SlideShare a Scribd company logo
1 of 99
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HẢI YẾN
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ HẢI YẾN
HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự - Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
Hà Nội – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đinh Thị Hải Yến
MỤC LỤC
Trang phụ bìa Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN............... 8
1.1. Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can.................................................... 8
1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can ......................................................................... 8
1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can................................................................. 10
1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi
cung bị can...................................................................................................... 14
1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ...................... 15
1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc
bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng........................................ 17
1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can................................................................................................. 19
1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi
cung bị can ..................................................................................................... 22
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. ......................................................... 22
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến
năm 2003.......................................................................................................... 24
1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới
......................................................................................................................... 26
1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa................................................................................................................... 26
1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga ................ 28
1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức 29
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
......................................................................................................................... 33
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung
bị can............................................................................................................... 33
2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can ................................................................ 33
2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can.................................................................... 34
2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can.............................................. 36
2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên............................................... 42
2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can............ 46
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về hỏi cung bị can.......................................................................... 48
2.2.1. Những kết quả đạt được.......................................................................... 48
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế................................ 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN.............................................................. 68
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
hỏi cung bị can................................................................................................ 68
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can . 77
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức Cơ quan điều tra và tăng cường số lượng Điều tra viên
phục vụ cho công tác điều tra ........................................................................... 77
3.2.2. Nâng cao vai trò Người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can nói
riêng và toàn bộ quá trình điều tra vụ án nói chung........................................... 82
3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can. ............................................... 84
3.2.4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác điều tra. .... 84
KẾT LUẬN..................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
BLHS : Bộ luật hình sự
TTHS : Tố tụng hình sự
CQĐT : Cơ quan điều tra
VKS : Viện Kiếm sát
TAND : Tòa án nhân dân
DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 1: Số lượng các vụ việc bức cung, dùng nhục hình...........................57
Biểu đồ 2: Số bị can bị khởi tố điều tra về tội bức cung, dùng nhục hình.....58
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công
minh, đúng đắn kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các
quy định của pháp luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân, đồng thời giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật,
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn này cơ quan tiến hành tố
tụng thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
Để thu thập chứng cứ, trong giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành
các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hoạt động điều tra là
cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm
sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính
vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp
điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật TTHS 2003, Pháp lệnh Tổ
chức điều tra hình sự 2004 và các văn bản chuyên ngành khác. Trong những
biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị
can là biện pháp có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp
cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý
đồ, động cơ, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung
còn tạo điều kiện mở rộng công tác điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn
tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi cung bị can đựơc xem là hoạt động
trọng yếu của quá trình điều tra vụ án.
2
Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã
được quan tâm đáng kể song không có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về
vấn đề này. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về hỏi cung bị can trong pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ cấp bách đặt ra không chỉ với khoa
học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội
phạm trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Hỏi cung bị can trong
Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về biện
pháp hỏi cung bị can ở những mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như:
“Hỏi cung bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện
nay”, đề tài cấp Bộ của Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Minh Hùng năm 2001 –
Học viện An Ninh Nhân dân; “Hỏi cung bị can phạm tội gián điệp trong
tình hình hiện nay”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Quý Khoát năm 2003 –
Học viện An Ninh Nhân dân; “Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình
sự”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Minh năm 2008 – Khoa Luật Đại
học Quốc Gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị hỏi cung
bị can”, Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hoa năm 2010 – Đại học Luật
Hà Nội; ...
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến vấn đề này
nhưng chỉ ở mức độ đại cương, chưa sâu sắc như: “Giáo trình Luật tố tụng
hình sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân,
2013); “Bình luận khoa học Bộ luật TTHS” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2013); "Sổ tay điều tra hình sự" (Nhà xuất
bản Công an nhân dân, 2010); "Khoa học Điều tra hình sự" của Trường Đại
học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2012); “Chiến thuật điều
3
tra hình sự” (sách chuyên khảo) của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật
(Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010) và một số bài báo được công bố
trong một số tạp chí... Đây là những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề
thuộc lĩnh vực điều tra hình sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự
trong đó có hỏi cung bị can.
Tuy nhiên các công trình này ở những mức độ khác nhau mới chỉ đề
cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật về hỏi cung bị
can mà chưa đi sâu phân tích biện pháp này theo quy định của Bộ luật TTHS
như chủ thể có thẩm quyền hỏi cung, trình tự và thủ tục hỏi cung,... cũng như
chưa phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn
thiện, cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp
hỏi cung bị can trong pháp TTHS. Như vậy, có thể nói rằng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về biện pháp hỏi cung bị
can với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Do đó, việc tiếp tục nghiên
cứu về hỏi cung bị can với những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn áp dụng là
cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản, luận văn
đánh giá một cách có hệ thống về thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can
trong các vụ án hình sự và từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
biện pháp điều tra này trong thời gian tới, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý
luận trong pháp luật tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về hỏi cung bị can;
- Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can
và thực tiễn áp dụng ;
4
- Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp hỏi cung bị can trong thực tiễn.
3.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khái niệm, nhiệm vụ, Bảo đảm
thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật TTHS trong hỏi cung bị can; khái quát
những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ sau 1945 đến nay; Hỏi cung bị
can theo quy định Bộ luận TTHS của một số nước trên thế giới; những quy định
của pháp luật hiện hành và thực tiễn hỏi cung bị can trong tình hình hiện nay.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra đóng vai trò rất quan trọng
trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đây là một biện pháp khá phức
tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có
giá trị chứng minh cao thì ngoài việc biện pháp này phải được tiến hành theo
đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp
với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá
trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp
cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và
đầy đủ. Do vậy, trong phạm vi đề tài, luận văn không đi sâu vào nghiên cứu
các phương pháp, chiến thuật hỏi cung bị can mà tập trung làm rõ những quy
định của Bộ luật TTHS hiện hành và một số văn bản có liên quan đến biện
pháp điều tra này và thực tiễn áp dụng hiện nay.
Theo quy định của pháp luật, ngoài Điều tra viên – chủ thể chính tiến
hành hỏi cung bị can thì Kiểm sát viên, những người khác thuộc Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung
bị can trong những trường hợp cần thiết. Trong phạm vi nghiên cứu của đề
tài, luận văn chủ yếu đề cập tới chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung là
Điều tra viên.
5
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa
học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình
sự và các học thuyết chính trị pháp lý.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS
thực định và các văn bản khác có liện quan về hoạt động hỏi cung bị can, quá
trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các văn
bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra,
xử lý vụ án hình sự.
- Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân
tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong các vụ
án người chưa thành niên phạm tội, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình
sự, tố tụng hình sự Việt nam nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý
luận cơ bản và thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can với cấp độ là một
luận văn thạc sỹ. Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
Một là, xây dựng khái niệm hỏi cung bị can một cách khoa học và hợp lí
Hai là, tìm hiểu quy định pháp luật của Liên bang Nga, Liên bang Đức
và cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hỏi cung bị can đồng thời rút ra một số
nhận xét.
Ba là, phân tích đối tượng và chủ thể của hỏi cung bị can, trình tự, thủ
tục hỏi cung bị can.
6
Bốn là, tìm hiểu những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về hỏi
cung bị can người chưa thành niên;
Năm là, đánh giá và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật nước ta về hoạt
động hỏi cung bị can trong giai đoạn hiện nay, qua đó rút ra những nhận xét
Sáu là, chỉ ra những hạn chế, thiếu xót và từ đó đề xuất những giải pháp
có tính khoa học, tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi
cung bị can trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ
và đúng pháp luật.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và
thực tiễn về hỏi cung bị can. Trên cơ sở nghiên cứu này, luận văn góp phần
cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn điều tra vụ án
hình sự. Thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như việc phân tích
sâu sắc những vấn đề liện quan đến hỏi cung bị can nhằm tác động đến nhận
thức của Điều tra viên về việc tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật tố
tụng hình sự trong hỏi cung bị can. Qua đó đảm bảo cho quá trình điều tra,
giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội nhằm
nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về hỏi cung
bị can trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can
để thấy được những điểm hạn chế, tồn tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó
7
đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động
hỏi cung bị can nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói cung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về hỏi cung bị can.
Chương 2: Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành
về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Pháp luật tố
tụng hình sự và nâng cao hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN
1.1.Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can
1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can
Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều
hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai
trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, người phạm
tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra mà trong đó hoạt động hỏi cung bị
can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng.
Điều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc hỏi cung:“Việc hỏi
cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi
tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của
người đó” [30]. Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật TTHS đã không có điều
luật cụ thể khái niệm về hỏi cung bị can.
Theo từ điển Luật học đưa ra định nghĩa: “Hỏi cung bị can là hoạt
động tố tụng hình sự do Điều tra viên tiến hành khi có quyết định khởi tố bị
can để lấy lời khai về các tình tiết của vụ án hình sự”. Hay trong cuốn sách
chuyên khảo chiến thuật điều tra hình sự của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy
Thuật đã đưa ra định nghĩa: hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra hình sự
do những người theo luật định tiến hành nhằm mục đích thu thập theo trình tự
TTHS lời khai của bị can về vụ án, hành vi và mức độ phạm tội của bị can và
đồng phạm và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với
hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm [22, tr.173].
Trong giáo trình tâm lí học tư pháp do tác giả Đặng Thanh Nga chủ
biên có viết: Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử
dụng các phương pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can
trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương
9
pháp biểu cảm khác như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa Điều tra viên với bị can
nhằm thu thập chứng cứ do họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự [13,
tr. 275]. Theo đó, có thể thấy, hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa bị can và ĐTV trong khuôn khổ pháp luật. Dưới góc độ tâm lí học, hỏi
cung bị can là được hiểu là quá trinh nhận thức gián tiếp của CQĐT, Điều tra
viên về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp. Nói cách khác,
hoạt động hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập
tương đối: Quá trình khai thác thông tin và quá trình nhận thức đánh giá thông
tin của Điều tra viên.
Như vậy, hỏi cung bị can được xem xét, nghiên cứu ở nhiều khí cạnh
khác nhau, mặc dù đưa ra những nhận định khác nhau về hỏi cung bị can
nhưng trong các quan điểm đó cho thấy vị trí của hỏi cung bị can là một trong
những biện pháp điều tra cơ bản của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mục
đích của hỏi cung bị can là thu thập và mô tả theo trình tự TTHS thật đầy đủ,
chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội
của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý
nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. Đặc biệt chú ý,
trong quá trình hỏi cung cần kiểm tra những tài liệu là cơ sở để khởi tố bị can,
làm rõ động cơ và mục đích phạm tội, những nguyên nhân và điều kiện làm
phát sinh tội phạm. Thực tiễn điều tra cho thấy, hỏi cung bị can là một biện
pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được
chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc hoạt động này phải được
tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải
có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị
can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm
lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được
lời khai đúng và đầy đủ.
10
Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS, tác giả
đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can như sau: “Hỏi cung bị can là một biện
pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và
những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị
can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội
của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự”.
1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can
Thứ nhất, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện
hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng
đắng vụ án hình sự.
Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh
giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh. Nếu
không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng
chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu
thập chứng cứ nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng Bộ luật TTHS.
Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng
nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng
cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện
chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là quá
trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện,
thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp
lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những
nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói
cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ
tục của Bộ luật TTHS.
11
Để thu thập chứng cứ trong giai đoạn, cơ quan có thẩm quyền được
phép tiến hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong đó có biện pháp hỏi
cung bị can. Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể, trình tự, thủ tục hỏi
cung… nhằm đạt được mục đích là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm,
người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải
quyết đúng đắng vụ án hình sự. Là chủ thể của tội phạm, bị can là chủ sở hữu
một lượng thông tin tương đối lớn về vụ án. Hơn ai hết bị can là người biết rõ
về toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những
mục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện,
thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi
phạm tội, những tài sản đã chiếm đoat được…Vì vậy, khi hỏi cung bị can,
Điều tra viên cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu
thập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằm
làm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, lần đầu tiên
đã quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2, Điều 14: “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [29]. Ở nước ta, quyền con
người luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Tiếp tục đảm bảo quyền con
người đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp trước đây và Hiến pháp hiện
hành, Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án,
Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
12
tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời
hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp
luật hoặc không còn cần thiết nữa” [30]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013
khẳng định tại khoản 2 Điều 72 khẳng định:“Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [29], do vậy bị can vẫn có đầy
đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải được
tôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Do chưa được coi là có tội nên các cơ
quan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội,
kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như
tạm giam chẳng hạn .Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự,
pháp luật TTHS đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện
trách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùy
tiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này, hoạt động hỏi
cung cần phải đảm bảo yêu cầu: Bảo đảm khi tiến hành hỏi cung, thu thập
chứng cứ phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định, không được áp dụng
các biện pháp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của công dân như bức cung, nhục hình…
Khoản 2 Điều 49 Bộ luật TTHS quy định: “Bị can có quyền trình bày
lời khai của mình” [30]. Chính vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào thì CQĐT
cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua
lời khai của chính bị can - người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật
ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Đặc biệt
CQĐT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật để buộc bị can
phải khai báo. Điều đó sẽ dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án. Và
nghiêm trọng hơn là việc làm đó của CQĐT đã vi phạm pháp luật, xâm hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can
13
Thứ ba, những nhiệm vụ mang tính đặc trưng riêng của biện pháp hỏi
cung bị can.
Căn cứ vào yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều tra, để
thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các
tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, khi tiến
hành hỏi cung, một mặt chủ thể hỏi cung cần phải triệt để giải quyết những
nhiệm vụ chung mà Bộ luật TTHS đã đặt ra, mặt khác cần phải giải quyết tốt
những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc trưng riêng đó là: Phát hiện đồng bọn
để kịp thời truy bắt, phát hiện những vật chứng còn cất giấu để kịp thời thu
giữ, phát hiện những âm mưu và hành động chuẩn bị gây án hay đang gây án
để kịp thời ngăn chặn; Làm rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí và mức độ phạm
tội của từng bị can, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, động cơ và mục
đích phạm tội để lập hồ sơ đề nghị truy tố; Làm rõ những nguyên nhân và
điều kiện phát sinh tội phạm và những sơ hở thiếu sót trong hoạt động điều tra
để có biện pháp khắc phục, ngăn chặn [22, tr.176].
Như vậy, để thực hiện nhiệm vụ trên, pháp luật TTHS quy định cụ thể,
rõ ràng tạo căn cứ pháp lí vững chắc, có hiệu quả cho hoạt động của chủ thể
hỏi cung và đối tượng hỏi cung. Các quy định của pháp luật về biện pháp này
là căn cứ để CQĐT, Viện kiểm sát ý thức rõ phạm vi, mức độ quyền hạn của
mình; giúp cho bị can nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình để họ
có thể bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật TTHS quy định về chủ thể và đối tượng, trình tự, thủ tục hỏi
cung... Quy định này xác định trình tự tố tụng thống nhất đối với mọi vụ án và
là căn cứ pháp lí để CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành hỏi cung một cách thống
nhất và đúng pháp luật. Để đạt được mục đích là nhằm thu thập chứng cứ, làm
rõ sự thật khách quan của vụ án, xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án
hình sự đòi hỏi phải có sự thống nhất về trình tự hỏi cung, cho nên Bộ luật
TTHS quy định trình tự (trật tự trước sau), thủ tục (yêu cầu phải đạt được về
14
hình thức pháp lý, các biên bản hỏi cung phải lập như thế nào, việc lập biên
bản phải có mặt ai…), thời gian tiến hành hỏi cung…Đồng thời Bộ luật TTHS
đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy
định đó thì mới thừa nhận tính hợp pháp, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án
hình sự.
