SlideShare a Scribd company logo
1 of 118
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUANG ANH
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUANG ANH
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số : 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học:TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH
Hà Nội – 2015
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
NGUYỄN QUANG ANH
4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
DTBLTTDS : Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi)
HĐTPTANDTC : Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
LSĐBSBLTTDS : Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự
Nghị quyết số
04/2012/NQ-HĐTP
: Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng
12 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về
“Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
TTDS : Tố tụng dân sự
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
5
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 7
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
14
1.1. Khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ và
mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng
dân sự
14
1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng dân sự 14
1.1.2 . Các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng dân sự 20
1.1.3. Mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng
dân sự
26
1.2. Ý nghĩa của chứng cứ và cơ sở pháp luật tố tụng dân sự
quy định về chứng cứ
28
1.2.1. Ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự 28
1.2.2. Cơ sở pháp luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ 30
1.3. Nguồn chứng cứ; phân loại chứng cứ; xác định chứng
cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong tố tụng
dân sự
31
1.3.1. Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự 31
1.3.2. Phân loại chứng cứ trong tố tụng dân sự 35
1.3.3. Xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ
trong tố tụng dân sự
41
Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ CHỨNG CỨ
45
2.1. Sơ lƣợc sự hình thành và phát triểncác quy định của pháp
luâ ̣ttố tụng dân sự Viê ̣t Nam về chứng cứ
45
2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 45
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 49
6
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 53
2.1..4. Giai đoạn từ năm 2005 đến đến nay 55
2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về chứng cứ
58
2.2.1. Các quy định về định nghĩa chứng cứ và nguồn chứng cứ 58
2.2.2. Các quy định về xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự 62
2.2.3. Các quy định về bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ
trong tố tụng dân sự
73
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ CHỨNG CỨ
VÀ KIẾN NGHỊ
77
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chứng cứ
77
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ
77
3.1.2. Những hạn chế , bất cập trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ
80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ
99
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chứng cứ
99
3.2.2. Kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chứng cứ
104
KẾT LUẬN 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ở xã hội ta mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm kỷ cương xã hội, trong những năm
qua Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện công cuộc cải cách hành
chính, cải cách tư pháp làm cho hệ thống pháp luậtnước ta ngày một hoàn
thiện và các cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có hiệu quả hơn trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân.
Trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp dân sự, các quy định về
trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự cũng không ngừng được hoàn
thiện. Ngày 15/6/2004, Quốc hội khóa XI thông qua Bộ luật tố tụng dân sự
(BLTTDS) đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh
dấu sự phát triển mới của pháp luật TTDS Việt Nam. BLTTDS đã quy định
khá đầy đủ và cụ thể các vấn đề của tố tụng dân sự như những nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải
quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các
việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại Toà án; thi
hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ
chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị
xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên
quan. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện cho thấy khá nhiều vấn đề
BLTTDS quy định vẫn còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với tình hình
mới, bối cảnh mới - bối cảnh chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế và việc
Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Thực tiễn thi
8
hành BLTTDS cho thấy nhiều quy định chưa phát huy được hiệu quả trong
thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp việc giải quyết vụ, việc dân sự của Tòa
án bị bế tắc chỉ vì các quy định của BLTTDS còn chưa được đầy đủ, thiếu
chặt chẽ và rõ ràng. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác xét
xử, ngày 15 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (LSĐBSBLTTDS).
Nhiều quy định của BLTTDS như quy định về nguyên tắc trong TTDS,
thẩm quyền của Tòa án, chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
(TTDS), quyền và nghĩa vụ của đương sự, trình tự hòa giải vụ án dân sự,
thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, thủ tục xét lại quyết định
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao v.v…đã được Luật này
sửa đổi. Từ đó, các vấn đề về chứng minh và chứng cứ trong TTDS được
quy định rõ ràng, đầy đủ và khoa học hơn. Theo các quy định của
BLTTDS, LSĐBSBLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các
phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra,
xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý
kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.Tuy vậy, thực tiễn giải
quyết các vụ, việc dân sự những năm gần đây cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy,
bị sửa và qua nhiều cấp xét xử vẫn còn khá cao. Nguyên nhân của tình
trạng này một phần cơ bản xuất phát từ việc chưa có sự nhận thức thống
nhất, đúng đắn về vấn đề chứng cứ, chứng minh như chưa xác định đúng
chứng cứ, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể chứng minh v.v…
Những thiếu sót này được đề cập đến khá nhiều trong hầu hết các báo cáo
tổng kết công tác hằng năm của ngành Tòa án. Thực trạng này là một vấn
đề gây nhiều trăn trở không chỉ đối với các nhà hoạt động thực tiễn mà cả
đối với nhưng nhà lập pháp và những nhà nghiên cứu nhằm tìm ra những
giải pháp khắc phục để hoạt động xét xử của Tòa án đáp ứng yêu cầu của
đời sống kinh tế, xã hội và cải cách tư pháp ở Việt Nam.Với những lý do
đó, học viên đã chọn đề tài: “Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt
Nam”nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học.
9
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chứng cứ là một vấn đề cớ bản của TTDS. Từ trước đến nay đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở những khía cạnh
khác nhau. Về đề tài khoa học, có “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực
tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự”, đề tài khoa học cấp Bộ của
Toà án nhân dân tối cao, năm 1996; “Những quan điểm cơ bản về BLTTDS
Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật, năm
2002; “Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân
sự thực trạng và giải pháp”, đề tài cấp cơ sở của Viện khoa học xét xử của
Toàán nhân dân tối cao, năm 2002; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ
bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ của Viện Nhà
nước và pháp luật thực hiện năm 2010; “Những vấn đề lý luận về chứng
minh và chứng cứ trong TTDS”, đề tài cấp cơ sở của Trường Đại học Luật
Hà Nội, năm 2012; v.v... Về luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, cóluận án tiến
sĩ của Nguyễn Minh Hằng “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt
Nam”bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007; luận văn thạc
sỹcủa Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012;
luận văn thạc sĩ của Nguyễn Vĩnh Thành“Các biện pháp thu thập chứng cứ
của Tòa án trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt độngthu thập
chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
cấp huyện thành phố Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2014; luận văn thạc sĩ của Ngũ Thị Như Hoa “Nguyên tắc trách nhiệm
cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự” bảo
vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên cứu và đánh chứng cứ
trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo vệ tại Khoa Luật trực
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015v.v...Về giáo trình, sách tham
khảo có “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học
10
Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1998; “Giáo
trình Luật tố tụng dân sự” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an
nhân dân xuất bản năm 2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam”
của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp năm 2015;
“Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Nhà xuất bản Giáo dục xuất
bản năm 2011; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa Luật
trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
xuất bản năm 2014; sách tham khảo “Tiến tới xây dựng Bộ luật Tố tụng
dân sự của thời kỳ đổi mới”của tác giả Phan Hữu Thư do Nhà xuất bản Tư
pháp xuất bản năm 2004; sách tham khảo “Luật tố tụng dân sự Việt Nam
nghiên cứu và so sánh” của tác giả Tống Công Cường do Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007; sách tham khảo
“Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, chủ biên TS Nguyễn
Văn Cường, TS Trần Anh Tuấn và ThS Đặng Thanh Nga do Nhà xuất Lao
động – Xã hội xuất bản năm 2012 v.v…Về các bài viết trên các tạp chí khoa
học pháp lý, có bài “Đánh giá toàn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự
việc” của tác giả Duy Kiên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1/2000; bài
“Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” củatác giả Hoàng Ngọc
Thỉnh, Tạp chí Luật học, số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự,
tháng 4/2004); bài “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Tưởng Duy Lượng, Đặc san
Nghề luật, số 10 tháng 01/2005; bài “Một số vướng mắc trong quá trình
thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị hoàn thiện” của tác giả
Nguyễn Văn Cường đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2010; “Một số
bất cập và vướng mắc của Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được hướng dân thi
hành” của tác giả Trần Văn Trung đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số
4/2011; bài “Bàn về Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá tài sản”
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2012 v.v... Ở những khía cạnh
khác nhau, những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến một số vấn
đề về chứng cứ trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
11
đó mới chỉ dừng lại ở những vấn đề chung và tiếp cận dưới góc độchứng
minh trong tố tụng dân sự là chủ yếu. Vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và có
tính hệ thống các vấn đề về chứng cứ trong tố tụng dân sự theo pháp luật
Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ trong TTDS; nội dung các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ cũng như thực tiễn thực
hiện các quy định này tại các Tòa án Việt Nam. Từ đó, phát hiện được
những vướng mắc, bất cập trong các quy định về chứng cứcủa pháp luật tố
tụng dân sự Việt Namhiện hành cũng như thực tiễn thực hiện chúng tại các
Tòa án và đề xuất các giải pháp để khắc phục.
Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ như khái
niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở
quy định chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,các nguồn
chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
chứng cứ trong TTDS;
- Khảo sát thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam về
chứng cứ trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam;
- Nhận diện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp
luật Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện và tìm ra các
giải pháp để khắc phục.
12
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứuđề tài là những vấn đề lý luận về chứng cứ
trong TTDS; các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng
cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án Việt nam.
Nếu theo tên gọi, thì đề tài có nội dung nghiên cứu rất rộng, bao gồm
cả chứng cứ trong tố tụng dân sự, chứng cứ trong tố tụng hình sự và chứng
cứ trong tố tụng hành chính. Tuy vậy, trong khuôn khổ của đề tài thuộc
chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự và trong khuôn khổ của một
luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ
bản về chứng cứ trong TTDS như khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của
chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở pháp luật quy định chứng cứ, nguồn
chứng cứ, phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử
dụng chứng cứ trong TTDS.Đối với những vấn đề khác, kể cả những vấn
đề có liên quan chặt chẽ đến chứng cứ như cung cấp, thu thập và nghiên
cứu chứng cứ thuộc về chứng minh trong TTDS tác giả cũng không nghiên
cứu ở đây mà sẽ nghiên cứu sau ở đề tài khác khi có điều kiện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận duy vật
của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách
hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Ngoài ra, việc nghiên cứu còn sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại như phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp,
phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thăm dò thực tiễn v.v…để làm
sáng tỏ những vấn đề thuộc nội dung của đề tài cần nghiên cứu.
13
6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, chuyên
sâu vàcó tính hệ thống vấn đề về chứng cứ trong TTDS, có những điểm
mới và ý nghĩa cơ bản sau đây:
- Làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luậncơ bản về chứng cứ như
hoàn thiện định nghĩa chứng cứ,làm rõ các thuộc tính và ý nghĩa của chứng
cứ, cơ sở của việc pháp luật TTDS quy định chứng cứ, nguồn chứng cứ,
phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng
cứ trong TTDS.
- Đánh giá đúng được thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong TTDS;
- Phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
pháp luật về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện và tìm ra được
các giải pháp để khắc phục thiết thực.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận
án được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ trong tố tụng
dân sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
chứng cứ.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về chứng cứ và kiến nghị.
14
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHỨNG CỨ VÀ MỐI LIÊN
HỆ GIỮA CHỨNG CỨ VỚI CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có nhiều tình tiết, sự kiện
khác khác nhau liên quan đến vụ việc dân sự đòi hỏi Tòa án phải nhận thức
và đánh giá. Ở mỗi tình tiết, sự kiện lại có những đặc tính khác nhau, có
những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các
giác quan nhưng cũng có những đặc tính không thể nhận biết ngay được
bằng các giác quan mà phải trải qua một quá trình tư duy logic phân
tích,tổng hợp, móc nối các tình tiết, sự kiện liên quan đến chúng v.v…
sau đó mới có thể đi đến kết luận cuối cùng về chúng.Quá trình xác định,
nhận thức các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự trong khoa học pháp lý được gọi là chứng minh.
Nhờ quá trình chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự mà Tòa án có thể nhận thức đúng vụ việc dân sự và giải
quyết đúng vụ việc dân sự. Để thực hiện được chứng minh trong TTDS
thì cần phải có chứng cứ. Vì vậy, khi giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể
bên cạnh việc xem xét, xác định những vấn đề về chứng minh như đối
tượng chứng minh, chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh
v.v…thì không thể không xem xét, xác định những vấn đề về chứng cứ.
Cơ sở hình thành hệ thống lý luận về chứng cứ là lý luận nhận
thức.Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin thì quá trình nhận thức
đi từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Trong mối liên hệ phổ biến
giữa các sự kiện, hiện tượng, thì các sự kiện, hiện tượng đều có quan hệ
qua lại, ảnh hưởng đối với nhau. Mỗi sự kiện, hiện tượng xảy ra trong thế
15
giới khách quan đều kéo theo sự thay đổi của thế giới xung quanh, không
một sự kiện nào xảy ra lại không để lại dấu vết. Những sự kiện mà trong đó
có sự tham gia của con người và những sự kiện con người không trực tiếp
thực hiện nhưng biết rõ về nó và được ghi trong trí nhớ. Tin tức về những
sự kiện ấy có khi được ghi chép cụ thể và cuối cùng những dấu vết của sự
kiện cụ thể có thể để lại trên các đồ vật. Như vậy, mặc dù xảy ra trong quá
khứ nhưng dấu vết của các sự kiện vẫn được ghi lại trong trí nhớ của con
người và ghi lại trong những vật của thế giới khách quan nhờ vậy mà người
ta có được các thông tin về sự kiện ấy và xác định được nó có tồn tại trên
thực tế hay không. Thoe nguyên lý này, quá trình chứng minh trong giải
quyết các vụ việc ở Tòa án nhờ đó cũng được thực hiện.Tuy vậy, theo học
giả Bentham thì hệ thống lý luận về chứng cứ có bề dày phát triển qua các
thời ký lịch sử. Khi trình tự tố tụng đơn giản theo kiểu tố cáo, lý luận tố
tụng chưa phát triển thì chứng cứ tốt nhất là lời thú nhận, lời thề thốt hoặc
quyết đấu, phân xử theo ý trời như vứt xuống nước không chìm, nung sắt
đỏ dí vào lưng không cháy v.v…Khi trình tự tố tụng xét hỏi ra đời (khoảng
năm 30 TCN), lý luận chứng cứ hình thức cũng ra đời và phát triển nhất ở
Thế kỷ XVII – XVIII với những đặc trưng: Ý nghĩa và hiệu lực chứng cứ
được quy định trước trong luật; có sự phân biệt giữa các chứng cứ hoàn
thiện và chưa hoàn thiện (lời thú nhận của bị đơn, lời khai thống nhất của 2
người làm chứng là chứng cứ hoàn thiện; chứng cứ gián tiếp, lời khai của
một người làm chứng là chứng cứ chưa hoàn thiện) và Thẩm phán không
được tự do đánh giá chứng cứ mà phải coi những sự kiện pháp luật đã định
là chứng cứ dù tin hay không. Lý luận chứng cứ hình thức có những tiến bộ
nhất định vì đã hạn chế được sự độc đoán của quan tòa, bắt họ phải phục
tùng các quy tắc pháp luật và được ứng dụng nhiều nước, nhất ở Châu âu &
đến Thế kỷ XIX thì hoàn toàn sụp đổ (mà tiền đề là Cách mạng Tư sản
Pháp 1789). Vào Thế kỷ XI, ở Anh thực hiện trình tự tố tụng tranh tụng &
