Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Hoàn thiện pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự trước yêu cầu chiến lược cải cách tư pháp, cho các bạn tham khảo
Luận văn 2024 Tuyển dụng nhân lực tại Công ty cổ phần in Hồng Hà
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM THỊ THANH NHÀN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUY ĐỊNH NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRƢỚC YÊU CẦUCHIẾN LƢỢC CẢI CÁCH TƢ PHÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÂM THỊ THANH NHÀN
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUY ĐỊNH NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRƢỚC YÊU CẦU CHIẾN LƢỢC CẢI CÁCH TƢ PHÁP
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN
HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN
HÌNH SỰ
6
1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn và vị trí vai trò của thẩm
phán trong xét xử vụ án hình sự
6
1.1.1. Khái niệm nhiệm vô, quyền hạn của Thẩm phán 6
1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán 11
1.2. Mối quan hệ của thẩm phán với chánh án và người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng
12
1.3. Nguyên tắc tố tụng hình sự liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn của thẩm phán
17
1.3.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
18
1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án 21
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng hoặc người tham gia tố tụng
24
1.3.4. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực của pháp luật
26
5. 5
1.3.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo
28
1.4. Khái quát các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn
của thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự từ năm 1945 đến
năm 2003
32
1.4.1. Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán từ năm 1945 đến năm 1988
32
1.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo quy định Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988
36
1.5. Mô hình tố tụng hình sự các nước trên thế giới và nhiệm vụ,
quyền hạn của thẩm phán
39
Chương 2: NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN THEO
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG VIỆC XÉT XỬ
VỤ ÁN HÌNH SỰ
50
2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán trong xét xử vụ án hình
sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
50
2.1.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
52
2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm
61
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán trong xét
xử vụ án hình sự
67
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử vụ án hình sự
67
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán
71
6. 6
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong các vụ án hình sự
75
Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤTLƢỢNGXÉTXỬVỤÁNHÌNHSỰCỦATHẨMPHÁN
80
3.1. Những yêu cầu cải cách tư pháp và nâng cao chất lượng xét
xử vụ án hình sự của thẩm phán
80
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án
hình sự của thẩm phán
95
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong Bộ luật tố tụng hình sự
95
3.2.2. Các giải pháp khác 101
KẾT LUẬN 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
7. 7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX : Hội đồng xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
8. 8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số bị cáo đã bị cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đưa ra giải
quyết, xét xử và số người bị kết án oan trên toàn quốc từ
năm 2008 đến năm 2013
68
2.2 Tổng số vụ án hình sự mà cấp sơ thẩm đã giải quyết và tỉ
lệ số vụ án bị hủy, sửa từ năm 2008 đến 2013
71
9. 9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đổi
mới ở nước ta hiện nay. Trong đó, việc xây dựng một nền tư pháp có hiệu lực
và hiệu quả là một yêu cầu cấp bách đáp ứng những đòi hỏi khách quan từ
thực tiễn đúng như Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về "Một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới" đã
đề ra và một lần nữa được khẳng định trong Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020".
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Tòa án là trung tâm, hoạt
động xét xử là trọng tâm đóng vai trò quan trọng, có thể khẳng định Tòa án là
bộ mặt của nền tư pháp ở mỗi quốc gia. Những kết quả trong hoạt động của
Tòa án mà trong đó hoạt động xét xử là thước đo cho tính công bằng và mức
độ đảm bảo các quyền dân chủ và quyền con người. Hoạt động xét xử vụ án
hình sự chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần
vào việc thực hiện pháp luật đảm bảo công bằng và giữ gìn trật tự xã hội, thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật, thái độ đánh giá đúng mức của Nhà nước
đối với những hành vi bị coi là tội phạm qua đó đưa ra mức hình phạt thích đáng
đối với người phạm tội. Người thực hiện công việc để đạt được kết quả đó chính
là Thẩm phán người cầm cân nảy mực và nhân danh Nhà nước để ra phán quyết
cuối cùng đó là bản án cho thật công bằng mà không làm oan sai người vô tội.
Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và thực tiễn xét
xử hình sự nói riêng đang đặt ra những vấn đề lý luận cần nghiên cứu để đưa
ra những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt
động xét xử án hình sự của Thẩm phán, trong đó chủ yếu là nghiên cứu về
việc áp dụng pháp luật, trong thời gian qua có một số công trình nghiên cứu
10. 10
liên quan về áp dụng pháp luật. Tuy nhiên các công trình đó mới chỉ nghiên
cứu ở cấp độ lý luận về vị trí vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự
hoặc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong Bộ luật tố tụng hình
sự (BLTTHS) chứ chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy
đủ và có hệ thống mang tính chuyên sâu về việc Thẩm phán đã áp dụng nhiệm
vụ quyền hạn của mình để thực hiện việc xét xử vụ án hình sự như thế nào
cho đúng và một cách có hệ thống. Để làm cơ sở lý luận cho việc đưa ra
những giải pháp khả thi nhằm nâng cao chất lượng và bảo đảm tính thống
nhất về áp dụng pháp luật trong việc xét xử án hình sự của Thẩm phán.
Thực trạng trên đã đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực
tiễn đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết. Tuy nhiên, có thể khẳng định cho đến
nay chưa cã một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn của Thẩm phán. Đây chính là lý do tác giả chọn đề tài:
"Hoàn thiện pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự trước yêu cầu chiến lược
cải cách tư pháp" làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán là một trong những vấn đề được
giới luật học quan tâm nghiên cứu. Sau khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực
thi hành đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này như:
"Giáo trình luật tố tụng hình sự", của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội;
"Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam", do PGS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004; "Chế định Thẩm phán -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Viện Khoa học pháp lý, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2004; "Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự", của Mai Thanh
Hiếu và Võ Chí Công, Nxb Lao động, Hà Nội; "Cơ sở khoa học của việc xây
dựng đội ngũ Thẩm phán ở nước ta hiện nay", của Đỗ Gia Thư, Luận án tiến
sĩ Luật học; "Về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự trước
11. 11
yêu cầu cải cách tư pháp", của Đặng Mai Hoa, Luận văn thạc sĩ Luật học...
Tuy nhiên, các công trình đó mới nhằm đến những khía cạnh nhất định của
chế định Thẩm phán, chủ yếu dưới góc độ tổ chức và quản lý Thẩm phán
trong hoạt động tố tụng. Hơn nữa các công trình này chưa nghiên cứu và hoàn
thiện những bất cập mà khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán đã
và đang gặp phải, nhất là trong quá trình cải cách hệ thống tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong hoạt động tố tụng hình sự và thực trạng về chất lượng xét xử án
hình sự của Thẩm phán.
Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ
án hình sự của Thẩm phán trong thời gian tới.
Để đạt mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong BLTTHS.
- Thực trạng áp dụng các quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán vào xét xử vụ án hình sự trong từng giai đoạn.
- Các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS về nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và những vấn
đề trong công tác xét xử và áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự
của Thẩm phán trong cả hai cấp xét xử.
Trên cơ sở mục đích, đối tượng nghiên cứu đã xác định phạm vi
nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề tố tụng hình sự liên
quan đến nhiêm vụ, quyền hạn của Thẩm phán và thực tiễn áp dụng.
12. 12
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phân tích và tổng hợp, lịch sử. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương
pháp của các bộ môn khoa học khác.
Hệ thống các phương pháp trên được sử dụng cụ thể như sau: Phương
pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để giải quyết nhiệm vụ đặt ra ở cả
hai chương, trong đó Chương 1 chủ yếu vận dụng phương pháp phân tích và
tổng hợp; ở Chương 2, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương
pháp lịch sử cụ thể là phương pháp được sử dụng chủ yếu để đảm bảo đánh
giá thực trạng một cách khách quan và toàn diện.