Để tiến hành hỏi cung bị can, Nhà nước quy định Điều tra viên, Kiểm
sát viên và những người khác có thẩm quyền hỏi cung. Vì vậy, để có thể phát
huy sức mạnh của những chủ thể này, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu
quả, tránh chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, Bộ luật TTHS không những có
quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này mà còn quy
định cụ thể về nhiệm vụ của các chủ thể này trong hoạt động hỏi cung.
Để đảm bảo hiệu quả tính khách quan, toàn diện của hỏi cung, trong
quá trình hỏi cung, chủ thể hỏi cung cần triệt để thực hiện và giải quyết tốt
những nhiệm vụ này. Việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể này, trong quá
trình hỏi cung không những đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan, toàn diện
và đầy đủ của hoạt động điều tra mà còn thể hiện tính phòng ngừa tích cực
của biện pháp này nói riêng và hoạt động điều tra nói chung.
1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự
trong hỏi cung bị can
Các hoạt động TTHS đều phải tuân thủ triệt để những nguyên tắc luật
định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2003 và
các văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự –
một trong những giai đoạn của quá trình TTHS cũng không nằm ngoài phạm
vi điều chỉnh của các nguyên tắc này. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò và vị trí
quan trọng của hoạt động điều tra trong đó có hoạt động hỏi cung bị can trong
việc giải quyết vụ án hình sự; Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các
vụ án hình sự. Thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy
tố, tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án trong đó biện pháp điều tra hỏi cung
15
bị can “là công tác chính yếu trong giai đoạn điều tra tội phạm, là một khâu
rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân thể, danh dự và
nhân phẩm của công dân [33, tr. 57] nên các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can phải triệt để tuân thủ và đảm bảo thực
hiện những nguyên tắc của Bộ luật TTHS.
1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định đã được quán
triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của
các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, hỏi cung bị can -
một biện pháp trong giai đoạn điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không
nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này: “Mọi hoạt động tố tụng
hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của luật này” [30]. Tuy nhiên,
bên cạnh đó, do những đặc thù cơ bản của biện pháp điều tra này nên việc vận
dụng nguyên tắc pháp chế XHCN có những biểu hiện đặc thù riêng biệt. Theo
đó, nguyên tắc trên chỉ được đánh giá là đã thực sự được tôn trọng và bảo
đảm thực hiện trong quá trình hỏi cung bị can khi Điều tra viên quán triệt một
số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can, Điều tra viên phải tiến
hành theo đúng trình tự, thủ tục về việc triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi
cung bị can và về việc lập biên bản hỏi cung đã được quy định trong các Điều
129, 130, 131, 132 Bộ luật TTHS hiện hành. Nội dung của nguyên tắc này thể
hiện ở chỗ, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can phải được tiến hành theo
đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Bộ luật TTHS. Cụ thể hỏi cung
do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể
tiến hành hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi ở của người đó,
vào thời gian ban ngày, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ
lý do vào biên bản. Bị can khai báo trước Điều tra viên, trừ trường hợp theo
16
quy định của pháp luật quy định phải có mặt của người bào chữa, người đại
diện hợp pháp của bị can chưa thành niên, người phiên dịch.
Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và
giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 Bộ
luật TTHS. Trong trường hợp cần thiết, Điều tra viên phải kiểm tra lai lịch bị
can và thu thập những tài liệu về lai lịch của bị can. Nếu vụ án có nhiều bị can
thì hỏi riêng từng người, tuy nhiên không để cho họ tiếp xúc với nhau. Có thể
cho bị can tự viết lời khai của mình. Mỗi lần hỏi cung đều phải lập biên bản
theo đúng luật định.
Trong biên bản hỏi cung phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các
câu hỏi và câu trả lời. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị
can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa
biên bản thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận. Nếu biên bản có nhiều
trang thì bị can ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự
viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận vào lời khai đó. Nếu
cuộc hỏi cung được ghi âm, thì sau khi hỏi cung phải phát lại để Điều tra viên
và bị can cùng nghe. Sau đó phải lập Biên bản để ghi lại nội dung cuộc hỏi
cung, Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận. Trong trường hợp hỏi cung bị
can có người phiên dịch, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký
vào từng trang của biên bản hỏi cung.
Thứ hai, khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải đảm bảo tôn
trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định tại Điều 49 Bộ luật
TTHS hiện hành như bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì, có quyền
đưa ra chứng cứ, đưa yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật, có quyền tự bào
chữa,… Ngoài ra khi tiến hành hỏi cung đối tượng là trẻ vị thành niên phải có
mặt người đại diện hợp pháp của bị can.
17
Những quy định nêu trên không chỉ đơn thuần là yêu cầu của pháp luật
mà còn có ý nghĩa sâu sắc. Chính vì vậy, Điều tra viên cần vận dụng những
yêu cầu nêu trên của pháp luật một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với
những tình huống cụ thể, kết hợp với việc áp dụng những chiến thuật hỏi cung
phù hợp để đảm bảo hiệu quả của biện pháp điều tra này.
1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và
nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
Yêu cầu cơ bản của việc giải quyết vụ án hình sự là xác định đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải làm
rõ sự thật của vụ án xảy ra. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan tiến hành
tố tụng. Điều 10 Bộ luật TTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh mình vô tội” [30].
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập và mô tả theo trình
tự TTHS thật đầy đủ, chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình
sự, hành vi phạm tội của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác
mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm.
Các chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện đúng những quy định của
Bộ luật TTHS để xác định sự thật của vụ án, lời khai của bị can một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ
xác định vô tội.
Đồng thời, thực hiện nguyên tắc này, hoạt động hỏi cung đòi hỏi ĐTV
phải tôn trọng sự thật khách quan, không tùy tiện suy diễn chủ quan theo ý
muốn của mình, “nghiêm cấm ĐTV bức dung hoặc dùng nhục hình dưới bất
kì hình thức nào” - Khoản 4 Điều 131 Bộ luật TTHS. Đặt nguyên tắc này cho
hoạt động hỏi cung là do yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều
tra. Bởi vì, trong quá trình hỏi cung bị can nếu Điều tra viên bức cung hoặc
dùng nhục hình đối với bị can không những dẫn đến không tôn trọng sự thật,
18
làm mất tính khách quan của hoạt động điều tra mà còn xâm phạm đến quyền
cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Nguyên tắc này muốn được thực
hiện tốt thì đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ và làm chủ được nghề
nghiệp, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lí, có thói
quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lí. Trách nhiệm chứng minh
tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can không buộc phải
chứng minh là mình vô tội. Bộ luật TTHS không quy định bị can phải khai
đúng sự thật; mặt khác bị can cũng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Muốn xác định được bị can có tội hay không thì trong quá trình hỏi cung
Điều tra viên phải dựa trên những lời khai khách quan, đúng sự thật, không
được thiên vị, cảm tình cá nhân. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những
lời khai của bị can kết hợp với những chứng cứ khác thì Điều tra viên mới xác
định bị can có tội hay không có tội.
Điều tra viên là chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung, để sự thật
của vụ án được xác định khách quan, chính xác đòi hỏi cán bộ điều tra phải
thật sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Điều 14 Bộ luật TTHS quy
định: “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,…. không
được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được
tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư
trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình”[30]. Theo tinh thần của điều luật cho
thấy, khi tiến hành hỏi cung đòi hỏi Điều tra viên phải giữ được vô tư khi làm
nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng
pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách
quan, vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối
vào công việc, không được có thái độ kiên định hay định kiến đối với bất kì bị
can nào. Việc bảo đảm nguyên tắc này là điều kiện cần thiết cần để thực hiện
19
một số nguyên tắc cơ bản khác như nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của bị can.
1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền
và lợi ích hợp pháp của bị can
* Thứ nhất, bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can
Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của TTHS, là hình
thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt
động tố tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can nói
riêng. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền bào chữa của bị can là điều kiện
cần thiết giúp CQĐT xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra nói chung và hoạt động hỏi
cung bị can nói riêng là một trong những quyền cơ bản của bị can. Đó là
quyền mà bị can tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình nhằm
chứng minh cho sự vô tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo đảm
các quyền và lợi ích hợp pháp khác trong quá trình tố tụng hình sự.
Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trong hoạt động này
chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để bảo đảm thực hiện quyền này, CQĐT phải
tạo những điều kiện cho bị can tự mình hoặc nhờ người khác thực hiện quyền
bào chữa theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của pháp luật, bị can có quyền tự bào chữa cho mình.
Khi tự bào chữa, họ có quyền vận dụng tất cả các quyền mà pháp luật quy
định để chứng minh sự vô tội của mình hoặc chứng minh những tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị can, hơn ai hết là người biết về các tình tiết liên
quan đến vụ án nói chung và những tình tiết liên quan tới họ nói riêng. Vì
vậy, việc pháp luật tố tụng quy định bị can có quyền tự bào chữa là một trong
những đảm bảo pháp lý hết sức cần thiết giúp họ có thể đưa ra những chứng
cứ và lý lẽ biện minh, gỡ tội cho mình.
20
Để đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa của bị can trong hỏi cung bị
can, pháp luật TTHS quy định: Bị can có quyền trình bày lời khai của mình;
Trong khi hỏi cung, bị can có thể thú nhận một phần hay toàn bộ tội lỗi của
mình. Tuy nhiên, lời nhận tội của bị can phải được kiểm tra, đối chiếu với các
chứng cứ khác của vụ án; Bị can có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Bị
can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, CQĐT
khi nhận các đồ vật….
Bên cạnh việc đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa của bị can, CQĐT còn
phải tạo điều kiện cho bị can nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa cho mình.
Khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS quy định cho người bào chữa có quyền
có mặt khi hỏi cung bị can và nếu được Điều tra viên đồng ý thì người bào
chữa có quyền đặt ra câu hỏi đối với bị can để tạo điều kiện cho bị can khai
báo về hành vi của mình. Thông thường, nếu được Điều tra viên đồng ý thì
người bào chữa thường đặt các câu hỏi về những tình tiết chứng minh bị can
vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ mà vì lý do
nào đó mà Điều tra viên không hỏi đến. Người bào chữa có quyền đề nghị
CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung bị
can. Đây là quyền rất quan trọng để người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ
của mình. CQĐT cần phải thông báo kịp thời cho người bào chữa về thời
gian, địa điểm hỏi cung bị can để người bào chữa sắp xếp công việc, tham gia
vào cuộc hỏi cung.
Như vậy, sự tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung không
chỉ có ý nghĩa đối với người bào chữa, với bị can mà còn có ý nghĩa trong
việc đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tham
gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung pháp luật quy định người bào
chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung. Quy
định này nhằm rằng buộc trách nhiệm của CQĐT trong việc đảm bảo cho
người bào chữa tham gia hỏi cung.
21
* Thứ hai, bảo đảmthực hiện tiếng nói và chữ viết dùng trong hỏi cung bị can
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, tòa án phải bảo đảm
cho công dân nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc
dù tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa án, đồng thời để việc tiến
hành các hoạt động tố tụng hình sự trong đó có hoạt động hỏi cung bị can đạt
hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để những người tham gia tố tụng góp phần
vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, Bộ luật TTHS quy định tiếng nói và chữ viết dùng
trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản với nội dung:
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt
Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch.
Theo quy định trên, trong quá trình hỏi cung bị can, ngôn ngữ chính
thức dùng trong hoạt động hỏi cung bắt buộc là phải bằng tiếng Việt. Tuy
nhiên, bên cạnh đó trong trường hợp bị can không sử dụng được tiếng Việt
như bị can là người dân tộc thiểu số, người nước ngoài… thì họ có quyền
dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần có
người phiên dịch.Theo đó, Điều 132 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường
hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên phải giải thích
quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch theo quy định đồng thời giải thích
cho bị can biết được quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch” [30].
Như vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can việc đảm bảo quyền bào
chữa và tiếng nói, chữ viết có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con
người của bị can, giúp họ hiểu rõ quyền của mình đồng thời góp phần nhanh
chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án.
Trên đây là những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động hỏi cung bị
can, những chủ thể có thẩm quyền đặc biệt là Điều tra viên phải nắm vững
22
những nguyên tắc này và vận dụng sáng tạo chúng để có thể đạt được hiệu
quả cao nhất trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
về hỏi cung bị can
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến
trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988.
Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, chúng ta mới có hai Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 và 2003, trước thời gian này, nước ta chủ yếu trong
giai đoạn chiến tranh và thời kì bao cấp sau chiến tranh. Các quy định về tố
tụng hình sự chủ yếu dựa trên các sắc lệnh và các pháp lệnh được ban hành
một cách riêng rẽ, chưa đầy đủ và thống nhất do hoàn cảnh đất nước bị chia
cắt và gặp nhiều khó khăn. Do vậy, những quy định về hỏi cung bị can nói
riêng và giai đoạn điều tra nói riêng cũng không nằm ngoài sự phát triển này.
Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với nhân dân toàn thế giới về
độc lập, tự chủ của nước Việt Nam dân chủ công hòa. Trong chế độ mới, mọi
công dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, giàu nghèo đều bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nông dân nghèo chiếm đại đa số trong xã hội
được giảm tô, giảm tức. Lần đầu tiên, người lao động được làm chủ vận mệnh
của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân tài tích cực góp phần xây
dựng đất nước. Tệ tham ô, nạn tham nhũng của những “quan cách mạng” chớm
nhú đã bị lên án, đấu tranh. Chính sách tăng gia sản xuất đã chấm dứt nạn đói
khủng khiếp. Quân đội quốc gia và dân quân, tự vệ là chỗ dựa và niềm tin của
chế độ mới, nhanh chóng phát triển đã chứng tỏ tinh thần và sức mạnh của mình
trên chiến trường.
Trong thời kì mới thành lập nước, chính quyền non trẻ còn rất nhiều
việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là kiện toàn hệ thống pháp
luật. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, không thể gấp rút hoàn thành hệ
23
thống pháp luật đầy đủ. Vì lẽ đó, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Chính phủ
lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47 về việc
cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam,
các luật lệ hành ở Bắc, Trung và Nam Bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ,
nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi trong ấn định
trong Sắc lệnh này đồng thời xóa bỏ toàn bộ những văn bản quy định đặc
quyền đặc lợi của thực dân, tay sai, phong kiến trên đất nước ta.
Liên quan đến hoạt động điều tra, ngày 21/2/1946, Chủ tịch Chính phủ
lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 23/NV,
thành lập Việt Nam công vụ thuộc Bộ nội vụ trên cơ sở hợp nhất Sở cảnh sát
với Sở Liên phong trên tòa quốc. Việt Nam công vụ có nhiệm vụ tìm kiếm và
tập trung các tin tức, tài liệu liên quan đến sự an toàn của quốc gia hoặc bề
trong, hoặc bề ngoài, đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những
hành động có thể làm rối việc trị an và trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động
đó là do người Việt Nam hay người nước ngoài, điều tra về những hành động
trái phép nói trên và truy tìn can phạm để giúp tòa án trong sự trừng trị. Hay
Sắc lệnh số 33A ngày 13/9/1945 có quy định Ty Liêm phóng khi bắt những
người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa Việt Nam để đưa đi an trí phải
làm ngay tờ trình gửi Ủy ban hành chính các miền, trong đó trình bày lý do,
chứng cứ và thời hạn đề nghị đưa đi an trí, đồng thời phải thông báo cho các
Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. Ngoài ra còn có Sắc lệnh số 33B ngày
13/9/1945 yêu cầu Ty Liêm phóng hoặc sở cảnh sát nếu bắt người thì trong
vòng 24 giờ phải lập biên bản để tha ngay hoặc chuyển sang tòa án quân sự
hay tòa án tư pháp để giải quyết. Đặc biệt, pháp luật thời kì này đã đề cập đến
bị can và hoạt động hỏi cung bị can. Cụ thể, trong sắc lệnh số 13 năm 1946 về
tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định tại Điều 5: “Khi bắt người
trong hai trường hợp kể trên, ban tư pháp phải lập biên bản hỏi cung và giải
bị can lên ngay Tòa án trên trong hạn 24 giờ là cùng ngày”.
