SlideShare a Scribd company logo
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TUẤN ANH
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TUẤN ANH
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ
(Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn TuÊn Anh
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
6
1.1. Khái quát về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6
1.1.1. Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và các đặc trưng cơ bản của xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
9
1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
sơ thẩm
13
1.2.1. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân và chức năng kiểm sát
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
13
1.2.2. Phạm vi, nội dung của kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự
21
1.2.3. Đặc điểm của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 23
1.3. Ý nghĩa của kiểm sát tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm 30
1.3.1. Đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án 30
1.3.2. Đảm bảo áp dụng pháp luật thống nhất 31
1.3.3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa 32
1.3.4. Bảo đảm xét xử công bằng 32
1.3.5. Bảo đảm quyền con người 34
1.4. Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự
một số nước
35
5
1.4.1. Tại Hoa Kỳ 35
1.4.2. Tại Trung Quốc 36
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
38
2.1. Pháp luật Việt Nam về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
38
2.1.1. Pháp luật Việt Nam về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự từ năm 1945 đến trước năm 2003
38
2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kiểm sát hoạt
động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
41
2.2. Thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình
48
2.2.1. Khái quát chung về tỉnh Hòa Bình 48
2.2.2. Về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hòa Bình
49
2.2.3. Một số kết quả về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình
50
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆNKIỂM SÁT
61
3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
61
3.2. Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của Viện kiểm sát
66
3.3. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng công tác kiểm sát
hoạt động xét xử
70
3.3.1. Nâng cao trình độ của các Kiểm sát viên nói riêng và lực
lượng cán bộ ngành kiểm sát nói chung
70
6
3.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành Kiểm sát 72
3.3.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo trong ngành Kiểm sát 73
3.3.4. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn 76
3.3.5. Nâng cao hiê ̣u quả phiên tòa rút kinh nghiệm Kiểm sát viên
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
77
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
TTHS : Tố tụng hình sự
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thống kê đánh giá công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự tại tỉnh Hòa Bình (từ ngày 01/12/2010 đến
30/11/2014)
55
2.2 Tỉ lệ số vụ đưa ra xét xử với số vụ truy tố 56
2.3 Các kiến nghị của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 57
2.4 Kháng nghị 57
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành kiểm sát nhân dân được thành lập ngày 26/7/1960, đánh dấu sự
ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân (VKSND) năm 1960. VKSND không chỉ có chức năng thực hành
quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong
đó có hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm, điều này cho thấy ngay từ những
ngày mới thành lập, việc kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm đã được đánh giá
là một trong những khâu công tác quan trọng của ngành kiểm sát. Xuyên suốt
quá trình hình thành và phát triển của VKSND tới nay, với những quy định
của pháp luật hiện hành và đặc biệt là của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 đã là cơ sở cho VKSND thực hiện chức năng, quyền hạn và trách
nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm. Trải qua một thời
gian áp dụng, những quy định của BLTTHS 2003 đã cơ bản giúp cho ngành
Kiểm sát nhân dân thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên,
thực tiễn tố tụng hình sự (TTHS) cho thấy hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm
còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn để xảy ra vi phạm nhất là còn để xảy ra oan sai,
hoặc bỏ lọt tội phạm… Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự bất
cập của các quy định pháp luật về chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát (VKS),
năng lực, kinh nghiệm và những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện kiểm
sát hoạt động xét xử sơ thẩm của VKS. Vì vậy, đã làm giảm sút vai trò VKS
trong hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm. Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp
10
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với việc cải cách, nâng cao vị trí, vai trò
của VKS, trong đó có chức năng kiểm sát xét xử trong TTHS. Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI đã chỉ ra, nhiệm vụ trọng tâm vào công tác cải cách tư
pháp là "đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người". Khẳng định:
Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức
tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân
thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra [11].
Từ những khẳng định trên cũng như việc giao nhiệm vụ cho ngành
Kiểm sát của Đảng đã cho thấy trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp là một
trách nhiệm lớn lao của ngành kiểm sát và một trong những nhiệm vụ đó sẽ
được thể hiện rõ nét qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự
bởi vì đây luôn được coi là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành
kiểm sát. Vậy làm thế nào để ngành kiểm sát có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của
mình? Những khó khăn và hạn chế gì đang tồn tại trong công tác kiểm sát hoạt
động xét xử sơ thẩm hình sự và giải pháp để ngành Kiểm sát thực hiện tốt
nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử hình sự với nền tảng là BLTTHS 2003…?
Đây là những câu hỏi mang tính thực tiễn cao đang được ngành Kiểm sát nhân
dân hết sức quan tâm trong công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay.
Trong phạm vi luận văn thạc sĩ của mình, với những kinh nghiệm từ thực
tiễn công tác tôi quyết định chọn đề tài: "Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)" như một
lời bàn góp phần giải quyết khó khăn, hạn chế và các giải pháp để tăng cường
hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân.
11
2. Tình hình nghiên cứu
Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là từ
năm 2006 đến nay, đã có một số bài viết - đề tài nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của VKSND như: "Một số nội dung cần nghiên cứu để triển khai
thực hiện Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân năm 2002" của Hoàng Nghĩa Mai, Tạp chí Kiểm sát, số 13, 2011; "Viện
kiểm sát nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai thực hiện tốt
các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự và tố tụng hành chính" của Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Tạp chí
kiểm sát, số 13, 2011; "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm
vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp" của Lê Hữu Thể đăng
trên Tạp chí Kiểm sát, số 04, 2008 v.v. Chuyên đề về tổ chức và hoạt động
của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí
Kiểm sát số 14-16, 2008...
Các luận văn thạc sĩ, như: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong
quá trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải
cách tư pháp ở Việt Nam" của Trần Mạnh Đông, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; "Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân Thành
phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân", của Phan Thị Thúy Lan, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007...
Các sách chuyên khảo, như: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra" do TS. Lê Hữu Thể chủ biên,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
12
pháp" do các tác giả TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương - ThS. Nguyễn
Thị Thủy đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013...
Các bài viết: "Vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình
sự" của Huỳnh Thế Anh, Báo điện tử VKSND tỉnh Kiên Giang, ngày 25/9/2013;
"Bàn về chức năng kiểm sát hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Quảng, Báo điện tử VKSND thành
phố Hải Phòng…Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được
đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các
văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các năm,
các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ… Các công trình nghiên cứu, bài
viết trước đây hầu như ít đi sâu vào tìm hiểu về việc kiểm sát hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp, đồng thời đánh giá thực trạng
quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự những năm qua, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự của VKSND.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định và thực tiễn hoạt động
thực hiện chức năng kiểm sát đối với xét xử vụ án hình sự của VKSND.
Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm với
hoạt động của VKSND tỉnh Hòa Bình, từ năm 2009 đến 2014 (30/9/2009 đến
01/10/2014).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng kết hợp cùng chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận của chủ
13
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải
cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong TTHS.
Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê
và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đóng góp của luận văn về mặt khoa học pháp lý là góp phần làm sáng
tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, vai trò, công tác của VKSND trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn là đề xuất một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Hòa Bình nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn, được bắt
đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về tội phạm và
kiến nghị khởi tố đến khi có bản án kết tội hoặc quyết định của tòa án có hiệu
lực được thi hành. Quá trình này có sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó
mỗi loại chủ thể góp phần vào việc giải quyết một chức năng của TTHS. Đó
là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội; các chủ thể thực hiện chức năng
gỡ tội; chủ thể xét xử vụ án hình sự.
Như vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai
đoạn khác nhau phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Quan
điểm truyền thống ở nước ta phân chia quá trình giải quyết vụ án thành bốn
giai đoạn tương ứng với chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các
giai đoạn đó gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: Là giai đoạn đầu của quá
trình giải quyết vụ án hình sự, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được
tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn điều tra và truy tố: Là giai đoạn được
bắt đầu sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi có quyết
định truy tố bị can bằng bản cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc
quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Là
giai đoạn được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và quyết định truy
tố bị can cùng bản cáo trạng của VKS và kết thúc khi bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực pháp luật. Giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu
15
lực pháp luật của Tòa án: Là giai đoạn mà các cơ quan có trách nhiệm đưa
bản án và quyết định của Tòa án ra thi hành nhằm đảm bảo hiệu lực trên thực tế.
Mỗi giai đoạn của hoạt động TTHS có nhiệm vụ và định hướng khác
nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện
đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện.
Trong đó, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của TTHS, thể hiện đầy
đủ nhất bản chất chế độ tư pháp hình sự của mỗi quốc gia, quyết định việc
giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân. Tòa án phải xét xử chính xác, công minh vì thông qua phán
quyết về những hành vi phạm tội, tòa án duy trì công lý trong xã hội, kiểm
soát xã hội trong vòng trật tự.
Trong lý luận khoa học TTHS, thừa nhận xét xử sơ thẩm có vị trí, vai
trò quan trọng nhất, không chỉ trong giai đoạt xét xử mà còn trong cả quá
trình giải quyết vụ án, được bắt đầu từ khi tòa án nhận hồ sơ và Cáo trạng của
VKS đến khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nhiệm vụ thực chất giải
quyết vụ án hình sự đã quy định xét xử sơ thẩm là giai đoạn trọng tâm của
TTHS. Các giai đoạn trước đó chỉ là quá trình chuẩn bị điều kiện cho xét xử
sơ thẩm. Các giai đoạn sau xét xử sơ thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính
có căn cứ của nó, khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có và đưa các quyết
định, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành.
Hiện nay, khái niệm "xét xử sơ thẩm" có nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Theo Từ điển Luật học lý giải: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ
án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [2, tr. 780]. Khái niệm này mang
tính khái quát chung của cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v…
và đã phản ánh được nét đặc trưng của xét xử sơ thẩm là "lần đầu tiên" một vụ
án được đưa ra xét xử và do "một Tòa án có thẩm quyền" tiến hành.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
định nghĩa: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử ở cấp thứ nhất do tòa án có
16
thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự" [36, tr. 451].
Định nghĩa này nhận định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử vụ án ở cấp
đầu tiên, bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay và bản
án, quyết định đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
trong thời hạn luật định.
Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa:
"Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó tòa án có thẩm
quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo
quy định của pháp luật" [35, tr. 345] Định nghĩa này đã xác định được xét xử
sơ thẩm là một giai đoạn của TTHS. Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực
hiện chức năng xét xử của tòa án dưới hình thức phiên tòa xem xét và giải
quyết vụ án hình sự, có nghĩa là tòa án trên cơ sở bản cáo trạng và các chứng
cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán quyết về toàn bộ những vấn đề của
vụ án. Đây là điểm mấu chốt phân biệt xét xử sơ thẩm với xét xử phúc thẩm.
Phiên tòa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi có quyết định truy tố của VKS và
có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa.
Giáo trình Luật TTHS của Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố
tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước
tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên
cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát, Tòa án sẽ xem xét đánh giá
chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở để
ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản
án và quyết định của mình [5, tr. 359].
Như vậy có thể nói, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng, các thủ tục khác có thể có, có thể không,
nhưng xét xử sơ thẩm là lần đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc. Là lần đầu xét xử,
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ
17
và khách quan về vụ án mà còn hướng đến việc xử lý triệt để, toàn diện và dứt
điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Đó là có hay không có hành vi phạm tội,
ai là người thực hiện hành vi phạm tội, lỗi, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại,
quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp. Vì vậy, nếu xét xử sơ thẩm được
thực hiện tốt sẽ góp phần giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng giải quyết kéo
dài vụ án, để án tồn đọng. Do đó sẽ hạn chế được lượng án mà tòa án cấp
phúc thẩm phải giải quyết, tiết kiệm đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi
phí về thời gian, tiền bạc, công sức… cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó
nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án nói riêng, cũng như của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nói chung. Toàn bộ những yếu tố đó giúp cho
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một có một giá trị không thể thay
thế được. Xét xử sơ thẩm vừa là công cụ bảo vệ pháp chế XHCN, vừa là công
cụ bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức và giảm thiếu tối đa các vụ án oan sai.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và các đặc trƣng cơ bản của xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi tòa án nhận
được cáo trạng quyết định truy tố bị can (quyết định truy tố bị can trong
trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do VKS chuyển đến. Do
vậy, mọi chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để tòa án xem xét,
