SlideShare a Scribd company logo
BÁO CÁO THỰC TẬP
TẠI VIỆN KIỂM SÁT
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong
đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm
sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu
trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm
2002.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể
hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã
hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số
08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực
hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm
nhiệm vụ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật;
những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh
bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ.
Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành
kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá
trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả
trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động
của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn
để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị
bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn
cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được
bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng
biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925
vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v...
Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất
đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không
nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung
trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật
như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003
nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói
riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của
luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS.
Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng " Kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hỡnh sự của Viện kiểm sỏt " là
hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm
đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình
sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình
khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm
1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác
giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát
điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù
có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại
nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố
- điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn
nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp
luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định
mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn.
Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này
trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong
hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng
hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ
năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động
kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai
đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực
và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện chức năng này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn
khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố -
điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay
trên địa bàn toàn quốc.
4. ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây
dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố -
điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh
phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công
tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được
những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn
nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp
vụ của mình.
5. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục
vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động
kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều
tra vụ án hình sự.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Chương 1
một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố -
điều tra
trong tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra vụ án
hình sự
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do
nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất
vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết
vụ án được gọi là tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa luật - Đại
học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn
tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi
giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm
thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu:
Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất
định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có
thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh,
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự
pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5].
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao
gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai
đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử
phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét
lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình
sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai
đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm của
giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố
tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
a) Khái niệm
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn
này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan,... được
áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ
tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh
các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau
tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến
tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan
đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết
phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của
người tố giác tội phạm v.v...
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt
đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được
xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố
giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời
gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp
của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý.
Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án
hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng
tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm.
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của
tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể
kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết
luận chính xác các nội dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố
tụng hình sự đó là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn đầu tiên của
quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có
dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi
tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải
quyết vụ án hình sự" [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời
hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố
giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có
hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết
định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố,
ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải
quan,...Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ
ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai
đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám
nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai
của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình
tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương
XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự
cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị
truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định
thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra
đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng
được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố
tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra)
đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá
8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm
trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ
án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu
trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia
hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng
VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi
quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ
sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn
điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng
hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác
có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các
cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện
bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều
tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều
phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình
sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ
quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do
Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm,
người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho
việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định
nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các
biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể
rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố
tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết
định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận
điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm
và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội
và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định
nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện
pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là
CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu
do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những
chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan
đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT
kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện
pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính
chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai
người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét
khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Các biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của
Luật tố tụng hình sự.
1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính quyền
thực dân phong kiến tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc
lập đánh dấu sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam.
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng và
củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi
công dân là một trong những yêu cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu
cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát
các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan
điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Lênin
xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một"
với ba yêu cầu "phải có sự thống nhất về pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có
luật duy nhất trong toàn nước công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo
pháp luật một cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải thiết lập một nền
pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có pháp
chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước
ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban
hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan
có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước
và công dân là một đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan
VKS. Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959
đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan
VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137).
Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ
Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan tâm nghiên
cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi
mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua.
Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của
VKS với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức
chung, thống nhất của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả
các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện, hướng
hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Với quy định tại Điều
137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS
nước ta.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện
của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02 /1/2002 của
Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và
Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định
nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến
nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa
nhận rằng:
Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến
lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị,
pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên
cứu các vấn đề về tư pháp [41].
Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện nay xung
quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau,
tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ bao
gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án"
[40].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc
kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án"
