 có 39 vụ án và 93 bị cáo; năm 2011 có 30 vụ án
và 78 bị cáo; năm 2012 có 32 vụ án và 82 bị cáo và năm 2013 có 42 vụ án và
3
137 bị cáo. Về cơ bản, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm của tỉnh Đắk Lắk đã
định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác, nhưng vẫn còn một vài
trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ
phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh còn thiếu chính xác, nhầm lẫn, sửa
án, hủy án, hoặc phân hóa trách nhiệm hình sự chưa chính xác, qua đó, ít
nhiều đã làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, tội cướp tài sản nói riêng, giảm uy tín của Tòa án cũng như chưa bảo
đảm các quyền và lợi ích của người phạm tội.
Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, đồng thời phục vụ trực
tiếp cho công tác thực tiễn xét xử, là thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện
của tỉnh Đắk Lắk, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Định tội danh đối với
tội cướp tài sản theo luật hình sự Viê ̣t Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Đắk Lắk)”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Định tội danh đúng, chính xác có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị -
xã hội, đạo đức và pháp luật, được dư luận xã hội và nhân dân ủng hộ, đồng
tình, trật tự pháp luật được ổn định, uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật
và Tòa án được nâng cao. Vì vậy, dưới góc độ khoa học bước đầu đã có một
số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, ngoài một số công trình do các nhà
khoa học Liên bang Nga biên soạn mà trong cuốn sách Định tội danh (Lý
luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2011 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản dẫn ra
có một số công trình về lý luận định tội danh mà không có công trình nào
định tội danh đối với một hoặc một nhóm tội phạm cụ thể trong Phần các tội
phạm của Bộ luật hình sự.
Còn trong sách báo pháp lý trong nước, chúng tôi chia thành các nhóm
vấn đề sau:
4
* Dưới góc độ giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo liên quan
đến vấn đề định tội danh và tội cướp tài sản, có thể kể đến các công trình sau:
1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Định tội danh (Lý
luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và
hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
1999; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu,
Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể
tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001,
tái bản năm 2003, 2007; 4) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung
về Định tội danh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999 và tái bản năm 2010;
5) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 6) ThS. Đoàn Tấn
Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội
phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 7) ThS.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II
- Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v...
* Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học, nói chung, chỉ có một
số công trình đề cập riêng rẽ đến vấn đề định tội danh hoặc về tội cướp tài sản
hoặc đấu tranh phòng, chống tội phạm này như: 1) Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh
phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; 2) Võ Minh Tiến, Đấu tranh phòng, chống
tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; 3) Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Đấu tranh
phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; 4) Trần Thị Phường, Định tội
danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn
5
2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011; 5) Nguyễn Thanh Dung, Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; v.v...
* Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án
nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ
và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội danh
đối với từng vụ án cụ thể, ví dụ: 1) TS. Phan Anh Tuấn, Định tội danh trong
trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm,
Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; 2) Đặng Văn Phượng, Một số trường
hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm trong tội cướp tài sản, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 17(9)/2008; 3) TS. Mai Bộ, Tội cướp tài sản, Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 3/2007; 4) ThS. Phạm Văn Báu, Tội cướp tài sản trong
luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10/2010; 5) TS. Phạm Văn Beo,
Về dấu hiệu hậu quả chết người ở tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự hiện
hành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14(7)/2013; v.v...
Như vậy, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình sách báo đã nêu
mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội
danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá, nhận định một số vấn đề
liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt tội cướp tài sản với
một số tội phạm trong Bộ luật hình sự hoặc nghiên cứu trách nhiệm hình sự
đối với các tội xâm phạm sở hữu; v.v… Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với tội cướp tài sản và
trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định
6
tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra
một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở đó, đưa ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài
sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn xét xử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể như sau:
1) Xây dựng khái niệm định tội danh, phân tích căn cứ pháp lý và căn
cứ khoa học của việc định tội danh;
2) Xây dựng khái niệm và phân tích những đặc điểm của việc định tội
danh đối với tội cướp tài sản;
3) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc định
tội danh đối với tội cướp tài sản;
4) Đánh giá thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và
một số nguyên nhân cơ bản;
5) Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh
đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Định tội
danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu
thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh
đối với tội cướp tài sản theo luâ ̣t hình sựViê ̣t Nam, đánh giá thực tiễn trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân trong giai đoạn 05 năm (2009-2013),
7
trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản, từ
đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc
định tội danh đối với tội phạm này.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội
cướp tài sản nói riêng.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự
như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản
án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao
và Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để phân tích các tri thức khoa học luật hình
sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ Hiến pháp
năm 2013 và các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội
danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về định tội danh trong
pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, lý luận về định tội danh đối với một
tội phạm cụ thể - tội cướp tài sản nói riêng, qua đó góp phần nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và bảo vệ quyền con
người, cũng như bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói riêng.
8
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc
biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được khách
quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến định tội
danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng tại Tòa án
nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và tự do của con
người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong
giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự và
tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước.
7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác
ngành Tòa án nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk - đó là những số liệu thực tế góp
phần làm rõ hơn thực trạng về định tội danh trên địa bàn đã nêu. Do đó,
những điểm mới cơ bản của luận văn như sau:
1) Xây dựng khái niệm và phân tích các đặc điểm cơ bản của việc định
tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam;
2) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc định
tội danh đối với tội cướp tài sản;
3) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân;
4) Chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản trong
thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk;
5) Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội
danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước nói chung.
9
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội cướp tài
sản theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc định tội
danh đối với tội cướp tài sản.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC CỦA
VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu
lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân. Điều 31 đã quy định: “1. Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định
và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...” [28, tr.22.]. Cho
nên, để có một bản án công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật
đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt phải thực sự đúng đắn, có
như vậy mới bảo vệ các quyền và tự do của con người. Do đó, hoạt động định
tội danh và quyết định hình phạt chính thức đối với một người chỉ do duy nhất
một cơ quan có thẩm quyền quyết định là Tòa án, trong đó, bản án của Tòa án
nhằm xác định một người có tội hay không có tội và nếu có tội thì tên tội là
tội gì... sau đó, tội gì sẽ có hình phạt tương xứng.
Do đó, định tội danh đúng không những để quyết định hình phạt đúng,
mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua
đó bảo vệ các quyền và tự do của con người, của công dân trong lĩnh vực tư
pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt hậu quả
tiêu cực như: không bảo đảm được tính công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật của hình phạt do Tòa án quyết định, truy cứu trách nhiệm hình sự người
vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo danh dự và nhân
phẩm, các quyền và tự do của công dân..., làm giảm uy tín và hiệu lực của
11
các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm [6, tr.8].
Quá trình định tội danh được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
từ giai đoạn tiền khởi tố cho đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, thậm chí có
thể xảy ra cả trong trường hợp tái thẩm, giám đốc thẩm nếu có căn cứ nhằm
tìm ra bản chất thật sự của hành vi phạm tội, từ đó áp dụng đúng điều luật,
đúng khung hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, trước khi đi vào phân
tích thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản thì việc làm rõ khái
niệm, căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh nói chung
là yêu cầu cần thiết.
Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh khái niệm
định tội danh và các vấn đề lý luận của nó đã được một số nhà khoa học - luật
gia nghiên cứu (mặc dù chưa nhiều), tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất
nội hàm của khái niệm đang nghiên cứu.
Trước hết, theo PGS.TS. Trịnh Quốc Toản cho rằng:
Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp
(đồng nhất) giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ
thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể
tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Nói cách khác định
tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy
đủ các dấu hiệu của tội nào trong số các tội phạm được quy định
trong Bộ luật hình sự, đồng thời kết luận - Định tội danh là một quá
trình logic nhất định, là hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng
thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt
động về mặt pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong
mối tương quan với các quy phạm pháp luật hình sự [43, tr.7-8].
12
Còn theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm, tác giả định nghĩa tương đối rộng và
thể hiện như sau:
Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính
logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được
tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập
được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và
kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [6, tr.11].
Hay GS.TS. Võ Khánh Vinh quan niệm chỉ thu hẹp là hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự và nhận định:
Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở
xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội
được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình
sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương
đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ
thể của hành vi phạm tội bằng phương pháp và thông qua các giai
đoạn nhất định [51, tr.20].
Ngoài ra, PGS.TS. Lê Văn Đệ cũng có quan điểm tương tự như sau:
“Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính
xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [13, tr.108].
Trong khi đó, PGS. TS. Dương Tuyết Miên lại chỉ ra cụ thể các chủ thể
định tội danh hơi rộng và cho rằng:
Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến
13
hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số
cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác
định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì,
theo điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá
trình xác định tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [18, tr.9].
Chúng tôi chưa hoàn toàn nhất trí với quan điểm này ở khía cạnh chủ
thể khi tác giả quan niệm việc định tội danh còn do cả một số cơ quan khác có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật, vì dưới góc độ áp dụng pháp luật
hình sự, việc định tội danh chỉ do ba cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án) tiến hành và chính thức nhất của hoạt động này
cùng với việc quyết định hình phạt là của Tòa án.
Đặc biệt, có nhà hoạt động thực tiễn lại quan niệm bằng việc ra kết luận
bằng văn bản áp dụng pháp luật như sau:
Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong
tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế
của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội
phạm được mô tả trong luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự bằng
việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [19, tr.16]; v.v...
Như vậy, nhìn chung trong các khái niệm định tội danh nêu trên, mặc
dù các tác giả xây dựng với những cách diễn đạt khác nhau nhưng đều phản
ánh được một số đặc điểm cần và đủ của hoạt động định tội danh, bao gồm:
- Hoạt động về nhận thức tư duy (đánh giá, phân tích) đối với hành vi
phạm tội và việc đối chiếu, so sánh, phân tích kết quả nhận thức đó với quy
định pháp luật hình sự.
- Đặc điểm về chủ thể của hoạt động định tội danh hoặc không;
- Đặc điểm là dạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự hay cả pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
14
Như vậy, các yếu tố không thể thiếu của việc định tội danh chính là về
chủ thể, về nhận thức, tư duy (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội;
về đối chiếu, so sánh, phân tích kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật
hình sự. Do đó, định tội danh không gì khác, chính là hoạt động tư duy do
người tiến hành tố tụng thực hiện, đồng thời cũng là một trong những hình
thức hoạt động phản ánh sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các
quy phạm pháp luật hình sự, có nghĩa là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự.
Còn việc thực hiện hoạt động này do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Ngoài ra, bên cạnh việc đưa ra khái niệm định tội danh, các tác giả nêu
trên còn đưa ra những hình thức (dạng) của định tội danh, nhằm phân biệt hoạt
động định tội danh nào có giá trị pháp lý được pháp luật bảo đảm thi hành
(mang tính cưỡng chế bắt buộc), còn hoạt động định tội danh nào chỉ mang tính
tham khảo, không phát sinh tính pháp lý đối với người bị định tội danh.
Chẳng hạn, theo nhiều nhà khoa học, có hai hình thức định tội danh là:
định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức. Trong đó, định
tội danh chính thức “là sự đánh giá về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình
sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền
thực hiện” và định tội danh không chính thức “là sự đánh giá không phải về
mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Tuy
nhiên, cũng cần nêu thêm đặc điểm về chủ thể và hậu quả pháp lý như sau:
Một là, định tội danh chính thức - do các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền thực hiện, nhằm giải quyết vụ án cụ thể. Hình thức này có giá trị
pháp lý và được bảo đảm thực hiện;
Hai là, định tội danh không chính thức - do các luật sư, luật gia, giảng
viên, sinh viên, học viên, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo
chí... thực hiện, nhằm nêu lên quan điểm cá nhân về một hành vi có dấu hiệu
tội phạm song hình thức này không có giá trị pháp lý để giải quyết vụ án.
15
Tóm lại, theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam,
khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau:
Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện bằng cách - trên cơ sở các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án
hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định
thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật.