chế độ xét xử bồi thẩm đoàn, từ đó lý luận chứng cứ Anh ra đời:Lý luận
chứng cứ Anh trao cho quan tòa những nguyên tắc pháp lý & sự tự do nhất
định trong đánh giá sự việc;không quy định trước hiệu lực, tính chất và ý
nghĩa của mỗi loại chứng cứ mà chỉ nhằm mục đích chỉ ra:Những việc nào
16
có thể chứng minh; những phương tiện nào có thể dùng để chứng minh và
ai sẽ xuất trình chứng cứ và phải chịu trách nhiệm chứng minh. Vào nửa
đầu Thế kỷ XIX, trình tự tố tụng hỗn hợp kết hợp giữa tranh tụng và xét hỏi
ra đời và cùng với nó lý luận chứng cứ Thẩm phán tự do đánh giá chứng cứ
căn cứ vào niềm tin nội tâm của mình đã ra đời. Theo đó, Thẩm phán tự do
đánh giá chứng cứ căn cứ vào niềm tin nội tâm của mình chỉ rõ trong xét
xử của mình Thẩm phán có quyền tự do đánh giá chứng cứ theo sự chỉ dẫn
của lương tâm, ý thức pháp luật và niềm tin của mình. Ý thức pháp luật bảo
đảm cho Thẩm phán xác định được phương hướng tố tụng, đánh giá chứng
cứ được sáng suốt và chính xác nhất là trong những tình huống phức tạp.
Niềm tin nội tâm của Thẩm phán được hình thành trên cơ sở Thẩm phán
xem xét các tình tiết, sự kiện của vụ việc với lương tâm của mình bảo đảm
cho Thẩm phán xét xử độc lập và phù hợp với thực tế khách quan của vụ
việc.[53]
Trong khoa học pháp lí, có nhiều quan niệm về chứng cứ. Theo
Bentham thì “chứng cứ là một sự kiện giả định là có thật, sự kiện ấy được
coi là sự kiện đương nhiên làm lý do để tin tưởng có hay không có một sự
kiện khác.”[53]Theo đó, chứng cứ được xác định phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của người sử dụng, không phụ thuộc vào tính khách quan của sự kiện,
tình tiết được coi là chứng cứ. Theo Vơlađiamiaôp thì “chứng cứ là tất cả
những gì trong thế giới vật chất, thế giới tinh thần mà con người có thể lĩnh
hội được.[53]Quan niệm này đã mở rộng nội hàm khái niệm chứng cứ
nhưng không làm rõ được bản chất của chúng làm cho việc xác định khó
khăn và tuỳ tiện trong sử dụng.Trong Black’
s Law dictionnarythì định
nghĩa: “Chứng cứ là cái để chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại của
một sự kiện liên quan đến vụ án.”[89, tr. 212]Quan niệm này phần nào đã
chỉ rõ được bản chất và mục đích của việc sử dụng chứng cứ.Trong Từ điển
pháp luật của P.H.Collin thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì chứa đựng
sự thật nhằm chứng minh một luận điểm nào đó.”[53]Đây là định nghĩa
chứng cứ đơn giản, nhưng đã khái quát được những vấn đề thuộc về bản
chất của chứng cứ.
17
Ở Việt Nam, trước khi BLTTDS được ban hành cũng đã có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố trong đó có đưa ra
các định nghĩa về chứng cứ. Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của
Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản
năm 1998 thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì có thật mà dựa vào đó
theo một trình tự do luật định, Tòa án xác định là có hay không có những
tình tiết làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự, viện kiểm sát, tổ chức xã
hội và những tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết vụ án.”[76,
tr.84].Trong Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học của của Trường Đại học
Luật Hà Nội do nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1999 cũng
định nghĩa: “Chứng cứ là cái có thật, được cung cấp, thu thập, nghiên cứu,
đánh giá và sử dụng theo trình tự do pháp luật quy định Toà án dùng làm
căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.” [74, tr.162].Trong Giáo trình Luật tố
tụng dân sự của Khoa luật Trường Khoa học xã hội và nhân văn do Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 1998 cũng định nghĩa về chứng
cứ tương tự. Đặc biệt, từ sau BLTTDS được ban hành thì càng có nhiều
công trình nghiên cứu khoa học được công bố định nghĩa về chứng cứ.
Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm
2014 thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo
trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Toà án dùng làm căn cứ
để giải quyết vụ việc dân sự.”[27, tr.157] Định nghĩa này ngắn gọn nhưng
chưa phản ánh đươc đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ. Trong Giáo trình
Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư
pháp xuất bản năm 2012 định nghĩa: “Chứng cứ là cái có thật, theo một
trình tự do luật định toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân
sự.”[77, tr.171] Định nghĩa này cô đọng nhưng bao quát được các vấn đề
liên quan đến chứng cứ và chỉ rõ mục đích của việc sử dụng chứng cứ.
Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của TS Nguyễn Công Bình chủ
biên do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011 thì định nghĩa: “Chứng
18
cứ là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật, liên quan đến vụ việc dân
sự theo một trình tự do luật định Toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ
việc dân sự.”[2, tr.101] Định nghĩa này cô đọng nhưng bao quát được các
vấn đề liên quan đến chứng cứ, chỉ rõ mục đích của việc sử dụng chứng cứ
và những cái có thể trở thành chứng cứ. Trong cuốn Luật tố tụng dân sự
Việt Nam nghiên cứu và so sánh thì ThS.Tống Công Cường lại định nghĩa:
“Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những gì chứa đựng sự thật nhằm
chứng minh một luận điểm nào đó của đương sự trong vụ việc dân
sự.”[6,tr.251] Định nghĩa này không thể hiện đầy đủ và rõ ràng mục đích
sử dụng chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ.
Chứng cứ có vai trò quan trọng làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự nên được coi là “linh hồn” của tố tụng. Vì vậy, trong pháp luật
tố tụng dân sự của các nước, ở cả hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp
luật Án lệ (Common Law) và hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) đều
trực tiếp hoặc gián tiếp quy định định nghĩa về chứng cứ. Theo quy định tại
Điều 401 Luật chứng cứ liên bang Mỹ, thì chứng cứ được định nghĩa là
những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà
bản thân sự hàm chứa đó có ảnh hưởng tới việc xác định được một hành
động hơn hoặc kém hơn.Theo Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự của Nhật
Bản thì chứng cứ phải xác định những tình tiết cần chứng minh.Theo Điều
55 của Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga thì chứng cứ trong vụ án dân
sự là những gì được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà
Tòa án căn cứ vào đó để xác định có hay không có các tình tiết làm cơ sở
cho những yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của các bên cũng như các tình
tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án. Như vậy, dù cách tiếp
cận chứng cứ có khác nhau nhưng theo quy định của pháp luật các nước thì
chứng cứ đều được định nghĩa là căn cứ, cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự.
Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trước khi BLTTDS được
ban hành các quy định về chứng cứ nói chung còn khá sơ sài và chưa khoa
19
học. Trong các pháp lệnh tố tụng được ban hành như Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các
tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ) đều không có các quy định định
nghĩa về chứng cứ. Việc thiếu vắng các quy định của pháp luật định nghĩa
về chứng cứ đã dẫn đến hậu quả trong giải quyết nhiều vụ việc không đúng
với bản chất của nó vì không xác định, nhận thức đúng chứng cứ của vụ
việc dân sự. Trong quá trình xây dựng BLTTDS, trên cơ sở tham khảo, tiếp
thu có chọn lọc các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc
gia trên thế giới và các thanh tựu nghiên cứu của các nhà khoa học Việt
Nam, các Nhà lập pháp Việt Nam đã xây dựng quy định định nghĩa về
chứng cứ tại Điều 81 BLTTDS. Theo đó, “Chứng cứ trong vụ việc dân sự
là những gì có thật được đương sự và cá nhân, tổ chức khác giao nộp cho
Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”Về cơ bản, nội
dung Điều 81 BLTTDS cũng định nghĩa về chứng cứ tương đồng với quy
định của pháp nước đặc biệt là quy định về chứng cứ của Bộ luật Tố tụng
dân sự của Liên bang Nga. Tuy vậy, theo các nhà khoa học định nghĩa này
vẫn còn một số hạn chế là chưa làm rõ được tất cả các vấn đề về bản chất
của chứng cứ như tính khách quan của chứng cứ, các chủ thể tham gia thu
thập, đánh giá chứng cứ v.v…
Qua nghiên cứ cho thấy, chứng cứ phải bao gồm những thông tin, sự
kiện, tình tiết có thật và liên quan đến vụ việc dân sự do Tòa án giải quyết.
Những thông tin, sự kiện, tình tiết này được đương sự hay người khác cung
cấp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập. Mục đích của việc sử dụng những
thông tin, sự kiện, tình tiết này là để xác định yêu cầu của đương sự và
những người khác đưa ra trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có cơ sở
không. Yêu cầu của quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và
20
sử dụng thông tin, sự kiện, tình tiết phải tuân theo các quy định của
BLTTDS. Từ những vấn đề đã trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết
luận: “Chứng cứ là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật, theo một
trình tự do pháp luật quy định các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác thu thập giao nộp cho Tòa ánhoặc do Tòa án thu thậpdùng làm căn
cứ để xác định cơ sở yêu cầu hay sự phản đối của đương sự và những
người khác là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng dân sự
Thuộc tính là đặc tính vốn có của sự vật, hiện tượng.[40, tr.101]Nhờ
thuộc tính của sự vật, hiện tượng mà người ta nhận biết được sự vật, hiện
tượng. Với tư cách là cơ sở để xác định làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự, chững cứ phải có đầy các thuộc tính sau đây:
Thứ nhất, chứng cứ có tính khách quan.
Nhận thức là quá trình phản ánh sự kiện, hiện tượng từ trực quan
sinh động đến tư duy trìu tượng.“Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ
nhận thức đúng bản chất của sự vật, sự việc khi nó được phản ánh lại một
cách khách quan. Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu không
bao giờ nói lên được bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của
nhận thức.”[77, tr.157] Quá trình nhận thức vụ việc dân sự thông qua
chứng cứ hay nói cách khác chứng cứ là cơ sở để Tòa án nhận thức vụ việc
dân sự nên chứng cứ phải có tính khách quan. Tính khách quan của chứng
cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những thông tin, sự kiện, tình tiết có
thật, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con
người. “Tính khách quan của chứng cứ là thuộc tính đầu tiên của chứng cứ
yêu cầu rằng chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại một cách độc lập
với ý chí của con người , mặc dù có thể phản ánh qua nhận thức của con
người.Điều đó có nghĩa rằng chứng cứ không thể là sản phẩm chủ quan
21
của sự tưởng tượng, suy diễn của con người.”[6, tr.207] Mộtthông tin, sự
kiện, tình tiết muốn được sử dụng trong quá trình chứng minh thì cần phải
tồn tại khách quan và được phát hiện, nghiên cứu và đánh giá. Thông
thường chứng cứ chỉ là những sự kiện, tình tiết nảy sinh trước khi có đơn
kiện đến Tòa án. Chỉ trong trường hợp đặc biệt thì chúng mới nảy sinh sau
khi có đơn kiện đến Tòa án, ví dụ trường người vay trả nợ cho người cho
vay ngay tại phiên tòa dưới sự chứng kiến của Tòa án, nhưng cũng chỉ
trong trường hợp tương tự đó mà thôi. Do vậy, Tòa án và những người
tham gia tố tụng không thể tạo ra được chứng cứ. Tuy không tạo ra được
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhưng Tòa án và những
người tham gia tố tụng có thể xác định, nhận thức được chứng cứ để khai
thác sử dụng chúng trong quá trình TTDS. “Ở đây cần phải phân biệt tính
khách quan của chứng cứ và quá trình hình thành chứng cứ. Đa số các
chứng cứ là sản phẩm hành vi của con người tạo ra. Tại thời điểm hình
thành, nó có ý nghĩa xác định một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân
sự.Khi sự kiện, tình tiết đó đã ra đời và được coi là chứng cứ của vụ việc
thì nó lại tồn tại khách quan với ý thức của con người, kể cả người tạo ra
nó. Vì vậy, tất cả những gì mà ai đó do các động cơ khác nhau cố tình tạo
ra để làm thay đổi hiện tượng, bản chất của sự việc đã diễn ra đều bị coi là
sự kiện giả, tình tiết giả mạo và đều không được coi là chứng cứ.”[2, tr.99]
Trong giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể, những tình tiết, sự kiện
được sử dụng với tư cách là chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau vì vậy để xác định chính xác được chúng cần nghiên cứu, đánh
giá một cách toàn diện các mặt, các mối liên hệ giữa chúng với nhau và
giữa chúng với vụ việc dân sự được giải quyết. Trước hết, Tòa án cần phải
xem xét, xác định sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ có nguồn gốc hình
thành, tồn tại, phát triển như thế nào, do ai cung cấp. Đối với các sự kiện,
tình tiết mà các bên đương sự đưa ra để chứng minh cho quyền lợi của
mình thì thường là những sự kiện, tình tiết có lợi cho họ. Trong nhiều
trường hợp họ còn cung cấp cho Tòa án cả những sự kiện, tình tiết không
22
liên quan đến vụ việc dân sự hoặc không có thật. Vì vậy, để bảo đảm tính
khách quan của các chứng cứ được sử dụng sau nữa Tòa án phải xem xét
kỹ các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của tình tiết, sự kiện họ đưa ra.
Ngoài ra, việc xem xét, đánh giá chúng của Tòa án cũng phải thực sự khách
quan tức là không được có định kiến trước về chúng, xem xét, đánh giá
chúng như chúng vốn có. Căn cứ vào tính hợp pháp của chứng cứ, trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án chọn lọc, loại bỏ những thông
tin, tình tiết, sự kiện không được hình thành, tồn tại khách quan, không có ý
nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết vụ
việc dân sự được đúng đắn.
Thứ hai, chứng cứ có tính liên quan.
Chứng cứ là những căn cứ để xác định cơ sở yêu cầu hay phản yêu
cầu của đương sự và những người khác đề ra trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự có căn cứ và hợp pháp hay không nên chứng cứ phải có tính
liên quan. “Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được Toà án dựa vào
để giải quyết vụ việc dân sự.”[77, tr.159]Tính liên quan của chứng cứ thể
hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân sự phải có mối liên hệ nhất định
nhờ nó mà Tòa án có thể xác định được những tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự hoặc đưa ra những tin tức về nó. Vì vậy, mỗi thông tin, tình tiết, sự
kiện thực tế muốn được sử dụng với tư cách là chứng cứ cần phải mang
một nội dung thiết thực gắn liền với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa
án. Những thông tin, tình tiết, sự kiện không có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ việc dân sự của Tòa án thì không được sử dụng với tư cách là
chứng cứ. Dựa vào tính liên quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết
vụ việc dân sự Tòa án chọn lọc, loại bỏ những thông tin, tình tiết, sự kiện
không liên quan đến vụ việc dân sự, không có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ việc dân sự và chọn lọc được những thông tin, tình tiết, sự kiện
liên quan đến vụ việc dân sự bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được
đúng đắn và nhanh chóng.
23
Chứng cứ có thể là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan trực
tiếp đến vụ việc dân sự hoặc là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan
gián tiếp đến vụ việc dân sựđược Tòa án giải quyết. Đối với những chứng
cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan trực tiếp đến vụ việc dân
sự thì Tòa án có thể căn cứ vào nó để xác định trong thực tế có hay không
những tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự hay những
người khác đề ra trong quá trình TTDS. Ví dụ: Bản di chúc trong vụ án
tranh chấp về thừa kế; nhờ bản di chúc Tòa án có thể xác định được việc
phân chia di sản của người để lại thừa kế. Đối với những chứng cứ là
những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sự thì
Tòa án vẫn có thể căn cứ vào nó để xác định trong thực tế có hay không
những tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự hay những
người khác đề ra trong quá trình TTDS. Ví dụ: Trong vụ kiện đòi bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tai nạn về giao thông bị đơn chống lại
nguyên đơn và nại ra rằng trong ngày xảy ra tai nạn bị đơn ở địa điểm khác.
Để khẳng định điều này, bị đơn đã xuất trình hóa đơn thanh toán tiền nghỉ
khách sạn, giấy đi công tác, yêu cầu hỏi thêm một số người làm chứng. Sự
kiện bị đơn ở địa điểm khác không ở địa điểm xảy ra tai nạn không phải là
sự kiện pháp lý mà quan hệ giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó nhưng
nếu bị đơn chứng minh được bằng các chứng cứ kể trên thì cho phép kết
luận không có sự kiện pháp lý bị đơn gây tai nạn cho nguyên đơn như
nguyên đơn nêu. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá và sử dụng chúng khá
phức tạp. Khi xem xét, dánh giá và sử dụng chúng bao giờ Tòa án cũng
phải kết hợp cùng với những chứng cứ khác mới đảm được sự chính xác.
“Trong một vụ việc dân sự, có thể có nhiều thông tin, sự kiện, tình tiết liên
quan đến vụ việc dân sự.Các thông tin đó có thể thống nhất hoặc mâu
thuẫn nhau. Trong trường hợp này, việc sử dụng thông tin, sự kiện, tình tiết
nào để giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc vào việc đánh giá chứng cứ của
Tòa án. Do đó, chỉ những thông tin, sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc
dân sự được Tòa án sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự mới
24
được coi là chứng cứ.”[2, tr.101]
Thứ ba, chứng cứ có tính hợp pháp.
Quá trình xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ nói riêng và quá
trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung đều rất phức tạp. Để giải quyết
đúng vụ việc dân sự pháp luật phải quy định rất chặt chẽ, cụ thể quá trình
giải quyết vụ việc dân sự, trong đó có quá trình xem xét, đánh giá và sử
dụng chứng cứ.Các thông tin, tình tiết, sự kiện là chứng cứ được sử dụng
giải quyết vụ việc dân sự thì cần phải được cung cấp, thu thập, bảo
quản,nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định. Vì vậy, chứng cứ phải tính hợp pháp.“Chứng cứ có tính hợp
pháp, bởi việc giải quyết vụ việc dân sự không thể tách rời quá trình nghiên
cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ.Quá trình này lại rất phức tạp, pháp
luật phải quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến chúng thì mới có thể
làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng với bản chất của nó.”[77,
tr.159]Tính hợp pháp của chứng cứ đảm bảo cho giá trị của chứng cứ.Việc
bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ buộc các hoạt động cung cấp, thu
thập, bảo quản,nghiên cứu, đánh giá và sử dụng phải tiến hành theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định từ đó làm cho các chứng cứ được sử dụng