[40].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà
nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ
thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa
rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận,
một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn
theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát.
Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra,
xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
(Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Mục đích của của
kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải
quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật
quy định [11].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm
"kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi trước hết cần phải
khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát
các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về
tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của
các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật
được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bản
chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm
tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo
chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của
VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực
hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố
tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là: Kiểm sát hoạt động
tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng?
Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm
sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt
động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó
có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng
hình sự được thực hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt
động điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc
khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời
cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt động kiểm
sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?. Theo chúng tôi, đối
tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá
trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa
trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và
các văn bản pháp luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp
luật, cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà
chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước đến nay đang
là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý luận chúng tôi cho rằng phạm
vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp có thẩm
quyền có trách nhiệm khởi động hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố nhưng
đó là sự phát động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do vậy,
khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt động tố tụng
trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ... để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định
của pháp luật, đòi hỏi phai có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án
hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được dấu hiệu của tội
phạm cho tới khi vụ án được kêt thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm
quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Việc xác định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát khởi
tố - điều tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đó là kiểm
tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng
trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự
là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra
vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách
nghiêm chỉnh, thống nhất.
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ
án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là
chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của
tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án,
chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được
đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi hoạt
động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi
tố - điều tra các vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là
nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền
công tố trong tố tụng hình sự
Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong Nghị quyết
đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về "một số
nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp trong thời gian tới" và đặc biệt trên cơ sở nội
dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm
2002, thì vấn đề phân biệt giữa hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong tố tụng hình sự cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải
được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của
BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền và hoạt
động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng hình sự, chúng ta cần thống
nhất về mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công tố? Thực hành quyền công tố?
Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và pháp
luật. Từ trước tới nay trong pháp luật thực định nhà làm luật nước ta chưa làm rõ và chưa có
một định nghĩa chung về " quyền công tố". Theo quan điểm của chúng tôi trước hết quyền
công tố là một loại quyền lực nhà nước (quyền lực công), nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra
đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước.
Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình thì quyền
công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên
là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi
phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt).
Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của
Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải
buộc tội được người phạm tội. Nên theo chúng tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử
dụng quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội
đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, với nội dung
đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong
lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và
gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác
định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Tuy vậy, phạm vi
quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được
thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng
hình sự nhưng ở giai đoạn này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự
(Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó giai đoạn thi hành án không có hoạt
động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố
được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có
hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước,
được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội
người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố - điều
tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Thực hành quyền công tố: Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm
luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời
hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm
qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
trước đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông
qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền
công tố".
Khi đã làm rõ được thế nào là quyền công tố, thì một vấn đề cần có sự nhận thức
thống nhất đó là quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm, hai phạm trù
khoa học pháp lý khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Để bảo đảm
thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực
hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ
quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến
pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan VKS.
Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp dụng "các biện pháp do Bộ luật tố
tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 13
BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và xét xử ở nước ta cho thấy CQĐT và Tòa án
các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số án do CQĐT khởi tố chiếm khoản 95%
và theo như quy định mới của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự được tập
trung vào một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT có quyền
bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ... Chính vấn đề thực tiễn
nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công tố trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tức là
trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các
cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm trong các giai đoạn khởi tố -
điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể hiện khá cụ thể tại các Điều 13 và Điều
17 Luật tổ chức VKS năm 2002.
Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của BLTTHS có thể
nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố với
những nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; đề ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn
chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái
pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát
các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002, trong lĩnh
vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát trong lĩnh vực
tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu
tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố
tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm
đồng thời cũng không được làm oan người vô tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự là mang tính khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có
mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền côngtố được
phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án
hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm việc khởi tố đúng với các quy định
pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố xét thấy quyết định khởi tố của
CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là quyết định đó trái pháp luật thì VKS yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền chấm dứt ngay hoạt động điều tra, đồng thời ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố trái pháp luật, như thế quyền công tố có thể bị triệt tiêu và việc ra
quyết định hủy bỏ tức là VKS đã thực hành quyền công tố. Do vậy, làm tốt chức năng
kiểm sát khởi tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác
và đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và hạn chế được các vi phạm trong việc
thực hành quyền công tố của VKS. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát khởi tố không tốt sẽ
mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí quyết định pháp lý của
VKS là vi phạm pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp CQĐT khởi tố vụ án trái pháp luật,
nếu kiểm sát khởi tố không kiểm sát chặt chẽ thì sẽ không phát hiện được vi phạm trong
việc ra quyết định khởi tố của CQĐT thì VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện
pháp khắc phục ngay từ đầu, chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến
nhiều vụ án phải đình chỉ điều tra.
Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết
định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố. Nhưng hoạt
động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định của pháp luật,
muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc trong
việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư
pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không
phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính xác, đúng pháp luật
thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp
cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, mà hoạt động kiểm tra này
chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt
động kiểm sát thấy rằng quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là
có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét
thấy quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không
có căn cứ và hợp pháp VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ
quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các
hoạt động tố tụng. Ví dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết định khởi tố
bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải
được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị
can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, nếu qua
hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS
quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi
tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiềnđề cho hoạt
động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm
trongviệc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạnđiềutra sẽ kéo theo sự vi
phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra
khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát
sinh hoạt động kiểm sát. Ví dụ khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khấn cấp của CQĐT thì làm phát
sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người bị bắt của CQĐT nhằm
bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh hoặc có quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời
bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, tức là VKS thực hành quyền công tố, hoạt
động đó thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Nhưng quyết định truy tố của
VKS cũng phải bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp và điều đó có nghĩa là bản thân
VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm
quyết định truy tố có căn cứ thì phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm sát điều
tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì VKS sẽ nắm được
nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và các tình tiết liên