Ngoài ra, các phương pháp thống kê, điều tra xã hội học (phỏng vấn
trực tiếp) cũng được sử dụng để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu, đảm bảo sự
gắn kết và tính liên thông của toàn bộ nội dung luận văn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Từ kết quả đạt được, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau:
Luận văn lần đầu tiên đưa ra những luận cứ khoa häc để làm sáng tỏ
một cách hệ thống vấn đề thực trạng mà Thẩm phán đã và đang xét xử vụ án
hình sự trong những năm qua và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng xét xử vụ án hình sự được tốt hơn để từ đó có thể giúp cho Thẩm phán
xét xử vụ án hình sự được tốt hơn và đúng trình tự mà Nghị quyết 49-NQ/TW
đã đề ra để cải cách nền tư pháp vững mạnh.
1. Phân tích làm rõ những kết quả, hạn chế, nguyên nhân của những
hạn chế trong việc xét xử vụ án hình sự trong thời gian qua của Thẩm phán.
2. Đề xuất và luận chứng một cách đồng bộ các giải pháp kết hợp có
hiệu quả trong chất lượng xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán.
13. 13
7. Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần xây dựng hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong
chất lượng xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán.
Luận văn có thể được xây dựng làm cơ sở hình thành nên các chính
sách nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng xét xử vụ án hình sự của Thẩm phán.
Luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và trong công
tác xét xử những vụ án hình sự mà các Thẩm phán của ngành Tòa án đang
phải giải quyết.
Luận văn giúp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các Thẩm
phán trong khi giải quyết những vụ án hình sự phải giải quyết hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong xét xử vụ án hình sự.
Chương 2: Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và thực tiễn áp dụng trong việc xét xử vụ
án hình sự.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng xét
xử vụ án hình sự của Thẩm phán.
19. 19
1.1.2. Vị trí, vai trò của Thẩm phán
Kết quả hoạt động của Toà án là sản phẩm của toàn bộ hoạt động tư
pháp. Toà án thực hiện được chức năng xét xử của mình thông qua hoạt động
của những con người cụ thể. Trong Toà án có rất nhiều chức năng như Thẩm
phán, Thư ký toà án, Thẩm tra viên, Cán bộ văn phòng... nhưng chỉ có duy
nhất Thẩm phán mới được pháp luật trao cho quyền xét xử. Cho dù bộ máy
của Toà án được tổ chức quy mô đến mấy thì tất cả những yếu tố đó đều chỉ
phục vụ cho hoạt động xét xử. Trước đây, khi chưa có sự tách biệt giữa ba
quyền tư pháp, hành pháp, lập pháp thì nhà vua chính là quan toà, là người xét
xử tối cao. Đến khi cách mạng tư sản ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng
mới về tư tưởng. Chính điều này đã hình thành nên một nhánh quyền lực độc
lập đó là tư pháp và cũng từ đó hình thành nên một đội ngũ quan chức mới
trong bộ máy nhà nước. Đó là những con người làm công tác tư pháp nói
chung và công tác xét xử nói riêng.
Hoạt động xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua HĐXX trong
đó Thẩm phán là nhân vật trung tâm. Thẩm phán là những người có vai trò
chủ yếu trong công tác xét xử. Thông qua hoạt động xét xử của chính mình,
Thẩm phán góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người dân. Mỗi một phán quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới chỗ công dân,
pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất
định đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự, phán quyết của Thẩm phán dẫn đến
hậu quả pháp lý vô cùng nghiêm trọng đối với người bị kết án. Sai lầm trong
hoạt động xét xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai. Điều này
không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng tin của quần
chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà nước ta.
Khác với công việc khác, để đưa ra được một phán quyết thấu tình đạt
lý, Thẩm phán phải huy động nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự am
hiểu về pháp luật, sự am hiểu về thực tế, tích lũy kiến thức về xã hội, tâm sinh
20. 20
lý của từng cá thể, lương tâm của người Thẩm phán. "Cơ sở của các phán quyết
là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách
quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng" [32, tr. 38],
chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp của Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho phán quyết của
Thẩm phán thấu tình đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải có niềm tin nội
tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì cho hệ thống pháp luật có hoàn hảo,
đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ sự liệu hết được mọi tình
huống xảy ra trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp luật còn chồng chéo,
không đồng bộ, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét
xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Và đặc biệt là phải đảm bảo công
lý. Trong con mắt của người dân, Toà án không chỉ là bảo vệ pháp luật mà
còn là biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội. Khi phải đối mặt với quan
toà, với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Toà án là
người đại diện của công lý và quan toà là căn cứ công lý.
Bëi vËy, c«ng viÖc cña ng-êi ThÈm ph¸n hÕt søc nÆng nÒ vµ nguy
hiÓm nh-ng còng kh«ng kÐm phÇn vinh quang. Ph-¬ng diÖn ho¹t ®éng cña
ThÈm ph¸n lµ xÐt xö, chøc n¨ng cña ThÈm ph¸n cũng lµ xÐt xö, ®Ó thùc hiÖn
®-îc chøc n¨ng nµy ph¸p luËt n-íc ta ®· cô thÓ hãa trong ph¸p luËt cấu thµnh
nhiÖm vụ, quyÒn h¹n cña ThÈm ph¸n. Nh×n vµo nhiÖm vô, quyÒn h¹n cña
ThÈm ph¸n mµ ph¸p luËt tè tông h×nh sù quy ®Þnh cho hä ®· thÓ hiÖn râ m«
h×nh ng-êi ThÈm ph¸n.
Từ phân tích trên, chúng ta nhận thấy rất rõ vai trò của Thẩm phán
trong hoạt động xét xử cũng như trong hoạt động tư pháp hình sự.
1.2. MỐI QUAN HỆ CỦA THẨM PHÁN VỚI CHÁNH ÁN VÀ NGƢỜI
TIẾN HÀNH TỐ TỤNG, NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG
Mèi quan hÖ cña ThÈm ph¸n trong c«ng t¸c cã hai d¹ng ®ã lµ: Mèi quan
hÖ hµnh chính vµ mèi quan hÖ tè tông. Trong ®ã mèi quan hÖ tè tông gåm cã:
23. 23
ký lµ mèi quan hÖ ®-îc ®iÒu chØnh b»ng ph¸p luËt tè tông nã chØ ph¸t sinh
trong qu¸ tr×nh gi¶i quyÕt vô ¸n h×nh sù. ThÈm ph¸n kh«ng ph¶i lµ thñ tr-ëng
cña Th- ký cßn Th- ký còng kh«ng ph¶i lµ Th- ký riªng cña ThÈm ph¸n. Tuy
nhiªn Th- ký lµ ng-êi gióp viÖc cho ThÈm ph¸n thùc hiÖn nh÷ng t¸c nghiÖp
trong qu¸ tr×nh gi¶i quyÕt vô ¸n do ®ã Th- ký ph¶i chÞu sù gi¸m s¸t, ®«n ®èc,
h-íng dÉn cña ThÈm ph¸n nh»m thùc hiÖn ®óng c¸c quy ®Þnh cña ph¸p luËt.