có độ chính xác và tin cậy cao dẫn đến các quyết định của Tòa án có sức
thuyết phục.“Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi chưng cứ phải được thu
thập, bảo quản, xem xét, đánh giá tuân theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.”[6, tr.249] Thực tiễn tố tụng đã chỉ ra rằng các thông tin,
tình tiết, sự kiện xảy ra trong thực tế khách quan, liên quan đén vụ việc dân
sự sẽ mất giá trị nếu trong quá trình cung cấp, thu thập, bảo quản,nghiên
cứu, đánh giá và sử dụng không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Chẳng hạn, Thẩm phán có thể biết được thông tin, tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự nào đó không phải từ hoạt động tố tụng thu thập chứng cứ mà
từ một cuộc nói chuyện ngẫu nhiên. thông tin, tình tiết, sự kiện trong TTDS
không có ý nghĩa gì cả, sự hiểu biết đó của Thẩm phán không thể đưa vào
25
làm nền tảng cho quyết định của Tòa án, trừ trường hợp là những tình tiết,
sự kiện mọi người đều biết. Ví dụ khác, theo quy định tại Khoản 1 Điều 83
BLTTDS, khi cung cung cấp cho Tòa án các tài liệu nghe được, nhìn được
phải xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn
bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Vì văn bản xác nhận
xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm,
thu hình đó cho phép Tòa án xác định được tính khách quan của các tài liệu
nghe được, nhìn được. Nếu không xuất trình được văn bản xác nhận xuất
xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu
hình đó thì Tòa án không thể xác định được tính khách quan của các tài liệu
nghe được, nhìn được. Hoặc theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 BLTTDS,
thì người giám định phải thay đổi hoặc từ chối tham gia tố tụng nếu đồng
thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.Việc thay
đổi hoặc từ chối tham gia tố tụng của người giám định trong những trường
hợp này nhằm bảo đảm cho việc giám định được khách quan, kết luận giám
định được chính xác. Vì vậy, nếu người giám định không thay đổi hoặc từ
chối tham gia tố tụng trong trường hợp đồng thời là đương sự, người đại
diện, người thân thích của đương sự thì sẽ dẫn đến hậu quả việc giải quyết
vụ việc dân sự của Tòa án có thể không đúng đắn. “Tính hợp pháp là một
đặc tính mang tính hình thức, phản ánh các đặc tính mang tính nội dung
của chứng cứ. Trong quá trình tố tụng, chứng cứ phải được thu thập theo
đúng các trình tự, thủ tục do pháp luật về tố tụng quy định. Việc quy định
trình tự, thủ tục này để đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ là đúng đắn
và cần thiết.”[17, tr.101]
Như vậy, chỉ những thông tin, tình tiết, sự kiện có đủ ba thuộc tính
nêu trên mới là chứng cứ. Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Học
viện Tư pháp thì “ba thuộc tính của chứng cứ: tính khách quan, tính liên
quan và tính hợp pháp là một thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại lẫn nhau. Chứng cứ phải là sự thống nhất của ba thuộc
tính đó, trong đó tính khách quan (thuộc tính hình thức) là tiền đề của tính
26
hợp pháp và tính liên quan (thuộc tính nội dung…”[19, tr.170] Tuy vậy,
qua nghiên cứ cho thấy tính hợp pháp của chứng cứ mới là tính hình thức,
bởi theo tính hợp pháp của chứng cứ thì mọi hoạt động chứng minh nhằm
sử dụng chứng cứ đều được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
1.1.3. Mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng
dân sự
Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ
thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình
tiết của vụ việc dân sự. Chứng minh bao gồm các hoạt động như cung cấp,
thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Các hoạt động này có mối liên
hệ hữu cơ với nhau, hoạt động trước là tiền đề của hoạt động sau và hoạt
động sau củng cố kết quả của hoạt động trước.
Cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
trong việc đưa lại cho Toà án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân
sự. Trong tố tụng dân sự, mọi chủ thể đều có quyền cung cấp chứng cứ cho
Tòa án, trong đó các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng
minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa
vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ
việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, Tòa án và các chủ thể tố tụng khác đều
có quyền thu thập chứng cứ. Khi thu thập chứng cứ, các chủ thể tố tụng tùy
theo địa vị tố tụng của mình được pháp luật quy định cho có những quyền,
nghĩa vụ nhất định trong việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ.
Nghiên cứu chứng cứ là kiểm tra, xem xét nhằm tìm hiểu chứng cứ.
Việc nghiên cứu chứng cứ được thực hiện cả trước và trong phiên tòa,
phiên họp dân sự. Trong tố tụng dân sự, Tòa án các chủ thể tố tụng đều có
27
quyền nghiên cứu chứng cứ. Việc nghiên cứu chứng cứ là cơ sở để thực
hiện việc đánh giá chứng cứ.
Đánh giá chứng cứ là nhận định giá trị chứng minh của chứng cứ.
Việc đánh giá chứng cứ có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vụ
việc dân sự. Nếu việc đánh giá chứng cứ đúng sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ
việc dân sự đúng còn nếu không thì ngược lại. Trong tố tụng dân sự các
chủ thể tố tụng đề có quyền đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, việc đánh giá
chứng cứ của Tòa án là quan trọng nhất vì dựa trên sự đánh giá chứng cứ
Tòa án sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
Để giải quyết được vụ việc dân sự phải chứng minh làm rõ được
những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Tùy vụ việc dân sự
những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự phải chứng minh làm
rõ khác nhau. Trong quá trình chứng minh, chứng cứ là là phương tiện để
xác định, làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Thực tiễn giải
quyết các vụ việc dân sự của Tòa án đã cho thấy, kết quả giải quyết các vụ
việc dân sự phụ thuộc rất lớn vào chứng minh trong TTDS tức là việc cung
cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ vì giữa chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng dân sự có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ
này thể hiện ở chỗ các hoạt động chứng minh trong TTDS đều xoay quanh
vấn đề chứng cứ. Để hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan
của vụ việc dân sự thực hiện được thì phải có các chứng cứ. Không có
chứng cứ thì hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ
việc dân sự không thể thực hiện được. Nói cách khác chứng cứ là phương
tiện để thực hiện hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ
việc dân sự. Ngược lại, chứng cứ có được sử dụng để giải quyết vụ việc
dân sự hay không thì phải thông qua hoạt động chứng minh. Không có hoạt
động chứng minh thì dù có chứng cứ nhưng chứng cứ vẫn không thể được
sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự vụ việc dân sự. Như vậy, chứng cứ và
28
chứng minh là hai vấn đề cơ bản của TTDS có mối quan hệ mật thiết và tác
động qua lại lẫn nhau.
1.2. Ý NGHĨA CỦA CHỨNG CỨ VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ QUY ĐỊNH VỀ CHỨNG CỨ
1.2.1. Ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự
Bàn về ý nghĩa của chứng cứ, ông Coulon là Chánh tòa sơ thẩm thẩm
quyền rộng Paris Pháp đã khẳng định: “Nếu khẳng dịnh một điều gì đó mà
không đưa ra được chứng cứ thì có nghĩa là chẳng có gì để mà khẳng định
cả” hay “pháp luật mà không có chứng cứ thì chẳng có nghĩa gì cả nhưng
chứng cứ dù không có pháp luật vẫn có tất cả ý nghĩa của nó.”[36, tr.27]
Qua nghiên cứu cho thấy, trong giải quyết vụ việc dân sự chứng cứ có rất
nhiều ý nghĩa.
Chứng cứ trước hết có ý nghĩa giúp Tòa án xác định, làm rõ được
các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn
các vụ việc dân sự. Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì chứng cứ
vẫn là phương tiện duy nhất để Tòa ánxác định các sự kiện, tình tiết của vụ
việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh trong việc sử dụng chứng cứ
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân biết và nhận thức rõ được các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Trên thực tế, có thể có trường hợp
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân giải quyết vụ việc dân sự có thể ngẫu nhiên
biết được một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự. Tuy nhiên, họ
không thể sử dụng hiểu biết này vào việc giải quyết đúng vụ việc dân sự,
trừ trường hợp đó là những sự kiện, tình tiết mà mọi người đều biết. Trong
trường hợp này, để loại trừ khả năng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không
cho tiến hành xác định đầy đủ chứng cứ nên có thể kết luận sai hoặc có kết
luận trướcvề vụ việc dân sự thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không được
tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc dân sự đó và có thể được lấy lời khai
với tư cách là người làm chứng. Cho dù Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
29
giải quyết vụ việc dân sự có thể biết được một sự kiện, tình tiết nào đó của
vụ việc dân sự thì để giải quyết đúng được vụ việc dân sự vẫn phải tiến
hành các hoạt động chứng minh xác định và sử dụng chứng cứ để làm rõ vụ
việc dân sự. Ngoài ra, cũng có trường hợp một tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự được Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chứng kiến diễn ra
ngay ở tại phiên toà. Tình tiết, sự kiện này có thể là tình tiết, sự kiện pháp
lý mà sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các bên
đương sự liên quan đến nó như sự kiện bị đơn trả cho nguyên đơn một số
tiền đã vay ở tại phiên toà trong vụ việc dân sự đòi tiền cho vay. Do nó đã
diễn ra ngay ở tại phiên toà, Toà án và mọi người đã trực tiếp chứng kiến
đã rõ nên không phải chứng minh. Song đây cũng chỉ là trường hợp cá biệt
còn lại đa số các các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự muốn làm rõ,
muốn nhận thức được thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều phải cho
chứng minh thông qua việc sử dụng các chứng cứ. Như vậy, đối với Tòa án
nhờ chứng cứ có thể tái hiện được bức tranh vụ việc dân sự để giải quyết
đúng vụ việc dân sự.
Đối với các đương sự, chứng cứ là vấn đề rất quan trọng để các
đương sự đưa ra yêu cầu, làm rõ cơ sở của yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình trên cơ sở đó thuyết phục Toà án bảo vệquyền, lợi ích
hợp pháp của họ. Trước Toà án, nếu đương sự không có chứng cứ để chứng
minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì quyền và lợi ích
hợp pháp của họ có thể sẽ không được Toà án bảo vệ. Vì trên nguyên tắc
nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, theo đó đương sự có nghĩa vụ
phải cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Trên thực tế, các Toà án cũng có
thể có sai lầm trong việc thu thập chứng cứ để xác định các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự như thu thập không đúng hoặc không đủ để làm
sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Điều này, một mặt
dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật, mặt khác
làm cho đương sự không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do
vậy, chứng cứ không chỉ có ý nghĩa làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
30
của Toà án được đúng đắn mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo
vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án.
1.2.2. Cơ sở pháp luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ
Chủ nghĩa Mác – Lê Nin cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới
khách quan. Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý hay đạt đến sự
phản ánh chính xác những sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội tồn tại
bên ngoài với ý thức và sự phản ánh đó. Để nhận thức được các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa vào các chứng cứ, bởi như đã nêu
trên chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện để xác định sự thật
khách quan của vụ việc dân sự hay nó chính là cơ sở để nhận thức vụ việc
dân sự. Nếu thiếu một trong các chứng cứ thì ở bất kỳ vụ việc dân sự nào
Tòa án cũng không thể giải quyết đúng bản chất vụ việc. Tuy nhiên, để sử
dụng các chứng cứ giải quyết vụ việc dân sự thì phải qua quá trình chứng
minh bao gồm các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ. Quá trình này được tiến hành trong bối cảnh rất phức tạp là có sự
mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên đương sự. Về nguyên tắc, trong tố
tụng dân sự các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án để
chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy vậy, thông
thường đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ có lợi cho mình
còn những chứng cứ không có lợi cho mình thì các đương sự sự không
cung cấp cho Tòa án, thậm chí còn tìm cách tiêu hủy chúng. Mặt khác, việc
thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng, bảo quản và bảo vệ chứng cứ của
Tòa án cũng không mấy đơn giản, thậm chí có những trường hợp khi tiến
hành các chủ thể tố tụng còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Thực tế đã
cho thấy có không ít những trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ,
quản lý chứng cứ không chịu cung cấp cho đương sự và cả Tòa án mặc dù
Tòa án đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định. Đối
với việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ thì phụ thuộc rất lớn vào hoạt động
tư duy của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố
31
tụng nên bị chi phối rất nhiều bởi khả năng nhận thức, phân tích, đánh giá
chứng cứ và sự tham gia tố tụng của họ có khách quan hay không.Đặc biệt,
đối với những vụ án có nhiều chứng cứ gián tiếp thì việc xem xét đánh giá
chứng cứ lại càng phức tạp hơn, bởi giá trị chứng minh của chứng cứ gián
tiếp không phải do bản thân mình nó quyết định mà phụ thuộc vào hệ thống
các chứng cứ và mối liên hệ của chúng với các chứng cứ trong hệ thống ấy.
Pháp luật tố tụng dân sự là một phương tiện bảo đảm thực tế cho các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể. Từ thực tế đó, yêu cầu đặt ra là pháp luật tố
tụng dân sự phải điều chỉnh tất cả các quan hệ nảy sinh xung quanh vấn đề
chứng cứ để bảo đảm đạt được mục đích sử dụng chứng cứ trong TTDS.
Ngoài ra, trong TTDS Tòa án là người đại diện và người thực thi
công lý. Việt nam Ngoài nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ních hợp pháp của
đương sự, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thực
thi công lý của Tòa án trong TTDS gắn liền với những cơ chế xét xử do
pháp luật quy định. Chứng cứ là một trong những vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất của TTDS. Để bảo đảm các Tòa án thực hiện được nhiệm vụ và
quyền hạn của mình trong TTDS thì pháp luật tố tụng dân sự phải quy định
các vấn đề về chứng cứ.
1.3. NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ PHÂN LOẠI CHỨNG CỨ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ
1.3.1. Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự
Trong khoa học pháp lý về tố tụng dân sự còn đưa ra khái niệm
nguồn chứng cứ.Việc đưa ra khái niệm nguồn chứng cứ, trên cơ sở đó phân
biệt đâu là chứng cứ, đâu là nguồn chứng cứcó ý nghĩa rất quan trọng cả về
lý luận và thực tiễn.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, thì “Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc
32
nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được
hiểu là nơi rút ra các chứng cứ.”[77, tr.161] TheoGiáo trình Luật Tố tụng
dân sự Việt Nam do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011 thì “Con
người, sự vật, tài liệu chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự (chứng cứ)
được gọi là nguồn chứng cứ”[2, tr.101]. Như vậy, có thể coi là nguồn
chứng cứ trong TTDS là những con người, vật, tài liệu mang những thông
tin về vụ việc dân sự.Nếu như chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự
kiện về vụ việc dân sự được cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá
theo một trình tự do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để giải
quyết vụviệc dân sự thì nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh, nơi
cung cấp hay nơi rút ra chứng cứ. “Nguồn chứng cứ chính là hình thức
chứa đựng thông tin, dấu vết về những gì liên quan đến vụviệc dân sự.
Chứng cứ của vụ việc dân sự sẽ được rút ra từ các nguồn chứng
cứ.”[17,tr.101]Như vậy, trong mối tương quan giữa chứng cứ và nguồn
chứng cứ thì chứng cứ là các thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ
việc dân sự, phản ánh sự thật khách quan của vụ việc dân sự còn nguồn
chứng cứ là những cái chứa đựng các thông tin, tình tiết, sự kiện đó. Trong
mối tương quan giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng
minh thì phương tiện chứng minh là phương tiện để xác định chứng cứ,
phương tiện chứng minh khác nguồn chứng cứ, tuy vậy trong một số
trường hợp có sự trùng hợp giữa nguồn chứng cứ và phương tiện chứng
minh. Ví dụ,đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà
có vật chứng thì vật chứng và là phương tiện chứng minh đồng thời vừa là
nguồn chứng cứ.“Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái
niệm khác nhau. Tuy vậy, trên thực tế chúng thường được hiểu là một. Bởi,
trong một số trường hợp các phương tiện chứng minh cũng chính là cái có
thể rút ra các tin tức về vụ việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa đựng
chứng cứ v.v. tức cũng là nguồn chứng cứ. Việc phân biệt nguồn chứng cứ
với phương tiện chứng minh chẳng qua là do nhìn chúng trên những
phương diện, góc độ khác nhau như là nơi rút ra chứng cứ hay là công cụ
33
được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ việc dân sự”[77, tr.162]
Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định cho các
chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự. Vì vậy, không phải tất cả nguồn chứng cứ đều là phương tiện
chứng minh và ngược lại.
Nguồn chứng cứ có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định chứng cứ, do
vậy trong pháp luật tố tụng dân sự của các nước cũng như pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam đều thừa nhận và quy định về nguồn chứng cứ. Theo đó,
thì nguồn chứng cứ bao gồm các loại sau đây:
Thứ nhất là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được.
Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được là nguồn chứng cứ bởi
đó có thể rút ra các chứng cứ. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn
đượccó thể được Tòa án sử dụng với tư cách là chứng cứ nếu thỏa mãn
được những yêu cầu nhất định do pháp luật quy định. Đối với các tài liệu
đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng
thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
Bản gốc là bản đầu tiên, là bản được dùng để làm ra bản sao.Ngược lại, bản
sao là bản được làm ra từ bản gốc hay được chép lại từ bản gốc.Ví dụ: Bản
