SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÙY LINH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÙY LINH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phượng
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
7
1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân
7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Đối tượng 14
1.1.3. Phạm vi 17
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
20
1.2.1. Cơ sở lý luận 20
1.2.2. Cơ sở thực tiễn 24
1.3. Quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp
luật về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
27
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988
27
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003
31
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
34
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
34
2.1.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
34
2.1.1.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm 34
2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa 38
2.1.1.3. Kiểm sát sau khi kết thúc phiên tòa 39
2.1.1.4. Kháng nghị phúc thẩm 42
2.1.2. Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
44
2.1.2.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm 44
2.1.2.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa phúc thẩm 45
2.1.2.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật sau phiên tòa phúc thẩm 46
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
48
2.2.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
48
2.2.2. Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
60
2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc trong hoạt động kiểm
sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
70
3.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự 70
3.2. Các giải pháp khác 80
3.2.1. Giải pháp về tổ chức 80
3.2.2. Giải pháp về cán bộ 82
3.2.3. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật 88
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Kết quả xột xử sơ thẩm 49
2.2 Kết quả khỏng nghị phỳc thẩm của Viện kiểm sỏt nhõn
dõn hai cấp
55
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, quá trình hội nhập kinh tế - quốc
tế được mở rộng, do đó chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước
được thay đổi cho phù hợp. Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua Nghị quyết
số 51/2001/QH sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo
đó tại Điều 2 ghi nhận: "…quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công,
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp" [26].
Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện
kiểm sát nhân dân cũng như các cơ quan tư pháp khác giữ vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm
sự ổn định của xã hội. Để thực hiện vai trò cũng như trách nhiệm quan trọng
đó, pháp luật đã quy định cho Viện kiểm sát có các chức năng cụ thể. Theo đó
"Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật, thực hành quyền công tố" (Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 2002) và theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: "Trước mắt, Viện kiểm
sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Đây vẫn được coi là hai phương
diện hoạt động cơ bản được cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội giao cho
Viện kiểm sát nhân dân.
Thực tế cho thấy trong những năm qua, bên cạnh việc thực hiện tốt
chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân đã tăng cường
nhiều biện pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động trong công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự ở
các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm nói riêng. Viện
2
kiểm sát nhân dân đã phát hiện các vi phạm của Tòa án để ban hành các kiến
nghị và quyết định kháng nghị, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo pháp
chế trong xét xử hình sự, xử lý tội phạm đúng pháp luật và phòng ngừa tội
phạm có hiệu quả. Tuy nhiên hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
bởi đặt trong bối cảnh nền tư pháp đã có những cải cách đáng kể, xu thế tranh
tụng thực sự được mở rộng cùng với những bước tiến về kinh tế - xã hội, trình
độ dân trí, ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp lý ở nước ta đã có những tiến
bộ đáng kể thì liệu việc duy trì chức năng kiểm sát xét xử hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân có còn cần thiết? Điều này cho thấy có rất nhiều vấn đề cần
phải được làm rõ để thấy được chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nói
riêng, từ đó nêu ra các hạn chế cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện
tốt hơn nữa chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đã được một số nhà khoa học, cán bộ
thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học và bài viết
như sau:
- Nguyễn Thu Huệ (2004), Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ
án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
3
- Trần Xuân Quang (2009), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm hình sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn
thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Văn Oanh (1998), Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
Ngoài ra, còn một số các bài viết trên các tạp chí khác nhau như:
- Phạm Văn An, Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp - Tạp chí Kiểm sát, số 7
(tháng 4/2011).
- Phạm Văn An, Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp -
Tạp chí Kiểm sát, số 10 (tháng 5/2011).
- Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghề luật, số 4/2006.
- Nguyễn Huy Tiến, Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền
hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Tạp chí
Kiểm sát, số 17 (tháng 9/2009).
Các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về
chức năng của Viện kiểm sát nói chung hoặc chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong
một giai đoạn, đó là xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm án hình sự. Tuy nhiên
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có
hệ thống về chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân, từ đó dẫn đến việc nhận thức và vận dụng còn nhiều khác nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Đó là việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và
thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
4
sát nhân dân. Đánh giá có căn cứ và khoa học về thực trạng thực hiện kiểm
sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên
cơ sở đó, nêu ra những hạn chế cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân đạt hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc
cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích cơ sở lý
luận và thực tiễn trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân. Đưa ra và nhận xét về quá trình hình thành và phát
triển của chức năng này qua các giai đoạn phát triển. Đánh giá thực trạng hoạt
động trong công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011. Từ đó, rút ra những ưu
điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân đồng thời đề xuất
các giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
về chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân. Nghiên cứu thực trạng thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân để từ đó xây dựng các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phạm vi nghiên cứu:
Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là một vấn
đề rất rộng liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân
dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giám đốc thẩm, tái thẩm.
5
Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm không được thừa nhận là một cấp xét
xử, mà chỉ được coi là thủ tục đặc biệt có nhiệm vụ xem xét lại tính đúng đắn
của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, phạm vi luận văn
được giới hạn trong chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở pháp luật hiện hành,
luận văn đánh giá đúng thực trạng về thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011.
Nghiên cứu xây dựng giải pháp thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao chất lượng
kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước&pháp luật, được trình bày trên cơ
cở nghiên cứu Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác quy định về chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sách, hệ thống kết hợp với
phương pháp khảo sát thực tiễn để kế thừa và chọn lọc những ưu khuyết điểm
trong công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò,
chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
6
nhân dân đồng thời trên cơ sở này làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội
dung của kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự.
Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, đánh giá đúng
thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân trong 5 năm qua (cụ thể từ năm 2007 - 2011),
góp phần khẳng định chức năng này của Viện kiểm sát là rất cần thiết, nhằm
đảm bảo nhu cầu khách quan của tình hình kinh tế - xã hội, của nền dân chủ
và nhu cầu đấu tranh chống vi phạm và tội phạm hiện nay, góp phần xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Luận văn khẳng định chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là cần thiết trong bộ máy nhà nước
nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Luận văn là công trình tham khảo
cần thiết, là tài liệu nghiên cứu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học
pháp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kiểm sát là kiểm tra việc chấp hành pháp
luật Nhà nước" [18, tr. 523]. Theo Từ điển Luật học:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét,
theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án, giam giữ cải tạo của các cơ quan tiến hành tố
tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân
dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất [40, tr. 441].
Cả hai định nghĩa này mặc dù đã nêu được nội dung cũng như phạm
vi của hoạt động kiểm sát nhưng lại chưa bao quát được chủ thể của hoạt
động kiểm sát.
Cụm từ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" lần đầu tiên được ghi nhận
trong lịch sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp
năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
1988. Đến thời điểm năm 2001, đã xuất hiện cụm từ "kiểm sát các hoạt động
tư pháp". Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện
kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
8
thống nhất" [26]; Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy
định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [27]; Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 lại tiếp tục sử dụng cụm từ "kiểm sát việc tuân theo
pháp luật". Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
…Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định
để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này [28].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có một chủ thể
duy nhất là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vẫn tồn tại
đồng thời hai thuật ngữ rất dễ gây nhầm lẫn: "kiểm sát việc tuân theo pháp
luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Để làm rõ khái niệm "kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", câu hỏi đặt ra là: "kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự" có khác nhau hay không, nếu có thì khác nhau ở điểm
nào và mối quan hệ giữa hai khái niệm này là như thế nào.
Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy
định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), người tiến hành
tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư
ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, người bào
chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào
việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật tố tụng hình sự. "Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" là kiểm sát tất cả các hoạt động của
các chủ thể nêu trên.
9
Về khái niệm "hoạt động tư pháp", hiện có nhiều ý kiến khác nhau,
loại ý kiến thứ nhất cho rằng, "hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện
những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông qua
đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền
biến thành hiện thực" [41, tr. 11]. Loại ý kiến thứ hai khẳng định: Hoạt động
tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động của các cơ quan khác của
Nhà nước và các tổ chức khác được Nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp
liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của Tòa án. Tòa án sử dụng công khai
các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp, áp dụng
các thủ tục tư pháp theo luật định để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết
cuối cùng. Hoạt động tư pháp cần được hiểu là "hoạt động của các cơ quan
điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án, và các cơ quan, tổ chức liên quan
hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa án" [41, tr. 14].
Như vậy, cả hai loại ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt
động tư pháp chỉ là Tòa án, hoặc mở rộng phạm vi chủ thể của hoạt động này
tới cả các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa
án. Theo cách hiểu tương đối phổ biến hiện nay: Hoạt động tư pháp là các
hoạt động do cơ quan tư pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các
cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực
nhà nước, được thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp
luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án. Và do đó,
hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là các hoạt động do cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá
trình tiến hành tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng hình sự, trực
tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Từ các phân tích nêu trên, về hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động
tư pháp trong tố tụng hình sự, có thể thấy kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự về căn bản khác với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự ở phạm vi và đối tượng kiểm sát, cụ thể: Nếu hoạt động tư pháp
10
trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ quan
được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu trách nhiệm trực tiếp
thực hiện, đây là hoạt động có tính quyền lực nhà nước; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự không chỉ là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ
quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người
tham gia tố tụng, không mang tính quyền lực nhà nước. Nếu hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng thực hiện pháp luật ở mức độ
cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật, do các dạng thực hiện pháp luật
này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng.
Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao
gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng: tuân thủ pháp luật, kiềm
chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật -
thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực. Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự, phạm vi kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm vi kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự.
Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại
chủ thể kiểm sát - Viện kiểm sát với quyền năng kiểm sát và phương thức
kiểm sát riêng biệt. Quyền của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên căn cứ vào các quy định tại
Điều 23, 36, 37, 113, 339 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 4, 14, 18,
24, 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002.
Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các
hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
một cách trực tiếp, cụ thể, liên tục do có đủ cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí
11
pháp lý đặc biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy, cơ sở vật chất…). Viện
kiểm sát có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực
tiếp tới các đối tượng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ
án được theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án và tương
ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể bị
kiểm sát trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát.
Bên cạnh việc sử dụng các quyền năng kiểm sát, Viện kiểm sát sử
dụng một phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
riêng. Nó thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể, trực tiếp
đối với các hoạt động tố tụng. Tính liên tục thể hiện ở chỗ: trong toàn bộ quá
trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt
tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, từ
khi một công dân mới là đối tượng bị tình nghi cho tới khi người đó được xóa
án tích. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát có
quyền giám sát chi tiết, tỷ mỉ các hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường,
hỏi cung, lấy lời khai, thực nghiệm điều tra… Viện kiểm sát kiểm sát một
cách trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc có mặt, theo sát,
nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động
giải quyết vụ án.
Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003 thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai
đoạn tố tụng hình sự: Kiểm sát khởi tố, điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi
hành án. Mỗi bộ phận này có đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn riêng
nhưng liên hệ mật thiết với nhau và đều là hoạt động thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
12
nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ
án. Ngoài ra khi phát hiện các vi phạm của các đối tượng kể trên, Viện kiểm
sát có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp do pháp luật
quy định để loại trừ các vi phạm đó.
Từ những nội dung đã trình bày ở trên, có thể hiểu: Kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng pháp lý của
Viện kiểm sát, có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật
của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính
thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm những bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân có đủ căn cứ và hợp pháp, loại trừ mọi vi phạm pháp
luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân không chỉ là thực hành quyền công tố, bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ
quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, bảo vệ kháng cáo hợp
pháp của những người có quyền kháng cáo, buộc tội bị cáo, kết luận về tính
có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, mà còn
đồng thời thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá
trình xét xử vụ án hình sự. Kiểm sát xét xử hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt
động kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại kết quả hoạt động điều tra,
hoạt động kiểm sát điều tra, bảo vệ quan điểm truy tố khách quan đúng đắn
của Viện kiểm sát nhân dân.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hai hình thức hoạt động có quan hệ
gắn bó, chặt chẽ, không tách rời nhau nhằm thực hiện chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân trong xét xử vụ án hình sự góp phần cùng Tòa án nhân dân
13
xử lý, giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật
(pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật
khác có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự).