quan khác của vụ án và đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng
tội và đúng pháp luật, ngược lại nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm sát điều tra
thì có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai. Cho nên, hoạt động kiểm sát điều tra là cơ sở rất
vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và xét xử. Bên
cạnh đó, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố lại là tiền đề làm phát
sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên tòa xét xử.
Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong
lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với
nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược
lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại.
Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp chỉ song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát
hiện, khởi tố điều tra cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố- điều tra vụ
án hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập
và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố
và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm
hình sự nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi
ích chính đáng của nhân dân.
Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo sắc lệnh
số 33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống
cơ quan Tòa án, sau Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc
lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày
16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công
tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công
tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này
Công tố viện chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử. Cho nên trong
giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến 1950 tổ chức Công tố nằm trong hệ thống Tòa án.
Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực
hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập cơ
quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách
khỏi hệ thống Toà án thốngvà trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó Phủ Thủ tướng đã ban
hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố,
trong đó có quy định: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra và truy tố trước Tòa án những
kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ
quan điều tra..." [7], như vậy ngoài chức năng truy tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp,
Viện công tố còn có chức năng trong việc giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án
hình sự. Từ giai đoạn này trở đi, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều
tra vụ án hình sự của Viện công tố bắt đầu được hình thành và thực hiện. Đến năm 1959,
Quốc hội ban hành Hiến pháp 1959 trong đó đã quy định tổ chức cơ quan VKSND thành một
hệ thống độc lập với Chính phủ và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trên cơ sở quy định
của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 để cụ thể hóa chức
năng của VKS trong đó có chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Với việc ban
hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã đánh dấu sự hình thành hệ thống cơ quan VKS từ
trung ương đến địa phương, đồng thời khẳng định chức năng hiến định là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Cũng trong thời
gian này VKSNDTC và Bộ công an đã ban hành nhiều thông tư liên bộ quy định trách nhiệm
của hai ngành trong công tác phối hợp phòng chống và đấu tranh tội phạm, cụ thể là thông tư
số 427-TTLB ngày 28/6/1963 đã quy định trách nhiệm của từng ngành đối với việc điều tra
xử lý tội phạm, thông tư quy định: Cơ quan Công an điều tra đảm nhiệm việc điều tra tất cả
các vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp. Còn VKS chủ yếu là làm nhiệm vụ
kiểm sát điều tra, đồng thời trong phạm vi điều kiện và khả năng của mình sẽ trực tiếp và
điều tra một số loại phạm pháp kinh tế và hành vi phạm pháp đã tương đối rõ.
Đến giai đoạn những năm 80, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980
trong đó quy định chức năng của VKS như sau: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ
quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã
hội và các đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành
quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình" (Điều
138). Trên cơ sở đó Luật tổ chức VKSND năm 1981 đã quy định cụ thể chức năng kiểm
sát khởi tố - điều tra tại chương II. Tuy nhiên trong giai đoạn này chưa có một văn bản
quy phạm pháp luật nào quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về trình tự thủ tục hoạt động
điều tra, cũng như hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự, từ đó dẫn đến việc
gặp nhiều khó khăn trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII đã thông qua BLTTHS đầu
tiên của nước ta đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Bộ
luật tố tụng đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục khởi tố - điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, bên cạnh đó có quy định về hoạt động
kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS với mục đích là nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điều 23
BLTTHS quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng
hình sự, thực hiện quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng những
biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân
hoặc tổ chức nào". Với quy định đó VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối
với toàn bộ hoạt động tố tụng của CQĐT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Như
vậy, từ giai đoạn này trở đi, hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra được thực hiện theo quy
định của một văn bản quy phạm pháp luật và trong suốt thời gian hơn 15 năm thực hiện
BLTTHS, chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS đã góp phần quan trọng trong
công cuộc phòng chống, đấu tranh các loại tội phạm, đảm bảo việc ổn định tình hình
chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển một nền kinh tế bền vững trong thời kỳ đổi
mới của đất nước ta, đồng thời tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm
1992 (sau đây được gọi là Hiến pháp năm 1992 sửa đổi), lần sửa đổi này đã điều chỉnh chức
năng của VKS với quy định:" VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137), như vậy Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi) đã quy định rõ kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng chính của
VKS, điều đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp nói chung và trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự nói riêng là chức
năng quan trọng và chỉ giao cho cơ quan VKS thực hiện. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp
năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm 2002 được ban hành và tại các Điều 12, 14
chương II quy định: "VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra". Bên cạnh đó để đáp ứng những yêu cầu trong công
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ mới là nâng cao chất lượng hoạt động
điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, vừa bảo đảm
chống để lọt tội phạm vừa bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân không bị vi
phạm..., đồng thời trải qua hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 1988 đã nảy sinh những bất
cập trong thực tiễn áp dụng, đòi hỏi cần phải được sửa đổi, bổ sung. Nên năm 2003, tại kỳ
họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã tiến hành thảo luận và thông qua BLTTHS năm 2003 thể
hiện những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự, trong đó tại Điều 2 chương II - Những
nguyên tắc cơ bản có quy định: "... Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành
tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này.
VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội". Ngoài ra còn có những quy
định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát khởi tố - điều tra như Điều
113, v.v...
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ quan VKS thì
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự ngày
càng được khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng và
chống tội phạm, nhằm mục đích là sự tuân thủ nghiêm minh và thống nhất các quy định
pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điểu tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều
tra vụ án hình sự
1.3.1. Khái niệm
CQĐT và VKS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự là các cơ quan tiến
hành tố tụng, có trách nhiệm thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm và người phạm tội
khi phát hiện có tội phạm xảy ra trong thực tế đời sống xã hội.
Quá trình chứng minh giải quyết vụ án hình sự là một quá trình tố tụng bao gồm
nhiều giai đoạn kế tiếp nhau từ khởi tố - điều tra đến truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi
giai đoạn tố tụng là các bước giải quyết tương ứng và gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn nhất định của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. CQĐT và VKS mặc
dù là hai cơ quan độc lập trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng với yêu
cầu đặt ra là một mặt phải cương quyết xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội,
một mặt là phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đúng pháp luật trong việc thực
hiện các hoạt động tố tụng thì trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đã làm
phát sinh mối quan hệ tố tụng hình sự giữa CQĐT và VKS.
Từ đó có thể hiểu: Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ
án hình sự là mối quan hệ tố tụng hình sự được phát sinh trong quá trình phát hiện tội
phạm, khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án
hình sự là các quy định của BLTTHS và các văn bản về pháp luật tố tụng hình sự có liên
quan.
1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữaCơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
khởi tố - điều tra vụ án hình sự
Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên quan thì mối quan
hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự được thể hiện dưới hai hình
thức: Phối hợp và chế ước. Do giới hạn của đề tài này chúng tôi không phân tích nội
dung mối quan hệ phối hợp, mà chỉ phân tích nội dung chế ước trong mối quan hệ giữa
cơ quan VKS với CQĐT để làm rõ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố -
điều tra của VKS.
BLTTHS đã quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có
trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của bất kỳ cá nhân nào hoặc tổ chức nào" (Điều 23, BLTTHS). Như vậy, thực
hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự qua đó nếu phát hiện được những
vi phạm của CQĐT thì VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp mà BLTTHS quy định để
loại trừ vi phạm, chính quy định đó của pháp luật đã thể hiện tính chế ước của VKS đối
với CQĐT trong hoạt động tố tụng.
Theo từ điển tiếng Việt thì: "Chế" là phép định ra, làm ra, đặt ra; còn "ước" là bó
buộc. Việc dùng khái niệm "chế ước" vì theo như pháp luật tố tụng hình sự nước ta, VKS
có các quyền năng pháp lý như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ. Mà bản chất pháp lý của các
quyền năng này là sự chế ước đối với hoạt động tố tụng của CQĐT - với tính chất là đối
tượng của hoạt động kiểm sát.
Suốt quá trình tố tụng từ khi tội phạm được phát hiện hay có dấu hiệu tội phạm
đến khi khởi tố và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để chứng minh tội
phạm và người phạm tội thì VKS đều tham gia với tư cách là cơ quan giám sát thông qua
hai hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp (nghiên cứu hồ sơ). Việc thực hiện các quyền năng
của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như yêu cầu điều tra, phê chuẩn các
quyết định tố tụng hay hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT... được gọi là thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS với mục đích nhằm bảo đảm cho hoạt
động điều tra được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời ngăn ngừa mọi
hoạt động xâm phạm đến quyền nhân thân của công dân.
ở bất kỳ một cơ chế hoạt động nào cũng phải có sự kiểm tra để hoạt động đó thực
hiện một cách nghiêm chỉnh, bất kỳ quyền hạn nào cũng phải chịu sự giám sát, nếu
không sẽ dẫn đến lạm quyền. Trong khi hoạt động tố tụng của CQĐT ở chừng mực nào
đó nhất định đều ảnh hưởng, liên quan đến quyền công dân, mà quyền này đã được pháp
luật bảo vệ, nên bất kỳ hoạt động tố tụng nào của CQĐT liên quan đến quyền công dân
đều phải được cân nhắc và giám sát một cách chặt chẽ. Ví dụ, CQĐT muốn áp dụng biện
pháp cưỡng chế về tố tụng như khám xét khẩn cấp, bắt khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam
hoặc áp dụng biện pháp tạm giam...thì tất cả các quyết định áp dụng các biện pháp nói
trên phải được VKS cùng cấp phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp
CQĐT ra quyết định áp dụng các biện pháp nói trên không có căn cứ, tức là các quyết
định vi phạm pháp luật thì VKS có quyền quyết định hủy bỏ quyết định trái pháp luật đó
và yêu cầu CQĐT phục hồi lại toàn bộ các các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân,
ví dụ nếu đã bắt người thì phải trả tự do ngay hoặc nếu thu giữ tài sản thì trả lại cho chủ
sở hữu.
Thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đặt ra yêu cầu
đối với CQĐT là không những phải xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, mà
còn đòi hỏi phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tố tụng của mình.
Tuy nhiên, để có sự đảm bảo yêu cầu nói trên thì việc chế ước của VKS đối với hoạt
động tố tụng của CQĐT hoàn toàn là tất yếu. Song VKS thực hiện quyền chế ước cũng
trong phạm vi luật định chứ không phải VKS tự đặt ra và yêu cầu CQĐT thực hiện. Sự