24
Như vậy, có thể nói, trong giai đoạn trước năm 1988 các quy định pháp
lí về hoạt động điều tra hình sự trong đó có biện pháp điều tra hỏi cung bị can
được ban hành với số lượng chưa lớn. Chủ yếu dưới dạng các văn bản dưới
luật, nội dung chưa đầy đủ, phần lớn mới chỉ quy định về tổ chức của CQĐT
và thẩm quyền điều tra. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn cho thấy hoạt động lập pháp tố tụng
hình sự thời kì này còn rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nề phía trước.
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 1988 đến năm 2003
Bộ luật TTHS đầu tiên ra đời năm 1988 là một điểm mốc lớn trong
lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có tác động tích cực
trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra trong đó có
biện pháp hỏi cung bị can nói riêng. Bộ luật đã dành 6 chương với 49 điều
luật để quy định những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động điều tra.
Phần lớn, các điều luật này được dành để quy định về trình tự, thủ tục tiến
hành các biện pháp điều tra cụ thể trong đó có biện pháp hỏi cung.
Có thể nói, các quy định của Bộ luật TTHS về hỏi cung bị can so với
giai đoạn trước đây đã được mở rộng hơn: Trong tình hình cách mạng mới,
việc Bộ luật TTHS năm 1988 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý
trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, chủ thể của hỏi cung bị can là Điều tra viên,
quy định về việc nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình đối với bị
can,...(Điều 107 Bộ luật TTHS năm 1988) đã đánh dấu bước tiến quan trọng
trong lịch sử ngành lập pháp ở nước ta về vấn đề này. Đặc biệt, lần đầu tiên
Bộ luật TTHS năm 1988 đã dành hẳn một Chương 31 là thủ tục đặc biệt quy
định về thủ tục về những vụ án mà bị can bị cáo là người chưa thành niên
trong đó có quy định về HCBC người chưa thành niên. Khi tiến hành hỏi cung
nói riêng và các hoạt động điều tra nói chung đối với bị can là người chưa
thành niên, pháp luật tố tụng cũng đã quy định rất chặt chẽ về Điều tra viên,
25
Kiểm sát viên phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học,về
khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm
của người chưa thành niên.
Bộ luật TTHS năm 1988 được sửa đổi, bổ sung vào năm 1990 với
nhiều cải cách, tuy nhiên bộ luật này được xây dựng dựa trên nền tảng nghiên
cứu từ 1974 nên chịu nhiều ảnh hưởng của chế độ bao cấp nên có những chế
định không còn phù hợp với thời điểm hiện tại trong giai đoạn nền kinh tế thị
trường. Sau đó, trên tinh thần của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị và những
dự thảo luật tố tụng hình sự đã xây dựng thành công Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 đang có hiệu lực đến nay. Cùng với những quy định của Bộ luật
TTHS năm 2003 hiện hành, các nhà lập pháp còn thể hiện một bước tiến bộ
hơn nữa trong cải cách tư pháp đó là ngoài việc quy định những vấn đề trên,
Điều 131 của Bộ luật còn bổ sung thêm thủ tục hỏi cung bị can của Kiểm sát
viên nhằm hạn chế oan, sai trong TTHS; Theo đó, Trong giai đoạn điều tra
của CQĐT, VKS nếu thấy cần thiết có thể tiến hành hỏi cung bị can theo
Khoản 3 Điều 131. Đây là điểm mới và rất cần thiết so với Bộ luật năm 1988,
là một hoạt động tố tụng quan trọng mà VKS dựa vào đó để nắm chắc hơn
hoạt động điều tra. Trong Bộ luật TTHS 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009, bên cạnh những thay đổi lớn về mô
hình tổ chức CQĐT, thẩm quyền điều tra, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm
của thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên còn nhiều quy định mới được bổ sung
nhằm đáp ứng của việc nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự, tăng
thời hạn điều tra
Ngoài ra, việc bổ sung, tăng thẩm quyền cho Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm được tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu: khám
nghiệm hiện trường, khám xét, bắt người phạm tội, tiến hành các hoạt động
điều tra khác đó có hoạt động hỏi cung bị can cũng như việc bổ sung thêm
26
quyền hạn được tiến hành một số hoạt động điều tra cho Lực lượng Cảnh sát
biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân;...
Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp lý về biện pháp điều tra hỏi
cung bị can về cơ bản ngày một hoàn thiện, đáp ứng khá kịp thời đòi hỏi của
thực tiễn điều tra hình sự, góp phần đáng kể vào những thành tựu mà CQĐT
đã đạt được trong thời gian qua.
1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới
1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa
Bộ luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua tại
kỳ họp thứ hai, đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7
năm 1979, được sửa đổi ngày 17 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành
đến nay.Các điều quy định trong Mục 2 đến Mục 8 của Chương 2 phần II
trong Bộ luật TTHS Trung Quốc đã chỉ rõ các biện pháp điều tra: thẩm vấn
nghi can, hỏi người làm chứng, điều tra và thẩm cứu, khám xét, bắt giữ tài
liệu đồ vật làm chứng, truy nã, giám định trong đó biện pháp thẩm vấn nghi
can được quy định tại Mục 2, là biện pháp điều tra đầu tiên trong số các biện
pháp điều tra mà khi điều tra vụ án thì CQĐT phải tiến hành.
Trong Bộ luật TTHS Trung Quốc không sử dụng thuật ngữ “hỏi cung
bị can” mà thay vào đó là “thẩm vấn nghi can”. Tuy nhiên, Bộ luật cũng
không định nghĩa thế nào là thẩm vấn nghi can mà chỉ có điều luật cụ thể quy
định trình tự, thủ tục thẩm vấn nghi can.
Theo đó, khi thẩm vấn nghi can, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân
dân hoặc cơ quan công an phải tiến hành thẩm vấn nghị can. Khi thẩm vấn
phải có từ 2 điều tra viên trở lên tham gia.
Nghi can không cần phải bắt hoặc giam giữ có thể bị triệu tập đến một
địa điểm chỉ định trong thành phố hoặc thị trấn nơi người phạm tội cư trú
27
hoặc thẩm vấn tại nơi cư trú của người này. Tuy nhiên, người thẩm vấn phải
xuất trình giấy tờ do Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an cấp.Thời
điểm thẩm vấn từ lúc việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện không quá 12
giờ. Không được lợi dụng việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện để giam giữ
nghi can.
Khi thẩm vấn một nghi can, Điều tra viên phải hỏi nghi can liệu có thực
hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào hay không, và để cho họ trình bày các tình
tiết phạm tội hoặc giải thích sự vô tội của mình; và sau đó có thể hỏi thêm.
Nghi can phải trả lời thành thật các câu hỏi của điều tra viên, nhưng có quyền
từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào không liên quan đến vụ án.
Trong khi thẩm vấn một nghi can bị câm hoặc điếc, cán bộ có khả năng
sử dụng tốt ngôn ngữ dấu hiệu phải tham gia và những tình huống như vậy
phải được ghi vào biên bản.
Biên bản thẩm vấn phải được đưa cho nghi can xem; nếu nghi can
không thể đọc, biên bản phải được đọc cho họ nghe. Nếu thấy biên bản còn
thiếu hoặc chưa chính xác, nghi can có thể bổ sung hoặc sửa chữa. Khi nghi
can công nhận biên bản không có sai sót thì phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó.
Điều tra viên cũng ký tên vào biên bản. Nếu nghi can yêu cầu viết một bản
tường trình thì phải được phép làm điều này. Khi cần, Điều tra viên cũng có
thể yêu cầu nghi can viết bản tường trình.
Sau khi nghi can bị CQĐT thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một luật sư tư vấn
pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị
bắt, luật sư được chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có người bảo lĩnh
trong giai đoạn chờ xét xử. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, nghi can
phải có được sự phê chuẩn của cơ quan điều tra đối với việc chỉ định luật sư.
Luật sư được chỉ định có quyền tìm kiếm từ cơ quan điều tra các thông
tin về tội phạm bị tình nghi, và có thể gặp gỡ nghi can trong trại giam để tìm
28
hiểu vụ án. Khi luật sư gặp gỡ nghi can trong trại giam, căn cứ vào tính
nghiêm trọng của tội phạm và nếu thấy cần thiết thì cơ quan điều tra có thể cử
người tham gia cuộc gặp. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, trước khi
gặp nghi can, luật sư phải có sự phê chuẩn của CQĐT.
Như vậy, xem xét những quy định về trình tư, thủ tục thẩm vấn nghi
can của CQĐT trong Bộ luật TTHS Trung Quốc và hỏi cung bị can trong Bộ
luật TTHS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng. Phân tích về những nét
tương đồng này, chủ yếu do hai nước đều là nước có chế độ chế độ xã hội chủ
nghĩa, nền tố tụng hình sự đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền tố tụng hình sự
của Liên Xô cũ.
1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga
Bộ luật TTHS Liên Bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày
22/12/2001 và được Hội đồng Liên Bang Nga phê chuẩn ngày 5/12/2001 gồm
5 phần và chia thành 18 chương. Phần thứ nhất - Những quy định chung ;
Phần thứ hai – Thủ tục tố tụng trước khi xét xử; Phần thứ ba – Thủ tục xét xử;
Phần thứ tư – Thủ tục đặc biệt; Phần thứ năm – Hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực tố tụng hình sự.
Bộ luật TTHS Liên Bang Nga có nhiều đặc điểm gần với pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam nhất. Do đó, khi nghiên cứu các biện pháp điều tra cho
thấy, khi giải quyết vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra, CQĐT tiến hành
các biện pháp: khởi tố bị can, hỏi cung bị can, khám xét, xem xét dấu vết trên
thân thể, thực nghiệm điều tra, khám xét, thu giữ, tạm giữ bưu kiện, bưu
phẩm, kiểm tra và ghi âm các cuộc đàm thoại. Trong đó, biện pháp hỏi cung
bị can được quy định tại Mục 23 của Chương VIII – Điều tra.
Bộ luật TTHS Liên Bang Nga cũng quy định chủ thể tiến hành hỏi cung là
Dự thẩm viên - là người có chức vụ, quyền hạn, có quyền tiến hành điều tra dự
thẩm đối với vụ án trong phạm vi thẩm quyền do Bộ luật TTHS Liên Bang Nga
quy định đồng thời quy định về trình tự, thủ tục hỏi cung như sau:
29
Dự thẩm viên tiến hành hỏi cung bị can ngay sau khi đã đưa ra lời
buộc tội đối với họ.
Khi bắt đầu hỏi cung, Dự thẩm viên cần làm rõ bị can có nhận tội hay
không, họ có mong muốn khai báo về bản chất việc buộc tội họ không và nếu
có thì khai báo bằng ngôn ngữ nào. Trong trường hợp bị can từ chối khai báo
thì Dự thẩm viên phải xác nhận việc này trong biên bản hỏi cung họ.
Trường hợp người đó từ chối khai báo ở lần hỏi cung đầu tiên chỉ có
thể được tiến hành theo yêu cầu của bị can.
Mỗi lần hỏi cung bị can, Dự thẩm viên phải lập biên bản theo quy
định. Trong biên bản lần hỏi cung đầu tiên phải ghi rõ những thông tin về
nhân thân bị can, bao gồm:
1) Họ và tên;
2) Ngày, tháng, năm sinh và nơi sinh;
3) Quốc tịch;
4) Trình độ văn hoá;
5) Hoàn cảnh gia đình, các thành viên trong gia đình;
6) Nơi làm việc hoặc học tập, nghề nghiệp hoặc chức vụ;
7) Nơi cư trú;
8) Tiền án (nếu có);
9) Những thông tin khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Ở những biên bản những lần hỏi cung tiếp theo nếu không có thay đổi
những thông tin về nhân thân bị can thì có thể chỉ cần ghi họ và tên bị can [7].
1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên
Bang Đức
Cộng hoà Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật lục
địa lâu đời, thủ tục tố tụng hình sự của họ được xây dựng và áp dụng trên mô
hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Trên cơ sở được xây dựng, hình thành từ
những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, trải qua quá trình dài hoàn thiện,
30
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, cho đến nay Bộ luật TTHS của Đức có thể
nói là một Bộ luật đồ sộ, công phu gồm 6 phần với khoảng gần 470 điều quy
định cụ thể từng hoạt động, thủ tục trong trình tự tố tụng giải quyết VAHS.
Ở Đức, cơ quan công tố là chủ thể tiến hành hoạt động điều tra nên họ
không thành lập hệ thống CQĐT riêng biệt như quy định của luật TTHS Việt
Nam. Việc kiểm soát điều tra thuộc thẩm quyền của thẩm phán thụ lí vụ án.
Vì vậy, cơ quan công tố có trách nhiệm về toàn bộ hoạt động điều tra vụ án.
Cơ quan công tố phải tiến hành điều tra ngay khi nhận được tin báo, tố giác về
tội phạm. Khi vụ án được khởi tố, cơ quan công tố có quyền và trách nhiệm
áp dụng tất cả các biện pháp của Bộ luật TTHS để thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm và hành vi phạm tội của bị can, làm rõ tất cả các tình tiết liên
quan đến vụ án. Trong quá trình điều tra, cơ quan công tố có trách nhiệm thu
thập chứng cứ buộc tội và cả những chứng cứ gỡ tội để bảo đảm sự khách
quan, công bằng, không thiên vị trong lĩnh vực tư pháp hình sự (Điều 161(II).
Để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội của bị
can, làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án, trong quá trình điều tra, cơ
quan công tố có quyền sử dụng biện pháp lấy lời khai bị can. Điều 163a (II)
của Bộ luật quy định về việc lấy lời khai bị can.
“(1) Bị can phải được lấy lời khai chậm nhất là trước khi kết thúc điều
tra, trừ khi thủ tục tố tụng dẫn tới việc đình chỉ. Đối với những vấn đề đơn
giản, có thể cho người đó cơ hội có ý kiến bằng văn bản.
(2) Nếu bị can có yêu cầu thu thập chứng cứ để phục vụ việc bào chữa,
chứng cứ đó sẽ được thu thập nếu đó là chứng cứ quan trọng.
(3) Bị can có nghĩa vụ có mặt tại Cơ quan Công tố khi được triệu tập.
Điều 133 đến 136a, 168c khoản (1) và (5) sẽ được áp dụng với những sửa đổi
phù hợp. Khi có yêu cầu của bị can, Toà án sẽ quyết định tính hợp pháp của việc
triệu tập người đó; Điều 161a khoản (3), câu hai đến câu bốn sẽ được áp
dụng...”[5].
31
Bên cạnh các biện pháp khám nghiệm tử thi; giải phẫu tử thi; nhận
dạng,… thì lấy lời khai bị can là một trong những biện pháp điều tra hiệu quả,
có khả năng thu nhiều tin tức nhất về vụ án đang điều tra cũng như các tin tức
khác mà cơ quan công tố cần thu thập.