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện trong tất cả các giai
đoạn xét xử vụ án hình sự từ giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho tới
khi vụ án được xét xử xong, Tòa án nhân dân đưa ra một bản án, quyết định
có căn cứ, hợp pháp bảo đảm được đưa ra thi hành. Hoạt động kiểm sát xét xử
vụ án hình sự còn được thực hiện trong tất cả các thủ tục xét xử vụ án hình sự,
từ thủ tục xét xử sơ thẩm đến thủ tục xét xử phúc thẩm hình sự hoặc cá biệt
các vụ án hình sự được xét xử lại theo các thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm hình sự.
Từ khi có quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân, quyết
định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân, vụ án được đưa ra xét xử công
khai cho tới khi xét xử xong là quá trình Tòa án nhân dân thực hiện công tác
xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát xét xử sơ
thẩm hình sự.
Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân được
thực hiện trong tất cả các giai đoạn xét xử vụ án hình sự (giai đoạn chuẩn bị
xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử công khai) đối
với tất cả các cấp Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nhằm bảo
đảm pháp chế trong hoạt động xét xử.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay trong thời hạn luật định. Nếu hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị thì bản án của Tòa án cấp sơ thẩm mới có hiệu lực
pháp luật và được thi hành. Ngược lại, nếu có kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng và
được Tòa án chấp thuận thì sẽ phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm. Trong
phạm vi luận văn, tác giả chỉ đề cập đến xét xử phúc thẩm với tính chất là xét
14
xử lại những vụ án mà bản án, quyết định đối với vụ án đó chưa có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt
động thực hiện pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhằm
bảo đảm cho việc xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật.
Như vậy, Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát là tổng hợp
các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát
hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động tố
tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét
xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời.
Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án
thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Việc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được thừa nhận là một trong những nguyên
tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Do vậy, quá trình kiểm sát xét xử của Viện
kiểm sát cũng được thực hiện theo hai cấp này đó là kiểm sát xét xử sơ thẩm
và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Do đặc thù của xét xử sơ thẩm là cấp xét xử
đầu tiên trong khi đó xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối
với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, đây cũng là
cấp xét xử nhằm mục đích kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; kiểm tra, sửa chữa những sai
phạm của Tòa án cấp sơ thẩm để đưa ra một bản án đúng đắn, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội nên kiểm sát xét xử sơ thẩm và kiểm sát
xét xử phúc thẩm có đối tượng, phạm vi khác nhau.
1.1.2. Đối tƣợng
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Tòa án nhân dân, Hội đồng xét
xử là các chủ thể tiến hành tố tụng, ngoài ra còn có những người tham gia tố
15
tụng như bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Tất cả những chủ thể này đều được pháp luật tố tụng quy định quyền và
nghĩa vụ cụ thể. Mọi hoạt động của các chủ thể này đều căn cứ vào các quy
định của pháp luật để thực hiện.
Trong các giai đoạn xét xử, từ khi chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho đến
khi vụ án xét xử xong, Tòa án nhân dân ra một bản án hoặc quyết định, khẳng
định về mặt pháp lý mọi vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, Kiểm sát viên
thực hiện chức năng của mình nhằm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng
xét xử thực hiện đúng các thẩm quyền, các nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hai chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân. Hai chức năng này có đối tượng tác động
khác nhau. Trong khi đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là
hành vi phạm tội và người phạm tội. Nội dung của hoạt động thực hành quyền
công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát
hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm
và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo đó, những hoạt động
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án
hình sự như đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc
giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên
tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc
thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại
phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì đối tượng của kiểm sát xét xử các vụ án hình
sự là việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án theo thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng. Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được thể hiện trên
những khía cạnh sau đây:
+ Tư cách pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong Hội đồng
xét xử.
16
+ Việc tuân theo các quy định về thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử.
+ Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra xét hỏi tại phiên tòa.
+ Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng.
+ Tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng.
+ Việc tuân theo các quy định trật tự phiên tòa.
+ Việc tuân theo pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án.
Trong khi đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự là
sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm
được quy định tại Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự: "Hội đồng xét xử sơ
thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính
chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán
và ba Hội thẩm" [28] và những người tham gia tố tụng xét xử: bị cáo (Điều 50
Bộ luật Tố tụng hình sự), người bào chữa (Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự),
người bị hại (Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự), nguyên đơn dân sự (Điều 52
Bộ luật Tố tụng hình sự), bị đơn dân sự (Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự),
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện
hợp pháp của họ (Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự), người làm chứng (Điều
55 Bộ luật Tố tụng hình sự), người giám định (Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình
sự) còn đối tượng của kiểm sát xét xử phúc thẩm chính là sự tuân theo pháp
luật của Tòa án cấp phúc thẩm và những người tham gia tố tụng quy định tại
Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, Viện
kiểm sát không chỉ dựa trên các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà còn
trên các căn cứ pháp lý khác là Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Bộ luật Hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra,
giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là đối tượng của hoạt động
kiểm sát cũng như để đảm bảo tính hợp pháp, tính có căn cứ của chính hoạt
động kiểm sát của Viện kiểm sát. Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải tuân thủ và thực hiện những quyền
17
và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật
hình sự và sự tuân thủ pháp luật của họ là đối tượng của hoạt động kiểm sát
xét xử hình sự sơ thẩm, phúc thẩm.
1.1.3. Phạm vi
Quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự, từ khi vụ án được phát hiện,
điều tra, truy tố cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử là chuyển sang một giai
đoạn tố tụng khác. Giai đoạn xét xử công khai nhằm kết luận chính thức về
nội dung các vụ án. Các cấp Tòa án thông qua hoạt động xét xử ở các thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự, nhân danh Nhà nước
xem xét quyết định về hành vi phạm tội của các bị cáo, về biện pháp xử lý đối
với bị cáo và các vấn đề khác liên quan đến vụ án hình sự.
Xem xét ở trình tự tiến hành tố tụng xét xử, xem xét về không gian và
thời gian thì phạm vi kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án và
"quyết định truy tố" của Viện kiểm sát nhân dân được gửi tới Tòa án nhân dân,
Tòa án nhận hồ sơ vào sổ thụ lý, cho đến khi vụ án được xét xử, Tòa án ra bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, không
bị khiếu nại, Kiểm sát viên hoàn thành những công việc cần thiết theo quy
định của pháp luật, theo quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số
960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (gọi tắt là Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự).
Như vậy, xem xét thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử hình sự
là phải xem xét ở cả hai khía cạnh: Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
có hiệu lực pháp luật và Kiểm sát viên hoàn thành mọi công việc theo thẩm
quyền và nghĩa vụ. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng Kiểm sát
viên chưa hoàn tất những công việc mà pháp luật quy định hoặc ngược lại, thì
đều không được xem đó là thời điểm kết thúc phạm vi hoạt động kiểm sát xét
xử hình sự.
18
Phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự bắt đầu kể từ
khi hồ sơ vụ án và quyết định truy tố gửi đến Tòa án, kết thúc khi vụ án được
xét xử đã có bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
cáo hoặc kháng nghị; kiểm sát viên thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự
hoàn thành những công việc cần thiết theo quy định của pháp luật và Quy chế
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự.
Sau khi kết thúc hoạt động kiểm sát điều tra, nếu Viện kiểm sát ra
quyết định truy tố thì "Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy
tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát nhân dân phải gửi hồ sơ vụ án và bản
cáo trạng đến Tòa án" (khoản 3 Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự). Khi hồ sơ
vụ án, quyết định truy tố được Tòa án nhân dân nhận, vào sổ thụ lý vụ án là
thời điểm bắt đầu của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án, đồng thời cũng là thời
điểm mở đầu phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Trường hợp Viện
kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố, song chưa gửi Tòa án nhân dân hoặc
nếu gửi tới Tòa án nhưng Tòa án không nhận, chưa vào sổ thụ lý thì chưa
thuộc phạm vi hoạt động xét xử cũng như kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự.
Thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự khi bản
án, quyết định của Tòa án sơ thẩm đã tuyên có hiệu lực pháp luật, không có
kháng cáo, kháng nghị và Kiểm sát viên hoàn tất những công việc của mình
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự của Tòa án các cấp và Điều 171, 172 Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, thẩm quyền
xét xử những tội phạm xảy ra trên máy bay, tàu thủy…thì tương ứng với các
cấp Tòa án xét xử những vụ án hình sự đó có Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự.
Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp
của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng để mở phiên
19
tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp,
tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên quan đến
việc kháng cáo, kháng nghị có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi có kháng cáo, kháng
nghị hợp lệ thì mặc nhiên phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án và
hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên theo quy định của
pháp luật thì trong thời hạn 15 ngày đối với Viện kiểm sát cấp sơ thẩm và 30
ngày đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kể từ ngày tuyên án sơ thẩm,
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án sơ thẩm. Vì vậy để đảm
bảo các hành vi tố tụng của các chủ thể nói trên tuân thủ pháp luật thì hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời điểm sau khi tuyên bản án sơ thẩm.
Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 Bộ luật Tố tụng hình sự, bản
án hoặc quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc
kể từ ngày ra quyết định. Phạm vi kết thúc của hoạt động kiểm sát xét xử
phúc thẩm là sau khi Viện kiểm sát thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát
tính có căn cứ và hợp pháp của bản án phúc thẩm. Quá trình kiểm sát nếu phát
hiện bản án phúc thẩm có vi phạm pháp luật thì tùy từng trường hợp cụ thể
mà Viện kiểm sát kiến nghị với Tòa án khắc phục hoặc đề nghị Viện kiểm sát
cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Việc xác định đúng đắn khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử
hình sự và địa vị pháp lý của Kiểm sát viên là điều kiện đảm bảo hiệu quả của
công tác kiểm sát xét xử hình sự, giúp cho Kiểm sát viên khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ có đầy đủ căn cứ pháp luật thực hành quyền công tố một cách
công minh, kiểm sát việc tuân theo pháp luật một cách chặt chẽ, nhằm khắc
phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án nhân dân và những người tham gia
tố tụng xét xử trong việc xét xử những vụ án hình sự, đảm bảo việc xét xử
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đấu tranh
20
chống tội phạm một cách chính xác, góp phần giáo dục, đấu tranh phòng ngừa
chung, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.2.1. Cơ sở lý luận
Từ khi giành độc lập, Nhà nước ta đã sử dụng các cơ quan khác nhau
của bộ máy nhà nước để quản lý, giữ vững nền độc lập. Để bộ máy nhà nước
thực hiện nhịp nhàng, chính xác và hiệu quả, Nhà nước tiến hành phân công
giữa các bộ phận của bộ máy, nghĩa là phân định thẩm quyền trong đó mỗi cơ
quan nhà nước được giao mỗi chức năng khác nhau để hoạt động. Đó có thể
là hình thức hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật…
Ngay từ ngày thành lập Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ
quan Công tố nhằm đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội đảm bảo
cho việc củng cố chính quyền cách mạng. Hệ thống Công tố được tách dần ra
khỏi hệ thống Tòa án và sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 đánh dấu bước ra
đời của Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một hệ thống cơ quan trong bộ
máy nhà nước. Chức năng Nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân từ thẩm
quyền được giao là thực hiện chức năng tư pháp cùng với Tòa án nhân dân và
các cơ quan tư pháp khác. Theo Hiến pháp năm 1959, ngoài chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,
kinh tế, xã hội. Đánh giá và nhìn nhận về chức năng của Viện kiểm sát trong
hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng được
nâng lên một bước rõ rệt theo quy định của Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục
khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992
và Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: "Viện
21
kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, thực
hành quyền công tố" [27].
Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó
Viện kiểm sát ngoài chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc
truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội thì Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện chức năng
kiểm sát xét xử nhằm đảm bảo xét xử vụ án hình sự được khách quan, toàn
diện, nghiêm minh kịp thời và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng mà pháp
luật quy định bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ trong các phán quyết của
Tòa án.
Điều 16 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định:
"Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực
hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án
hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [27].