chế ước được biểu hiện ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào tính chất của từng chế
định, trong BLTTHS quyền chế ước của VKS được quy định rất rộng và chặt chẽ từ việc
phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (theo BLTTHS năm 2003) cho đến việc phê chuẩn,
hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, điều này thể hiện rõ nét bản chất của Nhà
nước ta là tôn trọng và bảo vệ quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Nếu VKS
thực hiện tốt các quyền năng chế ước thì sẽ góp phần vào kết quả giải quyết các vụ án
hình sự đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng công tác điều tra, tránh các sai sót và vi
phạm các quy định của BLTTHS của CQĐT, đồng thời qua đó thể hiện rõ chức năng
thực hành quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự.
Nghiên cứu các chế định của pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, quyền chế ước
của VKS được thực hiện dưới các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT một cách
trực tiếp, như kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, kiểm sát hoạt động khám
nghiệm tử thi, kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can… hoặc giám sát một cách gián tiếp
thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Qua hoạt động
giám sát, VKS có quan điểm là nhất trí, không nhất trí, phê chuẩn hay không phê chuẩn
các quyết định tố tụng của CQĐT. Hoạt động giám sát là cơ sở để VKS thực hiện quyền
chế ước, chỉ khi thông qua hoạt động giám sát thì VKS mới nắm rõ các hoạt động tố tụng
của CQĐT đúng hay sai hoặc còn thiếu sót ở điểm nào, từ đó đưa ra các yêu cầu, biện
pháp cụ thể để CQĐT thực hiện trong quá trình điều tra vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế
hoạt động giám sát của VKS bị hạn chế khi cơ chế giám sát không đảm bảo, khi kiểm sát
viên - người trực tiếp tiến hành hoạt động giám sát nhận thức không đầy đủ và thực hiện
không nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về quyền năng giám sát của mình hoặc
khi CQĐT không phối hợp chặt chẽ với VKS. Bởi lẽ, yêu cầu đặt ra cho hoạt động kiểm
sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự là phải kiểm sát ngay từ đầu, tức là VKS phải giám sát
ngay từ khi CQĐT phân loại, xử lý các tố giác và tin báo tội phạm, nếu như CQĐT không
có sự phối hợp trong giải quyết các tố giác và tin báo tội phạm, thì hoạt động giám sát
của VKS bị hạn chế, điều đó có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm của CQĐT.
Thứ hai, VKS có quyền đề ra yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra khi
phát hiện thấy việc khởi tố - điều tra của CQĐT chưa đầy đủ, còn thiếu sót về chứng cứ
để làm cơ sở chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc phát hiện có vi phạm pháp
luật tố tụng hình sự có thể dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Ví dụ như
VKS có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố bổ sung, nếu CQĐT không khởi tố thì VKS khởi
tố và yêu cầu điều tra hoặc khi kết thúc điều tra phát hiện việc bỏ lọt tội phạm thì VKS
quyết định trả hồ sơ và yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung, yêu cầu cung cấp tài liệu cần
thiết về tội phạm và việc vi phạm pháp luật của Điều tra viên... Đề ra yêu cầu điều tra có
thể được thực hiện ngay từ khi có tin báo, tố giác về tội phạm để làm rõ có tội phạm xảy
ra hay không? Hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự để làm rõ đối tượng gây án, thậm chí
ngay trong quá trình điều tra vụ án hình sự để củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của
các bị can.
Thứ ba, VKS có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT. Đây là
một trong những quyền năng thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS, là
phương tiện bảo đảm cho việc điều tra phải tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh
và thống nhất, tránh tùy tiện trong hoạt động tố tụng hình sự của CQĐT. Trên thực tế,
VKS chỉ thực hiện điều này khi đã có yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện hoặc không
thể tự hủy bỏ để khắc phục được. Ví dụ như VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố
của CQĐT nếu thấy quyết định đó không có căn cứ pháp luật. Do vậy, nếu VKS thực
hiện tốt, triệt để quyền năng này thì ngoài việc góp phần nâng cao chất lượng công tác
điều tra, mà còn hạn chế rất nhiều trường hợp vụ án phải đình chỉ điều tra vì không có sự
kiện phạm tội hoặc bị can không phạm tội v.v... Để thực hiện quyền năng này được chính
xác thì VKS phải thực hiện chức năng kiểm sát điều tra ngay từ giai đoạn khởi tố, từ đó
thường xuyên chấn chỉnh hoạt động điều tra của CQĐT để làm sao không xảy ra vi phạm
về tố tụng hình sự trong quá trình điều tra vụ án, nếu có vi phạm xảy ra thì kịp thời yêu
cầu khắc phục ngay, đặc biệt là ngăn chặn vi phạm quyền công dân.
Quyền chế ước nói trên của VKS cũng phải thực hiện đúng theo các quy định của
pháp luật và cũng có giới hạn nhất định, chẳng hạn trong trường hợp không đồng ý với
quyết định của VKS cùng cấp thì CQĐT vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền đề nghị
Viện trưởng- VKS cấp trên trực tiếp xem xét và quyết định, thời hạn cho cơ quan VKS
cấp trên xem xét giải quyết là 20 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của CQĐT (khoản
4, Điều 141 BLTTHS).
Việc phân tích bản chất, hình thức trong mối quan hệ giữa CQĐT và VKS góp phần
làm sáng tỏ về mặt lý luận và vận dụng thống nhất trong thực tiễn. Đồng thời qua đó tìm ra
những cơ sở khoa học để đổi mới, hoàn thiện các quy chế về mối quan hệ trong giải quyết
các vụ án hình sự giữa hai cơ quan này, qua đó thực hiện mục đích nâng cao hiệu quả hoạt
động tố tụng của CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự. Đặc biệt
BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004
có những quy định liên quan đến mối quan hệ giữa CQĐT và VKS như bổ sung quy định
VKS có quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, hay sửa đổi quy định về
nhiệm vụ giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan nhà
nước theo đó thẩm quyền giải quyết thuộc CQĐT, còn VKS có trách nhiệm sau khi tiếp nhận
các tố giác, tin báo về tội phạm (bao gồm cả thông tin về người phạm tội tự thú quy định tại
Điều 102) và kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước thì chuyển ngay cho CQĐT kèm theo
các tài liệu có liên quan để xử lý giải quyết và kiểm sát việc giải quyết thông tin về tội phạm
đó của CQĐT (Điều 103 BLTTHS năm 2003). Ngoài ra, trong việc khởi tố vụ án hình sự,
BLTTHS năm 2003 cũng quy định rõ phạm vi thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự giữa CQĐT
và VKS, theo đó VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong hai trường hợp: Thứ nhất, khi
hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT; thứ hai là khi Hội đồng xét xử yêu cầu
khởi tố vụ án (Điều 104 BLTTHS năm 2003). Việc quy định rõ như trên là hoàn toàn hợp lý,
tránh việc đồng thời trong cùng một lúc CQĐT và VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự,
quy định đó cũng để thống nhất với việc tập trung cho Cơ quan điều giải quyết các tố giác và
tin báo tội phạm. Những quy định của BLTTHS năm 2003 đã dần dần làm rõ trách nhiệm
của từng CQĐT và VKS trong hoạt động tố tụng, nên nếu có xảy ra việc bồi thường cho
người bị oan do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra thì sẽ làm rõ được
trách nhiệm của cơ quan nào thực hiện bồi thường theo Nghị quyết 388/NQ của ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có nhiều trường hợp do nhận thức không đúng
đắn các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS nên đã có hiện tượng
do chỉ tập trung vào việc phát hiện, điều tra tội phạm mà không chú ý đến việc chấp hành
các quy định của pháp luật về việc phát hiện, điều tra xử lý tội phạm, thậm chí có trường
hợp VKS chỉ sử dụng đơn thuần quan hệ phối hợp mà không sử dụng quyền chế ước đã
dẫn đến hiện tượng "hữu khuynh", làm thay CQĐT, né tránh, không cương quyết bảo vệ
quan điểm đúng đắn cũng như các quy định pháp luật bị vi phạm. Ngược lại, sử dụng
cứng nhắc quyền chế ước của VKS đối với CQĐT có thể tạo nên mối quan hệ căng thẳng
trong công tác. Những trường hợp nói trên tuy không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng
cũng đã ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, kiểm sát điều tra và kết quả công tác đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.
1.4. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố,
điểm tra vụ án hình sự
Hiến pháp năm 1959 ra đời đã ghi nhận VKSND là một cơ quan trong hệ thống các
cơ quan quyền lực nhà nước, với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Điều 3 Luật
tổ chức VKSND năm 1960 đã ghi nhận VKSND có nhiệm vụ: "Điều tra những việc phạm
pháp về hình sự, truy tố trước Tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các
bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan công an và của
CQĐT khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của các trại giam...".
Điều này cho thấy, từ khi mới thành lập VKSND đã có trách nhiệm quyết định
việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm
bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt nam, Hiến pháp và Luật tổ chức
VKSND có những bước tiến và có những thay đổi căn bản về nội dung. Nhưng chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của VKS vẫn được ghi
nhận. Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây:
1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra;
...
3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử các vụ án hình sự;...".
Như vậy, trải qua một thời gian dài phát triển cho đến nay trong lĩnh vực tư pháp
hình sự VKS vẫn có trách nhiệm, quyền hạn là kiểm sát việc tuân theo pháp luật - đây là
một trong hai chức năng cơ bản của VKS và được thực hiện thông qua các khâu công tác
cơ bản là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra (kiểm sát điều tra);
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử (kiểm sát xét xử); kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong thi hành án(kiểm sát thi hành án) và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giam, giữ, cải tạo(kiểm sát giam giữ cải tạo). Từ khi có BLHS và
BLTTHS thì công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự
được quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn để phù hợp với các giai đoạn của tố tụng
hình sự. Trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thì toàn bộ hoạt động tố tụng của
CQĐT chịu sự kiểm sát của khâu công tác kiểm sát điều tra và khâu kiểm sát giam, giữ.
Các khâu công tác này có quyền sử dụng các biện pháp nghiệp vụ đã được pháp luật quy
định để tác động đến hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy khâu công tác kiểm sát là quá trình hoạt động
nghiệp vụ của VKS trong các giai đoạn tố tụng hình sự, nhằm thực hiện chức năng kiểm
sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố của ngành kiểm sát.
Xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho mỗi cấp kiểm sát khác nhau, cũng như
nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong mỗi thời kỳ khác nhau, từ số lượng biên chế cán bộ và trình
độ của các cán bộ, kiểm sát viên ở mỗi cấp kiểm sát cụ thể khác nhau, nên việc tổ chức
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án
hình sự ở mỗi cấp kiểm sát không hoàn toàn giống nhau. Theo quy định của Luật tổ chức
VKSND năm 2002, hệ thống cơ quan VKS được tổ chức thành 3 cấp: Cấp trung ương là
VKSND Tối cao; Cấp tỉnh gồm VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh) và cuối cùng là VKSND cấp huyện gồm VKSND các quận, huyện, thị
xã thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện).
Theo mô hình tổ chức đầy đủ với nghĩa mỗi khâu công tác là một đơn vị nghiệm
vụ để thực hiện chức năng của ngành, thì ở VKSND Tối cao có các vụ nghiệp vụ; ở
VKSND cấp tỉnh có các phòng nghiệp vụ và ở cấp huyện có bộ phận nghiệp vụ. Theo
quy định hiện nay, để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn
khởi tố - điều tra, VKS các cấp tổ chức theo mô hình sau:
- VKSND Tối cao tổ chức 2 đơn vị nghiệp vụ gồm;
+ Vụ kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
+ Vụ kiểm sát giam, giữ và cải tạo
- VKSND cấp tỉnh tổ chức 2 đơn vị nghiệp vụ gồm:
+ Phòng kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự.
+ Phòng kiểm sát giam giữ và cải tạo
Tuy nhiên, ở VKSND cấp tỉnh do nhu cầu chuyên môn hóa công tác nên riêng
công tác kiểm sát điều tra có thể được tổ chức thêm một phòng kiểm sát điều tra theo loại
tội phạm được phân công kiểm sát điều tra, cụ thể:
+ Phòng kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm các vụ án
an ninh - ma túy.
- VKSND cấp huyện được tổ chức một bộ phận chuyên môn là bộ phận hình sự -
trong đó thực hiện cả kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam, giữ.
Việc tổ chức các đơn vị nghiệp vụ theo mô hình nói trên dựa trên cơ sở tổ chức
thực hiện việc "thông khâu". Cách tổ chức thực hiện "thông khâu" kiểm sát ở đây được
hiểu là mô hình tổ chức bộ máy mà theo đó một đơn vị nghiệp vụ được giao đảm nhiệm
nhiều công tác kiểm sát khác nhau hoặc được giao thêm những nhiệm vụ vốn là của công
tác kiểm sát khác. Theo đó thì "thông khâu" tức là thông giữa công tác kiểm sát điều tra
với kiểm sát xét xử (sơ thẩm), điều này có nghĩa kiểm sát viên của phòng kiểm sát điều
tra đảm đương luôn hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự, đồng thời thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm đối với vụ án đó.
Ví dụ, một kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra sơ thẩm một vụ án
hình sự A thì kiểm sát viên đó tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc xét xử tại phiên toà đối với vụ án hình sự A mà mình đã kiểm sát điều tra.
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

