SlideShare a Scribd company logo
1 of 119
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NHÀN
BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NHÀN
BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT
THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được
công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các trích dẫn và
ví dụ đưa ra đảm bảo chính xác, trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học quốc
gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảovệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngườicam đoan
Nguyên Thi Nhan
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA
KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét..................7
1.1.1. Khái niệm.............................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm.............................................................................................10
1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong
luật tố tụng hình sự.......................................................................... 15
1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra
khám xét từ năm 1945 đếntrước ngày01/07/2004 ....................... 17
1.3.1. Từ năm 1945 đến trước năm 1975.....................................................17
1.3.2. Từ năm 1975 đến trước 01/07/2004...................................................20
1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố
tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới.............................. 23
1.4.1. Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản.....................................................23
1.4.2. Luật Tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ..........................25
1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga...........................................27
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................................................... 33
2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
về biệnpháp điềutra khám xét........................................................33
2.1.1. Căn cứ khám xét.................................................................................33
2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét .......................................36
2.1.3. Các biện pháp khám xét cụ thể ..........................................................40
2.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét....................................... 49
2.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động khám xét ...........................................49
2.2.2. Những kết quả đạt được .....................................................................52
2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................57
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT.............................. 66
3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về biện pháp điều tra khám xét..............................................67
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều
tra khám xét......................................................................................80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO..................................................... 87
PHỤ LỤC.......................................................................................................91
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS:
CQĐT:
Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Số vụ án thực hiện hoạt động khám xét khẩn cấp 50
Bảng 2.2. Số lượng và tỷ lệ các loại vụ án thực hiện hoạt động
khám xét 51
Bảng 2.3. Số lượng và tỷ lệ các hoạt động khám xét cụ thể được
áp dụng 52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự; quyền - nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố
tụng hình sự và trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự cụ
thể. Pháp luật tố tụng hình sự vừa là công cụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm
vừa là cơ sở bảo vệ quyền con người, quyền công dân [23, tr.13]. Điều này
được thể hiện qua nhiều quy định khác nhau của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam (BLTTHS), trong đó có quy định về các biện pháp điều tra.
Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, những tài liệu, chứng cứ mà
các cơ quan có thẩm quyền thu thập được như: công cụ, phương tiện phạm
tội, đồ vật mang dấu vết tội phạm… luôn có ý nghĩa quan trọng trong việc
xác định, chứng minh tội phạm và người phạm tội. Thực tế cho thấy, một
phần đáng kể những tài liệu, chứng cứ này được thu thập thông qua hoạt
động điều tra khám xét.
Khám xét là một trong những biện pháp điều tra có tính chất cưỡng
chế, tác động đến những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và
pháp luật ghi nhận. Các quy định về khám xét là cơ sở để các cơ quan có
thẩm quyền tác động hợp pháp đến quyền cơ bản của công dân, phát hiện,
thu thập chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa chứng minh trong vụ án, từ đó xác
định phương hướng điều tra và sớm hoàn thành nhiệm vụ làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án.
Nghiên cứu sự phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm
1945 đến nay cho thấy các biện pháp điều tra hình sự nói chung và biện pháp
khám xét nói riêng đã được quy định cụ thể, có sự kế thừa, bổ sung qua từng
1
thời kỳ. Biện pháp khám xét được ghi nhận trong Chương XII BLTTHS năm
2003 là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở thực tiễn áp dụng và
thi hành của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hiện
nay, một số quy định về biện pháp điều tra khám xét trong BLTTHS năm
2003 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định như chưa quy định chặt chẽ
về căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét, thời hạn tiến
hành khám xét, quy định về những hoạt động khám xét cụ thể còn nhiều điểm
chưa hợp lý, những hướng dẫn về việc tiến hành hoạt động khám xét trong
một số trường hợp cụ thể cũng chưa được ghi nhận…
Những tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra vướng mắc, lúng túng
trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng. Mặt
khác, trong thực tiễn áp dụng, hoạt động khám xét của các cơ quan này, đặc
biệt là cơ quan điều tra (CQĐT) còn xảy ra một số vi phạm về trình tự, thủ
tục, thẩm quyền, dẫn đến việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, làm
giảm hiệu quả của hoạt động khám xét nói riêng và hoạt động điều tra, giải
quyết vụ án hình sự nói chung.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48-
NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020
và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của
BLTTHS hiện hành về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng để
làm sáng tỏ về mặt khoa học, thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng của những quy định đó có ý nghĩa
lý luận, thực tiễn và pháp lý sâu sắc.
2
Chính vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Biện pháp điều tra
khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do khám xét có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra
nên đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ, những
phương diện khác nhau về biện pháp này. Trong đó, có một số công trình
tiêu biểu như sau:
Về giáo trình, sáchchuyên khảo, bìnhluận có các côngtrìnhnhư: PGS.TS
Nguyễn Ngọc Chí, “Chương 11 – Điều tra vụ án hình sự”, Giáo trình luật Tố
tụng hìnhsựViệtNam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2014; Phạm Thanh Bình,
Một trăm lời giải đáp về bắt giữ, khám xét, NXB Công an nhân dân, Hà Nội
1992; Nguyễn Vạn Nguyên, Một trăm câu hỏiđáp về bắt, giam, giữvà khám xét
đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995; Nguyễn Mai Bộ,
Nguyễn Sĩ Đại, Biện pháp ngăn chặn và khám xét, thu giữ, tạm giữ và kê biên
tài sản: tìm hiểu phápluậtTố tụng hìnhsự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2002; Nguyễn Mai Bộ, Biện pháp ngăn chặn khám xétvà kê biên tài sản
trong Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội2004;
Dưới góc độ bài báo nghiên cứu khoa học, tác giả Nguyễn Thanh Bình,
Ngô Văn Vịnh cũng có bài viết “Hoàn thiện quy định về khám xét trong bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2013.
Trên cơ sở khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nước ta đã có một số công
trình nghiên cứu về biện pháp điều tra khám xét. Tuy nhiên, những nghiên
cứu về đề tài này chủ yếu là với tư cách một nội dung của sách chuyên khảo,
tham khảo, giáo trình hay các và bài nghiên cứu mà chưa có các công trình
chuyên sâu như luận văn, luận án. Mặt khác, những công trình nêu trên mới
chỉ đề cập một cách tổng thể, khái quát những vấn đề lý luận chứ chưa nghiên
3
cứu một cách toàn diện, sâu sắc, riêng biệt về biện pháp khám xét dưới cả hai
góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây đã lần nữa cho thấy việc nghiên
cứu đề tài: “Biệnpháp điềutra khám xét theo luậttố tụng hình sự Việt Nam”
là đòihỏi kháchquan, mang tínhlý luận và thực tiễn trongbốicảnhhiện nay.
3. Đốitượng, mục đích, nhiệm vụvà phạmvinghiêncứucủa luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp điều tra khám xét theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc giải mã các vấn đề lý
luận, đánh giá các quy định của pháp luật về biện pháp điều tra khám xét
và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các
quy định về khám xét trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đề
xuất những giải pháp khác nâng cao hiệu quả của biện pháp điều tra này
trong thực tiễn thực hiện.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đíchnghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận về biện pháp điều tra khám xét như:
khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa;
- Khái quát sự phát triển của các quy định về khám xét trong lịch sử
pháp luật tố tụng hình sự của nước ta để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra khám
xét trong pháp luật Tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới, đưa
ra những đánh giá, nhận xét và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm
trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp
điều tra này;
4
- Phân tích những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
biện pháp điều tra khám xét, bao gồm: căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
tiến hành khám xét; các biện pháp khám xét cụ thể… từ đó rút ra những tồn
tại, hạn chế của các quy định về khám xét trong luật thực định cần khắc phục;
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp điều tra khám
xét, đồng thời phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp
dụng và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về
biện pháp khám xét trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và
nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thực tiễn.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận xung quanh
biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; vấn đề thực
tiễn được tiếp cận, khái quát và đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu với giới
hạn về thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận từ phép duy vật biện chứng, phép duy vật
lịch sử, trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng các phương
pháp cụ thể như: phương pháp phân tíchvà tổng hợp; phương pháp so sánh và
đối chiếu; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phươngdiện lý
luận và thực tiễn, vì đây là côngtrình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật
học về biện pháp điều tra khám xét, trong đó giải quyết nhiều vấn đề liên quan
đến biện pháp điều tra này trong luật Tố tụng hình sự. Những điểm mới cơ bản
của Luận văn, có thể đây là một trong những côngtrìnhnghiên cứuđầu tiên:
- Xây dựng khái niệm biện pháp điều tra khám xét, xác định các đặc
5
điểm cơ bản của biện pháp điều tra này cũng như ý nghĩa của việc quy định
hoạt động điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam;
- Chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển
của biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay;
- Trình bày, đánh giá, nhận xét pháp luật Tố tụng hình sự của một số
quốc gia trên thế giới về biện pháp điều tra khám xét;
- Làm sáng tỏ tình hình thực hiện hoạt động khám xét của CQĐT các
cấp và một số cơ quan khác có thẩm quyền điều tra; những tồn tại, hạn chế
của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét cũng như
những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó;
- Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng
cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra này ở Việt Nam trong thời gian tới.
Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các
nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên
cứu sinh, học viên cao học và sinh viên chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các
cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc
trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác
tại các CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
bảo đảm khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1:
Chương 2:
Chương 3:
Một số vấn đề chung về biện pháp điều tra khám xét
trong tố tụng hình sự
Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2003 về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
điều tra khám xét.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét
1.1.1. Khái niệm
Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong
pháp luật của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình
sự Việt Nam nói riêng. Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp
điều tra khám xét cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh
khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan niệm, cách thức định nghĩa khác nhau:
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, “khám” dưới góc độ pháp lý được
hiểu là: “Xét, lục soát để tìm tang chứng của tội lỗi, của hoạt động phạm
pháp”[42, tr.230].
Từ điển Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 đưa ra
khái niệm khám xét là:
Một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố
vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền theo quy định tại điều
141- Bộ luật tố tụng hình sự, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm
tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà có, cũng như mọi đồ vật và
tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể tiến hành phát
hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi [38, tr.92].
Có thể thấy, việc định nghĩa khám xét theo Từ điển nêu trên đã nêu lên
được khám xét là hoạt động tố tụng hình sự đồng thời là biện pháp nghiệp vụ
điều tra của các cơ quan có thẩm quyền, áp dụng đối với tội phạm nhằm phát
hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi. Tuy nhiên, định nghĩa
này lại chưa khẳng định được bản chất của khám xét là sự tìm tòi, lục soát,
cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất định,
7
cũng chưa thể hiện đầy đủ mục đích của khám xét là nhằm phát hiện những
chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án, hoặc tìm kiếm người đang bỏ trốn,
người bị bắt cóc, hoặc phát hiện các phần của tử thi… dẫn đến việc hiểu
không thật sự đầy đủ về bản chất, mục đích của hoạt động khám xét. Bên
cạnh đó, việc quan niệm khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành
ngay sau khi khởi tố vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ, khám xét là một trong
những biện pháp điều tra ban đầu nên biện pháp này hoàn toàn có thể được
thực hiện trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự.
Dưới góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, trong những cuốn sách
chuyên khảo hoặc giáo trình luật tố tụng hình sự, các nhà nghiên cứu cũng
đã đưa ra nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về biện pháp điều tra
khám xét:
Giáo trình Khoa học điều tra hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội
năm 2014 định nghĩa:
Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm
tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, bưu kiện,
bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội;
đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan
đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người
bị bắt cóc [39, tr.149].
Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2014 quan niệm:
Khám xét là biện pháp điều tra bằng cách tìm tòi, lục soát có
định hướng người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm nhằm thu thập côngcụ, phươngtiện phạmtội, vật mang dấu
vết của tội phạm hoặc những vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án
đanggiải quyếthoặc xác chếthayngười bịtruynã [23, tr.341].