Điều 1 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: "Trong
giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm: kiểm sát
việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật,
nghiêm minh, kịp thời" [43].
Điều 3 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định:
"Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình
sự bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo
thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Tòa án để xét xử và kết thúc
khi bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không
có kháng cáo, kháng nghị [43].
Theo nguyên tắc được quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự,
Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc
thẩm. Ngoài ra còn có thủ tục xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
22
luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, tùy theo từng vụ án, từng
bị cáo mà công tác kiểm sát xét xử hình sự có thể kéo dài hay ngắn. Có những
vụ án chỉ bị giải quyết ở thủ tục xét xử sơ thẩm mà không có kháng cáo,
kháng nghị thì công tác kiểm sát xét xử sẽ chấm dứt từ thời điểm hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Ngược lại, đối
với các vụ án mà sau khi xét xử sơ thẩm nếu phát hiện bản án hoặc quyết định
của Tòa án có vi phạm pháp luật hoặc phát hiện tình tiết mới thì vụ án có thể
bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Theo quy định tại Điều 18, Điều 19 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002 thì khi thực hiện kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát
có quyền hạn, nhiệm vụ sau:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân và của những người tham gia tố tụng.
Có thể nói hoạt động xét xử là hoạt động trung tâm nhất trong các hoạt
động tư pháp trong tố tụng hình sự. Vì vậy kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong giai đoạn này có vai trò rất quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ trong giai
đoạn này, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án từ
giai đoạn chuẩn bị xét xử như kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét
xử, việc ra các quyết định sơ thẩm và việc giao các quyết định đó theo đúng
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trường hợp phát hiện có vi phạm thì
yêu cầu Tòa án khắc phục và báo cáo với lãnh đạo Viện để kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm sát
việc chấp hành các thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và
những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên tòa nhằm
đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, bảo đảm
cho việc xét xử được công minh, đúng pháp luật; Viện kiểm sát có quyền
kiểm sát việc tham gia tố tụng của những người tiến hành tố tụng và có quyền
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng khác, có quyền đưa ra những yêu cầu
23
để bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy
định, trong đó có việc đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật
chứng ra để xem xét…
- Kiểm sát bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định
của pháp luật.
Sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên cần kiểm tra biên bản phiên
tòa, lưu ý những trường hợp kết luận của Kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố cũng như quyết định của chủ tọa tại phiên tòa khác với quyết định ghi
trong bản án. Nếu phát hiện có những điểm biên bản phiên tòa ghi thiếu sót
hoặc không chính xác thì kiến nghị yêu cầu Hội đồng xét xử bổ sung hoặc
điều chỉnh. Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án, quyết định của Tòa án để kịp
thời phát hiện những sai sót, vi phạm và kiểm tra việc giao bản án, quyết định
của Tòa án.
- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án
hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
Khi phát hiện bản án sơ thẩm hoặc quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để kháng
nghị theo quy định của pháp luật. Nếu thấy cần thiết thì Kiểm sát viên yêu cầu
Tòa án cùng cấp chuyển hồ sơ vụ án đó để Viện kiểm sát nghiên cứu.
Khi ra quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát phải căn cứ vào những
quy định cụ thể của pháp luật về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị bản án,
quyết định. Nếu bản án, quyết định vi phạm Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhưng chưa có hiệu lực
pháp luật thì kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu bản án, quyết định đó đã
có hiệu lực pháp luật thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm căn cứ quy
định tại Điều 273, Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 hoặc kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm theo quy định tại Điều 291, Điều 295 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003. Ngoài ra, theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
24
sự và pháp lệnh Kiểm sát viên, Viện kiểm sát còn có nhiệm vụ kiểm sát việc
giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án trong
giai đoạn xét xử vụ án hình sự; kiến nghị Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp
dưới khắc phục các vi phạm trong xét xử; kiến nghị với các cơ quan, tổ chức
hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm và tội phạm. Đây là một
nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
của các cơ quan tư pháp nói chung.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách
nhiệm do luật định [26].
Cụ thể hóa quy định mang tính hiến định này, Bộ luật Tố tụng hình sự
đã có nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhằm đảm
bảo Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung và trong kiểm sát
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Trong giai đoạn điều tra, pháp luật tố tụng hình sự đã có quy định rất
cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tiến hành kiểm sát điều
tra (Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự), đồng thời quy định trách nhiệm của
cơ quan Điều tra trong việc thực hiện yêu cầu và quyết định của Viện kiểm
sát (Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây là những căn cứ pháp lý quan
trọng nhằm đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình trong giai đoạn kiểm sát điều tra. Do vậy, kể từ khi thực hiện Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát đã thực hiện tốt vai trò kiểm sát điều
25
tra, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm nên chất lượng kiểm sát điều
tra không ngừng được nâng cao, tỉ lệ án oan, sai, bỏ lọt tội phạm giảm; các
trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp để phục vụ công tác điều tra được khắc
phục, hiện tượng hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế giảm đáng kể; hạn chế
tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng…
Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền
hạn gì thì chưa được quy định cụ thể. Đây là một thiếu sót quan trọng ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác của Viện kiểm sát khi thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. Nếu pháp luật tố tụng
hình sự không quy định cụ thể Viện kiểm sát được và phải làm những việc gì,
mục đích, ý nghĩa của những việc làm đó thì không thể quán triệt để toàn thể
cán bộ, Kiểm sát viên nhận thức một cách sâu sắc và tổ chức thực hiện một
cách nghiêm túc. Đồng thời, dù có thực hiện tốt nhưng khi phát hiện vi phạm
trong hoạt động xét xử của Tòa án thì Viện kiểm sát làm thế nào và căn cứ
vào đâu để yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm khi Luật không trao quyền cho
Viện kiểm sát. Điều này cho thấy rõ ràng rằng thực trạng pháp luật còn tồn tại
nhiều bất cập và mâu thuẫn nhau. Do vậy cần có một cơ chế pháp luật hoàn
chỉnh, nhất là pháp luật tố tụng hình sự quy định đầy đủ, rõ ràng những nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp
trong giai đoạn xét xử để Viện kiểm sát cũng như Kiểm sát viên căn cứ vào
đó mà thực hiện, tránh trường hợp lạm quyền hoặc không làm hết những
nhiệm vụ của mình.
Một vấn đề đặt ra đó là hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau xung
quanh chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
Trong giới nghiên cứu đã và đang có quan điểm cho rằng chỉ nên giao cho
Viện kiểm sát nhiệm vụ thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử vì
chức năng kiểm sát xét xử làm ảnh hưởng tới nguyên tắc "Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình
sự). Tính độc lập xét xử của Tòa án có nghĩa khi xét xử, Thẩm phán và Hội
26
thẩm chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật, căn cứ vào chứng cứ hợp pháp để
xét xử và tuyên bản án trên cơ sở khách quan tranh tụng tại phiên tòa một
cách dân chủ, công khai, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền
can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Tuy nhiên,
độc lập không có nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không chịu bất
kỳ sự giám sát nào bởi lẽ nếu độc lập theo hướng như vậy sẽ tất yếu dẫn đến
tình trạng độc quyền, lạm quyền. Hơn nữa xét xử là một hoạt động nhân danh
quyền lực nhà nước, vừa là chấp hành pháp luật vừa là hoạt động áp dụng
pháp luật. Do vậy, khi xét xử Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định
của pháp luật trước khi áp dụng pháp luật đối với các đối tượng khác. Nhưng
liệu Tòa án có tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật
không thì cần phải có một cơ quan tiến hành giám sát chặt chẽ hoạt động này
của Tòa án. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần hiểu rằng hoạt động kiểm
sát xét xử của Viện kiểm sát không phải là nhằm cản trở hoạt động xét xử, mà
nó không những là cơ sở để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét lại tính hợp
pháp, tính có căn cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của mình mà
còn là điều kiện để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Qua sự phân tích trên cho thấy vị trí, vai trò và trách nhiệm của Viện
kiểm sát, của Kiểm sát viên trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự là rất quan
trọng. Tòa án có chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
hay không, bản án của Tòa án có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay
không, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng ở giai đoạn
xét xử có được đảm bảo, tôn trọng và thực hiện hay không phụ thuộc rất lớn
vào hoạt động của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện chức
năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát vẫn
còn nhiều tồn tại và hạn chế, Kiểm sát viên vẫn chưa thực sự sử dụng triệt để
quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định để thực hiện tốt hơn nữa vai trò của
mình. Tình trạng kiểm sát thẩm quyền thụ lý của Toà án, việc đề nghị thay đổi
mìnhh viên trong Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa, việc kiến nghị với
27
Tòa án phải khắc phục ngay một số sai phạm của Tòa hay rút kinh nghiệm
chung đối với các vi phạm như để quá hạn xét xử, thành phần Hội đồng xét
xử không đúng luật, việc thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm vẫn chưa bảo
đảm khách quan, toàn diện, đầy đủ và thiếu tinh thần trách nhiệm của một số
Kiểm sát viên.
Việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn vị trí, vai trò, trách nhiệm của
Kiểm sát viên có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kiểm
sát viên có nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của mình thì mới đề cao
tinh thần trách nhiệm và sử dụng đúng đắn, triệt để và có hiệu quả quyền năng
tố tụng của Viện kiểm sát trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án
hình sự. Và do vậy, vấn đề mà chúng ta cần quan tâm không phải là bãi bỏ
nhiệm vụ kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát mà quan trọng là ở chỗ phải có
phương thức kiểm sát như thế nào để vừa đảm bảo tính giám sát Nhà nước đối
với Hội đồng xét xử vừa không làm ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập xét xử
của Tòa án.
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trƣớc khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 1988
Từ đặc điểm của tình hình đất nước toàn dân đang ra sức đẩy mạnh
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến hành sâu rộng việc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà và trước
yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải có một nền pháp chế thống
nhất, trong khi đó Viện công tố được thành lập năm 1958 với chức năng chủ
yếu là đưa vụ án ra Tòa án và tổ chức hoạt động theo nguyên tắc song trùng
trực thuộc đã tỏ ra không còn thích hợp với sự phát triển của cách mạng và
không thể đảm bảo những yêu cầu mới của việc thiết lập và củng cố nền pháp
28
chế xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đặt vấn đề phải thành lập Viện kiểm sát nhân
dân thay thế cho Viện công tố để kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân
dân được giữ vững, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà.
Trước yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, năm
1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Hiến pháp
mới. Hiến pháp năm 1959 quy định việc tổ chức lại các cơ quan nhà nước
trong đó xác định hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân
dân được xây dựng, hoạt động theo nguyên tắc thống nhất từ Trung ương đến
địa phương. Điều 105 Hiến pháp năm 1959 nêu rõ:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc
Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên
cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương và Viện kiểm sát Quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi
do luật định [21].
Ngày 26/07/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân, theo đó Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960 đã quy định:
"Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật
làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững. Mục đích của việc kiểm
sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công
cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần bảo
đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự
nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được tiến
hành thắng lợi [22].
29
Và xác định rõ: "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử
của các Tòa án nhân dân là một trong các công tác thực hiện chức năng
chung của Viện kiểm sát" [22, Điều 3]. Căn cứ vào các quy định chung đó,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã dành một chương riêng
quy định về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Đó là
Chương IV: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa
án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án, bao gồm 3 điều: Điều 17,
Điều 18 và Điều 19, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử
của các Tòa án nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền sau đây:
"Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân
cùng cấp và cấp dưới một cấp. Riêng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền
kháng nghị các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân các cấp nếu thấy các bản án hoặc quyết định này có sai lầm" [22].