kiểm tra nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định
của pháp luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong
giai đoạn điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa
thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên
trong giai đoạn này tòa án phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án trên cơ sở
cáo trạng mà VKS truy tố. Do vậy chức năng, nhiệm vụ của giai đoạn này
được thể hiện như sau:
18
Một là, xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp
luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm.
Hai là, trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình
tự sơ thẩm, tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc quyết định đình chỉ vụ
án, quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật.
Ba là, trên cơ sở truy tố của VKS, tòa án tiến hành giải quyết vụ án
bằng việc ra bản án, quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội,
hình phạt và các biện pháp tư pháp khác căn cứ vào các chứng cứ đã được
thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của kiểm sát viên và ý kiến
của những người tham gia tố tụng.
Bốn là, qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa,
hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của
vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng.
Năm là, thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công
khai, giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức
đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
1.1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nghiên cứu các nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 và
BLTTHS năm 2003 hiện hành, có thể nhận thấy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có tính
bắt buộc với các vụ án hình sự và được tiến hành theo một trình tự nhất định.
Như phần trên đã đề cập, TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau do
các cơ quan, chủ thể khác nhau thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan tiến hành tố tụng. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn
19
tiếp sau giai đoạn truy tố, được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và
quyết định truy tố bị can hoặc bản Cáo trạng của VKS. Các tài liệu, chứng cứ
được thu thập ở các giai đoạn trước được đưa ra xem xét một cách công khai,
toàn diện tại phiên tòa. Các tài liệu, chứng cứ này chính là kết quả của các giai
đoạn TTHS trước đó được Tòa án thẩm tra công khai tại phiên tòa và dùng làm
căn cứ để đưa ra phán quyết về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm.
Mặt khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là Tòa án có thẩm
quyền tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện vụ án hình sự trên cơ sở bản
Cáo trạng của VKS. Để đảm bảo việc xét xử sơ thẩm được chính xác, khách
quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, cũng như bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân,
BLTTHS năm 2003 quy định trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có
thể được đưa ra xét xử phúc thẩm và khi có một số điều kiện nhất định, vụ án
có thể được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, việc
một vụ án hình sự đã được xét xử sơ thẩm có được xét xử phúc thẩm, giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khác mà
không phải là bắt buộc.
Trong bất cứ vụ án hình sự nào dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù
bị cáo bị truy tố về tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, về một hay
nhiều tội danh cũng đều phải diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định theo
quy định của BLTTHS. Do là một giai đoạn trong TTHS nên việc xét xử sơ
thẩm đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Các thủ tục khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử sơ thẩm là lần
đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc.
Thứ hai, tất cả các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, VKS thu
thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và các chứng cứ khác có được thông qua
hoạt động xét xử đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự với sự có mặt đầy đủ của những người tham gia tố tụng.
20
Tại phiên tòa sơ thẩm, những người THTT và người tham gia tố tụng
được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều
mà tại CQĐT, VKS họ không có điều kiện để thực hiện. Nói cách khác, xét
xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã truy tố bị
can trước tòa án bằng bản cáo trạng. Do đó, xét xử sơ thẩm là một công đoạn
trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
Thứ ba, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết quả là một bản án, quyết
định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Các phán quyết của Tòa án được xem xét, đánh giá trên cơ sở những
chứng cứ đã thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và những chứng cứ thu
thập tại phiên tòa. Đồng thời phán quyết của Tòa án còn dựa trên kết quả tranh
tụng dân chủ, công khai và bình đẳng giữa các bên để nhằm đưa ra một phán
quyết có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phán quyết của tòa án là phán quyết về
bản chất của vụ án (bao gồm: bị cáo có phạm tội hay không, hậu quả pháp lý về
hình phạt, biện pháp tư pháp khác hay quyết định khác mà bị cáo phải chịu…)
trên cơ sở tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình
phạt) pháp luật TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử…).
Thứ tư, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần duy trì, bảo vệ công lý,
khôi phục công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân. Phán quyết của
Tòa án có căn cứ, công minh, đúng pháp luật còn góp phần vào việc xử lý triệt
để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự, qua đó hạn chế được lượng án phải giải
quyết ở cấp phúc thẩm. Việc đưa ra xét xử công khai, nghiêm minh và dân chủ
vụ án hình sự còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật, duy trì
công lý, đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp luật.
Việc xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo đúng quy định của pháp
luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã góp phần bảo vệ chế độ,
pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và
21
lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai
đoạn xét xử sơ thẩm còn thực hiện chức năng tuyên truyền phổ biến pháp luật,
giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, tôn
trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác.
1.2. KHÁI NIỆM KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM
1.2.1. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân và chức năng kiểm sát
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Ở Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là VKS ra đời và phát
triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của Nhà nước cách mạng. Trải
qua hơn 60 năm, ở nước ta đã tồn tại cả hai mô hình: Viện công tố và VKS.
Mô hình Viện công tố đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du
nhập vào sau khi xâm lược Việt Nam. Mô hình này tiếp tục tồn tại sau Cách
mạng tháng 8/1945. Từ năm 1945 đến năm 1950, hệ thống cơ quan công tố
nằm trong hệ thống Tòa án, thực hiện nhiệm vụ nhân danh Nhà nước buộc tội
bị cáo trước phiên tòa (trên cơ sở đó hình thành hệ thống Thẩm phán đứng hay
Thẩm phán buộc tội trong hệ thống Tòa án). Kết quả cuộc cải cách tư pháp lần
thứ nhất diễn ra vào năm 1950 cũng đưa lại một số thay đổi đối với tổ chức và
hoạt động của cơ quan Công tố. Theo đó, cơ quan công tố tỉnh chịu sự lãnh đạo
của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh, vai trò của Viện công tố trong quá
trình giải quyết việc hộ (việc dân sự) của Tòa án được tăng cường. Sau hòa bình
lập lại ở miền Bắc, năm 1958, hệ thống cơ quan công tố được tách khỏi Tòa án,
hình thành hệ thống cơ quan công tố độc lập trực thuộc Chính phủ (gồm: Viện
công tố Trung ương, Viện công tố phúc thẩm khu vực, Viện công tố tỉnh, Viện
công tố huyện), bên cạnh chức năng công tố, còn được giao thực hiện chức
năng giám sát hoạt động tư pháp (giám sát điều tra, giám sát xét xử, giám sát
22
giam, giữ, cải tạo). Tuy nhiên, chưa đầy 2 năm sau, mô hình Viện công tố chấm
dứt tồn tại. Vào thời điểm năm 1959 - 1960, cách mạng nước ta bước vào giai
đoạn phát triển mới - giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc.
Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp
luật phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi
hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân
và Nhà nước, cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau.
Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật
thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ
trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo
pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất [33].
Trên cơ sở đó, VKSND được hình thành khởi đầu bằng việc ban hành
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Việc thành lập
VKSND thay cho Viện Công tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc
chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta. Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất
yếu bộ máy nhà nước cũng phải có những thay đổi phù hợp để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ mới.
Việc thành lập VKSND ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN trước
đây là sự áp dụng tư tưởng của V.I. Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS
được trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ song trùng và pháp chế" vào điều
kiện cụ thể của nước ta. Có thể nói rằng, những tư tưởng của Lênin về cơ quan
VKS trình bày trong tác phẩm này đã trở thành cơ sở lý luận cơ bản cho việc xây
dựng hệ thống VKS ở các nước XHCN trước đây và ở Việt Nam từ năm 1960.
Theo Lênin, pháp chế thì phải thống nhất, pháp chế không thống nhất
thì không thể nào tiến hành công cuộc cách mạng XHCN, không thể bảo vệ
và củng cố được chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ nhất, trực
23
tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế XHCN chính là bệnh cục bộ, bản vị,
địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ
nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập VKS.
Về mặt tổ chức và hoạt động của VKS, theo quan điểm của Lênin, để
cơ quan này có đủ điều kiện thực hiện quyền và làm tròn bổn phận nêu trên,
phải bác bỏ chế độ trực thuộc "song trùng". Phải quy định cho VKS địa phương
chỉ phụ thuộc vào Trung ương và để cho VKS có quyền và bổn phận kháng
nghị đối với bất kỳ quyết định nào của các cơ quan chính quyền địa phương
về phương diện pháp chế của các nghị quyết và quyết định đó, nhưng không
có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết và quyết định đó, mà chỉ có
quyền đưa các vụ án ra trước Tòa án. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan
của giai đoạn cách mạng mới, quán triệt tư tưởng của Lênin về VKS, Hiến
pháp năm 1959 của Nhà nước ta đã dành bốn điều quy định các nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của VKSND.
Theo Hiến pháp 1959, ngoài chức năng Công tố, VKSND còn có chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính
phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công
dân. Về tổ chức và hoạt động, VKSND các cấp chịu sự lãnh đạo của VKSND
cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của VKSNDTC. Và "Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời
gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban
thường vụ quốc hội" [46].
Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND
được quy định trong Hiến pháp, ngày 26/7/1960, Nhà nước ta công bố Luật tổ
chức VKSND, thành lập hệ thống cơ quan VKSND trong bộ máy nhà nước
ta, từ trung ương đến đơn vị hành chính cấp huyện và các VKS quân sự.
Theo Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960, VKSND thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình bằng các công tác cụ thể sau: a) Kiểm sát việc tuân
24
theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp
của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương,
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhân viên cơ quan nhà nước và công
dân; b) Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tòa án nhân
dân những người phạm pháp về hình sự; c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra của cơ quan công an và các cơ quan điều tra khác; d) Kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của trại giam; e) Khởi tố
hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích
của Nhà nước và nhân dân.
Cải cách tư pháp lần thứ tư đã mang lại những kết quả làm thay đổi
căn bản vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở nước ta.
Đây thực sự là sự thay đổi về chất chứ không chỉ đơn thuần ở sự thay đổi tên
gọi của cơ quan công tố, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, về mặt tổ chức, cơ quan
công tố không còn trực thuộc vào hệ thống các cơ quan hành pháp như trước
đây nữa, mà trở thành một hệ thống cơ quan độc lập - hệ thống cơ quan
VKSND - chịu sự giám sát của Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất ở nước ta); thứ hai, trong tổ chức và hoạt động của mình, VKSND phải
tuân theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng
VKSNDTC và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà
nước nào ở địa phương; thứ ba, VKSND không chỉ có chức năng thực hành
quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Sau khi thống nhất đất nước, năm 1975, trên cơ sở đường lối và nhiệm
vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
(năm 1976), Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, trong đó, tiếp tục
ghi nhận chức năng của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ
quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, các nhân viên nhà nước và công dân, mà còn đặc biệt nhấn mạnh chức
25
năng thực hành quyền công tố của VKSND và khẳng định rõ hơn vai trò và
trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp, đặc biệt là của Viện trưởng
VKSNDTC. Từ năm 1987, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện.
Tiếp thu tinh thần chỉ đạo xây dựng Hiến pháp tại Nghị quyết Hội nghị lần
thứ hai ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 04/12/1991, ngày
15/4/1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp
năm 1992. Tuy có một số quy định mới, nhưng về cơ bản, Hiến pháp năm
1992 vẫn giữ nguyên quy định về chức năng cũng như tổ chức bộ máy của hệ
thống cơ quan VKSND.
Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được
tiến hành, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình cải cách bộ
máy nhà nước. Đại hội khẳng định việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, nhằm
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với
vấn đề cải cách thể chế và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nếu rõ
phải cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư
pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong
công tác điều tra, bắt, giam, giữ, xét xử, thi hành án, không để xảy ra trường
hợp oan, sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp. Ngày 19 tháng 11 năm 2001, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX đã ra kết luận về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
của Hiến pháp năm 1992, nêu rõ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải quán
triệt quan điểm là tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể
chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh năm
1991 của Đảng và Hiến pháp năm 1992, đồng thời xác định trọng tâm là sửa
đổi, bổ sung một số điều về tổ chức bộ máy nhà nước để làm cơ sở cho việc
tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước. Hội nghị đã kết luận: Cần sửa đổi, bổ sung
26
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát
nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, không
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Trên tinh thần đó, ngày 25 tháng 12 năm 2001, tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội khóa XI đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số
điều của Hiến pháp năm 1992 và ngày 02 tháng 4 năm 2002, tại kỳ họp thứ 11,
Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2002, thể chế hóa
các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp nói chung và về đổi mới tổ chức,
hoạt động của VKSND nói riêng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của VKSND,
theo đó VKSND chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp (Điều 1).
Cho đến trước năm 2013, trong quá trình soạn thảo, xây dựng Hiến
pháp xuất hiện một số quan điểm cho rằng nên bỏ chức năng kiểm sát việc
hoạt động tư pháp của VKS, với lý do cho rằng khi pháp luật mở rộng cho
công dân, tổ chức quyền khởi kiện tại tòa án khi thấy quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị đe dọa thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKS là không cần thiết. Quan điểm này là không thuyết phục vì trong một xã
hội dân chủ cần có nhiều kênh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
quan hệ pháp luật. Mặt khác, kể cả người dân có quyền tự bảo vệ mình trước
pháp luật thì họ cũng không có đủ điều kiện để sử dụng triệt để quyền năng
