SlideShare a Scribd company logo
1 of 112
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ LAN CHI
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số :
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – NĂM 2005
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ LAN CHI
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 50514
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH LÊ VĂN CẢM
HÀ NỘI – NĂM 2005
3
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
TTPL tuân theo pháp luật
TAND Tòa án nhân dân
THQCT thực hành quyền công tố
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
7
1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7
1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7
1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc TTPL 11
1.1.2.1 Đối tƣợng, phạm vi kiểm sát 11
1.1.2.2 Hình thức thức kiểm sát 13
1.1.3 Phân biệt khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự
16
1.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với
chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự Việt Nam
19
1.2.1 Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 19
1.2.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với
chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
20
1.3 Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và
giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trên thế giới
23
1.3.1 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám
sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật
Anglo Saxon
24
1.3.2 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công
tố và giám sát TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống
25
5
pháp luật Châu Âu lục địa
1.3.3 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo
hệ thống pháp luật XHCN (trƣớc đây) và Việt Nam hiện nay
27
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG HOẠT
ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
35
2.1 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự
35
2.1.1 Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố
35
2.1.2 Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự 39
2.1.3 Kiểm sát một số hoạt động điều tra 42
2.1.3.1 Kiểm sát khám nghiệm hiện trƣờng 42
2.1.3.2 Kiểm sát các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai của
những ngƣời tham gia tố tụng
46
2.1.3.3Kiểmsát việcápdụng, thayđổi, hủybỏ các biệnphápngănchặn 47
2.2 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn
xét xử các vụ án hình sự
50
2.2.1 Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử, thành phần và sự có
mặt của những ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng tại phiên tòa
51
2.2.2Kiểmsát việc thực hiệngiớihạn xét xửcủaHộiđồngxét xử 52
2.2.3 Kiểm sát việc TTPL của Hội đồng xét xử trong quá trình
điều khiển phiên tòa
53
2.2.4 Kiểm sát việc TTPLsau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm 58
2.2.5 Kiểm sát xét xử phúc thẩm 61
6
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
63
3.1 Đề xuất về việc hoàn thiện pháp luật 63
3.1.1 Đề xuất bổ sung quy định Viện kiểm sát kiểm sát việc tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan
điều tra
64
3.1.2 Đề xuấtbãibỏquyđịnhvềquyềnkhởitốvụáncủaHộiđồngxétxử 64
3.1.3 Đề xuất hoànthiệncác quyđịnh về khám nghiệm hiện trƣờng 65
3.1.4 Đề xuất hoàn thiện các quy định về chế định biện pháp ngăn chặn
và kiểmsát việc áp dụng, thayđổi, hủy bỏ các biệnpháp ngănchặn
66
3.2 Giải pháp về nhân sự - tổ chức của ngành kiểm sát 67
3.2.1 Giải pháp về vấn đề nhận thức, phƣơng pháp làm việc và
cách giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho Kiểm sát viên
67
3.2.2 Giải pháp về nâng cao trình độ đội ngũ Kiểm sát viên 72
3.2.3 Giảipháp về cơ chế tổ chức công việc của ngành kiểmsát 73
3.3 Giải pháp về nâng cao hiệu quả của các thiết chế hỗ trợ việc
kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
75
3.3.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia
tố tụng
76
3.3.1.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của luật sƣ 76
3.3.1.2 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia
tố tụngkhác
77
3.3.2 Giảipháp về nângcaovaitròcủacáccơquanthôngtấn, báochí 79
7
3.4 Một số đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vị trí
của cơ quan Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp từ
năm 2006 đến năm 2020
81
3.4.1 Đề xuất về việc không tiếp tục duy trì hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
83
3.4.2 Đề xuất bỏ quy định về hoạt động kiểm sát việc TTPL của
những ngƣời tham gia tố tụng
85
3.4.3 Đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, vị trí cơ quan Viện
kiểm sát trong bộ máy Nhà nƣớc
87
KẾT LUẬN
91
PHỤ LỤC: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN VÀ BẢNG TỔNG KẾT
KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI
CÁC VKSNDĐỊA PHƢƠNG
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, công tác tƣ pháp nói chung và công tác giải
quyết án hình sự nói riêng đã có những chuyển biến đáng kể, đặc biệt là sau
sự ra đời Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 “về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới” và Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003. Dƣới sự định hƣớng và điều chỉnh của những văn bản
này, các hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành một cách minh bạch hơn,
khách quan hơn, quyền lợi của ngƣời tham gia tố tụng đƣợc đảm bảo hơn, xu
thế mở rộng tranh tụng và dân chủ hoá hoạt động tố tụng cũng tiếp tục đƣợc
khẳng định và mở rộng.
Tuy nhiên, thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự cho thấy còn tồn tại nhiều hiện tƣợng vi phạm pháp luật của chính các
cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Đó là những vi phạm về
trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn tố tụng, thậm chí tồn tại những hiện
tƣợng vi phạm nghiêm trọng pháp luật nhƣ cố ý không xử lý về hình sự,
không thực hiện đầy đủ các hoạt động điều tra nhằm thu thập những chứng cứ
quan trọng, không đảm bảo các quyền bào chữa cơ bản của ngƣời bị buộc tội,
tình trạng tham nhũng, tha hoá của một bộ phận không nhỏ Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán và các chức danh tƣ pháp khác. Điều đáng quan
ngại là số lƣợng các vi phạm pháp luật kể trên bị phát hiện, xử lý quá muộn,
quá ít, không tƣơng xứng với tính chất và mức độ vi phạm.
Để xảy ra tình trạng trên, Viện kiểm sát có một phần trách nhiệm không
nhỏ, bởi vì, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là một chức năng hiến định của
Viện kiểm sát (và trong tố tụng hình sự, pháp luật quy định Viện kiểm sát
THQCT và kiểm sát việc TTPL). Tuy nhiên, tại sao dù có chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn nhƣ vậy nhƣng công tác kiểm sát việc TTPL chƣa thật sự hiệu
9
quả? Xuất phát từ những bất cập và hạn chế gì? Giải pháp nào để nâng cao
chất lƣợng, hiệu quả công tác kiểm sát?… Đây là những vấn đề cần đƣợc
nghiên cứu một cách khách quan và toàn diện.
Tiến trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện đang đƣợc đẩy mạnh, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lƣợc
Cải cách tƣ pháp đến năm 2020, dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X... đã đƣa ra những quan điểm cải cách mang tính đột phá trong việc tổ
chức lại hệ thống Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong đó, Viện
kiểm sát đƣợc chuyển đổi thành Viện công tố. Điều này đặt ra những cách
tiếp cận mới, những cách nhìn mới cả trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn về
kiểm sát hoạt động tƣ pháp, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự.
Xuất phát từ những lý do mang tính thời sự nêu trên cùng sự quan tâm,
mong muốn tìm hiểu của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là một đề tài không mấy mới
mẻ trong khoa học luật tố tụng hình sự, nhất là trong giới khoa học kiểm sát,
đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này nhƣ: đề tài
“Vai trò của Viện kiểm sát trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tƣ pháp
theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị” năm 2002 của Viện
Khoa học Kiểm sát - VKSNDTC, luận văn thạc sĩ luật học “Kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự” năm 2004 của
học viên cao học Trần Công Hoà, các bài nghiên cứu “Nâng cao chất lƣợng
công tác công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp” của Phạm Xuân Khánh trên
Tạp chí Kiểm sát số 5/1999, “Những biện pháp chủ yếu về nâng cao chất
lƣợng kiểm sát hoạt động tƣ pháp và THQCT trong năm 2002” của Hoàng
10
Công Huấn trên Tạp chí Kiểm sát số 2/2002… Tuy nhiên, các công trình này
chỉ nghiên cứu một hoặc một số nội dung của kiểm sát việc TTPL trong tố
tụng hình sự nhƣ hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự
hoặc kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn khởi tố - điều tra của tố tụng hình
sự.
Mặt khác, tới thời điểm hiện nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu về
kiểm sát việc TTPL trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khởi
tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự. Đặc biệt, cũng chƣa có công
trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trong bối
cảnh cải cách tƣ pháp đang và sẽ diễn ra mạnh mẽ và toàn diện trong thời gian
tới. Do vậy, có thể coi đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về kiểm sát việc
TTPL trong tố tụng hình sự với các nội dung nhƣ trên đƣợc triển khai ở cấp
độ một luận văn thạc sỹ luật học.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Ngay từ tên gọi, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở
một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Điều này nhằm đảm bảo tính chuyên sâu
cần thiết của mỗi nội dung đƣợc lựa chọn đề cập. Theo quy định của pháp
luật, hoạt động kiểm sát việc TTPL đƣợc tiến hành trong việc điều tra các vụ
án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra; trong việc xét xử các vụ án hình sự; trong
việc thi hành bản án, quyết định hình sự của TAND; trong việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, do tính chất
đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong
tố tụng hình sự, trong giới hạn một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ có thể đề cập
một số vấn đề của kiểm sát việc TTPL trong việc điều tra và xét xử các vụ án
hình sự mà theo quan điểm của tác giả, là cơ bản và quan trọng hơn cả.
Những nội dung đƣợc lựa chọn đề cập trong luận văn phải là những vấn đề
11
tiêu biểu, làm rõ đƣợc các vấn đề lý luận và khái quát đƣợc thực tế kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết đƣợc các nhiệm vụ
mà đề tài đặt ra, trên cơ sở phƣơng pháp luận nền tảng của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng phối hợp nhiều
phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch sử,
phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp. Đặc biệt, phƣơng pháp khảo sát,
thăm dò ý kiến những ngƣời làm công tác thực tiễn... đƣợc sử dụng ở mức độ
đáng kể trong quá trình nghiên cứu luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn này là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kiểm
sát việc TTPL trong tố tụng hình sự; đánh giá thực trạng, xác định các nguyên
nhân, điều kiện tác động tới quá trình triển khai thực hiện, từ đó, hƣớng tới các
giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự, đồng thời, phác thảo những đƣờng nét ban đầu
cho thiết chế kiểm tra, giám sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự sau
khi kiểm sát việc TTPL không còn là một chức năng luật định của Viện kiểm sát
đƣợc ghi nhận trong BLTTHS nhƣ hiện nay.
Với cách đặt vấn đề nhƣ trên, tác giả luận văn đặt cho mình những nhiệm
vụ sau:
1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và làm rõ
các thành tố cấu thành nên khái niệm đó, phân biệt khái niệm kiểm sát việc
TTPL trong tố tụng hình sự với các khái niệm gần nó;
2. Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện hoạt động THQCT và
kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự tại một số quốc gia trên thế giới
12
nhằm trả lời các câu hỏi mang tính chất lý luận – lịch sử về mô hình chúng ta
đang áp dụng hiện nay và sẽ hƣớng tới trong tƣơng lai;
3. Tập trung nghiên cứu thực tế thực hiện một số hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử vụ án
hình sự;
4. Đƣa ra các giải pháp, đề xuất về hoàn thiện pháp luật, về tổ chức -
nhân sự, về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của cơ quan Viện
kiểm sát... cũng nhƣ các giải pháp, đề xuất nâng cao vai trò của các thiết chế
hỗ trợ việc kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên:
1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và so
sánh khái niệm này với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố
tụng hình sự;
2. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố
tụng hình sự, đƣa ra những cách nhìn mới mẻ, mạnh dạn và trung thực về
thực chất một số hoạt động tố tụng đƣợc tiến hành trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự hiện nay;
3. Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự từ góc nhìn tƣơng đối thực tế và hiện đại;
4. Luận chứng các cơ sở cho những đề xuất về điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ, vị trí của Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn 2006 - 2020 theo định hƣớng trở thành Viện công tố.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chƣơng:
13
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự;
- Chƣơng 2: Một số vấn đề về thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự;
- Chƣơng 3: Một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
14
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tố tụng hình sự là toàn bộ
quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và
thi hành án. Nói cách khác, “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nƣớc,
tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng,
chính xác và đúng pháp luật”. [8]
Nhƣ vậy, các hoạt động trong tố tụng hình sự bao gồm:
- Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự. Cơ
quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự là các cơ quan Nhà nƣớc chuyên
trách thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, bao gồm: Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong
việc giải quyết các vụ án hình sự.
- Hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng. Ngƣời tiến hành tố
tụng là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, đƣợc bổ nhiệm vào
các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất
định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải
quyết vụ án hình sự.
- Hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng: hoạt động của những
ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (ngƣời
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng
15
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác; hoạt động của những
ngƣời tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật
vụ án (ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch).
BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các
cơ quan, tổ chức và công dân trong việc chủ động phòng ngừa, phát hiện và
ngăn chặn tội phạm, trong việc thực hiện các biện pháp cƣỡng chế của tố tụng
hình sự... Nhƣ vậy, hoạt động của các chủ thể trên, trong những trƣờng hợp
nhất định, cũng là các hoạt động trong tố tụng hình sự.
Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay chƣa có một định
nghĩa thống nhất về khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự”. “Kiểm sát” ở tầng nghĩa phổ thông, Từ điển tiếng Việt định
nghĩa: “là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” [37: tr 523]. Theo
đó, nội dung của khái niệm “kiểm sát” là hoạt động kiểm tra với đối tƣợng
kiểm tra là việc chấp hành pháp luật. Nhƣ vậy, định nghĩa này chƣa chỉ ra chủ
thể của hoạt động kiểm sát. Pháp luật thực định chỉ quy định một loại chủ thể
có chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đó là Viện kiểm sát.
Điều 23 BLTTHS 2003 quy định:
…Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự có
trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến
hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng, áp
dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi
phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng
hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải đƣợc xử lý kịp
thời; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng ngƣời, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm
oan ngƣời vô tội.
16
Nhƣ vậy, theo BLTTHS 2003, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình
sự đối với Viện kiểm sát là một chức năng, một nghĩa vụ luật định. Tham gia
vào “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” trong tố tụng hình sự
không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các chủ thể khác nhƣ ngƣời tham gia tố
tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã
hội nói chung. Quyền “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc”
trong tố tụng hình sự của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ
bản của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và quyền công
dân. Điều 56 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 khẳng
định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội”. Điều 8
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định: “Cơ quan Nhà nƣớc, Uỷ ban Mặt
trận trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu
dân cử có quyền giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra...”. Đối với
những chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động mà là các
quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay các quyền, các hoạt
động mang tính tự nguyện. Về bản chất, các hoạt động của những chủ thể này
nhƣ: theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt động,
yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi
phạm... cũng hƣớng tới việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và “loại
trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong tố tụng
hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự mà chỉ là các hoạt động giám sát việc TTPL
trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm
sát và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là hình thức thực hiện
mà cụ thể là phƣơng thức và các quyền năng mà pháp luật tố tụng hình sự cho
phép khi thực hiện. Chính điều này làm cho hoạt động giám sát của các chủ
thể khác không thể hiện chất “kiểm sát” nhƣ hoạt động kiểm sát của Viện
17
kiểm sát. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hoạt động
giám sát do các chủ thể khác thực hiện, có thể coi đây là các thiết chế bổ trợ
cho hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự.
Ngoài ra, khi đề cập đến các thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự, không thể không nhắc tới vai trò giám sát
lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Xuất phát từ đặc thù của mối
quan hệ phối hợp - chế ƣớc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan
điều tra, Toà án có thể phát hiện và kiến nghị xử lý các quyết định, hành vi tố
tụng của nhau và của Viện kiểm sát nếu nhận thấy có vi phạm pháp luật.
Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật”, theo quan điểm đƣợc nhiều ngƣời
thừa nhận, không thể giải thích bằng cách tách bạch “tuân theo” là gì và
“pháp luật" là gì rồi ghép lại. “Tuân theo pháp luật” cần đƣợc hiểu không phải
với tƣ cách là một tổ hợp ngôn ngữ, mà là một thuật ngữ pháp lý thống nhất,
mang tính chỉnh thể để chỉ một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo
lý luận chung về pháp luật, bốn hình thức thực hiện pháp luật bao gồm:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức
thực hiện pháp luật trong đó Nhà nƣớc thông qua các cơ quan có thẩm
quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực
hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ
pháp luật cụ thể.
Thứ hai, sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền chủ thể của mình.
Thứ ba, thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật). Thi hành
pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
18
Thứ tƣ, tuân theo pháp luật (tuân thủ pháp luật). Tuân theo
pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật
ngăn cấm. Tuân theo pháp luật là một dạng thực hiện pháp luật mang
tính chất thụ động, thể hiện ở việc các chủ thể phải kiềm chế bản thân
để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Những quy
phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, hành chính đƣợc thực hiện
dƣới hình thức này. [40: tr 463, 464]
Nhƣ vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật
và là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức độ tự giác thấp nhất. Nếu hiểu
“tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình
sự” nhƣ trên thì nội hàm của thuật ngữ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự” sẽ bị thu hẹp đáng kể. Trong khi đó, pháp luật thực
định cho thấy đối tƣợng của “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự” không chỉ có hoạt động TTPL (ở dạng thụ động) mà còn có những
hoạt động thực hiện pháp luật ở mức độ cao hơn và những hoạt động này
chiếm tỷ lệ đa số. Đó là những hoạt động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp
luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Việc “tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự” ở góc độ thực tế, đã phải bao hàm tất cả
các hình thức thực hiện pháp luật.