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 tuy chưa phân định rõ
"thực hành quyền công tố" với "kiểm sát xét xử" nhưng đã quy định khái quát
và đầy đủ những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của công tác kiểm sát xét xử
hình sự giúp cho ngành Kiểm sát tuy mới ra đời nhưng đã hoạt động tích cực
và sáng tạo, không chỉ thể hiện ở những thành tích phục vụ các công tác trọng
tâm của Đảng và Nhà nước, mà điều quan trọng là đã nâng cao thêm một
bước nhận thức về chuyên chính vô sản và pháp chế xã hội chủ nghĩa, về
chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của ngành, nhất là khâu công
tác kiểm sát xét xử hình sự phát huy tác dụng của pháp luật trong việc phục
vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Năm 1974 Tòa án nhân dân tối cao ra Thông tư số 16/TATC ngày
29/7/1974 và Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 về thủ tục xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm. Đến năm 1981, Quốc hội khóa VII đã thông qua Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 ngày 04/7/1981 (sau đó được sửa đổi
bổ sung vào năm 1989). Với sự ra đời của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1981, các nhiệm vụ quyền hạn của công tác kiểm sát xét xử hình sự
30
đã được luật quy định rõ. Tại Điều 13 Luật này quy định, khi thực hiện công
tác kiểm sát xét xử hình sự các Viện kiểm sát nhân dân có quyền:
1- Tham dự việc trù bị phiên tòa của Tòa án nhân dân cùng
cấp; 2- Tham gia tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân cùng
cấp; trong phiên tòa hình sự, kiểm sát viên đọc cáo trạng và luận
tội; 3- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ
án cần thiết cho công tác kiểm sát xét xử; 4- Kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm các bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy
có vi phạm pháp luật; 5- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân
dân cấp dưới, khi thấy có vi phạm pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị các
bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
các cấp theo thủ tục giám đốc thẩm khi thấy có vi phạm pháp luật
hoặc theo thủ tục tái thẩm khi thấy có tình tiết mới [23].
So với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 thì Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân được sửa đổi, bổ sung năm 1989 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều
về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét xử
hình sự. Viện kiểm sát nhân dân có quyền "Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp
dưới chuyển hồ sơ những vụ án cần thiết cho công tác xét xử", điểm này giúp
cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp
của các bản án và quyết định sơ thẩm, phúc thẩm nhằm phát hiện vi phạm, kịp
thời kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Công tác
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm cũng đã được quy
định cụ thể. Sự phát triển đó của Luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự, khẳng định vị
31
trí, vai trò và tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước.
Nhìn chung công tác kiểm sát xét xử hình sự trong giai đoạn này đã có
cố gắng và đóng góp quan trọng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của ngành,
của đất nước. Công tác kiểm sát xét xử hình sự vừa tích cực hỗ trợ ngành Tòa
án ra bản án đúng, vừa tích cực kiến nghị khắc phục vi phạm và tự phát hiện
uốn nắn với chính sai lầm của mình nên đã góp phần quan trọng vào việc
chống oan, chống lọt, xây dựng và hoàn thiện Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố
tụng hình sự, đồng thời góp phần xây dựng các hướng dẫn thực hiện pháp luật
trong giai đoạn sau này.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trƣớc khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003
Trong giai đoạn này, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày
28/6/1988 quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự. Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Trong
các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng
những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào". Qua nhiều năm triển khai thực hiện và
ba lần sửa đổi, Bộ luật Tố tụng hình sự đã góp phần quan trọng vào việc đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục
vụ tích cực công cuộc đổi mới của đất nước ta trong những năm qua.
Hiến pháp năm 1992 sửa đổi (từ Điều 137 đến Điều 140) tiếp tục
khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Trong đó nhiệm vụ, quyền
hạn của công tác kiểm sát xét xử được quy định tại chương III Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002:
32
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết
định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu
Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
hình sự để xem xét việc kháng nghị. Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến
nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm
trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan
áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật;
nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự [27, Điều 18, 19].
Có thể nói, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã kế
thừa và phát triển so với các Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trước đây.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân lần này đã quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng là "thực
hành quyền công tố" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp", đồng thời cũng quy
định rõ ràng, cụ thể, nhiệm vụ quyền hạn của hai chức năng này, đã tách bạch
được hai nội dung của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
hình sự.
Qua phân tích trên đây có thể rõ ràng nhận thấy những quy định của
pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân nói chung và về công tác kiểm sát xét xử
hình sự nói riêng giai đoạn từ 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 đã có sự phát triển mới, rõ ràng hơn, cụ thể hơn, phù hợp hơn với
pháp luật các nước trên thế giới, trong đó đáng lưu ý là đã xác định rõ chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, lấy hoạt động xét xử là trọng tâm. Do
vậy, công tác kiểm sát xét xử hình sự đã đạt được một số thành tựu như: chất
lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được
33
nâng lên, số lượng kháng nghị, chất lượng kháng nghị được quan tâm đồng
đều hơn ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm…
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Việc nghiên cứu những vấn đề chung về kiểm sát xét xử vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đưa ra một khái
niệm tương đối đầy đủ về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát.
Đó là: Việc kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các
chủ thể tham gia hoạt động tố tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc
thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh
và kịp thời.
Bên cạnh việc phân tích về khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét
xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, luận văn còn phân tích và làm
rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cũng như quá trình hình thành và phát triển
những quy định của pháp luật về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân. Đây cũng là cơ sở để nghiên cứu các quy định của pháp luật Tố
tụng hình sự về kiểm sát xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại Chương 2
dưới đây. Đồng thời cũng là cơ sở xem xét, đề xuất đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng này được đề cập ở Chương 3.
34
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.1.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
2.1.1.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Chuẩn bị xét xử là chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra
xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử
sẽ nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa
án, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng phải tiến hành các hoạt
động nhất định tùy theo chức năng tố tụng của mình. Trong giai đoạn này, đối
với Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa tiến hành các hoạt động
nghiên cứu hồ sơ vụ án; giải quyết việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn (trừ biện pháp tạm giam), các yêu cầu, khiếu nại của những
người tham gia tố tụng; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nếu có các căn cứ theo
luật định và tiến hành các công việc cần thiết khác cho việc mở phiên tòa. Đối
với Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử vụ án hình sự thì việc kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử của Tòa án là
một trong số những nhiệm vụ của Kiểm sát viên nhằm thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Như
vậy, kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của người tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn
35
bị xét xử nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án đúng pháp luật. Kể
từ năm 2002 trở lại đây, hoạt động kiểm sát xét xử do Kiểm sát viên - người
đã tiến hành tố tụng ngay từ khi khởi tố vụ án đảm nhiệm. Kiểm sát việc
chuẩn bị xét xử sơ thẩm là hoạt động tiếp theo kiểm sát điều tra mà Kiểm sát
viên phải thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ được phân công xuyên suốt từ
khi bắt đầu đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án hình sự.
Phạm vi của hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
là kiểm sát một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm, bắt đầu từ khi Tòa án nhận
được hồ sơ vụ án và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại phiên tòa.
Đối tượng của hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự chính là việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành và tham gia tố
tụng tại giai đoạn chuẩn bị xét xử. Về nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát
viên khi kiểm sát việc chuẩn bị xét xử, căn cứ vào Điều 14 Quy chế kiểm sát
xét xử các vụ án hình sự thì:
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Tòa án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn
chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét
xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các
quyết định này theo Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự [43].
Cụ thể, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm, kiểm sát việc gửi các quyết định trên cho Viện kiểm sát và
những người có liên quan theo quy định của pháp luật (Điều 182 Bộ luật Tố
tụng hình sự). Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc ra các quyết định
của Tòa án trong thời hạn chuẩn bị xét xử, phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp
pháp của các quyết định, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong việc ban hành
các quyết định tố tụng của Tòa án.
36
Đối với trường hợp Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, Kiểm sát
viên tiến hành kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đưa vụ án
ra xét xử bởi quyết định đưa vụ án ra xét xử là một văn bản pháp lý có ý nghĩa
quan trọng, khẳng định việc giải quyết vụ án bằng thủ tục xét xử chặt chẽ theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Điều này nhằm đảm bảo quyền tham
gia bào chữa của bị cáo, đảm bảo quyền chuẩn bị xét xử của những người
tham gia tố tụng đối với các vấn đề có liên quan đến họ. Nội dung quyết định
đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ 10 nội dung theo quy định tại Điều 178 Bộ
luật Tố tụng hình sự. Trong đó chú ý đến: Thành phần Hội đồng xét xử, danh
sách những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên tòa; sự tham gia
phiên tòa của người giám hộ cho người chưa thành niên, luật sư, người bào chữa
trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố
tụng hình sự; sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng
minh tại phiên tòa như nhân chứng, bị hại… (Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự),
nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật
khách quan của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa
đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Tòa án để bổ sung. Kiểm
sát viên phải kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người
đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi
mở phiên tòa và sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời
hạn mở phiên tòa theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, đây là một biện pháp tố
tụng do Tòa án áp dụng nhằm khắc phục những thiếu sót về thủ tục tố tụng
cũng như những chứng cứ quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, đảm
bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Khi kiểm sát quyết định trả hồ
sơ của Tòa án, Kiểm sát viên phải kiểm tra về thẩm quyền, thời hạn và các
căn cứ trả hồ sơ theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng cần phải xác định tính có căn cứ và hợp
pháp của quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án sau khi nhận được các
37
quyết định này. Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải
kiểm sát:
1- Thẩm quyền của người ra các quyết định; 2- Căn cứ để
tạm đình chỉ phải đúng theo quy định của Điều 160 Bộ luật Tố tụng
hình sự; 3- Sau khi tạm đình chỉ, Tòa án phải yêu cầu Cơ quan
Điều tra truy nã bị cáo trong trường hợp không rõ bị cáo đang ở
đâu hoặc ra quyết định bắt buộc chữa bệnh đối với bị cáo bị mắc
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác [28].
Đối với quyết định đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm sát các
căn cứ mà Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự). Tòa án
chỉ được đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ sau: "1- Người có yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa (Khoản 1 Điều 105); 2- Căn
cứ theo các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự; 3- Khi Viện
kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa" [28]. Nếu phát
hiện thấy việc tạm đình chỉ, đình chỉ không đúng theo quy định của pháp luật,
thì Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định việc
kháng nghị.
Để kiểm sát việc Tòa án giao các quyết định trên thì Kiểm sát viên sau
khi nhận được các quyết định trên yêu cầu Tòa án gửi cho những người khác
theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên tòa hoặc
khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo, để phát hiện các vi phạm của
Thẩm phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời
với Chánh án.
Bên cạnh việc kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả
điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên
cũng cần phải kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp cũng như thời hạn áp dụng
biện pháp ngăn chặn, kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của việc hủy
bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án, đồng thời phải liên hệ chặt chẽ
38
với Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và
giáo dục người thi hành án phạt tù về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp tạm giam đối với bị cáo của Tòa án để phối hợp theo dõi (Điều 53 Quy
chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự). Kiểm sát viên phải phát hiện kịp thời
vi phạm của Tòa án để báo cáo lãnh đạo Viện có biện pháp khắc phục.
2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa
Tại phiên tòa, ngoài nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và quan điểm truy tố
của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên còn có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát hoạt
động xét xử của Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm
cho hoạt động xét xử của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và
công minh, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng được
bảo đảm, tôn trọng trong quá trình xét xử.
Nếu thành viên của Hội đồng xét xử không đúng hoặc có một trong
những trường hợp phải hoãn phiên tòa thì Kiểm sát viên phải đề nghị Hội
đồng xét xử thay đổi thành viên hoặc đề nghị hoãn phiên tòa. Trong trường hợp
Hội đồng xét xử đúng như nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị
yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, thay đổi Thư ký Tòa án,
thay đổi người phiên dịch, giám định viên, thì Kiểm sát viên phải xem xét. Nếu
yêu cầu, đề nghị đó mà có căn cứ thì Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét
xử thay đổi và phải hoãn phiên tòa. Kiểm sát viên phải xem xét lý do mà họ
đưa ra đề nghị thay đổi trên cơ sở so sánh với các căn cứ của Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định về điều kiện phải từ chối hoặc phải thay đổi Thẩm phán, Hội
thẩm, Thư ký Tòa án…(Điều 14, 42, 45, 46, 60, 61 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Trước khi chuyển sang giai đoạn thẩm vấn, Kiểm sát viên phải kiểm
sát việc Hội đồng xét xử bảo đảm quyền yêu cầu triệu tập thêm nhân chứng
hoặc quyền đưa thêm vật chứng và tài liệu liên quan tới vụ án ra xem xét tại
phiên tòa của những người tham gia tố tụng (Điều 203, 204, 205 Bộ luật Tố
tụng hình sự) và kiểm sát việc bảo đảm thực hiện các quyền đó của họ.