More Related Content

Similar to Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
Luận Văn 1800
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
OnTimeVitThu
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
OnTimeVitThu
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng NamLuận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
Luận Văn 1800
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái NguyênLuận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sựLuận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sựQuyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703 (20)

Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOTLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án, HOT
 
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn TràLuận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
Luận văn: Chức năng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại quận Sơn Trà
 
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docxBiện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777... BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI  CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777...
 
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰBÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng NamLuận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
Luận văn: Thủ tục Thi hành án dân sự huyện Phú Ninh, Quảng Nam
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái NguyênLuận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
 
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sựLuận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Luận văn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sựQuyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố của Kiểm sát viên trong điều tra các vụ án hình sự
 

More from OnTimeVitThu

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
OnTimeVitThu
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
OnTimeVitThu
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
OnTimeVitThu
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
OnTimeVitThu
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
OnTimeVitThu
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
OnTimeVitThu
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
OnTimeVitThu
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
OnTimeVitThu
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
OnTimeVitThu
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
OnTimeVitThu
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
OnTimeVitThu
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
OnTimeVitThu
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
OnTimeVitThu
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
OnTimeVitThu
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
OnTimeVitThu
 

More from OnTimeVitThu (20)

Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công tyLuận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
Luận văn thạc sĩ kế toán: Phân tích tài chính công ty
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VNLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi ở VN
 
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
Luận văn thạc sĩ: Khung pháp lý điều chỉnh hoạt động tài trợ của bên thứ 3 tr...
 
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
Luận văn thạc sĩ: Các hình thức xử lý kỷ luật lao động trong pháp luật lao độ...
 
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
Luận văn thạc sĩ: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường ...
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bảnLuận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản
 
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
Khoá luận: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và...
 
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật BảnTiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
Tiểu luận ngành Ngôn ngữ nhật, Đề tài sân khấu truyền thống Nhật Bản
 
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dínhTiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
Tiểu luận tiếng nhật, Đề tài ngôn ngữ chấp dính
 
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAOTIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
TIỂU LUẬN: MÔ HÌNH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM, ĐIỂM CAO
 
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 6: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 3: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍMẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
MẪU 1: TIỂU LUẬN MARKETING DỊCH VỤ, TẢI MIỄN PHÍ
 
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
Luận văn: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các doa...
 
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
Luận văn: Hoàn thiện công tác thẩm định giá bất động sản trong cho vay tại Ng...
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay mua bất động sản có tài sản đảm...
 
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công tyLuận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
Luận văn Thạc sĩ: Nâng cao hiệu quả kinh doanh bất động sản của công ty
 
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
Khóa luận: Phát triển kinh doanh bất động sản của Công ty Cổ phần
 
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
Báo cáo thực tập: Phân tích hoạt động cho vay khách hàng cá nhân mua bất động...
 
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
Luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến bong bóng cổ phiếu bất động sản trên thị ...
 

Recently uploaded

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 

Recently uploaded (10)