Trong giai ®o¹n chuÈn bÞ xÐt xö, Th- ký ph¶i gióp viÖc cho ThÈm ph¸n mét sè
t¸c nghiÖp nh- triÖu tËp nh÷ng ng-êi tham gia tè tông ®Õn phiªn tßa, giao lÖnh
trÝch xuÊt cho tr¹i t¹m giam, giao quyÕt ®Þnh ®-a vô ¸n ra xÐt xö cho bÞ c¸o,
chuÈn bÞ héi tr-êng xÐt xö... §èi víi vô ¸n lín hay vô ¸n xÐt xö l-u ®éng Th-
ký cßn gióp ThÈm ph¸n tæ chøc häp ba ngµnh liªn quan, chuÈn bÞ ®Þa ®iÓm xÐt
xö ®Ó ®¶m b¶o cho phiªn tßa ®¹t kÕt qu¶ cao. Trong tr-êng hîp cÇn thiÕt ph¶i
cã Gi¸m ®Þnh viªn, ng-êi Phiªn dÞch t¹i phiªn tßa th× Th- ký ph¶i liªn hÖ víi
c¸c c¬ quan, tæ chøc nµy ®Ó mêi Gi¸m ®Þnh viªn, ng-êi phiªn dÞch tham gia
phiªn tßa theo quy ®Þnh cña ph¸p luËt. NhiÖm vô chÝnh vµ quan träng nhÊt cña
Th- ký ®-îc thÓ hiÖn t¹i phiªn tßa ®ã lµ ghi biªn b¶n phiªn tßa. T¹i phiªn tßa
Th- ký ph¶i phæ biÕn néi quy phiªn tßa vµ s¾p xÕp chç ngåi cho nh÷ng ng-êi
tham gia tè tông ®-îc triÖu tËp ®Õn phiªn tßa. B¸o c¸o cho HĐXX biÕt sù cã
mÆt vµ v¾ng mÆt cña ng-êi tham gia tè tông ®Ó HĐXX quyÕt ®Þnh ho·n phiªn
tßa hay kh«ng. Th- ký cßn gióp ThÈm ph¸n ban hµnh mét sè quyÕt ®Þnh vÝ dô
nh- quyÕt ®Þnh t¹m giam, quyÕt ®Þnh tr¶ tù do cho bÞ c¸o, quyÕt ®Þnh ho·n
phiªn tßa... NhiÖm vô ghi biªn b¶n phiªn tßa cña Th- ký ph¶i thÓ hiÖn chÝnh
x¸c, cÈn thËn, ph¶n ¸nh trung thùc, ®Çy ®ñ diÔn biÕn t¹i phiên toà là điều vô
cùng quan trọng. Thư ký và Thẩm phán phối hợp với nhau tránh tình trạng
hoãn phiên tòa do lỗi chủ quan, đảm bảo tính nghiêm trang tại phiên tòa.
Mối quan hệ của Thẩm phán với Kiểm sát viên giữ quyền công tố:
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có mặt ở tất cả các giai đoạn tố tụng từ
điều tra, truy tố, xét xử đều đóng vai trò rất quan trọng, bởi vì Viện kiểm sát
được giao một chức năng không có chủ thể nào có được đó là chức năng kiểm
24. 24
sát tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện chức năng này để đảm bảo việc tuân thủ
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Trong
mối quan hệ với Thẩm phán, Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa có
nhiệm vụ tiến hành các hoạt động kiểm sát xét xử, giám sát HĐXX trong việc
thực hiện các nguyên tắc và trình tự tố tụng theo quy định của pháp luật. Kết
thúc điều tra hồ sơ vụ án được chuyển sang Viện kiểm sát căn cứ vào kết quả
đã điều tra Kiểm sát viên có quyền lập ra bản cáo trạng và tham gia phiên tòa
sơ thẩm, phúc thẩm để buộc tội bị cáo,có quyền xét hỏi, tranh luận, rút một
phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa. Sự thật khách quan có
được làm rõ hay không điều đó phụ thuộc rất nhiều vào Thẩm phán và Kiểm
sát viên khi đưa ra các tài liệu chứng cứ để kiểm tra tại phiên tòa. Tại phiên
tòa Kiểm sát viên phải tuân theo sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa về mặt
trình tự tố tụng.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Luật sư: Luật tố tụng hình sự quy
định sự tham gia của Luật sư, Bào chữa viên nhân dân trong quá trình Tòa án
giải quyết vụ án. Luật sư góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Họ có
quyền tham gia vào quá trình tố tụng để giúp thân chủ của họ bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp. Họ có quyền nghiên cứu hồ sơ, sao chép các tài liệu cần
thiết trong hồ sơ vụ án, được biết về thời gian địa điểm mở phiên tòa. Thẩm
phán tạo điều kiện cho Luật sư thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật. Luật sư có quyền được xét hỏi, tranh luận. Thẩm phán đảm bảo
về mặt thời gian tạo điều kiện cho Luật sư thực hiện các quyền của mình.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với người giám định, người phiên dịch:
Khi vụ án thấy cần thiết phải trưng cầu giám định về một vấn đề nào đó trong
vụ án. Thẩm phán sẽ chủ động liên hệ với cơ quan giám định thông qua công
văn để họ cử Giám định viên thực hiện yêu cầu giám định. Thẩm phán phải
đưa ra quyết định trưng cầu giám định và Giám đinh viên có quyền tìm hiểu
tài liệu vụ án có liên quan đến đối tượng giám định, yêu cầu Thẩm phán phải
cung cấp các tài liệu cần thiết, tham gia vào xét hỏi và đặt câu hỏi liên quan
25. 25
đến đối tượng giám định tại phiên tòa. Còn đối với người phiên dịch trong
trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt thì Thẩm
phán phải mời người phiên dịch cho họ (trong trường hợp họ không có thỏa
thuận lựa chọn người phiên dịch) Thẩm phán phải giải thích rõ cho phiên dịch
những vấn đề cần phiên dịch. Trong luật không quy định việc người phiên
dịch phải nghiên cứu hồ sơ nhưng trong thực tiễn thì Thẩm phán phải tạo điều
kiên cho họ nghiên cứu hồ sơ để hiểu thêm về vấn đề chuyên môn và các từ
thuật ngữ luật và khái niệm pháp lý.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác: Đây là mối quan hệ tố tụng phát sinh khi giải quyết vụ án hình sự.
Quyền và nghĩa vụ của bị cáo, và những người tham gia tố tụng được quy
định rất rõ và cụ thể trong BLTTHS. Trước pháp luật họ đều được đối xử một
cách công bằng, Thẩm phán phải xử sự đúng mực tôn trọng ý kiến của bị cáo
và những người tham gia tố tụng, không áp đặt chủ quan những mặc cảm ban
đầu có thể dẫn đến định kiến làm sai lệch vụ án, tại phiên tòa bị cáo và những
người tham gia tố tụng phải tuân theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
1.3. NGUYÊN TẮC TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN QUAN ĐẾN NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN
Nguyên tắc hoạt động của Thẩm phán là những tư tưởng, quan điểm
chỉ đạo chi phối toàn bộ quá trình xét xử của Thẩm phán. Trong quá trình tiến
hành tố tụng, Thẩm phán phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc cơ bản
của luật tố tụng hình sự như nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc đảm bảo
quyền bình đẳng của một công dân trước pháp luật và trước toà án, nguyên
tắc xác định sự thật khách quan của vụ án… trong số 12 nguyên tắc cơ bản
của luật tố tụng hình sự thì các nguyên tắc về xét xử chỉ chi phối rất mạnh đến
nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán, đó là: nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xác định sự thật
của vụ án, nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng
26. 26
hoặc của những người tham gia tố tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên
tắc quyền bảo đảm của bị can, bị cáo.
1.3.1. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Đây là một nguyên tắc hiến định không chỉ được quy định trong Hiến
pháp nước ta mà còn được quy định trong hiến pháp của nhiều nước trên thế
giới. Việc nghiên cứu về nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa đối với các cơ
quan và cán bộ làm công tác tư pháp mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà
nước khác. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì chỉ có Toà án mới có
quyền xét xử. Ngoài Toà án không một cơ quan nhà nước nào khác tự nhận về
mình chức năng xét xử và cũng không có quyền can thiệp bằng cách này hay
cách khác vào hoạt động xét xử của Toà án. Nội dung của nguyên tắc này là
đảm bảo tính khách quan, công bằng trong các quyết định do Toà án đưa ra đề
cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm.