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sựLuận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
Luận văn: Hội đồng xét xử sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOTĐề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
Đề tài: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sựLuận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sựLuận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
Luận văn: Vai trò của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAYLuận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
Luận án: Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự, HAY
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAYĐề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
Đề tài: Thẩm quyền của Viện Kiểm sát trong xét xử vụ án, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYLuận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Luận văn: Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 

Similar to Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...OnTimeVitThu
 
Tranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaTranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaHung Nguyen
 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703OnTimeVitThu
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT (20)

Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Tranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaTranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toa
 
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
CHỨC NĂNG CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sựLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
 
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
Chức Năng, Nhiệm Vụ Của Viện Kiểm Sát Trong Giai Đoạn Xét Xử Sơ Thẩm Vụ Án Hì...
 
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAYThi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
Thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự, HAY
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docxasdnguyendinhdang
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 

Recently uploaded (20)

xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 

Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THÙY LINH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THÙY LINH MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phượng HÀ NỘI - 2012
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 7 1.1. Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 7 1.1.1. Khái niệm 7 1.1.2. Đối tượng 14 1.1.3. Phạm vi 17 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 20 1.2.1. Cơ sở lý luận 20 1.2.2. Cơ sở thực tiễn 24 1.3. Quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp luật về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 27 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 27 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 31 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 34
  • 4. 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 34 2.1.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 34 2.1.1.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm 34 2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa 38 2.1.1.3. Kiểm sát sau khi kết thúc phiên tòa 39 2.1.1.4. Kháng nghị phúc thẩm 42 2.1.2. Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 44 2.1.2.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử phúc thẩm 44 2.1.2.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa phúc thẩm 45 2.1.2.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật sau phiên tòa phúc thẩm 46 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 48 2.2.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 48 2.2.2. Kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 60 2.2.3. Nguyên nhân của những vướng mắc trong hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 64 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 70 3.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự 70 3.2. Các giải pháp khác 80 3.2.1. Giải pháp về tổ chức 80 3.2.2. Giải pháp về cán bộ 82
  • 5. 3.2.3. Giải pháp về cơ sở vật chất - kỹ thuật 88 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Kết quả xột xử sơ thẩm 49 2.2 Kết quả khỏng nghị phỳc thẩm của Viện kiểm sỏt nhõn dõn hai cấp 55
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, quá trình hội nhập kinh tế - quốc tế được mở rộng, do đó chức năng của các cơ quan trong bộ máy nhà nước được thay đổi cho phù hợp. Ngày 25/12/2001, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 51/2001/QH sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, theo đó tại Điều 2 ghi nhận: "…quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" [26]. Trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân cũng như các cơ quan tư pháp khác giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, duy trì trật tự pháp luật, bảo đảm sự ổn định của xã hội. Để thực hiện vai trò cũng như trách nhiệm quan trọng đó, pháp luật đã quy định cho Viện kiểm sát có các chức năng cụ thể. Theo đó "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố" (Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002) và theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định: "Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [10]. Đây vẫn được coi là hai phương diện hoạt động cơ bản được cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội giao cho Viện kiểm sát nhân dân. Thực tế cho thấy trong những năm qua, bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân đã tăng cường nhiều biện pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm nói riêng. Viện
  • 8. 2 kiểm sát nhân dân đã phát hiện các vi phạm của Tòa án để ban hành các kiến nghị và quyết định kháng nghị, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo pháp chế trong xét xử hình sự, xử lý tội phạm đúng pháp luật và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Tuy nhiên hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân bởi đặt trong bối cảnh nền tư pháp đã có những cải cách đáng kể, xu thế tranh tụng thực sự được mở rộng cùng với những bước tiến về kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, ý thức pháp luật và nền văn hóa pháp lý ở nước ta đã có những tiến bộ đáng kể thì liệu việc duy trì chức năng kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân có còn cần thiết? Điều này cho thấy có rất nhiều vấn đề cần phải được làm rõ để thấy được chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, từ đó nêu ra các hạn chế cũng như đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đã được một số nhà khoa học, cán bộ thực tiễn thực hiện và được công bố trong các công trình khoa học và bài viết như sau: - Nguyễn Thu Huệ (2004), Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học. - Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học. - Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học.
  • 9. 3 - Trần Xuân Quang (2009), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn - Luận văn thạc sĩ Luật học. - Nguyễn Văn Oanh (1998), Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự - Luận văn thạc sĩ Luật học. Ngoài ra, còn một số các bài viết trên các tạp chí khác nhau như: - Phạm Văn An, Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp - Tạp chí Kiểm sát, số 7 (tháng 4/2011). - Phạm Văn An, Một số kinh nghiệm trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp - Tạp chí Kiểm sát, số 10 (tháng 5/2011). - Trịnh Duy Tám (2006), Bàn về vai trò của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Nghề luật, số 4/2006. - Nguyễn Huy Tiến, Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự - Tạp chí Kiểm sát, số 17 (tháng 9/2009). Các công trình nêu trên chỉ nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chức năng của Viện kiểm sát nói chung hoặc chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong một giai đoạn, đó là xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm án hình sự. Tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, từ đó dẫn đến việc nhận thức và vận dụng còn nhiều khác nhau. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Đó là việc nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm
  • 10. 4 sát nhân dân. Đánh giá có căn cứ và khoa học về thực trạng thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, nêu ra những hạn chế cũng như đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân đạt hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Đưa ra và nhận xét về quá trình hình thành và phát triển của chức năng này qua các giai đoạn phát triển. Đánh giá thực trạng hoạt động trong công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011. Từ đó, rút ra những ưu điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Nghiên cứu thực trạng thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân để từ đó xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phạm vi nghiên cứu: Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là một vấn đề rất rộng liên quan đến chức năng kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và cả giám đốc thẩm, tái thẩm.
  • 11. 5 Tuy nhiên, giám đốc thẩm và tái thẩm không được thừa nhận là một cấp xét xử, mà chỉ được coi là thủ tục đặc biệt có nhiệm vụ xem xét lại tính đúng đắn của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, phạm vi luận văn được giới hạn trong chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở pháp luật hiện hành, luận văn đánh giá đúng thực trạng về thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2007 đến năm 2011. Nghiên cứu xây dựng giải pháp thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao chất lượng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước&pháp luật, được trình bày trên cơ cở nghiên cứu Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật khác quy định về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân. - Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sách, hệ thống kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn để kế thừa và chọn lọc những ưu khuyết điểm trong công tác kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vai trò, chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
  • 12. 6 nhân dân đồng thời trên cơ sở này làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, mối quan hệ giữa Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, đánh giá đúng thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong 5 năm qua (cụ thể từ năm 2007 - 2011), góp phần khẳng định chức năng này của Viện kiểm sát là rất cần thiết, nhằm đảm bảo nhu cầu khách quan của tình hình kinh tế - xã hội, của nền dân chủ và nhu cầu đấu tranh chống vi phạm và tội phạm hiện nay, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Luận văn khẳng định chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là cần thiết trong bộ máy nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Luận văn là công trình tham khảo cần thiết, là tài liệu nghiên cứu giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1.1. Khái niệm Theo Từ điển Tiếng Việt: "Kiểm sát là kiểm tra việc chấp hành pháp luật Nhà nước" [18, tr. 523]. Theo Từ điển Luật học: Kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng và giải quyết các hành vi phạm pháp, kiện tụng trong nhân dân nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [40, tr. 441]. Cả hai định nghĩa này mặc dù đã nêu được nội dung cũng như phạm vi của hoạt động kiểm sát nhưng lại chưa bao quát được chủ thể của hoạt động kiểm sát. Cụm từ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" lần đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử lập hiến nước ta tại Hiến pháp năm 1959, sau đó là Hiến pháp năm 1980, được cụ thể hóa trong các văn bản luật: Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Đến thời điểm năm 2001, đã xuất hiện cụm từ "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
  • 14. 8 thống nhất" [26]; Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [27]; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 lại tiếp tục sử dụng cụm từ "kiểm sát việc tuân theo pháp luật". Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: …Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [28]. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có một chủ thể duy nhất là Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vẫn tồn tại đồng thời hai thuật ngữ rất dễ gây nhầm lẫn: "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Để làm rõ khái niệm "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", câu hỏi đặt ra là: "kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự" có khác nhau hay không, nếu có thì khác nhau ở điểm nào và mối quan hệ giữa hai khái niệm này là như thế nào. Tố tụng hình sự là trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký phiên tòa), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, người bào chữa...), của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật tố tụng hình sự. "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự" là kiểm sát tất cả các hoạt động của các chủ thể nêu trên.