30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.149.703

  • 1. BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI VIỆN KIỂM SÁT Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát
  • 2. mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án. Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động
  • 3. của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925 vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v... Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội. Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS. Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng " Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hỡnh sự của Viện kiểm sỏt " là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm đề tài cho luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù
  • 4. có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn. Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. - Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
  • 5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay trên địa bàn toàn quốc. 4. ý nghĩa và điểm mới của luận văn Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 5. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
  • 6. Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
  • 7. Chương 1 một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố và giai đoạn điều tra vụ án hình sự Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự. Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu: Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5]. BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai
  • 8. đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị. Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự. 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự a) Khái niệm Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan,... được áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v... Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời
  • 9. gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý. Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận chính xác các nội dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự đó là giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự" [6]. b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau: Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải
  • 10. quan,...Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v... 1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án. Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn. Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ
  • 11. sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật. Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6]. b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau: Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định
  • 12. nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm. Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Các biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự. 1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự 1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính quyền thực dân phong kiến tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc lập đánh dấu sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam. Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng và củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Lênin
  • 13. xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba yêu cầu "phải có sự thống nhất về pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy nhất trong toàn nước công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS. Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi). Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137). Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của VKS với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức chung, thống nhất của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả
  • 14. các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện, hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta. Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02 /1/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng: Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp [41]. Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện nay xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau: Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án" [40]. Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn
  • 15. nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án" [40]. Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng: Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát. Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định [11]. Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
  • 16. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng? Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội. Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?. Theo chúng tôi, đối tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện. Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước đến nay đang là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý luận chúng tôi cho rằng phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình
  • 17. sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố nhưng đó là sự phát động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do vậy, khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt động tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ... để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phai có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kêt thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đó là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự như sau: Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất. Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau: Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án,
  • 18. chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra. Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự. Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. 1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp trong thời gian tới" và đặc biệt trên cơ sở nội dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm 2002, thì vấn đề phân biệt giữa hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền và hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng hình sự, chúng ta cần thống nhất về mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công tố? Thực hành quyền công tố? Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và pháp luật. Từ trước tới nay trong pháp luật thực định nhà làm luật nước ta chưa làm rõ và chưa có một định nghĩa chung về " quyền công tố". Theo quan điểm của chúng tôi trước hết quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước (quyền lực công), nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước. Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình thì quyền công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên
  • 19. là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt). Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải buộc tội được người phạm tội. Nên theo chúng tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Tuy vậy, phạm vi quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng hình sự nhưng ở giai đoạn này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự (Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó giai đoạn thi hành án không có hoạt động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Thực hành quyền công tố: Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm
  • 20. qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền công tố". Khi đã làm rõ được thế nào là quyền công tố, thì một vấn đề cần có sự nhận thức thống nhất đó là quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm, hai phạm trù khoa học pháp lý khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan VKS. Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp dụng "các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 13 BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và xét xử ở nước ta cho thấy CQĐT và Tòa án các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số án do CQĐT khởi tố chiếm khoản 95% và theo như quy định mới của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự được tập trung vào một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT có quyền bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ... Chính vấn đề thực tiễn nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công tố trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tức là trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án. Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm trong các giai đoạn khởi tố -
  • 21. điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể hiện khá cụ thể tại các Điều 13 và Điều 17 Luật tổ chức VKS năm 2002. Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của BLTTHS có thể nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm: Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố với những nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002, trong lĩnh vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vô tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau: Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền côngtố được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm việc khởi tố đúng với các quy định pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố xét thấy quyết định khởi tố của
  • 22. CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là quyết định đó trái pháp luật thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chấm dứt ngay hoạt động điều tra, đồng thời ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố trái pháp luật, như thế quyền công tố có thể bị triệt tiêu và việc ra quyết định hủy bỏ tức là VKS đã thực hành quyền công tố. Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát khởi tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác và đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và hạn chế được các vi phạm trong việc thực hành quyền công tố của VKS. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát khởi tố không tốt sẽ mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí quyết định pháp lý của VKS là vi phạm pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp CQĐT khởi tố vụ án trái pháp luật, nếu kiểm sát khởi tố không kiểm sát chặt chẽ thì sẽ không phát hiện được vi phạm trong việc ra quyết định khởi tố của CQĐT thì VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện pháp khắc phục ngay từ đầu, chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án phải đình chỉ điều tra. Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố. Nhưng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định của pháp luật, muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc trong việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính xác, đúng pháp luật thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, mà hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không
  • 23. có căn cứ và hợp pháp VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Ví dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết định khởi tố bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT. Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiềnđề cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm trongviệc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạnđiềutra sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Ví dụ khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khấn cấp của CQĐT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người bị bắt của CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh hoặc có quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật. Khi truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, tức là VKS thực hành quyền công tố, hoạt động đó thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Nhưng quyết định truy tố của VKS cũng phải bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp và điều đó có nghĩa là bản thân VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm quyết định truy tố có căn cứ thì phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm sát điều tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và các tình tiết liên quan khác của vụ án và đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, ngược lại nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai. Cho nên, hoạt động kiểm sát điều tra là cơ sở rất