Bộ luật TTHS Đức cũng quy định về sự tham gia của người bào chữa
trong quá trình lấy lời khai của bị can. Quyền có người bào chữa được quy
định tại Điều 137 Bộ luật TTHS Đức cho phép bị can có quyền nhận được sự
trợ giúp pháp lý từ người bào chữa trong quá trình tố tụng mà không có sự
hạn chế. Theo quy định hiện hành của Bộ luật TTHS Đức, họ được thông báo
quyền giữ im lặng và quyền được tư vấn bởi người bào chữa ở bất kỳ giai
đoạn tố tụng nào, thậm chí trước khi tiến hành thủ tục thẩm vấn. Chính vì vậy,
tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật TTHS Đức quy định: khi bị bắt giữ, bị can được
khuyên nên im lặng nếu bị cảnh sát thẩm vấn và yêu cầu được gặp luật sư.
Việc giữ im lặng cho đến khi nói chuyện với luật sư sẽ không bị coi là tình
tiết chống lại người bị bắt. Như vậy, Bộ luật TTHS Đức quy định về sự có
mặt của người bào chữa khi tiến hành lấy lời khai bị can và một số quyền
khác là sự đảm bảo cần thiết cho quá trình điều tra khách quan, toàn diện,
đúng pháp luật [24, tr 18].
Thông qua kết quả nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang
Nga, Liên bang Đức và Trung Quốc về hỏi cung bị can có thể thấy, Cộng hòa
Đức, Nga, Trung Quốc đều là quốc gia có mô hình tố tụng hình sự khá tương
đồng và phù hợp với Việt Nam, đặc biệt hiện nay, pháp luật TTHS của những
nước này cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện nên việc tìm hiểu những quy
định của pháp luật liên quan đến các biện pháp điều tra nói chung và biện
pháp hỏi cung nói riêng là những kinh nghiệm tốt khi nghiên cứu và hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta. Nghiên cứu pháp luật TTHS của
những nước này cho thấy, Bộ luật TTHS của Nga, Trung Quốc và Đức cũng
như Bộ luật TTHS Việt Nam không đưa ra định nghĩa biện pháp điều tra này
32
là gì. Mặc dù, hình thức diễn đạt khác nhau: Bộ luật TTHS Trung Quốc quy
định là thẩm vấn nghi can, TTHS Đức là lấy lời khai bị can, TTHS Nga là hỏi
cung bị can nhưng đây đều là biện pháp điều tra quan trọng nhằm thu thập
chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tôi và xác
định các thiệt hại do tội phạm gây ra và những vấn đề khác có liên quan. Pháp
luật TTHS các nước đó có điểm chung trong tương quan với pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam khi quy định về hoạt động điều tra này, bên cạnh đó do xuất
phát từ điều kiện kinh tế xã hội, tình hình tội phạm…ở những nước này khác
nhau do đó, Bộ luật TTHS quy định về biện pháp này cũng có sự khác nhau
có thể kể đến như quy định về: chủ thể hỏi cung, quyền của bị can trong quá
trình hỏi cung… Vì vậy điều này có thể làm tư liệu quý báu để các nhà làm
luật nước ta tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm
2003 hiện hành về hỏi cung bị can nói riêng và giai đoạn điều tra nói chung
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
33
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
hỏi cung bị can
2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can
Bị can là một chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Những
quy định về nghĩa vụ, quyền hạn của bị can trong TTHS hợp thành một chế
định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tổ chức điều tra vụ án hình sự nói
chung và trong biện pháp điều tra hỏi cung bị can nói riêng. Hệ thống các
quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự được gọi bởi một quan
niệm tương đối là: vị trí pháp lý của bị can trong tố tụng hình sự.
Hoạt động TTHS chính thức đặt ra khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, một chủ thể buộc xuất hiện phải tham gia
kể từ khi điều tra, đến truy tố, xét xử, thi hành án và dĩ nhiên ở mỗi hoạt động hợp
thành cụ thể của TTHS, mang một tên gọi khác nhau: Người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo (phạm nhân)…Vì thế, quyền và nghĩa vụ của họ ở mỗi hoạt động nói trên có
sự điều chỉnh nhất định của Bộ luật TTHS. Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư
cách là bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội. Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý thì: “Bị can
là người đã bị khởi tố về hình sự”[39], còn trong Từ điển Tiếng Việt thì định
nghĩa bị can được quy định một cách cụ thể hơn: “Bị can là người phạm tội hay
tình nghi phạm tội đã bị khởi tố về hình sự” [40]. Việc xác định một người có tư
cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ
luật TTHS năm 2003 thì: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” [30] Khi một
người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án,
tuy nhiên điều đó không có nghĩa xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có
34
tính nguyên tắc. Vì Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 thì : “Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật” [30]. Như vậy, theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành thì bị can là
người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can.
Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử
sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình chỉ điều tra,
VKS đình chỉ vụ án, TA đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với
bị can hoặc TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can
Trong một vụ án, có thể không có một trong những biện pháp như
khám nghiệm, thu giữ vật chứng, lấy lời khai nhân chứng, bị hại…nhưng sử
dụng biện pháp hỏi cung bị can là nhiệm vụ bắt buộc, không thể thiếu trong
bất cứ giai đoạn nào của công tác điều tra (trừ trường hợp sau khi khởi tố thì
bị can chết hoặc bỏ trốn). Chính vì vậy khoản 1 Điều 131 BLTTHS 2003 chỉ
rõ: “việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có
quyết định khởi tố bị can” [30]. Có thể thấy chủ thể chính và chủ yếu tiến
hành hỏi cung là Điều tra viên – “là người được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự”; “Triệu tập và hỏi cung bị
can” là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn chính của Điều tra viên trong
giai đoạn điều tra. Bên cạnh việc tuân thủ theo những quy định của pháp luật,
pháp luật TTHS còn đòi hỏi Điều tra viên cần phải có những tiêu chuẩn và
phẩm chất nhất định để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Bởi vì, trong quá trình
điều tra vụ án, Điều tra viên phải là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu tâm
lý, có trình độ nghiệp vụ, pháp luật cao; vững vàng về chính trị, có thái độ
khách quan, vô tư. Trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên phải huy động khả
năng, trí tuệ của mình để hướng điều tra, thu thập dấu vết, tin tức, tài liệu,
chứng cứ của vụ án nhằm tìm ra chân lý, sự thật khách quan của vụ án. Do
vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can, đòi hỏi Điều tra viên phải hết sức thận
35
trọng, nhưng cũng phải rất sáng tạo, quyết đoán và thể hiện trách nhiệm cũng
như bản lĩnh nghề nghiệp cao khi đưa ra các quyết định. Hoạt động hỏi cung
được đặc trưng bởi quan hệ tác động thường xuyên giữa Điều tra viên với bị
can. Trong quá trình điều tra, để những người này khai báo đúng đắn, cần
thiết phải có sự tác động của Điều tra viên. Thái độ khai báo, mức độ hợp tác
của những người này trong quá trình điều tra không chỉ phụ thuộc vào quan
hệ của họ đối với sự việc phạm tội như thế nào mà tuỳ thuộc rất nhiều vào khả
năng tác động của Điều tra viên đối với họ có hiệu quả hay không.
Ngoài Điều tra viên, những người khác thuộc Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung bị can theo
quy định tại các Điều 19, 20, 21, 22 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự
năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009). Cùng với các chủ thể nói trên,
BLTTHS 2003 cũng đã trao quyền hỏi cung cho KSV. Theo đó tại khoản 3
ĐIều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “trong trường hợp cần thiết,
Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can ” [30]. Trường hợp cần thiết dẫn đến
việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được hiểu là trong quá trình kiểm sát điều
tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên muốn kiểm tra tính chính xác, khách quan
trong lời khai hoặc tự khai của bị can mà Điều tra viên đã thu thập. Thực tế
cho thấy, Kiểm sát viên thường hỏi cung bị can trong những trường hợp sau
đây: do CQĐT đề nghị, qua kiểm sát việc hỏi cung phát hiện thấy bị can kêu
oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất lúc nhận tội, lúc không
nhận tội; bị can có khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính
xác thực của lời khai bị can; trường hợp bị can là cán bộ cấp cao, chức sắc
trong tôn giáo, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ có uy tín lớn trong nước, vụ án có
nhiều chứng cứ, các chứng cứ quan trọng của vụ án có mâu thuẫn, để củng cố
tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc truy tố; trường hợp bị can bị khởi tố về
tội đặc biệt nghiêm trọng thì VKS có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can.
Khi cần hỏi cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện
36
trưởng và thông báo trước cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều
tra [23, tr. 287].
2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can
Sau khi có quyết định khởi tố bị can, Điều tra viên phải tiến hành hỏi
cung bị can ngay. Việc hỏi cung phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ
tục đã được quy định của pháp luật tụng hình sự. Trình tự, thủ tục hỏi cung bị
can được quy định từ Điều 129 đến Điều 132 Bộ luật TTHS 2003.
* Thời gian và địa điểm hỏi cung
“1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi
có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra
hoặc tại nơi ở của người đó…
2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn
đượcc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản…”
Theo quy định của Bộ luật TTHS, việc hỏi cung bị can phải do Điều
tra viên hoặc những người khác có trách nhiệm tiến hành ngay sau khi có
quyết định khởi tố bị can. Việc hỏi cung bị can có thể được tiến hành tại
CQĐT, nhà tạm giữ, trại tạm giam, trụ sở ủy ban nhân dân xã, phường hoặc
tại nhà ở, nơi làm việc của bị can hoặc tại nơi xảy ra tội phạm. Hỏi cung tại nhà ở
khi cần thiết phải hỏi ngay sau khi bắt, khám xét để thực hiện kế hoạch điều tra
như truy bắt đồng bọn, khám thu hồi vật chứng. Ngoài ra, còn có thể hỏi tại nhà ở
để thực hiện điều tra hoặc tạo điều kiện cho bị can khôi phục trí nhớ…
Nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị can, tránh việc truy bức, ép buộc bị can
phải làm việc nhiều, trái quy luật sinh hoạt, Khoản 2 Điều 130 Bộ luật TTHS
năm 2003 quy định về nguyên tắc chung cho việc hỏi cung bị can không tiến
hành vào ban đêm (từ 22 giờ đêm hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau). Để giải
quyết những trường hợp đặc biệt trong hoạt động điều tra, pháp luật TTHS
cho phép có thể hỏi cung vào ban đêm trong trường hợp không thể trì hoãn
được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Trường hợp không thể trì hoãn ở
37
đây được hiểu là nếu không tiến hành hỏi cung ngay, CQĐT sẽ không có căn
cứ để ra các quyết định tố tụng, có đòi hỏi tức thì trong điều tra vụ án hình sự
cụ thể. Ví dụ: Nguyễn Văn S bị khởi tố bị can trong vụ án giết người để điều
tra. 22 giờ 30 ngày hôm đó, con trai của S là Nguyễn Văn A đến CQĐT tự thú
và khai báo chính A mới là người thực hiện hành vi giết người, cha đẻ của A
là S vì thương con đã nhận thay. Tình huống điều tra này dẫn đến việc hỏi
cung Nguyễn Văn S là không thể trì hoãn được, việc hỏi cung phải ghi rõ lý
do đó. Trong một số trường hợp, thời gian hỏi cung được xác định dựa trên cơ
sở yêu cầu của pháp luật: Những đối tượng bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
và phạm tội quả tang thì phải lấy lời khai trong vòng 24 giờ từ thời điểm bị
bắt, còn đối với bị can thì phải tiến hành hỏi ngay sau khi có quyết định khởi
tố bị can. Điều 83 Bộ luật TTHS hiện hành cũng quy định: “Sau khi bắt hoặc
nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, CQĐT
phải lấy lời khai ngay” [30]. Ngoài ra, việc lựa chọn các thời gian hỏi cung
còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như: Trình tự hỏi cung các bị can mà
Điều tra viên đã lựa chọn, tình trạng sức khỏe và những xúc động mà bị can
trải qua trong thời điểm xảy ra vụ án, sự cần thiết phải giữ bí mật của hoạt
động điều tra. Nhìn chung, không nên hỏi cung bị can vào thời điểm họ đang
trong tình trạng xúc động mạnh, bối rối, trầm uất trước thời điểm trở lại trạng
thái bình thường trừ trường hợp không thể trì hoãn vì trong trạng thái tâm lý
này thường tác động tiêu cực đến thái độ khai báo của bị can [23, tr.287].
* Sau khi chuẩn bị đầy đủ cho việc tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra
viên phải triệu tập bị can đến hỏi cung. Điều 129 BLTTHS quy định trình tự,
thủ tục triệu tập bị can đến CQĐT để làm việc, trách nhiệm của CQĐT, bị can
trong việc thực hiện trình tự, thủ tục đó.
Việc triệu tập bị can do Điều tra viên tiến hành. Trong trường hợp cần
thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập bị can. Theo đó, chỉ trong trường hợp cần
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Người làm chứng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam ĐịnhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại tỉnh Nam Định
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAYLuận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Chứng minh trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAYLuận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại quận Tân Bình, HAY
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của đương sự, HOT, HAY
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY

Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 

Similar to Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY (20)

Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAYĐề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
Đề tài: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luậtLuận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
 
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAYLuận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
Luận văn: Người tiến hành tố tụng trong Toà án nhân dân, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Thực hành quyền công tố đối với các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo LuậtLuận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
Luận văn: Quyền công tố về các tội xâm phạm sở hữu theo Luật
 
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niênĐối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bị can chưa thành niên
 
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.docGiới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
Giới Hạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật.doc
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sựLuận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
Luận văn: Quyền được xét xử công bằng trong Tố tụng hình sự
 
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAYTranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
Tranh luận của người bào chữa tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, HAY
 
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ ánLuận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
Luận án: Bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đLuận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
Luận văn: Địa vị pháp lý của người làm chứng theo pháp luật, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 

Recently uploaded (20)

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 

Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HẢI YẾN HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ HẢI YẾN HỎI CUNG BỊ CAN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự - Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG Hà Nội – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đinh Thị Hải Yến
  • 4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN............... 8 1.1. Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can.................................................... 8 1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can ......................................................................... 8 1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can................................................................. 10 1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can...................................................................................................... 14 1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ...................... 15 1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng........................................ 17 1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can................................................................................................. 19 1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung bị can ..................................................................................................... 22 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. ......................................................... 22 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến năm 2003.......................................................................................................... 24 1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới ......................................................................................................................... 26 1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa................................................................................................................... 26 1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga ................ 28
  • 5. 1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức 29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................................................................................................................... 33 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can............................................................................................................... 33 2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can ................................................................ 33 2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can.................................................................... 34 2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can.............................................. 36 2.1.4. Hỏi cung bị can là người chưa thành niên............................................... 42 2.1.5. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can............ 46 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can.......................................................................... 48 2.2.1. Những kết quả đạt được.......................................................................... 48 2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế................................ 53 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG HỎI CUNG BỊ CAN.............................................................. 68 3.1. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can................................................................................................ 68 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỏi cung bị can . 77 3.2.1. Hoàn thiện tổ chức Cơ quan điều tra và tăng cường số lượng Điều tra viên phục vụ cho công tác điều tra ........................................................................... 77 3.2.2. Nâng cao vai trò Người bào chữa trong hoạt động hỏi cung bị can nói riêng và toàn bộ quá trình điều tra vụ án nói chung........................................... 82 3.2.3. Tăng cường công tác phối hợp, chế ước chặt chẽ giữa hai cơ quan Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hỏi cung bị can. ............................................... 84 3.2.4. Nâng cao chất lượng cơ sở vật chất để phục vụ cho công tác điều tra. .... 84 KẾT LUẬN..................................................................................................... 87 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 89
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT XHCN : Xã hội chủ nghĩa BLHS : Bộ luật hình sự TTHS : Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra VKS : Viện Kiếm sát TAND : Tòa án nhân dân
  • 7. DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ Biểu đồ 1: Số lượng các vụ việc bức cung, dùng nhục hình...........................57 Biểu đồ 2: Số bị can bị khởi tố điều tra về tội bức cung, dùng nhục hình.....58
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để giải quyết nhanh chóng vụ án hình sự và xử lý công minh, đúng đắn kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt để tuân thủ các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự để góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đồng thời giáo dục mọi người đề cao ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giai đoạn này cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Để thu thập chứng cứ, trong giai đoạn này, Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, Tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được thể hiện trong Bộ luật TTHS 2003, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự 2004 và các văn bản chuyên ngành khác. Trong những biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, hỏi cung bị can là biện pháp có vai trò, vị trí hết sức quan trọng. Qua hỏi cung bị can giúp cơ quan điều tra làm rõ sự thật khách quan của vụ án, làm rõ được âm mưu, ý đồ, động cơ, hành vi phạm tội của bị can và đồng bọn. Đồng thời hỏi cung còn tạo điều kiện mở rộng công tác điều tra, giúp phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm có hiệu quả. Với ý nghĩa ấy hỏi cung bị can đựơc xem là hoạt động trọng yếu của quá trình điều tra vụ án.