này. Vấn đề là cần một lá chắn từ phía bộ máy nhà nước để bảo vệ quyền tự
do và lợi ích chính đáng của người dân, đây là đòi hỏi cấp thiết. Hoàn thiện
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS chính là tạo một kênh
quan trọng, một lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân và các tổ chức. Xét về khía cạnh thực tiễn, hai chức năng hiện nay
của VKS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp luôn là tiền đề cho chức năng thực hành quyền công tố, đó là mối liên
27
hệ hữu cơ giữa hai chức năng, đơn cử hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tạm giam, tạm giữ, kiểm sát điều tra, xét xử làm cơ sở cho các
quyết định về thực hành quyền công tố của VKS chuẩn xác hơn. Đặc biệt, quá
trình thực hiện hoạt động tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng còn được
pháp luật trao thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (bắt, tạm
giữ, tạm giam…). Những sai sót, vi phạm trong hoạt động tư pháp luôn có
khả năng dẫn đến những thiệt hại không thể bù đắp được. Do vậy, hoạt động
tư pháp phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm
cả cơ chế tự kiểm tra bên trong hệ thống và cơ chế giám sát bên ngoài hệ
thống, cơ chế giám sát trực tiếp và gián tiếp. Những cơ chế này phải thường
xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKS thời gian qua đạt được những kết quả rất quan trọng, hàng năm, VKS
các cấp đã phát hiện, ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các
cơ quan tư pháp khắc phục vi phạm. Thực tiễn đó đã kiểm nghiệm và chứng
minh trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, VKS với chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất
cho chức năng thực hành quyền công tố. Vì vậy, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng
định chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Cụ thể
Hiến pháp năm 2013 có ba Điều từ Điều 107 đến 109 quy định về VKSND.
Tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Viện kiểm sát nhân
dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [30].
Điều 108 quy định:
Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các VKS khác và của Kiểm sát
viên do luật định.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc
28
hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của
Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định [30].
Điều 109 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu
sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao" [30].
Căn cứ các quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND tiếp tục thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy
nhiên, so với các quy định của Hiến pháp năm 1992, có một số quy định được
sửa đổi, bổ sung như sau:
Về chức năng của VKSND, Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ
thể chức năng của VKSNDTC, của VKSND địa phương, của các VKS quân
sự như Hiến pháp năm 1992 mà quy định gọn hơn, khái quát hơn, đồng thời
quy định rõ về hệ thống của VKSND: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định" [30].
Về nhiệm vụ của VKSND, nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy
định: "Viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm
vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ
tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [23], thì Hiến
pháp năm 2013 quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp
" Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [30].
29
Đặc biệt, về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước đây chỉ
được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên thì nay đã được quy định trong
Hiến pháp năm 2013: "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân" [30].
1.2.2. Phạm vi, nội dung của kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước, trong đó VKS sử dụng mọi quyền năng pháp lý để kiểm
tra việc chấp hành pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân có liên
quan và tổ chức khác nhằm phát hiện những vi phạm pháp luật của họ trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự: từ khởi
tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Đó là toàn bộ hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện,
nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Các hoạt động TTHS bao gồm
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự như Cơ quan
điều tra, VKS, Tòa án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải
quyết các vụ án hình sự. Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực
hiện thông qua hoạt động của người tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các
chức danh tư pháp, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất
định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải
quyết vụ án hình sự. Hoạt động của những người tham gia tố tụng bao gồm
hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
30
đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (luật sư, người
bào chữa...); hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến
hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch...). Ngoài các hoạt động trên, BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện
một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành
tố tụng... Trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS,
tất cả các hoạt động này đều có thể coi là các hoạt động TTHS. Do đó, chức
năng kiểm sát trong hoạt động TTHS chính là kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu trên, cụ thể:
a) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố và điều tra
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ
án hình sự nhằm đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật
đảm bảo mọi tội phạm đều phải phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra. Việc
khởi tố phải có căn cứ và hợp pháp tức là phải có dấu hiệu tội phạm xảy ra.
Đây cũng chính là việc VKS được trao những quyền năng pháp lý theo luật định
dùng để phát hiện vi phạm mà yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án.
b) Kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự
Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với các hoạt động
xét xử là bản án, quyết định của Tòa án luôn luôn phải đảm bảo có tính căn cứ và
tính hợp pháp. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, trong hoạt động xét
xử vẫn còn có những sai lầm, vi phạm đáng tiếc. Do vậy, việc kiểm tra tính có
căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định của tòa án phải được thực hiện
31
thường xuyên, không những trước mà cả sau khi bản án, quyết định đó có hiệu
lực pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm trong hoạt động xét xử, VKS sẽ kịp thời
ban hành kiến nghị, kháng nghị để khắc phục những vi phạm này.
c) Kiểm sát việc thi hành án
Thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng
kết thúc một vụ án được xét xử nhằm thực thi quyết định của Tòa án. Nếu
việc thi hành án không được thực hiện đúng theo các quy định pháp luật thì
việc điều tra, truy tố, xét xử không còn ý nghĩa. Thông qua công tác kiểm sát
thi hành án, VKS có trách nhiệm đảm bảo mọi bản án, quyết định được thi
hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức,
đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định được thi
hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo các bản án, quyết định
đó được thực hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
d) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp
hành hình phạt tù
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù, nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của
pháp luật; chế độ tạm giữ, tam giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù được chấp hành nghiêm chỉnh; đảm bảo tính mạng, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù và
các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
1.2.3. Đặc điểm của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm trong TTHS có những đặc thù
riêng khác với kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án và
đồng thời cũng khác với hoạt động kiểm sát trong các vụ án dân sự, hành
chính. Đặc trưng này, một mặt phản ánh bản chất của hoạt động xét xử sơ
32
thẩm vụ án hình sự, đồng thời nó là những căn cứ để phân biệt với hoạt động
kiểm sát ở những lĩnh vực khác của VKS. Đặc trưng này được thể hiện ở
những đặc điểm sau:
a) Phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp bắt đầu tiến hành khi các cơ quan tư pháp
thực hiện chức năng theo pháp luật TTHS với mục đích bảo đảm các hành vi
tố tụng của các chủ thể hoạt động TTHS tuân theo pháp luật. Và chấm dứt khi
kết thúc hoạt động TTHS. Đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai
đoạn rất quan trọng, nơi mà kết quả điều tra, truy tố sẽ được làm rõ nhất. Tại
giai đoạn này Tòa án không chỉ tiến hành xét xử để đưa ra bản án mà còn có
thể đưa ra các quyền định quan trọng khác như triệu tập những người cần thiết
để làm rõ bản chất vụ án, hủy bỏ, thay đổi các biện pháp ngăn chặn mà các cơ
quan khác đã áp dụng trước đó v.v... Tất cả những quyết định đó của Tòa án
đều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nội dung, kết quả giải quyết vụ án, do đó, để
đảm bảo các quyết định của Tòa án được đưa ra và thực hiện đúng pháp luật
thì VKS sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa
án và bên cạnh đó là sự tuân thủ và thực hiện pháp luật của những người tham
gia tố tụng xét xử khác. Phạm vi của công tác này bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý
hồ sơ vụ án, kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm.
b) Đối tượng của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia của nhiều đối
tượng tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án nhân dân và VKSND,
người tiến hành tố tụng bao gồm: Kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân
dân, thư ký tòa án những người tham gia tố tụng gồm: bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch… Khác với các giai đoạn khác của
TTHS, đối tượng là chủ thể của xét xử sơ thẩm khá đầy đủ với những quyền
33
và nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào
quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải tuân theo và thực hiện những
quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật TTHS, do đó sự tuân
thủ pháp luật của họ chính là đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự
sơ thẩm. Cụ thể: Đối với những người tiến hành tố tụng VKS phải kiểm sát
đảm bảo những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng và đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của mình, điều đặc biệt cần phải chú ý đến việc áp dụng pháp luật
của những người tiến hành tố tụng bởi vì những quyết định của những người
tiến hành tố tụng đều ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật của vụ án.
Đối với những người tham gia tố tụng như bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, việc kiểm sát không
chỉ đảm bảo họ được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà còn phải chú
ý đến những nội dung yêu cầu của của họ, nếu những nội dung yêu cầu đó là
đúng pháp luật thì cần kiểm sát để những yêu cầu của họ được thực hiện đúng
theo quy định pháp luật. Đối với người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch… việc kiểm sát cần phải đảm bảo họ thực hiện hiện nhiệm vụ một
cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Như vậy có thể thấy tất cả những quyết định, yêu cầu, hành vi tố tụng
trong quá trình xét xử sơ thẩm của tất cả các đối tượng tố tụng ở giai đoạn xét
xử sơ thẩm đều thuộc phạm vi kiểm sát của VKSND và vai trò của VKS chính
là để đảm bảo mọi quyết định, yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của tất cả các đối
tượng tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
c) Nội dung của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các
thủ tục tố tụng trong các bước giải quyết vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, với nhiệm vụ phải giải
quyết mọi vấn đề của vụ án một cách toàn diện và triệt để, pháp luật quy định
34
cụ thể về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của tòa án và trong từng trường hợp
cụ thể, tòa án có thể ra các quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả điều
tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cùng với đó là việc
giao các quyết định đó cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ
có thể bị tác động rất lớn từ những quyết định này. Nhiệm vụ của VKS là phải
kiểm sát tính có căn cứ của những quyết định của Tòa án, Hội đồng xét xử
trong giai đoạn này, kiểm sát về thẩm quyền, trình tự ban hành những quyết
định của Tòa án và Hội đồng xét xử trong giai đoạn này cũng như kiểm sát
xem thủ tục áp dụng các thủ tục tố tụng của Tòa án và Hội đồng xét xử có
đảm bảo đúng theo quy định pháp luật hay không.
Thứ hai, kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Sau khi hồ sơ được chuyển sang tòa án, thì tòa án là cơ quan có quyền
quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo. Việc áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phụ thuộc vào
tính chất của vụ án, nhân thân của người phạm tội. Trong số các biện pháp
ngăn chặn thì trong giai đoạn xét xử Tòa án chỉ có thể áp dụng các biện pháp
như tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm. VKS cần phải kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp cũng như
thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp
pháp, thẩm quyền của việc ra quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay đổi biện pháp
ngăn chặn của Tòa án, Hội đồng xét xử.
Thứ ba, kiểm sát việc ra các quyết định, bản án của Tòa án.
Đích đến cuối cùng của giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc tòa án ra bản
án, quyết định xác định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực
hiện hành vi phạm tội, lỗi, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại, quyết định hình
phạt, các biện pháp tư pháp. VKS tiến hành kiểm sát để kịp thời phát hiện
những vi phạm, thiếu sót của tòa án việc ra các quyết định, bản án và trong
từng trường hợp cụ thể sẽ ban hành kiến nghị, kháng nghị đối với những
quyết định, bản án của tòa án nhằm khắc phục những sai phạm này.
35
d) Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự do VKS tiến hành
trên cơ sở và phạm vi quy định của pháp luật
Sau khi nghiên cứu phạm vi, đối tượng và nội dung của hoạt động
kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, so sánh với hoạt động kiểm sát trong
các giai đoạn khác của TTHS thì thấy:
Thứ nhất, VKS là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát các quyết định
tố tụng của trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của
VKS, được quy định trong Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở kế thừa các bản Hiến
pháp trước đó và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 107).
Căn cứ quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác như Luật tổ chức
VKSND, BLTTHS, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính... và căn
cứ vào các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, có thể hiểu VKS không
chỉ tham gia kiểm sát các quyết định tố tụng của Tòa án, mà còn là cơ quan
duy nhất trong hệ thống các cơ quan tư pháp được Hiến pháp và pháp luật quy
định có thẩm quyền tham gia vào tất cả các lĩnh vực tố tụng tư pháp (tư pháp
hình sự, tư pháp dân sự, tư pháp hành chính…) và tham gia vào tất cả các giai
đoạn tố tụng (từ giai đoạn xác minh tin báo, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án). Đây là điều kiện quan trọng bảo đảm cho VKS có khả năng
giám sát toàn bộ quá trình tố tụng, giám sát toàn bộ quá trình thực hiện quyền
tư pháp, là cơ sở quan trọng để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp nói
chung và trong hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng.
Thứ hai, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong giai đoạn này phải tuân thủ theo đúng các trình tự và thủ tục do pháp
luật quy định.
Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, VKS thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Đây là một quyền
đồng thời cũng là nghĩa vụ của VKSND. Trong hoạt động của mình, Kiểm sát
36
viên đại diện cho VKSND phải tuân theo các quy định của BLTTHS, Bộ luật
Hình sự, Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND và các văn
bản khác do VKSNDTC ban hành. Đồng thời Kiểm sát viên phải nhạy bén,
linh hoạt, có khả năng tư duy tổng hợp, khả năng lập luận cũng như tranh luận
tốt với những người tham gia phiên tòa. Tuy nhiên vai trò của Kiểm sát viên
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ giới hạn tại phiên tòa,
là từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án mà vai trò của Kiểm sát viên tại
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải được hiểu theo nghĩa rộng, từ khi
Tòa án thụ lý vụ án đến khi có bản án sơ thẩm. Điều này đảm bảo quy trình
hoạt động liên tục và toàn diện của Kiểm sát viên trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của VKS theo luật định. Chất lượng, hiệu quả thực hành
quyền công tố của Kiểm sát viên có thành công hay không chính là nằm ở
việc Kiểm sát viên có nhạy bén, áp dụng quy định linh hoạt, có khả năng tư
duy tổng hợp những văn bản quy định về chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật hay không.