Từ các phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự: “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự là một nhóm quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có nội
dung là kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động thực hiện pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc tuân theo
pháp luật
19
1.1.2.1 Đối tượng, phạm vi kiểm sát
Để xác định đối tƣợng, phạm vi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình
sự, cần trả lời hai câu hỏi: thứ nhất, “tuân theo pháp luật” - vậy “pháp luật”
đƣợc “tuân theo” là toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung hay là chỉ một lĩnh
vực pháp luật cụ thể nào đó; thứ hai, hoạt động TTPL của những chủ thể nào
là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, cần hiểu “tuân theo pháp luật” trƣớc hết là
tuân theo pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự quy định trình
tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối
quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiệm vụ, quyền hạn của những
ngƣời tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng
khác... Do vậy, kiểm sát hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự chính
là kiểm sát việc các chủ thể có tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự,
thủ tục giải quyết vụ án hình sự, tuân theo cách xử sự luật định trong quan hệ
phát sinh giữa các bên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hay không.
Pháp luật đƣợc “tuân theo” cũng cần đƣợc hiểu là những quy định của pháp
luật nội dung đƣợc áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào tố tụng hình sự, bên cạnh các hoạt động
nhằm giải quyết vụ án hình sự, còn có những hoạt động khác, do lĩnh vực
pháp luật khác điều chỉnh. Tuy nhiên, chỉ những quy định của pháp luật liên
quan trực tiếp đến hoạt động giải quyết vụ án hình sự mới có thể nằm trong
ngoại diên của khái niệm “pháp luật” trong kiểm sát việc TTPL trong tố tụng
hình sự.
Thứ hai, trả lời câu hỏi hoạt động TTPL của chủ thể nào là đối tƣợng
của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Nhƣ trên đã phân tích, các hoạt
động trong tố tụng hình sự gồm có: hoạt động của những cơ quan tiến hành tố
tụng: Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Toà án và tƣơng ứng là hoạt động của
20
những ngƣời tiến hành tố tụng: Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ quan điều tra,
Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên,
Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Toà
án; hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, luật sƣ, bào chữa viên
nhân dân, ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời
bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời
phiên dịch… hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân tham gia vào tố
tụng hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Nói tóm lại, việc TTPL của
các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL
trong tố tụng hình sự. Tất nhiên, đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố
tụng hình sự không thể bao gồm việc TTPL của chính bản thân Viện kiểm sát.
1.1.2.2 Hình thức kiểm sát
Theo chúng tôi, hình thức kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là
cách thức thực hiện hoạt động kiểm sát. Khi bàn tới hình thức kiểm sát, cần
làm rõ hai vấn đề: 1, phƣơng thức kiểm sát (trực tiếp hay gián tiếp); 2, các
quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát đƣợc sử dụng khi kiểm sát việc TTPL
trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất, về phƣơng thức kiểm sát:
Hiện nay, đa số các ý kiến thống nhất cho rằng phƣơng thức kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự là sự kiểm tra, giám sát một cách trực tiếp,
liên tục các hoạt động tố tụng cụ thể. Phƣơng thức kiểm sát này cho phép
phân biệt hoạt động kiểm sát việc TTPL của Viện kiểm sát với hoạt động
giám sát việc TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng, cơ quan dân cử, báo
chí... Các chủ thể này không tham gia hoặc có tham gia vào tố tụng hình sự
nhƣng chỉ trong một hoặc một số giai đoạn tố tụng và giám sát việc TTPL là
mục đích phái sinh từ các quyền tố tụng và các quyền chủ thể của họ. Giám
21
sát việc TTPL trong tố tụng hình sự chủ yếu là những hoạt động đƣợc pháp
luật ghi nhận dƣới dạng các quyền. Tùy vào vị trí và sự quan tâm của từng
chủ thể, họ sẽ không sử dụng hoặc sử dụng các quyền này ở những mức độ
khác nhau. Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành
các hoạt động kiểm tra, giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự một cách
trực tiếp, liên tục do có đủ các cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí pháp lý đặc
biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy…). Nói cách khác, trong toàn bộ quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt
tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án.
Viện kiểm sát cũng có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để
tác động trực tiếp tới các đối tƣợng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động
giải quyết vụ án đƣợc theo đúng quy định của pháp luật, nói cách khác, để
pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải
quyết vụ án.
Tính trực tiếp, liên tục của hoạt động kiểm sát không nên hiểu là Viện
kiểm sát phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động giải quyết vụ án
đang diễn ra của các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự. Viện kiểm sát
không thể kiểm sát một cách trực tiếp từng hoạt động tố tụng. Tuỳ vào điều
kiện thực tế về nhân sự, số lƣợng vụ án và tính chất từng loại án mà Viện
kiểm sát sẽ quyết định khi nào phải tiến hành kiểm sát trực tiếp diễn tiến của
một hoạt động tố tụng và khi nào kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố
tụng (sau khi hoạt động tố tụng đó đƣợc thực hiện). Ví dụ: trong quá trình
chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát không thể kiểm sát trực tiếp việc Toà án giao
quyết định đƣa vụ án ra xét xử và cũng không cần kiểm sát trực tiếp việc giao
quyết định này. Bởi vì, chỉ cần qua kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên toà,
Viện kiểm sát cũng sẽ nhận biết đƣợc việc Toà án đã giao quyết định hay
chƣa. Trong khi đó, đối với hoạt động khám nghiệm hiện trƣờng, khám
nghiệm tử thi, Viện kiểm sát phải kiểm sát trực tiếp, tại chỗ hoạt động khám
22
nghiệm. Trong quá trình giải quyết một vụ án cụ thể, các Kiểm sát viên đƣợc
phân công THQCT và kiểm sát các hoạt động tố tụng trong vụ án phải xác
định đƣợc hoạt động nào phải kiểm sát trực tiếp, hoạt động nào chỉ cần kiểm
sát gián tiếp.
Thứ hai, về các quyền năng pháp lý cụ thể của Viện kiểm sát khi kiểm
sát việc TTPL trong tố tụng hình sự:
Quyền năng của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng
hình sự đƣợc thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng
Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định tại Điều
23, 36, 37, 113, 339 BLTTHS, Điều 4, 14, 18, 24, 27 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, có thể phân loại các quyền năng trên thành những nhóm sau:
- Nhóm các quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật, đó là các quyền
kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động tạm giữ,
tạm giam, quản lý vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù, hoạt động thi
hành án hình sự (kiểm tra, giám sát việc tiến hành những hoạt động cụ thể,
tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp thông tin về vi phạm của
Điều tra viên, thƣờng kỳ và bất thƣờng trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại
tạm giam, tại giam, yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, quản lý
vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù… )
- Nhóm các quyền nhằm khắc phục, xử lý vi phạm:
- Quyền yêu cầu khắc phục các vi phạm;
- Quyền yêu cầu xử lý nghiêm minh Điều tra viên và những ngƣời
có thẩm quyền khác đã vi phạm pháp luật;
- Quyền kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục các nguyên nhân
và điều kiện vi phạm pháp luật.
23
- Quyền yêu cầu ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra,
trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo...
Tƣơng ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự, đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể
khác trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Điều
114 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu
cầu và quyết định của Viện kiểm sát…”. Điều 6 Pháp lệnh tổ chức điều tra
hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm,
Lực lƣợng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải
thực hiện những yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự”.
1.1.3. Phân biệt khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng
hình sự
Hiện nay trong tƣ pháp hình sự, có hai khái niệm hiện đang đƣợc sử
dụng: “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự” và “kiểm sát các hoạt động
tƣ pháp trong tố tụng hình sự”. Để làm rõ khái niệm “kiểm sát việc TTPL
trong tố tụng hình sự”, cần phân biệt nó với khái niệm “kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp trong tố tụng hình sự”.
Về khái niệm “hoạt động tƣ pháp”, ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động
tƣ pháp là hình thức thực hiện những thẩm quyền tƣơng ứng do luật định của
hệ thống Toà án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba
trong Nhà nƣớc pháp quyền biến thành hiện thực. [13: tr 14]
Ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tƣ pháp là hoạt động xét xử của Toà
án và hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nƣớc và các tổ chức khác đƣợc
Nhà nƣớc cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét
24
xử của Toà án. Toà án sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều tra, truy
tố, bào chữa, giám định tƣ pháp, áp dụng các thủ tục tƣ pháp theo luật định để
nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra phán quyết cuối cùng. Hoạt động tƣ pháp cần
đƣợc hiểu là hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của
Toà án. [27: tr 11-12]
Nhƣ vậy, cả hai ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt động tƣ
pháp chỉ là Toà án, hoặc lại mở rộng phạm vi chủ thể của hoạt động này tới cả
các các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Toà
án.
Quan điểm của chúng tôi tƣơng đồng với cách hiểu tƣơng đối phổ biến
hiện nay: hoạt động tƣ pháp là các hoạt động do cơ quan tƣ pháp thực hiện,
mang tính quyền lực nhà nƣớc, đƣợc thực hiện trong quá trình tố tụng, đƣợc
điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết
các vụ án.
Tuy nhiên, phạm vi của hoạt động tƣ pháp không bao gồm tất cả các
hoạt động của cơ quan tƣ pháp. Bên cạnh hoạt động tƣ pháp, mỗi cơ quan tƣ
pháp còn có nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Các lĩnh vực hoạt động khác
không nhằm trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, do đó không nằm trong phạm
vi đối tƣợng của kiểm sát các hoạt động tƣ pháp.
Về khái niệm “kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự”
đến nay vẫn tồn tại một số ý kiến khác nhau:
Ý kiến thứ nhất dựa trên luật thực định cho rằng, kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng nhƣ điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án. [56: tr 4-5]
25
Ý kiến thứ hai cho rằng, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp bao gồm việc
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và phần “tƣ pháp” trong
thi hành án. [56: tr 3]
Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, với tƣ cách là chức năng hiến
định của Viện kiểm sát, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là một dạng giám sát
nhà nƣớc về tƣ pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc. Tuy
nhiên, khác với hoạt động giám sát nhà nƣớc nói chung về tƣ pháp, kiểm sát
các hoạt động tƣ pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tƣ pháp và các cơ quan đƣợc giao một số thẩm quyền tƣ pháp trong quá
trình tố tụng.
Vì vậy, kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự khác với kiểm
sát việc TTPL trong tố tụng hình sự ở phạm vi, đối tƣợng kiểm sát, cụ thể:
Thứ nhất, hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do
các cơ quan tƣ pháp và các cơ quan đƣợc giao thực hiện một số thẩm quyền
tƣ pháp chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính
quyền lực nhà nƣớc. Các hoạt động TTPL không chỉ có các hoạt động tƣ pháp
trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ quan, tổ
chức không phải là các cơ quan tƣ pháp, hoạt động của những ngƣời tham gia
tố tụng.
Thứ hai, hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng
thực hiện pháp luật ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật, do
các dạng thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những
ngƣời tiến hành tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động TTPL trong tố tụng
hình sự bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với trách
nhiệm, nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng.
Nhƣ vậy, khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự rộng
hơn khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự, phạm vi
26
kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao trùm
phạm vi kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự.
1.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1 Khái niệm quyền công tố và tực hành quyền công tố
Trong lịch sử tƣ pháp hình sự Việt Nam, quyền công tố là một thuật
ngữ pháp lý chính thức xuất hiện trong Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, về mặt lý
luận, đúng nhƣ nhận xét của PGS. TSKH Lê Cảm:
... Hiện nay trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật
tố tụng hình sự nói riêng ở Việt Nam, quyền công tố vẫn chƣa đƣợc
nghiên cứu một cách thoả đáng, vẫn chƣa có công trình nào làm sáng
tỏ về mặt lý luận một cách có căn cứ đảm bảo sức thuyết phục, tƣơng
đối hoàn chỉnh và có hệ thống những vấn đề đã nêu với tính chất là
một đối tƣợng nghiên cứu riêng biệt. [12: tr 15]
Ở nƣớc ta, có quan điểm ngự trị trong thời gian dài cho rằng: quyền
công tố là quyền đại diện cho Nhà nƣớc để đƣa các vụ việc vi phạm pháp luật
ra xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, bảo vệ trật tự pháp luật. Nói một
cách khác, quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc nhân danh quyền lợi công
để quyết định đƣa một sự việc ra xem xét để phán quyết. Quyền công tố bao
trùm cả lĩnh vực pháp luật tố tụng dân sự và các lĩnh vực pháp luật khác.
Quan niệm này đã quá mở rộng nội dung và phạm vi của quyền công tố.
Gần với quan điểm trên, một quan điểm khác lại diễn đạt quyền công tố
là quyền của Nhà nƣớc cáo buộc các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những ngƣời theo quan điểm này
xuất phát từ vị trí của Nhà nƣớc là một chủ thể pháp luật đặc biệt, đứng trên
các chủ thể khác, có quyền đƣa mọi vi phạm pháp luật ra trƣớc Toà án để xét
27
xử vì Nhà nƣớc nhân danh quyền lực công, có trách nhiệm bảo vệ các lợi ích
công.
Ở một thái cực khác, lại có ngƣời đƣa ra quan điểm quyền công tố chỉ
là quyền truy tố ngƣời phạm tội ra trƣớc Toà án, thực hiện sự buộc tội tại
phiên toà. Quan điểm này lại quá thu hẹp nội dung và phạm vi của quyền
công tố, khẳng định quyền công tố chỉ gồm có hai quyền năng: quyền truy tố
và quyền buộc tội tại phiên toà.
Tuy nhiên, theo quan điểm đƣợc thừa nhận rộng rãi hiện nay, quyền
công tố là quyền nhân danh Nhà nƣớc thực hiện việc buộc tội, nói cách khác,
là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với ngƣời phạm tội. Nhƣ vậy, bản chất của quyền công tố là quyền truy
cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội, do đó, quyền công tố chỉ tồn tại
trong lĩnh vực tố tụng hình sự.
Tuỳ vào các quan điểm về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và các điều kiện
lịch sử, chính trị khác nhau, mỗi Nhà nƣớc giao cho một hay một số cơ quan
nhất định trong bộ máy Nhà nƣớc thực hiện quyền công tố. Cơ quan đƣợc trao
quyền THQCT phải có trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của việc thu thập
chứng cứ để xác định tội phạm và ngƣời phạm tội; thực hiện việc truy tố bị
can ra trƣớc Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà. Nhƣ vậy, THQCT
là việc hiện thực hoá quyền truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội với
các quyền năng tƣơng ứng mà Nhà nƣớc trao cho hoặc một số cơ quan nhất
định. Chúng tôi tán thành với quan điểm cho rằng THQCT là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội trong các giai đoạn
điều tra - truy tố - xét xử.
1.2.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
28
Theo BLTTHS 2003, Viện kiểm sát có chức năng THQCT và kiểm sát
việc TTPL trong tố tụng hình sự. Trong phần này, căn cứ vào các quy định
của pháp luật thực định, luận văn sẽ phân tích mối quan hệ giữa hai chức năng
trên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ đó khái quát về tính chất, đặc
điểm của mối quan hệ này theo mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Trong giai đoạn khởi tố - điều tra, mối quan hệ giữa hai chức năng của
Viện kiểm sát đƣợc thể hiện cụ thể ở những nội dung sau:
Khi vụ án đƣợc khởi tố, Viện kiểm sát bắt đầu tiến hành kiểm sát việc
TTPL nhƣ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan
điều tra… Tuy nhiên, cũng có nhiều trƣờng hợp, khi chƣa khởi tố vụ án đã
xuất hiện hoạt động kiểm sát, ví dụ hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm
hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi. Tiếp theo, Viện kiểm sát sẽ kiểm sát tính có
căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không
khởi tố vụ án. Viện kiểm sát có thể tán thành quyết định của Cơ quan điều tra
hay ra quyết định huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan này để
trực tiếp khởi tố vụ án.
Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, một loạt các hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra đƣợc chính thức thực hiện. Để thực hiện các hoạt động điều
tra, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố tụng nhƣ
các biện pháp ngăn chặn, khám xét, thu giữ, kê biên… Viện kiểm sát sẽ kiểm
sát các hoạt động điều tra và cả các hoạt động thực hiện những biện pháp
cƣỡng chế tố tụng nêu trên. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng kiểm sát việc
TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng… Nhờ có các hoạt động kiểm sát
này, việc tiến hành một loạt các hoạt động thuộc nhóm quyền THQCT nhƣ đề
ra yêu cầu điều tra, quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn
chặn, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, yêu
cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can… sẽ đạt đƣợc những hiệu quả cần thiết.
29
Ngƣợc lại, các hoạt động THQCT cũng sẽ tác động trở lại, mang tính chất hỗ
trợ các hoạt động kiểm sát, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động
kiểm sát.
Kiểm sát tốt các hoạt động TTPL trong giai đoạn điều tra cũng là cơ sở
cho hoạt động truy tố trong giai đoạn truy tố (pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam vẫn coi truy tố là một giai đoạn tố tụng độc lập).
Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL trong việc
xét xử, THQCT với việc đọc cáo trạng, xét hỏi, trình bày lời luận tội, phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những ngƣời tham gia
tố tụng tại phiên toà. Để bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ nội dung buộc tội,
Viện kiểm sát cần dựa trên các kết quả của hoạt động điều tra đƣợc tiến hành
một cách có căn cứ và hợp pháp từ các giai đoạn tố tụng trƣớc đó. Thực hiện
tốt hoạt động kiểm sát việc TTPL là tiền đề cho việc thực hiện tốt hoạt động
THQCT tại phiên toà.