  • 9. 2 Trong thời gian qua, những vấn đề lý luận cơ bản về hỏi cung bị can đã được quan tâm đáng kể song không có nhiều công trình nghiên cứu độc lập về vấn đề này. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về hỏi cung bị can trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, là nhiệm vụ cấp bách đặt ra không chỉ với khoa học điều tra hình sự mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với thực tiễn điều tra tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài “Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học cho mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về biện pháp hỏi cung bị can ở những mức độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau như: “Hỏi cung bị can phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia trong tình hình hiện nay”, đề tài cấp Bộ của Phó giáo sư, tiến sỹ Lê Minh Hùng năm 2001 – Học viện An Ninh Nhân dân; “Hỏi cung bị can phạm tội gián điệp trong tình hình hiện nay”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Quý Khoát năm 2003 – Học viện An Ninh Nhân dân; “Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự”, luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Minh năm 2008 – Khoa Luật Đại học Quốc Gia Hà Nội; “Một số vấn đề lý luận cơ bản về chuẩn bị hỏi cung bị can”, Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hoa năm 2010 – Đại học Luật Hà Nội; ... Ngoài ra, các công trình nghiên cứu khác cũng đề cập đến vấn đề này nhưng chỉ ở mức độ đại cương, chưa sâu sắc như: “Giáo trình Luật tố tụng hình sự” của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2013); “Bình luận khoa học Bộ luật TTHS” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2013); "Sổ tay điều tra hình sự" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010); "Khoa học Điều tra hình sự" của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2012); “Chiến thuật điều
  • 10. 3 tra hình sự” (sách chuyên khảo) của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật (Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2010) và một số bài báo được công bố trong một số tạp chí... Đây là những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề thuộc lĩnh vực điều tra hình sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự trong đó có hỏi cung bị can. Tuy nhiên các công trình này ở những mức độ khác nhau mới chỉ đề cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật về hỏi cung bị can mà chưa đi sâu phân tích biện pháp này theo quy định của Bộ luật TTHS như chủ thể có thẩm quyền hỏi cung, trình tự và thủ tục hỏi cung,... cũng như chưa phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn thiện, cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về biện pháp hỏi cung bị can trong pháp TTHS. Như vậy, có thể nói rằng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về biện pháp hỏi cung bị can với quy mô là một đề tài độc lập, chuyên biệt. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu về hỏi cung bị can với những vấn đề lí luận cơ bản và thực tiễn áp dụng là cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản, luận văn đánh giá một cách có hệ thống về thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong các vụ án hình sự và từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp điều tra này trong thời gian tới, góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận trong pháp luật tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn là: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về hỏi cung bị can; - Phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng ;
  • 11. 4 - Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong thực tiễn. 3.3 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là khái niệm, nhiệm vụ, Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật TTHS trong hỏi cung bị can; khái quát những quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ sau 1945 đến nay; Hỏi cung bị can theo quy định Bộ luận TTHS của một số nước trên thế giới; những quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn hỏi cung bị can trong tình hình hiện nay. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, đây là một biện pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc biện pháp này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và đầy đủ. Do vậy, trong phạm vi đề tài, luận văn không đi sâu vào nghiên cứu các phương pháp, chiến thuật hỏi cung bị can mà tập trung làm rõ những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành và một số văn bản có liên quan đến biện pháp điều tra này và thực tiễn áp dụng hiện nay. Theo quy định của pháp luật, ngoài Điều tra viên – chủ thể chính tiến hành hỏi cung bị can thì Kiểm sát viên, những người khác thuộc Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung bị can trong những trường hợp cần thiết. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chủ yếu đề cập tới chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung là Điều tra viên.
  • 12. 5 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về giải quyết vụ án hình sự nói riêng, những thành tựu của các khoa học: triết học, luật hình sự, luật TTHS, lôgic học, tội phạm học, điều tra hình sự và các học thuyết chính trị pháp lý. - Cơ sở thực tiễn của luận văn dựa trên cơ sở nghiên cứu luật TTHS thực định và các văn bản khác có liện quan về hoạt động hỏi cung bị can, quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các văn bản của 3 ngành Công an, Kiểm sát, Toà án hướng dẫn về hoạt động, điều tra, xử lý vụ án hình sự. - Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: hệ thống, lôgic, phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo sát thực tế để chọn lọc tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong các vụ án người chưa thành niên phạm tội, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là một trong những công trình chuyên khảo trong khoa học luật hình sự, tố tụng hình sự Việt nam nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn áp dụng biện pháp hỏi cung bị can với cấp độ là một luận văn thạc sỹ. Luận văn đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: Một là, xây dựng khái niệm hỏi cung bị can một cách khoa học và hợp lí Hai là, tìm hiểu quy định pháp luật của Liên bang Nga, Liên bang Đức và cộng hòa nhân dân Trung Hoa về hỏi cung bị can đồng thời rút ra một số nhận xét. Ba là, phân tích đối tượng và chủ thể của hỏi cung bị can, trình tự, thủ tục hỏi cung bị can.
  • 13. 6 Bốn là, tìm hiểu những quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về hỏi cung bị can người chưa thành niên; Năm là, đánh giá và làm sáng tỏ các quy định của pháp luật nước ta về hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn hiện nay, qua đó rút ra những nhận xét Sáu là, chỉ ra những hạn chế, thiếu xót và từ đó đề xuất những giải pháp có tính khoa học, tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp hỏi cung bị can trong thời gian tới. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn. Luận văn là công trình nghiên cứu một cách toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về hỏi cung bị can. Trên cơ sở nghiên cứu này, luận văn góp phần cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự. Thông qua việc đưa ra những khái niệm cũng như việc phân tích sâu sắc những vấn đề liện quan đến hỏi cung bị can nhằm tác động đến nhận thức của Điều tra viên về việc tuân thủ các trình tự, yêu cầu của pháp luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can. Qua đó đảm bảo cho quá trình điều tra, giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội nhằm nâng cao hiệu quả của việc vận dụng các quy định của pháp luật về hỏi cung bị can trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu, nghiên cứu thực tiễn hỏi cung bị can để thấy được những điểm hạn chế, tồn tại của việc sử dụng biện pháp này, từ đó
  • 14. 7 đề xuất những kiến nghị sát thực nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói cung. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lí luận về hỏi cung bị can. Chương 2: Quy định của Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can và thực tiễn áp dụng Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả của hoạt động hỏi cung bị can.
  • 15. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HỎI CUNG BỊ CAN 1.1.Khái niệm và nhiệm vụ hỏi cung bị can 1.1.1 Khái niệm hỏi cung bị can Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình liên tục gồm nhiều hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, giai đoạn điều tra đóng vai trò quan trọng nhằm tìm kiếm chứng cứ, chứng minh tội phạm, người phạm tội, xác định thiệt hại do tội phạm gây ra mà trong đó hoạt động hỏi cung bị can là một biện pháp thu thập chứng cứ quan trọng. Điều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về việc hỏi cung:“Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó” [30]. Như vậy, có thể thấy rằng Bộ luật TTHS đã không có điều luật cụ thể khái niệm về hỏi cung bị can. Theo từ điển Luật học đưa ra định nghĩa: “Hỏi cung bị can là hoạt động tố tụng hình sự do Điều tra viên tiến hành khi có quyết định khởi tố bị can để lấy lời khai về các tình tiết của vụ án hình sự”. Hay trong cuốn sách chuyên khảo chiến thuật điều tra hình sự của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Huy Thuật đã đưa ra định nghĩa: hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra hình sự do những người theo luật định tiến hành nhằm mục đích thu thập theo trình tự TTHS lời khai của bị can về vụ án, hành vi và mức độ phạm tội của bị can và đồng phạm và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm [22, tr.173]. Trong giáo trình tâm lí học tư pháp do tác giả Đặng Thanh Nga chủ biên có viết: Hoạt động hỏi cung bị can là một dạng hoạt động điều tra sử dụng các phương pháp tác động tâm lí đến tư duy, tình cảm, ý chí của bị can trong khuôn khổ pháp luật thông qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và các phương
  • 16. 9 pháp biểu cảm khác như ánh mắt, cử chỉ, nét mặt giữa Điều tra viên với bị can nhằm thu thập chứng cứ do họ đưa ra góp phần giải quyết vụ án hình sự [13, tr. 275]. Theo đó, có thể thấy, hỏi cung bị can là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa bị can và ĐTV trong khuôn khổ pháp luật. Dưới góc độ tâm lí học, hỏi cung bị can là được hiểu là quá trinh nhận thức gián tiếp của CQĐT, Điều tra viên về vụ án thông qua tài liệu, thông tin mà bị can cung cấp. Nói cách khác, hoạt động hỏi cung là một dạng hoạt động phức tạp gồm hai quá trình độc lập tương đối: Quá trình khai thác thông tin và quá trình nhận thức đánh giá thông tin của Điều tra viên. Như vậy, hỏi cung bị can được xem xét, nghiên cứu ở nhiều khí cạnh khác nhau, mặc dù đưa ra những nhận định khác nhau về hỏi cung bị can nhưng trong các quan điểm đó cho thấy vị trí của hỏi cung bị can là một trong những biện pháp điều tra cơ bản của giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Mục đích của hỏi cung bị can là thu thập và mô tả theo trình tự TTHS thật đầy đủ, chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. Đặc biệt chú ý, trong quá trình hỏi cung cần kiểm tra những tài liệu là cơ sở để khởi tố bị can, làm rõ động cơ và mục đích phạm tội, những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tội phạm. Thực tiễn điều tra cho thấy, hỏi cung bị can là một biện pháp khá phức tạp và nhạy cảm. Bởi để hỏi cung mang lại hiệu quả, thu được chứng cứ có giá trị chứng minh cao thì ngoài việc hoạt động này phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, còn cần phải có sự kết hợp với các biện pháp nghiệp vụ, tác động trực tiếp đến tâm lý bị can trong quá trình hỏi cung. Việc tác động tâm lý bị can, nắm bắt được tâm lý bị can giúp cho quá trình hỏi cung đạt được hiệu quả cao, nhằm thu được lời khai đúng và đầy đủ.
  • 17. 10 Vì vậy, từ việc nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS, tác giả đưa ra khái niệm về hỏi cung bị can như sau: “Hỏi cung bị can là một biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên và những người có thẩm quyền khác tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị can nhằm mục đích thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”. 1.1.2. Nhiệm vụ của hỏi cung bị can Thứ nhất, thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng vụ án hình sự. Quá trình chứng minh trong TTHS là quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Trong đó thu thập chứng cứ là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và không thể thiếu của quá trình chứng minh. Nếu không có thu thập chứng cứ, thì cũng không có kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Điều đó lý giải tại sao vấn đề chứng cứ nói chung và vấn đề thu thập chứng cứ nói riêng luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập pháp mỗi nước khi xây dựng Bộ luật TTHS. Thu thập chứng cứ là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm tìm ra và thu giữ những sự kiện chứng minh hoặc những nguồn chứng cứ theo đúng trình tự, thủ tục luật định, để từ đó khai thác những sự kiện chứng minh. Xét trên góc độ thông tin, thì phát hiện, thu thập chứng cứ là quá trình thu thập thông tin để làm căn cứ xác định sự thật của vụ án. Phát hiện, thu thập chứng cứ vừa là hoạt động mang tính khoa học, vừa mang tính pháp lý nên quá trình phát hiện, thu thập chứng cứ vừa phải quán triệt những nguyên tắc, quy luật của nhận thức, vừa phải bảo đảm tính pháp lý, hay nói cách khác là phải khách quan và phải tuân thủ đúng quy định về trình tự, thủ tục của Bộ luật TTHS.