Nguyên tắc này được thể hiện ở hai khía cạnh độc lập với các yếu tố
bên ngoài và độc lập với các yếu tố bên trong. Độc lập với các yếu tố bên
ngoài khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc vào các quyết
định hoặc các kết luận của cơ quan điều tra (tức là độc lập với hồ sơ vụ án),
độc lập với kết luận của Viện kiểm sát (tức là độc lập với bản cáo trạng và
quyết định truy tố của Viện kiểm sát). Tại phiên toà, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không chỉ căn cứ
vào hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo
trạng. Bản án của Toà án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem
xét thẩm vấn tại phiên toà. HĐXX dựa vào những kết quả phiên toà, đối chiếu
với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý
kiến của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Không một ai, không một cơ quan
tổ chức nào có quyền can thiệp hay dùng áp lực tác động hoạt động xét xử của
Thẩm phán và Hội thẩm. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm
27. 27
nhân dân có thể tham khảo lắng nghe ý kiến của bất cứ ai nhưng trong hoạt
động nghề nghiệp phải luôn thể hiện bản lĩnh của mình để xem xét mọi vấn đề
một cách độc lập, không được để cho các ý kiến của bên ngoài làm thay đổi
quyết định của mình.
Ngoài ra, tính độc lập còn được thể hiện ngay trong mối quan hệ giữa
các thành viên trong HĐXX. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau trong
suy nghĩ, trong việc xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết
luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm, không bị lệ thuộc vào
quan điểm chính kiến của các thành viên khác trong HĐXX. Theo quy định
tại Điều 185 và Điều 244 của BLTTHS 2003 thì việc xét xử sơ thẩm hoặc
trong những trường hợp đặc biệt của xét xử phúc thẩm thành phần HĐXX
gồm có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Tuy là những người bán chuyên
nghiệp nhưng khi thực hiện quyền xét xử, Hội thẩm độc lập với Thẩm phán.
Để đảm bảo được điều này, pháp luật tố tụng hình sự quy định Thẩm phán là
người phát biểu sau cùng để không ảnh hưởng đến tính độc lập của Hội thẩm.
Các vấn đề vụ án đều được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa
số người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản
và được lưu vào hồ sơ vụ án.
Sự độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử còn được thể hiện
trong quan hệ giữa Toà án cấp trên với Toà án cấp dưới. Đây là mối quan hệ
tố tụng, Toà án cấp dưới xét xử độc lập không chịu sự lãnh đạo chỉ đạo hành
chính của Toà án cấp trên. Toà án cấp trên không thể ra lệnh hoặc bằng các
biện pháp hành chính buộc Toà án cấp dưới xét xử theo ý mình. Toà án cấp
trên chỉ có quyền quản lý về mặt con người đối với Toà án cấp dưới, còn về
chuyên môn đường lối giải quyết từng vụ án cụ thể thì Toà án cấp trên cũng
không có quyền can thiệp. Toà án cấp trên không được định hướng hoặc gợi ý
cho Toà án cấp dưới chỉ là sự giải thích về mặt pháp lý để đảm sự thống nhất
và đồng bộ khi áp dụng quy định pháp luật vào trong công tác xét xử.
28. 28
Nguyên tắc độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm không có mâu thuẫn
với nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện bằng việc Đảng
đưa ra quan điểm, nguyên tắc định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp nói chung và
cơ quan Tòa án nói riêng là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, về tổ chức cán bộ.
sự lãnh đạo của Đảng không làm giảm đi tính độc lập của Toà án. Đảng
không can thiệp vào từng vụ án hay không ra chỉ thị về mức án cụ thể mà chỉ
ra đường lối xét xử trong từng giai đoạn. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã chỉ rõ: Đảng không cho phép bất cứ ai dựa
vào quyền thế để làm trái luật, mọi vi phạm đều đưa ra xử lý theo pháp luật,
không được giữ lại để xử lý nội bộ, không làm theo kiểu phong kiến, dân thì
phải chịu hình phạt, quan thì xử theo lễ. phải nghiêm trị tất cả kẻ phạm tội bất
kỳ ở cương vị nào và phải đảm bảo công bằng về quyền và nghĩa vụ của công
dân. Đảng ta đã xác định "khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật" là một trong những đảm bảo cần thiết để nâng
cao hiệu quả xét xử của Toà án đồng thời nó cũng là trách nhiệm nặng nề của
Toà án.
Sự độc lập ở đây không có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm được xét
xử tuỳ tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Nó đòi hỏi Thẩm phán và
Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh
nào đối với pháp luật, không tha thứ cho bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật
nào. Điều này có ý nghĩa khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ,
phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án. Pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự là những chuẩn mực, căn cứ để Thẩm phán và Hội
thẩm xem xét đối chiếu với sự việc thực tế xảy ra. Trên cơ sở các quy định đó,
HĐXX sẽ đưa ra các phán quyết của mình về hành vi phạm tội của bị cáo một
cách chính xác phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án.
Như vậy Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử nhưng độc lập
trong khuôn khổ và tuân theo pháp luật. Độc lập là điều kiện để Hội đồng xét
29. 29
xử tuân theo pháp luật. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm
phán, Hội thẩm độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc
nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến tình trạng xét xử
độc đoán.
1.3.2. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Xác định sự thật vụ án là quá trình chứng minh tội phạm, trong chủ
thể có trách nhiệm chứng minh dựa trên phương tiện chứng minh là chứng cứ
tái hiện hành vi bị coi là tội phạm một cách khách quan, chân thật đúng như
nó đã xảy ra. vấn đề đặt ra là: Chủ thể nào có trách nhiệm phải xác định sự
thật của vụ án và cách thức, yêu cầu của việc xác định sự thật của vụ án và
cách thức, yêu cầu của việc xác định sự thật của vụ án như thế nào? Đây là
những vấn đề đặc biệt quan trọng và phải được luật định, bởi vì giải quyết
những vấn đề này là làm rõ hình thức tố tụng, yêu cầu, mục đích và nhiệm vụ
của các hoạt động tố tụng.
Xác định sự thật của vụ án đã được quy định là nguyên tắc cơ bản quy
định tại Điều 10 BLTTHS năm 2003. nội dung của nguyên tắc này thể hiện
như sau:
Trách nhiệm xác định sự thật của vụ án, còn gọi là trách nhiệm chứng
minh tội phạm, thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát và Toà án.
Nội dung này của nguyên tắc đã được xác định rõ trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về Nhà nước, thông qua các cơ quan tiến hành tố tụng.
Khi có tội phạm xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm
thực hiện tất cả các hoạt động tố tụng cần thiết theo quy định để phát hiện tội
phạm và xử lý đối với người phạm tội, đảm bảo nguyên tắc là mọi hành vi
phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo
đúng pháp luật. nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được bị
can, bị cáo có tội thì có nghĩa là họ vô tội, khi đó tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn
30. 30
tố tụng phải ra các quyết định như quyết định đình chỉ điều tra, quyết định
đình chỉ vụ án hoặc ra bản án tuyên bị cáo không phạm tội; nếu bị can, bị cáo
đang bị tạm giam thì phải trả tự do ngay cho bị can, bị cáo.
Việc xác định sự thật của vụ án chỉ được tiến hành bằng các biện pháp
hợp pháp.
Nội dung này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được phép áp
dụng các biện pháp đã được quy định trong BLTTHS để xác định sự thật của
vụ án. Khi áp dụng các biện pháp này, các cơ quan tiến hành tố tụng phải triệt
để tuân thủ các quy định của BLTTHS về việc áp dụng biện pháp đó.
Sự thật của vụ án phải được xác định một cách khách quan, toàn diện
và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô
tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo.