Thứ ba, Kiểm sát xét xử của VKS là hoạt động đặc trưng giúp Tòa án
ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng các quy định của pháp luật.
Hoạt động tư pháp hình sự nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự nói riêng là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước (ở
đây là quyền tư pháp), do vậy, hoạt động tư pháp hình sự phải được thực hiện
bởi những cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền tiến hành các hoạt động
tố tụng tư pháp. Bên cạnh đó có thể thấy quyền lực nhà nước dù được tổ chức
theo nguyên tắc nào, phân công hay phân quyền, đều luôn phải chịu sự giám
sát chặt chẽ và toàn diện, nhằm bảo đảm không xảy ra sự lạm quyền. Quyền
lực là hiện tượng khách quan trong quan hệ xã hội và nó có xu hướng dễ bị
lạm dụng. Vì vậy, cùng với sự thừa nhận quyền lực nhà nước thì phải thiết lập
sự giám sát đối với quyền lực nhà nước. Giám sát việc thực hiện quyền lực
nhà nước là vấn đề có tính tất yếu khách quan. Ở đâu có quyền lực nhà nước
thì ở đó cần có giám sát. Trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta hiện nay, cơ
37
chế đó là hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS. Điều này có mục tiêu bảo đảm
cho các cơ quan tư pháp nói chung và tòa án nói riêng thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình; bảo đảm việc xét xử, vụ án được chính xác, giúp
Tòa án ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng các quy định của pháp luật,
bảo đảm các quyền con người trong các thủ tục tố tụng tư pháp do pháp luật
quy định phải được triệt để tôn trọng.
Thứ tư, hoạt động kiểm sát của VKS không cản trở hoạt động bình
thường của Tòa án và không ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ
tuân theo pháp luật của thẩm phán và hội thẩm về tính chất hoạt động.
Do kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là hoạt động giám sát nhà
nước, nên trong hoạt động của mình, VKS chỉ xem xét đối tượng kiểm sát ở
góc độ có hợp pháp hay không. Theo qui định của pháp luật, hoạt động kiểm
sát xét xử được tiến hành song song với quá trình xét xử của Tòa án, từ khi hồ
sơ vụ án cùng bản cáo trạng của VKS được chuyển đến cho đến khi Tòa án ra
bản án, quyết định. Khi bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, VKS có
nhiệm vụ kiểm sát bản án quyết định để phát hiện vi phạm (nếu có) để kiến
nghị hoặc kháng nghị theo qui định của pháp luật. Trong giai đoạn xét xử vụ
án hình sự, VKS có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
xét xử của Tòa án và của những người tham gia tố tụng. Để thực hiện nhiệm
vụ nêu trên, VKS có các quyền hạn như: kiểm sát về thẩm quyền xét xử,
thành phần Hội đồng xét xử; các thủ tục tiến hành phiên tòa, các quyết định
của Tòa án... Các quyền hạn của VKS nêu trên là cơ sở để xem xét lại tính
hợp pháp và tính có căn cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của Tòa
án. Các quyền hạn của VKS chủ yếu mang tính "khuyến nghị", "yêu cầu" mà
không có ý nghĩa trực tiếp làm thay đổi các hành vi tố tụng cũng như các phán
quyết của Tòa án. Các quyền hạn của VKS mang tính "khuyến nghị" nói trên
là cơ sở để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn
cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của mình chứ không trực tiếp
làm thay đổi các hành vi và phán quyết của Thẩm phán và Hội thẩm. Qua đó
38
cho thấy, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKS không
những không thể làm thay đổi tới nguyên tắc độc lập xét xử, mà còn có ý
nghĩa bảo đảm tính độc lập của hoạt động xét xử, loại trừ các yếu tố ảnh
hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án.
Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một dạng giám sát nhà nước
về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác
với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của cơ quan
tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
tụng khi tham gia hoạt xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Mục đích của kiểm sát
hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là nhằm đảm bảo cho pháp luật được
áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá xét xử vụ án. VKS có trách
nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của bất kỳ cơ quan, cá nhân nào trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta, hoạt động kiểm
sát hoạt động tư pháp chỉ do một chủ thể duy nhất tiến hành, đó là VKS.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về kiểm sát xử sơ
thẩm vụ án hình sự như sau: Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt
động tư pháp, do VKS tiến nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp
luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động TTHS theo thủ tục xét xử sơ
thẩm, nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm
minh và kịp thời.
1.3. Ý NGHĨA CỦA KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT
XỬ SƠ THẨM
1.3.1. Đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của
Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết
của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó yêu cầu tối cao và cũng là cái
39
mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện,
đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không
xử oan người vô tội. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc
này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Chính vì thế vai trò
của VKS trong quá trình kiểm sát sự tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử
sơ thẩm đảm bảo pháp luật được áp dụng khách quan, độc lập có một ý nghĩa
rất quan trọng. Thông qua việc kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, những
sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án được phát hiện, kiến
nghị, kháng nghị, từ đó những vi phạm, sai phạm được khắc phục kịp thời, sự
khách quan, minh bạch trong quá trình giải quyết vụ án được bảo đảm.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng là
một trong những nhiệm vụ của VKS khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự nhằm đảm bảo cho việc xét xử tuân theo những quy định
của pháp luật. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần hạn chế những
sai phạm, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử,
làm cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, minh bạch, đúng pháp luật.
1.3.2. Đảm bảo áp dụng pháp luật thông nhất
Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với việc áp dụng
pháp luật là phải đảm bảo tính thống nhất, các hoạt động điều tra, xét xử,
quyết định trong suốt quá trình tố tụng phải luôn luôn đảm bảo có tính căn cứ
và tính hợp pháp. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, trong hoạt
động tố tụng vẫn còn có những sai lầm, vi phạm đáng tiếc, việc áp dụng pháp
luật còn chưa đồng bộ và thống nhất giữa các cơ quan tố tụng, Do vậy, việc
kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, cũng như sự thống nhất về pháp luật
trong quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan tố tụng phải được thực hiện
thường xuyên, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử không những trước mà cả sau
khi bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, khi tham gia tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, cùng với công tác thực hành quyền công
40
tố, VKSND thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo pháp
luật được áp dụng đúng người, đúng tội, bản án, quyết định của tòa án phải
được thực hiện kịp thời đúng theo quy định, tránh tình trạng không thể thực
hiện do sự mẫu thuẫn trong việc hiểu, áp dụng những quy định của pháp luật
giữa các cơ quan có nhiệm vụ thực hiện bản án, quyết định của tòa án.
1.3.3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Bảo đảm pháp chế XHCN là nguyên tắc quan trọng không chỉ trong
quá trình tố tụng của một vụ án mà còn ở cả những quy định luật chuyên
ngành khác. Trong quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan tố tụng tại Việt
Nam, đây là nguyên tắc bao trùm nhất, được thể hiện trong tất cả các giai
đoạn của TTHS, từ những quy định chung cho đến những quy định cụ thể. Nó
cũng là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của các cơ quan, tổ
chức và công dân. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN đảm bảo mọi hoạt
động TTHS của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm việc bảo đảm pháp chế XHCN chủ yếu tập trung vào
việc tuân thủ pháp luật của Tòa án và cơ quan kiểm sát đảm bảo pháp chế
XHCN trong giai đoạn này chính là VKS. Mọi quyết định của Tòa án cần
phải đảm bảo đúng theo quy định pháp luật để có thể được mọi cơ quan, tổ
chức và cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành. Hay nói cách khác, việc kiểm sát
xét xử đảm bảo Tòa án thực hiện đẩy đủ và đúng các quyền tố tụng theo quy
định của pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, từ các
quy định của pháp luật tố tụng đến các quy định của pháp luật về nội dung.
1.3.4. Bảo đảm xét xử công bằng
Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay của các cơ quan tư pháp
nói chung và việc xét xử nói riêng đó là phải đảm bảo tính công bằng của pháp
luật, việc xét xử của Tòa án là nơi mà sự công bằng luôn được quan tâm đặc biệt.
Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền được xét xử công bằng đầu
tiên được đề cập trong các Điều 10 và 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con
41
người 1948 (UDHR). Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948
(UDHR) quy định: "Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng
và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và
nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ" [3, tr. 243],
Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 (UDHR) quy định bổ
sung thêm một số khía cạnh cụ thể, theo đó:
Mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là
vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại
một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những
điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Không ai bị cáo buộc là
phạm tội vì bất cứ hành động hoặc sự không hành động nào mà
không cấu thành một phạm tội hình sự, theo pháp luật quốc gia hay
pháp luật quốc tế, vào thời điểm thực hiện. Cũng không ai bị tuyên
phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi
phạm tội được thực hiện [3, tr. 259].
Các quy định kể này sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong
các điều 11, 14 và 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR).
Tại Việt Nam nội dung xét xử đảm bảo công bằng được đề cập tại một
số quy định như Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định:
Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn
giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức,
đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật [31].
Điều 19 BLTTHS 2003 cũng quy định cụ thể về việc bảo đảm quyền
bình đẳng trước tòa án, theo đó:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
42
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ,
tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án.
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó
nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [28].
Từ những quy định trên có thể thấy vấn đề xét xử đảm bảo công bằng
là một vấn đề cấp thiết hiện hay và nhiệm vụ của VKS chính là để đảm bảo
cho những hoạt động của tất cả các đối tượng tố tụng được thực hiện một cách
công bằng, việc xét xử được áp dụng đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
phù hợp với nội dung hành vi của người bị áp dụng mà không có bất cứ lý do
gì có sự thiên vị trái pháp luật giữa những chủ thể tham gia tố tụng.
Việc đảm bảo tính công bằng không chỉ thể hiện ở việc vô tư khách
quan khi Tòa án ra bản án cuối cùng mà còn ở việc tố tụng của Tòa án với các
đối tượng tố tụng khác nhau cũng cẩn phải đảm bảo công khai, khách quan, không
thiên vị. Vì vậy việc kiểm sát xét xử sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách công bằng và bình đẳng nhất.
1.3.5. Bảo đảm quyền con ngƣời
Quyền con người là một vấn đề quan trọng có tính chất toàn cầu, ở
Việt Nam, việc đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp đã được
Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân
tộc và luôn được xác định như một yêu cầu có tính nguyên tắc của nền tư
pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai
đoạn cách cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo quyền nói
chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta đã và
đang từng bước được củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động
thực tiễn, nên đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc
đánh giá về sự công bằng, dân chủ và bình đẳng trong xã hội.
Tuy không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng
giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường…, nhưng có thể nói
quyền con người trong TTHS lại là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương
43
nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền
được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân vì thế để đảm
bảo quyền con người thì trong giai đoạn xét xử của tòa án không thể nằm
ngoài yêu cầu đảm bảo quyền con người. Việc đảm bảo xét xử của tòa án tôn
trọng quyền con người, tôn trọng những điều kiện cơ bản nhất của đối tượng
bị đem ra xét xử khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật là một nhiệm vụ có
ý nghĩa quan trọng đối với VKS trong quá trình kiểm sát xét xử sơ thẩm. Việc
kiểm sát đảm bảo quyền con người không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sự
công bằng mà còn phải đảm những nội dung khác như: việc áp dụng biện
pháp ngăn chặn đối với bị cáo có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đảm bảo bị
cáo được nói lời sau cùng trước khi tuyên án, có quyền tự bào chữa và tranh
luận với VKS về nội dung truy tố, đảm bảo việc xét xử được thực hiện với
tinh thần "được coi là chưa có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của
tòa án…". Đây là một trong những nội dung cơ bản của việc kiểm sát xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của VKS, và việc đảm bảo những quy định nêu trên
được thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng trong
việc thực hiện quyền con người.
1.4. KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC
1.4.1. Tại Hoa Kỳ
Ở quốc gia này, cơ quan Công tố có chức năng chủ yếu là truy tố
người phạm tội hình sự và giữ quyền công tố tại Tòa án. Ngoài ra, các cơ
quan này còn có thêm chức năng giám sát hoạt động điều tra và giám sát chế
độ giam giữ tại các trại giam. Pháp luật Mỹ không quy định về quyền kiểm
sát xét xử đối với viện công tố. Hoạt động giám sát tuân thủ pháp luật chỉ thể
hiện trong quan hệ với cơ quan điều tra. Viện công tố không thực hiện chức
năng giám sát tuân theo pháp luật ở giai đoạn xét xử. Ở giai đoạn này, Viện
công tố chỉ thuần túy là một bên tranh tụng bình đẳng với bên bào chữa. Giám
sát việc tuân thủ pháp luật của các bên tranh tụng (trong đó có Viện công tố)
44
và những người tham gia phiên tòa do tòa án thực hiện. Hoạt động giám sát
tuân theo pháp luật của Viện công tố rất hạn chế.
Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, sở dĩ tại các nước Tây
Âu và Mỹ, cơ quan công tố không thực hiện chức năng kiểm sát chung (giám
sát việc tuân theo pháp luật) là vì ở đó văn hóa pháp lý đã trở thành nền tảng
chung của mọi cơ cấu xã hội và Nhà nước; họ có xã hội dân sự phát triển, xã
hội ổn định, vì vậy, năng lực tự điều chỉnh, ý thức tôn trọng pháp luật của
người dân cao v.v... Bên cạnh đó, ở quốc gia như nước Mỹ, nơi các truyền
thống tự quản địa phương, truyền thống tư tố phổ biến, Tòa án có uy thế nổi
trội thì bản thân khái niệm "pháp chế", "tuân thủ pháp luật" cũng không có,
bởi hệ thống thông luật chủ yếu là các án lệ nên không cần đến một thiết chế
nhà nước như VKS để giám sát việc tuân theo pháp luật.
Nhìn chung, ưu điểm nổi bật của việc pháp luật không quy định chức
năng Kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Mỹ là làm nổi bật hoạt
động truy cứu trách nhiệm hình sự - chức năng buộc tội trong TTHS, nhằm
bảo đảm sự tuân thủ Luật hình sự. Đây là lợi ích sống còn và là điều quan tâm
nhất của nhà nước.
1.4.2. Tại Trung Quốc
Ở Trung Quốc, VKSND là cơ quan tư pháp, được tổ chức thành một
hệ thống độc lập. VKS có chức năng thực hành quyền công tố và chức năng
giám sát pháp luật của nhà nước nói chung, giám sát các hoạt động tư pháp
trong TTHS nói riêng một cách độc lập theo quy định của pháp luật mà không
bị can thiệp bởi bất kỳ cơ quan hành chính, tổ chức hoặc cá nhân nào. Tuy
nhiên, VKS ở địa phương chịu sự giám sát của Đại hội đại biểu nhân dân địa
phương - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Trong đoạn xét xử, VKS có trách nhiệm luận tội và kiểm sát việc xét
xử tương tự với chức năng của VKS tại Việt Nam.
Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định
"Viện kiểm sát nhân dân Trung hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sátĐề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
Đề tài: Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Bảo đảm quyền bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
Luận văn: Tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa Quân khu 4
 