Nhƣ vậy, chức năng kiểm sát việc TTPL nhằm bảo đảm cho các hoạt
động tố tụng đƣợc hợp pháp, khách quan, đầy đủ, tƣơng hỗ cho chức năng
THQCT, cả hai chức năng đều có chung mục đích cao nhất là giải quyết vụ án
đƣợc chính xác, khách quan và công bằng. Trong đó, chức năng kiểm sát việc
TTPL đảm bảo cho hoạt động THQCT đi đúng hƣớng, đúng pháp luật, theo
cách nói của PGS. TSKH Lê Cảm:
...Thực hiện tốt chức năng này không những là điều kiện quan
trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện một loạt các hành vi tố tụng hình sự của các Cơ quan
điều tra (nhƣ khởi tố và hỏi cung bi can, lấy lời khai ngƣời làm chứng,
khám xét, thu giữ, kê biên tài sản,... ) mà còn là cơ sở đảm bảo cho
việc truy tố đƣợc khách quan, đúng tội, đúng ngƣời và đúng pháp
luật.[12: tr 17]
30
Cũng chính vì vai trò hỗ trợ rất đắc lực cho chức năng THQCT và vị trí
không thể tồn tại khu biệt với chức năng THQCT, rất nhiều ngƣời cho rằng
kiểm sát việc TTPL không thể tồn tại với tƣ cách một chức năng độc lập mà
chỉ là một nội dung, một yêu cầu, một nhiệm vụ lớn của Viện kiểm sát và
phái sinh từ chức năng THQCT. Theo quan điểm của chúng tôi, trong giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, nếu căn cứ vào luật thực
định, có thể coi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là một chức năng
của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, “chức năng” luôn đƣợc hiểu là một phƣơng
diện hoạt động cơ bản, một lĩnh vực tồn tại độc lập tƣơng đối với các lĩnh vực
khác. Trong khi đó, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, nhƣ phân tích
ở phần trên, chƣa phải là một phƣơng diện hoạt động cơ bản, một lĩnh vực
độc lập. Kiểm sát việc TTPL bao gồm những hoạt động bảo đảm các điều
kiện cần thiết cho hoạt động THQCT. Hoạt động THQCT chỉ có thể dựa trên
các chứng cứ đƣợc thu thập hợp pháp và kiểm sát việc TTPL chính là công cụ
đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động thu thập chứng cứ và các hoạt động
khác liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do đó, dù không quy định kiểm sát
việc TTPL là một chức năng của Viện kiểm sát thì để THQCT, Viện kiểm sát
vẫn phải thực hiện hoạt động kiểm sát việc TTPL. Việc khảo cứu một số mô
hình tổ chức THQCT và giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự
trên thế giới trong phần dƣới đây của luận văn cũng phần nào làm rõ và mở
rộng vấn đề này.
1.3 Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và
giám sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trên
thế giới
Nhƣ chúng tôi đã từng đề cập, do quan điểm của mỗi quốc gia về tổ
chức bộ máy Nhà nƣớc, các điều kiện lịch sử - chính trị khác nhau, dẫn đến
mô hình tổ chức thực hiện hoạt động thực hiện quyền công tố và giám sát,
kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự của mỗi quốc gia là khác nhau.
31
1.3.1 Mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật
Anglo - Saxon
Nhìn chung, các nƣớc theo hệ thống luật Anglo - Saxon thƣờng sử
dụng kiểu tố tụng tranh tụng, không tồn tại khái niệm kiểm sát và không coi
kiểm sát việc TTPL hay kiểm sát hoạt động tƣ pháp là một chức năng của tố
tụng hình sự hay chức năng của cơ quan công tố. Tố tụng tranh tụng quan
niệm sự thật của vụ án đƣợc xác định thông qua hoạt động tranh tụng tự do
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Về nguyên tắc, hai bên tranh tụng có khả
năng nhƣ nhau không chỉ khi tranh luận tại Toà án mà ngay từ giai đoạn điều
tra, thu thập chứng cứ, các bên có rất nhiều cách khác nhau để đạt đƣợc mục
đích buộc tội hay gỡ tội. Bên buộc tội phải đƣa ra các chứng cứ chứng minh
có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, bên gỡ tội phải tìm mọi cách chứng
minh hành vi không cấu thành tội phạm hoặc có các căn cứ để miễn, giảm
trách nhiệm hình sự. “Hình thức tố tụng tranh tụng cũng không buộc các bên
phải khách quan, công khai trong quá trình thu thập chứng cứ”, do đó, không
đặt ra việc kiểm sát việc TTPL ngay từ giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ.
[41: tr 78]
Trong tố tụng tranh tụng, gần nhƣ chỉ có một giai đoạn chính thức duy
nhất - giai đoạn xét xử và cũng là giai đoạn điều tra công khai tại phiên toà.
Quá trình điều tra trƣớc đó đƣợc coi là giai đoạn chuẩn bị tố tụng hay giai
đoạn tiền tố tụng. Việc TTPL trong giai đoạn chuẩn bị tố tụng đƣợc thể hiện
trên cơ sở các kết quả điều tra - các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội đƣợc đƣa ra
xem xét tại phiên toà. Toà án đánh giá tính hợp pháp, tính xác thực và tính
logic của các chứng cứ đó. Do vậy, Toà án cũng gián tiếp kiểm sát tính hợp
pháp của các hoạt động thu thập chứng cứ. Nói cách khác, “chức năng giám
sát việc tuân theo pháp luật thuộc về Toà án”. [41: tr 79] Về nguyên tắc, nếu
các tài liệu, đồ vật có thu thập đƣợc nhiều bao nhiêu chăng nữa nhƣng nếu
32
không chứng minh đƣợc nguồn gốc và không bảo đảm đƣợc tính hợp pháp
của hoạt động điều tra, thu thập thì cũng không đƣợc chấp nhận. Điều này
buộc các bên không phải chỉ đấu tụng thật thuyết phục tại phiên toà mà còn
phải tuân thủ pháp luật nghiêm túc khi tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ.
Trong mô hình tố tụng tranh tụng, Toà án là ngƣời đứng giữa bên công
tố (bên buộc tội) và bên gỡ tội, là cơ quan có vị trí độc lập độc lập để xem xét
tính hợp pháp của chứng cứ và gián tiếp kiểm tra sự tuân thủ pháp luật trong
quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của cả hai bên. Chức năng THQCT đƣợc
giao cho một cơ quan độc lập là Viện công tố và THQCT đƣợc coi là phƣơng
diện hoạt động cơ bản, chủ yếu của cơ quan công tố. Cơ quan công tố chỉ đạo
hoạt động điều tra và giám sát hoạt động điều tra để đảm bảo tính đầy đủ,
khách quan, hợp pháp của hoạt động thu thập chứng cứ. Cơ quan công tố ở
nhiều bang của Hoa Kỳ đƣợc coi là cơ quan truy tố.[31: tr 46-54] Trong khi
đó, giám sát việc TTPL là cũng là một yêu cầu mang tính chất phái sinh từ
chức năng xét xử của Toà án, không phải là phƣơng diện hoạt động cơ bản,
chủ yếu của Toà án. Nhƣ vậy, chỉ tồn tại hoạt động giám sát mà không có
khái niệm kiểm sát việc TTPL trong mô hình này.
1.3.2 Mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật
Châu Âu lục địa
Về cơ bản, các nƣớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa mà điển
hình là Cộng hoà Pháp sử dụng kiểu tố tụng thẩm vấn. Giai đoạn điều tra
đƣợc đặc biệt nhấn mạnh và giai đoạn xét xử không đƣợc đặc biệt coi trọng
nhƣ trong tố tụng tranh tụng. Tại phiên toà, Thẩm phán sẽ thực hiện hoạt
động xét xử bằng cách tiếp tục điều tra (chủ yếu qua việc xét hỏi và đánh giá
chứng cứ) trƣớc khi đƣa ra phán quyết cuối cùng. Do đó, chức năng buộc tội
33
và chức năng bào chữa của các bên tồn tại mờ nhạt hơn so với kiểu tố tụng
tranh tụng.
Hoạt động điều tra sơ bộ do các Điều tra viên - các Cảnh sát tƣ pháp
thực hiện. Điều tra viên chịu sự chỉ đạo trực tiếp trong hoạt động điều tra của
Công tố viên. Cảnh sát tƣ pháp còn phải chịu sự giám sát của Toà luận tội bên
cạnh Toà phúc thẩm.
Giai đoạn điều tra sơ bộ do Viện công tố chỉ đạo, khi việc điều tra hoàn
tất thì vụ án đƣợc: 1, chuyển sang giai đoạn khởi tố vụ án - điều tra tại toà do
Dự thẩm (là một Thẩm phán) thực hiện, hoặc: 2, chuyển trực tiếp cho Toà án
xét xử. Sau khi thấy đã đầy đủ chứng cứ, Dự thẩm đƣa vụ án ra xét xử với các
vụ phạm tội không quá nghiêm trọng thuộc thẩm quyền của Toà khinh tội và
Toà vi cảnh. Với trọng tội, Dự thẩm chuyển hồ sơ cho Viện trƣởng Viện công
tố bên cạnh Toà sơ thẩm để giao lại cho Toà luận tội tại Toà phúc thẩm để
điều tra cấp hai. Xét thấy đã đầy đủ chứng cứ, Toà luận tội đƣa bị can ra Toà
đại hình để xét xử. Toà luận tội có hai chức năng: chức năng điều tra cấp hai
và chức năng giám sát quá trình điều tra của dự thẩm. Toà luận tội gồm một
Chánh toà và hai Thẩm phán. Đại diện của Viện công tố tại phân toà này là
Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà phúc thẩm và các Phó Viện trƣởng
Viện công tố bên cạnh Toà phúc thẩm hoặc các Công tố viên. [30]
Pháp luật nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa và pháp luật Chính quyền
miền Nam Việt Nam trƣớc năm 1975 ảnh hƣởng nhiều của pháp luật Cộng
hòa Pháp trong việc tổ chức bộ máy các cơ quan xét xử, công tố. Điều 5 Sắc
lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 (về thành lập Tòa án quân sự của nƣớc Việt
Nam Dân chủ cộng hòa) đã xác định các chức năng buộc tội, bào chữa và xét
xử trong lĩnh vực tố tụng hình sự: “Tòa án quân sự đƣợc thành lập nhƣ sau:
ngồi xử có Chánh án và hai hội thẩm... Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự
hay Ủy viên của Ban trinh sát...”. Ở miền Nam Việt Nam:
34
Theo điều 77 và 78 Hiến pháp năm 1967, các Thẩm phán đƣợc
chia làm hai ngành, xử án và công tố [17: tr 1]... Sự phân chia thẩm phán
thành hai ngành và phân nhiệm giữa thẩm phán tọa xử với thẩm phán
công tố trên đây không phải là một sáng kiến mới lạ của Hiến pháp 1967.
Hiến pháp chỉ xác nhận một tình trạng cố hữu trong tổ chức tƣ pháp thời
Pháp thuộc, đƣợc duy trì do chỉ dụ 4 ngày 18/10/1949. [17: tr 3]
Nhƣ vậy, mô hình thực hiện quyền công tố và giám sát việc TTPL theo
hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa khá phức tạp. Hoạt động công tố theo
nghĩa gốc là truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện bởi
cả ba thiết chế tƣ pháp hình sự: Cảnh sát tƣ pháp - Dự thẩm - Toà luận tội.
Hoạt động giám sát điều tra vừa do Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà sơ
thẩm, Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà phúc thẩm, vừa do Toà luận tội
thực hiện. Nhƣ vậy, cơ quan công tố là cơ quan bên cạnh Toà án, vừa thực
hiện hoạt động điều tra - công tố, vừa giám sát Cơ quan điều tra, không có
hoạt động kiểm sát xét xử của Toà án. Theo mô hình này, kiểm sát việc TTPL
không đƣợc coi là một chức năng của tố tụng hình sự mà chỉ tồn tại hoạt động
giám sát của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quá trình giải quyết
vụ án đƣợc chính xác, khách quan và đúng pháp luật.
1.3.3 Mô hình tổ chức thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật XHCN
(trƣớc đây) và Việt Nam hiện nay
Ở các nƣớc XHCN trƣớc đây, THQCT chỉ là một trong các quyền cơ
bản của Viện Kiểm sát. Viện kiểm sát là một trong bốn loại cơ quan Nhà
nƣớc: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tƣ pháp và cơ quan
kiểm sát. Vì thế:
Quyền công tố ở đây không thuộc lĩnh vực hành pháp, cũng
không thuộc lĩnh vực tƣ pháp theo quan niệm truyền thống mà thuộc
35
về một lĩnh vực khác của quyền lực Nhà nƣớc: quyền kiểm sát. Đây là
khái niệm hoàn toàn mới của khoa học pháp lý, xuất hiện sau thắng
lợi của Cách mạng tháng Mƣời Nga 1917.[15]
Với cách tổ chức bộ máy Nhà nƣớc nhƣ trên, quyền công tố không phải
chỉ có trong tố tụng hình sự, cũng không phải là một chức năng độc lập của
Viện kiểm sát mà chỉ là một phƣơng thức để kiểm sát việc TTPL.
Tại Việt Nam trƣớc đây, mô hình này đƣợc thể hiện rất rõ trong Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1992. Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng sáu công tác: công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã
hội, công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét xử; công tác
kiểm sát giam giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và công tác
điều tra tội phạm.
Mô hình này đƣợc áp dụng triệt để đến mức các hoạt động kiểm sát
việc TTPL bao trùm lên mọi hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ
những vấn đề phát sinh trong thực tiễn thực hiện: thứ nhất, Viện kiểm sát
không đủ khả năng về nhân lực và vật lực để kiểm sát tất cả các hoạt động của
đời sống xã hội; thứ hai: không cần thiết phải kiểm sát tất cả các hoạt động
của đời sống xã hội; thứ ba: hoạt động kiểm sát chung dẫn tới sự chồng chéo
trong các hoạt động kiểm sát, thanh tra, giám sát và tạo nên một bộ phận
“kiêu binh” và tha hoá trong cơ quan Viện kiểm sát vì có quá nhiều quyền lực
- do đó, Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thu hẹp đáng kể phạm vi chức năng kiểm
sát trƣớc kia. Bên cạnh chức năng THQCT, Viện kiểm sát chỉ còn hoạt động
kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định:
“Viện kiểm sát nhân dân Tối cao THQCT và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp,
36
góp phần bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng, các Viện kiểm sát quân sự THQCT
và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”.
Cụ thể hóa bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 và
BLTTHS 2003, mô hình tổ chức THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố
tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay có những nét chính sau:
- Viện kiểm sát nhân dân THQCT và kiểm sát việc TTPL trong việc
điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác đƣợc
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- THQCT và kiểm sát việc TTPL trong việc xét xử các vụ án hình sự;
- Kiểm sát việc TTPL trong việc thi hành bản án, quyết định hình sự
của Tòa án nhân dân;
- Kiểm sát việc TTPL trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục ngƣời chấp hành án phạt tù.
Trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kiểm sát việc TTPL và THQCT
đƣợc giao cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL của Cơ quan
điều tra, của Tòa án, của các cá nhân và cơ quan khác tham gia vào tố tụng
hình sự, kiểm sát việc TTPL trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo
dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Viện kiểm sát THQCT với các hoạt động đề
ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, truy tố bị
can và bảo vệ quyết định truy tố của mình trƣớc Toà án...
Nếu quan niệm tố tụng hình sự ở Việt Nam là kiểu “tố tụng buộc tội”
nhƣ ý kiến một số ngƣời, hoạt động THQCT thực chất là nhiệm vụ của cả ba
cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Trong đó, hoạt động điều
tra về cơ bản do Cơ quan điều tra đảm nhận. Viện kiểm sát không tự mình
tiến hành các hoạt động điều tra mà chủ yếu là sử dụng các kết quả điều tra
37
của Cơ quan điều tra để phục vụ cho hoạt động truy tố ở giai đoạn truy tố. Vì
thế, bắt buộc Viện kiểm sát phải kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn điều tra.
Kiểm sát điều tra là cơ sở cho hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra và giai
đoạn truy tố, bảo vệ quyết định truy tố ở giai đoạn xét xử sau này. Xét xử là
giai đoạn điều tra cuối cùng, tại phiên toà, vụ án đƣợc điều tra một cách toàn
diện nhất, công khai nhất nhƣng phần lớn do Toà án thực hiện với hoạt động
xét hỏi của hội đồng xét xử.
Một điểm đặc biệt trong tố tụng hình sự Việt Nam là Viện kiểm sát còn
thực hiện hoạt động kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự. Trong khi đó, hầu nhƣ
không một quốc gia nào trên thế giới quy định Viện kiểm sát hay Viện công
tố có quyền kiểm sát việc TTPL trong việc xét xử các vụ án hình sự. Ngay cả
pháp luật Liên bang Nga và pháp luật CHND Trung Hoa là nơi mà những tƣ
tƣởng lập pháp XHCN còn tƣơng đối đậm nét, nơi mà nhiệm vụ kiểm sát việc
TTPL của cơ quan Viện kiểm sát còn đƣợc ghi nhận trong các quy định của
pháp luật, Viện kiểm sát cũng không đƣợc trao quyền năng này. Theo luật
Liên bang Nga về Viện kiểm sát Cộng hòa liên bang Nga trƣớc đây, Viện
kiểm sát kiểm sát việc chấp hành các đạo luật đang có hiệu lực trên toàn lãnh
thổ, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các bộ, tổng cục thuộc Liên bang,
kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan thực hiện các hoạt động
trinh sát, nghiệp vụ, các Cơ quan điều tra, thẩm cứu, kiểm sát việc chấp hành
pháp luật trong việc điều tra, thẩm cứu, trong việc giam giữ, cải tạo, các trại
chấp hành hình phạt, nơi tạm giam, tạm giữ.[31] Điều 37 BLTTHS Liên bang
Nga đƣợc Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và đƣợc Hội đồng liên
bang phê chuẩn ngày 5/12/2001 quy định: “Kiểm sát viên là ngƣời có chức
vụ, quyền hạn, có quyền nhân danh Nhà nƣớc trong quá trình tố tụng hình sự
và kiểm sát hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra ban đầu và Cơ quan điều
tra dự thẩm trong phạm vi thẩm quyền đƣợc quy định trong Bộ luật này”. [46]
Tại Trung Quốc, Viện kiểm sát thực hành quyền kiểm sát đối với các vụ án
38
phản quốc, chia rẽ đất nƣớc, giám sát hoạt động điều tra của công an, giám sát
việc thi hành các phán quyết, quyết định của Tòa án trong các vụ án hình sự,
hoạt động của các trại giam, nơi tạm giam và cơ quan cải tạo lao động và
cũng không có quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. [31]
Hoạt động kiểm sát xét xử đƣợc đặt ra với mục đích đảm bảo cho việc
xét xử của Toà án đƣợc tiến hành đúng pháp luật, phát hiện nhanh chóng các
vi phạm trong quá trình xét xử để có biện pháp khắc phục kịp thời, góp phần
nâng cao chất lƣợng xét xử. Trên lý thuyết, đây là điểm hoàn toàn tiến bộ và
tích cực của luật tố tụng hình sự Việt Nam, bởi vì, xét xử chính là giai đoạn
điều tra cuối cùng trƣớc khi quyết định số phận pháp lý của một công dân.