Như vậy, từ khái niệm này có thể khẳng định rằng mục đích của định
tội danh là nhằm đạt được sự thật khách quan của vụ án - đưa ra sự đánh giá
chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc phân hóa
trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và
đúng pháp luật. Do đó, khái niệm đã nêu trên phản ánh những đặc điểm cơ
bản của định tội danh như sau:
Thứ nhất, định tội danh là một trong những dạng của hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự (dưới góc độ áp dụng);
Thứ hai, định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành
tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) theo quy định của pháp luật
để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo
điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Trong đó, việc định tội danh chính thức
và quyết định hình phạt chính thức do Tòa án thực hiện;
Thứ ba, định tội danh được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng
cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đối
chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành
vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định;
16
Thứ tư, kết quả của quá trình định tội danh thể hiện thông qua một văn
bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền ban hành do
pháp luật quy định;
Thứ năm, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà
người phạm tội phải gánh chịu. Theo đó, các hình thức văn bản áp dụng pháp
luật trong hoạt động định tội danh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
bao gồm:
- Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
- Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;
- Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can;
- Quyết định đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ điều tra bị can;
- Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại;
- Quyết định phục hồi điều tra;
- Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra;
- Kết luận điều tra;
- Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
- Bản cáo trạng;
- Bản án;
- Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị;
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong đó, việc định tội danh chính thức và quyết định hình phạt chính
thức do Tòa án thực hiện trong giai đoạn xét xử.
Bên cạnh đó, trong pháp luật thực định, bên cạnh khái niệm “định tội
danh” cũng đang tồn tại khái niệm “định tội” nên cần phân biệt chính xác. Về
cơ bản, khoa học luật hình sự đều thống nhất các giai đoạn định tội danh được
chia làm ba giai đoạn, đó là:
17
- Giai đoạn thứ nhất - xác định quan hệ pháp luật. Giai đoạn này xác
định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không, hay
chỉ là hành vi vi phạm pháp luật khác;
- Giai đoạn thứ hai - tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự. Giai đoạn
này xác định xem khách thể bị xâm hại và các dấu hiệu của chủ thể;
- Giai đoạn thứ ba - tìm quy phạm pháp luật hình sự cụ thể (trực tiếp):
Giai đoạn này đối chiếu xem hành vi phạm tội được quy định trong điều,
khoản nào của Bộ luật hình sự [6, tr.15-16].
Theo đó, việc phân chia các giai đoạn định tội danh cho thấy đã có
chứa đựng (gián tiếp) trong đó việc định tội thể hiện ở giai đoạn thứ nhất - đó
chính là việc xem xét có dấu hiệu của tội phạm xảy ra hay không và nếu
không có dấu hiệu của tội phạm, mà chỉ là hành vi vi phạm ở mức độ xử lý
hành chính thì sẽ không đặt ra vấn đề định tội danh nữa. Cho nên, việc định
tội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh, bởi nó quyết định đến
việc có phát sinh hoạt động định tội danh hay không, từ đó quyết định việc có
hay không có phát sinh ra các hoạt động tố tụng tiếp theo. Mặt khác, nếu việc
định tội được làm tốt sẽ tránh được oan, sai trong tố tụng hình sự, cũng như
đỡ tốn công sức, tài sản của Nhà nước, của xã hội.
Bên cạnh đó, nếu việc định tội đã xác định không có tội phạm xảy ra,
thì sẽ không có giai đoạn tiếp theo, do đó, hai hoạt động này có mối quan hệ
chặt chẽ, làm tiền đề và hỗ trợ nhau. Vì thế, định tội được coi là hoạt động tố
tụng nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, còn định tội danh là
bước tố tụng tiếp theo của định tội, nhằm xác định và đặt tên cho hành vi
phạm tội. Đặt tên tội danh nằm trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự.
Trường hợp nếu hành vi mà Bộ luật hình sự không quy định đó là tội phạm
thì hành vi đó không phải là tội phạm và sẽ không đặt ra vấn đề định tội
danh ở đây.
18
1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh
Việc tìm ra căn cứ pháp lý của việc định tội danh có ý nghĩa lý luận,
thực tiễn và pháp lý quan trọng. Bởi lẽ, đây chính là căn cứ mà phải dựa vào
đó mới đặt ra tội danh đối với một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Do đó, dưới góc độ khoa học
luật hình sự Việt Nam, căn cứ pháp lý của việc định tội danh có thể được hiểu
trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp dưới đây:
Một là, trên bình diện rộng, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội
danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý
duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định
các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã được thực hiện là tội phạm.
Hai là, trên bình diện hẹp, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội
danh là chỉ có hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở
pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm [7, tr.21].
Trong khi đó, có tác giả chỉ coi ở khía cạnh hẹp hơn, căn cứ pháp lý
của việc định tội danh là Bộ luật hình sự mà cụ thể hơn là điều luật quy định
về tội phạm cụ thể [18, tr.12]. Chúng tôi chưa nhất trí hoàn toàn, vì ngoài
việc áp dụng điều luật quy định tội phạm cụ thể, thực tiễn, vụ án có sự đa
dạng về nhiều vấn đề khác mà đòi hỏi khi định tội danh cần căn cứ vào
thuộc các điều luật trong Phần chung Bộ luật hình sự như: chuẩn bị phạm
tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; v.v... mới
xác định tội danh chính xác.
Trên cơ này, có thể kết luận rằng - Bộ luật hình sự - cơ sở pháp lý trực
tiếp của việc định tội danh. Bộ luật hình sự liệt kê, quy định tất cả các hành vi
nguy hiểm cho xã hội là tội phạm vào trong Bộ luật, điều này sẽ thể hiện trực
19
tiếp nhất tại Điều 2 Bộ luật hình sự khi quy định: “Chỉ người nào phạm một
tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Do
đó, trong quá trình định tội danh nếu hiểu theo nghĩa chỉ về nội dung thì Bộ
luật hình sự có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò là cơ
sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc định tội danh. Bộ luật hình sự hiện
hành và các Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nếu có được coi là nguồn
trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình
sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng. Chỉ có Bộ
luật hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều này cũng loại trừ khả
năng cho phép bất kỳ cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào được phép quy định,
mở rộng hay thu hẹp hành vi phạm tội là tội phạm trong Bộ luật hình sự mà
chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan duy nhất có thẩm quyền đã được Hiến
pháp quy định (đoạn 2 Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Hơn nữa, suy cho cùng
thì bản chất của việc định tội danh chính là việc đối chiếu, so sánh, đánh giá
và kiểm tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương
ứng của một tội phạm cụ thể nào đó được quy định trong Phần các tội phạm
Bộ luật hình sự hay không.
Bên cạnh đó, kết quả của việc định tội danh là đưa ra văn bản kết luận
rằng một (hay nhiều) hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được xử lý bao quát
quy phạm (điều luật) nào của Bộ luật hình sự, cho nên, chắc chắn rằng, việc
định tội danh cần phải được viện dẫn đến quy phạm (điều luật) cụ thể nào đó
của Bộ luật hình sự.
Hiện nay, Bộ luật hình sự Việt Nam bao gồm hai phần là Phần chung
và Phần các tội phạm.
Phần chung Bộ luật hình sự ghi nhận nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các
20
chế định cơ bản và quan trọng nhất của luật hình sự là tội phạm và hình phạt,
cũng như các vấn đề khác như hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện pháp
tư pháp, quyết định hình phạt, xóa án tích; v.v...
Phần các tội phạm Bộ luật hình sự nêu tên tội, các dấu hiệu pháp lý
hình sự cơ bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội
tương ứng. Việc áp dụng các quy định của Phần này phải dựa trên các quy
phạm của Phần chung Bộ luật hình sự. Ngược lại, các quy phạm của Phần
chung cũng trở nên không có ý nghĩa nếu không có các quy phạm của Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự.
Do đó, với tư cách là căn cứ của việc định tội danh, Bộ luật hình sự, mà
cụ thể bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm tạo thành căn cứ chung
và thống nhất không thể thiếu khi định tội danh. Nói một cách khác, định tội
danh là việc so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
với những dấu hiệu được mô tả trong mô hình một loại tội phạm trong Phần
các tội phạm tương ứng. Tuy vậy, các tội phạm cụ thể trong Phần các tội
phạm lại chỉ nêu về tội phạm hoàn thành, trong khi đó, diễn biến tội phạm
trên thực tế rất đa dạng, phong phú, đòi hỏi khi đó cần viện dẫn cả những quy
định của Phần chung để xác định chính xác; cũng như chú ý tới hiệu lực của
điều, khoản được viện dẫn về không gian và thời gian. Có như vậy, việc định
tội danh mới bảo đảm có căn cứ pháp lý vững chắc và đầy đủ để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nói
một cách khác, đúng như GS.TS. Võ Khánh Vinh đã viết: “suy cho cùng thì
quá trình định tội danh phải đưa ra kết luận: viện diễn điều nào trong Bộ luật
hình sự” [51, tr.7].
1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh
Hiện nay, trong các sách báo pháp lý hình sự đều thống nhất cho rằng,
cấu thành tội phạm chính là căn cứ khoa học của việc định tội danh. Tuy nhiên,
21
có tác giả lại quan niệm, “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của hoạt động
định tội danh” [19, tr.22]. Theo chúng tôi, chỉ có căn cứ pháp lý của việc định
tội danh và căn cứ khoa học của việc định tội danh mà thôi. Hơn nữa, cấu thành
tội phạm do các nhà lý luận luật hình sự nghĩ ra và là một khái niệm trừu tượng
trong khoa học, cấu thành tội phạm là “hình thức phản ánh tội phạm trong
luật, mô tả tội phạm trong luật thông qua các yếu tố của nó” [16, tr.12].
Hiện nay, qua nghiên cứu các quy phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
cho thấy, khái niệm cấu thành tội phạm chưa được đề cập mà mới chỉ ghi
nhận ở một mức độ hạn chế khi đặt ra điều kiện để không miễn trách nhiệm
hình sự cho chủ thể là “nếu hành vi thực tế đã có đủ yếu tố cấu thành của một
tội khác” (Điều 19). Trong khi đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định
- “hành vi không cấu thành tội phạm” là một trong các căn cứ để các cơ quan
tiến hành tố tụng không khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 107). Do vậy,
cấu thành tội phạm chính là căn cứ khoa học cùng với căn cứ pháp lý là Bộ
luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, vì hành
vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu đặc
trưng của một cấu thành tội phạm tương ứng nào đó được quy định tại Phần
các tội phạm Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo
đảm các quyền và tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để xử lý
giữa trường hợp hành vi đã cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm.
Tuy vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang
nghiên cứu được hiểu như sau:
Cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ
quan đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật hình
sự. Hay nói cách khác, đúng như một tác giả nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
này đã viết: “Cấu thành tội phạm là sự mô tả tội phạm trong luật thông qua
các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố có tính đặc trưng, phản ánh đầy đủ nội dung
chính trị-xã hội của tội phạm” [15, tr.8].
22
Như vậy, từ khái niệm cấu thành tội phạm đã nêu trên có thể đưa đến
một nhận định rằng: để xem xét một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là
tội phạm hay không, điều quan trọng là phải nắm được bản chất của hành vi
đó. Nói một cách khác, để đánh giá đúng và chính xác bản chất của từng loại
hành vi phạm tội, pháp luật hình sự phải giải thích và làm sáng tỏ một loạt các
câu hỏi sau đây [50, tr.98]:
- Vấn đề thứ nhất - Quan hệ xã hội nào đã bị tội phạm xâm hại hoặc đe
dọa xâm hại đến và được luật hình sự xác lập và bảo vệ ?
- Vấn đề thứ hai - Hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện ra bên
ngoài thế giới khách quan ra sao ? Hậu quả mà nó gây ra như thế nào cho xã
hội ? Có các dấu hiệu gì khác nữa không ?
- Vấn đề thứ ba - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy đã
đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hay chưa và người đó có phải là người
bình thường hay không ? Họ có những nhược điểm gì về thể chất hay tinh
thần không ?
- Vấn đề thứ tư - Thái độ, trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đó như thế nào ? Khi thực hiện hành vi này họ có động
lực gì và mong muốn đạt được kết quả gì ?