Đây là yêu cầu đảm bảo cho vụ án được xác định đúng sự thật. Yêu
cầu xác định sự thật vụ án một cách khách quan đòi hỏi cơ quan và người tiến
hành tố tụng trong quá trình chứng minh tội phạm phải tôn trọng sự thật
khách quan, không được thiên vị, định kiến cá nhân, không được suy luận
theo ý chí chủ quan mà không dựa vào những chứng cứ của vụ án. Yêu cầu
xác định sự thật vụ án một cách toàn diện đòi hỏi cơ quan và người tiến hành
tố tụng không chỉ tiến hành hoạt động chứng minh tội phạm theo một hướng,
một khả năng duy nhất mà phải làm rõ những chứng cứ buộc tội và chứng cứ
gỡ tội, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can,
bị cáo. Yêu cầu xác định vụ án một cách đầy đủ đòi hỏi cơ quan người tiến
hành tố tụng phải làm sáng tỏ tất cả các vấn đề của vụ án, như: Có hành vi
phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và các tình tiết khách của hành
vi phạm tội; ai là người thực hiện tội phạm; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý
hay vô ý; mục đích hoặc động cơ phạm tội; các tình tiết tăng nặng và giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự; các đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo…
31. 31
Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô
tội [3].
Quyền được chứng minh để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân bị can, bị cáo không chỉ được ghi nhận trong nguyên tắc mà còn
được cụ thể hoá thành các quyền tố tụng của bị can, bị cáo. BLTTHS quy
định bị can, bị cáo có quyền bào chữa, quyền đưa ra chứng cứ và yêu cầu để
chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi bị can, bị cáo
không đưa ra được chứng cứ là mình vô tội không có nghĩa là họ có tội, vì bị
can, bị cáo không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong thực tiễn các hoạt động tố tụng, đây là một trong các nguyên tắc
bị vi phạm nhiều nhất, phổ biến là vi phạm yêu cầu xác định sự thật vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, dẫn đến nhiều vụ án oan, sai. Có không
ít người tiến hành tố tụng có định kiến với bị can, bị cáo hoặc chỉ dựa vào ý
chí chủ quan để kết luận các vấn đề của vụ án mà không dựa trên những
chứng cứ có giá trị chứng minh. Chẳng hạn, đối với bị can, bị cáo có nhân
thân xấu, có tiền án hoặc tiền sự. người tiến hành tố tụng hình sự thường vội
vàng kết luận họ phạm tội mặc dù chưa có chứng cứ thuyết phục để chứng
minh. Hay trong những vụ án phạm tội quả tang, những vụ án mà bị can, bị
cáo đã nhận tội, người tiến hành tố tụng rất dễ có thái độ chủ quan, dẫn đến
việc không tiến hành đầy đủ các biện pháp điều tra cần thiết theo quy định
hoặc không chú ý thu thập chứng cứ gỡ tội và những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tình trạng các vụ án sau khi kết thúc điều tra
và đã có đề nghị truy tố hoặc sau khi đã có quyết định truy tố nhưng bị Viện
kiểm sát hay Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại Điều 168
và Điều 179 BLTTHS hoặc các bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, bị Toà án phúc thẩm huỷ để điều tra lại hoặc xét xử lại theo Điều 248
BLTTHS xẩy ra tương đối nhiều; có vụ án phải tiến hành điều tra bổ sung
nhiều lần khiến thời gian giải quyết vụ án kéo dài, xâm phạm đến lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng và gây bức xúc trong dư luận, gây tốn
32. 32
kém về thời gian và các chi phí, nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do
quá trình xác định sự thật của vụ án đã không đảm bảo yêu cầu đầy đủ, tức là
không chứng minh đầy đủ những vấn đề của vụ án theo quy định.
Để việc xác định sự thật vụ án trong thực tiễn các hoạt động tố tụng
được thực hiện đúng như nội dung và yêu cầu ghi nhận trong nguyên tắc,
ngoài các biện pháp chung như tăng cường công tác kiểm sát các hoạt đông tố
tụng của Viện kiểm sát và công tác giám sát của các cơ quan, tổ chức và đại
biểu dân cử theo quy định hay Toà án cấp trên phải thực hiện tốt hoạt động
giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới, các cơ quan có thẩm quyền cần
phải đặc biệt chú ý đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ những người
tiến hành tố tụng không chỉ nắm vững các quy định của pháp luật mà còn phải
có khả năng tư duy và tinh thông các kỹ năng của nghề nghiệp. Đây là một
đảm bảo quan trọng để các vụ án trong thực tế được xác định một cách chân
thật và đúng quy định.
1.3.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố
tụng hoặc ngƣời tham gia tố tụng
Sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc những người tham
gia tố tụng là một đòi hỏi quan trọng để quá trình giải quyết vụ án hình sự
được khách quan và đúng đắn. Chính vì vậy đảm bảo sự vô tư của những
người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng được quy định là một
nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS.
Điều 14 BLTTHS năm 2003 quy định:
Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện trưởng, Phó viện trưởng viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án,
Phó chánh án toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà án không
được tiến hành tố tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không
được tham gia tố tụng nếu có lý do xác đáng để cho rằng họ có thể
không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình [23].
33. 33
Như vậy để đảm bảo sự vô tư của những người tiến hành tố tụng hoặc
người phiên dịch và người giám định (người phiên dịch và người giám định là
những người không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, tham gia tố tụng
là để giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết đúng đắn vụ án, do vậy sự
vô tư của họ khi thực hiện nhiệm vụ cũng có ý nghĩa quan trọng đến việc giải
quyết vụ án), BLTTHS đã không cho phép những người này được tiến hành
tố tụng hoặc tham gia tố tụng, nếu thấy họ có khả năng không vô tư khi thực
hiện nhiệm vụ của mình. Để thực hiện nguyên tắc này, BLTTHS năm 2003 đã
có những quy định cụ thể những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người
tiến hành tố tụng (Điều 42) và việc từ chối hoặc thay đổi đối với từng người
tiến hành tố tụng (Điều 44, Điều 45, Điều 46, Điều 47); trường hợp phải từ
chối hoặc thay đổi người giám định, người phiên dịch (Điều 60 và Điều 61)
đồng thời BLTTHS cũng có nhiều quy đinh khác về quyền đề nghị thay đổi
và thẩm quyền, thủ tục tiến hành giải quyết việc thay đổi người tiến hành tố
tụng và người giám định, nguời phiên dịch. Để cụ thể hoá những trường hợp
có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ của những người tiến hành tố tụng và
người giám định và người phiên dịch Hội đồng thẩm phán TANDTC đã có
nghị quyết hướng dẫn về vấn đề này; đồng thời TANDTC và các cơ quan
khác như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cũng
ban hành các nghị quyết hoặc thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể các quy
định của BLTTHS năm 2003 về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thay đổi người
tiến hành tố tụng
Trong thực tiễn các hoạt động tố tụng, không phải là cơ quan và người
tiến hành tố tụng nào cũng thực hiện tốt nguyên tắc này. Đã có những vụ án bị
Toà án phúc thẩm hoặc Toà án cấp trên xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
hủy để điều tra lại, xét xử lại do có vi phạm nguyên tắc đảm bảo sự vô tư của
những người tiến hành tố tụng và người giám định, người phiên dịch. thực tế
hay xảy ra các vi phạm như: những người tiến hành tố tụng được phân công
tiến hành giải quyết vụ án thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng
34. 34
nhưng họ không từ chối, trong khi những người có quyền đề nghị thay đổi họ
có quyền quyết việc thay đổi không biết đuợc việc này. Nhiều trường hợp
người tiến hành tố tụng hoặc người giám định, người phiên dịch có căn cứ rõ
rang là họ có thể không vô tư khi thực hiện nhiệm vụ và đã bị đề nghị thay đổi
theo quy định nhưng có thẩm quyền quyết định việc thay đổi không chấp
nhận, vì cho rằng không có căn để thay đổi.