  • 18. 11 Để thu thập chứng cứ trong giai đoạn, cơ quan có thẩm quyền được phép tiến hành nhiều biện pháp điều tra khác nhau, trong đó có biện pháp hỏi cung bị can. Pháp luật tố tụng hình sự quy định chủ thể, trình tự, thủ tục hỏi cung… nhằm đạt được mục đích là thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắng vụ án hình sự. Là chủ thể của tội phạm, bị can là chủ sở hữu một lượng thông tin tương đối lớn về vụ án. Hơn ai hết bị can là người biết rõ về toàn bộ quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu hành vi phạm tội, những mục đích, động cơ đã thúc đẩy bị can phạm tội; những công cụ, phương tiện, thủ đoạn phạm tội, phương pháp đã được bị can sử dụng khi thực hiện hành vi phạm tội, những tài sản đã chiếm đoat được…Vì vậy, khi hỏi cung bị can, Điều tra viên cần áp dụng mọi biện pháp mà pháp luật cho phép để có thể thu thập được tất cả những thông tin mà bị can biết, có liên quan đến vụ án nhằm làm rõ nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can, lập hồ sơ đề nghị xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thứ hai, tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Hiến pháp năm 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất, lần đầu tiên đã quy định nguyên tắc về giới hạn quyền tại khoản 2, Điều 14: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [29]. Ở nước ta, quyền con người luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Tiếp tục đảm bảo quyền con người đã được ghi nhận tại các bản Hiến pháp trước đây và Hiến pháp hiện hành, Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra
  • 19. 12 tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa” [30]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 khẳng định tại khoản 2 Điều 72 khẳng định:“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [29], do vậy bị can vẫn có đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân mà các quyền này phải được tôn trọng và đảm bảo thực hiện đầy đủ. Do chưa được coi là có tội nên các cơ quan tiến hành tố tụng không được đối xử với bị can, bị cáo như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam chẳng hạn .Để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo thực sự, pháp luật TTHS đòi hỏi những chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện trách nhiệm của mình trong phạm vi pháp luật quy định, không được làm tùy tiện, vượt khỏi phạm vi giới hạn của luật dẫn đến việc xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thực hiện tốt nhiệm vụ này, hoạt động hỏi cung cần phải đảm bảo yêu cầu: Bảo đảm khi tiến hành hỏi cung, thu thập chứng cứ phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục luật định, không được áp dụng các biện pháp xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân như bức cung, nhục hình… Khoản 2 Điều 49 Bộ luật TTHS quy định: “Bị can có quyền trình bày lời khai của mình” [30]. Chính vì vậy, trong bất kỳ trường hợp nào thì CQĐT cũng cần phải tôn trọng quyền được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua lời khai của chính bị can - người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định sự thật một cách khách quan, không phiến diện. Đặc biệt CQĐT không được phép dùng các biện pháp trái pháp luật để buộc bị can phải khai báo. Điều đó sẽ dẫn đến sai lầm trong kết quả điều tra vụ án. Và nghiêm trọng hơn là việc làm đó của CQĐT đã vi phạm pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can
  • 20. 13 Thứ ba, những nhiệm vụ mang tính đặc trưng riêng của biện pháp hỏi cung bị can. Căn cứ vào yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều tra, để thu thập các tình tiết về nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, khi tiến hành hỏi cung, một mặt chủ thể hỏi cung cần phải triệt để giải quyết những nhiệm vụ chung mà Bộ luật TTHS đã đặt ra, mặt khác cần phải giải quyết tốt những nhiệm vụ cụ thể mang tính đặc trưng riêng đó là: Phát hiện đồng bọn để kịp thời truy bắt, phát hiện những vật chứng còn cất giấu để kịp thời thu giữ, phát hiện những âm mưu và hành động chuẩn bị gây án hay đang gây án để kịp thời ngăn chặn; Làm rõ nội dung vụ án, vai trò, vị trí và mức độ phạm tội của từng bị can, thủ đoạn gây án và che giấu tội phạm, động cơ và mục đích phạm tội để lập hồ sơ đề nghị truy tố; Làm rõ những nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm và những sơ hở thiếu sót trong hoạt động điều tra để có biện pháp khắc phục, ngăn chặn [22, tr.176]. Như vậy, để thực hiện nhiệm vụ trên, pháp luật TTHS quy định cụ thể, rõ ràng tạo căn cứ pháp lí vững chắc, có hiệu quả cho hoạt động của chủ thể hỏi cung và đối tượng hỏi cung. Các quy định của pháp luật về biện pháp này là căn cứ để CQĐT, Viện kiểm sát ý thức rõ phạm vi, mức độ quyền hạn của mình; giúp cho bị can nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình để họ có thể bảo vệ quyền và thực hiện nghĩa vụ. Bộ luật TTHS quy định về chủ thể và đối tượng, trình tự, thủ tục hỏi cung... Quy định này xác định trình tự tố tụng thống nhất đối với mọi vụ án và là căn cứ pháp lí để CQĐT, Viện kiểm sát tiến hành hỏi cung một cách thống nhất và đúng pháp luật. Để đạt được mục đích là nhằm thu thập chứng cứ, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, xuất phát từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự đòi hỏi phải có sự thống nhất về trình tự hỏi cung, cho nên Bộ luật TTHS quy định trình tự (trật tự trước sau), thủ tục (yêu cầu phải đạt được về
  • 21. 14 hình thức pháp lý, các biên bản hỏi cung phải lập như thế nào, việc lập biên bản phải có mặt ai…), thời gian tiến hành hỏi cung…Đồng thời Bộ luật TTHS đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên phải chấp hành nghiêm chỉnh những quy định đó thì mới thừa nhận tính hợp pháp, đúng đắn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Để tiến hành hỏi cung bị can, Nhà nước quy định Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác có thẩm quyền hỏi cung. Vì vậy, để có thể phát huy sức mạnh của những chủ thể này, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả, tránh chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau, Bộ luật TTHS không những có quy định chung về nhiệm vụ, quyền hạn của những chủ thể này mà còn quy định cụ thể về nhiệm vụ của các chủ thể này trong hoạt động hỏi cung. Để đảm bảo hiệu quả tính khách quan, toàn diện của hỏi cung, trong quá trình hỏi cung, chủ thể hỏi cung cần triệt để thực hiện và giải quyết tốt những nhiệm vụ này. Việc thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể này, trong quá trình hỏi cung không những đảm bảo tính nhanh chóng, khách quan, toàn diện và đầy đủ của hoạt động điều tra mà còn thể hiện tính phòng ngừa tích cực của biện pháp này nói riêng và hoạt động điều tra nói chung. 1.2. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc của Bộ luật tố tụng hình sự trong hỏi cung bị can Các hoạt động TTHS đều phải tuân thủ triệt để những nguyên tắc luật định được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, giai đoạn điều tra vụ án hình sự – một trong những giai đoạn của quá trình TTHS cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của các nguyên tắc này. Tuy nhiên, xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng của hoạt động điều tra trong đó có hoạt động hỏi cung bị can trong việc giải quyết vụ án hình sự; Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự. Thiếu hoạt động điều tra, Viện kiểm sát không có cơ sở để truy tố, tòa án không có cơ sở để xét xử vụ án trong đó biện pháp điều tra hỏi cung
  • 22. 15 bị can “là công tác chính yếu trong giai đoạn điều tra tội phạm, là một khâu rất quan trọng có liên quan trực tiếp đến quyền tự do thân thể, danh dự và nhân phẩm của công dân [33, tr. 57] nên các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can phải triệt để tuân thủ và đảm bảo thực hiện những nguyên tắc của Bộ luật TTHS. 1.2.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc hiến định đã được quán triệt trong mọi hoạt động điều tra nói chung và hoạt động TTHS nói riêng của các cơ quan Nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, hỏi cung bị can - một biện pháp trong giai đoạn điều tra, giải quyết vụ án hình sự cũng không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của luật này” [30]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, do những đặc thù cơ bản của biện pháp điều tra này nên việc vận dụng nguyên tắc pháp chế XHCN có những biểu hiện đặc thù riêng biệt. Theo đó, nguyên tắc trên chỉ được đánh giá là đã thực sự được tôn trọng và bảo đảm thực hiện trong quá trình hỏi cung bị can khi Điều tra viên quán triệt một số vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can, Điều tra viên phải tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục về việc triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi cung bị can và về việc lập biên bản hỏi cung đã được quy định trong các Điều 129, 130, 131, 132 Bộ luật TTHS hiện hành. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ, trong mọi trường hợp hỏi cung bị can phải được tiến hành theo đúng trình tự và thủ tục được quy định trong Bộ luật TTHS. Cụ thể hỏi cung do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể tiến hành hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi ở của người đó, vào thời gian ban ngày, trừ trường hợp không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Bị can khai báo trước Điều tra viên, trừ trường hợp theo
  • 23. 16 quy định của pháp luật quy định phải có mặt của người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can chưa thành niên, người phiên dịch. Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 49 Bộ luật TTHS. Trong trường hợp cần thiết, Điều tra viên phải kiểm tra lai lịch bị can và thu thập những tài liệu về lai lịch của bị can. Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người, tuy nhiên không để cho họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình. Mỗi lần hỏi cung đều phải lập biên bản theo đúng luật định. Trong biên bản hỏi cung phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa chữa biên bản thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận. Nếu biên bản có nhiều trang thì bị can ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng kí xác nhận vào lời khai đó. Nếu cuộc hỏi cung được ghi âm, thì sau khi hỏi cung phải phát lại để Điều tra viên và bị can cùng nghe. Sau đó phải lập Biên bản để ghi lại nội dung cuộc hỏi cung, Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận. Trong trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cùng ký vào từng trang của biên bản hỏi cung. Thứ hai, khi tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải đảm bảo tôn trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định tại Điều 49 Bộ luật TTHS hiện hành như bị can có quyền biết mình bị khởi tố về tội gì, có quyền đưa ra chứng cứ, đưa yêu cầu, đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của pháp luật, có quyền tự bào chữa,… Ngoài ra khi tiến hành hỏi cung đối tượng là trẻ vị thành niên phải có mặt người đại diện hợp pháp của bị can.
  • 24. 17 Những quy định nêu trên không chỉ đơn thuần là yêu cầu của pháp luật mà còn có ý nghĩa sâu sắc. Chính vì vậy, Điều tra viên cần vận dụng những yêu cầu nêu trên của pháp luật một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với những tình huống cụ thể, kết hợp với việc áp dụng những chiến thuật hỏi cung phù hợp để đảm bảo hiệu quả của biện pháp điều tra này. 1.2.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng Yêu cầu cơ bản của việc giải quyết vụ án hình sự là xác định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi phải làm rõ sự thật của vụ án xảy ra. Trách nhiệm này thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều 10 Bộ luật TTHS quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội” [30]. Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra nhằm thu thập và mô tả theo trình tự TTHS thật đầy đủ, chính xác, khách quan lời khai của bị can về vụ án hình sự, hành vi phạm tội của bị can cùng đồng bọn và những tin tức, tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. Các chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải thực hiện đúng những quy định của Bộ luật TTHS để xác định sự thật của vụ án, lời khai của bị can một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội. Đồng thời, thực hiện nguyên tắc này, hoạt động hỏi cung đòi hỏi ĐTV phải tôn trọng sự thật khách quan, không tùy tiện suy diễn chủ quan theo ý muốn của mình, “nghiêm cấm ĐTV bức dung hoặc dùng nhục hình dưới bất kì hình thức nào” - Khoản 4 Điều 131 Bộ luật TTHS. Đặt nguyên tắc này cho hoạt động hỏi cung là do yêu cầu của pháp luật và thực tiễn hoạt động điều tra. Bởi vì, trong quá trình hỏi cung bị can nếu Điều tra viên bức cung hoặc dùng nhục hình đối với bị can không những dẫn đến không tôn trọng sự thật,
  • 25. 18 làm mất tính khách quan của hoạt động điều tra mà còn xâm phạm đến quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Nguyên tắc này muốn được thực hiện tốt thì đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền hỏi cung phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ và làm chủ được nghề nghiệp, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lí, có thói quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lí. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bộ luật TTHS không quy định bị can phải khai đúng sự thật; mặt khác bị can cũng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can có tội hay không thì trong quá trình hỏi cung Điều tra viên phải dựa trên những lời khai khách quan, đúng sự thật, không được thiên vị, cảm tình cá nhân. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can kết hợp với những chứng cứ khác thì Điều tra viên mới xác định bị can có tội hay không có tội. Điều tra viên là chủ thể chính tiến hành hoạt động hỏi cung, để sự thật của vụ án được xác định khách quan, chính xác đòi hỏi cán bộ điều tra phải thật sự vô tư, khách quan trong khi làm nhiệm vụ. Điều 14 Bộ luật TTHS quy định: “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên,…. không được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình”[30]. Theo tinh thần của điều luật cho thấy, khi tiến hành hỏi cung đòi hỏi Điều tra viên phải giữ được vô tư khi làm nhiệm vụ của mình trong mọi trường hợp. Họ phải tôn trọng sự thật, tôn trọng pháp luật, tiến hành công việc của mình với thái độ thật sự công tâm, khách quan, vô tư, không được để những quan hệ, những tình cảm cá nhân chi phối vào công việc, không được có thái độ kiên định hay định kiến đối với bất kì bị can nào. Việc bảo đảm nguyên tắc này là điều kiện cần thiết cần để thực hiện
  • 26. 19 một số nguyên tắc cơ bản khác như nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa; xác định sự thật của vụ án; bảo đảm quyền bào chữa của bị can. 1.2.3. Bảo đảm thực hiện các nguyên tắc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can * Thứ nhất, bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của TTHS, là hình thức biểu hiện ưu thế của công lý nhằm đảm bảo quyền dân chủ trong hoạt động tố tụng nói chung cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của bị can nói riêng. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc quyền bào chữa của bị can là điều kiện cần thiết giúp CQĐT xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng là một trong những quyền cơ bản của bị can. Đó là quyền mà bị can tự mình hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình nhằm chứng minh cho sự vô tội, làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp khác trong quá trình tố tụng hình sự. Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trong hoạt động này chủ yếu thuộc về phía CQĐT. Để bảo đảm thực hiện quyền này, CQĐT phải tạo những điều kiện cho bị can tự mình hoặc nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật, bị can có quyền tự bào chữa cho mình. Khi tự bào chữa, họ có quyền vận dụng tất cả các quyền mà pháp luật quy định để chứng minh sự vô tội của mình hoặc chứng minh những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị can, hơn ai hết là người biết về các tình tiết liên quan đến vụ án nói chung và những tình tiết liên quan tới họ nói riêng. Vì vậy, việc pháp luật tố tụng quy định bị can có quyền tự bào chữa là một trong những đảm bảo pháp lý hết sức cần thiết giúp họ có thể đưa ra những chứng cứ và lý lẽ biện minh, gỡ tội cho mình.
  • 27. 20 Để đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa của bị can trong hỏi cung bị can, pháp luật TTHS quy định: Bị can có quyền trình bày lời khai của mình; Trong khi hỏi cung, bị can có thể thú nhận một phần hay toàn bộ tội lỗi của mình. Tuy nhiên, lời nhận tội của bị can phải được kiểm tra, đối chiếu với các chứng cứ khác của vụ án; Bị can có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Bị can có quyền cung cấp những tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án, CQĐT khi nhận các đồ vật…. Bên cạnh việc đảm bảo thực hiện quyền tự bào chữa của bị can, CQĐT còn phải tạo điều kiện cho bị can nhờ người khác thực hiện quyền bào chữa cho mình. Khoản 2 Điều 58 Bộ luật TTHS quy định cho người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu được Điều tra viên đồng ý thì người bào chữa có quyền đặt ra câu hỏi đối với bị can để tạo điều kiện cho bị can khai báo về hành vi của mình. Thông thường, nếu được Điều tra viên đồng ý thì người bào chữa thường đặt các câu hỏi về những tình tiết chứng minh bị can vô tội hoặc những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ mà vì lý do nào đó mà Điều tra viên không hỏi đến. Người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung để có mặt khi hỏi cung bị can. Đây là quyền rất quan trọng để người bào chữa thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. CQĐT cần phải thông báo kịp thời cho người bào chữa về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để người bào chữa sắp xếp công việc, tham gia vào cuộc hỏi cung. Như vậy, sự tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung không chỉ có ý nghĩa đối với người bào chữa, với bị can mà còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, để đảm bảo cho việc tham gia của người bào chữa vào quá trình hỏi cung pháp luật quy định người bào chữa có quyền đề nghị CQĐT thông báo thời gian, địa điểm hỏi cung. Quy định này nhằm rằng buộc trách nhiệm của CQĐT trong việc đảm bảo cho người bào chữa tham gia hỏi cung.