  • 24. vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và xét xử. Bên cạnh đó, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố lại là tiền đề làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên tòa xét xử. Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố điều tra cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. 1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố- điều tra vụ án hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống cơ quan Tòa án, sau Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày 16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này Công tố viện chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử. Cho nên trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến 1950 tổ chức Công tố nằm trong hệ thống Tòa án.
  • 25. Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách khỏi hệ thống Toà án thốngvà trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó Phủ Thủ tướng đã ban hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố, trong đó có quy định: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra..." [7], như vậy ngoài chức năng truy tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp, Viện công tố còn có chức năng trong việc giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự. Từ giai đoạn này trở đi, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện công tố bắt đầu được hình thành và thực hiện. Đến năm 1959, Quốc hội ban hành Hiến pháp 1959 trong đó đã quy định tổ chức cơ quan VKSND thành một hệ thống độc lập với Chính phủ và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 để cụ thể hóa chức năng của VKS trong đó có chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Với việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã đánh dấu sự hình thành hệ thống cơ quan VKS từ trung ương đến địa phương, đồng thời khẳng định chức năng hiến định là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Cũng trong thời gian này VKSNDTC và Bộ công an đã ban hành nhiều thông tư liên bộ quy định trách nhiệm của hai ngành trong công tác phối hợp phòng chống và đấu tranh tội phạm, cụ thể là thông tư số 427-TTLB ngày 28/6/1963 đã quy định trách nhiệm của từng ngành đối với việc điều tra xử lý tội phạm, thông tư quy định: Cơ quan Công an điều tra đảm nhiệm việc điều tra tất cả các vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp. Còn VKS chủ yếu là làm nhiệm vụ kiểm sát điều tra, đồng thời trong phạm vi điều kiện và khả năng của mình sẽ trực tiếp và điều tra một số loại phạm pháp kinh tế và hành vi phạm pháp đã tương đối rõ. Đến giai đoạn những năm 80, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980 trong đó quy định chức năng của VKS như sau: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ
  • 26. quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình" (Điều 138). Trên cơ sở đó Luật tổ chức VKSND năm 1981 đã quy định cụ thể chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra tại chương II. Tuy nhiên trong giai đoạn này chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về trình tự thủ tục hoạt động điều tra, cũng như hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự, từ đó dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII đã thông qua BLTTHS đầu tiên của nước ta đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Bộ luật tố tụng đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục khởi tố - điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, bên cạnh đó có quy định về hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS với mục đích là nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điều 23 BLTTHS quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào". Với quy định đó VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với toàn bộ hoạt động tố tụng của CQĐT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Như vậy, từ giai đoạn này trở đi, hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra được thực hiện theo quy định của một văn bản quy phạm pháp luật và trong suốt thời gian hơn 15 năm thực hiện BLTTHS, chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS đã góp phần quan trọng trong công cuộc phòng chống, đấu tranh các loại tội phạm, đảm bảo việc ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển một nền kinh tế bền vững trong thời kỳ đổi mới của đất nước ta, đồng thời tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
  • 27. Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây được gọi là Hiến pháp năm 1992 sửa đổi), lần sửa đổi này đã điều chỉnh chức năng của VKS với quy định:" VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137), như vậy Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã quy định rõ kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng chính của VKS, điều đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự nói riêng là chức năng quan trọng và chỉ giao cho cơ quan VKS thực hiện. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm 2002 được ban hành và tại các Điều 12, 14 chương II quy định: "VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra". Bên cạnh đó để đáp ứng những yêu cầu trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ mới là nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, vừa bảo đảm chống để lọt tội phạm vừa bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân không bị vi phạm..., đồng thời trải qua hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 1988 đã nảy sinh những bất cập trong thực tiễn áp dụng, đòi hỏi cần phải được sửa đổi, bổ sung. Nên năm 2003, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã tiến hành thảo luận và thông qua BLTTHS năm 2003 thể hiện những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự, trong đó tại Điều 2 chương II - Những nguyên tắc cơ bản có quy định: "... Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội". Ngoài ra còn có những quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát khởi tố - điều tra như Điều 113, v.v...
  • 28. Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ quan VKS thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự ngày càng được khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, nhằm mục đích là sự tuân thủ nghiêm minh và thống nhất các quy định pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự. 1.3. Mối quan hệ giữa cơ quan điểu tra và viện kiểm sát trong khởi tố, điều tra vụ án hình sự 1.3.1. Khái niệm CQĐT và VKS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng, có trách nhiệm thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm và người phạm tội khi phát hiện có tội phạm xảy ra trong thực tế đời sống xã hội. Quá trình chứng minh giải quyết vụ án hình sự là một quá trình tố tụng bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau từ khởi tố - điều tra đến truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng là các bước giải quyết tương ứng và gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. CQĐT và VKS mặc dù là hai cơ quan độc lập trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng với yêu cầu đặt ra là một mặt phải cương quyết xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, một mặt là phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đúng pháp luật trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng thì trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đã làm phát sinh mối quan hệ tố tụng hình sự giữa CQĐT và VKS. Từ đó có thể hiểu: Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là mối quan hệ tố tụng hình sự được phát sinh trong quá trình phát hiện tội phạm, khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là các quy định của BLTTHS và các văn bản về pháp luật tố tụng hình sự có liên quan.
  • 29. 1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữaCơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên quan thì mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự được thể hiện dưới hai hình thức: Phối hợp và chế ước. Do giới hạn của đề tài này chúng tôi không phân tích nội dung mối quan hệ phối hợp, mà chỉ phân tích nội dung chế ước trong mối quan hệ giữa cơ quan VKS với CQĐT để làm rõ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra của VKS. BLTTHS đã quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân nào hoặc tổ chức nào" (Điều 23, BLTTHS). Như vậy, thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự qua đó nếu phát hiện được những vi phạm của CQĐT thì VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp mà BLTTHS quy định để loại trừ vi phạm, chính quy định đó của pháp luật đã thể hiện tính chế ước của VKS đối với CQĐT trong hoạt động tố tụng. Theo từ điển tiếng Việt thì: "Chế" là phép định ra, làm ra, đặt ra; còn "ước" là bó buộc. Việc dùng khái niệm "chế ước" vì theo như pháp luật tố tụng hình sự nước ta, VKS có các quyền năng pháp lý như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ. Mà bản chất pháp lý của các quyền năng này là sự chế ước đối với hoạt động tố tụng của CQĐT - với tính chất là đối tượng của hoạt động kiểm sát. Suốt quá trình tố tụng từ khi tội phạm được phát hiện hay có dấu hiệu tội phạm đến khi khởi tố và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội thì VKS đều tham gia với tư cách là cơ quan giám sát thông qua hai hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp (nghiên cứu hồ sơ). Việc thực hiện các quyền năng của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như yêu cầu điều tra, phê chuẩn các quyết định tố tụng hay hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT... được gọi là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS với mục đích nhằm bảo đảm cho hoạt
  • 30. động điều tra được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời ngăn ngừa mọi hoạt động xâm phạm đến quyền nhân thân của công dân. ở bất kỳ một cơ chế hoạt động nào cũng phải có sự kiểm tra để hoạt động đó thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bất kỳ quyền hạn nào cũng phải chịu sự giám sát, nếu không sẽ dẫn đến lạm quyền. Trong khi hoạt động tố tụng của CQĐT ở chừng mực nào đó nhất định đều ảnh hưởng, liên quan đến quyền công dân, mà quyền này đã được pháp luật bảo vệ, nên bất kỳ hoạt động tố tụng nào của CQĐT liên quan đến quyền công dân đều phải được cân nhắc và giám sát một cách chặt chẽ. Ví dụ, CQĐT muốn áp dụng biện pháp cưỡng chế về tố tụng như khám xét khẩn cấp, bắt khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam hoặc áp dụng biện pháp tạm giam...thì tất cả các quyết định áp dụng các biện pháp nói trên phải được VKS cùng cấp phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp CQĐT ra quyết định áp dụng các biện pháp nói trên không có căn cứ, tức là các quyết định vi phạm pháp luật thì VKS có quyền quyết định hủy bỏ quyết định trái pháp luật đó và yêu cầu CQĐT phục hồi lại toàn bộ các các quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân, ví dụ nếu đã bắt người thì phải trả tự do ngay hoặc nếu thu giữ tài sản thì trả lại cho chủ sở hữu. Thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm đặt ra yêu cầu đối với CQĐT là không những phải xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, mà còn đòi hỏi phải tuân thủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tố tụng của mình. Tuy nhiên, để có sự đảm bảo yêu cầu nói trên thì việc chế ước của VKS đối với hoạt động tố tụng của CQĐT hoàn toàn là tất yếu. Song VKS thực hiện quyền chế ước cũng trong phạm vi luật định chứ không phải VKS tự đặt ra và yêu cầu CQĐT thực hiện. Sự chế ước được biểu hiện ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào tính chất của từng chế định, trong BLTTHS quyền chế ước của VKS được quy định rất rộng và chặt chẽ từ việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (theo BLTTHS năm 2003) cho đến việc phê chuẩn, hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, điều này thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước ta là tôn trọng và bảo vệ quyền công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Nếu VKS thực hiện tốt các quyền năng chế ước thì sẽ góp phần vào kết quả giải quyết các vụ án hình sự đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng công tác điều tra, tránh các sai sót và vi