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAYLuận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
Luận văn: Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOTĐề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình PhướcLuận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
 

Similar to Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY

Similar to Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY (20)

Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOTLuận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
Luận văn: Kiểm soát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm soát, HOT
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sựLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự
 
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựNhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAYViện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của luật, HAY
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sátLuận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
 
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
LngHu10
 
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
hoangphuc12ta6
 

Recently uploaded (18)

BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
BÀI TẬP DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 - CẢ NĂM - THEO FORM THI MỚI BGD 2025 (DÙNG C...
 
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdfTalk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
Talk Academy Presentation 2024 (ENG) MICE.pdf
 
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdfxemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
xemsomenh.com-Bố cục của lá số tử vi như thế nào.pdf
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doconluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
onluyen.vn_Ebook 120 đề thi tuyển sinh tiếng anh 10 theo cấu trúc sở hà nội.doc
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
2.THUỐC AN THẦN VÀ THUỐC GÂY NGỦ.pptx
 
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
TÀI LIỆU DẠY THÊM HÓA HỌC 12 - SÁCH MỚI (BẢN HS+GV) (FORM BÀI TẬP 2025 CHUNG ...
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
 
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CHÂN TRỜI ...
 
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hustslide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
slide tuần kinh tế công nghệ phần mềm hust
 
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsbkjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
kjsbgkjbskfkgabksfbgbsfjkvbksfbkbfskbskbkjsb
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
BÀI TẬP DẠY THÊM TOÁN LỚP 12 SÁCH MỚI THEO FORM THI MỚI BGD 2025 - CÁNH DIỀU ...
 
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptxBài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
Bài thuyết trình môn học Hệ Điều Hành.pptx
 
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NGThực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
Thực hành lễ tân ngoại giao - công tác NG
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN TOÁN CÁC TỈNH NĂM HỌC 2023-2024 CÓ ...
 

Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN ANH KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN ANH KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ (Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn TuÊn Anh
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1.1. Khái quát về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.1.1. Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và các đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm 13 1.2.1. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân và chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự 13 1.2.2. Phạm vi, nội dung của kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự 21 1.2.3. Đặc điểm của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 23 1.3. Ý nghĩa của kiểm sát tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm 30 1.3.1. Đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án 30 1.3.2. Đảm bảo áp dụng pháp luật thống nhất 31 1.3.3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa 32 1.3.4. Bảo đảm xét xử công bằng 32 1.3.5. Bảo đảm quyền con người 34 1.4. Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình sự một số nước 35
  • 5. 5 1.4.1. Tại Hoa Kỳ 35 1.4.2. Tại Trung Quốc 36 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 38 2.1. Pháp luật Việt Nam về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 38 2.1.1. Pháp luật Việt Nam về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ năm 1945 đến trước năm 2003 38 2.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 41 2.2. Thực tiễn công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình 48 2.2.1. Khái quát chung về tỉnh Hòa Bình 48 2.2.2. Về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình 49 2.2.3. Một số kết quả về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình 50 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆNKIỂM SÁT 61 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 61 3.2. Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát 66 3.3. Các giải pháp khác nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt động xét xử 70 3.3.1. Nâng cao trình độ của các Kiểm sát viên nói riêng và lực lượng cán bộ ngành kiểm sát nói chung 70
  • 6. 6 3.3.2. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành Kiểm sát 72 3.3.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo trong ngành Kiểm sát 73 3.3.4. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn 76 3.3.5. Nâng cao hiê ̣u quả phiên tòa rút kinh nghiệm Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 77 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Thống kê đánh giá công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Hòa Bình (từ ngày 01/12/2010 đến 30/11/2014) 55 2.2 Tỉ lệ số vụ đưa ra xét xử với số vụ truy tố 56 2.3 Các kiến nghị của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 57 2.4 Kháng nghị 57
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngành kiểm sát nhân dân được thành lập ngày 26/7/1960, đánh dấu sự ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 1960. VKSND không chỉ có chức năng thực hành quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm, điều này cho thấy ngay từ những ngày mới thành lập, việc kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm đã được đánh giá là một trong những khâu công tác quan trọng của ngành kiểm sát. Xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển của VKSND tới nay, với những quy định của pháp luật hiện hành và đặc biệt là của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã là cơ sở cho VKSND thực hiện chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm. Trải qua một thời gian áp dụng, những quy định của BLTTHS 2003 đã cơ bản giúp cho ngành Kiểm sát nhân dân thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, thực tiễn tố tụng hình sự (TTHS) cho thấy hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm còn bộc lộ nhiều hạn chế, còn để xảy ra vi phạm nhất là còn để xảy ra oan sai, hoặc bỏ lọt tội phạm… Hạn chế này do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự bất cập của các quy định pháp luật về chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát (VKS), năng lực, kinh nghiệm và những điều kiện bảo đảm cho việc thực hiện kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm của VKS. Vì vậy, đã làm giảm sút vai trò VKS trong hoạt động tố tụng, ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp
  • 10. 10 quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), yêu cầu của cải cách tư pháp, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra đối với việc cải cách, nâng cao vị trí, vai trò của VKS, trong đó có chức năng kiểm sát xét xử trong TTHS. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ ra, nhiệm vụ trọng tâm vào công tác cải cách tư pháp là "đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người". Khẳng định: Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức tòa án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra [11]. Từ những khẳng định trên cũng như việc giao nhiệm vụ cho ngành Kiểm sát của Đảng đã cho thấy trách nhiệm kiểm sát hoạt động tư pháp là một trách nhiệm lớn lao của ngành kiểm sát và một trong những nhiệm vụ đó sẽ được thể hiện rõ nét qua công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự bởi vì đây luôn được coi là một trong những hoạt động trọng tâm của ngành kiểm sát. Vậy làm thế nào để ngành kiểm sát có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình? Những khó khăn và hạn chế gì đang tồn tại trong công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự và giải pháp để ngành Kiểm sát thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát hoạt động xét xử hình sự với nền tảng là BLTTHS 2003…? Đây là những câu hỏi mang tính thực tiễn cao đang được ngành Kiểm sát nhân dân hết sức quan tâm trong công cuộc cải cách tư pháp của nước ta hiện nay. Trong phạm vi luận văn thạc sĩ của mình, với những kinh nghiệm từ thực tiễn công tác tôi quyết định chọn đề tài: "Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hòa Bình)" như một lời bàn góp phần giải quyết khó khăn, hạn chế và các giải pháp để tăng cường hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nhân dân.
  • 11. 11 2. Tình hình nghiên cứu Sau khi có các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay, đã có một số bài viết - đề tài nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của VKSND như: "Một số nội dung cần nghiên cứu để triển khai thực hiện Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002" của Hoàng Nghĩa Mai, Tạp chí Kiểm sát, số 13, 2011; "Viện kiểm sát nhân dân đổi mới toàn diện và đồng bộ để triển khai thực hiện tốt các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính" của Nguyễn Thị Thủy Khiêm, Tạp chí kiểm sát, số 13, 2011; "Một số vấn đề về tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp" của Lê Hữu Thể đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 04, 2008 v.v. Chuyên đề về tổ chức và hoạt động của VKS theo yêu cầu cải cách tư pháp của tập thể tác giả đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 14-16, 2008... Các luận văn thạc sĩ, như: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam" của Trần Mạnh Đông, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh", của Trần Văn Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004; "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân", của Phan Thị Thúy Lan, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007... Các sách chuyên khảo, như: "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra" do TS. Lê Hữu Thể chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2008; "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
  • 12. 12 pháp" do các tác giả TS. Lê Hữu Thể - TS. Đỗ Văn Đương - ThS. Nguyễn Thị Thủy đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013... Các bài viết: "Vấn đề tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự" của Huỳnh Thế Anh, Báo điện tử VKSND tỉnh Kiên Giang, ngày 25/9/2013; "Bàn về chức năng kiểm sát hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân" của TS. Nguyễn Văn Quảng, Báo điện tử VKSND thành phố Hải Phòng…Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ… Các công trình nghiên cứu, bài viết trước đây hầu như ít đi sâu vào tìm hiểu về việc kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 3. Mục tiêu nghiên cứu Làm rõ cơ sở lý luận về kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKS trong điều kiện cải cách tư pháp, đồng thời đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự những năm qua, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKSND. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định và thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát đối với xét xử vụ án hình sự của VKSND. Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trong giai đoạn xét xử sơ thẩm với hoạt động của VKSND tỉnh Hòa Bình, từ năm 2009 đến 2014 (30/9/2009 đến 01/10/2014). 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp cùng chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận của chủ
  • 13. 13 nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong TTHS. Luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê và so sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,… 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đóng góp của luận văn về mặt khoa học pháp lý là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ, vai trò, công tác của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đóng góp của luận văn về mặt thực tiễn là đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKSND nói chung và VKSND tỉnh Hòa Bình nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
  • 14. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Vị trí, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn, được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố đến khi có bản án kết tội hoặc quyết định của tòa án có hiệu lực được thi hành. Quá trình này có sự tham gia của nhiều chủ thể, trong đó mỗi loại chủ thể góp phần vào việc giải quyết một chức năng của TTHS. Đó là các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội; các chủ thể thực hiện chức năng gỡ tội; chủ thể xét xử vụ án hình sự. Như vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn khác nhau phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và được diễn ra liên tục, kế tiếp nhau. Quan điểm truyền thống ở nước ta phân chia quá trình giải quyết vụ án thành bốn giai đoạn tương ứng với chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các giai đoạn đó gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự: Là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác về tội phạm và kết thúc bằng việc ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn điều tra và truy tố: Là giai đoạn được bắt đầu sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi có quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Giai đoạn xét xử vụ án hình sự: Là giai đoạn được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và quyết định truy tố bị can cùng bản cáo trạng của VKS và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Giai đoạn thi hành bản án, quyết định có hiệu
  • 15. 15 lực pháp luật của Tòa án: Là giai đoạn mà các cơ quan có trách nhiệm đưa bản án và quyết định của Tòa án ra thi hành nhằm đảm bảo hiệu lực trên thực tế. Mỗi giai đoạn của hoạt động TTHS có nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng quy định của pháp luật và do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Trong đó, xét xử vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm của TTHS, thể hiện đầy đủ nhất bản chất chế độ tư pháp hình sự của mỗi quốc gia, quyết định việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tòa án phải xét xử chính xác, công minh vì thông qua phán quyết về những hành vi phạm tội, tòa án duy trì công lý trong xã hội, kiểm soát xã hội trong vòng trật tự. Trong lý luận khoa học TTHS, thừa nhận xét xử sơ thẩm có vị trí, vai trò quan trọng nhất, không chỉ trong giai đoạt xét xử mà còn trong cả quá trình giải quyết vụ án, được bắt đầu từ khi tòa án nhận hồ sơ và Cáo trạng của VKS đến khi kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nhiệm vụ thực chất giải quyết vụ án hình sự đã quy định xét xử sơ thẩm là giai đoạn trọng tâm của TTHS. Các giai đoạn trước đó chỉ là quá trình chuẩn bị điều kiện cho xét xử sơ thẩm. Các giai đoạn sau xét xử sơ thẩm là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của nó, khắc phục những thiếu sót, sai lầm nếu có và đưa các quyết định, bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành. Hiện nay, khái niệm "xét xử sơ thẩm" có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển Luật học lý giải: "Xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền" [2, tr. 780]. Khái niệm này mang tính khái quát chung của cả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự; v.v… và đã phản ánh được nét đặc trưng của xét xử sơ thẩm là "lần đầu tiên" một vụ án được đưa ra xét xử và do "một Tòa án có thẩm quyền" tiến hành. Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh định nghĩa: "Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử ở cấp thứ nhất do tòa án có
  • 16. 16 thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự" [36, tr. 451]. Định nghĩa này nhận định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là xét xử vụ án ở cấp đầu tiên, bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật ngay và bản án, quyết định đó có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật định. Giáo trình Luật TTHS của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: "Xét xử sơ thẩm là giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật" [35, tr. 345] Định nghĩa này đã xác định được xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của TTHS. Xét xử sơ thẩm là hoạt động tố tụng thực hiện chức năng xét xử của tòa án dưới hình thức phiên tòa xem xét và giải quyết vụ án hình sự, có nghĩa là tòa án trên cơ sở bản cáo trạng và các chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa đưa ra phán quyết về toàn bộ những vấn đề của vụ án. Đây là điểm mấu chốt phân biệt xét xử sơ thẩm với xét xử phúc thẩm. Phiên tòa sơ thẩm chỉ có thể tiến hành khi có quyết định truy tố của VKS và có đủ điều kiện để tiến hành phiên tòa. Giáo trình Luật TTHS của Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện, tổng thể vụ án hình sự trên cơ sở bản cáo trạng của Viện kiểm sát, Tòa án sẽ xem xét đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở để ra các phán quyết công minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản án và quyết định của mình [5, tr. 359]. Như vậy có thể nói, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, các thủ tục khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử sơ thẩm là lần đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc. Là lần đầu xét xử, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ
  • 17. 17 và khách quan về vụ án mà còn hướng đến việc xử lý triệt để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự ở giai đoạn này. Đó là có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, lỗi, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp. Vì vậy, nếu xét xử sơ thẩm được thực hiện tốt sẽ góp phần giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng giải quyết kéo dài vụ án, để án tồn đọng. Do đó sẽ hạn chế được lượng án mà tòa án cấp phúc thẩm phải giải quyết, tiết kiệm đáng kể cho Nhà nước và xã hội các chi phí về thời gian, tiền bạc, công sức… cho việc giải quyết vụ án hình sự, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án nói riêng, cũng như của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nói chung. Toàn bộ những yếu tố đó giúp cho giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có một có một giá trị không thể thay thế được. Xét xử sơ thẩm vừa là công cụ bảo vệ pháp chế XHCN, vừa là công cụ bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và giảm thiếu tối đa các vụ án oan sai. 1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ và các đặc trƣng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.1.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành sau khi tòa án nhận được cáo trạng quyết định truy tố bị can (quyết định truy tố bị can trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn) và hồ sơ vụ án do VKS chuyển đến. Do vậy, mọi chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án chỉ là tài liệu để tòa án xem xét, kiểm tra nhằm đưa ra những phán quyết khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả những thông tin, tài liệu, đồ vật thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố đều được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thông qua việc xét hỏi và tranh luận. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu nên trong giai đoạn này tòa án phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án trên cơ sở cáo trạng mà VKS truy tố. Do vậy chức năng, nhiệm vụ của giai đoạn này được thể hiện như sau:
  • 18. 18 Một là, xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Hai là, trường hợp không đủ căn cứ để đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ thẩm, tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Ba là, trên cơ sở truy tố của VKS, tòa án tiến hành giải quyết vụ án bằng việc ra bản án, quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của kiểm sát viên và ý kiến của những người tham gia tố tụng. Bốn là, qua việc xét hỏi và tranh luận dân chủ, công khai tại phiên tòa, hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ những chứng cứ, tình tiết của vụ án đã có trong hồ sơ và tại phiên tòa để đưa ra phán quyết cuối cùng. Năm là, thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai đoạn xét xử sơ thẩm góp phần giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác. 1.1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Nghiên cứu các nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2003 hiện hành, có thể nhận thấy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có tính bắt buộc với các vụ án hình sự và được tiến hành theo một trình tự nhất định. Như phần trên đã đề cập, TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau do các cơ quan, chủ thể khác nhau thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn
  • 19. 19 tiếp sau giai đoạn truy tố, được bắt đầu khi Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và quyết định truy tố bị can hoặc bản Cáo trạng của VKS. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập ở các giai đoạn trước được đưa ra xem xét một cách công khai, toàn diện tại phiên tòa. Các tài liệu, chứng cứ này chính là kết quả của các giai đoạn TTHS trước đó được Tòa án thẩm tra công khai tại phiên tòa và dùng làm căn cứ để đưa ra phán quyết về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm. Mặt khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là Tòa án có thẩm quyền tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện vụ án hình sự trên cơ sở bản Cáo trạng của VKS. Để đảm bảo việc xét xử sơ thẩm được chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, cũng như bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, BLTTHS năm 2003 quy định trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có thể được đưa ra xét xử phúc thẩm và khi có một số điều kiện nhất định, vụ án có thể được xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, việc một vụ án hình sự đã được xét xử sơ thẩm có được xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khác mà không phải là bắt buộc. Trong bất cứ vụ án hình sự nào dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù bị cáo bị truy tố về tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, về một hay nhiều tội danh cũng đều phải diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định theo quy định của BLTTHS. Do là một giai đoạn trong TTHS nên việc xét xử sơ thẩm đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các thủ tục khác có thể có, có thể không, nhưng xét xử sơ thẩm là lần đầu, do đó, là thủ tục bắt buộc. Thứ hai, tất cả các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, VKS thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và các chứng cứ khác có được thông qua hoạt động xét xử đều được xem xét một cách công khai, toàn diện tại phiên tòa sơ thẩm hình sự với sự có mặt đầy đủ của những người tham gia tố tụng.
  • 20. 20 Tại phiên tòa sơ thẩm, những người THTT và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều mà tại CQĐT, VKS họ không có điều kiện để thực hiện. Nói cách khác, xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi CQĐT đã điều tra vụ án, VKS đã truy tố bị can trước tòa án bằng bản cáo trạng. Do đó, xét xử sơ thẩm là một công đoạn trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Thứ ba, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có kết quả là một bản án, quyết định công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. Các phán quyết của Tòa án được xem xét, đánh giá trên cơ sở những chứng cứ đã thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và những chứng cứ thu thập tại phiên tòa. Đồng thời phán quyết của Tòa án còn dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ, công khai và bình đẳng giữa các bên để nhằm đưa ra một phán quyết có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Phán quyết của tòa án là phán quyết về bản chất của vụ án (bao gồm: bị cáo có phạm tội hay không, hậu quả pháp lý về hình phạt, biện pháp tư pháp khác hay quyết định khác mà bị cáo phải chịu…) trên cơ sở tuân thủ đúng các quy định của pháp luật hình sự (về tội phạm và hình phạt) pháp luật TTHS (về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử…). Thứ tư, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần duy trì, bảo vệ công lý, khôi phục công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân. Phán quyết của Tòa án có căn cứ, công minh, đúng pháp luật còn góp phần vào việc xử lý triệt để, toàn diện và dứt điểm vụ án hình sự, qua đó hạn chế được lượng án phải giải quyết ở cấp phúc thẩm. Việc đưa ra xét xử công khai, nghiêm minh và dân chủ vụ án hình sự còn góp phần bảo đảm sự thượng tôn của pháp luật, duy trì công lý, đem lại công bằng trong xã hội, đảm bảo tính pháp chế của pháp luật. Việc xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo đúng quy định của pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và