hợp đồng mua bán hay bản sao của hợp đồng mua bán đó có chứng thực
trong vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán. Đối với các tài liệu nghe
được, nhìn được thì phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất
xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu
hình đó. Các tài liệu nghe nhìn được có thể là các băng, đĩa, ổ USB
v.v…hay văn bản xác nhận xuất xứ. Kèm theo việc đưa ra các tài liệu nghe
được, nhìn được thì người đưa ra chúng phải xuất trình văn bản xác nhận
về nguồn gốc của chúng.
Thứ hai là các vật chứng.
34
Vật chứng là những vật khác nhau của thế giới vật chất có chứa đựng
những thông tin, dấu vết về vụ việc dân sự. Từ những thông tin, dấu vết
chứa đựng trong vật chứng cho phép Tòa án xác định được những tình tiết
của vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Các vật chứng
được sử dụng với tư cách là chứng cứ nếu là hiện vật gốc liên quan đến vụ
việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ
việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.Hiện vật gốc liên
quan đến vụ việc dân sự là hiện vật đầu tiên chứa đựng thông tin, dấu vết
về vụ việc dân sự. Giá trị chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc
định của các vật đó. Vì chỉ là vật đặc định thì mới giữ được các dấu vết,
thông tin về vụ việc dân sự.
Thứ ba là lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng.
Đương ự, người làm chứng là những người tham gia vào sự việc,
chứng kiến sự việc.Trong lời khai của đương sự, lời khai của người làm
chứng thường chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự nên là nguồn
chứng cứ. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là
chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi
hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục pháp luật quy định.
Đương sự có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nên lời khai của
họ thường chứa đựng những thông tin, tình tiết, sự kiện có lợi cho họ.Vì
vậy, khi sử dụng lời khai của đương sự để xác định sự thật khách quan của
vụ việc dân sự cần xem xét thận trọng cùng các chứng cứ khác.Đối với
người làm chứng, không có quyền lợi liên quan đến vụ việc dân sự Tòa án
giải quyết nên việc tham gia tố tụng của họ khách quan hơn đương sự. Tuy
vậy, vì nhưng nguyên nhân khác nhau như do khả năng nhận thức sự việc,
khả năng nhớ và phản ánh lại sự việc, điều kiện chứng kiến sự việc
v.v…Do đó, khi sử dụng lời khai của người làm chứng để giải quyết vụ
việc dân sự Tòa án vẫn phải kiểm tra, đối chiếu cẩn thận với các chứng cứ
khác của vụ việc dân sự. Ngoài ra, để sử dụng được lời khai của đương sự,
35
lời khai của người làm chứng thì lời khai của đương sự, lời khai của người
làm chứng phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định như ghi bằng
văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình. Trường hợp
lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được ghi trong băng
ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình thì cũng phải có văn bản
xác nhận xuất xứ của chúng.
Thứ tư là kết luận giám định.
Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nhất
định đòi hỏi phải sử dụng đến những kiến thức, kinh nghiệm chuyên
môncủa giám định viên. Kết luận của giám định viên là một kết luận khoa
học được đưa ra sau khi đã sử dụng các kiến thức, kinh nghiệm chuyên
môn để xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Kết luận giám
định có tác dụng làm sang tỏ tình tiết, sự kiện của vụ việcdân sự nên có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong việc giải
quyết nhiều vụ việc dân sự, kết luận giám định còn mang tính chất quyết
định đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy vậy,
kết luận giám định có thể không đúng vì phụ thuộc vào trình độ, tính khách
quan trong việc giám định của người giám định, các tài liệu giám định
v.v…Vì vậy, việc giám định phải được tiến hành theo đúng thủ tục quy
định của pháp luật và khi sử dụng kết luận giám định Tòa án cũng phải đối
chiếu, sử dụng cùng các chứng cứ khác.
Thứ sáu là biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
Trong những vụ việc dân sự mà đối tượng tranh chấp là những tài
sản hoặc tài liệu, vật chứng không thể di chuyển đến Tòa án được thì để
giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự phải tiến hành xem xét, xác minhtại chỗ
để xác định đúng thực trạng tài sản tranh chấp hoặc tài liệu, vật chứng.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ là tài liệu phản ánh lại quá trình xác
minh, xem xét tại chỗ tài sản tranh chấp hoặc tài liệu, vật chứng. Trong
36
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ cũng chứa đựng các thông tin về vụ
việc dân sự nên cũng là nguồn chứng cứ. Để bảo đảm việc giải quyết đúng
vụ việc dân sự, việc lập và sử dụng biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ
phải được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
Thứ sáu là tập quán.
Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản
xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa
nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.Từ tập quán có
thể rút ra được những thông tin về vụ việc dân sự được giải quyết nên tập
quán cũng là nguồn chứng cứ.Thực tiễn đòi hỏi việc áp dụng phong tục tập
quán trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự do trong nhiều trường
hợp không có quy định của pháp luật mà các thành viên trong cộng đồng
người phải dựa trên cơ sở tập quán là một bộ phận cấu thành căn bản của
truyền thống văn hoá và giá trị đạo đức trong cộng đồng người đó để xử sự.
Tuy nhiên, chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản
quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án phải áp dụng quy định của văn
bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán.
Thứ bảy là kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản thực chất là việc tổ chức có
thẩm quyền thực hiện việc xác định giá trị tài sản.Đối với những vụ việc
dân sự cần xác định giá trị tài sản tranh chấp mới có thể giải quyết đúng
được thì phải cho định giá tài sản hoặc thẩm định giá tài sản đó.Kết quả
định giá tài sản, thẩm định giá tài sản có chứa đựng những thông tin về vụ
việc dân sự nên là nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, để Tòa án sử dụng được kết
quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản thì việc định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản phải do tổ chức có thẩm quyền thực hiện và được tiến hành
theo thủ tục do pháp luật quy định.
37
1.2.1. Phân loại chứng cứ
Sự phong phú và đa dạng các nguồn chứng cứ dẫn đến sự phong phú
và đa dạng các loại chứng cứ.Mỗi loại chứng cứ, ngoài những đặc điểm
chung như khách quan, liên quan mật thiết đến vụ việc dân sự và phải được
cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá theo trình tự do pháp luật quy
định thì còn có những đặc điểm riêng của chúng như chứng cứ rút ra từ vật
chứng, tài liệu thì mang tính ổn định còn chứng cứ rút ra từ lời khai của
đương sự, người làm chứng thì có khi bị thay đổi. Để giúp cho việc nghiên
cứu xây dựng các quy định về chứng cứ và việc xem xét, đánh giá và sử
dụng chứng cứ trong thực tiễn được tốt, lý luận về chứng cứ còn đề cập tới
việc phân loại chứng cứ. Theo đó, mỗi chứng cứ có thể được xếp vào các
loại khác nhau tùy theo các đặc điểm của chúng và tùy theo cách phân loại.
Và việc phân loại chứng cứ cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Theo các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được công bố
thì trên thực tế có rất nhiều cách phân loại chứng cứ khác nhaunhưng mục
đích chung của việc phân loại chứng cứ là xếp chúng thành những nhóm
nhất định. “Tuy vậy, việc phân loại chứng cứ không làm thay đổi giá trị
chứng minh của chứng cứ.Việc phân loại chứng cứ chủ yếu có ý nghĩa
đối với việc nghiên cứu và đưa ra những quy định về chứng cứ.Bên cạnh
đó, nó cũng có ý nghĩa đối với việc sử dụng chứng cứ trong giải quyết vụ
việc dân sự.”[77, tr.175]Đối với việc nghiên cứu và đưa ra những quy
định về chứng cứ, việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa giúp cho việc lựa
chọn, xây dựng được các quy định về chứng cứ được khoa học, phù hợp
với thực tiễn. Đối với việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, việc phân loại chứng cứ có ý
nghĩa giúp cho việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ được
đúng đắn và nhanh chóng. Ở Việt Nam, các cách phân loại chứng cứ mang
tính phổ biến bao gồm: Phân loại chứng cứ căn cứ vào nguồn chứng cứ;
phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ; phân loại
38
chứng cứ căn cứ hình thức tồn tại của chứng cứ; phân loại chứng cứ căn cứ
vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh của
vụ việc dân sự; phân loại chứng cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ
đối với vụ việc dân sự v.v…
Thứ nhất, phân loại chứng cứ căn cứ vào nguồn thu nhận chứng cứ.
Căn cứ vào nguồn thu nhận chứng cứ, chứng cứ được phân thành
chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật. Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân
loại này giúp xác định các phương pháp thu thập chứng cứ được phù hợp
và việc đánh giá, sử dụng chứng cứ được chính xác hơn.
Chứng cứ theo người là chứng cứ rút ra từ lời khai của đương sự,
người làm chứng. Như nêu ở trên, đương sự, người làm chứng là người
tham gia vào sự việc, chứng kiến sự việc nên lời khai của họ thường chứa
đựng những thông tin về vụ việc dân sự.Từ lời khai của họ có thể rút ra
được các chứng cứ.Ví dụ:Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa
A và B, C là người làm chứng đã chứng kiến việc thỏa thuận giao kết hợp
đồng vay tài sản giứa các bên và A đã trao tài sản cho vay cho B. C đã khai
với Tòa án toàn bộ những gì mình đã biết về vụ việc thì những thông tin
trong lời khai của C được sử dụng với tư cách là chứng cứ theo người.
Chứng cứ theo người có đặc điểm là phụ tuộc rất nhiều vào khả năng nhận
thức, khả năng nhớ và phản ánh lại sự kiện của đương sự, người làm chứng.
Đặc biệt, chúng phụ thuộc nhiều vào thái độ khách quan của đương sự,
người làm chứng trong việc tham gia tố tụng. Tất cả những yếu tố này đòi
hỏi Tòa án phải lựa chọn, áp dụng các phương pháp thu thập, nghiên cứu
và đánh giá loại chứng cứ này cho phù hợp. Chẳng hạn, khi lấy lời khai của
người làm chứng thì phải xác định những yếu tố về khả năng nhận thức,
mối quan hệ của họ đối với đương sự v.v...“Đối với những chứng cứ được
rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng việc nghiên cứu, đánh
giá và sử dụng chúng rất phức tạp. Nét chung nhất của con người với
39
nghĩa là nguồn chứng cứ bị chi phối rất lớn bởi yếu tố lợi ích, tâm lý, khả
năng nhận thức, nhớ và phản ánh lại những gì họ thấy, sự quan tâm của họ
đối với sự kiện v.v.. Tất cả những yếu tố này đều phải tính đến khi nghiên
cứu, đánh giá và sử dụng các chứng cứ được rút ra từ đương sự, người làm
chứng.”[77, tr.176]
Chứng cứ theo vật là những chứng cứ được rút ra từ những vật khác
nhau của thế giới vật chất như vật chứng, tài liệu, giấy tờ có chứa đựng
những tin tức về vụ việc dân sự.Ví dụ:Trong vụ án tranh chấp bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do hỏa hoạn A gây ra. Để chứng minh cho yêu cầu
của mình, B đã xuất trình cho Tòa án chiếc xe máy của mình bị cháy một
phần trong vụ hỏa hoạn đó. Những thông tin, dấu vết do hậu quả của vụ
hỏa hoạn để lại trên chiếc xe sẽ được Tòa án dùng để xác định các vấn đề
của vụ án là chứng cứ theo vật. Do là bản chất là những thông tin, dấu vết
được lưu giữ bởi các vật, tài liệu, giấy tờ nên chứng cứ theo vật ít có thay
đổi về giá trị chứng minh trong quá trình sử dụng. Vì vậy, trên thực tế việc
thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ theo vật thường ít phức
tạp hơn việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ theo
người. “Thông thường, các chứng cứ được rút ra từ các vật, tài liệu việc
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng không mấy phức tạp vì chúng ít bị chi
phối bởi ngoại cảnh.”[77, tr.176]Tuy vậy, những thông tin, dấu vết liên
quan đến vụ việc dân sự trên các vật chứng, tài liệu, giấy tờ cũng có thể bị
tẩy, xóa mất. Vì vậy, để bảo đảm sử dụng trong giải quyết vụ việc dân sự
khi thu thập được các chứng cứ này phải bảo quản cẩn thận để không bị
mất, giảm giá trị chứng minh.
Thứ hai, phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ.
Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được phân thành
chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại. Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại
này giúp cho việc thu thập, đánh giá chứng cứ được đầy đủ hơn. Có chứng
40
cứ thuật lại mà chưa có chứng cứ gốc thì có thể căn cứ vào đó mà thu thập
chứng cứ gốc.
Chứng cứ gốc là những thông tin, tình tiết, sự kiện thực tế đầu tiên
về sự kiện cần chứng minh. Ví dụ: Bản Hợp đồng vay tài sản được lập giữa
A và B khi hai bên thỏa thuận cho nhau vay tài sản. Chứng cứ gốc là nguồn
đầu tiên về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nên việc phản ánh các
tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự sẽ rõ ràng hơn. Việc kiểm tra, xác minh
và đánh giá chứng cứ gốc dễ dàng, ít phức tạp. Chứng cứ gốc có độ chính
xác cao nên được tin cậy hơn trong việc sử dụng. Trên thực tế, thông
thường trong một vụ việc mà có nhiều loại chứng cứ, có cả chứng cứ gốc
và chứng cứ thuật lại thì chứng cứ gốc sẽ được quan tâm sử dụng nhất.
Chứng cứ thuật lại là chứng cứ được sao chép từ chứng cứ khác. Ví
dụ: Bản sao Hợp đồng vay tài sản nói trên được lập giữa A và B khi hai bên
thỏa thuận cho nhau vay tài sản. Như vậy, giữa chứng cứ gốc và chứng cứ
thuật lại có khâu trung gian. Là chứng cứ, thì dù là chứng cứ gốc hay là
chứng cứ thuật lại đều có giá trị chứng minh. Nếu trong vụ việc dân sự
không có chứng cứ gốc thì Tòa án vẫn có thể căn cứ vào chứng cứ thuật lại
để giải quyết vụ việc dân sự. Tuy vậy, nếu so với chứng cứ gốc thì độ tin
cậy của chứng cứ thuật lại không được cao vì việc sao chép lại được thực
hiện bởi con người cụ thể, phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của họ. Trong
điều kiện công nghệ thông tin phát triển như ngày nay mà người sao chép
không khách quan trong việc sao chép, cố tình làm sai lệch nội dung của
chứng cứ thì những thông tin ban đầu của chứng cứ gốc được sao chép lại
sẽ không còn chính xác nữa.“Tam sao thường hay thất bản”, do đó, khi sử
dụng chứng cứ thuật lại cần phải đối chiếu với chứng cứ gốc và các loại
chứng cứ khác.
Thứ ba, phân loại chứng cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với
các sự kiện cần chứng minh.
41
Cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các sự kiện cần chứng
minh, chứng cứ được phân thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián
tiếp.Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại chứng cứ này làm cho việc đánh
giá nghiên cứu, chứng cứ được toàn diện và đúng đắn.
Chứng cứ trực tiếp là những tin tức, tình tiết, sự kiện thực tế có mối
liên hệ trực tiếp đến các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân
sự, căn cứ vào nó có thể xác định ngay có hay không có các tình tiết, sự
kiện làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự. Mối quan hệ giữa chứng cứ
với vụ việc dân sự là mối quan hệ trực tiếp nên dựa vào nó là có thể xác
định được ngày các tình tiết, sự kiện cần chứng minh.Ví dụ:Bản Hợp đồng
vay tài sản lập giữa A và B là chứng cứ trực tiếp chứng minh cho sự tồn tại
của sự kiện giao kết hợp đồng làm cơ sở cho yêu cầu đòi nợ của A. Khi
khởi kiện với những chứng cứ trực tiếp được xuất trình thì việc chấp nhận
yêu cầu của đương sự sẽ có căn cứ hơn.
Chứng cứ gián tiếp là những tin tức, tình tiết, sự kiện thực tế không
có mối liên hệ trực tiếp đến các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ
việc dân sự nhưng nếu căn cứ vào nó có thể rút ra được giả thiết về các tình
tiết, sự kiện làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự. Mối quan hệ giữa
chứng cứ gián tiếp với vụ việc dân sự là mối quan hệ gián tiếp vì vậy bản
thân chúng đứng độc lập thì chỉ có giá trị đưa ra được giả thiết về sự kiện,
tình tiết cần chứng minh. Tuy vậy, nếu được sử dụng kết hợp với các chứng
cứ khác thì chứng cứ gián tiếp cũng giúp cho việc làm sang tỏ các tình tiết,
sự kiện của vụ việc dân sự để giải quyết đúng vụ việc dân sự. Ví dụ: Trong
vụ tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tai nạn giao thông
đã nêu trên bị đơn chống lại nguyên đơn và cho rằng trong ngày xảy ra tai
nạn bị đơn ở địa điểm khác. Để khẳng định điều này, bị đơn đã xuất trình
hóa đơn thanh toán tiền nghỉ khách sạn, giấy đi công tác.Nếu những tài liệu
này là xác thực thì có thể được sử dụng với tư cách là chứng cứ gián tiếp để
giải quyết vụ án.
42
Thực tiễn xét xử của Tòa án đã cho thấy, trong nhiều vụ việc dân sự
đều chỉ có các chứng cứ gián tiếp. Đặc biệt, tình trạng này khá phổ biến ở
những tranh chấp phức tạp được Tòa án thụ lý giải quyết. Tuy chứng cứ
trực tiếp và chứng cứ gián tiếp đều có giá trị chứng minh như nhau nhưng
việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ gián tiếp mang tính phức
tạp hơn việc việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trựctiếp. Giá
trị chứng minh của chứng cứ gián tiếp phụ thuộc vào sự sử dụng kết hợp
với các chứng cứ khác, do đó sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu xem xét, sử
dụng chứng cứ gián tiếp một cách độc lập. Vì vậy, yêu cầu trong việc
nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ gián tiếp là phải nghiên cứu,
đánh giá và sử dụng cùng với nhiều chứng cứ khác.
Thứ tư, phân loại chứng cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ
đối với vụ việc dân sự.
Cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ đối với vụ việc dân sự,
chứng cứ được phân thành chứng cứ tuyệt đối và chứng cứ tương đối.Về ý
nghĩa thực tiễn, cách phân loại này giúp cho việc nhận thức, đánh giá và sử
dụng chứng cứ được thuận tiện hơn.
Chứng cứ tuyệt đối là các suy đoán do luật định, văn bản viết đã lập
sẵn, lời thú nhận trước Tòa án. Đối với loại chứng cứ này có giá trị ràng
buộc Tòa án sử dụng trong giải quyết vụ việc dân sự, bởi giá trị chứng
minh của chúng đã được pháp luật định sẵn. Thực chất đây là sự suy đoán
pháp lý về giá trị chứng minh của các thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự. Ví dụ: Bản hợp đồng mua tài sản đã được công chứng
hợp pháp. Đối với những sự kiện, tình tiết ghi trong văn bản đã được công
chứng, chứng thực hợp pháp thì không phải chứng minh.Vì vậy, chúng có
giá trị tuyệt đối. Về vấn đề này, theo ông Coulon thì: “Giá trị làm bằng của
văn bản chứng thực được công nhận ở tất cả Tòa án, dù là tòa dân sự, tòa
thương mại hay tòa lao động…Nếu trong văn bản chứng thực có những nội
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luậnDanh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
chungk09503
 