  • 15. 9 Về khái niệm "hoạt động tư pháp", hiện có nhiều ý kiến khác nhau, loại ý kiến thứ nhất cho rằng, "hoạt động tư pháp là hình thức thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền biến thành hiện thực" [41, tr. 11]. Loại ý kiến thứ hai khẳng định: Hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án, hoạt động của các cơ quan khác của Nhà nước và các tổ chức khác được Nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của Tòa án. Tòa án sử dụng công khai các kết quả hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp, áp dụng các thủ tục tư pháp theo luật định để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng. Hoạt động tư pháp cần được hiểu là "hoạt động của các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan thi hành án, và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa án" [41, tr. 14]. Như vậy, cả hai loại ý kiến trên hoặc khẳng định chủ thể của hoạt động tư pháp chỉ là Tòa án, hoặc mở rộng phạm vi chủ thể của hoạt động này tới cả các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho công tác xét xử của Tòa án. Theo cách hiểu tương đối phổ biến hiện nay: Hoạt động tư pháp là các hoạt động do cơ quan tư pháp thực hiện và một số hạn chế hoạt động do các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá trình tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết các vụ án. Và do đó, hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là các hoạt động do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện trong quá trình tiến hành tố tụng, được điều chỉnh bằng pháp luật tố tụng hình sự, trực tiếp liên quan tới quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ các phân tích nêu trên, về hoạt động tố tụng hình sự và hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, có thể thấy kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự về căn bản khác với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở phạm vi và đối tượng kiểm sát, cụ thể: Nếu hoạt động tư pháp
  • 16. 10 trong tố tụng hình sự là hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền tư pháp chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện, đây là hoạt động có tính quyền lực nhà nước; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự không chỉ là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả những hoạt động của các cơ quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt động của những người tham gia tố tụng, không mang tính quyền lực nhà nước. Nếu hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng thực hiện pháp luật ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật, do các dạng thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng: tuân thủ pháp luật, kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật - thực hiện nghĩa vụ một cách tích cực. Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, phạm vi kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm vi kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự. Kiểm sát là một dạng giám sát đặc thù chỉ gắn với duy nhất một loại chủ thể kiểm sát - Viện kiểm sát với quyền năng kiểm sát và phương thức kiểm sát riêng biệt. Quyền của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được thể hiện cụ thể qua các quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên căn cứ vào các quy định tại Điều 23, 36, 37, 113, 339 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; Điều 4, 14, 18, 24, 27 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Đối với Viện kiểm sát, chỉ có Viện kiểm sát mới có thể tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự một cách trực tiếp, cụ thể, liên tục do có đủ cơ sở, điều kiện cần thiết (vị trí
  • 17. 11 pháp lý đặc biệt với chức năng, quyền lực, bộ máy, cơ sở vật chất…). Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để tác động trực tiếp tới các đối tượng bị kiểm sát nhằm đảm bảo cho hoạt động giải quyết vụ án được theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết vụ án và tương ứng với các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể bị kiểm sát trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Bên cạnh việc sử dụng các quyền năng kiểm sát, Viện kiểm sát sử dụng một phương thức kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự riêng. Nó thể hiện ở việc kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể, trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng. Tính liên tục thể hiện ở chỗ: trong toàn bộ quá trình giải quyết một vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền và nghĩa vụ có mặt tại tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, từ khi một công dân mới là đối tượng bị tình nghi cho tới khi người đó được xóa án tích. Tính cụ thể của phương thức kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát có quyền giám sát chi tiết, tỷ mỉ các hoạt động cụ thể: khám nghiệm hiện trường, hỏi cung, lấy lời khai, thực nghiệm điều tra… Viện kiểm sát kiểm sát một cách trực tiếp đối với các hoạt động tố tụng thể hiện ở việc có mặt, theo sát, nhắc nhở kịp thời khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động giải quyết vụ án. Theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được chia thành các bộ phận khác nhau gắn liền với từng giai đoạn tố tụng hình sự: Kiểm sát khởi tố, điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án. Mỗi bộ phận này có đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn riêng nhưng liên hệ mật thiết với nhau và đều là hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
  • 18. 12 nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra khi phát hiện các vi phạm của các đối tượng kể trên, Viện kiểm sát có trách nhiệm kịp thời áp dụng những biện pháp thích hợp do pháp luật quy định để loại trừ các vi phạm đó. Từ những nội dung đã trình bày ở trên, có thể hiểu: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát, có chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện và áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm những bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có đủ căn cứ và hợp pháp, loại trừ mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân không chỉ là thực hành quyền công tố, bảo vệ quyết định truy tố, bảo vệ quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân, bảo vệ kháng cáo hợp pháp của những người có quyền kháng cáo, buộc tội bị cáo, kết luận về tính có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân, mà còn đồng thời thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự. Kiểm sát xét xử hình sự là hoạt động kế tiếp hoạt động kiểm sát điều tra, là quá trình kiểm tra lại kết quả hoạt động điều tra, hoạt động kiểm sát điều tra, bảo vệ quan điểm truy tố khách quan đúng đắn của Viện kiểm sát nhân dân. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hai hình thức hoạt động có quan hệ gắn bó, chặt chẽ, không tách rời nhau nhằm thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử vụ án hình sự góp phần cùng Tòa án nhân dân
  • 19. 13 xử lý, giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm cho hoạt động xét xử đúng pháp luật (pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật khác có liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự). Kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện trong tất cả các giai đoạn xét xử vụ án hình sự từ giai đoạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho tới khi vụ án được xét xử xong, Tòa án nhân dân đưa ra một bản án, quyết định có căn cứ, hợp pháp bảo đảm được đưa ra thi hành. Hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự còn được thực hiện trong tất cả các thủ tục xét xử vụ án hình sự, từ thủ tục xét xử sơ thẩm đến thủ tục xét xử phúc thẩm hình sự hoặc cá biệt các vụ án hình sự được xét xử lại theo các thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hình sự. Từ khi có quyết định truy tố bị can của Viện kiểm sát nhân dân, quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân, vụ án được đưa ra xét xử công khai cho tới khi xét xử xong là quá trình Tòa án nhân dân thực hiện công tác xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện trong tất cả các giai đoạn xét xử vụ án hình sự (giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử công khai và giai đoạn sau khi xét xử công khai) đối với tất cả các cấp Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nhằm bảo đảm pháp chế trong hoạt động xét xử. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay trong thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì bản án của Tòa án cấp sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật và được thi hành. Ngược lại, nếu có kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý do chính đáng và được Tòa án chấp thuận thì sẽ phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ đề cập đến xét xử phúc thẩm với tính chất là xét
  • 20. 14 xử lại những vụ án mà bản án, quyết định đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt động thực hiện pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho việc xét xử được tiến hành đúng các quy định của pháp luật. Như vậy, Kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát là tổng hợp các quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát có nội dung là kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. Theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được thừa nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Do vậy, quá trình kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát cũng được thực hiện theo hai cấp này đó là kiểm sát xét xử sơ thẩm và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Do đặc thù của xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên trong khi đó xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, đây cũng là cấp xét xử nhằm mục đích kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; kiểm tra, sửa chữa những sai phạm của Tòa án cấp sơ thẩm để đưa ra một bản án đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội nên kiểm sát xét xử sơ thẩm và kiểm sát xét xử phúc thẩm có đối tượng, phạm vi khác nhau. 1.1.2. Đối tƣợng Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Tòa án nhân dân, Hội đồng xét xử là các chủ thể tiến hành tố tụng, ngoài ra còn có những người tham gia tố
  • 21. 15 tụng như bị cáo, người bị hại, người làm chứng, người giám định, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tất cả những chủ thể này đều được pháp luật tố tụng quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể. Mọi hoạt động của các chủ thể này đều căn cứ vào các quy định của pháp luật để thực hiện. Trong các giai đoạn xét xử, từ khi chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cho đến khi vụ án xét xử xong, Tòa án nhân dân ra một bản án hoặc quyết định, khẳng định về mặt pháp lý mọi vấn đề liên quan đến vụ án hình sự, Kiểm sát viên thực hiện chức năng của mình nhằm bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng xét xử thực hiện đúng các thẩm quyền, các nghĩa vụ mà pháp luật đã quy định. Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự là hai chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Hai chức năng này có đối tượng tác động khác nhau. Trong khi đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là hành vi phạm tội và người phạm tội. Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Theo đó, những hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự như đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì đối tượng của kiểm sát xét xử các vụ án hình sự là việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được thể hiện trên những khía cạnh sau đây: + Tư cách pháp lý của những người tiến hành tố tụng trong Hội đồng xét xử.
  • 22. 16 + Việc tuân theo các quy định về thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử. + Việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra xét hỏi tại phiên tòa. + Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng. + Tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. + Việc tuân theo các quy định trật tự phiên tòa. + Việc tuân theo pháp luật trong các bản án, quyết định của Tòa án. Trong khi đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự là sự tuân thủ pháp luật trong hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 185 Bộ luật Tố tụng hình sự: "Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm" [28] và những người tham gia tố tụng xét xử: bị cáo (Điều 50 Bộ luật Tố tụng hình sự), người bào chữa (Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự), người bị hại (Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự), nguyên đơn dân sự (Điều 52 Bộ luật Tố tụng hình sự), bị đơn dân sự (Điều 53 Bộ luật Tố tụng hình sự), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ (Điều 54 Bộ luật Tố tụng hình sự), người làm chứng (Điều 55 Bộ luật Tố tụng hình sự), người giám định (Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự) còn đối tượng của kiểm sát xét xử phúc thẩm chính là sự tuân theo pháp luật của Tòa án cấp phúc thẩm và những người tham gia tố tụng quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khi tiến hành các hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát không chỉ dựa trên các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà còn trên các căn cứ pháp lý khác là Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể là đối tượng của hoạt động kiểm sát cũng như để đảm bảo tính hợp pháp, tính có căn cứ của chính hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát. Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải tuân thủ và thực hiện những quyền
  • 23. 17 và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật hình sự và sự tuân thủ pháp luật của họ là đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm, phúc thẩm. 1.1.3. Phạm vi Quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự, từ khi vụ án được phát hiện, điều tra, truy tố cho đến khi vụ án được đưa ra xét xử là chuyển sang một giai đoạn tố tụng khác. Giai đoạn xét xử công khai nhằm kết luận chính thức về nội dung các vụ án. Các cấp Tòa án thông qua hoạt động xét xử ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hình sự, nhân danh Nhà nước xem xét quyết định về hành vi phạm tội của các bị cáo, về biện pháp xử lý đối với bị cáo và các vấn đề khác liên quan đến vụ án hình sự. Xem xét ở trình tự tiến hành tố tụng xét xử, xem xét về không gian và thời gian thì phạm vi kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án và "quyết định truy tố" của Viện kiểm sát nhân dân được gửi tới Tòa án nhân dân, Tòa án nhận hồ sơ vào sổ thụ lý, cho đến khi vụ án được xét xử, Tòa án ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, không bị khiếu nại, Kiểm sát viên hoàn thành những công việc cần thiết theo quy định của pháp luật, theo quy định của Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự - Ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự). Như vậy, xem xét thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử hình sự là phải xem xét ở cả hai khía cạnh: Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật và Kiểm sát viên hoàn thành mọi công việc theo thẩm quyền và nghĩa vụ. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng Kiểm sát viên chưa hoàn tất những công việc mà pháp luật quy định hoặc ngược lại, thì đều không được xem đó là thời điểm kết thúc phạm vi hoạt động kiểm sát xét xử hình sự.
  • 24. 18 Phạm vi của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự bắt đầu kể từ khi hồ sơ vụ án và quyết định truy tố gửi đến Tòa án, kết thúc khi vụ án được xét xử đã có bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo hoặc kháng nghị; kiểm sát viên thực hiện kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự hoàn thành những công việc cần thiết theo quy định của pháp luật và Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Sau khi kết thúc hoạt động kiểm sát điều tra, nếu Viện kiểm sát ra quyết định truy tố thì "Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát nhân dân phải gửi hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án" (khoản 3 Điều 166 Bộ luật Tố tụng hình sự). Khi hồ sơ vụ án, quyết định truy tố được Tòa án nhân dân nhận, vào sổ thụ lý vụ án là thời điểm bắt đầu của hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án, đồng thời cũng là thời điểm mở đầu phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Trường hợp Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định truy tố, song chưa gửi Tòa án nhân dân hoặc nếu gửi tới Tòa án nhưng Tòa án không nhận, chưa vào sổ thụ lý thì chưa thuộc phạm vi hoạt động xét xử cũng như kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Thời điểm kết thúc phạm vi kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự khi bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm đã tuyên có hiệu lực pháp luật, không có kháng cáo, kháng nghị và Kiểm sát viên hoàn tất những công việc của mình theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự của Tòa án các cấp và Điều 171, 172 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, thẩm quyền xét xử những tội phạm xảy ra trên máy bay, tàu thủy…thì tương ứng với các cấp Tòa án xét xử những vụ án hình sự đó có Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự. Khi có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng để mở phiên