  • 28. 21 * Thứ hai, bảo đảmthực hiện tiếng nói và chữ viết dùng trong hỏi cung bị can Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, tòa án phải bảo đảm cho công dân nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc dù tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa án, đồng thời để việc tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự trong đó có hoạt động hỏi cung bị can đạt hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để những người tham gia tố tụng góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Bộ luật TTHS quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản với nội dung: Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là tiếng Việt Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có người phiên dịch. Theo quy định trên, trong quá trình hỏi cung bị can, ngôn ngữ chính thức dùng trong hoạt động hỏi cung bắt buộc là phải bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, bên cạnh đó trong trường hợp bị can không sử dụng được tiếng Việt như bị can là người dân tộc thiểu số, người nước ngoài… thì họ có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, trong trường hợp này cần có người phiên dịch.Theo đó, Điều 132 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp hỏi cung bị can có người phiên dịch thì Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch theo quy định đồng thời giải thích cho bị can biết được quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch” [30]. Như vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can việc đảm bảo quyền bào chữa và tiếng nói, chữ viết có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo quyền con người của bị can, giúp họ hiểu rõ quyền của mình đồng thời góp phần nhanh chóng kịp thời giải quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án. Trên đây là những nguyên tắc quan trọng trong hoạt động hỏi cung bị can, những chủ thể có thẩm quyền đặc biệt là Điều tra viên phải nắm vững
  • 29. 22 những nguyên tắc này và vận dụng sáng tạo chúng để có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.3. Khái quát các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về hỏi cung bị can 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988. Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, chúng ta mới có hai Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và 2003, trước thời gian này, nước ta chủ yếu trong giai đoạn chiến tranh và thời kì bao cấp sau chiến tranh. Các quy định về tố tụng hình sự chủ yếu dựa trên các sắc lệnh và các pháp lệnh được ban hành một cách riêng rẽ, chưa đầy đủ và thống nhất do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt và gặp nhiều khó khăn. Do vậy, những quy định về hỏi cung bị can nói riêng và giai đoạn điều tra nói riêng cũng không nằm ngoài sự phát triển này. Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với nhân dân toàn thế giới về độc lập, tự chủ của nước Việt Nam dân chủ công hòa. Trong chế độ mới, mọi công dân không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng, giàu nghèo đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Nông dân nghèo chiếm đại đa số trong xã hội được giảm tô, giảm tức. Lần đầu tiên, người lao động được làm chủ vận mệnh của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi nhân tài tích cực góp phần xây dựng đất nước. Tệ tham ô, nạn tham nhũng của những “quan cách mạng” chớm nhú đã bị lên án, đấu tranh. Chính sách tăng gia sản xuất đã chấm dứt nạn đói khủng khiếp. Quân đội quốc gia và dân quân, tự vệ là chỗ dựa và niềm tin của chế độ mới, nhanh chóng phát triển đã chứng tỏ tinh thần và sức mạnh của mình trên chiến trường. Trong thời kì mới thành lập nước, chính quyền non trẻ còn rất nhiều việc phải làm, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là kiện toàn hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn, không thể gấp rút hoàn thành hệ
  • 30. 23 thống pháp luật đầy đủ. Vì lẽ đó, ngày 10/10/1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 47 về việc cho đến khi ban hành bộ luật pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hành ở Bắc, Trung và Nam Bộ vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không trái với những điều thay đổi trong ấn định trong Sắc lệnh này đồng thời xóa bỏ toàn bộ những văn bản quy định đặc quyền đặc lợi của thực dân, tay sai, phong kiến trên đất nước ta. Liên quan đến hoạt động điều tra, ngày 21/2/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 23/NV, thành lập Việt Nam công vụ thuộc Bộ nội vụ trên cơ sở hợp nhất Sở cảnh sát với Sở Liên phong trên tòa quốc. Việt Nam công vụ có nhiệm vụ tìm kiếm và tập trung các tin tức, tài liệu liên quan đến sự an toàn của quốc gia hoặc bề trong, hoặc bề ngoài, đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những hành động có thể làm rối việc trị an và trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động đó là do người Việt Nam hay người nước ngoài, điều tra về những hành động trái phép nói trên và truy tìn can phạm để giúp tòa án trong sự trừng trị. Hay Sắc lệnh số 33A ngày 13/9/1945 có quy định Ty Liêm phóng khi bắt những người nguy hiểm cho nền dân chủ cộng hòa Việt Nam để đưa đi an trí phải làm ngay tờ trình gửi Ủy ban hành chính các miền, trong đó trình bày lý do, chứng cứ và thời hạn đề nghị đưa đi an trí, đồng thời phải thông báo cho các Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. Ngoài ra còn có Sắc lệnh số 33B ngày 13/9/1945 yêu cầu Ty Liêm phóng hoặc sở cảnh sát nếu bắt người thì trong vòng 24 giờ phải lập biên bản để tha ngay hoặc chuyển sang tòa án quân sự hay tòa án tư pháp để giải quyết. Đặc biệt, pháp luật thời kì này đã đề cập đến bị can và hoạt động hỏi cung bị can. Cụ thể, trong sắc lệnh số 13 năm 1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán quy định tại Điều 5: “Khi bắt người trong hai trường hợp kể trên, ban tư pháp phải lập biên bản hỏi cung và giải bị can lên ngay Tòa án trên trong hạn 24 giờ là cùng ngày”.
  • 31. 24 Như vậy, có thể nói, trong giai đoạn trước năm 1988 các quy định pháp lí về hoạt động điều tra hình sự trong đó có biện pháp điều tra hỏi cung bị can được ban hành với số lượng chưa lớn. Chủ yếu dưới dạng các văn bản dưới luật, nội dung chưa đầy đủ, phần lớn mới chỉ quy định về tổ chức của CQĐT và thẩm quyền điều tra. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn cho thấy hoạt động lập pháp tố tụng hình sự thời kì này còn rất nhiều nhiệm vụ khá nặng nề phía trước. 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 1988 đến năm 2003 Bộ luật TTHS đầu tiên ra đời năm 1988 là một điểm mốc lớn trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có tác động tích cực trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra trong đó có biện pháp hỏi cung bị can nói riêng. Bộ luật đã dành 6 chương với 49 điều luật để quy định những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động điều tra. Phần lớn, các điều luật này được dành để quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể trong đó có biện pháp hỏi cung. Có thể nói, các quy định của Bộ luật TTHS về hỏi cung bị can so với giai đoạn trước đây đã được mở rộng hơn: Trong tình hình cách mạng mới, việc Bộ luật TTHS năm 1988 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý trình tự, thủ tục hỏi cung bị can, chủ thể của hỏi cung bị can là Điều tra viên, quy định về việc nghiêm cấm bức cung, dùng nhục hình đối với bị can,...(Điều 107 Bộ luật TTHS năm 1988) đã đánh dấu bước tiến quan trọng trong lịch sử ngành lập pháp ở nước ta về vấn đề này. Đặc biệt, lần đầu tiên Bộ luật TTHS năm 1988 đã dành hẳn một Chương 31 là thủ tục đặc biệt quy định về thủ tục về những vụ án mà bị can bị cáo là người chưa thành niên trong đó có quy định về HCBC người chưa thành niên. Khi tiến hành hỏi cung nói riêng và các hoạt động điều tra nói chung đối với bị can là người chưa thành niên, pháp luật tố tụng cũng đã quy định rất chặt chẽ về Điều tra viên,
  • 32. 25 Kiểm sát viên phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học,về khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng và chống tội phạm của người chưa thành niên. Bộ luật TTHS năm 1988 được sửa đổi, bổ sung vào năm 1990 với nhiều cải cách, tuy nhiên bộ luật này được xây dựng dựa trên nền tảng nghiên cứu từ 1974 nên chịu nhiều ảnh hưởng của chế độ bao cấp nên có những chế định không còn phù hợp với thời điểm hiện tại trong giai đoạn nền kinh tế thị trường. Sau đó, trên tinh thần của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị và những dự thảo luật tố tụng hình sự đã xây dựng thành công Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đang có hiệu lực đến nay. Cùng với những quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 hiện hành, các nhà lập pháp còn thể hiện một bước tiến bộ hơn nữa trong cải cách tư pháp đó là ngoài việc quy định những vấn đề trên, Điều 131 của Bộ luật còn bổ sung thêm thủ tục hỏi cung bị can của Kiểm sát viên nhằm hạn chế oan, sai trong TTHS; Theo đó, Trong giai đoạn điều tra của CQĐT, VKS nếu thấy cần thiết có thể tiến hành hỏi cung bị can theo Khoản 3 Điều 131. Đây là điểm mới và rất cần thiết so với Bộ luật năm 1988, là một hoạt động tố tụng quan trọng mà VKS dựa vào đó để nắm chắc hơn hoạt động điều tra. Trong Bộ luật TTHS 2003 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 2003 sửa đổi, bổ sung năm 2009, bên cạnh những thay đổi lớn về mô hình tổ chức CQĐT, thẩm quyền điều tra, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của thủ trưởng CQĐT và Điều tra viên còn nhiều quy định mới được bổ sung nhằm đáp ứng của việc nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự, tăng thời hạn điều tra Ngoài ra, việc bổ sung, tăng thẩm quyền cho Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm được tiến hành một số hoạt động điều tra ban đầu: khám nghiệm hiện trường, khám xét, bắt người phạm tội, tiến hành các hoạt động điều tra khác đó có hoạt động hỏi cung bị can cũng như việc bổ sung thêm
  • 33. 26 quyền hạn được tiến hành một số hoạt động điều tra cho Lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân;... Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp lý về biện pháp điều tra hỏi cung bị can về cơ bản ngày một hoàn thiện, đáp ứng khá kịp thời đòi hỏi của thực tiễn điều tra hình sự, góp phần đáng kể vào những thành tựu mà CQĐT đã đạt được trong thời gian qua. 1.4. Hỏi cung bị can của pháp luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới 1.4.1. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Bộ luật TTHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua tại kỳ họp thứ hai, đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7 năm 1979, được sửa đổi ngày 17 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành đến nay.Các điều quy định trong Mục 2 đến Mục 8 của Chương 2 phần II trong Bộ luật TTHS Trung Quốc đã chỉ rõ các biện pháp điều tra: thẩm vấn nghi can, hỏi người làm chứng, điều tra và thẩm cứu, khám xét, bắt giữ tài liệu đồ vật làm chứng, truy nã, giám định trong đó biện pháp thẩm vấn nghi can được quy định tại Mục 2, là biện pháp điều tra đầu tiên trong số các biện pháp điều tra mà khi điều tra vụ án thì CQĐT phải tiến hành. Trong Bộ luật TTHS Trung Quốc không sử dụng thuật ngữ “hỏi cung bị can” mà thay vào đó là “thẩm vấn nghi can”. Tuy nhiên, Bộ luật cũng không định nghĩa thế nào là thẩm vấn nghi can mà chỉ có điều luật cụ thể quy định trình tự, thủ tục thẩm vấn nghi can. Theo đó, khi thẩm vấn nghi can, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an phải tiến hành thẩm vấn nghị can. Khi thẩm vấn phải có từ 2 điều tra viên trở lên tham gia. Nghi can không cần phải bắt hoặc giam giữ có thể bị triệu tập đến một địa điểm chỉ định trong thành phố hoặc thị trấn nơi người phạm tội cư trú
  • 34. 27 hoặc thẩm vấn tại nơi cư trú của người này. Tuy nhiên, người thẩm vấn phải xuất trình giấy tờ do Viện kiểm sát nhân dân hoặc cơ quan công an cấp.Thời điểm thẩm vấn từ lúc việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện không quá 12 giờ. Không được lợi dụng việc triệu tập hoặc buộc phải trình diện để giam giữ nghi can. Khi thẩm vấn một nghi can, Điều tra viên phải hỏi nghi can liệu có thực hiện bất kỳ hành vi phạm tội nào hay không, và để cho họ trình bày các tình tiết phạm tội hoặc giải thích sự vô tội của mình; và sau đó có thể hỏi thêm. Nghi can phải trả lời thành thật các câu hỏi của điều tra viên, nhưng có quyền từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào không liên quan đến vụ án. Trong khi thẩm vấn một nghi can bị câm hoặc điếc, cán bộ có khả năng sử dụng tốt ngôn ngữ dấu hiệu phải tham gia và những tình huống như vậy phải được ghi vào biên bản. Biên bản thẩm vấn phải được đưa cho nghi can xem; nếu nghi can không thể đọc, biên bản phải được đọc cho họ nghe. Nếu thấy biên bản còn thiếu hoặc chưa chính xác, nghi can có thể bổ sung hoặc sửa chữa. Khi nghi can công nhận biên bản không có sai sót thì phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đó. Điều tra viên cũng ký tên vào biên bản. Nếu nghi can yêu cầu viết một bản tường trình thì phải được phép làm điều này. Khi cần, Điều tra viên cũng có thể yêu cầu nghi can viết bản tường trình. Sau khi nghi can bị CQĐT thẩm vấn lần đầu tiên hoặc từ ngày bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì nghi can có thể chỉ định một luật sư tư vấn pháp lý và thực hiện việc khiếu nại, tố cáo thay mặt mình. Nếu nghi can bị bắt, luật sư được chỉ định có thể thay mặt họ để yêu cầu có người bảo lĩnh trong giai đoạn chờ xét xử. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, nghi can phải có được sự phê chuẩn của cơ quan điều tra đối với việc chỉ định luật sư. Luật sư được chỉ định có quyền tìm kiếm từ cơ quan điều tra các thông tin về tội phạm bị tình nghi, và có thể gặp gỡ nghi can trong trại giam để tìm
  • 35. 28 hiểu vụ án. Khi luật sư gặp gỡ nghi can trong trại giam, căn cứ vào tính nghiêm trọng của tội phạm và nếu thấy cần thiết thì cơ quan điều tra có thể cử người tham gia cuộc gặp. Nếu vụ án liên quan đến bí mật nhà nước, trước khi gặp nghi can, luật sư phải có sự phê chuẩn của CQĐT. Như vậy, xem xét những quy định về trình tư, thủ tục thẩm vấn nghi can của CQĐT trong Bộ luật TTHS Trung Quốc và hỏi cung bị can trong Bộ luật TTHS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng. Phân tích về những nét tương đồng này, chủ yếu do hai nước đều là nước có chế độ chế độ xã hội chủ nghĩa, nền tố tụng hình sự đều chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền tố tụng hình sự của Liên Xô cũ. 1.4.2. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga Bộ luật TTHS Liên Bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày 22/12/2001 và được Hội đồng Liên Bang Nga phê chuẩn ngày 5/12/2001 gồm 5 phần và chia thành 18 chương. Phần thứ nhất - Những quy định chung ; Phần thứ hai – Thủ tục tố tụng trước khi xét xử; Phần thứ ba – Thủ tục xét xử; Phần thứ tư – Thủ tục đặc biệt; Phần thứ năm – Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Bộ luật TTHS Liên Bang Nga có nhiều đặc điểm gần với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nhất. Do đó, khi nghiên cứu các biện pháp điều tra cho thấy, khi giải quyết vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra, CQĐT tiến hành các biện pháp: khởi tố bị can, hỏi cung bị can, khám xét, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, khám xét, thu giữ, tạm giữ bưu kiện, bưu phẩm, kiểm tra và ghi âm các cuộc đàm thoại. Trong đó, biện pháp hỏi cung bị can được quy định tại Mục 23 của Chương VIII – Điều tra. Bộ luật TTHS Liên Bang Nga cũng quy định chủ thể tiến hành hỏi cung là Dự thẩm viên - là người có chức vụ, quyền hạn, có quyền tiến hành điều tra dự thẩm đối với vụ án trong phạm vi thẩm quyền do Bộ luật TTHS Liên Bang Nga quy định đồng thời quy định về trình tự, thủ tục hỏi cung như sau:
  • 36. 29 Dự thẩm viên tiến hành hỏi cung bị can ngay sau khi đã đưa ra lời buộc tội đối với họ. Khi bắt đầu hỏi cung, Dự thẩm viên cần làm rõ bị can có nhận tội hay không, họ có mong muốn khai báo về bản chất việc buộc tội họ không và nếu có thì khai báo bằng ngôn ngữ nào. Trong trường hợp bị can từ chối khai báo thì Dự thẩm viên phải xác nhận việc này trong biên bản hỏi cung họ. Trường hợp người đó từ chối khai báo ở lần hỏi cung đầu tiên chỉ có thể được tiến hành theo yêu cầu của bị can. Mỗi lần hỏi cung bị can, Dự thẩm viên phải lập biên bản theo quy định. Trong biên bản lần hỏi cung đầu tiên phải ghi rõ những thông tin về nhân thân bị can, bao gồm: 1) Họ và tên; 2) Ngày, tháng, năm sinh và nơi sinh; 3) Quốc tịch; 4) Trình độ văn hoá; 5) Hoàn cảnh gia đình, các thành viên trong gia đình; 6) Nơi làm việc hoặc học tập, nghề nghiệp hoặc chức vụ; 7) Nơi cư trú; 8) Tiền án (nếu có); 9) Những thông tin khác có ý nghĩa đối với vụ án. Ở những biên bản những lần hỏi cung tiếp theo nếu không có thay đổi những thông tin về nhân thân bị can thì có thể chỉ cần ghi họ và tên bị can [7]. 1.4.3. Hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên Bang Đức Cộng hoà Liên bang Đức là một đất nước có truyền thống pháp luật lục địa lâu đời, thủ tục tố tụng hình sự của họ được xây dựng và áp dụng trên mô hình tố tụng thẩm vấn, xét hỏi. Trên cơ sở được xây dựng, hình thành từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước, trải qua quá trình dài hoàn thiện,
  • 37. 30 được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, cho đến nay Bộ luật TTHS của Đức có thể nói là một Bộ luật đồ sộ, công phu gồm 6 phần với khoảng gần 470 điều quy định cụ thể từng hoạt động, thủ tục trong trình tự tố tụng giải quyết VAHS. Ở Đức, cơ quan công tố là chủ thể tiến hành hoạt động điều tra nên họ không thành lập hệ thống CQĐT riêng biệt như quy định của luật TTHS Việt Nam. Việc kiểm soát điều tra thuộc thẩm quyền của thẩm phán thụ lí vụ án. Vì vậy, cơ quan công tố có trách nhiệm về toàn bộ hoạt động điều tra vụ án. Cơ quan công tố phải tiến hành điều tra ngay khi nhận được tin báo, tố giác về tội phạm. Khi vụ án được khởi tố, cơ quan công tố có quyền và trách nhiệm áp dụng tất cả các biện pháp của Bộ luật TTHS để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội của bị can, làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án. Trong quá trình điều tra, cơ quan công tố có trách nhiệm thu thập chứng cứ buộc tội và cả những chứng cứ gỡ tội để bảo đảm sự khách quan, công bằng, không thiên vị trong lĩnh vực tư pháp hình sự (Điều 161(II). Để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và hành vi phạm tội của bị can, làm rõ tất cả các tình tiết liên quan đến vụ án, trong quá trình điều tra, cơ quan công tố có quyền sử dụng biện pháp lấy lời khai bị can. Điều 163a (II) của Bộ luật quy định về việc lấy lời khai bị can. “(1) Bị can phải được lấy lời khai chậm nhất là trước khi kết thúc điều tra, trừ khi thủ tục tố tụng dẫn tới việc đình chỉ. Đối với những vấn đề đơn giản, có thể cho người đó cơ hội có ý kiến bằng văn bản. (2) Nếu bị can có yêu cầu thu thập chứng cứ để phục vụ việc bào chữa, chứng cứ đó sẽ được thu thập nếu đó là chứng cứ quan trọng. (3) Bị can có nghĩa vụ có mặt tại Cơ quan Công tố khi được triệu tập. Điều 133 đến 136a, 168c khoản (1) và (5) sẽ được áp dụng với những sửa đổi phù hợp. Khi có yêu cầu của bị can, Toà án sẽ quyết định tính hợp pháp của việc triệu tập người đó; Điều 161a khoản (3), câu hai đến câu bốn sẽ được áp dụng...”[5].