  • 21. 21 lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Thông qua việc xét xử và đặc biệt là qua các phiên tòa công khai, giai đoạn xét xử sơ thẩm còn thực hiện chức năng tuyên truyền phổ biến pháp luật, giáo dục công dân chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi phạm pháp luật khác. 1.2. KHÁI NIỆM KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM 1.2.1. Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân và chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Ở Việt Nam, thiết chế Viện công tố, sau này là VKS ra đời và phát triển cùng với quá trình thành lập và phát triển của Nhà nước cách mạng. Trải qua hơn 60 năm, ở nước ta đã tồn tại cả hai mô hình: Viện công tố và VKS. Mô hình Viện công tố đã từng tồn tại ở Việt Nam do người Pháp du nhập vào sau khi xâm lược Việt Nam. Mô hình này tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng 8/1945. Từ năm 1945 đến năm 1950, hệ thống cơ quan công tố nằm trong hệ thống Tòa án, thực hiện nhiệm vụ nhân danh Nhà nước buộc tội bị cáo trước phiên tòa (trên cơ sở đó hình thành hệ thống Thẩm phán đứng hay Thẩm phán buộc tội trong hệ thống Tòa án). Kết quả cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất diễn ra vào năm 1950 cũng đưa lại một số thay đổi đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan Công tố. Theo đó, cơ quan công tố tỉnh chịu sự lãnh đạo của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh, vai trò của Viện công tố trong quá trình giải quyết việc hộ (việc dân sự) của Tòa án được tăng cường. Sau hòa bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958, hệ thống cơ quan công tố được tách khỏi Tòa án, hình thành hệ thống cơ quan công tố độc lập trực thuộc Chính phủ (gồm: Viện công tố Trung ương, Viện công tố phúc thẩm khu vực, Viện công tố tỉnh, Viện công tố huyện), bên cạnh chức năng công tố, còn được giao thực hiện chức năng giám sát hoạt động tư pháp (giám sát điều tra, giám sát xét xử, giám sát
  • 22. 22 giam, giữ, cải tạo). Tuy nhiên, chưa đầy 2 năm sau, mô hình Viện công tố chấm dứt tồn tại. Vào thời điểm năm 1959 - 1960, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới - giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở miền Bắc. Nhu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất [33]. Trên cơ sở đó, VKSND được hình thành khởi đầu bằng việc ban hành Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960. Việc thành lập VKSND thay cho Viện Công tố là xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta. Cách mạng đã chuyển giai đoạn thì tất yếu bộ máy nhà nước cũng phải có những thay đổi phù hợp để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới. Việc thành lập VKSND ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN trước đây là sự áp dụng tư tưởng của V.I. Lênin về tổ chức và hoạt động của VKS được trình bày trong tác phẩm "Bàn về chế độ song trùng và pháp chế" vào điều kiện cụ thể của nước ta. Có thể nói rằng, những tư tưởng của Lênin về cơ quan VKS trình bày trong tác phẩm này đã trở thành cơ sở lý luận cơ bản cho việc xây dựng hệ thống VKS ở các nước XHCN trước đây và ở Việt Nam từ năm 1960. Theo Lênin, pháp chế thì phải thống nhất, pháp chế không thống nhất thì không thể nào tiến hành công cuộc cách mạng XHCN, không thể bảo vệ và củng cố được chính quyền cách mạng. Yếu tố cản trở mạnh mẽ nhất, trực
  • 23. 23 tiếp nhất đến sự thống nhất của pháp chế XHCN chính là bệnh cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa. Muốn đấu tranh chống lại một cách có hiệu quả chủ nghĩa cục bộ địa phương, nhất thiết phải thành lập VKS. Về mặt tổ chức và hoạt động của VKS, theo quan điểm của Lênin, để cơ quan này có đủ điều kiện thực hiện quyền và làm tròn bổn phận nêu trên, phải bác bỏ chế độ trực thuộc "song trùng". Phải quy định cho VKS địa phương chỉ phụ thuộc vào Trung ương và để cho VKS có quyền và bổn phận kháng nghị đối với bất kỳ quyết định nào của các cơ quan chính quyền địa phương về phương diện pháp chế của các nghị quyết và quyết định đó, nhưng không có quyền đình chỉ việc thi hành các nghị quyết và quyết định đó, mà chỉ có quyền đưa các vụ án ra trước Tòa án. Xuất phát từ những yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới, quán triệt tư tưởng của Lênin về VKS, Hiến pháp năm 1959 của Nhà nước ta đã dành bốn điều quy định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của VKSND. Theo Hiến pháp 1959, ngoài chức năng Công tố, VKSND còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Về tổ chức và hoạt động, VKSND các cấp chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của VKSNDTC. Và "Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ quốc hội" [46]. Trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của VKSND được quy định trong Hiến pháp, ngày 26/7/1960, Nhà nước ta công bố Luật tổ chức VKSND, thành lập hệ thống cơ quan VKSND trong bộ máy nhà nước ta, từ trung ương đến đơn vị hành chính cấp huyện và các VKS quân sự. Theo Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 1960, VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng các công tác cụ thể sau: a) Kiểm sát việc tuân
  • 24. 24 theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân; b) Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tòa án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan công an và các cơ quan điều tra khác; d) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam, giữ của trại giam; e) Khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Cải cách tư pháp lần thứ tư đã mang lại những kết quả làm thay đổi căn bản vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan công tố ở nước ta. Đây thực sự là sự thay đổi về chất chứ không chỉ đơn thuần ở sự thay đổi tên gọi của cơ quan công tố, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, về mặt tổ chức, cơ quan công tố không còn trực thuộc vào hệ thống các cơ quan hành pháp như trước đây nữa, mà trở thành một hệ thống cơ quan độc lập - hệ thống cơ quan VKSND - chịu sự giám sát của Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở nước ta); thứ hai, trong tổ chức và hoạt động của mình, VKSND phải tuân theo nguyên tắc tập trung thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSNDTC và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương; thứ ba, VKSND không chỉ có chức năng thực hành quyền công tố mà thực hiện cả chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội và lĩnh vực hoạt động tư pháp. Sau khi thống nhất đất nước, năm 1975, trên cơ sở đường lối và nhiệm vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976), Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, trong đó, tiếp tục ghi nhận chức năng của VKSND là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống, các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, mà còn đặc biệt nhấn mạnh chức
  • 25. 25 năng thực hành quyền công tố của VKSND và khẳng định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp, đặc biệt là của Viện trưởng VKSNDTC. Từ năm 1987, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Tiếp thu tinh thần chỉ đạo xây dựng Hiến pháp tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 04/12/1991, ngày 15/4/1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp năm 1992. Tuy có một số quy định mới, nhưng về cơ bản, Hiến pháp năm 1992 vẫn giữ nguyên quy định về chức năng cũng như tổ chức bộ máy của hệ thống cơ quan VKSND. Tháng 4/2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được tiến hành, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình cải cách bộ máy nhà nước. Đại hội khẳng định việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với vấn đề cải cách thể chế và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nếu rõ phải cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, xét xử, thi hành án, không để xảy ra trường hợp oan, sai. VKSND thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Ngày 19 tháng 11 năm 2001, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ra kết luận về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, nêu rõ việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải quán triệt quan điểm là tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng và Hiến pháp năm 1992, đồng thời xác định trọng tâm là sửa đổi, bổ sung một số điều về tổ chức bộ máy nhà nước để làm cơ sở cho việc tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước. Hội nghị đã kết luận: Cần sửa đổi, bổ sung
  • 26. 26 chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo hướng Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, không kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Trên tinh thần đó, ngày 25 tháng 12 năm 2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và ngày 02 tháng 4 năm 2002, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2002, thể chế hóa các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp nói chung và về đổi mới tổ chức, hoạt động của VKSND nói riêng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của VKSND, theo đó VKSND chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (Điều 1). Cho đến trước năm 2013, trong quá trình soạn thảo, xây dựng Hiến pháp xuất hiện một số quan điểm cho rằng nên bỏ chức năng kiểm sát việc hoạt động tư pháp của VKS, với lý do cho rằng khi pháp luật mở rộng cho công dân, tổ chức quyền khởi kiện tại tòa án khi thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị đe dọa thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là không cần thiết. Quan điểm này là không thuyết phục vì trong một xã hội dân chủ cần có nhiều kênh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể quan hệ pháp luật. Mặt khác, kể cả người dân có quyền tự bảo vệ mình trước pháp luật thì họ cũng không có đủ điều kiện để sử dụng triệt để quyền năng này. Vấn đề là cần một lá chắn từ phía bộ máy nhà nước để bảo vệ quyền tự do và lợi ích chính đáng của người dân, đây là đòi hỏi cấp thiết. Hoàn thiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS chính là tạo một kênh quan trọng, một lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức. Xét về khía cạnh thực tiễn, hai chức năng hiện nay của VKS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp luôn là tiền đề cho chức năng thực hành quyền công tố, đó là mối liên
  • 27. 27 hệ hữu cơ giữa hai chức năng, đơn cử hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giam, tạm giữ, kiểm sát điều tra, xét xử làm cơ sở cho các quyết định về thực hành quyền công tố của VKS chuẩn xác hơn. Đặc biệt, quá trình thực hiện hoạt động tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng còn được pháp luật trao thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng (bắt, tạm giữ, tạm giam…). Những sai sót, vi phạm trong hoạt động tư pháp luôn có khả năng dẫn đến những thiệt hại không thể bù đắp được. Do vậy, hoạt động tư pháp phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong hệ thống và cơ chế giám sát bên ngoài hệ thống, cơ chế giám sát trực tiếp và gián tiếp. Những cơ chế này phải thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS thời gian qua đạt được những kết quả rất quan trọng, hàng năm, VKS các cấp đã phát hiện, ban hành hàng nghìn kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan tư pháp khắc phục vi phạm. Thực tiễn đó đã kiểm nghiệm và chứng minh trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta, VKS với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ chế giám sát tư pháp hữu hiệu và bổ trợ hiệu quả nhất cho chức năng thực hành quyền công tố. Vì vậy, Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Cụ thể Hiến pháp năm 2013 có ba Điều từ Điều 107 đến 109 quy định về VKSND. Tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: "1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [30]. Điều 108 quy định: Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các VKS khác và của Kiểm sát viên do luật định. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc
  • 28. 28 hội không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định [30]. Điều 109 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao" [30]. Căn cứ các quy định của Hiến pháp năm 2013, VKSND tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, so với các quy định của Hiến pháp năm 1992, có một số quy định được sửa đổi, bổ sung như sau: Về chức năng của VKSND, Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể chức năng của VKSNDTC, của VKSND địa phương, của các VKS quân sự như Hiến pháp năm 1992 mà quy định gọn hơn, khái quát hơn, đồng thời quy định rõ về hệ thống của VKSND: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định" [30]. Về nhiệm vụ của VKSND, nếu như Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định: "Viện kiểm sát nhân dân, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [23], thì Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn về nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp " Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [30].
  • 29. 29 Đặc biệt, về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trước đây chỉ được quy định trong Pháp lệnh Kiểm sát viên thì nay đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013: "Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân" [30]. 1.2.2. Phạm vi, nội dung của kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, trong đó VKS sử dụng mọi quyền năng pháp lý để kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân có liên quan và tổ chức khác nhằm phát hiện những vi phạm pháp luật của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng hình sự là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự: từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Đó là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật. Các hoạt động TTHS bao gồm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự như Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án. Đây là các cơ quan có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện thông qua hoạt động của người tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là những công chức trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp, có thẩm quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động của những người tham gia tố tụng bao gồm hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
  • 30. 30 đơn dân sự, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (luật sư, người bào chữa...); hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch...). Ngoài các hoạt động trên, BLTTHS còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng... Trong một chừng mực nhất định, đây cũng là các hoạt động TTHS, tất cả các hoạt động này đều có thể coi là các hoạt động TTHS. Do đó, chức năng kiểm sát trong hoạt động TTHS chính là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của tất cả các hoạt động nêu trên, của các chủ thể nêu trên, cụ thể: a) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố và điều tra Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự nhằm đảm bảo mọi tội phạm đều được phát hiện, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật đảm bảo mọi tội phạm đều phải phát hiện kịp thời và khởi tố điều tra. Việc khởi tố phải có căn cứ và hợp pháp tức là phải có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Đây cũng chính là việc VKS được trao những quyền năng pháp lý theo luật định dùng để phát hiện vi phạm mà yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án. b) Kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với các hoạt động xét xử là bản án, quyết định của Tòa án luôn luôn phải đảm bảo có tính căn cứ và tính hợp pháp. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, trong hoạt động xét xử vẫn còn có những sai lầm, vi phạm đáng tiếc. Do vậy, việc kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của các bản án, quyết định của tòa án phải được thực hiện
  • 31. 31 thường xuyên, không những trước mà cả sau khi bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm trong hoạt động xét xử, VKS sẽ kịp thời ban hành kiến nghị, kháng nghị để khắc phục những vi phạm này. c) Kiểm sát việc thi hành án Thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm thực thi quyết định của Tòa án. Nếu việc thi hành án không được thực hiện đúng theo các quy định pháp luật thì việc điều tra, truy tố, xét xử không còn ý nghĩa. Thông qua công tác kiểm sát thi hành án, VKS có trách nhiệm đảm bảo mọi bản án, quyết định được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó được thực hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. d) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành hình phạt tù Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tam giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù được chấp hành nghiêm chỉnh; đảm bảo tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng. 1.2.3. Đặc điểm của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm trong TTHS có những đặc thù riêng khác với kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án và đồng thời cũng khác với hoạt động kiểm sát trong các vụ án dân sự, hành chính. Đặc trưng này, một mặt phản ánh bản chất của hoạt động xét xử sơ
  • 32. 32 thẩm vụ án hình sự, đồng thời nó là những căn cứ để phân biệt với hoạt động kiểm sát ở những lĩnh vực khác của VKS. Đặc trưng này được thể hiện ở những đặc điểm sau: a) Phạm vi kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kiểm sát hoạt động tư pháp bắt đầu tiến hành khi các cơ quan tư pháp thực hiện chức năng theo pháp luật TTHS với mục đích bảo đảm các hành vi tố tụng của các chủ thể hoạt động TTHS tuân theo pháp luật. Và chấm dứt khi kết thúc hoạt động TTHS. Đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn rất quan trọng, nơi mà kết quả điều tra, truy tố sẽ được làm rõ nhất. Tại giai đoạn này Tòa án không chỉ tiến hành xét xử để đưa ra bản án mà còn có thể đưa ra các quyền định quan trọng khác như triệu tập những người cần thiết để làm rõ bản chất vụ án, hủy bỏ, thay đổi các biện pháp ngăn chặn mà các cơ quan khác đã áp dụng trước đó v.v... Tất cả những quyết định đó của Tòa án đều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nội dung, kết quả giải quyết vụ án, do đó, để đảm bảo các quyết định của Tòa án được đưa ra và thực hiện đúng pháp luật thì VKS sẽ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án và bên cạnh đó là sự tuân thủ và thực hiện pháp luật của những người tham gia tố tụng xét xử khác. Phạm vi của công tác này bắt đầu từ khi Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án, kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm. b) Đối tượng của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia của nhiều đối tượng tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án nhân dân và VKSND, người tiến hành tố tụng bao gồm: Kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư ký tòa án những người tham gia tố tụng gồm: bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… Khác với các giai đoạn khác của TTHS, đối tượng là chủ thể của xét xử sơ thẩm khá đầy đủ với những quyền
  • 33. 33 và nghĩa vụ pháp lý tương ứng. Tất cả những chủ thể này, khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự đều phải tuân theo và thực hiện những quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật TTHS, do đó sự tuân thủ pháp luật của họ chính là đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử hình sự sơ thẩm. Cụ thể: Đối với những người tiến hành tố tụng VKS phải kiểm sát đảm bảo những người tiến hành tố tụng thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, điều đặc biệt cần phải chú ý đến việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng bởi vì những quyết định của những người tiến hành tố tụng đều ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật của vụ án. Đối với những người tham gia tố tụng như bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc những người đại diện hợp pháp của họ, việc kiểm sát không chỉ đảm bảo họ được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mà còn phải chú ý đến những nội dung yêu cầu của của họ, nếu những nội dung yêu cầu đó là đúng pháp luật thì cần kiểm sát để những yêu cầu của họ được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Đối với người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… việc kiểm sát cần phải đảm bảo họ thực hiện hiện nhiệm vụ một cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật. Như vậy có thể thấy tất cả những quyết định, yêu cầu, hành vi tố tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm của tất cả các đối tượng tố tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm đều thuộc phạm vi kiểm sát của VKSND và vai trò của VKS chính là để đảm bảo mọi quyết định, yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của tất cả các đối tượng tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. c) Nội dung của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Thứ nhất, kiểm sát căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các thủ tục tố tụng trong các bước giải quyết vụ án ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, với nhiệm vụ phải giải quyết mọi vấn đề của vụ án một cách toàn diện và triệt để, pháp luật quy định