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh trong Cuốn Sổ tay pháp luật của Điều tra
8
viên lại định nghĩa: “Khám xét là hoạt động điều tra được quy định trong
BLTTHS, do cơ quan điều tra tiến hành bằng cách lục soát người, chỗ ở, chỗ
làm việc, địa điểm để tìm kiếm dấu vết tội phạm, thu thập tài liệu, vật chứng
hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án” [2, tr.102].
Các định nghĩa về khám xét nêu trên đã khắc phục được hạn chế trong
cách định nghĩa của Từ điển, đồng thời nhấn mạnh, làm sáng tỏ được những
nội dung cơ bản của biện pháp khám xét như bản chất, mục đích và các hoạt
động khám xét cụ thể. Theo đó, bản chất của biện pháp khám xét là sự tìm tòi,
lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đốitượng nhất
định. Mục đích của khám xét là nhằm thu thập những chứng cứ, tài liệu hoặc
các đồ vật khác có liên quan đến vụ án, từ đó làm cơ sở để giải quyết vụ án
hình sự. Các hoạt động khám xét rất đa dạng, bao gồm khám người, khám chỗ
ở, chỗ làm việc, địa điểm, khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…
Tuy nhiên, những định nghĩa trên nêu trên vẫn có hạn chế là chưa đề
cập đến các nội dung về căn cứ, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét, thậm chí,
thẩm quyền tiến hành khám xét cũng chưa được thể hiện hoặc thể hiện không
đầy đủ. Có định nghĩa không thể hiện nội dung thẩm quyền khám xét, có định
nghĩa lại thể hiện nội dung này không đầy đủ khi chỉ quan niệm thẩm quyền
tiến hành khám xét thuộc về CQĐT. Trên thực tế, khám xét là biện pháp điều
tra được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên bên cạnh CQĐT,
hàng loạt các cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực
lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có
thẩm quyền tiến hành khám xét trong phạm vi quyền hạn của mình theo quy
định của pháp luật.
Theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, khám xét
cần được hiểu đầy đủ là: “một biện pháp điều tra được quy định trong luật tố
9
tụng hình sự, do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng cách tìm tòi, lục
soát, cưỡng chế người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu
kiện, bưu phẩm để tìm kiếm, thu thập dấu vết của tội phạm, tàiliệu, vật chứng
hoặc những đồ vật khác có liên quan đến vụ án theo các căn cứ, trình tự, thủ
tục luật định”.
Như vậy, theo khái niệm trên, biện pháp điều tra khám xét phải bao
hàm những yếu tố sau:
- Được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ và
theo một trình tự, thủ tục luật định.
- Khám xét chủyếu bao gồmcác hoạtđộng:tìmtòi, lục soát, cưỡngchế.
- Các biện pháp khám xét cụ thể bao gồm: khám người, chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
- Mục đích chung của biện pháp khám xét là phát hiện, thu thập những
chứng cứ, tàiliệu hoặc đồ vật khác liên quanđến việc giải quyết vụ án hình sự.
1.1.2. Đặcđiểm
Biện pháp điều tra khám xét có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, khám xét là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục
đích là phát hiện, thu thập vật chứng có liên quan trong vụ án hình sự, từ đó
làm sáng tỏ sự thậtkhách quan của vụ án
Như đã phân tích ở phần trên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
có nhiều biện pháp điều tra khác nhau được thực hiện và mỗi biện pháp mang
lại những mục đích, hiệu quả riêng. Đối với biện pháp khám xét, khi thực
hiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát hiện, thu thập được những chứng cứ,
tài liệu có liên quan đến vụ án. Đó có thể là vũ khí, công cụ, phương tiện
phạm tội, những tài sản bị tội phạm chiếm đoạt, những vật mang dấu vết tội
phạm, những mẫu vật để nghiên cứu, so sánh hoặc những giấy tờ, tài liệu
khác có liên quan đến vụ án. Trong một số trường hợp, khi hoạt động khám
10
xét được tiến hành tại chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc của của chủ thể bị khám
xét còn giúp phát hiện người đang bị truy nã, tử thi hoặc các phần của tử thi,
người bị bắt cóc, người bị giam giữ… Những tài liệu, chứng cứ này là cơ sở
quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có hành vi
phạm tội xảy ra, nếu có căn cứ để xác định là đã xảy ra hành vi phạm tội thì
lập kế hoạch, phương hướng điều tra và tổ chức thực hiện các hoạt động điều
tra phù hợp, từ đó từng bước chứng minh tội phạm, nhanh chóng làm sáng tỏ
sự thật khách quan trong vụ án hình sự.
Thứ hai, khám xét là biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế trong tố
tụng hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, cưỡng chế là “buộc người khác
phải làm theo những ý nghĩ hoặc hành động của mình” [42, tr.78], suy rộng
ra, cưỡng chế trong tố tụng hình sự là việc căn cứ vào các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân theo những
mệnh lệnh, yêu cầu nhất định. Trong tố tụng hình sự, có nhiều biện pháp
cưỡng chế khác nhau được ghi nhận như các biện pháp ngăn chặn bắt bị can,
bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội
quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt
tiền để bảo đảm… hoặc các biện pháp điều tra thể hiện tính cưỡng chế như
khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực
tiếp đến vụ án, xem xét dấu vết trên thân thể, áp giải, dẫn giải, kê biên tài
sản… Khi thực hiện những biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền phải
căn cứ vào các quy định của luật tố tụng hình sự và những quy định liên quan
khác để buộc các đốitượng bị áp dụng phải tuân thủ.
Có thể thấy khám xét là biện pháp điều tra có tác động mạnh đến những
quyền cơ bản của côngdânđã được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đó là các quyền
bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của
11
công dân được ghi nhận tại BLTTHS “Không ai được xâm phạm về chỗ ở, an
toàn và bí mậtthưtín, điện thoại, điện tín của công dân”[31, Điều 8]; quyền bảo
hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân ghi nhận tại
BLTTHS “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe,
danhdự, nhânphẩm, tàisản. Mọi hànhvi xâm phạmtính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật”… [31, Điều 7].
Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn âm mưu, hành động phạm tội của tội
phạm và thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự vẫn
ghi nhận quyền tiến hành khám xét của các cơ quan có thẩm quyền nếu những
cơ quan này có đủ căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa
điểm của của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do
phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát
hiện người đang bị truy nã. Những đối tượng bị khám xét có nghĩa vụ phải
chấp hành đầy đủ các yêu cầu của lực lượng tiến hành khám xét, nếu các đối
tượng bi áp dụng có hành vi cản trở, chống đối hoặc không hợp tác thì tùy theo
tính chất của hành vi, họ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định.
Thứ ba, khám xét là biện pháp điều tra có sự đa dạng về đối tượng, địa
điểm thực hiện
Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm hoặc người bị
tình nghi là tội phạm hoặc những người có liên quan khác có thể che giấu
những tài liệu, công cụ, phương tiện có liên quan đến vụ án ở nhiều địa điểm,
trong nhiều đồ vật khác nhau, đó có thể là trên người, nơi ở, nơi làm việc hoặc
trong bưu kiện, bưu phẩm... Bởi vậy, với vai trò là một biện pháp điều tra
giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra tìm kiếm, phát hiện những tài liệu,
công cụ liên quan đến vụ án bị tội phạm che giấu, khám xét cũng có sự đa
dạng về đối tượng. Theo đó, đối tượng của biện pháp khám xét bao gồm:
người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm...
12
Mỗi đối tượng khám xét khác nhau sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập
những đồ vật, tài liệu khác nhau, từ đó tổng hợp, đánh giá chứng cứ. Sự đa
dạng trong đối tượng của biện pháp điều tra khám xét vừa tạo sự khách quan
trong hoạt động tìm kiếm, thu thập chứng cứ, vừa góp phần nâng cao hiệu quả
cho hoạt động điều tra cũng như quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thứ tư, khám xét phảiđược tiến hành theo những nguyên tắcnhấtđịnh
Trước hết, hoạtđộngkhámxét phảitiến hành theo quy địnhcủapháp luật.
Như đã phân tích, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín là những quyền quan trọng của công dân được
pháp luật bảo hộ, ghi nhận. Trong khi đó, đối tượng của hoạt động khám xét
lại là người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín... Bởi vậy, khi tiến hành những
hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần triệt để tuân theo các quy định
của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ: Mọi cuộc
khám xét phải đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền
khám xét và không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Cụ thể:
- Chỉ được khám xét khi có các căn cứ nhận định những nơi định khám
xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở
đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, người bị bắt cóc, xác chết hoặc các
phần của nó... Nếu chưa có đủ căn cứ ra lệnh khám xét thì các cơ quan có
thẩm quyền cần phải thu thập những tài liệu bổ sung, nếu việc thu thập tài liệu
bổ sung vẫn chưa đủ căn cứ khám xét thì không được ra lệnh khám xét.
- Phải tuân thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
ra lệnh khám xét: Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những
người có thẩm quyền. Trừ trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng
định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu
cần thu giữ thì việc khám người có thể được tiến hành mà không cần có lệnh.
- Khi tiến hành khám xét, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân những
quy định về trình tự, thủ tục khám xét đối với các đốitượng khám xét cụ thể.
13
- Trong quá trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét không
được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của công dân. Để đảm bảo thực hiện nội dung này, lực lượng
khám xét phải tiến hành khám xét nghiêm túc, đúng pháp luật. Trước khi tiến
hành khám xét, các cơ quan thi hành lệnh phải lên kế hoạch chuẩn bị khám
xét một cách kỹ lưỡng, chu toàn bao gồm: nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập,
phân tích, đánh giá những tài liệu liên quan đến cuộc khám xét, lập kế hoạch
khám xét (xác định thời gian khám xét, thành phần lực lượng khám xét, dự
kiến những tình huống xảy ra và các biện pháp giải quyết). Khi tiến hành
khám xét, người chủ trì cần giải thích, phổ biến kế hoạch khám xét cho các
thành viên trong đội khám xét, phân công nhiệm vụ cho từng người và kiểm
tra việc chuẩn bị của họ. Trong quá trình khám, lực lượng khám xét phải chấp
hành các nguyên tắc: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có
người cùng giới chứng kiến; khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ
hoặc người đã thành niên trong gia đình, có đại diện xã, phường, thị trấn và
người láng giềng chứng kiến; khi khám chỗ làm việc của một người thì phải
có mặt người đó (trừ trường hợp không thể trì hoãn) và đại diện cơ quan, tổ
chức nơi người đó làm việc…
Hoạt động khám xét phải đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ là bí mật,
bất ngờ, bảo đảm an toàn cho người thực hiện. Để đạt được yêu cầu trên,
cơ quan thi hành lệnh khám xét phải giữ bí mật chủ trương, kế hoạch khám
xét, việc chuẩn bị, triển khai các lực lượng bao vây, giám sát và tạo được
yếu tố bất ngờ khi xuất hiện ở nơi cần khám xét. Ngoài ra, trong quá trình
khám xét, các cơ quan này không được để lộ bí mật về những phương tiện
hỗ trợ, cách thức thực hiện và các biện pháp nghiệp vụ đã được áp dụng,
tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước
mắt và lâu dài. Đây là nhân tố cơ bản để hoạt động khám xét đạt được mục
14
đích. Khi yêu cầu này được thực hiện, tội phạm sẽ không có cơ hội che
giấu, tiêu hủy chứng cứ hoặc chạy trốn.
1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong
luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ
Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án
dung làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội,
người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [31, Điều 64, khoản 1].
Theo khái niệm này, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp và có giá trị
chứng minh khi thỏa mãn đầy đủ các thuộc tính khách quan, tính liên quan và
tính được thu thập hợp pháp. Nếu thiếu đi một trong các thuộc tính này,
chứng cứ sẽ mất đi giá trị chứng minh, trong đó thuộc tính được thu thập hợp
pháp là thuộc tính cần được chú trọng bởi nó dễ bị xâm phạm nhất.