  • 38. 31 Bên cạnh các biện pháp khám nghiệm tử thi; giải phẫu tử thi; nhận dạng,… thì lấy lời khai bị can là một trong những biện pháp điều tra hiệu quả, có khả năng thu nhiều tin tức nhất về vụ án đang điều tra cũng như các tin tức khác mà cơ quan công tố cần thu thập. Bộ luật TTHS Đức cũng quy định về sự tham gia của người bào chữa trong quá trình lấy lời khai của bị can. Quyền có người bào chữa được quy định tại Điều 137 Bộ luật TTHS Đức cho phép bị can có quyền nhận được sự trợ giúp pháp lý từ người bào chữa trong quá trình tố tụng mà không có sự hạn chế. Theo quy định hiện hành của Bộ luật TTHS Đức, họ được thông báo quyền giữ im lặng và quyền được tư vấn bởi người bào chữa ở bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, thậm chí trước khi tiến hành thủ tục thẩm vấn. Chính vì vậy, tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật TTHS Đức quy định: khi bị bắt giữ, bị can được khuyên nên im lặng nếu bị cảnh sát thẩm vấn và yêu cầu được gặp luật sư. Việc giữ im lặng cho đến khi nói chuyện với luật sư sẽ không bị coi là tình tiết chống lại người bị bắt. Như vậy, Bộ luật TTHS Đức quy định về sự có mặt của người bào chữa khi tiến hành lấy lời khai bị can và một số quyền khác là sự đảm bảo cần thiết cho quá trình điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật [24, tr 18]. Thông qua kết quả nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga, Liên bang Đức và Trung Quốc về hỏi cung bị can có thể thấy, Cộng hòa Đức, Nga, Trung Quốc đều là quốc gia có mô hình tố tụng hình sự khá tương đồng và phù hợp với Việt Nam, đặc biệt hiện nay, pháp luật TTHS của những nước này cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện nên việc tìm hiểu những quy định của pháp luật liên quan đến các biện pháp điều tra nói chung và biện pháp hỏi cung nói riêng là những kinh nghiệm tốt khi nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta. Nghiên cứu pháp luật TTHS của những nước này cho thấy, Bộ luật TTHS của Nga, Trung Quốc và Đức cũng như Bộ luật TTHS Việt Nam không đưa ra định nghĩa biện pháp điều tra này
  • 39. 32 là gì. Mặc dù, hình thức diễn đạt khác nhau: Bộ luật TTHS Trung Quốc quy định là thẩm vấn nghi can, TTHS Đức là lấy lời khai bị can, TTHS Nga là hỏi cung bị can nhưng đây đều là biện pháp điều tra quan trọng nhằm thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tôi và xác định các thiệt hại do tội phạm gây ra và những vấn đề khác có liên quan. Pháp luật TTHS các nước đó có điểm chung trong tương quan với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam khi quy định về hoạt động điều tra này, bên cạnh đó do xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội, tình hình tội phạm…ở những nước này khác nhau do đó, Bộ luật TTHS quy định về biện pháp này cũng có sự khác nhau có thể kể đến như quy định về: chủ thể hỏi cung, quyền của bị can trong quá trình hỏi cung… Vì vậy điều này có thể làm tư liệu quý báu để các nhà làm luật nước ta tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 hiện hành về hỏi cung bị can nói riêng và giai đoạn điều tra nói chung trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
  • 40. 33 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ HỎI CUNG BỊ CAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về hỏi cung bị can 2.1.1. Đối tượng của hỏi cung bị can Bị can là một chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Những quy định về nghĩa vụ, quyền hạn của bị can trong TTHS hợp thành một chế định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tổ chức điều tra vụ án hình sự nói chung và trong biện pháp điều tra hỏi cung bị can nói riêng. Hệ thống các quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự được gọi bởi một quan niệm tương đối là: vị trí pháp lý của bị can trong tố tụng hình sự. Hoạt động TTHS chính thức đặt ra khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, một chủ thể buộc xuất hiện phải tham gia kể từ khi điều tra, đến truy tố, xét xử, thi hành án và dĩ nhiên ở mỗi hoạt động hợp thành cụ thể của TTHS, mang một tên gọi khác nhau: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (phạm nhân)…Vì thế, quyền và nghĩa vụ của họ ở mỗi hoạt động nói trên có sự điều chỉnh nhất định của Bộ luật TTHS. Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách là bị can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý thì: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự”[39], còn trong Từ điển Tiếng Việt thì định nghĩa bị can được quy định một cách cụ thể hơn: “Bị can là người phạm tội hay tình nghi phạm tội đã bị khởi tố về hình sự” [40]. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan trọng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật TTHS năm 2003 thì: “Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự” [30] Khi một người bị khởi tố về hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, tuy nhiên điều đó không có nghĩa xác định họ là người có tội. Đây là vấn đề có
  • 41. 34 tính nguyên tắc. Vì Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 thì : “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [30]. Như vậy, theo quy định của Bộ luật TTHS hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình chỉ điều tra, VKS đình chỉ vụ án, TA đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can hoặc TA ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. 2.1.2. Chủ thể của hỏi cung bị can Trong một vụ án, có thể không có một trong những biện pháp như khám nghiệm, thu giữ vật chứng, lấy lời khai nhân chứng, bị hại…nhưng sử dụng biện pháp hỏi cung bị can là nhiệm vụ bắt buộc, không thể thiếu trong bất cứ giai đoạn nào của công tác điều tra (trừ trường hợp sau khi khởi tố thì bị can chết hoặc bỏ trốn). Chính vì vậy khoản 1 Điều 131 BLTTHS 2003 chỉ rõ: “việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can” [30]. Có thể thấy chủ thể chính và chủ yếu tiến hành hỏi cung là Điều tra viên – “là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự”; “Triệu tập và hỏi cung bị can” là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn chính của Điều tra viên trong giai đoạn điều tra. Bên cạnh việc tuân thủ theo những quy định của pháp luật, pháp luật TTHS còn đòi hỏi Điều tra viên cần phải có những tiêu chuẩn và phẩm chất nhất định để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Bởi vì, trong quá trình điều tra vụ án, Điều tra viên phải là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu tâm lý, có trình độ nghiệp vụ, pháp luật cao; vững vàng về chính trị, có thái độ khách quan, vô tư. Trong quá trình hỏi cung, Điều tra viên phải huy động khả năng, trí tuệ của mình để hướng điều tra, thu thập dấu vết, tin tức, tài liệu, chứng cứ của vụ án nhằm tìm ra chân lý, sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, trong hoạt động hỏi cung bị can, đòi hỏi Điều tra viên phải hết sức thận
  • 42. 35 trọng, nhưng cũng phải rất sáng tạo, quyết đoán và thể hiện trách nhiệm cũng như bản lĩnh nghề nghiệp cao khi đưa ra các quyết định. Hoạt động hỏi cung được đặc trưng bởi quan hệ tác động thường xuyên giữa Điều tra viên với bị can. Trong quá trình điều tra, để những người này khai báo đúng đắn, cần thiết phải có sự tác động của Điều tra viên. Thái độ khai báo, mức độ hợp tác của những người này trong quá trình điều tra không chỉ phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với sự việc phạm tội như thế nào mà tuỳ thuộc rất nhiều vào khả năng tác động của Điều tra viên đối với họ có hiệu quả hay không. Ngoài Điều tra viên, những người khác thuộc Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển cũng tiến hành hỏi cung bị can theo quy định tại các Điều 19, 20, 21, 22 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2006, 2009). Cùng với các chủ thể nói trên, BLTTHS 2003 cũng đã trao quyền hỏi cung cho KSV. Theo đó tại khoản 3 ĐIều 131 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể hỏi cung bị can ” [30]. Trường hợp cần thiết dẫn đến việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được hiểu là trong quá trình kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Kiểm sát viên muốn kiểm tra tính chính xác, khách quan trong lời khai hoặc tự khai của bị can mà Điều tra viên đã thu thập. Thực tế cho thấy, Kiểm sát viên thường hỏi cung bị can trong những trường hợp sau đây: do CQĐT đề nghị, qua kiểm sát việc hỏi cung phát hiện thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất lúc nhận tội, lúc không nhận tội; bị can có khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực của lời khai bị can; trường hợp bị can là cán bộ cấp cao, chức sắc trong tôn giáo, nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ có uy tín lớn trong nước, vụ án có nhiều chứng cứ, các chứng cứ quan trọng của vụ án có mâu thuẫn, để củng cố tài liệu, chứng cứ phục vụ cho việc truy tố; trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì VKS có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can. Khi cần hỏi cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện
  • 43. 36 trưởng và thông báo trước cho Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra [23, tr. 287]. 2.1.3. Trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can Sau khi có quyết định khởi tố bị can, Điều tra viên phải tiến hành hỏi cung bị can ngay. Việc hỏi cung phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục đã được quy định của pháp luật tụng hình sự. Trình tự, thủ tục hỏi cung bị can được quy định từ Điều 129 đến Điều 132 Bộ luật TTHS 2003. * Thời gian và địa điểm hỏi cung “1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó… 2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn đượcc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản…” Theo quy định của Bộ luật TTHS, việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên hoặc những người khác có trách nhiệm tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Việc hỏi cung bị can có thể được tiến hành tại CQĐT, nhà tạm giữ, trại tạm giam, trụ sở ủy ban nhân dân xã, phường hoặc tại nhà ở, nơi làm việc của bị can hoặc tại nơi xảy ra tội phạm. Hỏi cung tại nhà ở khi cần thiết phải hỏi ngay sau khi bắt, khám xét để thực hiện kế hoạch điều tra như truy bắt đồng bọn, khám thu hồi vật chứng. Ngoài ra, còn có thể hỏi tại nhà ở để thực hiện điều tra hoặc tạo điều kiện cho bị can khôi phục trí nhớ… Nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị can, tránh việc truy bức, ép buộc bị can phải làm việc nhiều, trái quy luật sinh hoạt, Khoản 2 Điều 130 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định về nguyên tắc chung cho việc hỏi cung bị can không tiến hành vào ban đêm (từ 22 giờ đêm hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau). Để giải quyết những trường hợp đặc biệt trong hoạt động điều tra, pháp luật TTHS cho phép có thể hỏi cung vào ban đêm trong trường hợp không thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Trường hợp không thể trì hoãn ở
  • 44. 37 đây được hiểu là nếu không tiến hành hỏi cung ngay, CQĐT sẽ không có căn cứ để ra các quyết định tố tụng, có đòi hỏi tức thì trong điều tra vụ án hình sự cụ thể. Ví dụ: Nguyễn Văn S bị khởi tố bị can trong vụ án giết người để điều tra. 22 giờ 30 ngày hôm đó, con trai của S là Nguyễn Văn A đến CQĐT tự thú và khai báo chính A mới là người thực hiện hành vi giết người, cha đẻ của A là S vì thương con đã nhận thay. Tình huống điều tra này dẫn đến việc hỏi cung Nguyễn Văn S là không thể trì hoãn được, việc hỏi cung phải ghi rõ lý do đó. Trong một số trường hợp, thời gian hỏi cung được xác định dựa trên cơ sở yêu cầu của pháp luật: Những đối tượng bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và phạm tội quả tang thì phải lấy lời khai trong vòng 24 giờ từ thời điểm bị bắt, còn đối với bị can thì phải tiến hành hỏi ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Điều 83 Bộ luật TTHS hiện hành cũng quy định: “Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, CQĐT phải lấy lời khai ngay” [30]. Ngoài ra, việc lựa chọn các thời gian hỏi cung còn phụ thuộc vào một số yếu tố khác như: Trình tự hỏi cung các bị can mà Điều tra viên đã lựa chọn, tình trạng sức khỏe và những xúc động mà bị can trải qua trong thời điểm xảy ra vụ án, sự cần thiết phải giữ bí mật của hoạt động điều tra. Nhìn chung, không nên hỏi cung bị can vào thời điểm họ đang trong tình trạng xúc động mạnh, bối rối, trầm uất trước thời điểm trở lại trạng thái bình thường trừ trường hợp không thể trì hoãn vì trong trạng thái tâm lý này thường tác động tiêu cực đến thái độ khai báo của bị can [23, tr.287]. * Sau khi chuẩn bị đầy đủ cho việc tiến hành hỏi cung bị can, Điều tra viên phải triệu tập bị can đến hỏi cung. Điều 129 BLTTHS quy định trình tự, thủ tục triệu tập bị can đến CQĐT để làm việc, trách nhiệm của CQĐT, bị can trong việc thực hiện trình tự, thủ tục đó. Việc triệu tập bị can do Điều tra viên tiến hành. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có thể triệu tập bị can. Theo đó, chỉ trong trường hợp cần