Trả lời các câu hỏi trên, quan điểm được thừa nhận chung là những dấu
hiệu của cấu thành tội phạm thường rất phong phú, đa dạng nhưng các dấu
hiệu đó chỉ có thể thuộc về bốn yếu tố cấu thành tội phạm: Khách thể của tội
phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan
của tội phạm. Do đó, muốn xác định được đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu
thành của một loại tội phạm cụ thể phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật
Phần chung và các quy phạm thuộc Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Nội dung và nội hàm của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đã nêu được khoa
học luật hình sự Việt Nam thống nhất như sau:
23
- Yếu tố thứ nhất - Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được
Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất
một khách thể được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ. Khách thể của tội
phạm được liệt kê tại Điều 8 Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó các nhà làm luật
phân chia các loại tội phạm có cùng tính chất trong cùng một chương tương
ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật này.
- Yếu tố thứ hai - Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài
của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới
khách quan, gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm
cho xã hội, thời gian, địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội,
công cụ, phương tiện phạm tội và hoàn cảnh phạm tội.
- Yếu tố thứ ba - Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong của
tội phạm, là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, bao
gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
- Yếu tố thứ tư - Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã
thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với một số tội phạm yêu cầu người thực hiện
tội phạm phải có thêm một số dấu hiệu bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp,
độ tuổi, chức vụ, quyền hạn... gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm.
Như vậy, bốn yếu tố cấu thành tội phạm có mối quan hệ hữu cơ và chặt
chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội dung cụ
thể và tổng hợp bốn yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ quan hệ
tâm lý, thái độ bên trong của một người với hành vi do chính họ thực hiện ra
bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Do đó, bất kỳ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
24
nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội
nào, dù mức hình phạt và loại hình phạt ít nghiêm khắc hay có nghiêm khắc
đến như thế nào đi chăng nữa, thì tội phạm bao giờ cũng đều thể hiện mối
quan hệ hữu cơ, logic và thống nhất giữa những biểu hiện khách quan và chủ
quan của nó.
1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản
Khái niệm định tội danh nêu trên là chỉ việc định tội danh trong hoạt
động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại
tội phạm. Còn đối với việc định tội danh tội cướp tài sản là một hoạt động tố
tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trong đó, trên cơ sở
các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội cướp tài sản, các cơ quan tiến hành tố
tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự)
phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có phải là hành vi
cướp tài sản hay không, thuộc khoản (khung) cụ thể nào đó từ đó ban hành
các quyết định tố tụng tương ứng theo quy định của pháp luật.
Điều 133 Bộ luật hình sự Việt Nam có tên gọi là “Tội cướp tài sản” với
nội dung quy định như sau:
“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống
cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm...”.
Như vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi
khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau:
Tội cướp tài sản là hành vi của một người đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
25
lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào
tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản.
Do đó, kết hợp giữa các khái niệm định tội danh (1) và tội cướp tài sản
(2) đã nêu, theo chúng tôi, khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản
được định nghĩa như sau:
Định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những dạng hoạt
động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng
có thẩm quyền theo quy định pháp luật để xem xét, đánh giá, phân tích một
hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản
hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình
sự và đưa ra kết luận bằng một văn bản pháp luật.
1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp
tài sản
Từ khái niệm đã nêu, theo chúng tôi, việc định tội danh đối với tội
cướp tài sản ngoài có những đặc điểm chung của việc định tội danh, nó còn
phản ánh đặc điểm cơ bản riêng như sau:
Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những
dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, mà cụ thể là áp dụng
các quy định của Bộ luật hình sự bao gồm cả Phần chung và Phần các tội
phạm của Bộ luật này;
Thứ hai, hoạt động thực tiễn này do các cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền - Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định và trình
tự của pháp luật thực hiện và trong bản án của Tòa án, tội danh mang giá trị
cao nhất - chính thức;
Thứ ba, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng cách
- trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách
quan của vụ án hình sự (vụ án cướp tài sản) để đối chiếu, so sánh và kiểm tra
26
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 133
Bộ luật hình sự;
Thứ tư, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản
chính là Bộ luật hình sự (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể
là Điều 133 Bộ luật hình sự nội dung Điều luật này. Trong khi đó, căn cứ
khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là cấu thành tội
phạm này (bao gồm bốn yếu tố - khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Nội dung của
các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ được đề cập trong mục 2.1. Chương 2 luận
văn này;
Thứ năm, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cướp tài sản
thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có
thẩm quyền do pháp luật quy định;
Thứ sáu, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà
người phạm tội phải gánh chịu. Theo đó, các hình thức văn bản áp dụng pháp
luật trong hoạt động định tội danh đối với tội cướp tài sản theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm:
- Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
- Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;
- Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố bị can;
- Quyết định đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ điều tra bị can;
- Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại;
- Quyết định phục hồi điều tra;
- Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra;
- Kết luận điều tra;
27
- Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
- Bản cáo trạng;
- Bản án;
- Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị;
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC ĐỊNH
TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản
Như đã đề cập, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những
dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành
tố tụng có thẩm quyền - Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định
của pháp luật nhằm xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa
mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không, nếu đúng thì nó
thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự. Do đó, việc định tội danh
đúng đối với tội phạm này có những ý nghĩa như sau:
Một là, bằng việc cụ thể hóa các quy định Bộ luật hình sự trừu tượng,
khoa học vào đời sống thực tế, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có
căn cứ và đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt đối với người phạm tội một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật, đồng thời để áp dụng chính xác các quy định khác trong Bộ luật hình
sự như: các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, khung (khoản) với mức và
loại hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội cướp
tài sản, xác định chính xác tái phạm, tái phạm nguy hiểm; cũng như quyết định
hình phạt trong một loạt những trường hợp khác nhau như: phạm tội có đồng
phạm, đa (nhiều) tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; v.v...
Hai là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ và các chức năng của Bộ luật hình sự - bảo
28
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ
theo pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ngoài ra, việc định tội
danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ góp phần thực hiện tốt
nguyên tắc xử lý về hình sự với sự thể hiện các tư tưởng của hàng loạt nguyên
tắc tiến bộ như: pháp chế, dân chủ, bình đẳng, công minh, nhân đạo và trách
nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi của người phạm tội; v.v...
Ba là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
còn là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác và đúng đắn các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam, khởi tố vụ án hình
sự, thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử; qua đó, góp phần hữu hiệu cho việc
bảo vệ các quyền và tự do của công dân nói chung với một bên là quyền và tự
do của người phạm tội cướp tài sản trong lĩnh vực tư pháp hình sự;
Bốn là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ
đem lại công lý và công bằng trong xã hội, pháp luật được thực thi nghiêm
chỉnh và quyền lợi của người bị hại được đền bù, cũng như người phạm tội
phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt trước pháp luật;
Năm là, cuối cùng, tuy nhiên, nếu việc định tội danh đối với tội cướp
tài sản không đúng đương nhiên dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: bỏ lọt
tội phạm, bỏ lọt người phạm tội; không bảo đảm được pháp chế xã hội chủ
nghĩa và tính công bằng của hình phạt do Tòa án quyết định, người phạm tội
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không bảo đảm quyền và lợi ích cho
người bị hại. Ngược lại, ở mức cao hơn, nếu một người không phạm tội hoặc
phạm tội nhẹ hơn tội cướp tài sản, nếu bị định tội danh là tội cướp tài sản
không những truy cứu trách nhiệm hình sự không chính xác mà còn xâm
29
phạm thô bạo danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân; gây ra
oan, sai với những hệ lụy vô cùng lớn cho xã hội; qua đó làm giảm uy tín và
hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội
cướp tài sản
Trên cơ sở những điều kiện bảo đảm chung cho việc định tội danh đối
với các tội phạm, định tội danh đối với tội cướp cụ thể đương nhiên cũng phải
bảo đảm các điều kiện này, bao gồm những điều kiện sau đây:
* Điều kiện thứ nhất - năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của
người định tội danh
Thẩm quyền cụ thể trực tiếp trong hoạt động định tội danh tuy không
được Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự quy định
cụ thể, nhưng căn cứ vào quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của những
người tiến hành tố tụng hình sự trong hai văn bản pháp luật nói trên, có thể
xác định đó là những người tiến hành tố tụng và những người được phân công
tiến hành một số hoạt động điều tra (của một số Cơ quan điều tra được quy
định trong Pháp lệnh Tổ chức điệu tra hình sự), đó là những người được giao
quyền hạn, trách nhiệm giải quyết vụ án và có thẩm quyền ký các văn bản của
cơ quan có thẩm quyền chung trong việc định tội danh.
- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra. Khi thực hiện việc
điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng Cơ quan Điều tra có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khởi tố vụ
án, quyết định nhập hoặc tách vụ án;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
+ Quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tam giữ, kê biên tài sản,
xử lý vật chứng;
30
+ Quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi;
+ Kết luật điều tra vụ án;
+ Quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, quyết định phục
hồi điều tra;
+ Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra, cấp, thu hồi giấy chứng
nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan Điều tra.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi được phân công điều tra vụ án hình sự,
Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn giống như
Thủ trưởng Cơ quan Điều tra được quy định tại khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố
tụng hình sự.
- Viện trưởng, Phó Viện trường Viện Kiểm sát. Điều 36 Bộ luật tố tụng
hình sự quy định cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát như sau:
+ Tổ chức và chỉ đạo toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự;
+ Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng đối với vụ án hình sự;
+ Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên;
+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo quy định của pháp luật;
+ Quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và
trái pháp luật của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
+ Quyết định rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ
và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới;
31
+ Quyết định thay đổi Kiểm sát viên;
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Tương tự, cũng lưu ý, khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một
Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện trưởng, Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về
nhiệm vụ được giao.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
+ Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định
khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan Điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi
tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan Điều tra thay đổi Điều tra viên;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
+ Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định
của Cơ quan Điều tra;
+ Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan Điều tra;
+ Quyết định chuyển vụ án;
+ Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
quyết định trưng cầu giám định;
+ Quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định
phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng;
+ Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và
tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Ngoài ra, khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
32
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tung đối với vụ án hình sự, Phó viện
trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại
khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự (tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện trưởng Viện kiểm sát).
- Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án có những
nhiệm vụ và quyền hạn chung sau đây:
+ Tổ chức công tác xét xử của Tòa án;
+ Quyết định phân công Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết,
xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng
đối với vụ án hình sự;
+ Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trước khi
mở phiên tòa;
+ Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Ra quyết định thi hành án hình sự;
+ Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù;
+ Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù;
+ Quyết định xóa án tích.
Tương tự, khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án
ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án. Phó Chánh án phải
chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình sự Chánh án có những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
+ Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam; quyết
định xử lý vật chứng;
+ Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và
tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
33
Khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, Phó Chánh án có
các nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 38 Bộ luật tố tụng hình
sự (tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án).
- Thẩm phán. Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án
hình sự như sau:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;
+ Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự;
+ Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
+ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án;
+ Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa;
+ Tham gia xét xử các vụ án hình sự;
+ Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
+ Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
- Hội thẩm. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm quy định
tại Điều 40 Bộ luật tố tụng hình sự như sau:
+ Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa;
+ Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm;
+ Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
Ngoài những người có thẩm quyền nêu trên thì những người tiến hành
tố tụng khác tuy có tham gia vào hoạt động định tội danh trong tố tụng hình
sự nhưng không có thẩm quyền định tội danh, đó là Điều tra viên, Kiểm sát
34
viên, Thư ký Tòa án. Những người này tuy cũng là những người tiến hành tố
tụng nhưng họ chỉ thực hiện những công việc liên quan hoạt động hỗ trợ cho
hoạt động định tội danh, giúp cho người có thẩm quyền tiến hành hoạt động
định tội danh đúng pháp luật và chính xác [19, tr.24].