Nếu đã kiểm sát đƣợc hoạt động điều tra để hoạt động điều tra đƣợc khách
quan, công bằng, hợp pháp và tiếp tục kiểm sát đƣợc hoạt động xét xử thì sẽ
hạn chế đƣợc rất lớn các hiện tƣợng án oan, án sai, án tồn đọng …
Tuy nhiên, việc triển khai mô hình này lại xuất hiện rất nhiều những
điểm bất hợp lý. Chúng tôi sẽ làm rõ những điểm bất hợp lý này trong phần
phân tích về thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử trong Chƣơng II của luận
văn.
Ở đây, một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong tố tụng hình sự Việt Nam lại
tồn tại mô hình cơ quan kiểm sát, tại sao Viện kiểm sát lại phải (đƣợc) kiểm
sát quá nhiều hoạt động tố tụng nhƣ vậy? Câu trả lời nằm ở tính chất lịch sử -
lý luận chứ không phải tính chất thực tiễn của vấn đề. Bởi vì, ở góc độ thực
tiễn, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, gần nhƣ tất cả các quốc gia trên thế giới
đều không quy định kiểm sát việc TTPL là chức năng cuả bất kì một cơ quan
tiến hành tố tụng nào và cũng không thể chứng minh việc giải quyết các vụ án
hình sự tại các quốc gia đó kém hiệu quả hơn Việt Nam hay tình hình tội
phạm diễn biến tiêu cực hơn Việt Nam và ngƣợc lại.
39
Ở góc độ lý luận, theo chúng tôi, việc giải thích cần xuất phát từ quan
điểm về tổ chức bộ máy của Nhà nƣớc ta và các yếu tố lịch sử, pháp lý khác.
Nhƣ đã từng đề cập, hệ thống cơ quan Kiểm sát, quyền kiểm sát với tƣ
cách là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nƣớc, một trong bốn loại quyền
lực Nhà nƣớc mới xuất hiện sau khi ra đời Nhà nƣớc XHCN (thời điểm cách
mạng Tháng mƣời Nga 1917). Điều này bắt nguồn từ tƣ tƣởng của Lênin về
tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và vấn đề pháp chế:
Theo Lênin, pháp chế thì phải thống nhất, pháp chế không
thống nhất thì không thể tiến hành công cuộc Cách mạng XHCN…
yếu tố cản trở mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất đến sự thống nhất của
pháp chế XHCN là bệnh cục bộ, bản vị, địa phƣơng chủ nghĩa. Muốn
đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa
phƣơng, nhất thiết phải thành lập Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có
quyền và bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi, tức là: “làm thế
nào cho trong toàn nƣớc cộng hoà có một sự nhận thức thật sự thống
nhất về pháp chế, dù là ở các địa phƣơng có những đặc điểm và ảnh
hƣởng nhƣ thế nào chăng nữa”. [16: tr 9]
Nhƣ vậy, Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát việc TTPL của các cơ
quan Nhà nƣớc ở trung ƣơng cho đến các cơ quan, chính quyền địa phƣơng,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự, nhằm
bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành thống nhất và nghiêm chỉnh, loại trừ
mọi hiện tƣợng tiêu cực, tự nhiên, chống đối.
Do điều kiện lịch sử - chính trị, chúng ta cũng đã áp dụng mô hình Viện
kiểm sát với cách đặt vấn đề nhƣ trên trong một thời gian dài (cho tới năm
2002) với đặc trƣng là chức năng kiểm sát “chung” của Viện Kiểm sát. Mô
hình này đã chứng minh tính hiệu quả và hợp lý của nó trong những hoàn
cảnh, điều kiện nhất định khi Việt Nam mới xây dựng chính quyền nhân dân,
40
xây dựng hệ thống pháp luật XHCN và thực hiện chuyên chính vô sản để bảo
vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Tuy nhiên, khi các điều kiện lịch sử nói
trên không còn nữa, việc duy trì phạm vi kiểm sát quá rộng nhƣ trên không
còn phù hợp. Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đƣợc sửa đổi theo hƣớng thu hẹp
phạm vi này lại, hiện nay Viện kiểm sát chỉ còn kiểm sát các hoạt động tƣ
pháp, và trong BLTTHS 2003, là kiểm sát việc TTPL của các chủ thể hoạt
động tố tụng hình sự.
Có thể nói, mỗi nhà nƣớc đều phải có cơ chế giám sát việc TTPL với
những hình thức giám sát nhất định. Ở các nƣớc theo thuyết Tam quyền phân
lập, cơ chế đối trọng quyền lực đã tạo ra sự giám sát rất có hiệu quả việc thực
hiện pháp luật của cả ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Đây cũng là
một trong những lý do khiến các quốc gia này không cần thiết phải tổ chức
một cơ quan kiểm sát việc TTPL với tƣ cách là một trong bốn hệ thống cơ
quan Nhà nƣớc nhƣ mô hình Viện kiểm sát ở các nƣớc XHCN. Tất nhiên,
việc so sánh vị trí, chức năng của Viện công tố trong các nhà nƣớc theo thuyết
Tam quyền phân lập với vị trí, chức năng của Viện kiểm sát trong Nhà nƣớc
XHCN chỉ có ý nghĩa tƣơng đối.
Tại các quốc gia theo quan điểm quyền lực nhà nƣớc thống nhất không
phân chia, mô hình tổ chức một cơ quan chuyên trách việc kiểm sát hoạt động
TTPL là điều khá phổ biến, mà cơ bản là các nƣớc XHCN trƣớc kia. Hiện
nay, mô hình này tồn tại ở rất ít quốc gia trên thế giới. Nhìn lại lịch sử lập
pháp Việt Nam, dƣới triều đại phong kiến, mô hình Nhà nƣớc tập quyền là
chủ đạo với hai điển hình là bộ máy Nhà nƣớc nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn
đều tồn tại hệ thống các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát. Năm 1465,
vua Lê Thánh Tông đã đƣa ra mô hình lục Viện - lục Khoa.[39: tr 125]
Lục Viện tƣơng ứng với sáu bộ trong nội các và lục khoa là sáu cơ quan kiểm
sát hoạt động của sáu viện. Lục khoa, lục viện độc lập với nhau và chịu trách
nhiệm trƣớc nhà vua. Nhà Nguyễn sau này tiếp tục mô hình trên của nhà Lê
41
nhƣng đẩy mức độ kiểm sát lên tầm cao hơn. Các Viện đổi lại thành các Bộ
và có sáu Khoa tƣơng ứng có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm tra, giám sát việc
thi hành nhiệm vụ của các bộ và các cơ quan nhà nƣớc khác ở trung ƣơng.[39:
tr 192] Trong số mƣời hai cơ quan này có Hình viện và Hình khoa. Hình viện
có các nhiệm vụ trong lĩnh vực pháp luật (chủ yếu là hình luật) với việc xét
xử những trọng án, phúc thẩm những nghi án liên quan đến chế độ quản ngục,
giam giữ. Hình khoa có nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động này của Hình viện.
Có thể nói, những đƣờng nét rất rõ ràng của hoạt động kiểm sát việc TTPL và
kiểm sát các hoạt động tƣ pháp đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử nƣớc ta, thể
hiện tính tất yếu của mô hình cơ quan kiểm sát đặc thù trong các nhà nƣớc tổ
chức bộ máy theo hƣớng tập trung quyền lực. Điều này cũng thể hiện những
bƣớc tiến rất đáng ghi nhận về pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói
riêng của Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam trung đại.
42
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TÔ TỤNG HÌNH SỰ
2.1 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự
2.1.1 Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các cơ sở quan trọng
và chủ yếu để xác định dấu hiệu của tội phạm. Tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố chính là những kênh thông tin về tội phạm đƣợc công dân,
cơ quan, tổ chức, phƣơng tiện thông tin đại chúng truyền tải tới các cơ quan
bảo vệ pháp luật nhằm giúp các cơ quan này nhanh chóng phát hiện, ngăn
chặn và xử lý tội phạm. Chính vì vậy, BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 đều
quy định tƣơng đối cụ thể trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm do cá nhân, tổ chức và kiến nghị khởi tố do các cơ quan Nhà nƣớc
chuyển đến. Đối với Viện kiểm sát, theo Điều 103 BLTTHS, sau khi đã tiếp
nhận, “Viện kiểm sát phải chuyển ngay các tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố
kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm
quyền” và “kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”. Viện kiểm sát không có trách nhiệm
trực tiếp xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; chỉ có
“Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra xác minh
nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự”. Để đảm bảo “phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh,
kịp thời mọi hành vi phạm tội”, BLTTHS quy định rất chặt chẽ về thời hạn
kiểm tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: 20 ngày
43
trong các trƣờng hợp thông thƣờng hoặc 2 tháng trong trƣờng hợp có nhiều
tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh ở nhiều địa điểm.
Khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát phải làm rõ các nội dung sau:
- Cơ quan điều tra có thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh
nguồn tin không?
- Cơ quan điều tra có đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động
kiểm tra, xác minh nguồn tin không?
- Cơ quan điều tra có đảm bảo thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin để
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự không?
Muốn làm rõ ba nội dung trên, Viện kiểm sát phải nắm đƣợc việc Cơ
quan điều tra có tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố hay không. Tuy
nhiên, BLTTHS không quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc
tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Kênh nhận
biết việc tiếp nhận nguồn tin của Cơ quan điều tra chính là từ hoạt động tiếp
nhận và chuyển giao các tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố mà Viện kiểm sát
đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra và hoạt động kiểm tra sổ tiếp nhận tin báo,
tố giác, kiến nghị khởi tố (sổ trực ban) của Cơ quan điều tra. Theo số liệu
thăm dò xã hội học, 105/120 số cán bộ kiểm sát và Kiểm sát viên đƣợc hỏi
cho rằng Viện kiểm sát nắm bắt thông tin qua kiểm tra thƣờng kì sổ tiếp nhận
tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan điều tra. Những ý kiến còn lại cho
rằng Viện kiểm sát còn nắm bắt thông tin về tội phạm qua các kênh thông tin
khác nhƣ trực tiếp tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm hoặc nghe báo cáo về
tình hình tội phạm của Cơ quan điều tra.
Về kênh nhận biết thông tin thứ nhất (trực tiếp tiếp nhận tin báo, tố giác
về tội phạm, kiến nghị khởi tố), thực tế các báo cáo tổng kết công tác của
44
ngành kiểm sát hằng năm cho thấy, Viện kiểm sát không nắm đƣợc các thống
kê số lƣợng tin báo, tố giác mà Viện kiểm sát đã tiếp nhận, lại càng không có
các con số thống kê số lƣợng tin báo, tố giác mà Cơ quan điều tra đã tiếp
nhận. Tuy nhiên, số lƣợng tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố trực tiếp chuyển
tới Cơ quan điều tra lớn hơn rất nhiều số lƣợng tin báo, tố giác, kiến nghị khởi
tố trực tiếp chuyển tới Viện Kiểm sát. Bởi vì, trong tỷ lệ nguồn tin về tội
phạm, số lƣợng tin báo, tố giác nhiều hơn nhiều lần số lƣợng kiến nghị khởi
tố. Tin báo, tố giác về tội phạm chủ yếu do quần chúng nhân dân cung cấp.
Trong sự lựa chọn cơ quan công an hay Viện kiểm sát để thông tin về tội
phạm, ngƣời dân sẽ lựa chọn cơ quan công an nhiều hơn vì: thứ nhất, Viện
kiểm sát cũng chỉ là một khâu trung gian - phải chuyển lại thông tin cho Cơ
quan điều tra; thứ hai, Cơ quan điều tra có một mạng lƣới phối hợp - tiếp
nhận thông tin về tội phạm trong cùng hệ thống là cơ quan công an các cấp,
trong khi ngƣời cung cấp thông tin phải lựa chọn chủ thể tiếp nhận thông tin
có khả năng đảm bảo đƣợc tính nhanh chóng, kịp thời của hoạt động phát hiện
và ngăn chặn tội phạm.
Kênh nhận biết việc tiếp nhận thông tin thứ hai là kiểm tra thƣờng kì sổ
tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Ở một số
Cơ quan điều tra, tồn tại hiện tƣợng cố tình không xử lý về hình sự các trƣờng
hợp cần phải khởi tố. Do vậy, để hợp thức hóa, không phải ra Quyết định
không khởi tố vụ án sau này, Cơ quan điều tra sẽ không đƣa các tin báo, tố
giác đó vào trong sổ tiếp nhận. Một hậu quả pháp lý kéo theo là, nếu Cơ quan
điều tra không khởi tố vụ án - không ra Quyết định không khởi tố vụ án thì
Viện kiểm sát không có thông tin để yêu cầu khởi tố và không sử dụng đƣợc
quyền hủy bỏ Quyết định không khởi tố vụ án để tự ra Quyết định khởi tố vụ
án theo quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS.
Ngoài ra, một số Cơ quan điều tra còn thoái thác, tránh né khi Viện
kiểm sát thực hiện việc kiểm tra thƣờng kì nhƣ viện lý do công tác không có
45
mặt tại trụ sở vào những ngày đã có trong lịch kiểm tra của Viện kiểm sát...
Vậy là, những tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố mà cá nhân, cơ quan, tổ chức
trực tiếp chuyển đến Cơ quan điều tra, nếu Cơ quan điều tra không hợp tác thì
Viện kiểm sát rất khó biết cũng nhƣ rất khó kiểm sát việc giải quyết các thông
tin đó. Do vậy, việc không quy định trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát
đối với hoạt động tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm đã tạo ra một lỗ hổng rất
lớn ngay ở “đầu vào” của tố tụng hình sự. Việc làm rõ Cơ quan điều tra có
thực hiện hoạt động kiểm tra xác minh nguồn tin không và Cơ quan điều tra
có đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin
không, là điều không đơn giản trên thực tế.
Vì không kiểm sát đƣợc chính xác việc tiếp nhận tin báo, tố giác của
Cơ quan điều tra nên Viện kiểm sát rất khó xác định đƣợc thời hạn kiểm tra,
xác minh tin báo, tố giác có đảm bảo không, khi tiếp nhận có ghi vào sổ tiếp
nhận không, có ghi đúng ngày tiếp nhận không. Điều này dẫn đến hiện tƣợng
ở một vài địa phƣơng, dù có tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm thì Cơ quan
điều tra cũng không làm hết trách nhiệm kiểm tra, xác minh hoặc không ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Ví dụ: vụ Nguyễn Văn Cầm ở thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, tỉnh Long
An phạm tội Hiếp dâm ngày 13/7/2004, Cơ quan điều tra tiếp nhận tố giác
nhƣng không kịp thời xác minh xử lý nên đã để Nguyễn Văn Cầm bỏ trốn
khỏi nơi cƣ trú, đến 19/10/2004 mới khởi tố vụ án.[55] Những sai phạm, tiêu
cực nhƣ ví dụ trên vì thế cũng không đƣợc phát hiện và xử lý. Đây là một
trong những kẻ hở của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay cũng nhƣ
một rào cản đối với hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội
phạm của Viện kiểm sát trên thực tế.
46
2.1.2. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự
“Khởi tố” vụ án trong tố tụng hình sự, hiểu theo nghĩa Hán Việt, là sự
khởi đầu của tố tụng, của quá trình giải quyết vụ án. Điều 109 BLTTHS quy
định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc khởi tố vụ án hình sự”. Điều 104 BLTTHS 2003 vẫn tiếp tục
giữ nguyên quy định tại Điều 88 BLTTHS 1988: “Quyết định khởi tố vụ án
hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật hình sự
đƣợc áp dụng và họ tên, chức vụ ngƣời ra quyết định”. Nhiệm vụ của hoạt
động kiểm sát việc TTPL trong việc khởi tố là góp phần bảo đảm mọi tội
phạm phát hiện đều phải đƣợc khởi tố thông qua kiểm sát tính có căn cứ và
tính hợp pháp của quyết định khởi tố.