What's hot (20)

Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 tại Hà Nội
Luận văn: Đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 tại Hà NộiLuận văn: Đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 tại Hà Nội
Luận văn: Đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2014 tại Hà Nội
 
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docxBáo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
 
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DNĐề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
 
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Xác định cha, mẹ, con theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOTLuận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
Luận văn: Chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOTLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa trong xét xử vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luậnDanh mục gợi ý đề tài khóa luận
Danh mục gợi ý đề tài khóa luận
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
 
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOTĐề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
Đề tài: Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, HOT
 
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoàiThẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
Thẩm quyền của Tòa án Việt Nam giải quyết vụ việc dân sự nước ngoài
 
Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí MinhBáo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
Báo cáo kiến tập tại Phòng Công chứng số 6 Thành phố Hồ Chí Minh
 

Similar to Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT

Similar to Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.docBảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
Bảo Đảm Tranh Tụng Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam, HAY.doc
 
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAYThi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
 
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAYLuận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
Luận văn: Chế định giải quyết việc dân sự trong pháp luật, HAY
 
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
Vai trò của luật sư - người bào chữa trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên HuếXét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
Xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên Huế
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà NẵngLuận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa hình sự tại TP Đà Nẵng
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAYViện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
 
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.docThủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm.doc
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAYLuận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
Luận văn: Quy định của pháp luật về thủ tục tái thẩm, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
BookoTime
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CA TRÙ (CỔ ĐẠM – NGHI XUÂN, HÀ ...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệpQuản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
Quản trị cơ sở Giáo dục nghề nghiệp
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 

Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUANG ANH CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUANG ANH CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học:TS. NGUYỄN CÔNG BÌNH Hà Nội – 2015
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN QUANG ANH
  • 4. 4 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự DTBLTTDS : Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) HĐTPTANDTC : Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao LSĐBSBLTTDS : Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP : Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03 tháng 12 năm 2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự PLTTGQCVADS : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế PLTTGQCTCLĐ : Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  • 5. 5 MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 7 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 14 1.1. Khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ và mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng dân sự 14 1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng dân sự 14 1.1.2 . Các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng dân sự 20 1.1.3. Mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng dân sự 26 1.2. Ý nghĩa của chứng cứ và cơ sở pháp luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ 28 1.2.1. Ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự 28 1.2.2. Cơ sở pháp luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ 30 1.3. Nguồn chứng cứ; phân loại chứng cứ; xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự 31 1.3.1. Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự 31 1.3.2. Phân loại chứng cứ trong tố tụng dân sự 35 1.3.3. Xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự 41 Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ CHỨNG CỨ 45 2.1. Sơ lƣợc sự hình thành và phát triểncác quy định của pháp luâ ̣ttố tụng dân sự Viê ̣t Nam về chứng cứ 45 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 45 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 49
  • 6. 6 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004 53 2.1..4. Giai đoạn từ năm 2005 đến đến nay 55 2.2. Thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ 58 2.2.1. Các quy định về định nghĩa chứng cứ và nguồn chứng cứ 58 2.2.2. Các quy định về xác định chứng cứ trong tố tụng dân sự 62 2.2.3. Các quy định về bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự 73 Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ CHỨNG CỨ VÀ KIẾN NGHỊ 77 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 77 3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 77 3.1.2. Những hạn chế , bất cập trong việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 80 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 99 3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 99 3.2.2. Kiến nghị về thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ 104 KẾT LUẬN 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Ở xã hội ta mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm kỷ cương xã hội, trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp làm cho hệ thống pháp luậtnước ta ngày một hoàn thiện và các cơ quan bảo vệ pháp luật hoạt động có hiệu quả hơn trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân. Trong lĩnh vực giải quyết các tranh chấp dân sự, các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự cũng không ngừng được hoàn thiện. Ngày 15/6/2004, Quốc hội khóa XI thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đánh dấu sự phát triển mới của pháp luật TTDS Việt Nam. BLTTDS đã quy định khá đầy đủ và cụ thể các vấn đề của tố tụng dân sự như những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự tại Toà án; thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện cho thấy khá nhiều vấn đề BLTTDS quy định vẫn còn bất cập, chưa thực sự phù hợp với tình hình mới, bối cảnh mới - bối cảnh chủ động hội nhập kinh tế, quốc tế và việc Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Thực tiễn thi
  • 8. 8 hành BLTTDS cho thấy nhiều quy định chưa phát huy được hiệu quả trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp việc giải quyết vụ, việc dân sự của Tòa án bị bế tắc chỉ vì các quy định của BLTTDS còn chưa được đầy đủ, thiếu chặt chẽ và rõ ràng. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công tác xét xử, ngày 15 tháng 11 năm 2011, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (LSĐBSBLTTDS). Nhiều quy định của BLTTDS như quy định về nguyên tắc trong TTDS, thẩm quyền của Tòa án, chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (TTDS), quyền và nghĩa vụ của đương sự, trình tự hòa giải vụ án dân sự, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, thủ tục xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao v.v…đã được Luật này sửa đổi. Từ đó, các vấn đề về chứng minh và chứng cứ trong TTDS được quy định rõ ràng, đầy đủ và khoa học hơn. Theo các quy định của BLTTDS, LSĐBSBLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành thì các phán quyết của Tòa án phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và phải xem xét đầy đủ ý kiến của những người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.Tuy vậy, thực tiễn giải quyết các vụ, việc dân sự những năm gần đây cũng cho thấy tỷ lệ án bị hủy, bị sửa và qua nhiều cấp xét xử vẫn còn khá cao. Nguyên nhân của tình trạng này một phần cơ bản xuất phát từ việc chưa có sự nhận thức thống nhất, đúng đắn về vấn đề chứng cứ, chứng minh như chưa xác định đúng chứng cứ, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể chứng minh v.v… Những thiếu sót này được đề cập đến khá nhiều trong hầu hết các báo cáo tổng kết công tác hằng năm của ngành Tòa án. Thực trạng này là một vấn đề gây nhiều trăn trở không chỉ đối với các nhà hoạt động thực tiễn mà cả đối với nhưng nhà lập pháp và những nhà nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp khắc phục để hoạt động xét xử của Tòa án đáp ứng yêu cầu của đời sống kinh tế, xã hội và cải cách tư pháp ở Việt Nam.Với những lý do đó, học viên đã chọn đề tài: “Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam”nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học.
  • 9. 9 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Chứng cứ là một vấn đề cớ bản của TTDS. Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau. Về đề tài khoa học, có “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự”, đề tài khoa học cấp Bộ của Toà án nhân dân tối cao, năm 1996; “Những quan điểm cơ bản về BLTTDS Việt Nam”, đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật, năm 2002; “Thu thập và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thực trạng và giải pháp”, đề tài cấp cơ sở của Viện khoa học xét xử của Toàán nhân dân tối cao, năm 2002; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về tư pháp dân sự ở Việt Nam hiện nay”, đề tài cấp Bộ của Viện Nhà nước và pháp luật thực hiện năm 2010; “Những vấn đề lý luận về chứng minh và chứng cứ trong TTDS”, đề tài cấp cơ sở của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012; v.v... Về luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, cóluận án tiến sĩ của Nguyễn Minh Hằng “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007; luận văn thạc sỹcủa Tăng Hoàng My “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2012; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Vĩnh Thành“Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2013; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Liên “Hoạt độngthu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng” bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Ngũ Thị Như Hoa “Nguyên tắc trách nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng dân sự” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Kim Lượng “Thu thập, nghiên cứu và đánh chứng cứ trong tố tụng dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm” bảo vệ tại Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015v.v...Về giáo trình, sách tham khảo có “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học
  • 10. 10 Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1998; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự” của Học viện Tư pháp do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2007; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp năm 2015; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011; “Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2014; sách tham khảo “Tiến tới xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự của thời kỳ đổi mới”của tác giả Phan Hữu Thư do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2004; sách tham khảo “Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh” của tác giả Tống Công Cường do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2007; sách tham khảo “Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi”, chủ biên TS Nguyễn Văn Cường, TS Trần Anh Tuấn và ThS Đặng Thanh Nga do Nhà xuất Lao động – Xã hội xuất bản năm 2012 v.v…Về các bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý, có bài “Đánh giá toàn bộ chứng cứ mới tìm ra bản chất sự việc” của tác giả Duy Kiên, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 1/2000; bài “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” củatác giả Hoàng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học, số đặc san góp ý dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, tháng 4/2004); bài “Chứng cứ và chứng minh - Sự thay đổi nhận thức trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Tưởng Duy Lượng, Đặc san Nghề luật, số 10 tháng 01/2005; bài “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Văn Cường đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 2/2010; “Một số bất cập và vướng mắc của Bộ luật Tố tụng dân sự chưa được hướng dân thi hành” của tác giả Trần Văn Trung đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2011; bài “Bàn về Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá tài sản” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 20/2012 v.v... Ở những khía cạnh khác nhau, những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến một số vấn đề về chứng cứ trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
  • 11. 11 đó mới chỉ dừng lại ở những vấn đề chung và tiếp cận dưới góc độchứng minh trong tố tụng dân sự là chủ yếu. Vì vậy, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ và có tính hệ thống các vấn đề về chứng cứ trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ trong TTDS; nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ cũng như thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án Việt Nam. Từ đó, phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong các quy định về chứng cứcủa pháp luật tố tụng dân sự Việt Namhiện hành cũng như thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án và đề xuất các giải pháp để khắc phục. Để đạt được các mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ như khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở quy định chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam,các nguồn chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ trong TTDS; - Khảo sát thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật Việt Nam về chứng cứ trong TTDS tại các Tòa án Việt Nam; - Nhận diện những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện và tìm ra các giải pháp để khắc phục.
  • 12. 12 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứuđề tài là những vấn đề lý luận về chứng cứ trong TTDS; các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án Việt nam. Nếu theo tên gọi, thì đề tài có nội dung nghiên cứu rất rộng, bao gồm cả chứng cứ trong tố tụng dân sự, chứng cứ trong tố tụng hình sự và chứng cứ trong tố tụng hành chính. Tuy vậy, trong khuôn khổ của đề tài thuộc chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự và trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về chứng cứ trong TTDS như khái niệm chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở pháp luật quy định chứng cứ, nguồn chứng cứ, phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong TTDS.Đối với những vấn đề khác, kể cả những vấn đề có liên quan chặt chẽ đến chứng cứ như cung cấp, thu thập và nghiên cứu chứng cứ thuộc về chứng minh trong TTDS tác giả cũng không nghiên cứu ở đây mà sẽ nghiên cứu sau ở đề tài khác khi có điều kiện. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ngoài ra, việc nghiên cứu còn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp quy nạp, phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thăm dò thực tiễn v.v…để làm sáng tỏ những vấn đề thuộc nội dung của đề tài cần nghiên cứu.
  • 13. 13 6. Điểm mới và ý nghĩa của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, chuyên sâu vàcó tính hệ thống vấn đề về chứng cứ trong TTDS, có những điểm mới và ý nghĩa cơ bản sau đây: - Làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luậncơ bản về chứng cứ như hoàn thiện định nghĩa chứng cứ,làm rõ các thuộc tính và ý nghĩa của chứng cứ, cơ sở của việc pháp luật TTDS quy định chứng cứ, nguồn chứng cứ, phân loại chứng cứ, xác định chứng cứ, bảo quản, bảo vệ và sử dụng chứng cứ trong TTDS. - Đánh giá đúng được thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong TTDS; - Phát hiện được những vướng mắc, bất cập trong các quy định của pháp luật về chứng cứ trong TTDS và thực tiễn thực hiện và tìm ra được các giải pháp để khắc phục thiết thực. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận án được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chứng cứ trong tố tụng dân sự. Chương 2: Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ. Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về chứng cứ và kiến nghị.
  • 14. 14 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, CÁC THUỘC TÍNH CỦA CHỨNG CỨ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHỨNG CỨ VỚI CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm chứng cứ trong tố tụng dân sự Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có nhiều tình tiết, sự kiện khác khác nhau liên quan đến vụ việc dân sự đòi hỏi Tòa án phải nhận thức và đánh giá. Ở mỗi tình tiết, sự kiện lại có những đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan nhưng cũng có những đặc tính không thể nhận biết ngay được bằng các giác quan mà phải trải qua một quá trình tư duy logic phân tích,tổng hợp, móc nối các tình tiết, sự kiện liên quan đến chúng v.v… sau đó mới có thể đi đến kết luận cuối cùng về chúng.Quá trình xác định, nhận thức các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự trong khoa học pháp lý được gọi là chứng minh. Nhờ quá trình chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự mà Tòa án có thể nhận thức đúng vụ việc dân sự và giải quyết đúng vụ việc dân sự. Để thực hiện được chứng minh trong TTDS thì cần phải có chứng cứ. Vì vậy, khi giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể bên cạnh việc xem xét, xác định những vấn đề về chứng minh như đối tượng chứng minh, chủ thể chứng minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh v.v…thì không thể không xem xét, xác định những vấn đề về chứng cứ. Cơ sở hình thành hệ thống lý luận về chứng cứ là lý luận nhận thức.Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin thì quá trình nhận thức đi từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng. Trong mối liên hệ phổ biến giữa các sự kiện, hiện tượng, thì các sự kiện, hiện tượng đều có quan hệ qua lại, ảnh hưởng đối với nhau. Mỗi sự kiện, hiện tượng xảy ra trong thế
  • 15. 15 giới khách quan đều kéo theo sự thay đổi của thế giới xung quanh, không một sự kiện nào xảy ra lại không để lại dấu vết. Những sự kiện mà trong đó có sự tham gia của con người và những sự kiện con người không trực tiếp thực hiện nhưng biết rõ về nó và được ghi trong trí nhớ. Tin tức về những sự kiện ấy có khi được ghi chép cụ thể và cuối cùng những dấu vết của sự kiện cụ thể có thể để lại trên các đồ vật. Như vậy, mặc dù xảy ra trong quá khứ nhưng dấu vết của các sự kiện vẫn được ghi lại trong trí nhớ của con người và ghi lại trong những vật của thế giới khách quan nhờ vậy mà người ta có được các thông tin về sự kiện ấy và xác định được nó có tồn tại trên thực tế hay không. Thoe nguyên lý này, quá trình chứng minh trong giải quyết các vụ việc ở Tòa án nhờ đó cũng được thực hiện.Tuy vậy, theo học giả Bentham thì hệ thống lý luận về chứng cứ có bề dày phát triển qua các thời ký lịch sử. Khi trình tự tố tụng đơn giản theo kiểu tố cáo, lý luận tố tụng chưa phát triển thì chứng cứ tốt nhất là lời thú nhận, lời thề thốt hoặc quyết đấu, phân xử theo ý trời như vứt xuống nước không chìm, nung sắt đỏ dí vào lưng không cháy v.v…Khi trình tự tố tụng xét hỏi ra đời (khoảng năm 30 TCN), lý luận chứng cứ hình thức cũng ra đời và phát triển nhất ở Thế kỷ XVII – XVIII với những đặc trưng: Ý nghĩa và hiệu lực chứng cứ được quy định trước trong luật; có sự phân biệt giữa các chứng cứ hoàn thiện và chưa hoàn thiện (lời thú nhận của bị đơn, lời khai thống nhất của 2 người làm chứng là chứng cứ hoàn thiện; chứng cứ gián tiếp, lời khai của một người làm chứng là chứng cứ chưa hoàn thiện) và Thẩm phán không được tự do đánh giá chứng cứ mà phải coi những sự kiện pháp luật đã định là chứng cứ dù tin hay không. Lý luận chứng cứ hình thức có những tiến bộ nhất định vì đã hạn chế được sự độc đoán của quan tòa, bắt họ phải phục tùng các quy tắc pháp luật và được ứng dụng nhiều nước, nhất ở Châu âu & đến Thế kỷ XIX thì hoàn toàn sụp đổ (mà tiền đề là Cách mạng Tư sản Pháp 1789). Vào Thế kỷ XI, ở Anh thực hiện trình tự tố tụng tranh tụng & chế độ xét xử bồi thẩm đoàn, từ đó lý luận chứng cứ Anh ra đời:Lý luận chứng cứ Anh trao cho quan tòa những nguyên tắc pháp lý & sự tự do nhất định trong đánh giá sự việc;không quy định trước hiệu lực, tính chất và ý nghĩa của mỗi loại chứng cứ mà chỉ nhằm mục đích chỉ ra:Những việc nào
  • 16. 16 có thể chứng minh; những phương tiện nào có thể dùng để chứng minh và ai sẽ xuất trình chứng cứ và phải chịu trách nhiệm chứng minh. Vào nửa đầu Thế kỷ XIX, trình tự tố tụng hỗn hợp kết hợp giữa tranh tụng và xét hỏi ra đời và cùng với nó lý luận chứng cứ Thẩm phán tự do đánh giá chứng cứ căn cứ vào niềm tin nội tâm của mình đã ra đời. Theo đó, Thẩm phán tự do đánh giá chứng cứ căn cứ vào niềm tin nội tâm của mình chỉ rõ trong xét xử của mình Thẩm phán có quyền tự do đánh giá chứng cứ theo sự chỉ dẫn của lương tâm, ý thức pháp luật và niềm tin của mình. Ý thức pháp luật bảo đảm cho Thẩm phán xác định được phương hướng tố tụng, đánh giá chứng cứ được sáng suốt và chính xác nhất là trong những tình huống phức tạp. Niềm tin nội tâm của Thẩm phán được hình thành trên cơ sở Thẩm phán xem xét các tình tiết, sự kiện của vụ việc với lương tâm của mình bảo đảm cho Thẩm phán xét xử độc lập và phù hợp với thực tế khách quan của vụ việc.[53] Trong khoa học pháp lí, có nhiều quan niệm về chứng cứ. Theo Bentham thì “chứng cứ là một sự kiện giả định là có thật, sự kiện ấy được coi là sự kiện đương nhiên làm lý do để tin tưởng có hay không có một sự kiện khác.”[53]Theo đó, chứng cứ được xác định phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sử dụng, không phụ thuộc vào tính khách quan của sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ. Theo Vơlađiamiaôp thì “chứng cứ là tất cả những gì trong thế giới vật chất, thế giới tinh thần mà con người có thể lĩnh hội được.[53]Quan niệm này đã mở rộng nội hàm khái niệm chứng cứ nhưng không làm rõ được bản chất của chúng làm cho việc xác định khó khăn và tuỳ tiện trong sử dụng.Trong Black’ s Law dictionnarythì định nghĩa: “Chứng cứ là cái để chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại của một sự kiện liên quan đến vụ án.”[89, tr. 212]Quan niệm này phần nào đã chỉ rõ được bản chất và mục đích của việc sử dụng chứng cứ.Trong Từ điển pháp luật của P.H.Collin thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì chứa đựng sự thật nhằm chứng minh một luận điểm nào đó.”[53]Đây là định nghĩa chứng cứ đơn giản, nhưng đã khái quát được những vấn đề thuộc về bản chất của chứng cứ.
  • 17. 17 Ở Việt Nam, trước khi BLTTDS được ban hành cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố trong đó có đưa ra các định nghĩa về chứng cứ. Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1998 thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì có thật mà dựa vào đó theo một trình tự do luật định, Tòa án xác định là có hay không có những tình tiết làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự, viện kiểm sát, tổ chức xã hội và những tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết vụ án.”[76, tr.84].Trong Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học của của Trường Đại học Luật Hà Nội do nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 1999 cũng định nghĩa: “Chứng cứ là cái có thật, được cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo trình tự do pháp luật quy định Toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.” [74, tr.162].Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Khoa luật Trường Khoa học xã hội và nhân văn do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 1998 cũng định nghĩa về chứng cứ tương tự. Đặc biệt, từ sau BLTTDS được ban hành thì càng có nhiều công trình nghiên cứu khoa học được công bố định nghĩa về chứng cứ. Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia xuất bản năm 2014 thì định nghĩa: “Chứng cứ là những gì có thật được thu thập theo trình tự do pháp luật tố tụng dân sự quy định mà Toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.”[27, tr.157] Định nghĩa này ngắn gọn nhưng chưa phản ánh đươc đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ. Trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2012 định nghĩa: “Chứng cứ là cái có thật, theo một trình tự do luật định toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.”[77, tr.171] Định nghĩa này cô đọng nhưng bao quát được các vấn đề liên quan đến chứng cứ và chỉ rõ mục đích của việc sử dụng chứng cứ. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của TS Nguyễn Công Bình chủ biên do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011 thì định nghĩa: “Chứng
  • 18. 18 cứ là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật, liên quan đến vụ việc dân sự theo một trình tự do luật định Toà án dùng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.”[2, tr.101] Định nghĩa này cô đọng nhưng bao quát được các vấn đề liên quan đến chứng cứ, chỉ rõ mục đích của việc sử dụng chứng cứ và những cái có thể trở thành chứng cứ. Trong cuốn Luật tố tụng dân sự Việt Nam nghiên cứu và so sánh thì ThS.Tống Công Cường lại định nghĩa: “Chứng cứ trong tố tụng dân sự là những gì chứa đựng sự thật nhằm chứng minh một luận điểm nào đó của đương sự trong vụ việc dân sự.”[6,tr.251] Định nghĩa này không thể hiện đầy đủ và rõ ràng mục đích sử dụng chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ. Chứng cứ có vai trò quan trọng làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nên được coi là “linh hồn” của tố tụng. Vì vậy, trong pháp luật tố tụng dân sự của các nước, ở cả hai hệ thống pháp luật là hệ thống pháp luật Án lệ (Common Law) và hệ thống pháp luật dân sự (Civil Law) đều trực tiếp hoặc gián tiếp quy định định nghĩa về chứng cứ. Theo quy định tại Điều 401 Luật chứng cứ liên bang Mỹ, thì chứng cứ được định nghĩa là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó có ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn.Theo Điều 180 Bộ luật Tố tụng dân sự của Nhật Bản thì chứng cứ phải xác định những tình tiết cần chứng minh.Theo Điều 55 của Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga thì chứng cứ trong vụ án dân sự là những gì được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án căn cứ vào đó để xác định có hay không có các tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu hay sự phản đối yêu cầu của các bên cũng như các tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng đắn vụ án. Như vậy, dù cách tiếp cận chứng cứ có khác nhau nhưng theo quy định của pháp luật các nước thì chứng cứ đều được định nghĩa là căn cứ, cơ sở để giải quyết vụ việc dân sự. Trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, trước khi BLTTDS được ban hành các quy định về chứng cứ nói chung còn khá sơ sài và chưa khoa