Như vậy, không phải tất cả những người tiến hành tố tụng và những
người được phân công tiến hành một số hoạt động điều tra đều có thẩm quyền
định tội danh, nhưng khi họ thực hiện các hành vi tố tụng thì vai trò của họ là
hỗ trợ, giúp việc cho người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong việc định
tội danh (ví dụ: Thư ký Tòa án, cán bộ, công chức tại Cơ quan Điều tra, Viện
kiểm sát). Theo đó, vai trò nhiệm vụ của họ như sau:
- Điều tra viên. Theo Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự thì nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên được phân công điều tra vụ án
hình sự như sau:
+ Lập hồ sơ vụ án hình sự;
+ Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lòi khai của người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
+ Quyết định áp giải bị can, dẫn giải người làm chứng;
+ Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê
biên tài sản;
+ Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất,
nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
+ Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan
Điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan Điều tra.
- Kiểm sát viên. Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Kiểm sát viên
có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm khi được phân công thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với
vụ án hình sự như sau:
35
+ Kiểm sát việc khởi tố các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
của Cơ quan điều tra;
+ Đề ra yêu cầu điều tra;
+ Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm
chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án;
+ Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
+ Tham gia phiên tòa, đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên
quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận
tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa;
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án,
của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa và kiểm sát các bản án, quyết
định của Tòa án;
+ Kiểm sát việc thi hành án bản án, quyết định của Tòa án;
+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.
- Thư ký Tòa án. Là cán bộ, công chức có nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
+ Phổ biến nội quy phiên tòa;
+ Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập
đến phiên tòa;
+ Ghi biên bản phiên tòa;
+ Tiến hành những hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo
sự phân công của Chánh án Tòa án.
Như vậy, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người định tội
danh được coi là một trong những điều kiện cơ bản bảo đảm cho việc định tội
danh đối với tội cướp tài sản. Theo đó, để có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
36
vững vàng, chắc chắn, trước hết người định tội danh phải là người được đào
tạo cơ bản và căn bản về pháp luật (phải bằng đại học luật hoặc tương đương
trở lên). Người định tội danh không những nắm chắc các kiến thức được
giảng dạy ở trường đại học về các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của
tội cướp tài sản, hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật,
mà còn phải thường xuyên trau dồi chuyên môn, thường xuyên cập nhật văn
bản pháp luật mới, hướng dẫn mới liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nói
chung, tội cướp tài sản nói riêng [18, tr.41]. Trên thực tế, các vụ án xảy ra rất
đa dạng, với muôn màu muôn vẻ các tình tiết, yếu tố khác nhau, trong đó có
tội cướp tài sản, đặc biệt là về các tình tiết cũng như chứng cứ rất phức tạp
trong vụ án. Do đó, chỉ với khả năng chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng của
mình, người định tội danh mới có điều kiện để cân nhắc, đánh giá toàn bộ các
tình tiết của vụ án thông qua các chứng cứ xác thực, đối chiếu hành vi đã thực
hiện với quy định của Điều 133 Bộ luật hình sự để từ đó xác định hành vi đó
phạm tội gì, có phạm tội cướp tài sản hay không, khoản nào của Điều luật
này; cũng như các yếu tố khác tác động và những tình tiết khác như: chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, quyết định hình phạt; v.v...
Bên cạnh đó, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố ảnh
hưởng rất nhiều đến việc định tội danh. Người định tội danh
Cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tình công tác nhưng
nếu không có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công
tác chuyên môn của mình (trong đó có hoạt động định tội danh) và
trong quan hệ công tác với cấp trên, đồng nghiệp, họ khó có thể là
người độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động nghề nghiệp của
mình [18, tr.42].
Bởi lẽ, định tội danh là hoạt động tư duy có tính logic, tính lý luận chặt
chẽ, song nó cũng là hoạt động trí tuệ mang đầy chất sáng tạo trước các tình
37
tiết cụ thể của vụ án để có thể vận dụng linh hoạt và chính xác trong áp dụng
điều, khoản Bộ luật hình sự, trong đó có tội cướp tài sản. Ngoài ra, điều này
đúng như một nhà khoa học đã nhận định: “Pháp luật, dù có hoàn thiện đến
mấy, cũng không thể phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh
cụ thể của cuộc sống...” [47, tr.207]. Cho nên, nếu người định tội danh không
nắm được kiến thức cơ bản và phát huy tính sáng tạo của mình trên cơ sở
đường lối, chính sách hình sự của Đảng và hệ thống pháp luật hình sự của
Nhà nước thì điều này có thể đưa đến việc định tội cứng nhắc và trong nhiều
trường hợp sẽ định tội danh không đúng đối với tội phạm nói chung, tội cướp
tài sản nói riêng. Do đó, chỉ trên cơ sở có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ
vững vàng, ổn định, độc lập và không ngừng rèn luyện, trau dồi, người định
tội danh mới có thể độc lập trong quan điểm và bảo vệ quan điểm của mình,
không bị chi phối bởi quan điểm của cơ quan, tổ chức và của cấp trên. Một
điều rất quan trọng là để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ
thực tiễn - người tiến hành định tội danh, các cơ quan chức năng cần thường
xuyên tổ chức các lớp tập huấn điều tra, truy tố, xét xử, cập nhật kiến thức,
nâng cao trình độ cho các cán bộ của mình về các tội phạm và thủ tục tố tụng
nói chung, tội cướp tài sản nói riêng.
Đặc biệt, đối với Hội thẩm, nên chọn những người làm công tác liên
quan đến pháp luật như: giảng viên đại học, cán bộ hưu trí trước kia từng làm
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, luật sư... để góp phần cùng với
người định tội danh định tội danh chính xác và đúng pháp luật.
* Điều kiện thứ hai - đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của
người định tội danh
Đây được coi là điều kiện bảo đảm thứ hai trong việc định tội danh nói
chung, định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng. Ngoài ra, điều kiện thứ
hai này hỗ trợ nhau giúp cho người định tội danh có nền tảng cơ bản để có thể
38
định tội danh đúng. Bởi lẽ, trên cơ sở năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững
vàng, ổn định, đòi hỏi người định tội danh đương nhiên phải là người có ý
thức tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, gương mẫu
trong công việc, có lương tâm, trách nhiệm với nghề nghiệp, với công việc,
kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý và công bằng xã
hội, cũng như là người có thái độ làm việc công tâm, vô tư và không tư lợi.
Khi định tội danh, người định tội danh đã nhân danh Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xác định một người có tội không, nếu có
tội thì là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật hình sự và đối với tội cướp tài
sản là có tội không, nếu có rơi vào khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự.
Tội cướp là tội phạm có mức cao nhất là tử hình, do đó, đòi hỏi trong quá
trình làm việc, người định tội danh phải hết sức cẩn trọng, chú ý, có trách
nhiệm cao trong việc thu thập và đánh giá để xác định tội danh chính xác.
Điều này đòi hỏi người định tội danh phải có ý thức tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật, lấy việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật làm đầu.
Bên cạnh đó, trong công tác chuyên môn của mình và trong đời sống
hàng ngày, ý thức này của người định tội danh phải trở thành suy nghĩ đến
hành động để làm lá chắn vững chắc không cho những cám dỗ, tiêu cực, tiền
bạc... của đời sống xã hội tác động đến.
Tuy vậy, đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp là phạm trù
thuộc phẩm chất đạo đức của người định tội danh. Đạo đức, lương tâm, trách
nhiệm nghề nghiệp không phải là đồ xa xỉ hay trừu tượng mà nó là cái hiện
hữu chúng ta có thể nhìn thấy khi đánh giá hiệu quả công việc của chủ thể
tiến hành. Cho nên, một người định tội danh thường xuyên mắc phải sai lầm
trong định tội danh thì không thể coi người đó có chuyên môn tốt hoặc hoặc
phẩm chất đạo đức trong sáng. Lẽ dĩ nhiên, trong quá trình định tội danh, nếu
người định tội danh do thiếu sự cẩn trọng cần thiết, qua loa, vô cảm, đại khái
39
thì có thể dẫn đến bỏ sót một hoặc nhiều tình tiết nào đó, từ đó sẽ dẫn đến
định tội danh sai; hoặc thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm đến chất lượng của công
việc mình đang làm, đến số phận của người phạm tội hoặc thái độ làm việc
nhũng nhiễu, đòi hỏi, vụ lợi, tham nhũng, hối lộ… có thể đưa đến hậu quả xử
lý oan, sai. Do đó, công việc của người định tội danh cũng có những đặc điểm
giống như công việc của người bác sỹ. Có thể nói một cách hình ảnh là nếu
như bác sỹ phẫu thuật có sai sót thì có thể làm chết hoặc gây cố tật cho một
con người, còn nếu người định tội danh sai thì có thể ảnh hưởng đến số phận
của một đời người... [18, tr.44].
Đặc biệt, người định tội danh trong các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều
khi phải chịu áp lực bởi nhiều thế lực - cơ quan, tổ chức; dư luận, báo chí,
truyền thông; các nhóm xã hội đen; cấp trên và người có quyền lực; v.v...
thậm chí của các cơ quan, tổ chức chính quyền, đảng làm cho người định tội
danh dễ thay đổi, nao núng, ví dụ như yêu cầu xử lý là không có tội đối với
tội cướp tài sản hoặc xử lý theo khoản 1 trong khi bị cáo phạm khoản 2 Điều
133 Bộ luật hình sự… Do đó, đòi hỏi bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng
của người định tội danh trước số phận của công dân, trước lẽ phải và công
bằng trong xã hội, trước nhân dân, những người đã đóng thuế trả công; v.v…
Cho nên, trước mỗi vụ án, trước mỗi bị cáo, trước những bài báo viết sai sự
thật, sự tác động của các thế lực; v.v… đòi hỏi người định tội danh phải có
bản lĩnh vững vàng với thái độ khách quan và tinh thần trách nhiệm cao, đánh
giá, phân tích toàn diện và có hệ thống tất cả các tình tiết của vụ án, cũng như
chỉ và phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật để từ đó bảo đảm xác định
tội danh đối với người phạm tội được đúng. Cần phải nói đến thái độ làm việc
công minh, chính trực, khách quan, không vụ lợi cũng là yếu tố cần thiết
trong phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người định tội danh. Rõ ràng, nếu
họ thiếu sự vô tư, trong sáng hoặc vì vụ lợi hoặc để tình cảm cá nhân, gia đình
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT

More Related Content

What's hot

LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...PinkHandmade
 

What's hot (20)

Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
LUẬN VĂN LUẬT HỌC PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA LÂM, T...