  • 31. phạm các quy định của BLTTHS của CQĐT, đồng thời qua đó thể hiện rõ chức năng thực hành quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự. Nghiên cứu các chế định của pháp luật tố tụng hình sự thấy rằng, quyền chế ước của VKS được thực hiện dưới các hình thức cơ bản sau: Thứ nhất, VKS có quyền giám sát các hoạt động điều tra của CQĐT một cách trực tiếp, như kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường, kiểm sát hoạt động khám nghiệm tử thi, kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can… hoặc giám sát một cách gián tiếp thông qua việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu phản ánh hoạt động điều tra. Qua hoạt động giám sát, VKS có quan điểm là nhất trí, không nhất trí, phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định tố tụng của CQĐT. Hoạt động giám sát là cơ sở để VKS thực hiện quyền chế ước, chỉ khi thông qua hoạt động giám sát thì VKS mới nắm rõ các hoạt động tố tụng của CQĐT đúng hay sai hoặc còn thiếu sót ở điểm nào, từ đó đưa ra các yêu cầu, biện pháp cụ thể để CQĐT thực hiện trong quá trình điều tra vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động giám sát của VKS bị hạn chế khi cơ chế giám sát không đảm bảo, khi kiểm sát viên - người trực tiếp tiến hành hoạt động giám sát nhận thức không đầy đủ và thực hiện không nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về quyền năng giám sát của mình hoặc khi CQĐT không phối hợp chặt chẽ với VKS. Bởi lẽ, yêu cầu đặt ra cho hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự là phải kiểm sát ngay từ đầu, tức là VKS phải giám sát ngay từ khi CQĐT phân loại, xử lý các tố giác và tin báo tội phạm, nếu như CQĐT không có sự phối hợp trong giải quyết các tố giác và tin báo tội phạm, thì hoạt động giám sát của VKS bị hạn chế, điều đó có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm của CQĐT. Thứ hai, VKS có quyền đề ra yêu cầu CQĐT thực hiện các hoạt động điều tra khi phát hiện thấy việc khởi tố - điều tra của CQĐT chưa đầy đủ, còn thiếu sót về chứng cứ để làm cơ sở chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc phát hiện có vi phạm pháp luật tố tụng hình sự có thể dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Ví dụ như VKS có quyền yêu cầu CQĐT khởi tố bổ sung, nếu CQĐT không khởi tố thì VKS khởi tố và yêu cầu điều tra hoặc khi kết thúc điều tra phát hiện việc bỏ lọt tội phạm thì VKS quyết định trả hồ sơ và yêu cầu CQĐT điều tra bổ sung, yêu cầu cung cấp tài liệu cần thiết về tội phạm và việc vi phạm pháp luật của Điều tra viên... Đề ra yêu cầu điều tra có
  • 32. thể được thực hiện ngay từ khi có tin báo, tố giác về tội phạm để làm rõ có tội phạm xảy ra hay không? Hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự để làm rõ đối tượng gây án, thậm chí ngay trong quá trình điều tra vụ án hình sự để củng cố chứng cứ về hành vi phạm tội của các bị can. Thứ ba, VKS có quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT. Đây là một trong những quyền năng thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS, là phương tiện bảo đảm cho việc điều tra phải tuân theo pháp luật một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, tránh tùy tiện trong hoạt động tố tụng hình sự của CQĐT. Trên thực tế, VKS chỉ thực hiện điều này khi đã có yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện hoặc không thể tự hủy bỏ để khắc phục được. Ví dụ như VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT nếu thấy quyết định đó không có căn cứ pháp luật. Do vậy, nếu VKS thực hiện tốt, triệt để quyền năng này thì ngoài việc góp phần nâng cao chất lượng công tác điều tra, mà còn hạn chế rất nhiều trường hợp vụ án phải đình chỉ điều tra vì không có sự kiện phạm tội hoặc bị can không phạm tội v.v... Để thực hiện quyền năng này được chính xác thì VKS phải thực hiện chức năng kiểm sát điều tra ngay từ giai đoạn khởi tố, từ đó thường xuyên chấn chỉnh hoạt động điều tra của CQĐT để làm sao không xảy ra vi phạm về tố tụng hình sự trong quá trình điều tra vụ án, nếu có vi phạm xảy ra thì kịp thời yêu cầu khắc phục ngay, đặc biệt là ngăn chặn vi phạm quyền công dân. Quyền chế ước nói trên của VKS cũng phải thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật và cũng có giới hạn nhất định, chẳng hạn trong trường hợp không đồng ý với quyết định của VKS cùng cấp thì CQĐT vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền đề nghị Viện trưởng- VKS cấp trên trực tiếp xem xét và quyết định, thời hạn cho cơ quan VKS cấp trên xem xét giải quyết là 20 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị của CQĐT (khoản 4, Điều 141 BLTTHS). Việc phân tích bản chất, hình thức trong mối quan hệ giữa CQĐT và VKS góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và vận dụng thống nhất trong thực tiễn. Đồng thời qua đó tìm ra những cơ sở khoa học để đổi mới, hoàn thiện các quy chế về mối quan hệ trong giải quyết các vụ án hình sự giữa hai cơ quan này, qua đó thực hiện mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng của CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự. Đặc biệt
  • 33. BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004 có những quy định liên quan đến mối quan hệ giữa CQĐT và VKS như bổ sung quy định VKS có quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của CQĐT, hay sửa đổi quy định về nhiệm vụ giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan nhà nước theo đó thẩm quyền giải quyết thuộc CQĐT, còn VKS có trách nhiệm sau khi tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm (bao gồm cả thông tin về người phạm tội tự thú quy định tại Điều 102) và kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước thì chuyển ngay cho CQĐT kèm theo các tài liệu có liên quan để xử lý giải quyết và kiểm sát việc giải quyết thông tin về tội phạm đó của CQĐT (Điều 103 BLTTHS năm 2003). Ngoài ra, trong việc khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS năm 2003 cũng quy định rõ phạm vi thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự giữa CQĐT và VKS, theo đó VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong hai trường hợp: Thứ nhất, khi hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT; thứ hai là khi Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án (Điều 104 BLTTHS năm 2003). Việc quy định rõ như trên là hoàn toàn hợp lý, tránh việc đồng thời trong cùng một lúc CQĐT và VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quy định đó cũng để thống nhất với việc tập trung cho Cơ quan điều giải quyết các tố giác và tin báo tội phạm. Những quy định của BLTTHS năm 2003 đã dần dần làm rõ trách nhiệm của từng CQĐT và VKS trong hoạt động tố tụng, nên nếu có xảy ra việc bồi thường cho người bị oan do cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra thì sẽ làm rõ được trách nhiệm của cơ quan nào thực hiện bồi thường theo Nghị quyết 388/NQ của ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay có nhiều trường hợp do nhận thức không đúng đắn các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS nên đã có hiện tượng do chỉ tập trung vào việc phát hiện, điều tra tội phạm mà không chú ý đến việc chấp hành các quy định của pháp luật về việc phát hiện, điều tra xử lý tội phạm, thậm chí có trường hợp VKS chỉ sử dụng đơn thuần quan hệ phối hợp mà không sử dụng quyền chế ước đã dẫn đến hiện tượng "hữu khuynh", làm thay CQĐT, né tránh, không cương quyết bảo vệ quan điểm đúng đắn cũng như các quy định pháp luật bị vi phạm. Ngược lại, sử dụng cứng nhắc quyền chế ước của VKS đối với CQĐT có thể tạo nên mối quan hệ căng thẳng trong công tác. Những trường hợp nói trên tuy không phải là hiện tượng phổ biến, nhưng
  • 34. cũng đã ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, kiểm sát điều tra và kết quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. 1.4. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố, điểm tra vụ án hình sự Hiến pháp năm 1959 ra đời đã ghi nhận VKSND là một cơ quan trong hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước, với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã ghi nhận VKSND có nhiệm vụ: "Điều tra những việc phạm pháp về hình sự, truy tố trước Tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của Cơ quan công an và của CQĐT khác; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của các trại giam...". Điều này cho thấy, từ khi mới thành lập VKSND đã có trách nhiệm quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt nam, Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND có những bước tiến và có những thay đổi căn bản về nội dung. Nhưng chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp của VKS vẫn được ghi nhận. Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây: 1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; ... 3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự;...".
  • 35. Như vậy, trải qua một thời gian dài phát triển cho đến nay trong lĩnh vực tư pháp hình sự VKS vẫn có trách nhiệm, quyền hạn là kiểm sát việc tuân theo pháp luật - đây là một trong hai chức năng cơ bản của VKS và được thực hiện thông qua các khâu công tác cơ bản là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra (kiểm sát điều tra); kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử (kiểm sát xét xử); kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành án(kiểm sát thi hành án) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ, cải tạo(kiểm sát giam giữ cải tạo). Từ khi có BLHS và BLTTHS thì công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự được quy định một cách rõ ràng, cụ thể hơn để phù hợp với các giai đoạn của tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thì toàn bộ hoạt động tố tụng của CQĐT chịu sự kiểm sát của khâu công tác kiểm sát điều tra và khâu kiểm sát giam, giữ. Các khâu công tác này có quyền sử dụng các biện pháp nghiệp vụ đã được pháp luật quy định để tác động đến hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Từ những phân tích trên cho thấy khâu công tác kiểm sát là quá trình hoạt động nghiệp vụ của VKS trong các giai đoạn tố tụng hình sự, nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố của ngành kiểm sát. Xuất phát từ nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho mỗi cấp kiểm sát khác nhau, cũng như nhiệm vụ cụ thể đặt ra trong mỗi thời kỳ khác nhau, từ số lượng biên chế cán bộ và trình độ của các cán bộ, kiểm sát viên ở mỗi cấp kiểm sát cụ thể khác nhau, nên việc tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự ở mỗi cấp kiểm sát không hoàn toàn giống nhau. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002, hệ thống cơ quan VKS được tổ chức thành 3 cấp: Cấp trung ương là VKSND Tối cao; Cấp tỉnh gồm VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) và cuối cùng là VKSND cấp huyện gồm VKSND các quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện). Theo mô hình tổ chức đầy đủ với nghĩa mỗi khâu công tác là một đơn vị nghiệm vụ để thực hiện chức năng của ngành, thì ở VKSND Tối cao có các vụ nghiệp vụ; ở VKSND cấp tỉnh có các phòng nghiệp vụ và ở cấp huyện có bộ phận nghiệp vụ. Theo
  • 36. quy định hiện nay, để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra, VKS các cấp tổ chức theo mô hình sau: - VKSND Tối cao tổ chức 2 đơn vị nghiệp vụ gồm; + Vụ kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. + Vụ kiểm sát giam, giữ và cải tạo - VKSND cấp tỉnh tổ chức 2 đơn vị nghiệp vụ gồm: + Phòng kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. + Phòng kiểm sát giam giữ và cải tạo Tuy nhiên, ở VKSND cấp tỉnh do nhu cầu chuyên môn hóa công tác nên riêng công tác kiểm sát điều tra có thể được tổ chức thêm một phòng kiểm sát điều tra theo loại tội phạm được phân công kiểm sát điều tra, cụ thể: + Phòng kiểm sát điều tra, thực hành quyền công tố và xét xử sơ thẩm các vụ án an ninh - ma túy. - VKSND cấp huyện được tổ chức một bộ phận chuyên môn là bộ phận hình sự - trong đó thực hiện cả kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát giam, giữ. Việc tổ chức các đơn vị nghiệp vụ theo mô hình nói trên dựa trên cơ sở tổ chức thực hiện việc "thông khâu". Cách tổ chức thực hiện "thông khâu" kiểm sát ở đây được hiểu là mô hình tổ chức bộ máy mà theo đó một đơn vị nghiệp vụ được giao đảm nhiệm nhiều công tác kiểm sát khác nhau hoặc được giao thêm những nhiệm vụ vốn là của công tác kiểm sát khác. Theo đó thì "thông khâu" tức là thông giữa công tác kiểm sát điều tra với kiểm sát xét xử (sơ thẩm), điều này có nghĩa kiểm sát viên của phòng kiểm sát điều tra đảm đương luôn hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự, đồng thời thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm đối với vụ án đó. Ví dụ, một kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra sơ thẩm một vụ án hình sự A thì kiểm sát viên đó tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử tại phiên toà đối với vụ án hình sự A mà mình đã kiểm sát điều tra.