1.3.4. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chƣa có bản án kết
tội của Toà án đã có hiệu lực của pháp luật
Đây là nguyên tắc quan trọng thể hiện sự bảo đảm về quyền con người
và tính nhân đạo trong các hoạt động tố tụng hình sự. Trong bản Tuyên ngôn
thế giới về nhân quyền của liên hợp quốc năm 1948 quy định "Mỗi bị can dù
đã bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là
phạm tội theo luật pháp tại một phiên toà xét xử công khai với mọi bảo đảm biện
hộ cần thiết" đây cũng là nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 72
Hiến pháp năm 1992.
Nội dụng của nguyên tắc này được quy định như sau:
Chỉ có Toà án là cơ quan duy nhất có quyền kết tội và áp dụng hình
phạt đối với một người bằng một bản án hợp pháp và có hiệu lực pháp luật;
cho đến trước khi bị kết tội, mọi nghi ngờ trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị truy cứu trách nhiệm
hình sự (do nội dung này nên có quan điểm gọi nguyên tắc này là nguyên tắc
suy đoán vô tội).
Với tính chất là một nguyên tắc cơ bản được quy định trong BLTTHS
nguyên tắc "không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã
có hiệu lực pháp luật " có ý nghĩa quan trọng, chi phối đến toàn bộ quá trình
tố tụng, thể hiện:
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
nếu không chứng minh được bị can, bị cáo phạm tội thì có nghĩa bị can, bị
35. 35
cáo không phạm tội; bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng
minh mình vô tội;
Cho đến trước khi bị Toà án kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực
pháp luật, các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải coi bị can, bị cáo là
người chưa phạm tội, mặc dù khi các cơ quan này ra quyết định khởi tố bị
can, quyết định truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử phải dựa trên các
căn cứ theo quy định. Điều đó buộc các cơ quan và người tiến hành tố tụng
không được định kiến bị can, bị cáo là người có tội; phải áp dụng mọi biện
pháp theo luật định để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ, phải làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô
tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị can, bị cáo. Trong quá trình tố tụng mọi nghi ngờ đều phải được giải
thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Các cơ quan và người tiến hành tố
tụng cũng như bất kể cơ quan, tổ chức, cá nhân nào cũng phải có cư xử phù
hợp với bị can, bị cáo với tư cách là người chưa bị coi là có tội;
Hoạt động xét xử của Toà án có vai trò quan trọng và quyết định đến
việc kết tội một người, vì chỉ có Toà án mới có thẩm quyền này. Điều đó đòi
hỏi hoạt động xét xử phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật; Việc
phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yêu vào kết quả tranh tụng tại phiên
toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của tất cả các
bên tham gia tố tụng; bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án.
Trong thực tiễn các hoạt động tố tụng, không phải cơ quan và người
tiến hành tố tụng nào cũng tuân thủ đúng nguyên tắc này. Việc coi bị can, bị
cáo như một người đã có tội mặc dù chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của
Toà án không phải là hiếm trong tư duy của không ít những người tiến hành
tố tụng, kể cả đối với Thẩm phán được giao xét xử vụ án. Điều đó khiến cho
những người tiến hành tố tụng có những định kiến với bị can, bị cáo, dẫn đến
việc điều tra, truy tố, xét xử được Tiến hành không đúng với yêu cầu khách
36. 36
quan, toàn diện, đầy đủ; đã có nhiều vụ án oan, sai xảy ra do chính sai lầm
của những người tiến hành tố tụng khi cho rằng đã có đủ cơ sở để chứng minh
bị can, bị cáo phạm tội, vì vậy không cần phải tiến hành các hoạt động chứng
minh cần phải tiến hành các hoạt động chứng minh cần thiết hoặc mọi suy
đoán đều theo hướng này.
1.3.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của ngƣời bị tạm giữ,
bị can, bị cáo
Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng nhất của những
người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) thể hiện tính nhân đạo và
việc đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự; đồng thời cũng là sự
đảm bảo quan trọng để các hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành một cách
khách quan, công bằng và đúng đắn.
Quyền bào chữa là tổng hợp các quyền tố tụng hình sự của những
người bị buộc tội, tạo khả năng cho họ có quyền được bào chữa về hành vi do
mình thực hiện đã bị buộc tội và khả năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp khác. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được đảm bảo trong suốt
các giai đoạn của tố tụng hình sự.
Quyền bào chữa của những người bị buộc tội là nguyên tắc hiến định,
được ghi nhận trong Điều 132, Hiến pháp năm 1992 và được cụ thể hoá thành
nguyên tắc "Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo"
quy định tại Điều 11, BLTTHS năm 2003.
Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau:
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa.
Khi tự bào chữa, người bị tạm giữ và bị can, bị cáo sử dụng các quyền
mà pháp luật đã quy định cho họ để chứng minh là vô tội, để giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự hoặc để bảo vệ lợi ích hợp pháp khác. Các quyền để người bị
37. 37
tạm giữ và bị can, bị cáo sử dụng thực hiện quyền bào chữa được quy định tại
các điều 48, 49, 50 và nhiều điều luật khác trong BLTTHS năm 2003.
Quyền được nhờ người khác bào chữa có ý nghĩa rất quan trọng để người
bị buộc tội có thể thực hiện được quyền bào chữa, bởi vì, bào chữa là một
hoạt động tố tụng đặc thù, đòi hỏi phải có những khả năng và điều kiện nhất
định mà không phải người bị buộc tội nào cũng thực hiện được hoặc thực hiện
tốt được. Nếu không quy định cho người bị buộc tội quyền được nhờ người
khác bào chữa thì có nghĩa pháp luật chưa thật sự đảm bảo cho người bị buộc
tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Cần lưu ý rằng, khi nhờ người khác bào
chữa thì người bị tạm giữ và bị can, bị cáo vẫn có quyền bào chữa.
Để người bị tạm giữ và bị can, bị cáo có thể thực hiện quyền nhờ
người khác bào chữa, BLTTHS đã quy định tư cách tố tụng người bào chữa
theo Điều 56 BLTTHS người bào chữa bao gồm: a) luật sư; b) người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; c) Bào chữa viên nhân dân. Để
tạo cơ sở pháp lý cho người bào chữa thực hiện việc bào chữa. Điều 58
BLTTHS đã quy định quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. So sánh quyền
của người bào chữa với quyền của chính người được bào chữa, quyền của
người bào chữa không chỉ bằng mà còn rộng hơn quyền của người bị tạm giữ
và bị can, bị cáo. Quy định như vậy là cần thiết để đảm bảo người bào chữa
thực hiện tốt chức năng bào chữa.
So sánh pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và pháp luật tố tụng hình
sự của nhiều nước trên thế giới, có thể thấy trong chế định về quyền bào chữa
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có nhiều tiến bộ và thể hiện tính nhân
bản sâu sắc. Việc quy định của người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo và những người khác với tư cách là bào chữa viên nhân dân có
quyền bào chữa, đã tạo cơ hội lớn hơn cho người bị tạm giữ, bị can và bị cáo
trong việc nhờ người khác bào chữa cho mình, vì trong thực tế không phải
người bị buộc tội nào cũng có thể sử dụng được dịch vụ bào chữa do luật sư
chuyên nghiệp thực hiện. Quy định này ngày càng có ý nghĩa lớn hơn khi tỷ
38. 38
lệ luật sư trên số dân ở Việt Nam hiện nay so với nhiều nước trên thế giới và
trong khu vực là rất thấp. Đặc biệt trong một số trường hợp theo quy định,
nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không nhờ người bào
chữa, các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ phải yêu cầu đoàn luật sư
phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào
chữa cho thành viên của tổ chức mình. Theo Điều 57 BLTTHS năm 2003, đó
là các trường hợp: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao
nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình sự; b) Bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa theo quy định.