Khi thực hiện hoạt động khám xét, đểđảm bảo thuộc tính được thu thập hợp
pháp của chứng cứ, các cơ quan có thẩm quyền phải tránh việc xâm phạm các
quyền cơ bản của công dân. Trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta, các quyền
bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí
mật thư tín, điện tín… củacông dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp 2013 quyđịnh:
“Mọingười có quyền bất khả xâm phạm vềthân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm…” [35, Điều 20]. Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi
người có quyền bấtkhả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật
gia đình;cóquyền bảo vệdanhdự, uytín của mình” [35, Điều 21]. Bản Hiến pháp
này cũng quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không
ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc
khám xét chỗ ở do luật định…” [35, Điều 22]. Nếu chỉ căn cứ theo những quy
15
định này thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự, trong đó có khám
xét đối với công dân sẽ bị coi là không hợp pháp. Tuy nhiên, khi những quy
định về hoạt động khám xét đươc ghi nhận trong tinh thần của Hiến pháp
cũng như trong luật tố tụng hình sự thì hoạt động khám xét của các cơ quan
có thẩm quyền đã được đảm bảo về cơ sở pháp lý, từ đó tính hợp pháp của
những chứng cứ thu thập được từ hoạt động khám xét cũng được khẳng định.
Thứ hai, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
Quyền con người được hiểu:
Là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được
hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội nhất
định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã
hội, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính
giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc
cơ bản [37, tr.14].
Như vậy, quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt,
nó có mối quan hệ chặt chẽ với quyền công dân và được hiện hữu trong tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.
Trong tố tụng hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra được tiến
hành bởi một bên là những chủ thể đại diện cho Nhà nước, được nhà nước
trao quyền, còn một bên là tội phạm hoặc người bị cho là thực hiện hành vi
phạm tội. Sự khác nhau về địa vị pháp lý này dễ dẫn đến những hành vi xâm
phạm quyền con người của những người tiến hành khám xét. Do đó, việc
BLTTHS điều chỉnhbiện pháp điều tra khám xét về các căn cứ khám xét, thẩm
quyền ra lệnh, trình tự thủ tục tiến hành khám xét,… đãgóp phần hạn chế sự tùy
tiện, lạm quyền của các cơ quan, cá nhân tiến hành khám xét, từ đó bảo vệ quyền
côngdân, quyền conngười theo tinh thần của BLTTHS là “bảovệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổchức, bảovệtrật tự pháp luậtxã hộichủ nghĩa…”[31, Điều 1].
16
Thứ ba, góp phần giảiquyết vụ án hình sự nhanh chóng, thuận lợi hơn
Thực tế hoạt động điều tra cho thấy, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ
quan có thẩm quyền thu thập được như công cụ, phương tiện phạm tội, những
đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án… có vai trò quyết định đến thời gian và
hiệu quả của việc giải quyết vụ án hình sự. Đây được coi là những bằng
chứng quan trọng để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội? ai là
người thực hiện hành vi phạm tội? cách thức thực hiện hành vi phạm tội?... để
đưa tội phạm ra xét xử trước pháp luật. Trong khi đó, khám xét lại là một biện
pháp điều tra tổng hợp, bao gồm nhiều hoạt động lục soát, tìm kiếm với mục
đích là phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do
phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác
chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc, từ đó đưa ra kế hoạch,
phương hướng cho những hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo. Như vậy, việc
pháp luật ghi nhận hoạt động khám xét đã giúp các cơ quan có thẩm quyền
điều tra sớm phát hiện, thu thập các chứng cứ hoặc tài liệu liên quan đến vụ
án, từ đó nhanh chóng chứng minh tội phạm, rút ngắn thời gian và nâng cao
hiệu quả trong việc giải quyết vụ án hình sự.
1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra
khám xét từ năm 1945 đếntrước ngày01/07/2004
1.3.1. Từnăm 1945đến trước năm 1975
Lịch sử phát triển của các quy định về khám xét gắn liền với lịch sử
xây dựng và hoàn thiện của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Năm 1945, cách
mạng tháng Tám thành công, đánh dấu sự ra đời của pháp luật xã hội chủ
nghĩa, song trong thời gian này, nước ta chưa có BLTTHS thống nhất, pháp
luật tố tụng hình sự chỉ bao gồm những văn bản đơn hành, riêng rẽ… Cho tới
trước năm 1957, các quy định về khám xét cơ bản là không được đề cập.
Tuy nhiên, bản Hiến pháp năm 1946 và sau đó là Hiến pháp năm 1959
đã có những quy định tương đối rõ ràng về một số nội dung cốt lõi để bảo vệ
17
quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tạo cơ sở cho các
quy định về khám xét sau này. Cụ thể: Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nhà ở
và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái
pháp luật” [25, Điều 11]; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận: “Quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo
đảm… Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật” [26, Điều 27, 28].
Từ tinh thần trên của Hiến pháp, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957
quy định về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở,
đồ vật, thư tín của nhân dân và Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 đã
lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên quan đến hoạt động khám người,
khám đồ vật, nhà ở và thư tín với các nội dung cụ thể như sau:
- Thẩm quyền khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân trong
các trường hợp thông thường thuộc về: Công tố uỷ viên, phó công tố uỷ viên,
thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh hoặc thành phố trở lên (được tạm uỷ quyền
giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân
tỉnh hoặc thành phố trở lên được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà đối với
những vụ án đem xét xử tại phiên toà ấy; Cục trưởng hoặc Cục phó Cục quân
pháp; Công tố uỷ viên hoặc công tố uỷ viên Toà án binh các cấp, cán bộ công
tố (được uỷ quyền giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, cán bộ
thẩm phán (được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà); Những người thi hành lệnh
viết của các cán bộ tư pháp nêu trên [14, Điều 12,13,14].
Trong những trường hợp phạm pháp quả tang, trường hợp khẩn cấp
hoặc có triệu chứng phạm pháp, trường hợp đang tiến hành điều tra vụ án mà
can phạm đang bị tạm giữ, hoặc tạm giam, hoặc trong trường hợp được uỷ
quyền điều tra toàn bộ vụ phạm pháp, thì tùy từng trường hợp mà Thẩm phán
18
Toà án nhân dân huyện, châu trở lên; Cán bộ công tố của Toà án binh; Nhân
viên và cán bộ công an, chiến sĩ và và cán bộ bộ độibảo vệ, bộ đội biên phòng,
chiến sĩ và cán bộ bộ đội quốc phòng làm nhiệm vụ bảo vệ; Trưởng công an
huyện, châu, phó côngan huyện, châu, trưởng đồn, phó đồncôngan trở lên hoặc
những nhân viên thi hành lệnh viết của các cán bộ nói trên cũng có quyền được
khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân [14, Điều 15,16,17]. Uỷ ban
hành chính xã trong khi làm nhiệm vụ tư pháp, trưởng công an và phó công
an xã có quyền khám người, đồ vật, nhà ở của người phạm pháp quả tang
và những người có liên quan đến vụ phạm pháp quả tang xảy ra trong xã
mình [14, Điều 18].
- Các hoạt động khám xét cụ thể được điều chỉnh chi tiết là khám người
và khám nhà. Theo đó, Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính
phủ quy định:
Khi khám người một phụ nữ phạm pháp cần có một phụ nữ
khám ở một nơi kín đáo và trong những trường hợp thông thường,
nhân viên thi hành lệnh khám nhà phải cùng đi với một uỷ viên Uỷ
ban Hành chính địa phương, người chủ nhà hoặc thay mặt chủ nhà
và một người láng giềng, khi khám xong phải lập biên bản khám
xét và giữ tang vật nếu có [14, Điều 19, 20].
Có thể thấy, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 và Nghị định 301
ngày 10/7/1957 không phải là những văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động
khám xét nên những quy định về khám xét được ghi nhận trong hai văn bản
này còn rất đơn giản, sơ lược. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lịch sử nước ta
lúc bấy giờ, việc các nhà làm luật lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên
quan đến hoạt động khám xét trong riêng một chương của một văn bản Luật
đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Những quy
định này sẽ tạo tiền đề vững chắc cho việc ra đời và phát triển của các quy
định về khám xét sau này.
19
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975, do Luật Tố
tụng hình sự chưa được pháp điển hóa nên các quy định về khám xét cũng
mới chỉ được thể hiện trong các văn bản pháp luật đơn lẻ về tố tụng. Tuy
nhiên, những văn bản này cũng phần nào tạo cơ sở, định hướng cho việc phát
triển và hoàn thiện các quy định về đến hoạt động khám xét trong các
BLTTHS sau này.
1.3.2. Từnăm 1975đến trước 01/07/2004
Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian chờ đợi thống nhất
về mặt Nhà nước (từ 30/4/1975 đến 29/06/1976), Nhà nước Cộng hòa đã ban
hành một số văn bản Luật tố tụng hình sự đơn lẻ. Trong đó, Sắc luật số
02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định việc bắt giam, khám người, khám nhà ở,
khám đồ vật là văn bản có nội dung điều chỉnh trực tiếp hoạt động khám xét.
Trong Sắc luật này, hoạt động khám xét được điều chỉnh tại 4 điều luật, với
nội dung chủ yếu là quy định các hoạt động khám nhà ở, khám đồ vật trong
trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang, nguyên tắc và việc lập
biên bản khi tiến hành khám xét. Những quy định này đã được áp dụng khá
triệt để trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam giai đoạn trước những
năm 90 của thế kỷ XX.
Thời kỳ này, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 là nguồn
quan trọng của Luật tố tụng hình sự. Trong cả hai bản Hiến pháp trên, các
quyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở,
an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đều được ghi nhận
và bảo vệ. Trên cơ sở những nguyên tắc Hiến định, BLTTHS 1988- BLTTHS
đầu tiên của nước ta ra đời đã có những quy định rõ ràng, đầy đủ về hoạt động
khám xét. Tại đây, hoạt động khám xét được điều chỉnh trong một chương
độc lập, bao gồm 4 điều luật với các nội dung cụ thể như sau:
20
- Căn cứ khám xét: khám xét chỉ được thực hiện khi có căn cứ nhận
định trong người, chỗ ở, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện
phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên
quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã hoặc khi cần
phải thu thập những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư
tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm [28, Điều 115].
- Thẩm quyền ra lệnh khám xét: trong những trường hợp thông thường,
Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự
các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
Thẩm phán Toàán nhân dân cấp tỉnh hoặc Toàán quân sựcấp quân khu trở lên,
chủ toạ phiên toà; Trưởng công an, Phó trưởng côngan cấp huyện, Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên (có lệnh khám xét do
Viện kiểm sát cũng cấp phêchuẩn) là những người có thẩm quyền banhành lệnh
khám xét. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể trì hoãn, người chỉ huy của
đơnvị quân độiđộc lập cấp trung đoàn;Người chỉ huy đồnbiên phòngở hải đảo
hoặc biên giới; Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời
khỏi sân bay, bến cảng cũng có quyền ra lệnh khám xét. Trong những trường
hợp này, sau khi khám xong, người ra lệnh khám phải báo bằng văn bản cho
Viện kiểm sát cùng cấp trongthời hạn 24 giờ [28, Điều 116].
- Trình tự, thủ tục tiến hành khám xét: khi khám xét, người tiến hành
khám xét phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó, giải
thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Tuy nhiên, trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định
người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật cần thu giữ thì có thể
tiến hành khám người mà không cần có lệnh. Trước khi khám, người tiến
hành khám xét phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến
vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám xét [28, Điều 117,118,119].