  • 25. 19 tòa phúc thẩm xét xử lại vụ án về nội dung cũng như xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Những người có liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, khi có kháng cáo, kháng nghị hợp lệ thì mặc nhiên phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm của Tòa án và hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì trong thời hạn 15 ngày đối với Viện kiểm sát cấp sơ thẩm và 30 ngày đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án sơ thẩm. Vì vậy để đảm bảo các hành vi tố tụng của các chủ thể nói trên tuân thủ pháp luật thì hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được bắt đầu ngay từ thời điểm sau khi tuyên bản án sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 248 và Điều 253 Bộ luật Tố tụng hình sự, bản án hoặc quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hoặc kể từ ngày ra quyết định. Phạm vi kết thúc của hoạt động kiểm sát xét xử phúc thẩm là sau khi Viện kiểm sát thực hiện xong quyền kiểm tra, giám sát tính có căn cứ và hợp pháp của bản án phúc thẩm. Quá trình kiểm sát nếu phát hiện bản án phúc thẩm có vi phạm pháp luật thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Viện kiểm sát kiến nghị với Tòa án khắc phục hoặc đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc xác định đúng đắn khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử hình sự và địa vị pháp lý của Kiểm sát viên là điều kiện đảm bảo hiệu quả của công tác kiểm sát xét xử hình sự, giúp cho Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ có đầy đủ căn cứ pháp luật thực hành quyền công tố một cách công minh, kiểm sát việc tuân theo pháp luật một cách chặt chẽ, nhằm khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án nhân dân và những người tham gia tố tụng xét xử trong việc xét xử những vụ án hình sự, đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đấu tranh
  • 26. 20 chống tội phạm một cách chính xác, góp phần giáo dục, đấu tranh phòng ngừa chung, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.2.1. Cơ sở lý luận Từ khi giành độc lập, Nhà nước ta đã sử dụng các cơ quan khác nhau của bộ máy nhà nước để quản lý, giữ vững nền độc lập. Để bộ máy nhà nước thực hiện nhịp nhàng, chính xác và hiệu quả, Nhà nước tiến hành phân công giữa các bộ phận của bộ máy, nghĩa là phân định thẩm quyền trong đó mỗi cơ quan nhà nước được giao mỗi chức năng khác nhau để hoạt động. Đó có thể là hình thức hoạt động xây dựng và ban hành pháp luật, thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật… Ngay từ ngày thành lập Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm đấu tranh có hiệu quả với các hành vi phạm tội đảm bảo cho việc củng cố chính quyền cách mạng. Hệ thống Công tố được tách dần ra khỏi hệ thống Tòa án và sự ra đời của Hiến pháp năm 1959 đánh dấu bước ra đời của Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước. Chức năng Nhà nước của Viện kiểm sát nhân dân từ thẩm quyền được giao là thực hiện chức năng tư pháp cùng với Tòa án nhân dân và các cơ quan tư pháp khác. Theo Hiến pháp năm 1959, ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát còn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội. Đánh giá và nhìn nhận về chức năng của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong tố tụng hình sự nói riêng được nâng lên một bước rõ rệt theo quy định của Hiến pháp năm 1980 và tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp năm 1992. Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: "Viện
  • 27. 21 kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố" [27]. Xét xử vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Viện kiểm sát ngoài chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội thì Viện kiểm sát nhân dân còn thực hiện chức năng kiểm sát xét xử nhằm đảm bảo xét xử vụ án hình sự được khách quan, toàn diện, nghiêm minh kịp thời và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ trong các phán quyết của Tòa án. Điều 16 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: "Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [27]. Điều 1 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: "Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm: kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [43]. Điều 3 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: "Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn cùng hồ sơ vụ án sang Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, không có kháng cáo, kháng nghị [43]. Theo nguyên tắc được quy định tại Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử: cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử phúc thẩm. Ngoài ra còn có thủ tục xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp
  • 28. 22 luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như vậy, tùy theo từng vụ án, từng bị cáo mà công tác kiểm sát xét xử hình sự có thể kéo dài hay ngắn. Có những vụ án chỉ bị giải quyết ở thủ tục xét xử sơ thẩm mà không có kháng cáo, kháng nghị thì công tác kiểm sát xét xử sẽ chấm dứt từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Ngược lại, đối với các vụ án mà sau khi xét xử sơ thẩm nếu phát hiện bản án hoặc quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật hoặc phát hiện tình tiết mới thì vụ án có thể bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Theo quy định tại Điều 18, Điều 19 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì khi thực hiện kiểm sát xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền hạn, nhiệm vụ sau: - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và của những người tham gia tố tụng. Có thể nói hoạt động xét xử là hoạt động trung tâm nhất trong các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự. Vì vậy kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn này có vai trò rất quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn này, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án từ giai đoạn chuẩn bị xét xử như kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, việc ra các quyết định sơ thẩm và việc giao các quyết định đó theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trường hợp phát hiện có vi phạm thì yêu cầu Tòa án khắc phục và báo cáo với lãnh đạo Viện để kháng nghị theo quy định của pháp luật. Khi tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên tòa nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được công minh, đúng pháp luật; Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tham gia tố tụng của những người tiến hành tố tụng và có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng khác, có quyền đưa ra những yêu cầu
  • 29. 23 để bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó có việc đề nghị triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật chứng ra để xem xét… - Kiểm sát bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật. Sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên cần kiểm tra biên bản phiên tòa, lưu ý những trường hợp kết luận của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố cũng như quyết định của chủ tọa tại phiên tòa khác với quyết định ghi trong bản án. Nếu phát hiện có những điểm biên bản phiên tòa ghi thiếu sót hoặc không chính xác thì kiến nghị yêu cầu Hội đồng xét xử bổ sung hoặc điều chỉnh. Kiểm sát viên phải kiểm tra bản án, quyết định của Tòa án để kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm và kiểm tra việc giao bản án, quyết định của Tòa án. - Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị. Khi phát hiện bản án sơ thẩm hoặc quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo Viện để kháng nghị theo quy định của pháp luật. Nếu thấy cần thiết thì Kiểm sát viên yêu cầu Tòa án cùng cấp chuyển hồ sơ vụ án đó để Viện kiểm sát nghiên cứu. Khi ra quyết định kháng nghị, Viện kiểm sát phải căn cứ vào những quy định cụ thể của pháp luật về thẩm quyền và thời hạn kháng nghị bản án, quyết định. Nếu bản án, quyết định vi phạm Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan nhưng chưa có hiệu lực pháp luật thì kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Nếu bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật thì kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm căn cứ quy định tại Điều 273, Điều 278 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 hoặc kháng nghị theo thủ tục tái thẩm theo quy định tại Điều 291, Điều 295 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Ngoài ra, theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
  • 30. 24 sự và pháp lệnh Kiểm sát viên, Viện kiểm sát còn có nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối với bản án, quyết định của Tòa án trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự; kiến nghị Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục các vi phạm trong xét xử; kiến nghị với các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm và tội phạm. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tư pháp nói chung. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) quy định: Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định [26]. Cụ thể hóa quy định mang tính hiến định này, Bộ luật Tố tụng hình sự đã có nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhằm đảm bảo Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nói chung và trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự nói riêng. Trong giai đoạn điều tra, pháp luật tố tụng hình sự đã có quy định rất cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi tiến hành kiểm sát điều tra (Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự), đồng thời quy định trách nhiệm của cơ quan Điều tra trong việc thực hiện yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát (Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong giai đoạn kiểm sát điều tra. Do vậy, kể từ khi thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát đã thực hiện tốt vai trò kiểm sát điều
  • 31. 25 tra, yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm nên chất lượng kiểm sát điều tra không ngừng được nâng cao, tỉ lệ án oan, sai, bỏ lọt tội phạm giảm; các trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp để phục vụ công tác điều tra được khắc phục, hiện tượng hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế giảm đáng kể; hạn chế tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng… Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn gì thì chưa được quy định cụ thể. Đây là một thiếu sót quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. Nếu pháp luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể Viện kiểm sát được và phải làm những việc gì, mục đích, ý nghĩa của những việc làm đó thì không thể quán triệt để toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên nhận thức một cách sâu sắc và tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc. Đồng thời, dù có thực hiện tốt nhưng khi phát hiện vi phạm trong hoạt động xét xử của Tòa án thì Viện kiểm sát làm thế nào và căn cứ vào đâu để yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm khi Luật không trao quyền cho Viện kiểm sát. Điều này cho thấy rõ ràng rằng thực trạng pháp luật còn tồn tại nhiều bất cập và mâu thuẫn nhau. Do vậy cần có một cơ chế pháp luật hoàn chỉnh, nhất là pháp luật tố tụng hình sự quy định đầy đủ, rõ ràng những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát tư pháp trong giai đoạn xét xử để Viện kiểm sát cũng như Kiểm sát viên căn cứ vào đó mà thực hiện, tránh trường hợp lạm quyền hoặc không làm hết những nhiệm vụ của mình. Một vấn đề đặt ra đó là hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh chức năng kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Trong giới nghiên cứu đã và đang có quan điểm cho rằng chỉ nên giao cho Viện kiểm sát nhiệm vụ thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử vì chức năng kiểm sát xét xử làm ảnh hưởng tới nguyên tắc "Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự). Tính độc lập xét xử của Tòa án có nghĩa khi xét xử, Thẩm phán và Hội
  • 32. 26 thẩm chỉ căn cứ vào quy định của pháp luật, căn cứ vào chứng cứ hợp pháp để xét xử và tuyên bản án trên cơ sở khách quan tranh tụng tại phiên tòa một cách dân chủ, công khai, không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào có quyền can thiệp, chỉ đạo, định hướng Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. Tuy nhiên, độc lập không có nghĩa là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không chịu bất kỳ sự giám sát nào bởi lẽ nếu độc lập theo hướng như vậy sẽ tất yếu dẫn đến tình trạng độc quyền, lạm quyền. Hơn nữa xét xử là một hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, vừa là chấp hành pháp luật vừa là hoạt động áp dụng pháp luật. Do vậy, khi xét xử Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trước khi áp dụng pháp luật đối với các đối tượng khác. Nhưng liệu Tòa án có tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật không thì cần phải có một cơ quan tiến hành giám sát chặt chẽ hoạt động này của Tòa án. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cần hiểu rằng hoạt động kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát không phải là nhằm cản trở hoạt động xét xử, mà nó không những là cơ sở để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của mình mà còn là điều kiện để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua sự phân tích trên cho thấy vị trí, vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự là rất quan trọng. Tòa án có chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hay không, bản án của Tòa án có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử có được đảm bảo, tôn trọng và thực hiện hay không phụ thuộc rất lớn vào hoạt động của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện chức năng kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế, Kiểm sát viên vẫn chưa thực sự sử dụng triệt để quyền năng tố tụng mà pháp luật quy định để thực hiện tốt hơn nữa vai trò của mình. Tình trạng kiểm sát thẩm quyền thụ lý của Toà án, việc đề nghị thay đổi mìnhh viên trong Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa, việc kiến nghị với
  • 33. 27 Tòa án phải khắc phục ngay một số sai phạm của Tòa hay rút kinh nghiệm chung đối với các vi phạm như để quá hạn xét xử, thành phần Hội đồng xét xử không đúng luật, việc thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm vẫn chưa bảo đảm khách quan, toàn diện, đầy đủ và thiếu tinh thần trách nhiệm của một số Kiểm sát viên. Việc nhận thức đầy đủ và đúng đắn vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kiểm sát viên có nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của mình thì mới đề cao tinh thần trách nhiệm và sử dụng đúng đắn, triệt để và có hiệu quả quyền năng tố tụng của Viện kiểm sát trong kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự. Và do vậy, vấn đề mà chúng ta cần quan tâm không phải là bãi bỏ nhiệm vụ kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát mà quan trọng là ở chỗ phải có phương thức kiểm sát như thế nào để vừa đảm bảo tính giám sát Nhà nước đối với Hội đồng xét xử vừa không làm ảnh hưởng tới nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án. 1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trƣớc khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 Từ đặc điểm của tình hình đất nước toàn dân đang ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến hành sâu rộng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà và trước yêu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phải có một nền pháp chế thống nhất, trong khi đó Viện công tố được thành lập năm 1958 với chức năng chủ yếu là đưa vụ án ra Tòa án và tổ chức hoạt động theo nguyên tắc song trùng trực thuộc đã tỏ ra không còn thích hợp với sự phát triển của cách mạng và không thể đảm bảo những yêu cầu mới của việc thiết lập và củng cố nền pháp
  • 34. 28 chế xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đặt vấn đề phải thành lập Viện kiểm sát nhân dân thay thế cho Viện công tố để kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Trước yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, năm 1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Hiến pháp mới. Hiến pháp năm 1959 quy định việc tổ chức lại các cơ quan nhà nước trong đó xác định hệ thống tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân được xây dựng, hoạt động theo nguyên tắc thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Điều 105 Hiến pháp năm 1959 nêu rõ: Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát Quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định [21]. Ngày 26/07/1960 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, theo đó Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định: "Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được tiến hành thắng lợi [22].