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sựLuận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
Luận văn: Tội đánh bạc tổ chức đánh bạc theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAYLuận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
Luận văn: Tình hình tội phạm về ma túy tại tỉnh Quảng Nam, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT

Similar to Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT (20)

Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Dấu hiệu định lượng trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOTĐịnh tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
Định tội danh đối với tội tàng trữ mua bán trái phép chất ma túy, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hayLuan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
Luan van toi pham chua hoan thanh theo luat hinh su, hay
 
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sựBảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội không thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOTĐề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
Đề tài: Địa vị pháp lý của người bị hại trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội giết người theo luật hình sự, HOT
 
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOTBiện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
Biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh tài sản, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụngNgười tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát theo Luật Tố tụng
 
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAYĐề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Đề tài: Người tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con ngườiLuận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
Luận văn: Nguyên tắc hai cấp xét xử về bảo vệ quyền con người
 
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con ngườiĐề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
Đề tài: Nguyên tắc hai cấp xét xử với việc bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAYLuận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự, HAY
 
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luậtNhững căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
Những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo pháp luật
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 

Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUỐC HÀ §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI C¦íP TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI QUỐC HÀ §ÞNH TéI DANH §èI VíI TéI C¦íP TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Bùi Quốc Hà
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.....10 1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH.......................................................................10 1.1.1. Khái niệm định tội danh .....................................................................10 1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh ...............................................18 1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh.............................................20 1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ............................................................24 1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản ...............................24 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản......25 1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN .........................................27 1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản.....................27 1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội cướp tài sản.........................................................................................29 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ..................42 2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LƯU Ý TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ....................................................................42
  • 5. 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự..............................................................42 2.1.2. Hình phạt ............................................................................................47 2.1.3. Một số vấn đề khác cần lưu ý trong việc định tội danh đối với tội cướp tài sản....................................................................................50 2.2. THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK.......................................................53 2.2.1. Khái quát điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................53 2.2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk ................................................................................57 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN ..........80 3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN..........................................80 3.1.1. Về phương diện chính trị - xã hội.......................................................80 3.1.2. Về phương diện lý luận và thực tiễn ..................................................82 3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự.......................................................84 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN .............................................................85 3.2.1. Nhận xét chung...................................................................................85 3.2.2. Những đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể...............................................88 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP KHÁC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN.............94 3.3.1. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.........................94 3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ................................................96 3.3.3. Các giải pháp khác............................................................................103 KẾT LUẬN..................................................................................................108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................111
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk 54 Bảng 2.2: Số vụ án cướp tài sản với các vụ án khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu trong thời gian 05 năm (2009- 2013) trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 58 Bảng 2.3: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời gian 05 năm (2009-2013) 61 Bảng 2.4: Tổng số vụ án về tội cướp tài sản và các tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm (2009-2013) 62 Bảng 2.5: Tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội cướp tài sản và các tội phạm khác trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 63 Bảng 2.6: Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị thay đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 64 Bảng 2.7: Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 65 Bảng 3.1: Tình hình tội phạm hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2009 đến năm 2013 82
  • 7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang Biểu 2.1: Tổng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử về tội cướp tài sản trong thời gian 05 năm (2009-2013) 62 Biểu 2.2. Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị thay đổi tội danh của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 64 Biểu 2.3: Nguyên nhân thay đổi danh đối với các vụ án phạm tội cướp tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong thời gian 05 năm (2009-2013) 65
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn và bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Điều 31 đã quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...” [28, tr.22]. Vì vậy, để có một bản án công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt phải thực sự đúng đắn, có như vậy mới bảo vệ các quyền, lợi ích và tự do của con người, thậm chí tính mạng con người. Ngoài ra, cũng chỉ có Tòa án mới có quyền định tội danh và quyết định hình phạt chính thức đối với một người, trong đó hoạt động định tội danh nhằm xác định một người có tội hay không có tội, nếu họ có tội thì tên tội mà họ đã phạm là tội gì căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự để có hình phạt tương xứng. Do đó, định tội danh đúng, chuẩn xác không những góp phần quyết định hình phạt công minh và đúng pháp luật, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội danh sai đương
  • 9. 2 nhiên sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính công minh và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định, dẫn đến truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo đến danh dự, nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân…, làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm [8, tr.17-18]. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh, nhất là đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung, riêng tội cướp tài sản nói riêng. Thời gian gần đây, tội phạm này đang có diễn biến phức tạp, đặc biệt là trong lĩnh vực đòi nợ, xiết nợ do chủ tài sản không trả nên nhiều người đã manh động, tìm đến việc dùng vũ lực để đòi nợ; hoặc còn có sự nhầm lẫn giữa tội cướp tài sản với tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hay tội cưỡng đoạt tài sản; hoặc trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại định tội danh là một tội; v.v… từ đó dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt không đúng, qua đó gây dư luận không tốt và làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nhận thức và xem xét vấn đề quan trọng đó, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không ngừng đẩy nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án, phấn đấu không để xảy ra việc kết án oan người không có tội và bỏ lọt tội phạm, hạn chế tới mức thấp nhất các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán, bảo đảm các quyết định của Tòa án đúng pháp luật, đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu, có sức thuyết phục cao, có tính khả thi và được dư luận xã hội đồng tình, ủng hộ. Chẳng hạn, năm 2009, tổng số vụ án và bị cáo phạm tội cướp tài sản cả ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm như sau: 48 vụ án và 131 bị cáo; năm 2010 có 39 vụ án và 93 bị cáo; năm 2011 có 30 vụ án và 78 bị cáo; năm 2012 có 32 vụ án và 82 bị cáo và năm 2013 có 42 vụ án và
  • 10. 3 137 bị cáo. Về cơ bản, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm của tỉnh Đắk Lắk đã định tội danh đúng và quyết định hình phạt chính xác, nhưng vẫn còn một vài trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh còn thiếu chính xác, nhầm lẫn, sửa án, hủy án, hoặc phân hóa trách nhiệm hình sự chưa chính xác, qua đó, ít nhiều đã làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng, giảm uy tín của Tòa án cũng như chưa bảo đảm các quyền và lợi ích của người phạm tội. Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, đồng thời phục vụ trực tiếp cho công tác thực tiễn xét xử, là thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện của tỉnh Đắk Lắk, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Viê ̣t Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Định tội danh đúng, chính xác có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật, được dư luận xã hội và nhân dân ủng hộ, đồng tình, trật tự pháp luật được ổn định, uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án được nâng cao. Vì vậy, dưới góc độ khoa học bước đầu đã có một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, ngoài một số công trình do các nhà khoa học Liên bang Nga biên soạn mà trong cuốn sách Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản dẫn ra có một số công trình về lý luận định tội danh mà không có công trình nào định tội danh đối với một hoặc một nhóm tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Còn trong sách báo pháp lý trong nước, chúng tôi chia thành các nhóm vấn đề sau:
  • 11. 4 * Dưới góc độ giáo trình, sách chuyên khảo, sách tham khảo liên quan đến vấn đề định tội danh và tội cướp tài sản, có thể kể đến các công trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Văn Cảm và PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Định tội danh (Lý luận, Lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 2) PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn giải bài tập về định tội danh, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999; 3) PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2003, 2007; 4) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về Định tội danh, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1999 và tái bản năm 2010; 5) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 6) ThS. Đoàn Tấn Minh, Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong Bộ luật hình sự hiện hành, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010; 7) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; v.v... * Dưới góc độ luận văn, luận án tiến sĩ luật học, nói chung, chỉ có một số công trình đề cập riêng rẽ đến vấn đề định tội danh hoặc về tội cướp tài sản hoặc đấu tranh phòng, chống tội phạm này như: 1) Đỗ Kim Tuyến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; 2) Võ Minh Tiến, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; 3) Nguyễn Thị Ngọc Hoa, Đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; 4) Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn
  • 12. 5 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; 5) Nguyễn Thanh Dung, Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012; v.v... * Dưới góc độ bài viết, đề tài khoa học, hiện nay, trên Tạp chí Tòa án nhân dân và một số tạp chí khác cũng đăng nhưng chỉ mang tính chất đơn lẻ và phân tích các dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm, cũng như định tội danh đối với từng vụ án cụ thể, ví dụ: 1) TS. Phan Anh Tuấn, Định tội danh trong trường hợp một hành vi thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 2/2001; 2) Đặng Văn Phượng, Một số trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm trong tội cướp tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17(9)/2008; 3) TS. Mai Bộ, Tội cướp tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/2007; 4) ThS. Phạm Văn Báu, Tội cướp tài sản trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 10/2010; 5) TS. Phạm Văn Beo, Về dấu hiệu hậu quả chết người ở tội cướp tài sản trong Bộ luật hình sự hiện hành, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 14(7)/2013; v.v... Như vậy, những bài nghiên cứu hoặc một số công trình sách báo đã nêu mới chỉ khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động định tội danh và thực tiễn định tội danh; phân tích, đánh giá, nhận định một số vấn đề liên quan đến yếu tố định tội danh, đồng thời phân biệt tội cướp tài sản với một số tội phạm trong Bộ luật hình sự hoặc nghiên cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu; v.v… Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về vấn đề định tội danh đối với tội cướp tài sản và trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là phân tích khoa học để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định
  • 13. 6 tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản, qua đó hạn chế oan, sai và vi phạm pháp luật trong thực tiễn xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: 1) Xây dựng khái niệm định tội danh, phân tích căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh; 2) Xây dựng khái niệm và phân tích những đặc điểm của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản; 3) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc định tội danh đối với tội cướp tài sản; 4) Đánh giá thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân, từ đó chỉ ra các tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản; 5) Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước nói chung. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâ ̣t hình sựViê ̣t Nam, đánh giá thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân trong giai đoạn 05 năm (2009-2013),
  • 14. 7 trên cơ sở đó, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản, từ đó luận chứng và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội phạm này. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách hình sự; quan điểm, đường lối xử lý các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk để phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 6.1. Ý nghĩa khoa học Hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, cũng như phục vụ Hiến pháp năm 2013 và các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, việc nghiên cứu để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk góp phần bổ sung vào kho tàng lý luận về định tội danh trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung, lý luận về định tội danh đối với một tội phạm cụ thể - tội cướp tài sản nói riêng, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và bảo vệ quyền con người, cũng như bảo đảm trật tự, an toàn xã hội nói riêng.
  • 15. 8 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Tòa án trong việc định tội danh giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng tại Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Đắk Lắk, qua đó, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, việc bảo vệ các quyền và tự do của con người nói riêng, cũng như phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành luật hình sự và tội phạm học tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước. 7. Những điểm mới về mặt khoa học của luận văn Đề tài phân tích dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo công tác ngành Tòa án nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk - đó là những số liệu thực tế góp phần làm rõ hơn thực trạng về định tội danh trên địa bàn đã nêu. Do đó, những điểm mới cơ bản của luận văn như sau: 1) Xây dựng khái niệm và phân tích các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam; 2) Làm sáng tỏ ý nghĩa và những điều kiện bảo đảm cho việc việc định tội danh đối với tội cướp tài sản; 3) Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk của Tòa án nhân dân; 4) Chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân cơ bản trong thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; 5) Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn Đắk Lắk nói riêng, cả nước nói chung.
  • 16. 9 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc định tội danh đối với tội cướp tài sản.
  • 17. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, CĂN CỨ PHÁP LÝ VÀ CĂN CỨ KHOA HỌC CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH 1.1.1. Khái niệm định tội danh Hiến pháp Việt Nam năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 mang đậm những tư tưởng tiến bộ, nhân văn và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều 31 đã quy định: “1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật...” [28, tr.22.]. Cho nên, để có một bản án công minh, khách quan, toàn diện và đúng pháp luật đòi hỏi việc định tội danh và quyết định hình phạt phải thực sự đúng đắn, có như vậy mới bảo vệ các quyền và tự do của con người. Do đó, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt chính thức đối với một người chỉ do duy nhất một cơ quan có thẩm quyền quyết định là Tòa án, trong đó, bản án của Tòa án nhằm xác định một người có tội hay không có tội và nếu có tội thì tên tội là tội gì... sau đó, tội gì sẽ có hình phạt tương xứng. Do đó, định tội danh đúng không những để quyết định hình phạt đúng, mà còn phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt chính xác, qua đó bảo vệ các quyền và tự do của con người, của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Ngược lại, nếu định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: không bảo đảm được tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt do Tòa án quyết định, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân..., làm giảm uy tín và hiệu lực của
  • 18. 11 các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm [6, tr.8]. Quá trình định tội danh được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện từ giai đoạn tiền khởi tố cho đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, thậm chí có thể xảy ra cả trong trường hợp tái thẩm, giám đốc thẩm nếu có căn cứ nhằm tìm ra bản chất thật sự của hành vi phạm tội, từ đó áp dụng đúng điều luật, đúng khung hình phạt đối với người phạm tội. Do đó, trước khi đi vào phân tích thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản thì việc làm rõ khái niệm, căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội danh nói chung là yêu cầu cần thiết. Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam, xung quanh khái niệm định tội danh và các vấn đề lý luận của nó đã được một số nhà khoa học - luật gia nghiên cứu (mặc dù chưa nhiều), tuy nhiên, các quan điểm đều thống nhất nội hàm của khái niệm đang nghiên cứu. Trước hết, theo PGS.TS. Trịnh Quốc Toản cho rằng: Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (đồng nhất) giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Nói cách khác định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã thực hiện thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội nào trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, đồng thời kết luận - Định tội danh là một quá trình logic nhất định, là hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý, thể hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật hình sự [43, tr.7-8].