21
- Cáclưu ýkhitiến hành hoạtđộng khámxétcụ thể:Bên cạnhcăncứ, thẩm
quyền và trình tự thủ tục khám xét, BLTTHS 1988 cũng quy định về những
trường hợp khám xét cụ thể (khám người, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm,
khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…). Theo đó, khi khám người,
người tiến hành khám xét phải thực hiện theo nguyên tắc: nam khám nam, nữ
khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến [28, Điều 117]. Khi tiến hành
khám chỗ ở, địa điểm, người tiến hành khám xét phải đảm bảo sự có mặt
người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính
quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường
hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi
vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính
quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban
đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Khi khám chỗ làm việc của một người: thì phải có mặt người đó, trừ trường
hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.Việc khám chỗ
làm việc phải có đại diện của cơ quan hoặc tổ chức chứng kiến. Khi tiến hành
khám chỗ ở, địa điểm, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang
bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác
cho đến khi khám xong [28, Điều 118]; Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT ra lệnh thu giữ. Người thi
hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan
trước khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải
giúp đỡ người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ. Khi thu giữ thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng
kiến và ký xác nhận vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho
người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết, trừ trường hợp
việc thông báo cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra
22
lệnh thu giữ phải thông báo ngay [28, Điều 119]. Bên cạnh đó, tất cả các hoạt
độngkhám xét cần phải được lập biên bản, ghi nhận lại toàn bộ những hoạt động
đã thực hiện, có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia [28, Điều 120].
Như vậy, khi BLTTHS 1988 ra đời, các quy định về khám xét đã lần đầu
tiên được điều chỉnh trong một BLTTHS thống nhất với các nội dung khá rõ
ràng, chi tiết và chặt chẽ. Những quy định về khám xét này vừa thể hiện sự
thống nhất, kế thừa của những văn bản trước như Luật số 103/SL-L005 ngày
20/5/1957, Nghị định 301 ngày 10/7/1957, Sắc luật số 02/SL-76 ngày
15/03/1976… vừa có những điểm tiến bộ, phát triển hơn. Những quy định này
là cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan chức năng thực hiện hoạt động
khám xét và cũng là cơ sở để bảo vệ quyền côngdân.
1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng
hình sự của một số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Luậttố tụng hình sự của Nhật Bản
BLTTHS hiện hành của Nhật Bản (thông qua năm 1948, sửa đổi bổ
sung năm 2004) bao gồm 7 quyển, 23 chương đã điều chỉnh một cách toàn
diện các nội dung về tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho việc làm sáng tỏ
những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một cách
nhanh chóng đốivới các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến việc
duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đốivới từng cá nhân.
Cùng với biện pháp tạm giữ, biện pháp khám xét được BLTTHS Nhật
Bản điều chỉnh tại Chương IX với 28 điều luật chính. Theo quy định tại Bộ
luật này, khám xét là một biện pháp điều tra, có thể được áp dụng đối với bị
cáo hoặc người không phải bị cáo nếu có những tình huống đủ để chỉ ra đồ
vật cần bị tạm giữ. Khi có căn cứ khám xét thân thể, đồ vật hoặc nơi ở, hoặc
bất kì nơi nào của các đối tượng khám xét, Tòa án có thẩm quyền ra lệnh.
Lệnh khám xét có các nội dung chính gồm: tên bị cáo, tội phạm, địa điểm,
23
thân thể, hoặc đồ vật cần bị khám xét, thời hạn có hiệu lực, và tuyên bố là sau
khi hết thời hạn này thì không được thi hành, phải trả lại lệnh cũng như ngày
ban hành lệnh; các vấn đề được quy định trong các nguyên tắc của toà án;
phải ký tên, đóng dấu của Chánh án. Lệnh này có thể được thi hành bởi thư kí
văn phòng công tố hoặc cảnh sát dưới sự chỉ huy của công tố viên, trong
trường hợp cần phải bảo vệ bị cáo, chánh án có thể ra lệnh cho thư kí toà hoặc
cảnh sát thi hành.
Theo BLTTHS Nhật Bản, nếu trong lệnh khám xét không cho phép tiến
hành vào ban đêm thì không được khám xét vào ban đêm. Tuy nhiên, trong
trường hợp khám xét tại những nơi được cho là thường xuyên được sử dụng
để đánh bạc, chơi số đề, hoặc các hành vi có thể gây tổn hại đến tập quán và
đạo đức; hộp đêm, nhà hàng, hoặc bất kì nơi nào khác nơi công chúng có thể
ra vào cả vào ban đêm thì hoạt động khám xét vẫn có thể diễn ra vào ban
đêm. Quy định này của BLTTHS Nhật Bản khá linh hoạt, phù hợp với tình
hình thực tế, vừa bảo vệ quyền con người, vừa đảm bảo hiệu quả của hoạt
động điều tra.
BLTTHS Nhật Bản quy định: “Trường hợp cần khám xét thân thể phụ
nữ, thì phải yêu cầu một phụ nữ đã trưởng thành có mặt: Với điều kiện là
không áp dụng trong trường hợp khẩn cấp” [44, Điều 115]. Theo quy định
này, có thể hiểu người thi hành lệnh khám không nhất thiết phải cùng giới với
người bị khám (nam có thể khám nữ và ngược lại, nữ có thể khám nam) và
khi khám nam giới, không cần có người cùng giới chứng kiến, chỉ trong
trường hợp khám xét thân thể phụ nữ mới cần phải có người cùng giới chứng
kiến. Đây có thể coi là một điểm không hợp lý trong pháp luật tố tụng hình sự
của Nhật Bản. Bởi lẽ, chủ thể bị áp dụng biện pháp khám xét ngoài bị cáo còn
có thể là những người không phải là bị cáo (chỉ là những người bị tình nghi
phạm tội hoặc có liên quan khác), họ chưa bị hạn chế một số quyền công dân
24
nên việc pháp luật không quy định hoạt động khám người phải do người cùng
giới thực hiện là không thỏa đáng, chưa thể hiện sự tôn trọng quyền được coi
trọng thân thể của mỗi cá nhân. Vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, trong bối
cảnh quyền con người đang ngày càng được đề cao ở hầu hết các quốc gia
trên thế giới, quy định này trong luật tố tụng hình sự Nhật Bản cũng nên sửa
đổi, bổ sung theo hướng: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và bắt
buộc phải có người cùng giới chứng kiến như trong pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật của nhiều quốc gia có nền lập pháp tiến bộ khác trên thế giới.
1.4.2. LuậtTốtụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hiện nay, do đặc điểm thể chế truyền thống của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, ở quốc gia này không có một BLTTHS riêng biệt, những quy định
về tố tụng hình sự được điều chỉnh ở nhiều văn bản khác nhau như: Quy tắc
tố tụng hình sự Liên bang, Quy tắc tố tụng phúc thẩm Liên bang, Quy tắc
của Tòa án Tối cao, Quy tắc về bằng chứng của Liên bang và hàng loạt các
Đạo luật của Liên bang, các Quyết định hợp Hiến của Tòa án Tối cao, Quy
tắc nội bộ của Cơ quan Điều tra... Trong đó, biện pháp khám xét được điều
chỉnh tập trung tại nguyên tắc thứ 41: Khám xét và bắt giữ của Các nguyên
tắc Liên bang về Tố tụng hình sự năm 2006 (thường được gọi tắt là “Quy
tắc tố tụng hình sự Liên bang”).
Theo nguyên tắc này, lệnh khám xét có thể được ban hành đối với:
Chứng cứ về một tội phạm; Hàng buôn lậu, tài sản có được do phạm tội, hoặc
các đồ vật khác được sở hữu bất hợp pháp; Tài sản được thiết kế để sử dụng,
có ý định để sử dụng hoặc được sử dụng để phạm tội; hoặc một người cần
phải bị bắt hoặc người đang bị tạm giữ bất hợp pháp. Có thể thấy, so với pháp
luật Nhật Bản, pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ quy định về đối tượng bị áp
dụng biện pháp khám xét rộng hơn, cụ thể hơn, bao gồm cả người và tài sản
(gồm: tài liệu, sách, giấy tờ, các đồ vật hữu hình và thông tin).
25
Nguyên tắc 41 (d) (1) của Các nguyên tắc Liên bang về Tố tụng hình sự
Hoa Kỳ quy định thẩm phán sơ thẩm hoặc thẩm phán toà án bang nơi có hồ sơ
(nếu được uỷ quyền) là những người có quyền ban hành lệnh khám xét.
Thông thường, sau khi nhận được một bản khai hoặc thông báo đề nghị ban
hành lệnh khám xét và nhận thấy có căn cứ để tiến hành khám xét người hoặc
tài sản, thẩm phán sơ thẩm sẽ ban hành lệnh khám xét. Việc đề nghị ban hành
lệnh khám xét cũng có thể được diễn ra qua điện thoại hoặc các phương tiện
điện tử đáng tin cậy khác (như điện thoại, chuyển fax) nếu những thông tin
này được tiến hành ghi âm, chứng nhận theo quy định của pháp luật. Tương
tự, thẩm phán cũng có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện thoại hoặc các
phương tiện điện tử khác, sau đó chuyển hóa lệnh này thành văn bản theo quy
định tại Nguyên tắc 41(e) (3). Đây là một quy định khá khác biệt của pháp
luật Hoa Kỳ, bởi hiện nay, hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới có ghi
nhận biện pháp khám xét đều quy định lệnh khám xét phải được lập thành văn
bản, có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền – nghĩa là lệnh này phải được
tồn tại dưới hình thức một văn bản giấy. Thực tế điều tra cho thấy, việc quy
định cho cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện
thoại hoặc các phương tiện điện tử khác như trong pháp luật Hoa Kỳ mang lại
ý nghĩa lớn trong những trường hợp khẩn cấp hoặc không thể trì hoãn tiến
hành khám xét. Quy định này vừa thể hiện sự linh hoạt của pháp luật vừa
phản ánh một trình độ lập pháp khoa học, tiến bộ, văn minh ở quốc gia này.
Nội dung của quy định trên sẽ được tác giả đưa vào nghiên cứu để kiến nghị
hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam tại Chương 3.
Để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, pháp luật Hoa Kỳ
đã ghi nhận các nguyên tắc thi hành lệnh đối với các cơ quan có thẩm quyền:
- Thi hành lệnh trong khoảng thời gian cụ thể, không quá 10 ngày;
- Thi hành lệnh vào ban ngày, trừ khi thẩm phán vì lí do chính đáng uỷ
quyền việc thi hành vào thời điểm khác;
26
- Sau khi thi hành, phải trả lại lệnh cho người thẩm phán sơ thẩm được
ghi trong lệnh.
Có thể thấy, với quan niệm khám xét là một biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự, có nguy cơ xâm phạm đến quyền con người, pháp luật tố tụng hình sự
Hoa Kỳ đã quy định về biện pháp này theo chiều hướng ràng buộc chặtchẽ trình
tự, thủ tục ban hành và thực thi lệnh khám xét cũng như tính hợp pháp của nó.
Tuy nhiên, không vì thế mà các quy định của pháp luật Hoa Kỳ trở nên cứng
nhắc, trái lại, những quy định về khám xét trong luật tố tụng hình sự của quốc
gia này có rất nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với kiểu mô hình tố tụng tranh tụng
đặc trưng. Những điểm tiến bộ này rất đáng để nhiều quốc gia khác học hỏi và
hoàn thiện pháp luật tố tụng của mình, trongđó có Việt Nam.
1.4.3. LuậtTốtụng hình sự của Liên bang Nga
BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga có hiệu lực ngày 01/7/2002
thay thế cho BLTTHS năm 1960 thời Xô viết đã hệ thống và ghi nhận các quy
định về hoạt động điều tra trên cơ sở những nguyên tắc mang tính dân chủ và
pháp quyền. Những quy định này không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thực
tiễn mà còn bảo đảm tính hiệu quả của các cơ quan thực thi pháp luật khi thực
hiện nhiệm vụ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Với 01
chương, 11 mục và 77 điều quy định về hoạt động điều tra, BLTTHS 2001 đã
điều chỉnh toàn bộ biện pháp điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Các quy định về khám xét – dưới góc độ một biện pháp điều tra cũng được
ghi nhận tại một số điều của Mục 25, thuộc Chương VIII của Bộ luật với các
nội dung cụ thể sau:
Về căn cứ tiến hành khám xét:
Theo BLTTHS Liên bang Nga, mỗi hoạt động khám xét khác nhau, lại
có những căn cứ tiến hành khác nhau:
- Việc khám người, địa điểm chỉ được tiến hành khi có những tài liệu cho
27
rằng ở một địa điểm hoặc trong một người nào đó có công cụ phạm tội, những
vật, tài liệu có giá trị và có thểcó ý nghĩa đốivới vụ án [43, Điều 182, Khoản1].