Kiểm sát tính có căn cứ của quyết định khởi tố chính là việc kiểm tra đã
có dấu hiệu của tội phạm để khởi tố chƣa và dấu hiệu đó tại thời điểm khởi tố
phù hợp với khoản nào của điều luật phần riêng BLHS. Khi nghiên cứu thực
tiễn hoạt động kiểm sát tính có căn cứ của quyết định khởi tố, chúng tôi nhận
thấy tồn tại một vấn đề sau:
Rất nhiều Điều tra viên và Kiểm sát viên khi đƣợc hỏi cho rằng, về mặt
lý luận, cơ sở và mục đích của hoạt động khởi tố chỉ là xác định có hay không
có dấu hiệu của tội phạm, trong khi đó, quyết định khởi tố vụ án hình sự lại
phải làm rõ cả “... khoản của BLHS đƣợc áp dụng”. Về mặt thực tiễn, việc
xác định “khoản” của điều luật trong quyết định khởi tố là tƣơng đối khó khăn
khi chủ thể khởi tố phải bắt đầu từ việc làm rõ các “điểm” trong “khoản” của
điều luật - bởi tại thời điểm khởi tố, chƣa thể thu thập đầy đủ các thông tin về
tội phạm. Do đó, nếu BLTTHS quy định quyết định khởi tố phải chi tiết đến
“khoản” của điều luật BLHS thì sẽ không đúng với nhận thức chung về chức
năng, nhiệm vụ của hoạt động khởi tố. Vì vậy, việc chỉ để tuân thủ điều luật
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

More Related Content

What's hot

Tranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaTranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaHung Nguyen
 

What's hot (17)

Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
 
Tranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaTranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toa
 
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụngLuận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
Luận văn: Tố tụng hình sự và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOTLuận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữLuận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
Luận văn: Hình phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩmThẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc NinhLuận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Bắc Ninh
 
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAYĐề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư phápThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 

Similar to Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703OnTimeVitThu
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...OnTimeVitThu
 
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (20)

Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụngMô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và áp dụng tố tụng tranh tụng
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂMBài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
Bài mẫu Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, 9 ĐIỂM
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfchimloncamsungdinhti
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...songtoan982017
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxsongtoan982017
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phươnglamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...Nguyen Thanh Tu Collection
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hàlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptphanai
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
QUẢN LÝ TRUNG TÂM GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP – GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN HUYỆN LẬP THẠC...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
NHKTS SLIDE B2 KHAI NIEM FINTECH VA YEU TO CUNG CAU DOI MOI TRONG CN_GV HANG ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptxNGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 1 B 1 2024.pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của n...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy PhươngLuận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại Trung tâm nghiên cứu gia cầm Thụy Phương
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng HàLuận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

  • 1. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN CHI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số : LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2005
  • 2. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ LAN CHI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 50514 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI – NĂM 2005
  • 3. 3 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự TTPL tuân theo pháp luật TAND Tòa án nhân dân THQCT thực hành quyền công tố VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân Tối cao XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 4. 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 7 1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7 1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 7 1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc TTPL 11 1.1.2.1 Đối tƣợng, phạm vi kiểm sát 11 1.1.2.2 Hình thức thức kiểm sát 13 1.1.3 Phân biệt khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự 16 1.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự Việt Nam 19 1.2.1 Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố 19 1.2.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 20 1.3 Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trên thế giới 23 1.3.1 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật Anglo Saxon 24 1.3.2 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống 25
  • 5. 5 pháp luật Châu Âu lục địa 1.3.3 Mô hình mô hình tổ chức thực hiện hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật XHCN (trƣớc đây) và Việt Nam hiện nay 27 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 35 2.1 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự 35 2.1.1 Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố 35 2.1.2 Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự 39 2.1.3 Kiểm sát một số hoạt động điều tra 42 2.1.3.1 Kiểm sát khám nghiệm hiện trƣờng 42 2.1.3.2 Kiểm sát các hoạt động hỏi cung, lấy lời khai của những ngƣời tham gia tố tụng 46 2.1.3.3Kiểmsát việcápdụng, thayđổi, hủybỏ các biệnphápngănchặn 47 2.2 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự 50 2.2.1 Kiểm sát hoạt động chuẩn bị xét xử, thành phần và sự có mặt của những ngƣời tiến hành và tham gia tố tụng tại phiên tòa 51 2.2.2Kiểmsát việc thực hiệngiớihạn xét xửcủaHộiđồngxét xử 52 2.2.3 Kiểm sát việc TTPL của Hội đồng xét xử trong quá trình điều khiển phiên tòa 53 2.2.4 Kiểm sát việc TTPLsau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm 58 2.2.5 Kiểm sát xét xử phúc thẩm 61
  • 6. 6 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 63 3.1 Đề xuất về việc hoàn thiện pháp luật 63 3.1.1 Đề xuất bổ sung quy định Viện kiểm sát kiểm sát việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra 64 3.1.2 Đề xuấtbãibỏquyđịnhvềquyềnkhởitốvụáncủaHộiđồngxétxử 64 3.1.3 Đề xuất hoànthiệncác quyđịnh về khám nghiệm hiện trƣờng 65 3.1.4 Đề xuất hoàn thiện các quy định về chế định biện pháp ngăn chặn và kiểmsát việc áp dụng, thayđổi, hủy bỏ các biệnpháp ngănchặn 66 3.2 Giải pháp về nhân sự - tổ chức của ngành kiểm sát 67 3.2.1 Giải pháp về vấn đề nhận thức, phƣơng pháp làm việc và cách giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho Kiểm sát viên 67 3.2.2 Giải pháp về nâng cao trình độ đội ngũ Kiểm sát viên 72 3.2.3 Giảipháp về cơ chế tổ chức công việc của ngành kiểmsát 73 3.3 Giải pháp về nâng cao hiệu quả của các thiết chế hỗ trợ việc kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 75 3.3.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia tố tụng 76 3.3.1.1 Giải pháp về nâng cao vai trò của luật sƣ 76 3.3.1.2 Giải pháp về nâng cao vai trò của những ngƣời tham gia tố tụngkhác 77 3.3.2 Giảipháp về nângcaovaitròcủacáccơquanthôngtấn, báochí 79
  • 7. 7 3.4 Một số đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vị trí của cơ quan Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp từ năm 2006 đến năm 2020 81 3.4.1 Đề xuất về việc không tiếp tục duy trì hoạt động kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự 83 3.4.2 Đề xuất bỏ quy định về hoạt động kiểm sát việc TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng 85 3.4.3 Đề xuất về việc điều chỉnh chức năng, vị trí cơ quan Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nƣớc 87 KẾT LUẬN 91 PHỤ LỤC: PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN VÀ BẢNG TỔNG KẾT KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI CÁC VKSNDĐỊA PHƢƠNG 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong những năm vừa qua, công tác tƣ pháp nói chung và công tác giải quyết án hình sự nói riêng đã có những chuyển biến đáng kể, đặc biệt là sau sự ra đời Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/1/2002 “về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới” và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Dƣới sự định hƣớng và điều chỉnh của những văn bản này, các hoạt động tố tụng hình sự đƣợc tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của ngƣời tham gia tố tụng đƣợc đảm bảo hơn, xu thế mở rộng tranh tụng và dân chủ hoá hoạt động tố tụng cũng tiếp tục đƣợc khẳng định và mở rộng. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cho thấy còn tồn tại nhiều hiện tƣợng vi phạm pháp luật của chính các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Đó là những vi phạm về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn tố tụng, thậm chí tồn tại những hiện tƣợng vi phạm nghiêm trọng pháp luật nhƣ cố ý không xử lý về hình sự, không thực hiện đầy đủ các hoạt động điều tra nhằm thu thập những chứng cứ quan trọng, không đảm bảo các quyền bào chữa cơ bản của ngƣời bị buộc tội, tình trạng tham nhũng, tha hoá của một bộ phận không nhỏ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và các chức danh tƣ pháp khác. Điều đáng quan ngại là số lƣợng các vi phạm pháp luật kể trên bị phát hiện, xử lý quá muộn, quá ít, không tƣơng xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Để xảy ra tình trạng trên, Viện kiểm sát có một phần trách nhiệm không nhỏ, bởi vì, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là một chức năng hiến định của Viện kiểm sát (và trong tố tụng hình sự, pháp luật quy định Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc TTPL). Tuy nhiên, tại sao dù có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhƣ vậy nhƣng công tác kiểm sát việc TTPL chƣa thật sự hiệu
  • 9. 9 quả? Xuất phát từ những bất cập và hạn chế gì? Giải pháp nào để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả công tác kiểm sát?… Đây là những vấn đề cần đƣợc nghiên cứu một cách khách quan và toàn diện. Tiến trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện đang đƣợc đẩy mạnh, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị khoá IX về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020, dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X... đã đƣa ra những quan điểm cải cách mang tính đột phá trong việc tổ chức lại hệ thống Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong đó, Viện kiểm sát đƣợc chuyển đổi thành Viện công tố. Điều này đặt ra những cách tiếp cận mới, những cách nhìn mới cả trên phƣơng diện lý luận và thực tiễn về kiểm sát hoạt động tƣ pháp, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Xuất phát từ những lý do mang tính thời sự nêu trên cùng sự quan tâm, mong muốn tìm hiểu của bản thân, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là một đề tài không mấy mới mẻ trong khoa học luật tố tụng hình sự, nhất là trong giới khoa học kiểm sát, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này nhƣ: đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc THQCT và kiểm sát hoạt động tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị” năm 2002 của Viện Khoa học Kiểm sát - VKSNDTC, luận văn thạc sĩ luật học “Kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự” năm 2004 của học viên cao học Trần Công Hoà, các bài nghiên cứu “Nâng cao chất lƣợng công tác công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp” của Phạm Xuân Khánh trên Tạp chí Kiểm sát số 5/1999, “Những biện pháp chủ yếu về nâng cao chất lƣợng kiểm sát hoạt động tƣ pháp và THQCT trong năm 2002” của Hoàng
  • 10. 10 Công Huấn trên Tạp chí Kiểm sát số 2/2002… Tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu một hoặc một số nội dung của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự nhƣ hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự hoặc kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn khởi tố - điều tra của tố tụng hình sự. Mặt khác, tới thời điểm hiện nay, chƣa có công trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc TTPL trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử vụ án hình sự. Đặc biệt, cũng chƣa có công trình nào nghiên cứu về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tƣ pháp đang và sẽ diễn ra mạnh mẽ và toàn diện trong thời gian tới. Do vậy, có thể coi đây là công trình nghiên cứu đầu tiên về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự với các nội dung nhƣ trên đƣợc triển khai ở cấp độ một luận văn thạc sỹ luật học. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Ngay từ tên gọi, đề tài đã giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ dừng lại ở một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Điều này nhằm đảm bảo tính chuyên sâu cần thiết của mỗi nội dung đƣợc lựa chọn đề cập. Theo quy định của pháp luật, hoạt động kiểm sát việc TTPL đƣợc tiến hành trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trong việc xét xử các vụ án hình sự; trong việc thi hành bản án, quyết định hình sự của TAND; trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Tuy nhiên, do tính chất đa dạng, phức tạp và nhiều khía cạnh của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, trong giới hạn một luận văn thạc sỹ, đề tài chỉ có thể đề cập một số vấn đề của kiểm sát việc TTPL trong việc điều tra và xét xử các vụ án hình sự mà theo quan điểm của tác giả, là cơ bản và quan trọng hơn cả. Những nội dung đƣợc lựa chọn đề cập trong luận văn phải là những vấn đề
  • 11. 11 tiêu biểu, làm rõ đƣợc các vấn đề lý luận và khái quát đƣợc thực tế kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết đƣợc các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, trên cơ sở phƣơng pháp luận nền tảng của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng phối hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp. Đặc biệt, phƣơng pháp khảo sát, thăm dò ý kiến những ngƣời làm công tác thực tiễn... đƣợc sử dụng ở mức độ đáng kể trong quá trình nghiên cứu luận văn. 5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn này là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự; đánh giá thực trạng, xác định các nguyên nhân, điều kiện tác động tới quá trình triển khai thực hiện, từ đó, hƣớng tới các giải pháp, đề xuất nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đồng thời, phác thảo những đƣờng nét ban đầu cho thiết chế kiểm tra, giám sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự sau khi kiểm sát việc TTPL không còn là một chức năng luật định của Viện kiểm sát đƣợc ghi nhận trong BLTTHS nhƣ hiện nay. Với cách đặt vấn đề nhƣ trên, tác giả luận văn đặt cho mình những nhiệm vụ sau: 1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và làm rõ các thành tố cấu thành nên khái niệm đó, phân biệt khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự với các khái niệm gần nó; 2. Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện hoạt động THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự tại một số quốc gia trên thế giới
  • 12. 12 nhằm trả lời các câu hỏi mang tính chất lý luận – lịch sử về mô hình chúng ta đang áp dụng hiện nay và sẽ hƣớng tới trong tƣơng lai; 3. Tập trung nghiên cứu thực tế thực hiện một số hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra, xét xử vụ án hình sự; 4. Đƣa ra các giải pháp, đề xuất về hoàn thiện pháp luật, về tổ chức - nhân sự, về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của cơ quan Viện kiểm sát... cũng nhƣ các giải pháp, đề xuất nâng cao vai trò của các thiết chế hỗ trợ việc kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên: 1. Đƣa ra khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự và so sánh khái niệm này với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự; 2. Từ việc phân tích thực trạng hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đƣa ra những cách nhìn mới mẻ, mạnh dạn và trung thực về thực chất một số hoạt động tố tụng đƣợc tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hiện nay; 3. Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự từ góc nhìn tƣơng đối thực tế và hiện đại; 4. Luận chứng các cơ sở cho những đề xuất về điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, vị trí của Viện kiểm sát trong chiến lƣợc cải cách tƣ pháp ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2020 theo định hƣớng trở thành Viện công tố. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chƣơng:
  • 13. 13 - Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; - Chƣơng 2: Một số vấn đề về thực trạng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; - Chƣơng 3: Một số giải pháp và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
  • 14. 14 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Nhận thức chung về kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự 1.1.1 Khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, tố tụng hình sự là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Nói cách khác, “tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật”. [8] Nhƣ vậy, các hoạt động trong tố tụng hình sự bao gồm: - Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự. Cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự là các cơ quan Nhà nƣớc chuyên trách thực hiện việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự. - Hoạt động của những ngƣời tiến hành tố tụng. Ngƣời tiến hành tố tụng là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, đƣợc bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự. - Hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng: hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng
  • 15. 15 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác; hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch). BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc chủ động phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn tội phạm, trong việc thực hiện các biện pháp cƣỡng chế của tố tụng hình sự... Nhƣ vậy, hoạt động của các chủ thể trên, trong những trƣờng hợp nhất định, cũng là các hoạt động trong tố tụng hình sự. Khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay chƣa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự”. “Kiểm sát” ở tầng nghĩa phổ thông, Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “là kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” [37: tr 523]. Theo đó, nội dung của khái niệm “kiểm sát” là hoạt động kiểm tra với đối tƣợng kiểm tra là việc chấp hành pháp luật. Nhƣ vậy, định nghĩa này chƣa chỉ ra chủ thể của hoạt động kiểm sát. Pháp luật thực định chỉ quy định một loại chủ thể có chức năng kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đó là Viện kiểm sát. Điều 23 BLTTHS 2003 quy định: …Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải đƣợc xử lý kịp thời; việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội.