  • 19. 12 Còn theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm, tác giả định nghĩa tương đối rộng và thể hiện như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng do luật hình sự quy định [6, tr.11]. Hay GS.TS. Võ Khánh Vinh quan niệm chỉ thu hẹp là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và nhận định: Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định [51, tr.20]. Ngoài ra, PGS.TS. Lê Văn Đệ cũng có quan điểm tương tự như sau: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự quy định” [13, tr.108]. Trong khi đó, PGS. TS. Dương Tuyết Miên lại chỉ ra cụ thể các chủ thể định tội danh hơi rộng và cho rằng: Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến
  • 20. 13 hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [18, tr.9]. Chúng tôi chưa hoàn toàn nhất trí với quan điểm này ở khía cạnh chủ thể khi tác giả quan niệm việc định tội danh còn do cả một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, vì dưới góc độ áp dụng pháp luật hình sự, việc định tội danh chỉ do ba cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) tiến hành và chính thức nhất của hoạt động này cùng với việc quyết định hình phạt là của Tòa án. Đặc biệt, có nhà hoạt động thực tiễn lại quan niệm bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật như sau: Định tội danh là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được mô tả trong luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật [19, tr.16]; v.v... Như vậy, nhìn chung trong các khái niệm định tội danh nêu trên, mặc dù các tác giả xây dựng với những cách diễn đạt khác nhau nhưng đều phản ánh được một số đặc điểm cần và đủ của hoạt động định tội danh, bao gồm: - Hoạt động về nhận thức tư duy (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội và việc đối chiếu, so sánh, phân tích kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật hình sự. - Đặc điểm về chủ thể của hoạt động định tội danh hoặc không; - Đặc điểm là dạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự hay cả pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự.
  • 21. 14 Như vậy, các yếu tố không thể thiếu của việc định tội danh chính là về chủ thể, về nhận thức, tư duy (đánh giá, phân tích) đối với hành vi phạm tội; về đối chiếu, so sánh, phân tích kết quả nhận thức đó với quy định pháp luật hình sự. Do đó, định tội danh không gì khác, chính là hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện, đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động phản ánh sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm pháp luật hình sự, có nghĩa là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự. Còn việc thực hiện hoạt động này do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài ra, bên cạnh việc đưa ra khái niệm định tội danh, các tác giả nêu trên còn đưa ra những hình thức (dạng) của định tội danh, nhằm phân biệt hoạt động định tội danh nào có giá trị pháp lý được pháp luật bảo đảm thi hành (mang tính cưỡng chế bắt buộc), còn hoạt động định tội danh nào chỉ mang tính tham khảo, không phát sinh tính pháp lý đối với người bị định tội danh. Chẳng hạn, theo nhiều nhà khoa học, có hai hình thức định tội danh là: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức. Trong đó, định tội danh chính thức “là sự đánh giá về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các chủ thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện” và định tội danh không chính thức “là sự đánh giá không phải về mặt Nhà nước tính chất pháp lý hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, cũng cần nêu thêm đặc điểm về chủ thể và hậu quả pháp lý như sau: Một là, định tội danh chính thức - do các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền thực hiện, nhằm giải quyết vụ án cụ thể. Hình thức này có giá trị pháp lý và được bảo đảm thực hiện; Hai là, định tội danh không chính thức - do các luật sư, luật gia, giảng viên, sinh viên, học viên, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí... thực hiện, nhằm nêu lên quan điểm cá nhân về một hành vi có dấu hiệu tội phạm song hình thức này không có giá trị pháp lý để giải quyết vụ án.
  • 22. 15 Tóm lại, theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Định tội danh là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật. Như vậy, từ khái niệm này có thể khẳng định rằng mục đích của định tội danh là nhằm đạt được sự thật khách quan của vụ án - đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Do đó, khái niệm đã nêu trên phản ánh những đặc điểm cơ bản của định tội danh như sau: Thứ nhất, định tội danh là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự (dưới góc độ áp dụng); Thứ hai, định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự. Trong đó, việc định tội danh chính thức và quyết định hình phạt chính thức do Tòa án thực hiện; Thứ ba, định tội danh được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đối chiếu, so sánh và kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định;
  • 23. 16 Thứ tư, kết quả của quá trình định tội danh thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền ban hành do pháp luật quy định; Thứ năm, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu. Theo đó, các hình thức văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm: - Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự; - Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; - Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; - Quyết định đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ điều tra bị can; - Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại; - Quyết định phục hồi điều tra; - Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra; - Kết luận điều tra; - Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; - Bản cáo trạng; - Bản án; - Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị; - Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. Trong đó, việc định tội danh chính thức và quyết định hình phạt chính thức do Tòa án thực hiện trong giai đoạn xét xử. Bên cạnh đó, trong pháp luật thực định, bên cạnh khái niệm “định tội danh” cũng đang tồn tại khái niệm “định tội” nên cần phân biệt chính xác. Về cơ bản, khoa học luật hình sự đều thống nhất các giai đoạn định tội danh được chia làm ba giai đoạn, đó là:
  • 24. 17 - Giai đoạn thứ nhất - xác định quan hệ pháp luật. Giai đoạn này xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không, hay chỉ là hành vi vi phạm pháp luật khác; - Giai đoạn thứ hai - tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự. Giai đoạn này xác định xem khách thể bị xâm hại và các dấu hiệu của chủ thể; - Giai đoạn thứ ba - tìm quy phạm pháp luật hình sự cụ thể (trực tiếp): Giai đoạn này đối chiếu xem hành vi phạm tội được quy định trong điều, khoản nào của Bộ luật hình sự [6, tr.15-16]. Theo đó, việc phân chia các giai đoạn định tội danh cho thấy đã có chứa đựng (gián tiếp) trong đó việc định tội thể hiện ở giai đoạn thứ nhất - đó chính là việc xem xét có dấu hiệu của tội phạm xảy ra hay không và nếu không có dấu hiệu của tội phạm, mà chỉ là hành vi vi phạm ở mức độ xử lý hành chính thì sẽ không đặt ra vấn đề định tội danh nữa. Cho nên, việc định tội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội danh, bởi nó quyết định đến việc có phát sinh hoạt động định tội danh hay không, từ đó quyết định việc có hay không có phát sinh ra các hoạt động tố tụng tiếp theo. Mặt khác, nếu việc định tội được làm tốt sẽ tránh được oan, sai trong tố tụng hình sự, cũng như đỡ tốn công sức, tài sản của Nhà nước, của xã hội. Bên cạnh đó, nếu việc định tội đã xác định không có tội phạm xảy ra, thì sẽ không có giai đoạn tiếp theo, do đó, hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ, làm tiền đề và hỗ trợ nhau. Vì thế, định tội được coi là hoạt động tố tụng nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, còn định tội danh là bước tố tụng tiếp theo của định tội, nhằm xác định và đặt tên cho hành vi phạm tội. Đặt tên tội danh nằm trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Trường hợp nếu hành vi mà Bộ luật hình sự không quy định đó là tội phạm thì hành vi đó không phải là tội phạm và sẽ không đặt ra vấn đề định tội danh ở đây.
  • 25. 18 1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh Việc tìm ra căn cứ pháp lý của việc định tội danh có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Bởi lẽ, đây chính là căn cứ mà phải dựa vào đó mới đặt ra tội danh đối với một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, căn cứ pháp lý của việc định tội danh có thể được hiểu trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp dưới đây: Một là, trên bình diện rộng, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã được thực hiện là tội phạm. Hai là, trên bình diện hẹp, thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm [7, tr.21]. Trong khi đó, có tác giả chỉ coi ở khía cạnh hẹp hơn, căn cứ pháp lý của việc định tội danh là Bộ luật hình sự mà cụ thể hơn là điều luật quy định về tội phạm cụ thể [18, tr.12]. Chúng tôi chưa nhất trí hoàn toàn, vì ngoài việc áp dụng điều luật quy định tội phạm cụ thể, thực tiễn, vụ án có sự đa dạng về nhiều vấn đề khác mà đòi hỏi khi định tội danh cần căn cứ vào thuộc các điều luật trong Phần chung Bộ luật hình sự như: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; v.v... mới xác định tội danh chính xác. Trên cơ này, có thể kết luận rằng - Bộ luật hình sự - cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội danh. Bộ luật hình sự liệt kê, quy định tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm vào trong Bộ luật, điều này sẽ thể hiện trực
  • 26. 19 tiếp nhất tại Điều 2 Bộ luật hình sự khi quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Do đó, trong quá trình định tội danh nếu hiểu theo nghĩa chỉ về nội dung thì Bộ luật hình sự có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc định tội danh. Bộ luật hình sự hiện hành và các Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự nếu có được coi là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng. Chỉ có Bộ luật hình sự mới quy định tội phạm và hình phạt. Điều này cũng loại trừ khả năng cho phép bất kỳ cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào được phép quy định, mở rộng hay thu hẹp hành vi phạm tội là tội phạm trong Bộ luật hình sự mà chỉ có Quốc hội với tư cách là cơ quan duy nhất có thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định (đoạn 2 Điều 69 Hiến pháp năm 2013). Hơn nữa, suy cho cùng thì bản chất của việc định tội danh chính là việc đối chiếu, so sánh, đánh giá và kiểm tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của một tội phạm cụ thể nào đó được quy định trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự hay không. Bên cạnh đó, kết quả của việc định tội danh là đưa ra văn bản kết luận rằng một (hay nhiều) hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được xử lý bao quát quy phạm (điều luật) nào của Bộ luật hình sự, cho nên, chắc chắn rằng, việc định tội danh cần phải được viện dẫn đến quy phạm (điều luật) cụ thể nào đó của Bộ luật hình sự. Hiện nay, Bộ luật hình sự Việt Nam bao gồm hai phần là Phần chung và Phần các tội phạm. Phần chung Bộ luật hình sự ghi nhận nhiệm vụ, nguyên tắc xử lý, các
  • 27. 20 chế định cơ bản và quan trọng nhất của luật hình sự là tội phạm và hình phạt, cũng như các vấn đề khác như hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, xóa án tích; v.v... Phần các tội phạm Bộ luật hình sự nêu tên tội, các dấu hiệu pháp lý hình sự cơ bản, loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng hành vi phạm tội tương ứng. Việc áp dụng các quy định của Phần này phải dựa trên các quy phạm của Phần chung Bộ luật hình sự. Ngược lại, các quy phạm của Phần chung cũng trở nên không có ý nghĩa nếu không có các quy phạm của Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Do đó, với tư cách là căn cứ của việc định tội danh, Bộ luật hình sự, mà cụ thể bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm tạo thành căn cứ chung và thống nhất không thể thiếu khi định tội danh. Nói một cách khác, định tội danh là việc so sánh, đối chiếu các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội với những dấu hiệu được mô tả trong mô hình một loại tội phạm trong Phần các tội phạm tương ứng. Tuy vậy, các tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm lại chỉ nêu về tội phạm hoàn thành, trong khi đó, diễn biến tội phạm trên thực tế rất đa dạng, phong phú, đòi hỏi khi đó cần viện dẫn cả những quy định của Phần chung để xác định chính xác; cũng như chú ý tới hiệu lực của điều, khoản được viện dẫn về không gian và thời gian. Có như vậy, việc định tội danh mới bảo đảm có căn cứ pháp lý vững chắc và đầy đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nói một cách khác, đúng như GS.TS. Võ Khánh Vinh đã viết: “suy cho cùng thì quá trình định tội danh phải đưa ra kết luận: viện diễn điều nào trong Bộ luật hình sự” [51, tr.7]. 1.1.3. Căn cứ khoa học của việc định tội danh Hiện nay, trong các sách báo pháp lý hình sự đều thống nhất cho rằng, cấu thành tội phạm chính là căn cứ khoa học của việc định tội danh. Tuy nhiên,
  • 28. 21 có tác giả lại quan niệm, “cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý của hoạt động định tội danh” [19, tr.22]. Theo chúng tôi, chỉ có căn cứ pháp lý của việc định tội danh và căn cứ khoa học của việc định tội danh mà thôi. Hơn nữa, cấu thành tội phạm do các nhà lý luận luật hình sự nghĩ ra và là một khái niệm trừu tượng trong khoa học, cấu thành tội phạm là “hình thức phản ánh tội phạm trong luật, mô tả tội phạm trong luật thông qua các yếu tố của nó” [16, tr.12]. Hiện nay, qua nghiên cứu các quy phạm của Bộ luật hình sự hiện hành cho thấy, khái niệm cấu thành tội phạm chưa được đề cập mà mới chỉ ghi nhận ở một mức độ hạn chế khi đặt ra điều kiện để không miễn trách nhiệm hình sự cho chủ thể là “nếu hành vi thực tế đã có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác” (Điều 19). Trong khi đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định - “hành vi không cấu thành tội phạm” là một trong các căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng không khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 107). Do vậy, cấu thành tội phạm chính là căn cứ khoa học cùng với căn cứ pháp lý là Bộ luật hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, vì hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể thực hiện đã có đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của một cấu thành tội phạm tương ứng nào đó được quy định tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cấu thành tội phạm còn là yếu tố bảo đảm các quyền và tự do của công dân, của con người, làm ranh giới để xử lý giữa trường hợp hành vi đã cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm. Tuy vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm đang nghiên cứu được hiểu như sau: Cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong pháp luật hình sự. Hay nói cách khác, đúng như một tác giả nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này đã viết: “Cấu thành tội phạm là sự mô tả tội phạm trong luật thông qua các dấu hiệu thuộc bốn yếu tố có tính đặc trưng, phản ánh đầy đủ nội dung chính trị-xã hội của tội phạm” [15, tr.8].