  • 34. 34 cụ thể về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án của tòa án và trong từng trường hợp cụ thể, tòa án có thể ra các quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cùng với đó là việc giao các quyết định đó cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ có thể bị tác động rất lớn từ những quyết định này. Nhiệm vụ của VKS là phải kiểm sát tính có căn cứ của những quyết định của Tòa án, Hội đồng xét xử trong giai đoạn này, kiểm sát về thẩm quyền, trình tự ban hành những quyết định của Tòa án và Hội đồng xét xử trong giai đoạn này cũng như kiểm sát xem thủ tục áp dụng các thủ tục tố tụng của Tòa án và Hội đồng xét xử có đảm bảo đúng theo quy định pháp luật hay không. Thứ hai, kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Sau khi hồ sơ được chuyển sang tòa án, thì tòa án là cơ quan có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo. Việc áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn phụ thuộc vào tính chất của vụ án, nhân thân của người phạm tội. Trong số các biện pháp ngăn chặn thì trong giai đoạn xét xử Tòa án chỉ có thể áp dụng các biện pháp như tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. VKS cần phải kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp cũng như thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn, kiểm sát tính có căn cứ và tính hợp pháp, thẩm quyền của việc ra quyết định áp dụng, hủy bỏ, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án, Hội đồng xét xử. Thứ ba, kiểm sát việc ra các quyết định, bản án của Tòa án. Đích đến cuối cùng của giai đoạn xét xử sơ thẩm là việc tòa án ra bản án, quyết định xác định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, lỗi, tính chất lỗi, mức độ thiệt hại, quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp. VKS tiến hành kiểm sát để kịp thời phát hiện những vi phạm, thiếu sót của tòa án việc ra các quyết định, bản án và trong từng trường hợp cụ thể sẽ ban hành kiến nghị, kháng nghị đối với những quyết định, bản án của tòa án nhằm khắc phục những sai phạm này.
  • 35. 35 d) Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự do VKS tiến hành trên cơ sở và phạm vi quy định của pháp luật Sau khi nghiên cứu phạm vi, đối tượng và nội dung của hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, so sánh với hoạt động kiểm sát trong các giai đoạn khác của TTHS thì thấy: Thứ nhất, VKS là cơ quan duy nhất có quyền kiểm sát các quyết định tố tụng của trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của VKS, được quy định trong Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở kế thừa các bản Hiến pháp trước đó và được khẳng định lại trong Hiến pháp năm 2013 (Điều 107). Căn cứ quy định của Hiến pháp và các đạo luật khác như Luật tổ chức VKSND, BLTTHS, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính... và căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, có thể hiểu VKS không chỉ tham gia kiểm sát các quyết định tố tụng của Tòa án, mà còn là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan tư pháp được Hiến pháp và pháp luật quy định có thẩm quyền tham gia vào tất cả các lĩnh vực tố tụng tư pháp (tư pháp hình sự, tư pháp dân sự, tư pháp hành chính…) và tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng (từ giai đoạn xác minh tin báo, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án). Đây là điều kiện quan trọng bảo đảm cho VKS có khả năng giám sát toàn bộ quá trình tố tụng, giám sát toàn bộ quá trình thực hiện quyền tư pháp, là cơ sở quan trọng để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp nói chung và trong hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng. Thứ hai, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn này phải tuân thủ theo đúng các trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, VKS thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Đây là một quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của VKSND. Trong hoạt động của mình, Kiểm sát
  • 36. 36 viên đại diện cho VKSND phải tuân theo các quy định của BLTTHS, Bộ luật Hình sự, Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND và các văn bản khác do VKSNDTC ban hành. Đồng thời Kiểm sát viên phải nhạy bén, linh hoạt, có khả năng tư duy tổng hợp, khả năng lập luận cũng như tranh luận tốt với những người tham gia phiên tòa. Tuy nhiên vai trò của Kiểm sát viên trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không chỉ giới hạn tại phiên tòa, là từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án mà vai trò của Kiểm sát viên tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phải được hiểu theo nghĩa rộng, từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến khi có bản án sơ thẩm. Điều này đảm bảo quy trình hoạt động liên tục và toàn diện của Kiểm sát viên trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS theo luật định. Chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên có thành công hay không chính là nằm ở việc Kiểm sát viên có nhạy bén, áp dụng quy định linh hoạt, có khả năng tư duy tổng hợp những văn bản quy định về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hay không. Thứ ba, Kiểm sát xét xử của VKS là hoạt động đặc trưng giúp Tòa án ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng các quy định của pháp luật. Hoạt động tư pháp hình sự nói chung và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước (ở đây là quyền tư pháp), do vậy, hoạt động tư pháp hình sự phải được thực hiện bởi những cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền tiến hành các hoạt động tố tụng tư pháp. Bên cạnh đó có thể thấy quyền lực nhà nước dù được tổ chức theo nguyên tắc nào, phân công hay phân quyền, đều luôn phải chịu sự giám sát chặt chẽ và toàn diện, nhằm bảo đảm không xảy ra sự lạm quyền. Quyền lực là hiện tượng khách quan trong quan hệ xã hội và nó có xu hướng dễ bị lạm dụng. Vì vậy, cùng với sự thừa nhận quyền lực nhà nước thì phải thiết lập sự giám sát đối với quyền lực nhà nước. Giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước là vấn đề có tính tất yếu khách quan. Ở đâu có quyền lực nhà nước thì ở đó cần có giám sát. Trong điều kiện cụ thể của Nhà nước ta hiện nay, cơ
  • 37. 37 chế đó là hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS. Điều này có mục tiêu bảo đảm cho các cơ quan tư pháp nói chung và tòa án nói riêng thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình; bảo đảm việc xét xử, vụ án được chính xác, giúp Tòa án ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng các quy định của pháp luật, bảo đảm các quyền con người trong các thủ tục tố tụng tư pháp do pháp luật quy định phải được triệt để tôn trọng. Thứ tư, hoạt động kiểm sát của VKS không cản trở hoạt động bình thường của Tòa án và không ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán và hội thẩm về tính chất hoạt động. Do kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS là hoạt động giám sát nhà nước, nên trong hoạt động của mình, VKS chỉ xem xét đối tượng kiểm sát ở góc độ có hợp pháp hay không. Theo qui định của pháp luật, hoạt động kiểm sát xét xử được tiến hành song song với quá trình xét xử của Tòa án, từ khi hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng của VKS được chuyển đến cho đến khi Tòa án ra bản án, quyết định. Khi bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật, VKS có nhiệm vụ kiểm sát bản án quyết định để phát hiện vi phạm (nếu có) để kiến nghị hoặc kháng nghị theo qui định của pháp luật. Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án và của những người tham gia tố tụng. Để thực hiện nhiệm vụ nêu trên, VKS có các quyền hạn như: kiểm sát về thẩm quyền xét xử, thành phần Hội đồng xét xử; các thủ tục tiến hành phiên tòa, các quyết định của Tòa án... Các quyền hạn của VKS nêu trên là cơ sở để xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của Tòa án. Các quyền hạn của VKS chủ yếu mang tính "khuyến nghị", "yêu cầu" mà không có ý nghĩa trực tiếp làm thay đổi các hành vi tố tụng cũng như các phán quyết của Tòa án. Các quyền hạn của VKS mang tính "khuyến nghị" nói trên là cơ sở để Thẩm phán và Hội thẩm xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các hành vi tố tụng và các phán quyết của mình chứ không trực tiếp làm thay đổi các hành vi và phán quyết của Thẩm phán và Hội thẩm. Qua đó
  • 38. 38 cho thấy, hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKS không những không thể làm thay đổi tới nguyên tắc độc lập xét xử, mà còn có ý nghĩa bảo đảm tính độc lập của hoạt động xét xử, loại trừ các yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một dạng giám sát nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khi tham gia hoạt xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Mục đích của kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá xét xử vụ án. VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, cá nhân nào trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở nước ta, hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp chỉ do một chủ thể duy nhất tiến hành, đó là VKS. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về kiểm sát xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là hoạt động tư pháp, do VKS tiến nhằm kiểm tra, giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia hoạt động TTHS theo thủ tục xét xử sơ thẩm, nhằm bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời. 1.3. Ý NGHĨA CỦA KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM 1.3.1. Đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết vụ án Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, các tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, do đó yêu cầu tối cao và cũng là cái
  • 39. 39 mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Chính vì thế vai trò của VKS trong quá trình kiểm sát sự tuân thủ pháp luật trong quá trình xét xử sơ thẩm đảm bảo pháp luật được áp dụng khách quan, độc lập có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua việc kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, những sai lầm, vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án được phát hiện, kiến nghị, kháng nghị, từ đó những vi phạm, sai phạm được khắc phục kịp thời, sự khách quan, minh bạch trong quá trình giải quyết vụ án được bảo đảm. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cũng là một trong những nhiệm vụ của VKS khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự nhằm đảm bảo cho việc xét xử tuân theo những quy định của pháp luật. Kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần hạn chế những sai phạm, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn xét xử, làm cho quá trình giải quyết vụ án được khách quan, minh bạch, đúng pháp luật. 1.3.2. Đảm bảo áp dụng pháp luật thông nhất Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với việc áp dụng pháp luật là phải đảm bảo tính thống nhất, các hoạt động điều tra, xét xử, quyết định trong suốt quá trình tố tụng phải luôn luôn đảm bảo có tính căn cứ và tính hợp pháp. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, trong hoạt động tố tụng vẫn còn có những sai lầm, vi phạm đáng tiếc, việc áp dụng pháp luật còn chưa đồng bộ và thống nhất giữa các cơ quan tố tụng, Do vậy, việc kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp, cũng như sự thống nhất về pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan tố tụng phải được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là trong giai đoạn xét xử không những trước mà cả sau khi bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, khi tham gia tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, cùng với công tác thực hành quyền công
  • 40. 40 tố, VKSND thực hiện việc kiểm sát tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng người, đúng tội, bản án, quyết định của tòa án phải được thực hiện kịp thời đúng theo quy định, tránh tình trạng không thể thực hiện do sự mẫu thuẫn trong việc hiểu, áp dụng những quy định của pháp luật giữa các cơ quan có nhiệm vụ thực hiện bản án, quyết định của tòa án. 1.3.3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa Bảo đảm pháp chế XHCN là nguyên tắc quan trọng không chỉ trong quá trình tố tụng của một vụ án mà còn ở cả những quy định luật chuyên ngành khác. Trong quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan tố tụng tại Việt Nam, đây là nguyên tắc bao trùm nhất, được thể hiện trong tất cả các giai đoạn của TTHS, từ những quy định chung cho đến những quy định cụ thể. Nó cũng là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức và công dân. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế XHCN đảm bảo mọi hoạt động TTHS của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của pháp luật. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm việc bảo đảm pháp chế XHCN chủ yếu tập trung vào việc tuân thủ pháp luật của Tòa án và cơ quan kiểm sát đảm bảo pháp chế XHCN trong giai đoạn này chính là VKS. Mọi quyết định của Tòa án cần phải đảm bảo đúng theo quy định pháp luật để có thể được mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân nghiêm chỉnh chấp hành. Hay nói cách khác, việc kiểm sát xét xử đảm bảo Tòa án thực hiện đẩy đủ và đúng các quyền tố tụng theo quy định của pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình, từ các quy định của pháp luật tố tụng đến các quy định của pháp luật về nội dung. 1.3.4. Bảo đảm xét xử công bằng Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay của các cơ quan tư pháp nói chung và việc xét xử nói riêng đó là phải đảm bảo tính công bằng của pháp luật, việc xét xử của Tòa án là nơi mà sự công bằng luôn được quan tâm đặc biệt. Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các Điều 10 và 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con
  • 41. 41 người 1948 (UDHR). Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 (UDHR) quy định: "Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ" [3, tr. 243], Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 (UDHR) quy định bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể, theo đó: Mọi người bị cáo buộc về hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tòa xét xử công khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình. Không ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành động hoặc sự không hành động nào mà không cấu thành một phạm tội hình sự, theo pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế, vào thời điểm thực hiện. Cũng không ai bị tuyên phạt nặng hơn mức hình phạt được quy định vào thời điểm hành vi phạm tội được thực hiện [3, tr. 259]. Các quy định kể này sau đó được tái khẳng định và cụ thể hóa trong các điều 11, 14 và 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Tại Việt Nam nội dung xét xử đảm bảo công bằng được đề cập tại một số quy định như Điều 12 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định: Tòa án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật [31]. Điều 19 BLTTHS 2003 cũng quy định cụ thể về việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án, theo đó: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
  • 42. 42 của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [28]. Từ những quy định trên có thể thấy vấn đề xét xử đảm bảo công bằng là một vấn đề cấp thiết hiện hay và nhiệm vụ của VKS chính là để đảm bảo cho những hoạt động của tất cả các đối tượng tố tụng được thực hiện một cách công bằng, việc xét xử được áp dụng đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với nội dung hành vi của người bị áp dụng mà không có bất cứ lý do gì có sự thiên vị trái pháp luật giữa những chủ thể tham gia tố tụng. Việc đảm bảo tính công bằng không chỉ thể hiện ở việc vô tư khách quan khi Tòa án ra bản án cuối cùng mà còn ở việc tố tụng của Tòa án với các đối tượng tố tụng khác nhau cũng cẩn phải đảm bảo công khai, khách quan, không thiên vị. Vì vậy việc kiểm sát xét xử sơ thẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo pháp luật được thực hiện một cách công bằng và bình đẳng nhất. 1.3.5. Bảo đảm quyền con ngƣời Quyền con người là một vấn đề quan trọng có tính chất toàn cầu, ở Việt Nam, việc đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp đã được Đảng và Nhà nước ta đặt ra từ những ngày đầu giành được nền độc lập dân tộc và luôn được xác định như một yêu cầu có tính nguyên tắc của nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp của dân, do dân và vì dân. Cùng với các giai đoạn cách cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vấn đề đảm bảo quyền nói chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta đã và đang từng bước được củng cố về mặt lý luận và tôn trọng trong hoạt động thực tiễn, nên đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự công bằng, dân chủ và bình đẳng trong xã hội. Tuy không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường…, nhưng có thể nói quyền con người trong TTHS lại là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương
  • 43. 43 nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân vì thế để đảm bảo quyền con người thì trong giai đoạn xét xử của tòa án không thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo quyền con người. Việc đảm bảo xét xử của tòa án tôn trọng quyền con người, tôn trọng những điều kiện cơ bản nhất của đối tượng bị đem ra xét xử khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật là một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng đối với VKS trong quá trình kiểm sát xét xử sơ thẩm. Việc kiểm sát đảm bảo quyền con người không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sự công bằng mà còn phải đảm những nội dung khác như: việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo có căn cứ, đúng quy định pháp luật, đảm bảo bị cáo được nói lời sau cùng trước khi tuyên án, có quyền tự bào chữa và tranh luận với VKS về nội dung truy tố, đảm bảo việc xét xử được thực hiện với tinh thần "được coi là chưa có tội khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án…". Đây là một trong những nội dung cơ bản của việc kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKS, và việc đảm bảo những quy định nêu trên được thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện quyền con người. 1.4. KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC 1.4.1. Tại Hoa Kỳ Ở quốc gia này, cơ quan Công tố có chức năng chủ yếu là truy tố người phạm tội hình sự và giữ quyền công tố tại Tòa án. Ngoài ra, các cơ quan này còn có thêm chức năng giám sát hoạt động điều tra và giám sát chế độ giam giữ tại các trại giam. Pháp luật Mỹ không quy định về quyền kiểm sát xét xử đối với viện công tố. Hoạt động giám sát tuân thủ pháp luật chỉ thể hiện trong quan hệ với cơ quan điều tra. Viện công tố không thực hiện chức năng giám sát tuân theo pháp luật ở giai đoạn xét xử. Ở giai đoạn này, Viện công tố chỉ thuần túy là một bên tranh tụng bình đẳng với bên bào chữa. Giám sát việc tuân thủ pháp luật của các bên tranh tụng (trong đó có Viện công tố)
  • 44. 44 và những người tham gia phiên tòa do tòa án thực hiện. Hoạt động giám sát tuân theo pháp luật của Viện công tố rất hạn chế. Theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, sở dĩ tại các nước Tây Âu và Mỹ, cơ quan công tố không thực hiện chức năng kiểm sát chung (giám sát việc tuân theo pháp luật) là vì ở đó văn hóa pháp lý đã trở thành nền tảng chung của mọi cơ cấu xã hội và Nhà nước; họ có xã hội dân sự phát triển, xã hội ổn định, vì vậy, năng lực tự điều chỉnh, ý thức tôn trọng pháp luật của người dân cao v.v... Bên cạnh đó, ở quốc gia như nước Mỹ, nơi các truyền thống tự quản địa phương, truyền thống tư tố phổ biến, Tòa án có uy thế nổi trội thì bản thân khái niệm "pháp chế", "tuân thủ pháp luật" cũng không có, bởi hệ thống thông luật chủ yếu là các án lệ nên không cần đến một thiết chế nhà nước như VKS để giám sát việc tuân theo pháp luật. Nhìn chung, ưu điểm nổi bật của việc pháp luật không quy định chức năng Kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Mỹ là làm nổi bật hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự - chức năng buộc tội trong TTHS, nhằm bảo đảm sự tuân thủ Luật hình sự. Đây là lợi ích sống còn và là điều quan tâm nhất của nhà nước. 1.4.2. Tại Trung Quốc Ở Trung Quốc, VKSND là cơ quan tư pháp, được tổ chức thành một hệ thống độc lập. VKS có chức năng thực hành quyền công tố và chức năng giám sát pháp luật của nhà nước nói chung, giám sát các hoạt động tư pháp trong TTHS nói riêng một cách độc lập theo quy định của pháp luật mà không bị can thiệp bởi bất kỳ cơ quan hành chính, tổ chức hoặc cá nhân nào. Tuy nhiên, VKS ở địa phương chịu sự giám sát của Đại hội đại biểu nhân dân địa phương - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Trong đoạn xét xử, VKS có trách nhiệm luận tội và kiểm sát việc xét xử tương tự với chức năng của VKS tại Việt Nam. Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định "Viện kiểm sát nhân dân Trung hoa là cơ quan giám sát pháp luật của Nhà