  • 16. 16 Nhƣ vậy, theo BLTTHS 2003, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự đối với Viện kiểm sát là một chức năng, một nghĩa vụ luật định. Tham gia vào “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” trong tố tụng hình sự không chỉ có Viện kiểm sát mà còn có các chủ thể khác nhƣ ngƣời tham gia tố tụng, các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cá nhân công dân và toàn thể xã hội nói chung. Quyền “kiểm tra việc chấp hành pháp luật của Nhà nƣớc” trong tố tụng hình sự của các chủ thể khác xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và quyền công dân. Điều 56 Hiến pháp nƣớc Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nƣớc và xã hội”. Điều 8 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định: “Cơ quan Nhà nƣớc, Uỷ ban Mặt trận trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra...”. Đối với những chủ thể này, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng không phải là chức năng hoạt động mà là các quyền, nghĩa vụ phái sinh từ chức năng hoạt động hay các quyền, các hoạt động mang tính tự nguyện. Về bản chất, các hoạt động của những chủ thể này nhƣ: theo dõi, yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng báo cáo tình hình hoạt động, yêu cầu trả lời lý do ra các quyết định, yêu cầu chấm dứt, khắc phục vi phạm... cũng hƣớng tới việc “phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật” và “loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân” trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, các hoạt động trên không thể coi là hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự mà chỉ là các hoạt động giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Sự khác nhau giữa hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát và hoạt động giám sát của các chủ thể khác chính là hình thức thực hiện mà cụ thể là phƣơng thức và các quyền năng mà pháp luật tố tụng hình sự cho phép khi thực hiện. Chính điều này làm cho hoạt động giám sát của các chủ thể khác không thể hiện chất “kiểm sát” nhƣ hoạt động kiểm sát của Viện
  • 17. 17 kiểm sát. Tuy nhiên, xuất phát từ ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hoạt động giám sát do các chủ thể khác thực hiện, có thể coi đây là các thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, khi đề cập đến các thiết chế bổ trợ cho hoạt động kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, không thể không nhắc tới vai trò giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Xuất phát từ đặc thù của mối quan hệ phối hợp - chế ƣớc trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Toà án có thể phát hiện và kiến nghị xử lý các quyết định, hành vi tố tụng của nhau và của Viện kiểm sát nếu nhận thấy có vi phạm pháp luật. Về thuật ngữ “tuân theo pháp luật”, theo quan điểm đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận, không thể giải thích bằng cách tách bạch “tuân theo” là gì và “pháp luật" là gì rồi ghép lại. “Tuân theo pháp luật” cần đƣợc hiểu không phải với tƣ cách là một tổ hợp ngôn ngữ, mà là một thuật ngữ pháp lý thống nhất, mang tính chỉnh thể để chỉ một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật. Theo lý luận chung về pháp luật, bốn hình thức thực hiện pháp luật bao gồm: Thứ nhất, áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nƣớc thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật hoặc tự mình căn cứ vào các quy định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thứ hai, sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện các quyền chủ thể của mình. Thứ ba, thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật). Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
  • 18. 18 Thứ tƣ, tuân theo pháp luật (tuân thủ pháp luật). Tuân theo pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm. Tuân theo pháp luật là một dạng thực hiện pháp luật mang tính chất thụ động, thể hiện ở việc các chủ thể phải kiềm chế bản thân để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Những quy phạm pháp luật cấm trong luật hình sự, hành chính đƣợc thực hiện dƣới hình thức này. [40: tr 463, 464] Nhƣ vậy, “tuân theo pháp luật” chỉ là một hình thức thực hiện pháp luật và là một hình thức thực hiện pháp luật ở mức độ tự giác thấp nhất. Nếu hiểu “tuân theo pháp luật” trong khái niệm “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự” nhƣ trên thì nội hàm của thuật ngữ “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” sẽ bị thu hẹp đáng kể. Trong khi đó, pháp luật thực định cho thấy đối tƣợng của “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” không chỉ có hoạt động TTPL (ở dạng thụ động) mà còn có những hoạt động thực hiện pháp luật ở mức độ cao hơn và những hoạt động này chiếm tỷ lệ đa số. Đó là những hoạt động áp dụng pháp luật, sử dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng. Việc “tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” ở góc độ thực tế, đã phải bao hàm tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Từ các phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là một nhóm quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có nội dung là kiểm tra, giám sát trực tiếp các hoạt động thực hiện pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự”. 1.1.2 Đối tƣợng, phạm vi và hình thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật
  • 19. 19 1.1.2.1 Đối tượng, phạm vi kiểm sát Để xác định đối tƣợng, phạm vi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, cần trả lời hai câu hỏi: thứ nhất, “tuân theo pháp luật” - vậy “pháp luật” đƣợc “tuân theo” là toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung hay là chỉ một lĩnh vực pháp luật cụ thể nào đó; thứ hai, hoạt động TTPL của những chủ thể nào là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Trả lời câu hỏi thứ nhất, cần hiểu “tuân theo pháp luật” trƣớc hết là tuân theo pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiệm vụ, quyền hạn của những ngƣời tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng khác... Do vậy, kiểm sát hoạt động của các chủ thể trong tố tụng hình sự chính là kiểm sát việc các chủ thể có tuân thủ các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, tuân theo cách xử sự luật định trong quan hệ phát sinh giữa các bên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hay không. Pháp luật đƣợc “tuân theo” cũng cần đƣợc hiểu là những quy định của pháp luật nội dung đƣợc áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào tố tụng hình sự, bên cạnh các hoạt động nhằm giải quyết vụ án hình sự, còn có những hoạt động khác, do lĩnh vực pháp luật khác điều chỉnh. Tuy nhiên, chỉ những quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động giải quyết vụ án hình sự mới có thể nằm trong ngoại diên của khái niệm “pháp luật” trong kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Thứ hai, trả lời câu hỏi hoạt động TTPL của chủ thể nào là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Nhƣ trên đã phân tích, các hoạt động trong tố tụng hình sự gồm có: hoạt động của những cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát - Toà án và tƣơng ứng là hoạt động của
  • 20. 20 những ngƣời tiến hành tố tụng: Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thƣ ký Toà án; hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng nhƣ ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, luật sƣ, bào chữa viên nhân dân, ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ngƣời bảo vệ quyền lợi của đƣơng sự, ngƣời làm chứng, ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch… hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân tham gia vào tố tụng hình sự trong những trƣờng hợp nhất định. Nói tóm lại, việc TTPL của các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự là đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Tất nhiên, đối tƣợng của kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự không thể bao gồm việc TTPL của chính bản thân Viện kiểm sát. 1.1.2.2 Hình thức kiểm sát Theo chúng tôi, hình thức kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là cách thức thực hiện hoạt động kiểm sát. Khi bàn tới hình thức kiểm sát, cần làm rõ hai vấn đề: 1, phƣơng thức kiểm sát (trực tiếp hay gián tiếp); 2, các quyền năng pháp lý mà Viện kiểm sát đƣợc sử dụng khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Thứ nhất, về phƣơng thức kiểm sát: Hiện nay, đa số các ý kiến thống nhất cho rằng phƣơng thức kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là sự kiểm tra, giám sát một cách trực tiếp, liên tục các hoạt động tố tụng cụ thể. Phƣơng thức kiểm sát này cho phép phân biệt hoạt động kiểm sát việc TTPL của Viện kiểm sát với hoạt động giám sát việc TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng, cơ quan dân cử, báo chí... Các chủ thể này không tham gia hoặc có tham gia vào tố tụng hình sự nhƣng chỉ trong một hoặc một số giai đoạn tố tụng và giám sát việc TTPL là mục đích phái sinh từ các quyền tố tụng và các quyền chủ thể của họ. Giám
  • 21. 21 sát việc TTPL trong tố tụng hình sự chủ yếu là những hoạt động đƣợc pháp luật ghi nhận dƣới dạng các quyền. Tùy vào vị trí và sự quan tâm của từng chủ thể, họ sẽ không sử dụng hoặc sử dụng các quyền này ở những mức độ khác nhau. Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc TTPL trong tố tụng hình sự một cách trực tiếp, liên tục do có đủ các cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí pháp lý đặc biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy…). Nói cách khác, trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố - điều tra - truy tố - xét xử và thi hành án. Viện kiểm sát cũng có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực tiếp tới các đối tƣợng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ án đƣợc theo đúng quy định của pháp luật, nói cách khác, để pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án. Tính trực tiếp, liên tục của hoạt động kiểm sát không nên hiểu là Viện kiểm sát phải có mặt, theo dõi và giám sát mọi hoạt động giải quyết vụ án đang diễn ra của các chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự. Viện kiểm sát không thể kiểm sát một cách trực tiếp từng hoạt động tố tụng. Tuỳ vào điều kiện thực tế về nhân sự, số lƣợng vụ án và tính chất từng loại án mà Viện kiểm sát sẽ quyết định khi nào phải tiến hành kiểm sát trực tiếp diễn tiến của một hoạt động tố tụng và khi nào kiểm sát thông qua kết quả của hoạt động tố tụng (sau khi hoạt động tố tụng đó đƣợc thực hiện). Ví dụ: trong quá trình chuẩn bị xét xử, Viện kiểm sát không thể kiểm sát trực tiếp việc Toà án giao quyết định đƣa vụ án ra xét xử và cũng không cần kiểm sát trực tiếp việc giao quyết định này. Bởi vì, chỉ cần qua kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Viện kiểm sát cũng sẽ nhận biết đƣợc việc Toà án đã giao quyết định hay chƣa. Trong khi đó, đối với hoạt động khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi, Viện kiểm sát phải kiểm sát trực tiếp, tại chỗ hoạt động khám
  • 22. 22 nghiệm. Trong quá trình giải quyết một vụ án cụ thể, các Kiểm sát viên đƣợc phân công THQCT và kiểm sát các hoạt động tố tụng trong vụ án phải xác định đƣợc hoạt động nào phải kiểm sát trực tiếp, hoạt động nào chỉ cần kiểm sát gián tiếp. Thứ hai, về các quyền năng pháp lý cụ thể của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự: Quyền năng của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự đƣợc thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định tại Điều 23, 36, 37, 113, 339 BLTTHS, Điều 4, 14, 18, 24, 27 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, có thể phân loại các quyền năng trên thành những nhóm sau: - Nhóm các quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật, đó là các quyền kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, hoạt động xét xử, hoạt động tạm giữ, tạm giam, quản lý vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù, hoạt động thi hành án hình sự (kiểm tra, giám sát việc tiến hành những hoạt động cụ thể, tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, yêu cầu cung cấp thông tin về vi phạm của Điều tra viên, thƣờng kỳ và bất thƣờng trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam, tại giam, yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, quản lý vào giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù… ) - Nhóm các quyền nhằm khắc phục, xử lý vi phạm: - Quyền yêu cầu khắc phục các vi phạm; - Quyền yêu cầu xử lý nghiêm minh Điều tra viên và những ngƣời có thẩm quyền khác đã vi phạm pháp luật; - Quyền kiến nghị, kháng nghị nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật.
  • 23. 23 - Quyền yêu cầu ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra, trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo... Tƣơng ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể khác trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Điều 114 BLTTHS quy định: “Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát…”. Điều 6 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Lực lƣợng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện những yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự”. 1.1.3. Phân biệt khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự Hiện nay trong tƣ pháp hình sự, có hai khái niệm hiện đang đƣợc sử dụng: “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự” và “kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự”. Để làm rõ khái niệm “kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự”, cần phân biệt nó với khái niệm “kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự”. Về khái niệm “hoạt động tƣ pháp”, ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tƣ pháp là hình thức thực hiện những thẩm quyền tƣơng ứng do luật định của hệ thống Toà án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nƣớc pháp quyền biến thành hiện thực. [13: tr 14] Ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tƣ pháp là hoạt động xét xử của Toà án và hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nƣớc và các tổ chức khác đƣợc Nhà nƣớc cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét
  • 24. 24 xử của Toà án. Toà án sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tƣ pháp, áp dụng các thủ tục tƣ pháp theo luật định để nhân danh Nhà nƣớc đƣa ra phán quyết cuối cùng. Hoạt động tƣ pháp cần đƣợc hiểu là hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Toà án. [27: tr 11-12] Nhƣ vậy, cả hai ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt động tƣ pháp chỉ là Toà án, hoặc lại mở rộng phạm vi chủ thể của hoạt động này tới cả các các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Toà án. Quan điểm của chúng tôi tƣơng đồng với cách hiểu tƣơng đối phổ biến hiện nay: hoạt động tƣ pháp là các hoạt động do cơ quan tƣ pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nƣớc, đƣợc thực hiện trong quá trình tố tụng, đƣợc điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án. Tuy nhiên, phạm vi của hoạt động tƣ pháp không bao gồm tất cả các hoạt động của cơ quan tƣ pháp. Bên cạnh hoạt động tƣ pháp, mỗi cơ quan tƣ pháp còn có nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Các lĩnh vực hoạt động khác không nhằm trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, do đó không nằm trong phạm vi đối tƣợng của kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Về khái niệm “kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự” đến nay vẫn tồn tại một số ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất dựa trên luật thực định cho rằng, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng nhƣ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. [56: tr 4-5]
  • 25. 25 Ý kiến thứ hai cho rằng, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và phần “tƣ pháp” trong thi hành án. [56: tr 3] Chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng, với tƣ cách là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là một dạng giám sát nhà nƣớc về tƣ pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát nhà nƣớc nói chung về tƣ pháp, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tƣ pháp và các cơ quan đƣợc giao một số thẩm quyền tƣ pháp trong quá trình tố tụng. Vì vậy, kiểm sát hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự khác với kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự ở phạm vi, đối tƣợng kiểm sát, cụ thể: Thứ nhất, hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do các cơ quan tƣ pháp và các cơ quan đƣợc giao thực hiện một số thẩm quyền tƣ pháp chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động có tính quyền lực nhà nƣớc. Các hoạt động TTPL không chỉ có các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ quan, tổ chức không phải là các cơ quan tƣ pháp, hoạt động của những ngƣời tham gia tố tụng. Thứ hai, hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng thực hiện pháp luật ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật, do các dạng thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những ngƣời tiến hành tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động TTPL trong tố tụng hình sự bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ của những ngƣời tham gia tố tụng. Nhƣ vậy, khái niệm kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự, phạm vi
  • 26. 26 kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm vi kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong tố tụng hình sự. 1.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1 Khái niệm quyền công tố và tực hành quyền công tố Trong lịch sử tƣ pháp hình sự Việt Nam, quyền công tố là một thuật ngữ pháp lý chính thức xuất hiện trong Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, về mặt lý luận, đúng nhƣ nhận xét của PGS. TSKH Lê Cảm: ... Hiện nay trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng ở Việt Nam, quyền công tố vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách thoả đáng, vẫn chƣa có công trình nào làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có căn cứ đảm bảo sức thuyết phục, tƣơng đối hoàn chỉnh và có hệ thống những vấn đề đã nêu với tính chất là một đối tƣợng nghiên cứu riêng biệt. [12: tr 15] Ở nƣớc ta, có quan điểm ngự trị trong thời gian dài cho rằng: quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nƣớc để đƣa các vụ việc vi phạm pháp luật ra xét xử nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nƣớc, bảo vệ trật tự pháp luật. Nói một cách khác, quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc nhân danh quyền lợi công để quyết định đƣa một sự việc ra xem xét để phán quyết. Quyền công tố bao trùm cả lĩnh vực pháp luật tố tụng dân sự và các lĩnh vực pháp luật khác. Quan niệm này đã quá mở rộng nội dung và phạm vi của quyền công tố. Gần với quan điểm trên, một quan điểm khác lại diễn đạt quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc cáo buộc các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những ngƣời theo quan điểm này xuất phát từ vị trí của Nhà nƣớc là một chủ thể pháp luật đặc biệt, đứng trên các chủ thể khác, có quyền đƣa mọi vi phạm pháp luật ra trƣớc Toà án để xét
  • 27. 27 xử vì Nhà nƣớc nhân danh quyền lực công, có trách nhiệm bảo vệ các lợi ích công. Ở một thái cực khác, lại có ngƣời đƣa ra quan điểm quyền công tố chỉ là quyền truy tố ngƣời phạm tội ra trƣớc Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà. Quan điểm này lại quá thu hẹp nội dung và phạm vi của quyền công tố, khẳng định quyền công tố chỉ gồm có hai quyền năng: quyền truy tố và quyền buộc tội tại phiên toà. Tuy nhiên, theo quan điểm đƣợc thừa nhận rộng rãi hiện nay, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nƣớc thực hiện việc buộc tội, nói cách khác, là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Nhƣ vậy, bản chất của quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội, do đó, quyền công tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuỳ vào các quan điểm về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và các điều kiện lịch sử, chính trị khác nhau, mỗi Nhà nƣớc giao cho một hay một số cơ quan nhất định trong bộ máy Nhà nƣớc thực hiện quyền công tố. Cơ quan đƣợc trao quyền THQCT phải có trách nhiệm bảo đảm tính hợp pháp của việc thu thập chứng cứ để xác định tội phạm và ngƣời phạm tội; thực hiện việc truy tố bị can ra trƣớc Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà. Nhƣ vậy, THQCT là việc hiện thực hoá quyền truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội với các quyền năng tƣơng ứng mà Nhà nƣớc trao cho hoặc một số cơ quan nhất định. Chúng tôi tán thành với quan điểm cho rằng THQCT là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội trong các giai đoạn điều tra - truy tố - xét xử. 1.2.2 Mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
  • 28. 28 Theo BLTTHS 2003, Viện kiểm sát có chức năng THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự. Trong phần này, căn cứ vào các quy định của pháp luật thực định, luận văn sẽ phân tích mối quan hệ giữa hai chức năng trên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ đó khái quát về tính chất, đặc điểm của mối quan hệ này theo mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trong giai đoạn khởi tố - điều tra, mối quan hệ giữa hai chức năng của Viện kiểm sát đƣợc thể hiện cụ thể ở những nội dung sau: Khi vụ án đƣợc khởi tố, Viện kiểm sát bắt đầu tiến hành kiểm sát việc TTPL nhƣ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra… Tuy nhiên, cũng có nhiều trƣờng hợp, khi chƣa khởi tố vụ án đã xuất hiện hoạt động kiểm sát, ví dụ hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi. Tiếp theo, Viện kiểm sát sẽ kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án. Viện kiểm sát có thể tán thành quyết định của Cơ quan điều tra hay ra quyết định huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan này để trực tiếp khởi tố vụ án. Sau khi có quyết định khởi tố vụ án, một loạt các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra đƣợc chính thức thực hiện. Để thực hiện các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố tụng nhƣ các biện pháp ngăn chặn, khám xét, thu giữ, kê biên… Viện kiểm sát sẽ kiểm sát các hoạt động điều tra và cả các hoạt động thực hiện những biện pháp cƣỡng chế tố tụng nêu trên. Đồng thời, Viện kiểm sát cũng kiểm sát việc TTPL của những ngƣời tham gia tố tụng… Nhờ có các hoạt động kiểm sát này, việc tiến hành một loạt các hoạt động thuộc nhóm quyền THQCT nhƣ đề ra yêu cầu điều tra, quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can… sẽ đạt đƣợc những hiệu quả cần thiết.