  • 29. 22 Như vậy, từ khái niệm cấu thành tội phạm đã nêu trên có thể đưa đến một nhận định rằng: để xem xét một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tội phạm hay không, điều quan trọng là phải nắm được bản chất của hành vi đó. Nói một cách khác, để đánh giá đúng và chính xác bản chất của từng loại hành vi phạm tội, pháp luật hình sự phải giải thích và làm sáng tỏ một loạt các câu hỏi sau đây [50, tr.98]: - Vấn đề thứ nhất - Quan hệ xã hội nào đã bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến và được luật hình sự xác lập và bảo vệ ? - Vấn đề thứ hai - Hành vi nguy hiểm cho xã hội được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan ra sao ? Hậu quả mà nó gây ra như thế nào cho xã hội ? Có các dấu hiệu gì khác nữa không ? - Vấn đề thứ ba - Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy đã đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hay chưa và người đó có phải là người bình thường hay không ? Họ có những nhược điểm gì về thể chất hay tinh thần không ? - Vấn đề thứ tư - Thái độ, trạng thái tâm lý của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó như thế nào ? Khi thực hiện hành vi này họ có động lực gì và mong muốn đạt được kết quả gì ? Trả lời các câu hỏi trên, quan điểm được thừa nhận chung là những dấu hiệu của cấu thành tội phạm thường rất phong phú, đa dạng nhưng các dấu hiệu đó chỉ có thể thuộc về bốn yếu tố cấu thành tội phạm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Do đó, muốn xác định được đầy đủ các dấu hiệu thuộc cấu thành của một loại tội phạm cụ thể phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật Phần chung và các quy phạm thuộc Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Nội dung và nội hàm của bốn yếu tố cấu thành tội phạm đã nêu được khoa học luật hình sự Việt Nam thống nhất như sau:
  • 30. 23 - Yếu tố thứ nhất - Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Bất kỳ tội phạm nào cũng xâm phạm đến ít nhất một khách thể được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ. Khách thể của tội phạm được liệt kê tại Điều 8 Bộ luật hình sự và trên cơ sở đó các nhà làm luật phân chia các loại tội phạm có cùng tính chất trong cùng một chương tương ứng tại Phần các tội phạm Bộ luật này. - Yếu tố thứ hai - Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm hay là những dấu hiệu của tội phạm biểu hiện ra ngoài thế giới khách quan, gồm các dấu hiệu: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội và hoàn cảnh phạm tội. - Yếu tố thứ ba - Mặt chủ quan của tội phạm là biểu hiện bên trong của tội phạm, là trạng thái tâm lý của chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội, bao gồm các dấu hiệu lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. - Yếu tố thứ tư - Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đang sống đã thực hiện tội phạm đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đối với một số tội phạm yêu cầu người thực hiện tội phạm phải có thêm một số dấu hiệu bổ sung như: giới tính, nghề nghiệp, độ tuổi, chức vụ, quyền hạn... gọi là chủ thể đặc biệt của tội phạm. Như vậy, bốn yếu tố cấu thành tội phạm có mối quan hệ hữu cơ và chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội dung cụ thể và tổng hợp bốn yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ quan hệ tâm lý, thái độ bên trong của một người với hành vi do chính họ thực hiện ra bên ngoài thế giới khách quan gây ra những hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Do đó, bất kỳ hành vi phạm tội nào, dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
  • 31. 24 nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, dù xâm phạm đến quan hệ xã hội nào, dù mức hình phạt và loại hình phạt ít nghiêm khắc hay có nghiêm khắc đến như thế nào đi chăng nữa, thì tội phạm bao giờ cũng đều thể hiện mối quan hệ hữu cơ, logic và thống nhất giữa những biểu hiện khách quan và chủ quan của nó. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản Khái niệm định tội danh nêu trên là chỉ việc định tội danh trong hoạt động tố tụng nói chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho toàn bộ các loại tội phạm. Còn đối với việc định tội danh tội cướp tài sản là một hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng thực hiện, mang ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trong đó, trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội cướp tài sản, các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có phải là hành vi cướp tài sản hay không, thuộc khoản (khung) cụ thể nào đó từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng theo quy định của pháp luật. Điều 133 Bộ luật hình sự Việt Nam có tên gọi là “Tội cướp tài sản” với nội dung quy định như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm...”. Như vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Tội cướp tài sản là hành vi của một người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ
  • 32. 25 lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Do đó, kết hợp giữa các khái niệm định tội danh (1) và tội cướp tài sản (2) đã nêu, theo chúng tôi, khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản được định nghĩa như sau: Định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định pháp luật để xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự và đưa ra kết luận bằng một văn bản pháp luật. 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản Từ khái niệm đã nêu, theo chúng tôi, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản ngoài có những đặc điểm chung của việc định tội danh, nó còn phản ánh đặc điểm cơ bản riêng như sau: Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, mà cụ thể là áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật này; Thứ hai, hoạt động thực tiễn này do các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền - Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định và trình tự của pháp luật thực hiện và trong bản án của Tòa án, tội danh mang giá trị cao nhất - chính thức; Thứ ba, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự (vụ án cướp tài sản) để đối chiếu, so sánh và kiểm tra
  • 33. 26 để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự; Thứ tư, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là Bộ luật hình sự (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể là Điều 133 Bộ luật hình sự nội dung Điều luật này. Trong khi đó, căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính là cấu thành tội phạm này (bao gồm bốn yếu tố - khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Nội dung của các yếu tố cấu thành tội phạm sẽ được đề cập trong mục 2.1. Chương 2 luận văn này; Thứ năm, kết quả của quá trình định tội danh đối với tội cướp tài sản thể hiện thông qua một văn bản áp dụng pháp luật và bởi cơ quan, chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định; Thứ sáu, từ văn bản áp dụng pháp luật đó, sẽ phát sinh các hậu quả mà người phạm tội phải gánh chịu. Theo đó, các hình thức văn bản áp dụng pháp luật trong hoạt động định tội danh đối với tội cướp tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm: - Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự; - Quyết định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự; - Quyết định khởi tố bị can; quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can; - Quyết định đình chỉ vụ án; quyết định đình chỉ điều tra bị can; - Quyết định điều tra bổ sung, điều tra lại; - Quyết định phục hồi điều tra; - Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra; - Kết luận điều tra;
  • 34. 27 - Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; - Bản cáo trạng; - Bản án; - Bản kháng nghị; quyết định kháng nghị; - Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.3. Ý NGHĨA VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM CHO VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN 1.3.1. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản Như đã đề cập, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một trong những dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền - Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo quy định của pháp luật nhằm xem xét, đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài sản hay không, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự. Do đó, việc định tội danh đúng đối với tội phạm này có những ý nghĩa như sau: Một là, bằng việc cụ thể hóa các quy định Bộ luật hình sự trừu tượng, khoa học vào đời sống thực tế, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời để áp dụng chính xác các quy định khác trong Bộ luật hình sự như: các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, khung (khoản) với mức và loại hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội cướp tài sản, xác định chính xác tái phạm, tái phạm nguy hiểm; cũng như quyết định hình phạt trong một loạt những trường hợp khác nhau như: phạm tội có đồng phạm, đa (nhiều) tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; v.v... Hai là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ và các chức năng của Bộ luật hình sự - bảo
  • 35. 28 vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ theo pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ngoài ra, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ góp phần thực hiện tốt nguyên tắc xử lý về hình sự với sự thể hiện các tư tưởng của hàng loạt nguyên tắc tiến bộ như: pháp chế, dân chủ, bình đẳng, công minh, nhân đạo và trách nhiệm hình sự trên cơ sở lỗi của người phạm tội; v.v... Ba là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ còn là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác và đúng đắn các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam, khởi tố vụ án hình sự, thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử; qua đó, góp phần hữu hiệu cho việc bảo vệ các quyền và tự do của công dân nói chung với một bên là quyền và tự do của người phạm tội cướp tài sản trong lĩnh vực tư pháp hình sự; Bốn là, việc định tội danh đối với tội cướp tài sản có căn cứ và đúng sẽ đem lại công lý và công bằng trong xã hội, pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và quyền lợi của người bị hại được đền bù, cũng như người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và hình phạt trước pháp luật; Năm là, cuối cùng, tuy nhiên, nếu việc định tội danh đối với tội cướp tài sản không đúng đương nhiên dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt người phạm tội; không bảo đảm được pháp chế xã hội chủ nghĩa và tính công bằng của hình phạt do Tòa án quyết định, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và không bảo đảm quyền và lợi ích cho người bị hại. Ngược lại, ở mức cao hơn, nếu một người không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn tội cướp tài sản, nếu bị định tội danh là tội cướp tài sản không những truy cứu trách nhiệm hình sự không chính xác mà còn xâm
  • 36. 29 phạm thô bạo danh dự và nhân phẩm, các quyền và tự do của công dân; gây ra oan, sai với những hệ lụy vô cùng lớn cho xã hội; qua đó làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. 1.3.2. Những điều kiện bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội cướp tài sản Trên cơ sở những điều kiện bảo đảm chung cho việc định tội danh đối với các tội phạm, định tội danh đối với tội cướp cụ thể đương nhiên cũng phải bảo đảm các điều kiện này, bao gồm những điều kiện sau đây: * Điều kiện thứ nhất - năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ của người định tội danh Thẩm quyền cụ thể trực tiếp trong hoạt động định tội danh tuy không được Bộ luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự quy định cụ thể, nhưng căn cứ vào quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của những người tiến hành tố tụng hình sự trong hai văn bản pháp luật nói trên, có thể xác định đó là những người tiến hành tố tụng và những người được phân công tiến hành một số hoạt động điều tra (của một số Cơ quan điều tra được quy định trong Pháp lệnh Tổ chức điệu tra hình sự), đó là những người được giao quyền hạn, trách nhiệm giải quyết vụ án và có thẩm quyền ký các văn bản của cơ quan có thẩm quyền chung trong việc định tội danh. - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra. Khi thực hiện việc điều tra vụ án hình sự, Thủ trưởng Cơ quan Điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: + Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định nhập hoặc tách vụ án; + Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; + Quyết định truy nã bị can, khám xét, thu giữ, tam giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng;
  • 37. 30 + Quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử thi; + Kết luật điều tra vụ án; + Quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra; + Trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra, cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan Điều tra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, khi được phân công điều tra vụ án hình sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan Điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn giống như Thủ trưởng Cơ quan Điều tra được quy định tại khoản 2 Điều 34 Bộ luật tố tụng hình sự. - Viện trưởng, Phó Viện trường Viện Kiểm sát. Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát như sau: + Tổ chức và chỉ đạo toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự; + Quyết định phân công Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự; + Kiểm tra các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên; + Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo quy định của pháp luật; + Quyết định thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên; + Quyết định rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới;
  • 38. 31 + Quyết định thay đổi Kiểm sát viên; + Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Tương tự, cũng lưu ý, khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: + Quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan Điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; + Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan Điều tra thay đổi Điều tra viên; + Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; + Quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan Điều tra; + Quyết định hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan Điều tra; + Quyết định chuyển vụ án; + Quyết định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định; + Quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng; + Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của Tòa án; + Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát. Ngoài ra, khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
  • 39. 32 tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tung đối với vụ án hình sự, Phó viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại khoản 2 Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự (tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát). - Chánh án, Phó Chánh án Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án có những nhiệm vụ và quyền hạn chung sau đây: + Tổ chức công tác xét xử của Tòa án; + Quyết định phân công Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định phân công Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự; + Quyết định thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa; + Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; + Ra quyết định thi hành án hình sự; + Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù; + Quyết định tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù; + Quyết định xóa án tích. Tương tự, khi Chánh án vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án. Phó Chánh án phải chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao. Khi tiến hành việc giải quyết vụ án hình sự Chánh án có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: + Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam; quyết định xử lý vật chứng; + Cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án.