Đây là nội dung rất quan trọng, vì quyền bào chữa của người bị buộc
tội sẽ không hoặc khó được thực hiện nếu luật không quy định các cơ quan
tiến hành tố tụng phải có nghĩa vụ đảm bảo cho quyền đó của người bị buộc
tội được thực hiện. Trong BLTTHS năm 2003, trách nhiệm này của các cơ
quan tiến hành tố tụng đã được cụ thể hoá qua các quy định về các nghĩa vụ
của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Theo đó, trong mỗi giai đoạn tố
tụng và ở mỗi hoạt động tố tụng nhất định, các cơ quan và người tiến hành tố
tụng phải tiến hành hành vi bắt buộc theo quy định để đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện. Chẳng hạn các
quyết định và văn bản tố tụng như quyết định khởi tố bị can, quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn, kết luận điều tra, cáo
trạng, quyết định đưa vụ án ra xét xử… phải được giao cho người bị tạm giữ
và bị can, bị cáo trong một thời hạn được quy định; khi người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo cũng như người bào chữa của họ đưa ra những chứng cứ và yêu
cầu, những đề xuất và kiến nghị thì cơ quan, người tiến hành tố tụng phải xem
xét và giải quyết; cơ quan và người tiến hành tố tụng phải có nghĩa vụ tạo
điều kiện cho người bào chữa thực hiện các quyền của mình để tiến hành hoạt
39. 39
động bào chữa. Điều quan trọng, theo BLTTHS nếu cơ quan và người tiến
hành tố tụng không thực hiện đúng các nghĩa vụ theo quy định để quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện, sẽ bị coi là có hành
vi vi phạm tố tụng, sẽ bị xử lý tuỳ theo mức độ vi phạm, đồng thời kết quả
của hoạt động tố tụng có sự vi phạm đó sẽ bị xem xét lại và có thể bị huỷ bỏ.
Thực tiễn các hoạt động tố tụng thời gian qua cho thấy, quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong vụ án ngày càng được đảm
bảo tốt; có rất nhiều vụ án nhờ vào hoạt động bào chữa mà người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo đã được chứng minh là vô tội, hoặc được bị giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự và bảo vệ được các lợi ích hợp pháp của mình; đồng thời cũng
nhờ vậy mà chất lượng các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng tốt
hơn, góp phần hạn chế tình trạng oan, sai và các vi phạm khác đến quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên trong thực tế
vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề ảnh hưởng không tốt đến việc đảm bảo quyền
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, như: Trong nhận thức của
không ít những người tiến hành tố tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo vẫn bị coi nhẹ hoặc có nhận thức sai về vai trò, vị trí của người
bào chữa. Do vậy, trong nhiều vụ án, người tiến hành tố tụng đã không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định của pháp luật để đảm bảo quyền
bào chữa cho người bị tam giữ, bị can, bị cáo thậm chí còn có những hành vi
gây khó khăn, cản trở người bào chữa tiến hành các hoạt động bào chữa. Thực
tế đã có nhiều vụ án được giải quyết nhưng kết quả của nó bị Toà án cấp trên
huỷ để điều tra lại, xét xử lại vì có sự vi phạm của các cơ quan, người tiến
hành tố tụng trong việc thực hiện các quy định để đảm bảo quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện tốt các quy định của
BLTTHS, ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo. Chẳng hạn có vụ án trước khi được xét xử đã có sự thống
nhất giữa Toà án với Viện kiểm sát về hướng giải quyết, bản án được tuyên
40. 40
không căn cứ vào diễn biến và kết quả tranh tụng tại phiên toà hoặc việc tranh
tụng tại phiên toà được thực hiện không đúng quy định, mang tính hình thức;
Về phía người bào chữa, có nhiều trường hợp người này đã không
thực hiện hoặc thực hiện không hết tất cả quyền của người bào chữa theo quy
định để bào chữa cho thân chủ của mình; đặc biệt trong trường hợp tham gia
bào chữa theo chế định bào chữa chỉ định, nhiều luật sư chỉ tham gia có tính
hình thức, không làm tròn trách nhiệm của người bào chữa.
1.4. KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ NĂM
1945 ĐẾN NĂM 2003
1.4.1. Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán từ năm 1945 đến năm 1988
Cách mạng tháng tám thành công, bộ máy chế độ thực dân phong kiến
bị xoá bỏ, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Để nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản pháp luật
hình sự và tố tụng hình sự. Đó là các sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 và sắc
lệnh số 22/SL ngày 14/2/1946 về thành lập các Toà án quân sự; sắc lệnh ngày
10/10/1945 về tổ chức các đoàn luật sư; sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về
tổ chức các Toà án và ngạch Thẩm phán..
Trong các văn bản pháp luật nêu trên, lần đầu tiên ghi nhận một số
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nước ta, xác định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng; địa vị pháp lý
các quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo của người bào chữa và các chủ thể
tham gia tố tụng khác; trình tự và thủ tục tiến hành điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành bản án hình sự. Đặc biệt Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 là văn
bản pháp lý đầu tiên quy định một cách đầy đủ và tương đối hoàn chỉnh về
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử các vụ án hình sự. Các văn
41. 41
bản pháp luật này là một bước ngoặt lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta
với một nền tư pháp nhân dân của chế độ mới.
Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 đã thiết lập hệ thống Toà án gồm:
Toà án sơ cấp, Toà án đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Thẩm phán được chia
làm hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà án sơ cấp, Thẩm phán đệ
nhị cấp làm việc ở Toà đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Các Thẩm phán đệ
nhị cấp lại chia thành hai loại: Thẩm phán xét xử và Thẩm phán buộc tội.
Thẩm phán xét xử có thể chuyển sang làm Thẩm phán buộc tội và ngược lại.
Theo sắc lệnh này, Thẩm phán có quyền hạn rất lớn trong xét xử. Mặc dù
quy định về sự tham gia của Phụ thẩm "khi xét xử ngoài Chánh án - Chủ toạ
phiên toà còn có hai Phụ thẩm" nhưng quyền hạn của hai Phụ thẩm còn hạn
chế "Ông Chánh án hỏi ý kiến của Phụ thẩm về tội trạng các phạm nhân và về
hình phạt rồi tự mình quyết định" (Điều 27 sắc lệnh 13) Thẩm phán là người quyết
định sau khi hỏi ý kiến của Phụ thẩm. Ngoài ra Chánh án còn có quyền tuyên
phạt đối với Phụ thẩm. Trong thời kỳ này, nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và
biểu quyết mới chỉ manh nha xuất hiện thông qua phiên toà đại hình. Điều 31
sắc lệnh quy định: "Sau khi nghe các bị can, người làm chứng, cáo trạng của ông
biện lý và sau cùng nghe lời bàn cãi của các bị can, Ông Chánh án, hai Thẩm
phán và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng nghị án để cùng xét xử về tất cả
các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp tăng tội, giảm tội".
Ngoài ra Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 còn quy định về quyền và
nghĩa vụ của Thẩm phán như: "Ông Chánh án -Chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ
điều khiển cuộc thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên toà", ông Chánh án nếu cần
có thể mở phiên toà ngoài trụ sở của Toà án, nơi cách xa Toà án", "mỗi khi
tuyên án tử hình, Chánh án bắt buộc phải báo cho tội nhân biết rằng hắn có
quyền xin ân giảm và hỏi hắn có muốn đệ đơn xin không".
Những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong thời kỳ
đầu của nhà nước ta là cơ sở ban đầu cho việc hoàn thiện hoạt động xét xử sau
42. 42
này. Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (được
Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946) đã ghi nhận một số nguyên tắc cơ bản
của pháp luật nước ta, trong đó bao gồm cả các nguyên tắc của tố tụng hình
sự. Đó là các nguyên tắc: Các phiên toà đều phải công khai, trừ những trường
hợp đặc biệt trong khi xét xử các viên Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các
cơ quan không được can thiệp. Sắc lệnh 13 và Hiến pháp 1946 đã xác định
Toà án là cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, giữ một vị
trí độc lập trong tổ chức bộ máy nhà nước.