- Việc khám xét điện báo, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm có thể được tiến
hành khi có đủ căn cứ cho rằng đồ vật, tài liệu tin tức có ý nghĩa đối với vụ án
đang ở trongcác bức điện báo, điệntín, bưukiện, bưu phẩmđó [43, Điều 185].
- Trong một số trường hợp việc khám xét cũng được thực hiện để nhằm
phát hiện người đang bị truy nã và thi thể người chết [43, Điều 182, Khoản 6].
Như vậy, căn cứ tiến hành khám xét đã được luật tố tụng hình sự của
Liên bang Nga quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Theo đó, căn cứ vào những
tính chất, đặc điểm khác nhau của những hoạt động khám xét cụ thể, pháp
luật Liên bang Nga đã ghi nhận những căn cứ khám xét khác nhau. Những
quy định này đã được các nhà làm luật Việt Nam học hỏi và ghi nhận trong
BLTTHS năm 2003.
Về thẩm quyền quyết định khám xét:
Thông thường, việc khám xét được tiến hành căn cứ vào quyết định của
Dự thẩm viên. Tuy nhiên, việc khám xét chỗ ở, khám xét điện báo, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm lại được tiến hành căn cứ vào quyết định của Toà án, ban
hành theo thủ tục Toà án cho phép tiến hành hoạt động điều tra. Đối với việc
khám người, có thể được tiến hành mà không cần có lệnh trong trường hợp
tạm giữ, tạm giam người đó khi có đủ căn cứ để cho rằng một người ở một địa
điểm hoặc ở nơi tiến hành khám xét đang cất giấu trong người những vật hoặc
tài liệu có thể có ý nghĩa đốivới vụ án [43, Điều 184].
Quy định này cho thấy pháp luật Liên bang Nga đã giao thẩm quyền
cưỡng chế khá lớn cho các cơ quan chức năng trong việc thực hiện hoạt động
khám xét. Đây là sự ảnh hưởng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đã tồn
tại ở quốc gia này trong nhiều năm trở về trước.
28
Về thủ tục tiến hành khám xét:
Trước khi khám xét, Dự thẩm viên công bố quyết định tiến hành khám
xét, nếu trong trường hợp Tòa án quyết định cho phép tiến hành khám xét thì
công bố quyết định của Toà án. Sau đó, Dự thẩm viên yêu cầu tự nguyện giao
nộp những đồ vật, tài liệu và những vật có giá trị có thể có ý nghĩa đốivới vụ
án cần thu giữ. Nếu chúng được giao nộp một cách tự nguyện và không có
căn cứ cho rằng chúng còn bị cất giấu thì Dự thẩm viên có quyền không tiến
hành khám xét hoặc tiếp tục tiến hành khám xét.
Khi tiến hành khám xét phải lập biên bản ghi nhận rõ những đồ vật, tài
liệu hoặc vật có giá trị được phát hiện ở đâu và trong hoàn cảnh nào, chúng
được giao nộp một cách tự nguyện hay bị thu giữ bằng biện pháp cưỡng chế.
Tất cả đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ cần phải được liệt kê đầy đủ
và nêu rõ số lượng, kích cỡ, trọng lượng, những dấu hiệu riêng và nếu có thể
thì cả giá trị của chúng. Nếu trong quá trình khám xét phát hiện thấy có âm
mưu huỷ hoại, cất giấu những đồ vật, tài liệu hoặc vật có giá trị thuộc loại bị
thu giữ thì trong biên bản phải ghi rõ việc này và những biện pháp đã áp
dụng. Bản sao biên bản được giao cho người có địa điểm bị khám xét hoặc
giao cho người đã thành niên trong gia đình họ. Nếu việc khám xét được tiến
hành tại công sở thì bản sao biên bản được giao cho đại diện lãnh đạo tổ chức
nơi công sở bị khám xét và họ phải xác nhận vào giấy biên nhận.
Một số nguyên tắc khi tiến hành khám xét:
- Phải tránh gây hư hỏng tài sản một cách không cần thiết.
- Dự thẩm viên áp dụng các biện pháp để giữ bí mật về đời tư của
người đang sống tại nơi tiến hành khám xét, về bí mật cá nhân và gia đình họ
cũng như của những người khác.
- Khi tiến hành khám xét, mọi đồ vật và tài liệu thu thập được từ việc
lưu thông phải được thu giữ trong mọi trường hợp.
29
- Những đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ phải được đưa cho
những người chứng kiến và những người khác tham gia vào quá trình khám
xem xét, nếu trong trường hợp cần thiết phải đóng gói và niêm phong tại nơi
tiến hành khám xét thì những người này ký xác nhận.
- Khi khám xét phải có mặt của người có địa điểm bị khám xét hoặc
thành viên đã thành niên trong gia đình họ. Người bào chữa hoặc luật sư của
người có địa điểm bị khám xét có thể có mặt khi tiến hành khám xét.
- Việc khám người phải do người cùng giới tiến hành và phải có mặt
những người chứng kiến và nhà chuyên môn là người cùng giới, nếu họ tham
gia vào hoạt động điều tra này.
- Sau khi tiến hành khám xét xong, phải tiến hành lập biên bản cuộc
khám xét, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia.
Bên cạnh việc quy định về hoạt động khám xét người, địa điểm, nơi ở,
nơi làm việc, thư tín, điện tín, bưu phẩm, bưu kiện, BLTTHS Liên bang Nga
còn ghi nhận hoạt động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi khi có lệnh của
Tòa án nếu có đủ căn cứ để cho rằng các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc
bằng các hình thức khác của người bị tình nghi, bị can và những người khác
có thể chứa đựng những thông tin có ý nghĩa đốivới vụ án có tội phạm là các
tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc trường hợp có sự đe doạ
việc dùng vũ lực, tống tiền hoặc những hoạt động tội phạm khác đối với
người bị hại, người làm chứng hoặc những người họ hàng thân thích của họ
(Điều 186). Đây có thể coi là một biện pháp có ý nghĩa hỗ trợ, bổ sung cho
biện pháp điều tra khám xét. Trong bối cảnh công nghệ thông tin (internet,
điện thoại…) đang phát triển rầm rộ ở tất cả các quốc gia, việc ghi nhận hoạt
động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc bằng các hình
thức khác là rất cần thiết và phù hợp.
Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn chưa được ghi
30
nhận trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như các văn bản pháp luật khác có
liên quan. Do đó, tại Chương 3 của Luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến việc
hoàn thiện pháp luật về nội dung này.
Như vậy, so với Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định về biện pháp khám
xét chặt chẽ, cụ thể và rõ ràng hơn. Những quy định này hoàn toàn phù hợp
với nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự của Liên bang Nga là: Bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị
thiệt hại do tội phạm gây ra; Bảo vệ các cá nhân không bị buộc tội, bị kết án,
bị hạn chế các quyền và tự do một cách không có căn cứ và trái pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga nói chung và một số quy
định về biện pháp điều tra khám xét trong Bộ luật này nói riêng đã được các
nhà làm luật Việt Nam nghiên cứu, tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào
BLTTHS Việt Nam trong quá trình pháp điển hóa lần đầu tiên vào năm 1988
cũng như lần pháp điển hóa thứ hai vào năm 2003 và định hướng là lần pháp
điển hóa trong những năm tới đây.
* Một số vấn đề rút ra khi nghiên cứu các quy định về biện pháp điều
tra khám xéttrong Luậttố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra
khám xét trong Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
và Liên bang Nga, chúng tôi rút ra một số nhận định sau:
Một là, nhìn chung biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng
hình sự của cả ba quốc gia trên đều được quy định khá đầy đủ, rõ ràng và chi
tiết về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành. Tuy nhiên, nội dung
của các quy định này lại không hoàn toàn giống nhau ở mỗi nước. Điều này là
lẽ tự nhiên bởi mỗi quốc gia có một đặc trưng riêng về pháp luật và đời sống
thực tiễn nên pháp luật cũng phản ánh và phù hợp với thực tiễn đó.
31
Hai là, với bản chất của một mô hình tố tụng tranh tụng đặc trưng,
trong pháp luật Hoa Kỳ, quyền con người luôn được đề cao, do đó các quy
định về biện pháp điều tra khám xét của quốc gia này chủ yếu nhấn mạnh vào
trình tự, thủ tục ban hành, tiến hành lệnh khám xét. Trong khi đó, ở Nhật Bản
và Liên bang Nga, các quy định về biện pháp điều tra khám xét lại chủ yếu
tập trung vào căn cứ và thẩm quyền tiến hành khám xét, thể hiện sự trao
quyền của Nhà nước cho các cơ quan thực thi. Như vậy, trong khi các quy
định về biện pháp điều tra khám xét của Hoa Kỳ chủ yếu hướng tới việc đảm
bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, từ đó bảo vệ tối đa quyền của
người bị áp dụng thì pháp luật Nhật Bản và Liên bang Nga lại hướng tới mục
tiêu đảm bảo tính khẩn trương, hiệu quả của hoạt động điều tra trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Ba là, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên bang Nga đều là những quốc gia có
trình độ lập pháp tiến bộ trên thế giới, những quy định về biện pháp điều tra
khám xét của các quốc gia này cũng khá đầy đủ, có nhiều nội dung tiến bộ,
văn minh, phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, để hoàn thiện luật tố tụng hình
sự Việt Nam nói chung, quy định về biện pháp điều tra khám xét nói riêng ở
nước ta, việc nghiên cứu, học hỏi các quy định của những quốc gia này là một
đòi hỏi tất yếu.
32
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003
VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
về biện pháp điều tra khám xét
Là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục đích là nhằm
phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu hoặc các đồ vật có liên quan khác, góp
phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan trong vụ án hình sự, khám xét
được BLTTHS năm 2003 quy định tại Chương XII với 8 điều luật chính: Điều
140, 141, 142, 143, 144, 145, 148, 149. Những điều luật này vừa trực tiếp
hiện thực hóa các nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản của công dân, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an
toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân quy định tại Điều 7,
Điều 8 BLTTHS vừa là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của mình.
Có thể khái quát nội dung điều chỉnh của luật tố tụng hình sự Việt Nam
về biện pháp điều tra khám xét bao gồm những vấn đề sau: căn cứ khám xét,
thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét nói chung; các biện pháp khám xét
cụ thể, bao gồm: khám người; khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; khám xét
thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
2.1.1. Căn cứ khám xét
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khám xét là một biện pháp
điều tra thu thập chứng cứ cần thiết và quan trọng nhưng ở một góc độ khác,
biện pháp điều tra này lại tác động trực tiếp đến các quyền bất khả xâm phạm
của công dân được Hiến pháp và pháp luật của nước ta bảo vệ, đó là quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, thư tín, điện tín… Vì vậy, khi không có
những căn cứ luật định, không cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được thực
hiện biện pháp điều tra này.
33
Căn cứ khám xét có thể hiểu là những thông tin mà các cơ quan có
thẩm quyền thu thập được, qua đó có đủ cơ sở để nhận định rằng ở những đối
tượng, địa điểm dự định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu
có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, xác
chết hoặc các phần của nó, người bị bắt cóc. Những thông tin này phải được
kiểm tra, xác minh, đảm bảo độ tin cậy trước khi sử dụng làm căn cứ.
Theo quy định tại BLTTHS năm 2003, việc khám xét chỉ được thực
hiện khi có các căn cứ sau:
1. Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được
tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm
việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ
vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên
quan đến vụ án.
Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến
hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã.
2. Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì
có thể khám thư tín, điện tín, bưukiện, bưu phẩm [31, Điều 140].