  • 19. 19 học. Trong các pháp lệnh tố tụng được ban hành như Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ) đều không có các quy định định nghĩa về chứng cứ. Việc thiếu vắng các quy định của pháp luật định nghĩa về chứng cứ đã dẫn đến hậu quả trong giải quyết nhiều vụ việc không đúng với bản chất của nó vì không xác định, nhận thức đúng chứng cứ của vụ việc dân sự. Trong quá trình xây dựng BLTTDS, trên cơ sở tham khảo, tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật tố tụng dân sự của một số quốc gia trên thế giới và các thanh tựu nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam, các Nhà lập pháp Việt Nam đã xây dựng quy định định nghĩa về chứng cứ tại Điều 81 BLTTDS. Theo đó, “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”Về cơ bản, nội dung Điều 81 BLTTDS cũng định nghĩa về chứng cứ tương đồng với quy định của pháp nước đặc biệt là quy định về chứng cứ của Bộ luật Tố tụng dân sự của Liên bang Nga. Tuy vậy, theo các nhà khoa học định nghĩa này vẫn còn một số hạn chế là chưa làm rõ được tất cả các vấn đề về bản chất của chứng cứ như tính khách quan của chứng cứ, các chủ thể tham gia thu thập, đánh giá chứng cứ v.v… Qua nghiên cứ cho thấy, chứng cứ phải bao gồm những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật và liên quan đến vụ việc dân sự do Tòa án giải quyết. Những thông tin, sự kiện, tình tiết này được đương sự hay người khác cung cấp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập. Mục đích của việc sử dụng những thông tin, sự kiện, tình tiết này là để xác định yêu cầu của đương sự và những người khác đưa ra trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có cơ sở không. Yêu cầu của quá trình cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá và
  • 20. 20 sử dụng thông tin, sự kiện, tình tiết phải tuân theo các quy định của BLTTDS. Từ những vấn đề đã trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: “Chứng cứ là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật, theo một trình tự do pháp luật quy định các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thu thập giao nộp cho Tòa ánhoặc do Tòa án thu thậpdùng làm căn cứ để xác định cơ sở yêu cầu hay sự phản đối của đương sự và những người khác là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.” 1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng dân sự Thuộc tính là đặc tính vốn có của sự vật, hiện tượng.[40, tr.101]Nhờ thuộc tính của sự vật, hiện tượng mà người ta nhận biết được sự vật, hiện tượng. Với tư cách là cơ sở để xác định làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, chững cứ phải có đầy các thuộc tính sau đây: Thứ nhất, chứng cứ có tính khách quan. Nhận thức là quá trình phản ánh sự kiện, hiện tượng từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng.“Theo lý luận về nhận thức thì người ta chỉ nhận thức đúng bản chất của sự vật, sự việc khi nó được phản ánh lại một cách khách quan. Những cái có được là do sự tưởng tượng, hư cấu không bao giờ nói lên được bản chất sự vật, sự việc và không thể làm cơ sở của nhận thức.”[77, tr.157] Quá trình nhận thức vụ việc dân sự thông qua chứng cứ hay nói cách khác chứng cứ là cơ sở để Tòa án nhận thức vụ việc dân sự nên chứng cứ phải có tính khách quan. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những thông tin, sự kiện, tình tiết có thật, tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. “Tính khách quan của chứng cứ là thuộc tính đầu tiên của chứng cứ yêu cầu rằng chứng cứ phải là những gì có thật, tồn tại một cách độc lập với ý chí của con người , mặc dù có thể phản ánh qua nhận thức của con người.Điều đó có nghĩa rằng chứng cứ không thể là sản phẩm chủ quan
  • 21. 21 của sự tưởng tượng, suy diễn của con người.”[6, tr.207] Mộtthông tin, sự kiện, tình tiết muốn được sử dụng trong quá trình chứng minh thì cần phải tồn tại khách quan và được phát hiện, nghiên cứu và đánh giá. Thông thường chứng cứ chỉ là những sự kiện, tình tiết nảy sinh trước khi có đơn kiện đến Tòa án. Chỉ trong trường hợp đặc biệt thì chúng mới nảy sinh sau khi có đơn kiện đến Tòa án, ví dụ trường người vay trả nợ cho người cho vay ngay tại phiên tòa dưới sự chứng kiến của Tòa án, nhưng cũng chỉ trong trường hợp tương tự đó mà thôi. Do vậy, Tòa án và những người tham gia tố tụng không thể tạo ra được chứng cứ. Tuy không tạo ra được chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhưng Tòa án và những người tham gia tố tụng có thể xác định, nhận thức được chứng cứ để khai thác sử dụng chúng trong quá trình TTDS. “Ở đây cần phải phân biệt tính khách quan của chứng cứ và quá trình hình thành chứng cứ. Đa số các chứng cứ là sản phẩm hành vi của con người tạo ra. Tại thời điểm hình thành, nó có ý nghĩa xác định một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự.Khi sự kiện, tình tiết đó đã ra đời và được coi là chứng cứ của vụ việc thì nó lại tồn tại khách quan với ý thức của con người, kể cả người tạo ra nó. Vì vậy, tất cả những gì mà ai đó do các động cơ khác nhau cố tình tạo ra để làm thay đổi hiện tượng, bản chất của sự việc đã diễn ra đều bị coi là sự kiện giả, tình tiết giả mạo và đều không được coi là chứng cứ.”[2, tr.99] Trong giải quyết một vụ việc dân sự cụ thể, những tình tiết, sự kiện được sử dụng với tư cách là chứng cứ có thể được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau vì vậy để xác định chính xác được chúng cần nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các mặt, các mối liên hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với vụ việc dân sự được giải quyết. Trước hết, Tòa án cần phải xem xét, xác định sự kiện, tình tiết được coi là chứng cứ có nguồn gốc hình thành, tồn tại, phát triển như thế nào, do ai cung cấp. Đối với các sự kiện, tình tiết mà các bên đương sự đưa ra để chứng minh cho quyền lợi của mình thì thường là những sự kiện, tình tiết có lợi cho họ. Trong nhiều trường hợp họ còn cung cấp cho Tòa án cả những sự kiện, tình tiết không
  • 22. 22 liên quan đến vụ việc dân sự hoặc không có thật. Vì vậy, để bảo đảm tính khách quan của các chứng cứ được sử dụng sau nữa Tòa án phải xem xét kỹ các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của tình tiết, sự kiện họ đưa ra. Ngoài ra, việc xem xét, đánh giá chúng của Tòa án cũng phải thực sự khách quan tức là không được có định kiến trước về chúng, xem xét, đánh giá chúng như chúng vốn có. Căn cứ vào tính hợp pháp của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án chọn lọc, loại bỏ những thông tin, tình tiết, sự kiện không được hình thành, tồn tại khách quan, không có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn. Thứ hai, chứng cứ có tính liên quan. Chứng cứ là những căn cứ để xác định cơ sở yêu cầu hay phản yêu cầu của đương sự và những người khác đề ra trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự có căn cứ và hợp pháp hay không nên chứng cứ phải có tính liên quan. “Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được Toà án dựa vào để giải quyết vụ việc dân sự.”[77, tr.159]Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân sự phải có mối liên hệ nhất định nhờ nó mà Tòa án có thể xác định được những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự hoặc đưa ra những tin tức về nó. Vì vậy, mỗi thông tin, tình tiết, sự kiện thực tế muốn được sử dụng với tư cách là chứng cứ cần phải mang một nội dung thiết thực gắn liền với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Những thông tin, tình tiết, sự kiện không có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án thì không được sử dụng với tư cách là chứng cứ. Dựa vào tính liên quan của chứng cứ, trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự Tòa án chọn lọc, loại bỏ những thông tin, tình tiết, sự kiện không liên quan đến vụ việc dân sự, không có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc dân sự và chọn lọc được những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn và nhanh chóng.
  • 23. 23 Chứng cứ có thể là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự hoặc là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sựđược Tòa án giải quyết. Đối với những chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan trực tiếp đến vụ việc dân sự thì Tòa án có thể căn cứ vào nó để xác định trong thực tế có hay không những tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự hay những người khác đề ra trong quá trình TTDS. Ví dụ: Bản di chúc trong vụ án tranh chấp về thừa kế; nhờ bản di chúc Tòa án có thể xác định được việc phân chia di sản của người để lại thừa kế. Đối với những chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan gián tiếp đến vụ việc dân sự thì Tòa án vẫn có thể căn cứ vào nó để xác định trong thực tế có hay không những tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự hay những người khác đề ra trong quá trình TTDS. Ví dụ: Trong vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tai nạn về giao thông bị đơn chống lại nguyên đơn và nại ra rằng trong ngày xảy ra tai nạn bị đơn ở địa điểm khác. Để khẳng định điều này, bị đơn đã xuất trình hóa đơn thanh toán tiền nghỉ khách sạn, giấy đi công tác, yêu cầu hỏi thêm một số người làm chứng. Sự kiện bị đơn ở địa điểm khác không ở địa điểm xảy ra tai nạn không phải là sự kiện pháp lý mà quan hệ giữa các bên đương sự phụ thuộc vào nó nhưng nếu bị đơn chứng minh được bằng các chứng cứ kể trên thì cho phép kết luận không có sự kiện pháp lý bị đơn gây tai nạn cho nguyên đơn như nguyên đơn nêu. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá và sử dụng chúng khá phức tạp. Khi xem xét, dánh giá và sử dụng chúng bao giờ Tòa án cũng phải kết hợp cùng với những chứng cứ khác mới đảm được sự chính xác. “Trong một vụ việc dân sự, có thể có nhiều thông tin, sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự.Các thông tin đó có thể thống nhất hoặc mâu thuẫn nhau. Trong trường hợp này, việc sử dụng thông tin, sự kiện, tình tiết nào để giải quyết vụ việc dân sự phụ thuộc vào việc đánh giá chứng cứ của Tòa án. Do đó, chỉ những thông tin, sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự được Tòa án sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự mới
  • 24. 24 được coi là chứng cứ.”[2, tr.101] Thứ ba, chứng cứ có tính hợp pháp. Quá trình xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ nói riêng và quá trình giải quyết vụ việc dân sự nói chung đều rất phức tạp. Để giải quyết đúng vụ việc dân sự pháp luật phải quy định rất chặt chẽ, cụ thể quá trình giải quyết vụ việc dân sự, trong đó có quá trình xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ.Các thông tin, tình tiết, sự kiện là chứng cứ được sử dụng giải quyết vụ việc dân sự thì cần phải được cung cấp, thu thập, bảo quản,nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Vì vậy, chứng cứ phải tính hợp pháp.“Chứng cứ có tính hợp pháp, bởi việc giải quyết vụ việc dân sự không thể tách rời quá trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ.Quá trình này lại rất phức tạp, pháp luật phải quy định cụ thể những vấn đề liên quan đến chúng thì mới có thể làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng với bản chất của nó.”[77, tr.159]Tính hợp pháp của chứng cứ đảm bảo cho giá trị của chứng cứ.Việc bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ buộc các hoạt động cung cấp, thu thập, bảo quản,nghiên cứu, đánh giá và sử dụng phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định từ đó làm cho các chứng cứ được sử dụng có độ chính xác và tin cậy cao dẫn đến các quyết định của Tòa án có sức thuyết phục.“Tính hợp pháp của chứng cứ đòi hỏi chưng cứ phải được thu thập, bảo quản, xem xét, đánh giá tuân theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.”[6, tr.249] Thực tiễn tố tụng đã chỉ ra rằng các thông tin, tình tiết, sự kiện xảy ra trong thực tế khách quan, liên quan đén vụ việc dân sự sẽ mất giá trị nếu trong quá trình cung cấp, thu thập, bảo quản,nghiên cứu, đánh giá và sử dụng không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Chẳng hạn, Thẩm phán có thể biết được thông tin, tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nào đó không phải từ hoạt động tố tụng thu thập chứng cứ mà từ một cuộc nói chuyện ngẫu nhiên. thông tin, tình tiết, sự kiện trong TTDS không có ý nghĩa gì cả, sự hiểu biết đó của Thẩm phán không thể đưa vào
  • 25. 25 làm nền tảng cho quyết định của Tòa án, trừ trường hợp là những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết. Ví dụ khác, theo quy định tại Khoản 1 Điều 83 BLTTDS, khi cung cung cấp cho Tòa án các tài liệu nghe được, nhìn được phải xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Vì văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó cho phép Tòa án xác định được tính khách quan của các tài liệu nghe được, nhìn được. Nếu không xuất trình được văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó thì Tòa án không thể xác định được tính khách quan của các tài liệu nghe được, nhìn được. Hoặc theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 BLTTDS, thì người giám định phải thay đổi hoặc từ chối tham gia tố tụng nếu đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.Việc thay đổi hoặc từ chối tham gia tố tụng của người giám định trong những trường hợp này nhằm bảo đảm cho việc giám định được khách quan, kết luận giám định được chính xác. Vì vậy, nếu người giám định không thay đổi hoặc từ chối tham gia tố tụng trong trường hợp đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự thì sẽ dẫn đến hậu quả việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án có thể không đúng đắn. “Tính hợp pháp là một đặc tính mang tính hình thức, phản ánh các đặc tính mang tính nội dung của chứng cứ. Trong quá trình tố tụng, chứng cứ phải được thu thập theo đúng các trình tự, thủ tục do pháp luật về tố tụng quy định. Việc quy định trình tự, thủ tục này để đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ là đúng đắn và cần thiết.”[17, tr.101] Như vậy, chỉ những thông tin, tình tiết, sự kiện có đủ ba thuộc tính nêu trên mới là chứng cứ. Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Học viện Tư pháp thì “ba thuộc tính của chứng cứ: tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp là một thể thống nhất, có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Chứng cứ phải là sự thống nhất của ba thuộc tính đó, trong đó tính khách quan (thuộc tính hình thức) là tiền đề của tính
  • 26. 26 hợp pháp và tính liên quan (thuộc tính nội dung…”[19, tr.170] Tuy vậy, qua nghiên cứ cho thấy tính hợp pháp của chứng cứ mới là tính hình thức, bởi theo tính hợp pháp của chứng cứ thì mọi hoạt động chứng minh nhằm sử dụng chứng cứ đều được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.1.3. Mối liên hệ giữa chứng cứ với chứng minh trong tố tụng dân sự Chứng minh trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Chứng minh bao gồm các hoạt động như cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Các hoạt động này có mối liên hệ hữu cơ với nhau, hoạt động trước là tiền đề của hoạt động sau và hoạt động sau củng cố kết quả của hoạt động trước. Cung cấp chứng cứ là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng trong việc đưa lại cho Toà án, Viện kiểm sát các chứng cứ của vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, mọi chủ thể đều có quyền cung cấp chứng cứ cho Tòa án, trong đó các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thu thập chứng cứ là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự. Trong tố tụng dân sự, Tòa án và các chủ thể tố tụng khác đều có quyền thu thập chứng cứ. Khi thu thập chứng cứ, các chủ thể tố tụng tùy theo địa vị tố tụng của mình được pháp luật quy định cho có những quyền, nghĩa vụ nhất định trong việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ. Nghiên cứu chứng cứ là kiểm tra, xem xét nhằm tìm hiểu chứng cứ. Việc nghiên cứu chứng cứ được thực hiện cả trước và trong phiên tòa, phiên họp dân sự. Trong tố tụng dân sự, Tòa án các chủ thể tố tụng đều có
  • 27. 27 quyền nghiên cứu chứng cứ. Việc nghiên cứu chứng cứ là cơ sở để thực hiện việc đánh giá chứng cứ. Đánh giá chứng cứ là nhận định giá trị chứng minh của chứng cứ. Việc đánh giá chứng cứ có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Nếu việc đánh giá chứng cứ đúng sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự đúng còn nếu không thì ngược lại. Trong tố tụng dân sự các chủ thể tố tụng đề có quyền đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên, việc đánh giá chứng cứ của Tòa án là quan trọng nhất vì dựa trên sự đánh giá chứng cứ Tòa án sử dụng chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự. Để giải quyết được vụ việc dân sự phải chứng minh làm rõ được những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Tùy vụ việc dân sự những tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự phải chứng minh làm rõ khác nhau. Trong quá trình chứng minh, chứng cứ là là phương tiện để xác định, làm rõ những tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án đã cho thấy, kết quả giải quyết các vụ việc dân sự phụ thuộc rất lớn vào chứng minh trong TTDS tức là việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ vì giữa chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mối liên hệ này thể hiện ở chỗ các hoạt động chứng minh trong TTDS đều xoay quanh vấn đề chứng cứ. Để hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự thực hiện được thì phải có các chứng cứ. Không có chứng cứ thì hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự không thể thực hiện được. Nói cách khác chứng cứ là phương tiện để thực hiện hoạt động chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự. Ngược lại, chứng cứ có được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự hay không thì phải thông qua hoạt động chứng minh. Không có hoạt động chứng minh thì dù có chứng cứ nhưng chứng cứ vẫn không thể được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự vụ việc dân sự. Như vậy, chứng cứ và
  • 28. 28 chứng minh là hai vấn đề cơ bản của TTDS có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. 1.2. Ý NGHĨA CỦA CHỨNG CỨ VÀ CƠ SỞ PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ QUY ĐỊNH VỀ CHỨNG CỨ 1.2.1. Ý nghĩa của chứng cứ trong tố tụng dân sự Bàn về ý nghĩa của chứng cứ, ông Coulon là Chánh tòa sơ thẩm thẩm quyền rộng Paris Pháp đã khẳng định: “Nếu khẳng dịnh một điều gì đó mà không đưa ra được chứng cứ thì có nghĩa là chẳng có gì để mà khẳng định cả” hay “pháp luật mà không có chứng cứ thì chẳng có nghĩa gì cả nhưng chứng cứ dù không có pháp luật vẫn có tất cả ý nghĩa của nó.”[36, tr.27] Qua nghiên cứu cho thấy, trong giải quyết vụ việc dân sự chứng cứ có rất nhiều ý nghĩa. Chứng cứ trước hết có ý nghĩa giúp Tòa án xác định, làm rõ được các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự, bảo đảm việc giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự. Xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn thì chứng cứ vẫn là phương tiện duy nhất để Tòa ánxác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự. Thông qua hoạt động chứng minh trong việc sử dụng chứng cứ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân biết và nhận thức rõ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự được giải quyết. Trên thực tế, có thể có trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân giải quyết vụ việc dân sự có thể ngẫu nhiên biết được một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự. Tuy nhiên, họ không thể sử dụng hiểu biết này vào việc giải quyết đúng vụ việc dân sự, trừ trường hợp đó là những sự kiện, tình tiết mà mọi người đều biết. Trong trường hợp này, để loại trừ khả năng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không cho tiến hành xác định đầy đủ chứng cứ nên có thể kết luận sai hoặc có kết luận trướcvề vụ việc dân sự thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân không được tiến hành tố tụng giải quyết vụ việc dân sự đó và có thể được lấy lời khai với tư cách là người làm chứng. Cho dù Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
  • 29. 29 giải quyết vụ việc dân sự có thể biết được một sự kiện, tình tiết nào đó của vụ việc dân sự thì để giải quyết đúng được vụ việc dân sự vẫn phải tiến hành các hoạt động chứng minh xác định và sử dụng chứng cứ để làm rõ vụ việc dân sự. Ngoài ra, cũng có trường hợp một tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự được Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân chứng kiến diễn ra ngay ở tại phiên toà. Tình tiết, sự kiện này có thể là tình tiết, sự kiện pháp lý mà sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các bên đương sự liên quan đến nó như sự kiện bị đơn trả cho nguyên đơn một số tiền đã vay ở tại phiên toà trong vụ việc dân sự đòi tiền cho vay. Do nó đã diễn ra ngay ở tại phiên toà, Toà án và mọi người đã trực tiếp chứng kiến đã rõ nên không phải chứng minh. Song đây cũng chỉ là trường hợp cá biệt còn lại đa số các các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự muốn làm rõ, muốn nhận thức được thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân đều phải cho chứng minh thông qua việc sử dụng các chứng cứ. Như vậy, đối với Tòa án nhờ chứng cứ có thể tái hiện được bức tranh vụ việc dân sự để giải quyết đúng vụ việc dân sự. Đối với các đương sự, chứng cứ là vấn đề rất quan trọng để các đương sự đưa ra yêu cầu, làm rõ cơ sở của yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trên cơ sở đó thuyết phục Toà án bảo vệquyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trước Toà án, nếu đương sự không có chứng cứ để chứng minh được sự tồn tại quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể sẽ không được Toà án bảo vệ. Vì trên nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, theo đó đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Trên thực tế, các Toà án cũng có thể có sai lầm trong việc thu thập chứng cứ để xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự như thu thập không đúng hoặc không đủ để làm sáng tỏ được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Điều này, một mặt dẫn đến việc giải quyết vụ việc dân sự không đúng với sự thật, mặt khác làm cho đương sự không bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Do vậy, chứng cứ không chỉ có ý nghĩa làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
  • 30. 30 của Toà án được đúng đắn mà còn có ý nghĩa bảo đảm cho đương sự bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. 1.2.2. Cơ sở pháp luật tố tụng dân sự quy định về chứng cứ Chủ nghĩa Mác – Lê Nin cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan. Nhiệm vụ của nhận thức là đạt đến chân lý hay đạt đến sự phản ánh chính xác những sự vật, hiện tượng của tự nhiên và xã hội tồn tại bên ngoài với ý thức và sự phản ánh đó. Để nhận thức được các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, Tòa án phải dựa vào các chứng cứ, bởi như đã nêu trên chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện để xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự hay nó chính là cơ sở để nhận thức vụ việc dân sự. Nếu thiếu một trong các chứng cứ thì ở bất kỳ vụ việc dân sự nào Tòa án cũng không thể giải quyết đúng bản chất vụ việc. Tuy nhiên, để sử dụng các chứng cứ giải quyết vụ việc dân sự thì phải qua quá trình chứng minh bao gồm các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Quá trình này được tiến hành trong bối cảnh rất phức tạp là có sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa các bên đương sự. Về nguyên tắc, trong tố tụng dân sự các đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án để chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy vậy, thông thường đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ có lợi cho mình còn những chứng cứ không có lợi cho mình thì các đương sự sự không cung cấp cho Tòa án, thậm chí còn tìm cách tiêu hủy chúng. Mặt khác, việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng, bảo quản và bảo vệ chứng cứ của Tòa án cũng không mấy đơn giản, thậm chí có những trường hợp khi tiến hành các chủ thể tố tụng còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Thực tế đã cho thấy có không ít những trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý chứng cứ không chịu cung cấp cho đương sự và cả Tòa án mặc dù Tòa án đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết do pháp luật quy định. Đối với việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ thì phụ thuộc rất lớn vào hoạt động tư duy của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và những người tham gia tố