  • 29. 29 Ngƣợc lại, các hoạt động THQCT cũng sẽ tác động trở lại, mang tính chất hỗ trợ các hoạt động kiểm sát, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát. Kiểm sát tốt các hoạt động TTPL trong giai đoạn điều tra cũng là cơ sở cho hoạt động truy tố trong giai đoạn truy tố (pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn coi truy tố là một giai đoạn tố tụng độc lập). Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL trong việc xét xử, THQCT với việc đọc cáo trạng, xét hỏi, trình bày lời luận tội, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những ngƣời tham gia tố tụng tại phiên toà. Để bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ nội dung buộc tội, Viện kiểm sát cần dựa trên các kết quả của hoạt động điều tra đƣợc tiến hành một cách có căn cứ và hợp pháp từ các giai đoạn tố tụng trƣớc đó. Thực hiện tốt hoạt động kiểm sát việc TTPL là tiền đề cho việc thực hiện tốt hoạt động THQCT tại phiên toà. Nhƣ vậy, chức năng kiểm sát việc TTPL nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng đƣợc hợp pháp, khách quan, đầy đủ, tƣơng hỗ cho chức năng THQCT, cả hai chức năng đều có chung mục đích cao nhất là giải quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan và công bằng. Trong đó, chức năng kiểm sát việc TTPL đảm bảo cho hoạt động THQCT đi đúng hƣớng, đúng pháp luật, theo cách nói của PGS. TSKH Lê Cảm: ...Thực hiện tốt chức năng này không những là điều kiện quan trọng nhằm loại trừ các vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình thực hiện một loạt các hành vi tố tụng hình sự của các Cơ quan điều tra (nhƣ khởi tố và hỏi cung bi can, lấy lời khai ngƣời làm chứng, khám xét, thu giữ, kê biên tài sản,... ) mà còn là cơ sở đảm bảo cho việc truy tố đƣợc khách quan, đúng tội, đúng ngƣời và đúng pháp luật.[12: tr 17]
  • 30. 30 Cũng chính vì vai trò hỗ trợ rất đắc lực cho chức năng THQCT và vị trí không thể tồn tại khu biệt với chức năng THQCT, rất nhiều ngƣời cho rằng kiểm sát việc TTPL không thể tồn tại với tƣ cách một chức năng độc lập mà chỉ là một nội dung, một yêu cầu, một nhiệm vụ lớn của Viện kiểm sát và phái sinh từ chức năng THQCT. Theo quan điểm của chúng tôi, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, nếu căn cứ vào luật thực định, có thể coi kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự là một chức năng của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, “chức năng” luôn đƣợc hiểu là một phƣơng diện hoạt động cơ bản, một lĩnh vực tồn tại độc lập tƣơng đối với các lĩnh vực khác. Trong khi đó, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự, nhƣ phân tích ở phần trên, chƣa phải là một phƣơng diện hoạt động cơ bản, một lĩnh vực độc lập. Kiểm sát việc TTPL bao gồm những hoạt động bảo đảm các điều kiện cần thiết cho hoạt động THQCT. Hoạt động THQCT chỉ có thể dựa trên các chứng cứ đƣợc thu thập hợp pháp và kiểm sát việc TTPL chính là công cụ đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động thu thập chứng cứ và các hoạt động khác liên quan đến việc giải quyết vụ án. Do đó, dù không quy định kiểm sát việc TTPL là một chức năng của Viện kiểm sát thì để THQCT, Viện kiểm sát vẫn phải thực hiện hoạt động kiểm sát việc TTPL. Việc khảo cứu một số mô hình tổ chức THQCT và giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự trên thế giới trong phần dƣới đây của luận văn cũng phần nào làm rõ và mở rộng vấn đề này. 1.3 Khảo cứu một số mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trên thế giới Nhƣ chúng tôi đã từng đề cập, do quan điểm của mỗi quốc gia về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc, các điều kiện lịch sử - chính trị khác nhau, dẫn đến mô hình tổ chức thực hiện hoạt động thực hiện quyền công tố và giám sát, kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự của mỗi quốc gia là khác nhau.
  • 31. 31 1.3.1 Mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật Anglo - Saxon Nhìn chung, các nƣớc theo hệ thống luật Anglo - Saxon thƣờng sử dụng kiểu tố tụng tranh tụng, không tồn tại khái niệm kiểm sát và không coi kiểm sát việc TTPL hay kiểm sát hoạt động tƣ pháp là một chức năng của tố tụng hình sự hay chức năng của cơ quan công tố. Tố tụng tranh tụng quan niệm sự thật của vụ án đƣợc xác định thông qua hoạt động tranh tụng tự do giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Về nguyên tắc, hai bên tranh tụng có khả năng nhƣ nhau không chỉ khi tranh luận tại Toà án mà ngay từ giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ, các bên có rất nhiều cách khác nhau để đạt đƣợc mục đích buộc tội hay gỡ tội. Bên buộc tội phải đƣa ra các chứng cứ chứng minh có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, bên gỡ tội phải tìm mọi cách chứng minh hành vi không cấu thành tội phạm hoặc có các căn cứ để miễn, giảm trách nhiệm hình sự. “Hình thức tố tụng tranh tụng cũng không buộc các bên phải khách quan, công khai trong quá trình thu thập chứng cứ”, do đó, không đặt ra việc kiểm sát việc TTPL ngay từ giai đoạn điều tra, thu thập chứng cứ. [41: tr 78] Trong tố tụng tranh tụng, gần nhƣ chỉ có một giai đoạn chính thức duy nhất - giai đoạn xét xử và cũng là giai đoạn điều tra công khai tại phiên toà. Quá trình điều tra trƣớc đó đƣợc coi là giai đoạn chuẩn bị tố tụng hay giai đoạn tiền tố tụng. Việc TTPL trong giai đoạn chuẩn bị tố tụng đƣợc thể hiện trên cơ sở các kết quả điều tra - các chứng cứ buộc tội hay gỡ tội đƣợc đƣa ra xem xét tại phiên toà. Toà án đánh giá tính hợp pháp, tính xác thực và tính logic của các chứng cứ đó. Do vậy, Toà án cũng gián tiếp kiểm sát tính hợp pháp của các hoạt động thu thập chứng cứ. Nói cách khác, “chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật thuộc về Toà án”. [41: tr 79] Về nguyên tắc, nếu các tài liệu, đồ vật có thu thập đƣợc nhiều bao nhiêu chăng nữa nhƣng nếu
  • 32. 32 không chứng minh đƣợc nguồn gốc và không bảo đảm đƣợc tính hợp pháp của hoạt động điều tra, thu thập thì cũng không đƣợc chấp nhận. Điều này buộc các bên không phải chỉ đấu tụng thật thuyết phục tại phiên toà mà còn phải tuân thủ pháp luật nghiêm túc khi tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ. Trong mô hình tố tụng tranh tụng, Toà án là ngƣời đứng giữa bên công tố (bên buộc tội) và bên gỡ tội, là cơ quan có vị trí độc lập độc lập để xem xét tính hợp pháp của chứng cứ và gián tiếp kiểm tra sự tuân thủ pháp luật trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của cả hai bên. Chức năng THQCT đƣợc giao cho một cơ quan độc lập là Viện công tố và THQCT đƣợc coi là phƣơng diện hoạt động cơ bản, chủ yếu của cơ quan công tố. Cơ quan công tố chỉ đạo hoạt động điều tra và giám sát hoạt động điều tra để đảm bảo tính đầy đủ, khách quan, hợp pháp của hoạt động thu thập chứng cứ. Cơ quan công tố ở nhiều bang của Hoa Kỳ đƣợc coi là cơ quan truy tố.[31: tr 46-54] Trong khi đó, giám sát việc TTPL là cũng là một yêu cầu mang tính chất phái sinh từ chức năng xét xử của Toà án, không phải là phƣơng diện hoạt động cơ bản, chủ yếu của Toà án. Nhƣ vậy, chỉ tồn tại hoạt động giám sát mà không có khái niệm kiểm sát việc TTPL trong mô hình này. 1.3.2 Mô hình tổ chức thực hiện quyền công tố và giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa Về cơ bản, các nƣớc theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa mà điển hình là Cộng hoà Pháp sử dụng kiểu tố tụng thẩm vấn. Giai đoạn điều tra đƣợc đặc biệt nhấn mạnh và giai đoạn xét xử không đƣợc đặc biệt coi trọng nhƣ trong tố tụng tranh tụng. Tại phiên toà, Thẩm phán sẽ thực hiện hoạt động xét xử bằng cách tiếp tục điều tra (chủ yếu qua việc xét hỏi và đánh giá chứng cứ) trƣớc khi đƣa ra phán quyết cuối cùng. Do đó, chức năng buộc tội
  • 33. 33 và chức năng bào chữa của các bên tồn tại mờ nhạt hơn so với kiểu tố tụng tranh tụng. Hoạt động điều tra sơ bộ do các Điều tra viên - các Cảnh sát tƣ pháp thực hiện. Điều tra viên chịu sự chỉ đạo trực tiếp trong hoạt động điều tra của Công tố viên. Cảnh sát tƣ pháp còn phải chịu sự giám sát của Toà luận tội bên cạnh Toà phúc thẩm. Giai đoạn điều tra sơ bộ do Viện công tố chỉ đạo, khi việc điều tra hoàn tất thì vụ án đƣợc: 1, chuyển sang giai đoạn khởi tố vụ án - điều tra tại toà do Dự thẩm (là một Thẩm phán) thực hiện, hoặc: 2, chuyển trực tiếp cho Toà án xét xử. Sau khi thấy đã đầy đủ chứng cứ, Dự thẩm đƣa vụ án ra xét xử với các vụ phạm tội không quá nghiêm trọng thuộc thẩm quyền của Toà khinh tội và Toà vi cảnh. Với trọng tội, Dự thẩm chuyển hồ sơ cho Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm để giao lại cho Toà luận tội tại Toà phúc thẩm để điều tra cấp hai. Xét thấy đã đầy đủ chứng cứ, Toà luận tội đƣa bị can ra Toà đại hình để xét xử. Toà luận tội có hai chức năng: chức năng điều tra cấp hai và chức năng giám sát quá trình điều tra của dự thẩm. Toà luận tội gồm một Chánh toà và hai Thẩm phán. Đại diện của Viện công tố tại phân toà này là Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà phúc thẩm và các Phó Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh Toà phúc thẩm hoặc các Công tố viên. [30] Pháp luật nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa và pháp luật Chính quyền miền Nam Việt Nam trƣớc năm 1975 ảnh hƣởng nhiều của pháp luật Cộng hòa Pháp trong việc tổ chức bộ máy các cơ quan xét xử, công tố. Điều 5 Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 (về thành lập Tòa án quân sự của nƣớc Việt Nam Dân chủ cộng hòa) đã xác định các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong lĩnh vực tố tụng hình sự: “Tòa án quân sự đƣợc thành lập nhƣ sau: ngồi xử có Chánh án và hai hội thẩm... Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự hay Ủy viên của Ban trinh sát...”. Ở miền Nam Việt Nam:
  • 34. 34 Theo điều 77 và 78 Hiến pháp năm 1967, các Thẩm phán đƣợc chia làm hai ngành, xử án và công tố [17: tr 1]... Sự phân chia thẩm phán thành hai ngành và phân nhiệm giữa thẩm phán tọa xử với thẩm phán công tố trên đây không phải là một sáng kiến mới lạ của Hiến pháp 1967. Hiến pháp chỉ xác nhận một tình trạng cố hữu trong tổ chức tƣ pháp thời Pháp thuộc, đƣợc duy trì do chỉ dụ 4 ngày 18/10/1949. [17: tr 3] Nhƣ vậy, mô hình thực hiện quyền công tố và giám sát việc TTPL theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa khá phức tạp. Hoạt động công tố theo nghĩa gốc là truy cứu trách nhiệm hình sự ngƣời phạm tội đƣợc thực hiện bởi cả ba thiết chế tƣ pháp hình sự: Cảnh sát tƣ pháp - Dự thẩm - Toà luận tội. Hoạt động giám sát điều tra vừa do Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà sơ thẩm, Viện trƣởng Viện công tố bên cạnh toà phúc thẩm, vừa do Toà luận tội thực hiện. Nhƣ vậy, cơ quan công tố là cơ quan bên cạnh Toà án, vừa thực hiện hoạt động điều tra - công tố, vừa giám sát Cơ quan điều tra, không có hoạt động kiểm sát xét xử của Toà án. Theo mô hình này, kiểm sát việc TTPL không đƣợc coi là một chức năng của tố tụng hình sự mà chỉ tồn tại hoạt động giám sát của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm quá trình giải quyết vụ án đƣợc chính xác, khách quan và đúng pháp luật. 1.3.3 Mô hình tổ chức thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo hệ thống pháp luật XHCN (trƣớc đây) và Việt Nam hiện nay Ở các nƣớc XHCN trƣớc đây, THQCT chỉ là một trong các quyền cơ bản của Viện Kiểm sát. Viện kiểm sát là một trong bốn loại cơ quan Nhà nƣớc: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tƣ pháp và cơ quan kiểm sát. Vì thế: Quyền công tố ở đây không thuộc lĩnh vực hành pháp, cũng không thuộc lĩnh vực tƣ pháp theo quan niệm truyền thống mà thuộc
  • 35. 35 về một lĩnh vực khác của quyền lực Nhà nƣớc: quyền kiểm sát. Đây là khái niệm hoàn toàn mới của khoa học pháp lý, xuất hiện sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời Nga 1917.[15] Với cách tổ chức bộ máy Nhà nƣớc nhƣ trên, quyền công tố không phải chỉ có trong tố tụng hình sự, cũng không phải là một chức năng độc lập của Viện kiểm sát mà chỉ là một phƣơng thức để kiểm sát việc TTPL. Tại Việt Nam trƣớc đây, mô hình này đƣợc thể hiện rất rõ trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992. Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố bằng sáu công tác: công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, công tác kiểm sát điều tra; công tác kiểm sát xét xử; công tác kiểm sát giam giữ và cải tạo; công tác kiểm sát thi hành án và công tác điều tra tội phạm. Mô hình này đƣợc áp dụng triệt để đến mức các hoạt động kiểm sát việc TTPL bao trùm lên mọi hoạt động của xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ những vấn đề phát sinh trong thực tiễn thực hiện: thứ nhất, Viện kiểm sát không đủ khả năng về nhân lực và vật lực để kiểm sát tất cả các hoạt động của đời sống xã hội; thứ hai: không cần thiết phải kiểm sát tất cả các hoạt động của đời sống xã hội; thứ ba: hoạt động kiểm sát chung dẫn tới sự chồng chéo trong các hoạt động kiểm sát, thanh tra, giám sát và tạo nên một bộ phận “kiêu binh” và tha hoá trong cơ quan Viện kiểm sát vì có quá nhiều quyền lực - do đó, Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thu hẹp đáng kể phạm vi chức năng kiểm sát trƣớc kia. Bên cạnh chức năng THQCT, Viện kiểm sát chỉ còn hoạt động kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao THQCT và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp,
  • 36. 36 góp phần bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng, các Viện kiểm sát quân sự THQCT và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”. Cụ thể hóa bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 và BLTTHS 2003, mô hình tổ chức THQCT và kiểm sát việc TTPL trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay có những nét chính sau: - Viện kiểm sát nhân dân THQCT và kiểm sát việc TTPL trong việc điều tra các vụ án hình sự của các Cơ quan điều tra và các cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; - THQCT và kiểm sát việc TTPL trong việc xét xử các vụ án hình sự; - Kiểm sát việc TTPL trong việc thi hành bản án, quyết định hình sự của Tòa án nhân dân; - Kiểm sát việc TTPL trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, kiểm sát việc TTPL và THQCT đƣợc giao cho Viện kiểm sát. Viện kiểm sát kiểm sát việc TTPL của Cơ quan điều tra, của Tòa án, của các cá nhân và cơ quan khác tham gia vào tố tụng hình sự, kiểm sát việc TTPL trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù. Viện kiểm sát THQCT với các hoạt động đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra, truy tố bị can và bảo vệ quyết định truy tố của mình trƣớc Toà án... Nếu quan niệm tố tụng hình sự ở Việt Nam là kiểu “tố tụng buộc tội” nhƣ ý kiến một số ngƣời, hoạt động THQCT thực chất là nhiệm vụ của cả ba cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án. Trong đó, hoạt động điều tra về cơ bản do Cơ quan điều tra đảm nhận. Viện kiểm sát không tự mình tiến hành các hoạt động điều tra mà chủ yếu là sử dụng các kết quả điều tra
  • 37. 37 của Cơ quan điều tra để phục vụ cho hoạt động truy tố ở giai đoạn truy tố. Vì thế, bắt buộc Viện kiểm sát phải kiểm sát việc TTPL trong giai đoạn điều tra. Kiểm sát điều tra là cơ sở cho hoạt động THQCT ở giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố, bảo vệ quyết định truy tố ở giai đoạn xét xử sau này. Xét xử là giai đoạn điều tra cuối cùng, tại phiên toà, vụ án đƣợc điều tra một cách toàn diện nhất, công khai nhất nhƣng phần lớn do Toà án thực hiện với hoạt động xét hỏi của hội đồng xét xử. Một điểm đặc biệt trong tố tụng hình sự Việt Nam là Viện kiểm sát còn thực hiện hoạt động kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự. Trong khi đó, hầu nhƣ không một quốc gia nào trên thế giới quy định Viện kiểm sát hay Viện công tố có quyền kiểm sát việc TTPL trong việc xét xử các vụ án hình sự. Ngay cả pháp luật Liên bang Nga và pháp luật CHND Trung Hoa là nơi mà những tƣ tƣởng lập pháp XHCN còn tƣơng đối đậm nét, nơi mà nhiệm vụ kiểm sát việc TTPL của cơ quan Viện kiểm sát còn đƣợc ghi nhận trong các quy định của pháp luật, Viện kiểm sát cũng không đƣợc trao quyền năng này. Theo luật Liên bang Nga về Viện kiểm sát Cộng hòa liên bang Nga trƣớc đây, Viện kiểm sát kiểm sát việc chấp hành các đạo luật đang có hiệu lực trên toàn lãnh thổ, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các bộ, tổng cục thuộc Liên bang, kiểm sát việc chấp hành pháp luật của các cơ quan thực hiện các hoạt động trinh sát, nghiệp vụ, các Cơ quan điều tra, thẩm cứu, kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong việc điều tra, thẩm cứu, trong việc giam giữ, cải tạo, các trại chấp hành hình phạt, nơi tạm giam, tạm giữ.[31] Điều 37 BLTTHS Liên bang Nga đƣợc Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và đƣợc Hội đồng liên bang phê chuẩn ngày 5/12/2001 quy định: “Kiểm sát viên là ngƣời có chức vụ, quyền hạn, có quyền nhân danh Nhà nƣớc trong quá trình tố tụng hình sự và kiểm sát hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra ban đầu và Cơ quan điều tra dự thẩm trong phạm vi thẩm quyền đƣợc quy định trong Bộ luật này”. [46] Tại Trung Quốc, Viện kiểm sát thực hành quyền kiểm sát đối với các vụ án
  • 38. 38 phản quốc, chia rẽ đất nƣớc, giám sát hoạt động điều tra của công an, giám sát việc thi hành các phán quyết, quyết định của Tòa án trong các vụ án hình sự, hoạt động của các trại giam, nơi tạm giam và cơ quan cải tạo lao động và cũng không có quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. [31] Hoạt động kiểm sát xét xử đƣợc đặt ra với mục đích đảm bảo cho việc xét xử của Toà án đƣợc tiến hành đúng pháp luật, phát hiện nhanh chóng các vi phạm trong quá trình xét xử để có biện pháp khắc phục kịp thời, góp phần nâng cao chất lƣợng xét xử. Trên lý thuyết, đây là điểm hoàn toàn tiến bộ và tích cực của luật tố tụng hình sự Việt Nam, bởi vì, xét xử chính là giai đoạn điều tra cuối cùng trƣớc khi quyết định số phận pháp lý của một công dân. Nếu đã kiểm sát đƣợc hoạt động điều tra để hoạt động điều tra đƣợc khách quan, công bằng, hợp pháp và tiếp tục kiểm sát đƣợc hoạt động xét xử thì sẽ hạn chế đƣợc rất lớn các hiện tƣợng án oan, án sai, án tồn đọng … Tuy nhiên, việc triển khai mô hình này lại xuất hiện rất nhiều những điểm bất hợp lý. Chúng tôi sẽ làm rõ những điểm bất hợp lý này trong phần phân tích về thực trạng hoạt động kiểm sát xét xử trong Chƣơng II của luận văn. Ở đây, một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong tố tụng hình sự Việt Nam lại tồn tại mô hình cơ quan kiểm sát, tại sao Viện kiểm sát lại phải (đƣợc) kiểm sát quá nhiều hoạt động tố tụng nhƣ vậy? Câu trả lời nằm ở tính chất lịch sử - lý luận chứ không phải tính chất thực tiễn của vấn đề. Bởi vì, ở góc độ thực tiễn, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, gần nhƣ tất cả các quốc gia trên thế giới đều không quy định kiểm sát việc TTPL là chức năng cuả bất kì một cơ quan tiến hành tố tụng nào và cũng không thể chứng minh việc giải quyết các vụ án hình sự tại các quốc gia đó kém hiệu quả hơn Việt Nam hay tình hình tội phạm diễn biến tiêu cực hơn Việt Nam và ngƣợc lại.