  • 35. 29 Và xác định rõ: "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân dân là một trong các công tác thực hiện chức năng chung của Viện kiểm sát" [22, Điều 3]. Căn cứ vào các quy định chung đó, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã dành một chương riêng quy định về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Đó là Chương IV: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án, bao gồm 3 điều: Điều 17, Điều 18 và Điều 19, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân có quyền sau đây: "Kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới một cấp. Riêng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp nếu thấy các bản án hoặc quyết định này có sai lầm" [22]. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 tuy chưa phân định rõ "thực hành quyền công tố" với "kiểm sát xét xử" nhưng đã quy định khái quát và đầy đủ những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của công tác kiểm sát xét xử hình sự giúp cho ngành Kiểm sát tuy mới ra đời nhưng đã hoạt động tích cực và sáng tạo, không chỉ thể hiện ở những thành tích phục vụ các công tác trọng tâm của Đảng và Nhà nước, mà điều quan trọng là đã nâng cao thêm một bước nhận thức về chuyên chính vô sản và pháp chế xã hội chủ nghĩa, về chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của ngành, nhất là khâu công tác kiểm sát xét xử hình sự phát huy tác dụng của pháp luật trong việc phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Năm 1974 Tòa án nhân dân tối cao ra Thông tư số 16/TATC ngày 29/7/1974 và Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 về thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Đến năm 1981, Quốc hội khóa VII đã thông qua Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 ngày 04/7/1981 (sau đó được sửa đổi bổ sung vào năm 1989). Với sự ra đời của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, các nhiệm vụ quyền hạn của công tác kiểm sát xét xử hình sự
  • 36. 30 đã được luật quy định rõ. Tại Điều 13 Luật này quy định, khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử hình sự các Viện kiểm sát nhân dân có quyền: 1- Tham dự việc trù bị phiên tòa của Tòa án nhân dân cùng cấp; 2- Tham gia tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân cùng cấp; trong phiên tòa hình sự, kiểm sát viên đọc cáo trạng và luận tội; 3- Yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án cần thiết cho công tác kiểm sát xét xử; 4- Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật; 5- Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp dưới, khi thấy có vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp theo thủ tục giám đốc thẩm khi thấy có vi phạm pháp luật hoặc theo thủ tục tái thẩm khi thấy có tình tiết mới [23]. So với Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 thì Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi, bổ sung năm 1989 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát xét xử hình sự. Viện kiểm sát nhân dân có quyền "Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án cần thiết cho công tác xét xử", điểm này giúp cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của các bản án và quyết định sơ thẩm, phúc thẩm nhằm phát hiện vi phạm, kịp thời kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm cũng đã được quy định cụ thể. Sự phát triển đó của Luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự, khẳng định vị
  • 37. 31 trí, vai trò và tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước. Nhìn chung công tác kiểm sát xét xử hình sự trong giai đoạn này đã có cố gắng và đóng góp quan trọng vào phục vụ nhiệm vụ chính trị của ngành, của đất nước. Công tác kiểm sát xét xử hình sự vừa tích cực hỗ trợ ngành Tòa án ra bản án đúng, vừa tích cực kiến nghị khắc phục vi phạm và tự phát hiện uốn nắn với chính sai lầm của mình nên đã góp phần quan trọng vào việc chống oan, chống lọt, xây dựng và hoàn thiện Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, đồng thời góp phần xây dựng các hướng dẫn thực hiện pháp luật trong giai đoạn sau này. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trƣớc khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 Trong giai đoạn này, Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/6/1988 quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định: "Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào". Qua nhiều năm triển khai thực hiện và ba lần sửa đổi, Bộ luật Tố tụng hình sự đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới của đất nước ta trong những năm qua. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi (từ Điều 137 đến Điều 140) tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Trong đó nhiệm vụ, quyền hạn của công tác kiểm sát xét xử được quy định tại chương III Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002:
  • 38. 32 Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét việc kháng nghị. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Tòa án nhân dân cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự [27, Điều 18, 19]. Có thể nói, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã kế thừa và phát triển so với các Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trước đây. Căn cứ vào Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân lần này đã quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng là "thực hành quyền công tố" và "kiểm sát các hoạt động tư pháp", đồng thời cũng quy định rõ ràng, cụ thể, nhiệm vụ quyền hạn của hai chức năng này, đã tách bạch được hai nội dung của công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự. Qua phân tích trên đây có thể rõ ràng nhận thấy những quy định của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân nói chung và về công tác kiểm sát xét xử hình sự nói riêng giai đoạn từ 1988 đến trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã có sự phát triển mới, rõ ràng hơn, cụ thể hơn, phù hợp hơn với pháp luật các nước trên thế giới, trong đó đáng lưu ý là đã xác định rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, lấy hoạt động xét xử là trọng tâm. Do vậy, công tác kiểm sát xét xử hình sự đã đạt được một số thành tựu như: chất lượng công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử được
  • 39. 33 nâng lên, số lượng kháng nghị, chất lượng kháng nghị được quan tâm đồng đều hơn ở các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm… KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 Việc nghiên cứu những vấn đề chung về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đưa ra một khái niệm tương đối đầy đủ về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát. Đó là: Việc kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng hình sự theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. Bên cạnh việc phân tích về khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, luận văn còn phân tích và làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cũng như quá trình hình thành và phát triển những quy định của pháp luật về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Đây cũng là cơ sở để nghiên cứu các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kiểm sát xét xử vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại Chương 2 dưới đây. Đồng thời cũng là cơ sở xem xét, đề xuất đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chức năng này được đề cập ở Chương 3.
  • 40. 34 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 2.1.1. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 2.1.1.1. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm Chuẩn bị xét xử là chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tốt việc chuẩn bị xét xử sẽ nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết vụ án được nhanh chóng, chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án, Viện kiểm sát và những người tiến hành tố tụng phải tiến hành các hoạt động nhất định tùy theo chức năng tố tụng của mình. Trong giai đoạn này, đối với Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa tiến hành các hoạt động nghiên cứu hồ sơ vụ án; giải quyết việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn (trừ biện pháp tạm giam), các yêu cầu, khiếu nại của những người tham gia tố tụng; đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nếu có các căn cứ theo luật định và tiến hành các công việc cần thiết khác cho việc mở phiên tòa. Đối với Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự thì việc kiểm sát các hoạt động chuẩn bị xét xử của Tòa án là một trong số những nhiệm vụ của Kiểm sát viên nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Như vậy, kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn
  • 41. 35 bị xét xử nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Toà án đúng pháp luật. Kể từ năm 2002 trở lại đây, hoạt động kiểm sát xét xử do Kiểm sát viên - người đã tiến hành tố tụng ngay từ khi khởi tố vụ án đảm nhiệm. Kiểm sát việc chuẩn bị xét xử sơ thẩm là hoạt động tiếp theo kiểm sát điều tra mà Kiểm sát viên phải thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ được phân công xuyên suốt từ khi bắt đầu đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án hình sự. Phạm vi của hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là kiểm sát một phần của giai đoạn xét xử sơ thẩm, bắt đầu từ khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và kết thúc khi vụ án được đưa ra xét xử tại phiên tòa. Đối tượng của hoạt động kiểm sát chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự chính là việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành và tham gia tố tụng tại giai đoạn chuẩn bị xét xử. Về nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên khi kiểm sát việc chuẩn bị xét xử, căn cứ vào Điều 14 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự thì: Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử; về việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị xét xử; về việc ra các quyết định: Quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án và việc giao các quyết định này theo Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự [43]. Cụ thể, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, kiểm sát việc gửi các quyết định trên cho Viện kiểm sát và những người có liên quan theo quy định của pháp luật (Điều 182 Bộ luật Tố tụng hình sự). Ngoài ra, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc ra các quyết định của Tòa án trong thời hạn chuẩn bị xét xử, phải kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các quyết định, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong việc ban hành các quyết định tố tụng của Tòa án.
  • 42. 36 Đối với trường hợp Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử, Kiểm sát viên tiến hành kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đưa vụ án ra xét xử bởi quyết định đưa vụ án ra xét xử là một văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, khẳng định việc giải quyết vụ án bằng thủ tục xét xử chặt chẽ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Điều này nhằm đảm bảo quyền tham gia bào chữa của bị cáo, đảm bảo quyền chuẩn bị xét xử của những người tham gia tố tụng đối với các vấn đề có liên quan đến họ. Nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có đầy đủ 10 nội dung theo quy định tại Điều 178 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong đó chú ý đến: Thành phần Hội đồng xét xử, danh sách những người tham gia tố tụng được triệu tập đến phiên tòa; sự tham gia phiên tòa của người giám hộ cho người chưa thành niên, luật sư, người bào chữa trong các vụ án theo quy định của điểm a, điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự; sự tham gia của những người mà lời khai của họ có giá trị chứng minh tại phiên tòa như nhân chứng, bị hại… (Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự), nếu những người đó vắng mặt thì sẽ gây khó khăn cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Nếu thấy nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử chưa đầy đủ hoặc chưa đúng thì phải kiến nghị ngay với Tòa án để bổ sung. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc giao quyết định này cho Viện kiểm sát, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa chậm nhất là 10 ngày trước khi mở phiên tòa và sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử phải kiểm sát thời hạn mở phiên tòa theo quyết định tại khoản 2 Điều 176 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, đây là một biện pháp tố tụng do Tòa án áp dụng nhằm khắc phục những thiếu sót về thủ tục tố tụng cũng như những chứng cứ quan trọng trong việc chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Khi kiểm sát quyết định trả hồ sơ của Tòa án, Kiểm sát viên phải kiểm tra về thẩm quyền, thời hạn và các căn cứ trả hồ sơ theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, Viện kiểm sát cũng cần phải xác định tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án sau khi nhận được các
  • 43. 37 quyết định này. Đối với quyết định tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm sát: 1- Thẩm quyền của người ra các quyết định; 2- Căn cứ để tạm đình chỉ phải đúng theo quy định của Điều 160 Bộ luật Tố tụng hình sự; 3- Sau khi tạm đình chỉ, Tòa án phải yêu cầu Cơ quan Điều tra truy nã bị cáo trong trường hợp không rõ bị cáo đang ở đâu hoặc ra quyết định bắt buộc chữa bệnh đối với bị cáo bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác [28]. Đối với quyết định đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên phải kiểm sát các căn cứ mà Tòa án đình chỉ vụ án (Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự). Tòa án chỉ được đình chỉ vụ án khi có một trong các căn cứ sau: "1- Người có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa (Khoản 1 Điều 105); 2- Căn cứ theo các điểm 3, 4, 5, 6, 7 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự; 3- Khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa" [28]. Nếu phát hiện thấy việc tạm đình chỉ, đình chỉ không đúng theo quy định của pháp luật, thì Kiểm sát viên phải báo cáo lãnh đạo Viện để xem xét, quyết định việc kháng nghị. Để kiểm sát việc Tòa án giao các quyết định trên thì Kiểm sát viên sau khi nhận được các quyết định trên yêu cầu Tòa án gửi cho những người khác theo quy định, thông qua hoạt động kiểm sát phần thủ tục tại phiên tòa hoặc khiếu nại của người bào chữa, bị can, bị cáo, để phát hiện các vi phạm của Thẩm phán, Thư ký trong việc giao các quyết định để có kiến nghị kịp thời với Chánh án. Bên cạnh việc kiểm sát quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, Kiểm sát viên cũng cần phải kiểm sát tính có căn cứ và hợp pháp cũng như thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp của việc hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án, đồng thời phải liên hệ chặt chẽ
  • 44. 38 với Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người thi hành án phạt tù về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị cáo của Tòa án để phối hợp theo dõi (Điều 53 Quy chế kiểm sát xét xử các vụ án hình sự). Kiểm sát viên phải phát hiện kịp thời vi phạm của Tòa án để báo cáo lãnh đạo Viện có biện pháp khắc phục. 2.1.1.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa Tại phiên tòa, ngoài nhiệm vụ bảo vệ cáo trạng và quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, Kiểm sát viên còn có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát hoạt động xét xử của Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và công minh, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng được bảo đảm, tôn trọng trong quá trình xét xử. Nếu thành viên của Hội đồng xét xử không đúng hoặc có một trong những trường hợp phải hoãn phiên tòa thì Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử thay đổi thành viên hoặc đề nghị hoãn phiên tòa. Trong trường hợp Hội đồng xét xử đúng như nêu trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, thay đổi Thư ký Tòa án, thay đổi người phiên dịch, giám định viên, thì Kiểm sát viên phải xem xét. Nếu yêu cầu, đề nghị đó mà có căn cứ thì Kiểm sát viên phải đề nghị Hội đồng xét xử thay đổi và phải hoãn phiên tòa. Kiểm sát viên phải xem xét lý do mà họ đưa ra đề nghị thay đổi trên cơ sở so sánh với các căn cứ của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về điều kiện phải từ chối hoặc phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án…(Điều 14, 42, 45, 46, 60, 61 Bộ luật Tố tụng hình sự). Trước khi chuyển sang giai đoạn thẩm vấn, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc Hội đồng xét xử bảo đảm quyền yêu cầu triệu tập thêm nhân chứng hoặc quyền đưa thêm vật chứng và tài liệu liên quan tới vụ án ra xem xét tại phiên tòa của những người tham gia tố tụng (Điều 203, 204, 205 Bộ luật Tố tụng hình sự) và kiểm sát việc bảo đảm thực hiện các quyền đó của họ.