BLTTHS hiện hành không đưa ra căn cứ chung cho các hoạt động
khám xét mà đối với mỗi biện pháp khám xét khác nhau lại ghi nhận những
căn cứ khác nhau. Cụ thể:
- Căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm - căn
cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có
công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài
liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã.
Công cụ phạm tội được hiểu là tất cả những vật được sử dụng trực tiếp
trong quá trình thực hiện tội phạm; phương tiện phạm tội là những vật được
sử dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội và
34
đồ vật, tài sản do phạm tội mà có là tiền bạc hoặc những đồ vật khác có được
do mua bán bằng tiền phạm tội, đổi chác những vật do phạm tội mà có. Tuy
nhiên, việc quy định các căn cứ tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm như trên là chưa đầy đủ, bởi lẽ trên thực tế, các biện pháp khám xét
này còn nhằm mục đích phát hiện người bị bắt cóc, tìm kiếm tử thi hoặc các
phần của tử thi. Do đó, căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm cũng cần phải ghi nhận thêm nội dung này.
- Căn cứđể tiến hành khám thư tín, điện tín, bưukiện, bưuphẩm – căn cứ
để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm chứanhững tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án cần phải thu thập. Đó có thể là giấy tờ, tiền hoặc những
vật khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ án đanggiải quyết.
Có thể thấy, mỗi biện pháp khám xét có một mục đích riêng và cũng
tác động đến những quyền khác nhau của cá nhân, không biện pháp nào giống
biện pháp nào. Do đó, việc BLTTHS quy định những căn cứ khác nhau cho
các biện pháp khám xét khác nhau là phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra
nói chung và khám xét nói riêng.
Trên thực tế, việc xác định căn cứ khám xét là một hoạt động khá phức
tạp và khó khăn bởi những tài liệu về đối tượng cần khám xét thường ít ỏi,
trong khi đó, hoạt động điều tra khám xét lại đòi hỏi phải tiến hành khẩn
trương, đề phòng sự tẩu tán, tiêu hủy những tài liệu, chứng cứ vụ án của tội
phạm. Bởi vậy, trước khi ra lệnh khám xét, các cơ quan có thẩm quyền cần
phải phân tích, đánh giá tất cả những tài liệu chứng cứ của vụ án có liên quan
đến việc khám xét một cách thận trọng, khách quan, toàn diện nhưng cũng
cần phải nhanh chóng, kịp thời. Nếu đủ căn cứ khám xét thì ra lệnh khám xét
và tiến hành khám xét ngay để phát hiện, thu giữ những tài liệu, chứng cứ có
ý nghĩa đối với hoạt động điều tra.
Những quy định về căn cứ tiến hành khám xét được quy định trong
35
BLTTHS năm 2003 tuy còn một số hạn chế nhất định song mang nhiều ý
nghĩa trong thực tiễn đều tra cũng như trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của
con người. Một mặt, những quy định trên tạo cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp
pháp cho hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm quyền, mặt khác góp
phần hạn chế sự lạm quyền, giảm thiểu những cuộc khám xét không đảm bảo
tính hợp pháp về căn cứ tiến hành khám xét. Điều này đã khẳng định nguyên
tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, Bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân của
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét
2.1.2.1. Thẩmquyền ra lệnh khám xét
Thẩm quyền ra lệnh khám xét được quy định tại BLTTHS năm 2003
như sau:
1. Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh
khám xét của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành.
2. Trongtrường hợp không thể trì hoãn, những người được quy
định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám phải
thôngbáo bằngvănbảncho Viện kiểmsát cùngcấp [31, Điều 141].
Theo quy định trên, những người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện
pháp khám xét là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và
Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và
Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà
36
Tòaphúc thẩm Toà án nhân dân tối cao;Hội đồngxét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng CQĐT các cấp. Trongtrường hợp thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra
lệnh khám xét thì phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp
trước khi thi hành. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến sự phê chuẩn của
Viện kiểm sát như hồ sơ, trình tự thủ tục, thời hạn… lại đang bị bỏ ngỏ, chưa
được điều chỉnh. Điều này đã gây cho CQĐT nhiều khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn thực hiện. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau.
Theo khoản 2 Điều 141 BLTTHS, trong trường hợp không thể trì hoãn,
những người sau đây có quyền ra lệnh khám xét: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương
đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy
tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Sau khi
khám xong, trong thời hạn 24 giờ, người ra lệnh khám phải thông báo bằng
văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Có thể thấy việc pháp luật ghi nhận và trao quyền ra lệnh khám xét cho
những chủ thể trên đã thể hiện sự linh hoạt, phù hợp của pháp luật trong
những trường hợp khẩn cấp, cần khám xét ngay. Điều này đã góp phần hạn
chế tối đa khả năng thủ tiêu, cất giấu hoặc làm thay đổi tính chất những chứng
cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án của tội phạm và các đối tượng hữu
quan, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động khám xét. Bên cạnh
đó, việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các chủ thể trên phải thông báo bằng
văn bản đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 24 giờ sau khi
khám xong đã đảm bảo sự giám sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục khám xét, hạn
chế những cuộc khám xét tràn lan, vô căn cứ. Tuy nhiên, quy định này cũng
bộc lộ hạn chế là chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định Viện kiểm sát
cùng cấp trong trường hợp lệnh khám xét được ban hành khi tàu bay tàu, biển
đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Hơn nữa, những trường hợp không thể trì hoãn
37
cũng không được quy định cụ thể trong BLTTHS. Các cơ quan có thẩm
quyền chủ yếu phải căn cứ vào diễn biến, tính chất của từng vụ án để quyết
định trường hợp nào là không thể trì hoãn, phải tiến hành khám xét khẩn cấp.
Trong thực tiễn điều tra, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền đều xác định các
các trường hợp không thể trì hoãn theo những căn cứ như:
- Có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội
mà có hoặc đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án, người đang bị truy nã. Nếu
không tiến hành khám xét ngay thì rất có thể bị tẩu tán, tiêu hủy, người bị truy
nã có thể lẩn trốn, tẩu thoát.
- Những đồ vật, công cụ, phương tiện đang ở trong người, chỗ ở, chỗ
làm việc, địa điểm của một người có thể gây nguy hại cho những người xung
quanh hoặc bọn tội phạm có thể sử dụng để tiếp gây án tiếp tục [2, tr.30].
Tuy nhiên, những căn cứ này chỉ mang tính tham khảo chứ không phải
là quy định của văn bản quy phạm pháp luật nên không có hiệu lực bắt buộc
chung. Do đó, nếu các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tài liệu này để xác
định những trường hợp không thể trì hoãn thì không thuyết phục về mặt pháp
lý. Nội dung này chúng tôi sẽ kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Chương sau.
2.1.2.2. Thẩmquyền tiến hành khám xét
Khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành trước hoặc sau khi
khởi tố vụ án hình sự hoặc trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Do
đó, thẩm quyền tiến hành khám xét thuộc về các cơ quan được giao thẩm
quyền điều tra vụ án hình sự, trước hết là CQĐT. Theo Điều 110 BLTTHS và
Điều 1 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, CQĐT gồm có: CQĐT
trong Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể như sau:
- CQĐT trong Công an nhân dân gồm: CQĐT của Lực lượng Cảnh sát
38
nhân dân: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát
điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp
huyện) và CQĐT của Lực lượng An ninh nhân dân: Cơ quan An ninh điều tra
Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh).
- CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm: CQĐT hình sự Quân đội; Cơ
quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và
tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực và CQĐT An ninh điều tra
Quân đội: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều
tra quân khu và tương đương.
- CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm: Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự
trung ương.
Xuất phát từ thực tế là tội phạm có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực,
ở tất cả các địa bàn, vào bất kỳ thời điểm nào nên để có thể kịp thời ngăn chặn
tội phạm, thu thập chứng cứ ban đầu, hạn chế việc tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán
tang vật phạm tội, luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định giao cho một số cơ
quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực và những cơ quan làm nhiệm vụ
bảo vệ an ninh, trật tự đất nước được quyền tiến hành một số hoạt động điều
tra. Do đó, những cơ quan này cũng có thẩm quyền tiến hành khám xét.
Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm:
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ
quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Đây không phải là các
cơ quan tiến hành tố tụng, mà chỉ là các cơ quan quản lý nhà nước trong một
số lĩnh vực nhất định và những cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
39
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx
Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx

More Related Content

Similar to Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx

Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...Luận Văn 1800
 

Similar to Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx (20)

Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOTLuận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án Luật Tố tụng, HOT
 
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
Luận văn: Vấn đề đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án trong Luật Tố tụng
 
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAYLuận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAYĐề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
Đề tài: Thời hạn tố tụng trước xét xử trong luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
Luận văn: Xóa án tích theo pháp luật hình sự tỉnh Phú Thọ, HAY - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sựLuận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
Luận án: Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
 
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt NamLuận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnKabala
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf4pdx29gsr9
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdfGiáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
Giáo trình xây dựng thực đơn. Ths Hoang Ngoc Hien.pdf
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Biện Pháp Điều Tra Khám Xét Theo Luật Tố Tụng Hình Sự.docx

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHÀN BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NHÀN BIÖN PH¸P §IÒU TRA KH¸M XÐT THEO LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ LAN CHI HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các trích dẫn và ví dụ đưa ra đảm bảo chính xác, trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảovệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ngườicam đoan Nguyên Thi Nhan
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ..................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét..................7 1.1.1. Khái niệm.............................................................................................7 1.1.2. Đặc điểm.............................................................................................10 1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự.......................................................................... 15 1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra khám xét từ năm 1945 đếntrước ngày01/07/2004 ....................... 17 1.3.1. Từ năm 1945 đến trước năm 1975.....................................................17 1.3.2. Từ năm 1975 đến trước 01/07/2004...................................................20 1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới.............................. 23 1.4.1. Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản.....................................................23 1.4.2. Luật Tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ..........................25 1.4.3. Luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga...........................................27 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ........................................................... 33
  • 5. 2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về biệnpháp điềutra khám xét........................................................33 2.1.1. Căn cứ khám xét.................................................................................33 2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét .......................................36 2.1.3. Các biện pháp khám xét cụ thể ..........................................................40 2.2. Thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét....................................... 49 2.2.1. Tình hình thực hiện hoạt động khám xét ...........................................49 2.2.2. Những kết quả đạt được .....................................................................52 2.2.3. Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................57 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT.............................. 66 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét..............................................67 3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra khám xét......................................................................................80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 85 DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO..................................................... 87 PHỤ LỤC.......................................................................................................91