  • 39. 39 Ở góc độ lý luận, theo chúng tôi, việc giải thích cần xuất phát từ quan điểm về tổ chức bộ máy của Nhà nƣớc ta và các yếu tố lịch sử, pháp lý khác. Nhƣ đã từng đề cập, hệ thống cơ quan Kiểm sát, quyền kiểm sát với tƣ cách là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nƣớc, một trong bốn loại quyền lực Nhà nƣớc mới xuất hiện sau khi ra đời Nhà nƣớc XHCN (thời điểm cách mạng Tháng mƣời Nga 1917). Điều này bắt nguồn từ tƣ tƣởng của Lênin về tổ chức bộ máy Nhà nƣớc và vấn đề pháp chế: Theo Lênin, pháp chế thì phải thống nhất, pháp chế không thống nhất thì không thể tiến hành công cuộc Cách mạng XHCN… yếu tố cản trở mạnh mẽ nhất, trực tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế XHCN là bệnh cục bộ, bản vị, địa phƣơng chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phƣơng, nhất thiết phải thành lập Viện kiểm sát. Viện kiểm sát có quyền và bổn phận chỉ làm một công việc mà thôi, tức là: “làm thế nào cho trong toàn nƣớc cộng hoà có một sự nhận thức thật sự thống nhất về pháp chế, dù là ở các địa phƣơng có những đặc điểm và ảnh hƣởng nhƣ thế nào chăng nữa”. [16: tr 9] Nhƣ vậy, Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát việc TTPL của các cơ quan Nhà nƣớc ở trung ƣơng cho đến các cơ quan, chính quyền địa phƣơng, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành thống nhất và nghiêm chỉnh, loại trừ mọi hiện tƣợng tiêu cực, tự nhiên, chống đối. Do điều kiện lịch sử - chính trị, chúng ta cũng đã áp dụng mô hình Viện kiểm sát với cách đặt vấn đề nhƣ trên trong một thời gian dài (cho tới năm 2002) với đặc trƣng là chức năng kiểm sát “chung” của Viện Kiểm sát. Mô hình này đã chứng minh tính hiệu quả và hợp lý của nó trong những hoàn cảnh, điều kiện nhất định khi Việt Nam mới xây dựng chính quyền nhân dân,
  • 40. 40 xây dựng hệ thống pháp luật XHCN và thực hiện chuyên chính vô sản để bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ. Tuy nhiên, khi các điều kiện lịch sử nói trên không còn nữa, việc duy trì phạm vi kiểm sát quá rộng nhƣ trên không còn phù hợp. Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đƣợc sửa đổi theo hƣớng thu hẹp phạm vi này lại, hiện nay Viện kiểm sát chỉ còn kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, và trong BLTTHS 2003, là kiểm sát việc TTPL của các chủ thể hoạt động tố tụng hình sự. Có thể nói, mỗi nhà nƣớc đều phải có cơ chế giám sát việc TTPL với những hình thức giám sát nhất định. Ở các nƣớc theo thuyết Tam quyền phân lập, cơ chế đối trọng quyền lực đã tạo ra sự giám sát rất có hiệu quả việc thực hiện pháp luật của cả ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Đây cũng là một trong những lý do khiến các quốc gia này không cần thiết phải tổ chức một cơ quan kiểm sát việc TTPL với tƣ cách là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nƣớc nhƣ mô hình Viện kiểm sát ở các nƣớc XHCN. Tất nhiên, việc so sánh vị trí, chức năng của Viện công tố trong các nhà nƣớc theo thuyết Tam quyền phân lập với vị trí, chức năng của Viện kiểm sát trong Nhà nƣớc XHCN chỉ có ý nghĩa tƣơng đối. Tại các quốc gia theo quan điểm quyền lực nhà nƣớc thống nhất không phân chia, mô hình tổ chức một cơ quan chuyên trách việc kiểm sát hoạt động TTPL là điều khá phổ biến, mà cơ bản là các nƣớc XHCN trƣớc kia. Hiện nay, mô hình này tồn tại ở rất ít quốc gia trên thế giới. Nhìn lại lịch sử lập pháp Việt Nam, dƣới triều đại phong kiến, mô hình Nhà nƣớc tập quyền là chủ đạo với hai điển hình là bộ máy Nhà nƣớc nhà Hậu Lê và nhà Nguyễn đều tồn tại hệ thống các cơ quan có chức năng kiểm tra, giám sát. Năm 1465, vua Lê Thánh Tông đã đƣa ra mô hình lục Viện - lục Khoa.[39: tr 125] Lục Viện tƣơng ứng với sáu bộ trong nội các và lục khoa là sáu cơ quan kiểm sát hoạt động của sáu viện. Lục khoa, lục viện độc lập với nhau và chịu trách nhiệm trƣớc nhà vua. Nhà Nguyễn sau này tiếp tục mô hình trên của nhà Lê
  • 41. 41 nhƣng đẩy mức độ kiểm sát lên tầm cao hơn. Các Viện đổi lại thành các Bộ và có sáu Khoa tƣơng ứng có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm tra, giám sát việc thi hành nhiệm vụ của các bộ và các cơ quan nhà nƣớc khác ở trung ƣơng.[39: tr 192] Trong số mƣời hai cơ quan này có Hình viện và Hình khoa. Hình viện có các nhiệm vụ trong lĩnh vực pháp luật (chủ yếu là hình luật) với việc xét xử những trọng án, phúc thẩm những nghi án liên quan đến chế độ quản ngục, giam giữ. Hình khoa có nhiệm vụ kiểm sát các hoạt động này của Hình viện. Có thể nói, những đƣờng nét rất rõ ràng của hoạt động kiểm sát việc TTPL và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử nƣớc ta, thể hiện tính tất yếu của mô hình cơ quan kiểm sát đặc thù trong các nhà nƣớc tổ chức bộ máy theo hƣớng tập trung quyền lực. Điều này cũng thể hiện những bƣớc tiến rất đáng ghi nhận về pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng của Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam trung đại.
  • 42. 42 CHƢƠNG 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TÔ TỤNG HÌNH SỰ 2.1 Kiểm sát việc TTPL đối với một số hoạt động trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự 2.1.1 Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là các cơ sở quan trọng và chủ yếu để xác định dấu hiệu của tội phạm. Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố chính là những kênh thông tin về tội phạm đƣợc công dân, cơ quan, tổ chức, phƣơng tiện thông tin đại chúng truyền tải tới các cơ quan bảo vệ pháp luật nhằm giúp các cơ quan này nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Chính vì vậy, BLTTHS 1988 và BLTTHS 2003 đều quy định tƣơng đối cụ thể trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, tổ chức và kiến nghị khởi tố do các cơ quan Nhà nƣớc chuyển đến. Đối với Viện kiểm sát, theo Điều 103 BLTTHS, sau khi đã tiếp nhận, “Viện kiểm sát phải chuyển ngay các tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” và “kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”. Viện kiểm sát không có trách nhiệm trực tiếp xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; chỉ có “Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự”. Để đảm bảo “phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội”, BLTTHS quy định rất chặt chẽ về thời hạn kiểm tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: 20 ngày
  • 43. 43 trong các trƣờng hợp thông thƣờng hoặc 2 tháng trong trƣờng hợp có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh ở nhiều địa điểm. Khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát phải làm rõ các nội dung sau: - Cơ quan điều tra có thực hiện hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin không? - Cơ quan điều tra có đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin không? - Cơ quan điều tra có đảm bảo thời hạn kiểm tra xác minh nguồn tin để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự không? Muốn làm rõ ba nội dung trên, Viện kiểm sát phải nắm đƣợc việc Cơ quan điều tra có tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố hay không. Tuy nhiên, BLTTHS không quy định Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Kênh nhận biết việc tiếp nhận nguồn tin của Cơ quan điều tra chính là từ hoạt động tiếp nhận và chuyển giao các tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố mà Viện kiểm sát đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra và hoạt động kiểm tra sổ tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố (sổ trực ban) của Cơ quan điều tra. Theo số liệu thăm dò xã hội học, 105/120 số cán bộ kiểm sát và Kiểm sát viên đƣợc hỏi cho rằng Viện kiểm sát nắm bắt thông tin qua kiểm tra thƣờng kì sổ tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm của Cơ quan điều tra. Những ý kiến còn lại cho rằng Viện kiểm sát còn nắm bắt thông tin về tội phạm qua các kênh thông tin khác nhƣ trực tiếp tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm hoặc nghe báo cáo về tình hình tội phạm của Cơ quan điều tra. Về kênh nhận biết thông tin thứ nhất (trực tiếp tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố), thực tế các báo cáo tổng kết công tác của
  • 44. 44 ngành kiểm sát hằng năm cho thấy, Viện kiểm sát không nắm đƣợc các thống kê số lƣợng tin báo, tố giác mà Viện kiểm sát đã tiếp nhận, lại càng không có các con số thống kê số lƣợng tin báo, tố giác mà Cơ quan điều tra đã tiếp nhận. Tuy nhiên, số lƣợng tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố trực tiếp chuyển tới Cơ quan điều tra lớn hơn rất nhiều số lƣợng tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố trực tiếp chuyển tới Viện Kiểm sát. Bởi vì, trong tỷ lệ nguồn tin về tội phạm, số lƣợng tin báo, tố giác nhiều hơn nhiều lần số lƣợng kiến nghị khởi tố. Tin báo, tố giác về tội phạm chủ yếu do quần chúng nhân dân cung cấp. Trong sự lựa chọn cơ quan công an hay Viện kiểm sát để thông tin về tội phạm, ngƣời dân sẽ lựa chọn cơ quan công an nhiều hơn vì: thứ nhất, Viện kiểm sát cũng chỉ là một khâu trung gian - phải chuyển lại thông tin cho Cơ quan điều tra; thứ hai, Cơ quan điều tra có một mạng lƣới phối hợp - tiếp nhận thông tin về tội phạm trong cùng hệ thống là cơ quan công an các cấp, trong khi ngƣời cung cấp thông tin phải lựa chọn chủ thể tiếp nhận thông tin có khả năng đảm bảo đƣợc tính nhanh chóng, kịp thời của hoạt động phát hiện và ngăn chặn tội phạm. Kênh nhận biết việc tiếp nhận thông tin thứ hai là kiểm tra thƣờng kì sổ tiếp nhận tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra. Ở một số Cơ quan điều tra, tồn tại hiện tƣợng cố tình không xử lý về hình sự các trƣờng hợp cần phải khởi tố. Do vậy, để hợp thức hóa, không phải ra Quyết định không khởi tố vụ án sau này, Cơ quan điều tra sẽ không đƣa các tin báo, tố giác đó vào trong sổ tiếp nhận. Một hậu quả pháp lý kéo theo là, nếu Cơ quan điều tra không khởi tố vụ án - không ra Quyết định không khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát không có thông tin để yêu cầu khởi tố và không sử dụng đƣợc quyền hủy bỏ Quyết định không khởi tố vụ án để tự ra Quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS. Ngoài ra, một số Cơ quan điều tra còn thoái thác, tránh né khi Viện kiểm sát thực hiện việc kiểm tra thƣờng kì nhƣ viện lý do công tác không có
  • 45. 45 mặt tại trụ sở vào những ngày đã có trong lịch kiểm tra của Viện kiểm sát... Vậy là, những tin báo, tố giác, kiến nghị khởi tố mà cá nhân, cơ quan, tổ chức trực tiếp chuyển đến Cơ quan điều tra, nếu Cơ quan điều tra không hợp tác thì Viện kiểm sát rất khó biết cũng nhƣ rất khó kiểm sát việc giải quyết các thông tin đó. Do vậy, việc không quy định trách nhiệm kiểm sát của Viện kiểm sát đối với hoạt động tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm đã tạo ra một lỗ hổng rất lớn ngay ở “đầu vào” của tố tụng hình sự. Việc làm rõ Cơ quan điều tra có thực hiện hoạt động kiểm tra xác minh nguồn tin không và Cơ quan điều tra có đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin không, là điều không đơn giản trên thực tế. Vì không kiểm sát đƣợc chính xác việc tiếp nhận tin báo, tố giác của Cơ quan điều tra nên Viện kiểm sát rất khó xác định đƣợc thời hạn kiểm tra, xác minh tin báo, tố giác có đảm bảo không, khi tiếp nhận có ghi vào sổ tiếp nhận không, có ghi đúng ngày tiếp nhận không. Điều này dẫn đến hiện tƣợng ở một vài địa phƣơng, dù có tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm thì Cơ quan điều tra cũng không làm hết trách nhiệm kiểm tra, xác minh hoặc không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ: vụ Nguyễn Văn Cầm ở thị trấn Tầm Vu, huyện Châu Thành, tỉnh Long An phạm tội Hiếp dâm ngày 13/7/2004, Cơ quan điều tra tiếp nhận tố giác nhƣng không kịp thời xác minh xử lý nên đã để Nguyễn Văn Cầm bỏ trốn khỏi nơi cƣ trú, đến 19/10/2004 mới khởi tố vụ án.[55] Những sai phạm, tiêu cực nhƣ ví dụ trên vì thế cũng không đƣợc phát hiện và xử lý. Đây là một trong những kẻ hở của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay cũng nhƣ một rào cản đối với hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát trên thực tế.
  • 46. 46 2.1.2. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự “Khởi tố” vụ án trong tố tụng hình sự, hiểu theo nghĩa Hán Việt, là sự khởi đầu của tố tụng, của quá trình giải quyết vụ án. Điều 109 BLTTHS quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự”. Điều 104 BLTTHS 2003 vẫn tiếp tục giữ nguyên quy định tại Điều 88 BLTTHS 1988: “Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật hình sự đƣợc áp dụng và họ tên, chức vụ ngƣời ra quyết định”. Nhiệm vụ của hoạt động kiểm sát việc TTPL trong việc khởi tố là góp phần bảo đảm mọi tội phạm phát hiện đều phải đƣợc khởi tố thông qua kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố. Kiểm sát tính có căn cứ của quyết định khởi tố chính là việc kiểm tra đã có dấu hiệu của tội phạm để khởi tố chƣa và dấu hiệu đó tại thời điểm khởi tố phù hợp với khoản nào của điều luật phần riêng BLHS. Khi nghiên cứu thực tiễn hoạt động kiểm sát tính có căn cứ của quyết định khởi tố, chúng tôi nhận thấy tồn tại một vấn đề sau: Rất nhiều Điều tra viên và Kiểm sát viên khi đƣợc hỏi cho rằng, về mặt lý luận, cơ sở và mục đích của hoạt động khởi tố chỉ là xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm, trong khi đó, quyết định khởi tố vụ án hình sự lại phải làm rõ cả “... khoản của BLHS đƣợc áp dụng”. Về mặt thực tiễn, việc xác định “khoản” của điều luật trong quyết định khởi tố là tƣơng đối khó khăn khi chủ thể khởi tố phải bắt đầu từ việc làm rõ các “điểm” trong “khoản” của điều luật - bởi tại thời điểm khởi tố, chƣa thể thu thập đầy đủ các thông tin về tội phạm. Do đó, nếu BLTTHS quy định quyết định khởi tố phải chi tiết đến “khoản” của điều luật BLHS thì sẽ không đúng với nhận thức chung về chức năng, nhiệm vụ của hoạt động khởi tố. Vì vậy, việc chỉ để tuân thủ điều luật