Đến tháng 5 năm 1950 Nhà nước ta đã thực hiện cuộc cải cách tư pháp
đầu tiên. Sắc lệnh 85/SL được ban hành, Toà án có sự thay đổi, Phụ thẩm nhân dân
thành Hội thẩm nhân dân. Trong xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Sau khi giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
pháp xâm lược năm 1954, nước ta bước vào một giai đoạn mới cùng một lúc
phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng XHCN ở miền Bắc và đấu
tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước. Những
thay đổi cơ bản của đất nước và xã hội đòi hỏi cần phải có các văn bản pháp
luật mới để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội mới phát sinh. Hiến pháp
năm 1959 và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước ta nói chung và văn
bản pháp luật tố tụng hình sự nói riêng được ban hành trong thời gian này đã
kịp thời đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội theo hướng dân chủ hoá
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp năm 1959, Quốc hội đã ban
hành Luật Tổ chức TAND ngày 14/7/1960. theo luật này thì hệ thống Toà án
bao gồm có: TANDTC, TAND địa phương các Tòa án quân sự. Trong trường
hợp đặc biệt, Quốc hội thành lập các Toà án đặc biệt. Nhiệm vụ của công tác
xét xử trong thời kỳ này là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, bảo vệ trật tự xã
hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân dân góp phần đảm bảo
sự nghiệp đấu tranh thống nhất đÊt nước. Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có văn
43. 43
bản tố tụng nào quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán. Song
qua các văn bản pháp luật đó chúng ta cũng xác định được nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán trong tố tụng. Điều này được thể hiện ở các nguyên tắc tố
tụng như: sự độc lập và chỉ tuân thủ theo pháp luật của Toà án trong đó có
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân, Hội thẩm khi tham
gia xét xử ngang quyền với Thẩm phán; Toà án xét xử tập thể và quyết định
theo đa số, Thẩm phán theo chế độ bầu. Đặc biệt thông qua trình tự xét xử
hình sự tại bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về hình sự được ban
hành kèm theo Thông tư 16-TATC ngày 27/9/1974 của TANDTC, có thể thấy
rõ về quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong phiên toà sơ thẩm, chủ toạ phải
kiểm tra căn cước của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách
nhiệm bồi thường và những người có tài sản, quyền lợi liên quan đến việc
phạm pháp; giải thích quyền và nghĩa vụ để những người tham gia tố tụng
biết; giới thiệu thành viên HĐXX, đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa,
người phiên dịch, Thư ký phiên toà. phải đảm bảo phần xét hỏi, tranh luận và
giữ gìn trật tự phiên toà. Tại phần xét hỏi, chủ toạ hỏi trước, các Hội thẩm hỏi
bổ sung. ở phần nghị án, HĐXX cùng thảo luận và biểu quyết theo đa số.
Thẩm phán chủ toạ phiên toà sẽ đọc bản án.
Bằng bản hướng dẫn này, hoạt động của Thẩm phán trong việc giải
quyết vụ án hình sự đã được hướng dẫn chi tiết và thống nhất trong phạm vi
cả nước. Các quy định này hầu như được giữ nguyên khi ban hành BLTTHS
năm 1988
Như vậy, vị trí trung tâm trong xét xử của Thẩm phán đã được khẳng
định. Thẩm phán là người điều kiển phiên toà với nhiều trọng trách vừa chứng
minh tội phạm, vừa quyết định hình phạt, vừa đảm bảo phiên toà diễn ra đúng
luật định.Thẩm phán còn phải giúp Hội thẩm nắm được pháp luật, đường lối,
chính sách, đồng thời phải tích cực phát huy vai trò của Hội thẩm khi tham
gia phiên toà.
44. 44
1.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo quy định Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988
Sau khi thống nhất đất nước, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1980,
Luật Tổ chức TAND năm 1981. Tiếp đó BLTTHS năm 1988 đã cụ thể hoá các
quy định về tổ chức và hoạt động của Toà án bằng cách quy định một cách có
hệ thống các vấn đề cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động của
Thẩm phán. Một số nguyên tắc của tố tụng hình sự được quy định trong bộ
luật liên quan trực tiếp tới hoạt động của Thẩm phán, đó là nguyên tắc Toà án
xét xử công khai, xét xử tập thể và quyết định theo đa số, chế độ xét xử có
Hội thẩm tham gia, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập chỉ tuân thủ
pháp luật. Điều 1 Luật Tổ chức TAND 1981 quy định: "Trong phạm vi chức
năng của mình, TAND có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động…" [17], như vậy quyền và
nghĩa vụ của Thẩm phán trong giai đoạn này đã được mở rộng cụ thể hơn, cao
cả và nặng nề hơn.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định cụ thể các quyền và
nhiệm vụ của Thẩm phán khi giải quyết một vụ án hình sự trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, tại phiên toà và sau khi xét xử.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ:
-Nghiên cứu hồ sơ để xem xét những vấn đề cần chứng minh trong vụ
án, việc định tội danh có đúng hay không?
- Giải quyết khiếu nại và yêu cầu của người tham gia tố tụng.
- Tiến hành những việc khác để mở phiên toà như triệu tập người tham
gia phiên toà, trích xuất bị cáo đang bị tạm giam…
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải ra một trong số các
quyết định sau: Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án, đình chỉ vụ án. Trước đây theo bản hướng
45. 45
dẫn của TANDTC về trình tự sơ thẩm hình sự (kèm theo thông tư số 16-
TANDTC ngày 27/9/1974) thì trong những trường hợp cần yêu cầu điều tra
bổ sung hoặc cần thay đổi biện pháp ngăn chặn, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ tố
tụng thì Toà án phải họp trù bị với Viện kiểm sát rồi mới ra quyết định. Nay
BLTTHS năm 1988 không quy định họp trù bị là một thủ tục bắt buộc cho
nên đây chỉ là việc phối kết hợp giữa các cơ quan tố tụng. Theo Thông tư liên
ngành số 01-TT/LN ngày 08/12/1988 của TANDTC và Viện kiểm sát nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS thì những
trường hợp cần trao đổi là:
- Khi Toà án thầy cần trả hổ sơ để Viện kiểm sát điều tra bổ sung, đổi
tội danh nặng hơn hoặc áp dụng khung hình phạt nặng hơn.
- Khi Toà án thấy cần đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
- Khi cần nhập hoặc tách vụ án.
- Khi cần chuyển vụ án cho Toà án khác giải quyết.
- Khi chuẩn bị xét xử vụ án điểm hoặc vụ án phức tạp.
- Các trường hợp cần thiết khác.
Như vậy so với quy định trước đây, sự độc lập trong việc giải quyết vụ
án hình sự đã rõ và cụ thể hơn, chặt chẽ hơn.
Về trình tự tố tụng xét xử tại phiên toà không có nhiều thay đổi so với
bản hướng dẫn năm 1974, đây là giai đoạn quan trọng nhất của trình tự tố
tụng. Việc xét xử phải đảm bảo nguyên tắc công khai, liên tục, trực tiếp và
bằng lời nói, có Hội thẩm tham gia, xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Theo khoản 2 Điều 181 BLTTHS năm 1988 thì chủ toạ hỏi trước rồi đến các
Hội thẩm. Sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa. Thực tế cho thấy, thời
kỳ này, vai trò của Thẩm phán và HĐXX rất quan trọng. Tại phiên toà, Thẩm
phán vừa là người làm sáng tỏ nội dung vụ án, vừa là người buộc tội vừa là
người gỡ tội. Vai trò của Kiểm sát viên tại phiên toà mờ nhạt. Phần tranh luận