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: CQĐT: Bộ luật tố tụng hình sự Cơ quan điều tra
  • 7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1. Số vụ án thực hiện hoạt động khám xét khẩn cấp 50 Bảng 2.2. Số lượng và tỷ lệ các loại vụ án thực hiện hoạt động khám xét 51 Bảng 2.3. Số lượng và tỷ lệ các hoạt động khám xét cụ thể được áp dụng 52
  • 8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật tố tụng hình sự là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; quyền - nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự cụ thể. Pháp luật tố tụng hình sự vừa là công cụ đấu tranh, phòng ngừa tội phạm vừa là cơ sở bảo vệ quyền con người, quyền công dân [23, tr.13]. Điều này được thể hiện qua nhiều quy định khác nhau của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam (BLTTHS), trong đó có quy định về các biện pháp điều tra. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan có thẩm quyền thu thập được như: công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật mang dấu vết tội phạm… luôn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định, chứng minh tội phạm và người phạm tội. Thực tế cho thấy, một phần đáng kể những tài liệu, chứng cứ này được thu thập thông qua hoạt động điều tra khám xét. Khám xét là một trong những biện pháp điều tra có tính chất cưỡng chế, tác động đến những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Các quy định về khám xét là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tác động hợp pháp đến quyền cơ bản của công dân, phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu có ý nghĩa chứng minh trong vụ án, từ đó xác định phương hướng điều tra và sớm hoàn thành nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Nghiên cứu sự phát triển của luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy các biện pháp điều tra hình sự nói chung và biện pháp khám xét nói riêng đã được quy định cụ thể, có sự kế thừa, bổ sung qua từng 1
  • 9. thời kỳ. Biện pháp khám xét được ghi nhận trong Chương XII BLTTHS năm 2003 là kết quả của nhiều lần sửa đổi, bổ sung trên cơ sở thực tiễn áp dụng và thi hành của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra. Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm hiện nay, một số quy định về biện pháp điều tra khám xét trong BLTTHS năm 2003 đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định như chưa quy định chặt chẽ về căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét, thời hạn tiến hành khám xét, quy định về những hoạt động khám xét cụ thể còn nhiều điểm chưa hợp lý, những hướng dẫn về việc tiến hành hoạt động khám xét trong một số trường hợp cụ thể cũng chưa được ghi nhận… Những tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra vướng mắc, lúng túng trong quá trình thực hiện hoạt động điều tra của các cơ quan chức năng. Mặt khác, trong thực tiễn áp dụng, hoạt động khám xét của các cơ quan này, đặc biệt là cơ quan điều tra (CQĐT) còn xảy ra một số vi phạm về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, dẫn đến việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân, làm giảm hiệu quả của hoạt động khám xét nói riêng và hoạt động điều tra, giải quyết vụ án hình sự nói chung. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới; Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của BLTTHS hiện hành về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học, thực tiễn đồng thời đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng của những quy định đó có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý sâu sắc. 2
  • 10. Chính vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do khám xét có vị trí, vai trò quan trọng trong hoạt động điều tra nên đã có một số công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ, những phương diện khác nhau về biện pháp này. Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như sau: Về giáo trình, sáchchuyên khảo, bìnhluận có các côngtrìnhnhư: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, “Chương 11 – Điều tra vụ án hình sự”, Giáo trình luật Tố tụng hìnhsựViệtNam, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2014; Phạm Thanh Bình, Một trăm lời giải đáp về bắt giữ, khám xét, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 1992; Nguyễn Vạn Nguyên, Một trăm câu hỏiđáp về bắt, giam, giữvà khám xét đúng pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995; Nguyễn Mai Bộ, Nguyễn Sĩ Đại, Biện pháp ngăn chặn và khám xét, thu giữ, tạm giữ và kê biên tài sản: tìm hiểu phápluậtTố tụng hìnhsự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002; Nguyễn Mai Bộ, Biện pháp ngăn chặn khám xétvà kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Tư pháp, Hà Nội2004; Dưới góc độ bài báo nghiên cứu khoa học, tác giả Nguyễn Thanh Bình, Ngô Văn Vịnh cũng có bài viết “Hoàn thiện quy định về khám xét trong bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2013. Trên cơ sở khảo sát nêu trên, có thể thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về biện pháp điều tra khám xét. Tuy nhiên, những nghiên cứu về đề tài này chủ yếu là với tư cách một nội dung của sách chuyên khảo, tham khảo, giáo trình hay các và bài nghiên cứu mà chưa có các công trình chuyên sâu như luận văn, luận án. Mặt khác, những công trình nêu trên mới chỉ đề cập một cách tổng thể, khái quát những vấn đề lý luận chứ chưa nghiên 3
  • 11. cứu một cách toàn diện, sâu sắc, riêng biệt về biện pháp khám xét dưới cả hai góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây đã lần nữa cho thấy việc nghiên cứu đề tài: “Biệnpháp điềutra khám xét theo luậttố tụng hình sự Việt Nam” là đòihỏi kháchquan, mang tínhlý luận và thực tiễn trongbốicảnhhiện nay. 3. Đốitượng, mục đích, nhiệm vụvà phạmvinghiêncứucủa luận văn 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ việc giải mã các vấn đề lý luận, đánh giá các quy định của pháp luật về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về khám xét trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải pháp khác nâng cao hiệu quả của biện pháp điều tra này trong thực tiễn thực hiện. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đíchnghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Giải quyết một số vấn đề lý luận về biện pháp điều tra khám xét như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa; - Khái quát sự phát triển của các quy định về khám xét trong lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của nước ta để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới, đưa ra những đánh giá, nhận xét và từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp điều tra này; 4
  • 12. - Phân tích những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp điều tra khám xét, bao gồm: căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét; các biện pháp khám xét cụ thể… từ đó rút ra những tồn tại, hạn chế của các quy định về khám xét trong luật thực định cần khắc phục; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp điều tra khám xét, đồng thời phân tích, làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về biện pháp khám xét trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trong thực tiễn. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận xung quanh biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; vấn đề thực tiễn được tiếp cận, khái quát và đánh giá dựa trên kết quả nghiên cứu với giới hạn về thời gian từ năm 2010 đến năm 2014. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận từ phép duy vật biện chứng, phép duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tíchvà tổng hợp; phương pháp so sánh và đối chiếu; phương pháp thống kê để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của Luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phươngdiện lý luận và thực tiễn, vì đây là côngtrình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về biện pháp điều tra khám xét, trong đó giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến biện pháp điều tra này trong luật Tố tụng hình sự. Những điểm mới cơ bản của Luận văn, có thể đây là một trong những côngtrìnhnghiên cứuđầu tiên: - Xây dựng khái niệm biện pháp điều tra khám xét, xác định các đặc 5
  • 13. điểm cơ bản của biện pháp điều tra này cũng như ý nghĩa của việc quy định hoạt động điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; - Chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình thành và phát triển của biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; - Trình bày, đánh giá, nhận xét pháp luật Tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới về biện pháp điều tra khám xét; - Làm sáng tỏ tình hình thực hiện hoạt động khám xét của CQĐT các cấp và một số cơ quan khác có thẩm quyền điều tra; những tồn tại, hạn chế của thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện hoạt động khám xét cũng như những nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế đó; - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra này ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự bảo đảm khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Chương 2: Chương 3: Một số vấn đề chung về biện pháp điều tra khám xét trong tố tụng hình sự Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét và thực tiễn áp dụng Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp điều tra khám xét. 6
  • 14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp điều tra khám xét 1.1.1. Khái niệm Khám xét là một trong những biện pháp điều tra được quy định trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới nói chung và trong lịch sử Tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng. Ở góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, biện pháp điều tra khám xét cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều học giả. Xung quanh khái niệm khám xét tồn tại nhiều quan niệm, cách thức định nghĩa khác nhau: Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, “khám” dưới góc độ pháp lý được hiểu là: “Xét, lục soát để tìm tang chứng của tội lỗi, của hoạt động phạm pháp”[42, tr.230]. Từ điển Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000 đưa ra khái niệm khám xét là: Một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án theo lệnh của người có thẩm quyền theo quy định tại điều 141- Bộ luật tố tụng hình sự, để tìm kiếm và thu hồi công cụ phạm tội, tiền bạc và đồ vật do phạm tội mà có, cũng như mọi đồ vật và tài liệu khác có thể có ý nghĩa đối với vụ án. Có thể tiến hành phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi [38, tr.92]. Có thể thấy, việc định nghĩa khám xét theo Từ điển nêu trên đã nêu lên được khám xét là hoạt động tố tụng hình sự đồng thời là biện pháp nghiệp vụ điều tra của các cơ quan có thẩm quyền, áp dụng đối với tội phạm nhằm phát hiện những người đang bị truy nã và phát hiện tử thi. Tuy nhiên, định nghĩa này lại chưa khẳng định được bản chất của khám xét là sự tìm tòi, lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đối tượng nhất định, 7
  • 15. cũng chưa thể hiện đầy đủ mục đích của khám xét là nhằm phát hiện những chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án, hoặc tìm kiếm người đang bỏ trốn, người bị bắt cóc, hoặc phát hiện các phần của tử thi… dẫn đến việc hiểu không thật sự đầy đủ về bản chất, mục đích của hoạt động khám xét. Bên cạnh đó, việc quan niệm khám xét là một hoạt động điều tra được tiến hành ngay sau khi khởi tố vụ án là chưa phù hợp. Bởi lẽ, khám xét là một trong những biện pháp điều tra ban đầu nên biện pháp này hoàn toàn có thể được thực hiện trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự. Dưới góc độ khoa học luật Tố tụng hình sự, trong những cuốn sách chuyên khảo hoặc giáo trình luật tố tụng hình sự, các nhà nghiên cứu cũng đã đưa ra nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về biện pháp điều tra khám xét: Giáo trình Khoa học điều tra hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội năm 2014 định nghĩa: Khám xét là biện pháp điều tra được tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội; đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc [39, tr.149]. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014 quan niệm: Khám xét là biện pháp điều tra bằng cách tìm tòi, lục soát có định hướng người, chỗ ở, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm nhằm thu thập côngcụ, phươngtiện phạmtội, vật mang dấu vết của tội phạm hoặc những vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án đanggiải quyếthoặc xác chếthayngười bịtruynã [23, tr.341]. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh trong Cuốn Sổ tay pháp luật của Điều tra 8
  • 16. viên lại định nghĩa: “Khám xét là hoạt động điều tra được quy định trong BLTTHS, do cơ quan điều tra tiến hành bằng cách lục soát người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm để tìm kiếm dấu vết tội phạm, thu thập tài liệu, vật chứng hoặc những đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án” [2, tr.102]. Các định nghĩa về khám xét nêu trên đã khắc phục được hạn chế trong cách định nghĩa của Từ điển, đồng thời nhấn mạnh, làm sáng tỏ được những nội dung cơ bản của biện pháp khám xét như bản chất, mục đích và các hoạt động khám xét cụ thể. Theo đó, bản chất của biện pháp khám xét là sự tìm tòi, lục soát, cưỡng chế của các cơ quan có thẩm quyền trên những đốitượng nhất định. Mục đích của khám xét là nhằm thu thập những chứng cứ, tài liệu hoặc các đồ vật khác có liên quan đến vụ án, từ đó làm cơ sở để giải quyết vụ án hình sự. Các hoạt động khám xét rất đa dạng, bao gồm khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm… Tuy nhiên, những định nghĩa trên nêu trên vẫn có hạn chế là chưa đề cập đến các nội dung về căn cứ, trình tự, thủ tục tiến hành khám xét, thậm chí, thẩm quyền tiến hành khám xét cũng chưa được thể hiện hoặc thể hiện không đầy đủ. Có định nghĩa không thể hiện nội dung thẩm quyền khám xét, có định nghĩa lại thể hiện nội dung này không đầy đủ khi chỉ quan niệm thẩm quyền tiến hành khám xét thuộc về CQĐT. Trên thực tế, khám xét là biện pháp điều tra được thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên bên cạnh CQĐT, hàng loạt các cơ quan khác như Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cũng có thẩm quyền tiến hành khám xét trong phạm vi quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật. Theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, khám xét cần được hiểu đầy đủ là: “một biện pháp điều tra được quy định trong luật tố 9