  • 40. 33 Khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, Phó Chánh án có các nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều 38 Bộ luật tố tụng hình sự (tương tự như nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án). - Thẩm phán. Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán khi được phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự như sau: + Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; + Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; + Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; + Quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án; + Quyết định triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa; + Tham gia xét xử các vụ án hình sự; + Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử; + Tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án. - Hội thẩm. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm quy định tại Điều 40 Bộ luật tố tụng hình sự như sau: + Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; + Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; + Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Ngoài những người có thẩm quyền nêu trên thì những người tiến hành tố tụng khác tuy có tham gia vào hoạt động định tội danh trong tố tụng hình sự nhưng không có thẩm quyền định tội danh, đó là Điều tra viên, Kiểm sát
  • 41. 34 viên, Thư ký Tòa án. Những người này tuy cũng là những người tiến hành tố tụng nhưng họ chỉ thực hiện những công việc liên quan hoạt động hỗ trợ cho hoạt động định tội danh, giúp cho người có thẩm quyền tiến hành hoạt động định tội danh đúng pháp luật và chính xác [19, tr.24]. Như vậy, không phải tất cả những người tiến hành tố tụng và những người được phân công tiến hành một số hoạt động điều tra đều có thẩm quyền định tội danh, nhưng khi họ thực hiện các hành vi tố tụng thì vai trò của họ là hỗ trợ, giúp việc cho người tiến hành tố tụng có thẩm quyền trong việc định tội danh (ví dụ: Thư ký Tòa án, cán bộ, công chức tại Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát). Theo đó, vai trò nhiệm vụ của họ như sau: - Điều tra viên. Theo Điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự thì nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên được phân công điều tra vụ án hình sự như sau: + Lập hồ sơ vụ án hình sự; + Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lòi khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; + Quyết định áp giải bị can, dẫn giải người làm chứng; + Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; + Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; + Tiến hành các hoạt động điều tra khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan Điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan Điều tra. - Kiểm sát viên. Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự như sau:
  • 42. 35 + Kiểm sát việc khởi tố các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; + Đề ra yêu cầu điều tra; + Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; + Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; + Tham gia phiên tòa, đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa; + Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa và kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án; + Kiểm sát việc thi hành án bản án, quyết định của Tòa án; + Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát. - Thư ký Tòa án. Là cán bộ, công chức có nhiệm vụ, quyền hạn như sau: + Phổ biến nội quy phiên tòa; + Báo cáo với Hội đồng xét xử danh sách những người được triệu tập đến phiên tòa; + Ghi biên bản phiên tòa; + Tiến hành những hoạt động khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án. Như vậy, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người định tội danh được coi là một trong những điều kiện cơ bản bảo đảm cho việc định tội danh đối với tội cướp tài sản. Theo đó, để có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ
  • 43. 36 vững vàng, chắc chắn, trước hết người định tội danh phải là người được đào tạo cơ bản và căn bản về pháp luật (phải bằng đại học luật hoặc tương đương trở lên). Người định tội danh không những nắm chắc các kiến thức được giảng dạy ở trường đại học về các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội cướp tài sản, hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, mà còn phải thường xuyên trau dồi chuyên môn, thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, hướng dẫn mới liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu nói chung, tội cướp tài sản nói riêng [18, tr.41]. Trên thực tế, các vụ án xảy ra rất đa dạng, với muôn màu muôn vẻ các tình tiết, yếu tố khác nhau, trong đó có tội cướp tài sản, đặc biệt là về các tình tiết cũng như chứng cứ rất phức tạp trong vụ án. Do đó, chỉ với khả năng chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng của mình, người định tội danh mới có điều kiện để cân nhắc, đánh giá toàn bộ các tình tiết của vụ án thông qua các chứng cứ xác thực, đối chiếu hành vi đã thực hiện với quy định của Điều 133 Bộ luật hình sự để từ đó xác định hành vi đó phạm tội gì, có phạm tội cướp tài sản hay không, khoản nào của Điều luật này; cũng như các yếu tố khác tác động và những tình tiết khác như: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng phạm, quyết định hình phạt; v.v... Bên cạnh đó, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến việc định tội danh. Người định tội danh Cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tình công tác nhưng nếu không có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công tác chuyên môn của mình (trong đó có hoạt động định tội danh) và trong quan hệ công tác với cấp trên, đồng nghiệp, họ khó có thể là người độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động nghề nghiệp của mình [18, tr.42]. Bởi lẽ, định tội danh là hoạt động tư duy có tính logic, tính lý luận chặt chẽ, song nó cũng là hoạt động trí tuệ mang đầy chất sáng tạo trước các tình
  • 44. 37 tiết cụ thể của vụ án để có thể vận dụng linh hoạt và chính xác trong áp dụng điều, khoản Bộ luật hình sự, trong đó có tội cướp tài sản. Ngoài ra, điều này đúng như một nhà khoa học đã nhận định: “Pháp luật, dù có hoàn thiện đến mấy, cũng không thể phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống...” [47, tr.207]. Cho nên, nếu người định tội danh không nắm được kiến thức cơ bản và phát huy tính sáng tạo của mình trên cơ sở đường lối, chính sách hình sự của Đảng và hệ thống pháp luật hình sự của Nhà nước thì điều này có thể đưa đến việc định tội cứng nhắc và trong nhiều trường hợp sẽ định tội danh không đúng đối với tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. Do đó, chỉ trên cơ sở có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, ổn định, độc lập và không ngừng rèn luyện, trau dồi, người định tội danh mới có thể độc lập trong quan điểm và bảo vệ quan điểm của mình, không bị chi phối bởi quan điểm của cơ quan, tổ chức và của cấp trên. Một điều rất quan trọng là để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thực tiễn - người tiến hành định tội danh, các cơ quan chức năng cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn điều tra, truy tố, xét xử, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ cho các cán bộ của mình về các tội phạm và thủ tục tố tụng nói chung, tội cướp tài sản nói riêng. Đặc biệt, đối với Hội thẩm, nên chọn những người làm công tác liên quan đến pháp luật như: giảng viên đại học, cán bộ hưu trí trước kia từng làm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, luật sư... để góp phần cùng với người định tội danh định tội danh chính xác và đúng pháp luật. * Điều kiện thứ hai - đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp của người định tội danh Đây được coi là điều kiện bảo đảm thứ hai trong việc định tội danh nói chung, định tội danh đối với tội cướp tài sản nói riêng. Ngoài ra, điều kiện thứ hai này hỗ trợ nhau giúp cho người định tội danh có nền tảng cơ bản để có thể
  • 45. 38 định tội danh đúng. Bởi lẽ, trên cơ sở năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, ổn định, đòi hỏi người định tội danh đương nhiên phải là người có ý thức tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, gương mẫu trong công việc, có lương tâm, trách nhiệm với nghề nghiệp, với công việc, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ công lý và công bằng xã hội, cũng như là người có thái độ làm việc công tâm, vô tư và không tư lợi. Khi định tội danh, người định tội danh đã nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xác định một người có tội không, nếu có tội thì là tội gì, theo điều luật nào của Bộ luật hình sự và đối với tội cướp tài sản là có tội không, nếu có rơi vào khoản nào của Điều 133 Bộ luật hình sự. Tội cướp là tội phạm có mức cao nhất là tử hình, do đó, đòi hỏi trong quá trình làm việc, người định tội danh phải hết sức cẩn trọng, chú ý, có trách nhiệm cao trong việc thu thập và đánh giá để xác định tội danh chính xác. Điều này đòi hỏi người định tội danh phải có ý thức tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, lấy việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật làm đầu. Bên cạnh đó, trong công tác chuyên môn của mình và trong đời sống hàng ngày, ý thức này của người định tội danh phải trở thành suy nghĩ đến hành động để làm lá chắn vững chắc không cho những cám dỗ, tiêu cực, tiền bạc... của đời sống xã hội tác động đến. Tuy vậy, đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp là phạm trù thuộc phẩm chất đạo đức của người định tội danh. Đạo đức, lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp không phải là đồ xa xỉ hay trừu tượng mà nó là cái hiện hữu chúng ta có thể nhìn thấy khi đánh giá hiệu quả công việc của chủ thể tiến hành. Cho nên, một người định tội danh thường xuyên mắc phải sai lầm trong định tội danh thì không thể coi người đó có chuyên môn tốt hoặc hoặc phẩm chất đạo đức trong sáng. Lẽ dĩ nhiên, trong quá trình định tội danh, nếu người định tội danh do thiếu sự cẩn trọng cần thiết, qua loa, vô cảm, đại khái
  • 46. 39 thì có thể dẫn đến bỏ sót một hoặc nhiều tình tiết nào đó, từ đó sẽ dẫn đến định tội danh sai; hoặc thái độ thờ ơ, vô trách nhiệm đến chất lượng của công việc mình đang làm, đến số phận của người phạm tội hoặc thái độ làm việc nhũng nhiễu, đòi hỏi, vụ lợi, tham nhũng, hối lộ… có thể đưa đến hậu quả xử lý oan, sai. Do đó, công việc của người định tội danh cũng có những đặc điểm giống như công việc của người bác sỹ. Có thể nói một cách hình ảnh là nếu như bác sỹ phẫu thuật có sai sót thì có thể làm chết hoặc gây cố tật cho một con người, còn nếu người định tội danh sai thì có thể ảnh hưởng đến số phận của một đời người... [18, tr.44]. Đặc biệt, người định tội danh trong các cơ quan tiến hành tố tụng nhiều khi phải chịu áp lực bởi nhiều thế lực - cơ quan, tổ chức; dư luận, báo chí, truyền thông; các nhóm xã hội đen; cấp trên và người có quyền lực; v.v... thậm chí của các cơ quan, tổ chức chính quyền, đảng làm cho người định tội danh dễ thay đổi, nao núng, ví dụ như yêu cầu xử lý là không có tội đối với tội cướp tài sản hoặc xử lý theo khoản 1 trong khi bị cáo phạm khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự… Do đó, đòi hỏi bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng của người định tội danh trước số phận của công dân, trước lẽ phải và công bằng trong xã hội, trước nhân dân, những người đã đóng thuế trả công; v.v… Cho nên, trước mỗi vụ án, trước mỗi bị cáo, trước những bài báo viết sai sự thật, sự tác động của các thế lực; v.v… đòi hỏi người định tội danh phải có bản lĩnh vững vàng với thái độ khách quan và tinh thần trách nhiệm cao, đánh giá, phân tích toàn diện và có hệ thống tất cả các tình tiết của vụ án, cũng như chỉ và phải dựa trên cơ sở quy định của pháp luật để từ đó bảo đảm xác định tội danh đối với người phạm tội được đúng. Cần phải nói đến thái độ làm việc công minh, chính trực, khách quan, không vụ lợi cũng là yếu tố cần thiết trong phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người định tội danh. Rõ ràng, nếu họ thiếu sự vô tư, trong sáng hoặc vì vụ lợi hoặc để tình cảm cá nhân, gia đình