  • 31. 31 tụng nên bị chi phối rất nhiều bởi khả năng nhận thức, phân tích, đánh giá chứng cứ và sự tham gia tố tụng của họ có khách quan hay không.Đặc biệt, đối với những vụ án có nhiều chứng cứ gián tiếp thì việc xem xét đánh giá chứng cứ lại càng phức tạp hơn, bởi giá trị chứng minh của chứng cứ gián tiếp không phải do bản thân mình nó quyết định mà phụ thuộc vào hệ thống các chứng cứ và mối liên hệ của chúng với các chứng cứ trong hệ thống ấy. Pháp luật tố tụng dân sự là một phương tiện bảo đảm thực tế cho các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Từ thực tế đó, yêu cầu đặt ra là pháp luật tố tụng dân sự phải điều chỉnh tất cả các quan hệ nảy sinh xung quanh vấn đề chứng cứ để bảo đảm đạt được mục đích sử dụng chứng cứ trong TTDS. Ngoài ra, trong TTDS Tòa án là người đại diện và người thực thi công lý. Việt nam Ngoài nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ních hợp pháp của đương sự, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc thực thi công lý của Tòa án trong TTDS gắn liền với những cơ chế xét xử do pháp luật quy định. Chứng cứ là một trong những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của TTDS. Để bảo đảm các Tòa án thực hiện được nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong TTDS thì pháp luật tố tụng dân sự phải quy định các vấn đề về chứng cứ. 1.3. NGUỒN CHỨNG CỨ VÀ PHÂN LOẠI CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.3.1. Nguồn chứng cứ trong tố tụng dân sự Trong khoa học pháp lý về tố tụng dân sự còn đưa ra khái niệm nguồn chứng cứ.Việc đưa ra khái niệm nguồn chứng cứ, trên cơ sở đó phân biệt đâu là chứng cứ, đâu là nguồn chứng cứcó ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì “Nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc
  • 32. 32 nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì, điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi rút ra các chứng cứ.”[77, tr.161] TheoGiáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2011 thì “Con người, sự vật, tài liệu chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự (chứng cứ) được gọi là nguồn chứng cứ”[2, tr.101]. Như vậy, có thể coi là nguồn chứng cứ trong TTDS là những con người, vật, tài liệu mang những thông tin về vụ việc dân sự.Nếu như chứng cứ là những thông tin, tình tiết, sự kiện về vụ việc dân sự được cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá theo một trình tự do pháp luật quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để giải quyết vụviệc dân sự thì nguồn được hiểu là nơi bắt đầu, nơi phát sinh, nơi cung cấp hay nơi rút ra chứng cứ. “Nguồn chứng cứ chính là hình thức chứa đựng thông tin, dấu vết về những gì liên quan đến vụviệc dân sự. Chứng cứ của vụ việc dân sự sẽ được rút ra từ các nguồn chứng cứ.”[17,tr.101]Như vậy, trong mối tương quan giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ thì chứng cứ là các thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự, phản ánh sự thật khách quan của vụ việc dân sự còn nguồn chứng cứ là những cái chứa đựng các thông tin, tình tiết, sự kiện đó. Trong mối tương quan giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh thì phương tiện chứng minh là phương tiện để xác định chứng cứ, phương tiện chứng minh khác nguồn chứng cứ, tuy vậy trong một số trường hợp có sự trùng hợp giữa nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh. Ví dụ,đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có vật chứng thì vật chứng và là phương tiện chứng minh đồng thời vừa là nguồn chứng cứ.“Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau. Tuy vậy, trên thực tế chúng thường được hiểu là một. Bởi, trong một số trường hợp các phương tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức về vụ việc dân sự như vật chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ v.v. tức cũng là nguồn chứng cứ. Việc phân biệt nguồn chứng cứ với phương tiện chứng minh chẳng qua là do nhìn chúng trên những phương diện, góc độ khác nhau như là nơi rút ra chứng cứ hay là công cụ
  • 33. 33 được sử dụng để xác định các tình tiết của vụ việc dân sự”[77, tr.162] Phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật quy định cho các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Vì vậy, không phải tất cả nguồn chứng cứ đều là phương tiện chứng minh và ngược lại. Nguồn chứng cứ có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định chứng cứ, do vậy trong pháp luật tố tụng dân sự của các nước cũng như pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam đều thừa nhận và quy định về nguồn chứng cứ. Theo đó, thì nguồn chứng cứ bao gồm các loại sau đây: Thứ nhất là các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được là nguồn chứng cứ bởi đó có thể rút ra các chứng cứ. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn đượccó thể được Tòa án sử dụng với tư cách là chứng cứ nếu thỏa mãn được những yêu cầu nhất định do pháp luật quy định. Đối với các tài liệu đọc được nội dung phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản gốc là bản đầu tiên, là bản được dùng để làm ra bản sao.Ngược lại, bản sao là bản được làm ra từ bản gốc hay được chép lại từ bản gốc.Ví dụ: Bản hợp đồng mua bán hay bản sao của hợp đồng mua bán đó có chứng thực trong vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán. Đối với các tài liệu nghe được, nhìn được thì phải được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Các tài liệu nghe nhìn được có thể là các băng, đĩa, ổ USB v.v…hay văn bản xác nhận xuất xứ. Kèm theo việc đưa ra các tài liệu nghe được, nhìn được thì người đưa ra chúng phải xuất trình văn bản xác nhận về nguồn gốc của chúng. Thứ hai là các vật chứng.
  • 34. 34 Vật chứng là những vật khác nhau của thế giới vật chất có chứa đựng những thông tin, dấu vết về vụ việc dân sự. Từ những thông tin, dấu vết chứa đựng trong vật chứng cho phép Tòa án xác định được những tình tiết của vụ việc dân sự để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự. Các vật chứng được sử dụng với tư cách là chứng cứ nếu là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự; nếu không phải là hiện vật gốc hoặc không liên quan đến vụ việc thì không phải là chứng cứ trong vụ việc dân sự đó.Hiện vật gốc liên quan đến vụ việc dân sự là hiện vật đầu tiên chứa đựng thông tin, dấu vết về vụ việc dân sự. Giá trị chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các vật đó. Vì chỉ là vật đặc định thì mới giữ được các dấu vết, thông tin về vụ việc dân sự. Thứ ba là lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng. Đương ự, người làm chứng là những người tham gia vào sự việc, chứng kiến sự việc.Trong lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng thường chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự nên là nguồn chứng cứ. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình và được xuất trình theo đúng thủ tục pháp luật quy định. Đương sự có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự nên lời khai của họ thường chứa đựng những thông tin, tình tiết, sự kiện có lợi cho họ.Vì vậy, khi sử dụng lời khai của đương sự để xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự cần xem xét thận trọng cùng các chứng cứ khác.Đối với người làm chứng, không có quyền lợi liên quan đến vụ việc dân sự Tòa án giải quyết nên việc tham gia tố tụng của họ khách quan hơn đương sự. Tuy vậy, vì nhưng nguyên nhân khác nhau như do khả năng nhận thức sự việc, khả năng nhớ và phản ánh lại sự việc, điều kiện chứng kiến sự việc v.v…Do đó, khi sử dụng lời khai của người làm chứng để giải quyết vụ việc dân sự Tòa án vẫn phải kiểm tra, đối chiếu cẩn thận với các chứng cứ khác của vụ việc dân sự. Ngoài ra, để sử dụng được lời khai của đương sự,
  • 35. 35 lời khai của người làm chứng thì lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng phải được thể hiện dưới những hình thức nhất định như ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình. Trường hợp lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được ghi trong băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình thì cũng phải có văn bản xác nhận xuất xứ của chúng. Thứ tư là kết luận giám định. Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một tình tiết, sự kiện nhất định đòi hỏi phải sử dụng đến những kiến thức, kinh nghiệm chuyên môncủa giám định viên. Kết luận của giám định viên là một kết luận khoa học được đưa ra sau khi đã sử dụng các kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn để xác định các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự. Kết luận giám định có tác dụng làm sang tỏ tình tiết, sự kiện của vụ việcdân sự nên có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ việc dân sự. Trong việc giải quyết nhiều vụ việc dân sự, kết luận giám định còn mang tính chất quyết định đối với việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy vậy, kết luận giám định có thể không đúng vì phụ thuộc vào trình độ, tính khách quan trong việc giám định của người giám định, các tài liệu giám định v.v…Vì vậy, việc giám định phải được tiến hành theo đúng thủ tục quy định của pháp luật và khi sử dụng kết luận giám định Tòa án cũng phải đối chiếu, sử dụng cùng các chứng cứ khác. Thứ sáu là biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ. Trong những vụ việc dân sự mà đối tượng tranh chấp là những tài sản hoặc tài liệu, vật chứng không thể di chuyển đến Tòa án được thì để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự phải tiến hành xem xét, xác minhtại chỗ để xác định đúng thực trạng tài sản tranh chấp hoặc tài liệu, vật chứng. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ là tài liệu phản ánh lại quá trình xác minh, xem xét tại chỗ tài sản tranh chấp hoặc tài liệu, vật chứng. Trong
  • 36. 36 Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ cũng chứa đựng các thông tin về vụ việc dân sự nên cũng là nguồn chứng cứ. Để bảo đảm việc giải quyết đúng vụ việc dân sự, việc lập và sử dụng biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ phải được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Thứ sáu là tập quán. Tập quán là thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.Từ tập quán có thể rút ra được những thông tin về vụ việc dân sự được giải quyết nên tập quán cũng là nguồn chứng cứ.Thực tiễn đòi hỏi việc áp dụng phong tục tập quán trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự do trong nhiều trường hợp không có quy định của pháp luật mà các thành viên trong cộng đồng người phải dựa trên cơ sở tập quán là một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống văn hoá và giá trị đạo đức trong cộng đồng người đó để xử sự. Tuy nhiên, chỉ chấp nhận tập quán không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với những vấn đề mà đương sự viện dẫn tập quán nhưng đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định, thì Toà án phải áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó để giải quyết mà không áp dụng tập quán. Thứ bảy là kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản thực chất là việc tổ chức có thẩm quyền thực hiện việc xác định giá trị tài sản.Đối với những vụ việc dân sự cần xác định giá trị tài sản tranh chấp mới có thể giải quyết đúng được thì phải cho định giá tài sản hoặc thẩm định giá tài sản đó.Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản có chứa đựng những thông tin về vụ việc dân sự nên là nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, để Tòa án sử dụng được kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản thì việc định giá tài sản, thẩm định giá tài sản phải do tổ chức có thẩm quyền thực hiện và được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định.
  • 37. 37 1.2.1. Phân loại chứng cứ Sự phong phú và đa dạng các nguồn chứng cứ dẫn đến sự phong phú và đa dạng các loại chứng cứ.Mỗi loại chứng cứ, ngoài những đặc điểm chung như khách quan, liên quan mật thiết đến vụ việc dân sự và phải được cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá theo trình tự do pháp luật quy định thì còn có những đặc điểm riêng của chúng như chứng cứ rút ra từ vật chứng, tài liệu thì mang tính ổn định còn chứng cứ rút ra từ lời khai của đương sự, người làm chứng thì có khi bị thay đổi. Để giúp cho việc nghiên cứu xây dựng các quy định về chứng cứ và việc xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong thực tiễn được tốt, lý luận về chứng cứ còn đề cập tới việc phân loại chứng cứ. Theo đó, mỗi chứng cứ có thể được xếp vào các loại khác nhau tùy theo các đặc điểm của chúng và tùy theo cách phân loại. Và việc phân loại chứng cứ cũng chỉ mang tính chất tương đối. Theo các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được công bố thì trên thực tế có rất nhiều cách phân loại chứng cứ khác nhaunhưng mục đích chung của việc phân loại chứng cứ là xếp chúng thành những nhóm nhất định. “Tuy vậy, việc phân loại chứng cứ không làm thay đổi giá trị chứng minh của chứng cứ.Việc phân loại chứng cứ chủ yếu có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu và đưa ra những quy định về chứng cứ.Bên cạnh đó, nó cũng có ý nghĩa đối với việc sử dụng chứng cứ trong giải quyết vụ việc dân sự.”[77, tr.175]Đối với việc nghiên cứu và đưa ra những quy định về chứng cứ, việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa giúp cho việc lựa chọn, xây dựng được các quy định về chứng cứ được khoa học, phù hợp với thực tiễn. Đối với việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, việc phân loại chứng cứ có ý nghĩa giúp cho việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ được đúng đắn và nhanh chóng. Ở Việt Nam, các cách phân loại chứng cứ mang tính phổ biến bao gồm: Phân loại chứng cứ căn cứ vào nguồn chứng cứ; phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ; phân loại
  • 38. 38 chứng cứ căn cứ hình thức tồn tại của chứng cứ; phân loại chứng cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các tình tiết, sự kiện cần chứng minh của vụ việc dân sự; phân loại chứng cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ đối với vụ việc dân sự v.v… Thứ nhất, phân loại chứng cứ căn cứ vào nguồn thu nhận chứng cứ. Căn cứ vào nguồn thu nhận chứng cứ, chứng cứ được phân thành chứng cứ theo người và chứng cứ theo vật. Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại này giúp xác định các phương pháp thu thập chứng cứ được phù hợp và việc đánh giá, sử dụng chứng cứ được chính xác hơn. Chứng cứ theo người là chứng cứ rút ra từ lời khai của đương sự, người làm chứng. Như nêu ở trên, đương sự, người làm chứng là người tham gia vào sự việc, chứng kiến sự việc nên lời khai của họ thường chứa đựng những thông tin về vụ việc dân sự.Từ lời khai của họ có thể rút ra được các chứng cứ.Ví dụ:Trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa A và B, C là người làm chứng đã chứng kiến việc thỏa thuận giao kết hợp đồng vay tài sản giứa các bên và A đã trao tài sản cho vay cho B. C đã khai với Tòa án toàn bộ những gì mình đã biết về vụ việc thì những thông tin trong lời khai của C được sử dụng với tư cách là chứng cứ theo người. Chứng cứ theo người có đặc điểm là phụ tuộc rất nhiều vào khả năng nhận thức, khả năng nhớ và phản ánh lại sự kiện của đương sự, người làm chứng. Đặc biệt, chúng phụ thuộc nhiều vào thái độ khách quan của đương sự, người làm chứng trong việc tham gia tố tụng. Tất cả những yếu tố này đòi hỏi Tòa án phải lựa chọn, áp dụng các phương pháp thu thập, nghiên cứu và đánh giá loại chứng cứ này cho phù hợp. Chẳng hạn, khi lấy lời khai của người làm chứng thì phải xác định những yếu tố về khả năng nhận thức, mối quan hệ của họ đối với đương sự v.v...“Đối với những chứng cứ được rút ra từ con người như đương sự, người làm chứng việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chúng rất phức tạp. Nét chung nhất của con người với
  • 39. 39 nghĩa là nguồn chứng cứ bị chi phối rất lớn bởi yếu tố lợi ích, tâm lý, khả năng nhận thức, nhớ và phản ánh lại những gì họ thấy, sự quan tâm của họ đối với sự kiện v.v.. Tất cả những yếu tố này đều phải tính đến khi nghiên cứu, đánh giá và sử dụng các chứng cứ được rút ra từ đương sự, người làm chứng.”[77, tr.176] Chứng cứ theo vật là những chứng cứ được rút ra từ những vật khác nhau của thế giới vật chất như vật chứng, tài liệu, giấy tờ có chứa đựng những tin tức về vụ việc dân sự.Ví dụ:Trong vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hỏa hoạn A gây ra. Để chứng minh cho yêu cầu của mình, B đã xuất trình cho Tòa án chiếc xe máy của mình bị cháy một phần trong vụ hỏa hoạn đó. Những thông tin, dấu vết do hậu quả của vụ hỏa hoạn để lại trên chiếc xe sẽ được Tòa án dùng để xác định các vấn đề của vụ án là chứng cứ theo vật. Do là bản chất là những thông tin, dấu vết được lưu giữ bởi các vật, tài liệu, giấy tờ nên chứng cứ theo vật ít có thay đổi về giá trị chứng minh trong quá trình sử dụng. Vì vậy, trên thực tế việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ theo vật thường ít phức tạp hơn việc thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ theo người. “Thông thường, các chứng cứ được rút ra từ các vật, tài liệu việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng không mấy phức tạp vì chúng ít bị chi phối bởi ngoại cảnh.”[77, tr.176]Tuy vậy, những thông tin, dấu vết liên quan đến vụ việc dân sự trên các vật chứng, tài liệu, giấy tờ cũng có thể bị tẩy, xóa mất. Vì vậy, để bảo đảm sử dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi thu thập được các chứng cứ này phải bảo quản cẩn thận để không bị mất, giảm giá trị chứng minh. Thứ hai, phân loại chứng cứ căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ. Căn cứ vào hình thức tạo thành chứng cứ, chứng cứ được phân thành chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại. Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại này giúp cho việc thu thập, đánh giá chứng cứ được đầy đủ hơn. Có chứng
  • 40. 40 cứ thuật lại mà chưa có chứng cứ gốc thì có thể căn cứ vào đó mà thu thập chứng cứ gốc. Chứng cứ gốc là những thông tin, tình tiết, sự kiện thực tế đầu tiên về sự kiện cần chứng minh. Ví dụ: Bản Hợp đồng vay tài sản được lập giữa A và B khi hai bên thỏa thuận cho nhau vay tài sản. Chứng cứ gốc là nguồn đầu tiên về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự nên việc phản ánh các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự sẽ rõ ràng hơn. Việc kiểm tra, xác minh và đánh giá chứng cứ gốc dễ dàng, ít phức tạp. Chứng cứ gốc có độ chính xác cao nên được tin cậy hơn trong việc sử dụng. Trên thực tế, thông thường trong một vụ việc mà có nhiều loại chứng cứ, có cả chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại thì chứng cứ gốc sẽ được quan tâm sử dụng nhất. Chứng cứ thuật lại là chứng cứ được sao chép từ chứng cứ khác. Ví dụ: Bản sao Hợp đồng vay tài sản nói trên được lập giữa A và B khi hai bên thỏa thuận cho nhau vay tài sản. Như vậy, giữa chứng cứ gốc và chứng cứ thuật lại có khâu trung gian. Là chứng cứ, thì dù là chứng cứ gốc hay là chứng cứ thuật lại đều có giá trị chứng minh. Nếu trong vụ việc dân sự không có chứng cứ gốc thì Tòa án vẫn có thể căn cứ vào chứng cứ thuật lại để giải quyết vụ việc dân sự. Tuy vậy, nếu so với chứng cứ gốc thì độ tin cậy của chứng cứ thuật lại không được cao vì việc sao chép lại được thực hiện bởi con người cụ thể, phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của họ. Trong điều kiện công nghệ thông tin phát triển như ngày nay mà người sao chép không khách quan trong việc sao chép, cố tình làm sai lệch nội dung của chứng cứ thì những thông tin ban đầu của chứng cứ gốc được sao chép lại sẽ không còn chính xác nữa.“Tam sao thường hay thất bản”, do đó, khi sử dụng chứng cứ thuật lại cần phải đối chiếu với chứng cứ gốc và các loại chứng cứ khác. Thứ ba, phân loại chứng cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các sự kiện cần chứng minh.
  • 41. 41 Cứ căn cứ vào mối liên hệ giữa chứng cứ với các sự kiện cần chứng minh, chứng cứ được phân thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại chứng cứ này làm cho việc đánh giá nghiên cứu, chứng cứ được toàn diện và đúng đắn. Chứng cứ trực tiếp là những tin tức, tình tiết, sự kiện thực tế có mối liên hệ trực tiếp đến các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự, căn cứ vào nó có thể xác định ngay có hay không có các tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự. Mối quan hệ giữa chứng cứ với vụ việc dân sự là mối quan hệ trực tiếp nên dựa vào nó là có thể xác định được ngày các tình tiết, sự kiện cần chứng minh.Ví dụ:Bản Hợp đồng vay tài sản lập giữa A và B là chứng cứ trực tiếp chứng minh cho sự tồn tại của sự kiện giao kết hợp đồng làm cơ sở cho yêu cầu đòi nợ của A. Khi khởi kiện với những chứng cứ trực tiếp được xuất trình thì việc chấp nhận yêu cầu của đương sự sẽ có căn cứ hơn. Chứng cứ gián tiếp là những tin tức, tình tiết, sự kiện thực tế không có mối liên hệ trực tiếp đến các tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ việc dân sự nhưng nếu căn cứ vào nó có thể rút ra được giả thiết về các tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho các yêu cầu của đương sự. Mối quan hệ giữa chứng cứ gián tiếp với vụ việc dân sự là mối quan hệ gián tiếp vì vậy bản thân chúng đứng độc lập thì chỉ có giá trị đưa ra được giả thiết về sự kiện, tình tiết cần chứng minh. Tuy vậy, nếu được sử dụng kết hợp với các chứng cứ khác thì chứng cứ gián tiếp cũng giúp cho việc làm sang tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự để giải quyết đúng vụ việc dân sự. Ví dụ: Trong vụ tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tai nạn giao thông đã nêu trên bị đơn chống lại nguyên đơn và cho rằng trong ngày xảy ra tai nạn bị đơn ở địa điểm khác. Để khẳng định điều này, bị đơn đã xuất trình hóa đơn thanh toán tiền nghỉ khách sạn, giấy đi công tác.Nếu những tài liệu này là xác thực thì có thể được sử dụng với tư cách là chứng cứ gián tiếp để giải quyết vụ án.
  • 42. 42 Thực tiễn xét xử của Tòa án đã cho thấy, trong nhiều vụ việc dân sự đều chỉ có các chứng cứ gián tiếp. Đặc biệt, tình trạng này khá phổ biến ở những tranh chấp phức tạp được Tòa án thụ lý giải quyết. Tuy chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp đều có giá trị chứng minh như nhau nhưng việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ gián tiếp mang tính phức tạp hơn việc việc thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trựctiếp. Giá trị chứng minh của chứng cứ gián tiếp phụ thuộc vào sự sử dụng kết hợp với các chứng cứ khác, do đó sẽ là sai lầm nghiêm trọng nếu xem xét, sử dụng chứng cứ gián tiếp một cách độc lập. Vì vậy, yêu cầu trong việc nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ gián tiếp là phải nghiên cứu, đánh giá và sử dụng cùng với nhiều chứng cứ khác. Thứ tư, phân loại chứng cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ đối với vụ việc dân sự. Cứ căn cứ giá trị chứng minh của chứng cứ đối với vụ việc dân sự, chứng cứ được phân thành chứng cứ tuyệt đối và chứng cứ tương đối.Về ý nghĩa thực tiễn, cách phân loại này giúp cho việc nhận thức, đánh giá và sử dụng chứng cứ được thuận tiện hơn. Chứng cứ tuyệt đối là các suy đoán do luật định, văn bản viết đã lập sẵn, lời thú nhận trước Tòa án. Đối với loại chứng cứ này có giá trị ràng buộc Tòa án sử dụng trong giải quyết vụ việc dân sự, bởi giá trị chứng minh của chúng đã được pháp luật định sẵn. Thực chất đây là sự suy đoán pháp lý về giá trị chứng minh của các thông tin, tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc dân sự. Ví dụ: Bản hợp đồng mua tài sản đã được công chứng hợp pháp. Đối với những sự kiện, tình tiết ghi trong văn bản đã được công chứng, chứng thực hợp pháp thì không phải chứng minh.Vì vậy, chúng có giá trị tuyệt đối. Về vấn đề này, theo ông Coulon thì: “Giá trị làm bằng của văn bản chứng thực được công nhận ở tất cả Tòa án, dù là tòa dân sự, tòa thương mại hay tòa lao động…Nếu trong văn bản chứng thực có những nội