  • 17. tụng hình sự, do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành bằng cách tìm tòi, lục soát, cưỡng chế người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm để tìm kiếm, thu thập dấu vết của tội phạm, tàiliệu, vật chứng hoặc những đồ vật khác có liên quan đến vụ án theo các căn cứ, trình tự, thủ tục luật định”. Như vậy, theo khái niệm trên, biện pháp điều tra khám xét phải bao hàm những yếu tố sau: - Được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền khi có đủ căn cứ và theo một trình tự, thủ tục luật định. - Khám xét chủyếu bao gồmcác hoạtđộng:tìmtòi, lục soát, cưỡngchế. - Các biện pháp khám xét cụ thể bao gồm: khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. - Mục đích chung của biện pháp khám xét là phát hiện, thu thập những chứng cứ, tàiliệu hoặc đồ vật khác liên quanđến việc giải quyết vụ án hình sự. 1.1.2. Đặcđiểm Biện pháp điều tra khám xét có một số đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, khám xét là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục đích là phát hiện, thu thập vật chứng có liên quan trong vụ án hình sự, từ đó làm sáng tỏ sự thậtkhách quan của vụ án Như đã phân tích ở phần trên, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, có nhiều biện pháp điều tra khác nhau được thực hiện và mỗi biện pháp mang lại những mục đích, hiệu quả riêng. Đối với biện pháp khám xét, khi thực hiện, các cơ quan có thẩm quyền sẽ phát hiện, thu thập được những chứng cứ, tài liệu có liên quan đến vụ án. Đó có thể là vũ khí, công cụ, phương tiện phạm tội, những tài sản bị tội phạm chiếm đoạt, những vật mang dấu vết tội phạm, những mẫu vật để nghiên cứu, so sánh hoặc những giấy tờ, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Trong một số trường hợp, khi hoạt động khám 10
  • 18. xét được tiến hành tại chỗ ở, địa điểm, chỗ làm việc của của chủ thể bị khám xét còn giúp phát hiện người đang bị truy nã, tử thi hoặc các phần của tử thi, người bị bắt cóc, người bị giam giữ… Những tài liệu, chứng cứ này là cơ sở quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có hành vi phạm tội xảy ra, nếu có căn cứ để xác định là đã xảy ra hành vi phạm tội thì lập kế hoạch, phương hướng điều tra và tổ chức thực hiện các hoạt động điều tra phù hợp, từ đó từng bước chứng minh tội phạm, nhanh chóng làm sáng tỏ sự thật khách quan trong vụ án hình sự. Thứ hai, khám xét là biện pháp điều tra mang tính cưỡng chế trong tố tụng hình sự Theo Từ điển tiếng Việt năm 2003, cưỡng chế là “buộc người khác phải làm theo những ý nghĩ hoặc hành động của mình” [42, tr.78], suy rộng ra, cưỡng chế trong tố tụng hình sự là việc căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự để buộc các đối tượng bị áp dụng phải tuân theo những mệnh lệnh, yêu cầu nhất định. Trong tố tụng hình sự, có nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau được ghi nhận như các biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền để bảo đảm… hoặc các biện pháp điều tra thể hiện tính cưỡng chế như khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án, xem xét dấu vết trên thân thể, áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản… Khi thực hiện những biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào các quy định của luật tố tụng hình sự và những quy định liên quan khác để buộc các đốitượng bị áp dụng phải tuân thủ. Có thể thấy khám xét là biện pháp điều tra có tác động mạnh đến những quyền cơ bản của côngdânđã được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Đó là các quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của 11
  • 19. công dân được ghi nhận tại BLTTHS “Không ai được xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mậtthưtín, điện thoại, điện tín của công dân”[31, Điều 8]; quyền bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân ghi nhận tại BLTTHS “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danhdự, nhânphẩm, tàisản. Mọi hànhvi xâm phạmtính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật”… [31, Điều 7]. Tuy nhiên, để kịp thời ngăn chặn âm mưu, hành động phạm tội của tội phạm và thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án hình sự, luật tố tụng hình sự vẫn ghi nhận quyền tiến hành khám xét của các cơ quan có thẩm quyền nếu những cơ quan này có đủ căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Những đối tượng bị khám xét có nghĩa vụ phải chấp hành đầy đủ các yêu cầu của lực lượng tiến hành khám xét, nếu các đối tượng bi áp dụng có hành vi cản trở, chống đối hoặc không hợp tác thì tùy theo tính chất của hành vi, họ sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định. Thứ ba, khám xét là biện pháp điều tra có sự đa dạng về đối tượng, địa điểm thực hiện Trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm hoặc người bị tình nghi là tội phạm hoặc những người có liên quan khác có thể che giấu những tài liệu, công cụ, phương tiện có liên quan đến vụ án ở nhiều địa điểm, trong nhiều đồ vật khác nhau, đó có thể là trên người, nơi ở, nơi làm việc hoặc trong bưu kiện, bưu phẩm... Bởi vậy, với vai trò là một biện pháp điều tra giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra tìm kiếm, phát hiện những tài liệu, công cụ liên quan đến vụ án bị tội phạm che giấu, khám xét cũng có sự đa dạng về đối tượng. Theo đó, đối tượng của biện pháp khám xét bao gồm: người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm... 12
  • 20. Mỗi đối tượng khám xét khác nhau sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền thu thập những đồ vật, tài liệu khác nhau, từ đó tổng hợp, đánh giá chứng cứ. Sự đa dạng trong đối tượng của biện pháp điều tra khám xét vừa tạo sự khách quan trong hoạt động tìm kiếm, thu thập chứng cứ, vừa góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động điều tra cũng như quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thứ tư, khám xét phảiđược tiến hành theo những nguyên tắcnhấtđịnh Trước hết, hoạtđộngkhámxét phảitiến hành theo quy địnhcủapháp luật. Như đã phân tích, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín là những quyền quan trọng của công dân được pháp luật bảo hộ, ghi nhận. Trong khi đó, đối tượng của hoạt động khám xét lại là người, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín... Bởi vậy, khi tiến hành những hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần triệt để tuân theo các quy định của pháp luật. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ: Mọi cuộc khám xét phải đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền khám xét và không được xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Cụ thể: - Chỉ được khám xét khi có các căn cứ nhận định những nơi định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, người bị bắt cóc, xác chết hoặc các phần của nó... Nếu chưa có đủ căn cứ ra lệnh khám xét thì các cơ quan có thẩm quyền cần phải thu thập những tài liệu bổ sung, nếu việc thu thập tài liệu bổ sung vẫn chưa đủ căn cứ khám xét thì không được ra lệnh khám xét. - Phải tuân thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền ra lệnh khám xét: Việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những người có thẩm quyền. Trừ trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu cần thu giữ thì việc khám người có thể được tiến hành mà không cần có lệnh. - Khi tiến hành khám xét, các cơ quan có thẩm quyền phải tuân những quy định về trình tự, thủ tục khám xét đối với các đốitượng khám xét cụ thể. 13
  • 21. - Trong quá trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét không được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Để đảm bảo thực hiện nội dung này, lực lượng khám xét phải tiến hành khám xét nghiêm túc, đúng pháp luật. Trước khi tiến hành khám xét, các cơ quan thi hành lệnh phải lên kế hoạch chuẩn bị khám xét một cách kỹ lưỡng, chu toàn bao gồm: nghiên cứu hồ sơ vụ án, thu thập, phân tích, đánh giá những tài liệu liên quan đến cuộc khám xét, lập kế hoạch khám xét (xác định thời gian khám xét, thành phần lực lượng khám xét, dự kiến những tình huống xảy ra và các biện pháp giải quyết). Khi tiến hành khám xét, người chủ trì cần giải thích, phổ biến kế hoạch khám xét cho các thành viên trong đội khám xét, phân công nhiệm vụ cho từng người và kiểm tra việc chuẩn bị của họ. Trong quá trình khám, lực lượng khám xét phải chấp hành các nguyên tắc: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến; khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình, có đại diện xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó (trừ trường hợp không thể trì hoãn) và đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc… Hoạt động khám xét phải đảm bảo yêu cầu về nghiệp vụ là bí mật, bất ngờ, bảo đảm an toàn cho người thực hiện. Để đạt được yêu cầu trên, cơ quan thi hành lệnh khám xét phải giữ bí mật chủ trương, kế hoạch khám xét, việc chuẩn bị, triển khai các lực lượng bao vây, giám sát và tạo được yếu tố bất ngờ khi xuất hiện ở nơi cần khám xét. Ngoài ra, trong quá trình khám xét, các cơ quan này không được để lộ bí mật về những phương tiện hỗ trợ, cách thức thực hiện và các biện pháp nghiệp vụ đã được áp dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trước mắt và lâu dài. Đây là nhân tố cơ bản để hoạt động khám xét đạt được mục 14
  • 22. đích. Khi yêu cầu này được thực hiện, tội phạm sẽ không có cơ hội che giấu, tiêu hủy chứng cứ hoặc chạy trốn. 1.2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự Thứ nhất, đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án dung làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án [31, Điều 64, khoản 1]. Theo khái niệm này, chứng cứ chỉ được coi là hợp pháp và có giá trị chứng minh khi thỏa mãn đầy đủ các thuộc tính khách quan, tính liên quan và tính được thu thập hợp pháp. Nếu thiếu đi một trong các thuộc tính này, chứng cứ sẽ mất đi giá trị chứng minh, trong đó thuộc tính được thu thập hợp pháp là thuộc tính cần được chú trọng bởi nó dễ bị xâm phạm nhất. Khi thực hiện hoạt động khám xét, đểđảm bảo thuộc tính được thu thập hợp pháp của chứng cứ, các cơ quan có thẩm quyền phải tránh việc xâm phạm các quyền cơ bản của công dân. Trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta, các quyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện tín… củacông dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp 2013 quyđịnh: “Mọingười có quyền bất khả xâm phạm vềthân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm…” [35, Điều 20]. Hiến pháp 2013 ghi nhận: “Mọi người có quyền bấtkhả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình;cóquyền bảo vệdanhdự, uytín của mình” [35, Điều 21]. Bản Hiến pháp này cũng quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý. Việc khám xét chỗ ở do luật định…” [35, Điều 22]. Nếu chỉ căn cứ theo những quy 15
  • 23. định này thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự, trong đó có khám xét đối với công dân sẽ bị coi là không hợp pháp. Tuy nhiên, khi những quy định về hoạt động khám xét đươc ghi nhận trong tinh thần của Hiến pháp cũng như trong luật tố tụng hình sự thì hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm quyền đã được đảm bảo về cơ sở pháp lý, từ đó tính hợp pháp của những chứng cứ thu thập được từ hoạt động khám xét cũng được khẳng định. Thứ hai, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự Quyền con người được hiểu: Là những đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội nhất định. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội, vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù, vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính nhân loại và thống nhất với quyền dân tộc cơ bản [37, tr.14]. Như vậy, quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó có mối quan hệ chặt chẽ với quyền công dân và được hiện hữu trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. Trong tố tụng hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành bởi một bên là những chủ thể đại diện cho Nhà nước, được nhà nước trao quyền, còn một bên là tội phạm hoặc người bị cho là thực hiện hành vi phạm tội. Sự khác nhau về địa vị pháp lý này dễ dẫn đến những hành vi xâm phạm quyền con người của những người tiến hành khám xét. Do đó, việc BLTTHS điều chỉnhbiện pháp điều tra khám xét về các căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh, trình tự thủ tục tiến hành khám xét,… đãgóp phần hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan, cá nhân tiến hành khám xét, từ đó bảo vệ quyền côngdân, quyền conngười theo tinh thần của BLTTHS là “bảovệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổchức, bảovệtrật tự pháp luậtxã hộichủ nghĩa…”[31, Điều 1]. 16
  • 24. Thứ ba, góp phần giảiquyết vụ án hình sự nhanh chóng, thuận lợi hơn Thực tế hoạt động điều tra cho thấy, những tài liệu, chứng cứ mà các cơ quan có thẩm quyền thu thập được như công cụ, phương tiện phạm tội, những đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án… có vai trò quyết định đến thời gian và hiệu quả của việc giải quyết vụ án hình sự. Đây được coi là những bằng chứng quan trọng để chứng minh có hay không có hành vi phạm tội? ai là người thực hiện hành vi phạm tội? cách thức thực hiện hành vi phạm tội?... để đưa tội phạm ra xét xử trước pháp luật. Trong khi đó, khám xét lại là một biện pháp điều tra tổng hợp, bao gồm nhiều hoạt động lục soát, tìm kiếm với mục đích là phát hiện, thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc phát hiện xác chết hay người đang bị truy nã, người bị bắt cóc, từ đó đưa ra kế hoạch, phương hướng cho những hoạt động tố tụng hình sự tiếp theo. Như vậy, việc pháp luật ghi nhận hoạt động khám xét đã giúp các cơ quan có thẩm quyền điều tra sớm phát hiện, thu thập các chứng cứ hoặc tài liệu liên quan đến vụ án, từ đó nhanh chóng chứng minh tội phạm, rút ngắn thời gian và nâng cao hiệu quả trong việc giải quyết vụ án hình sự. 1.3. Lịch sử phát triển của các quy định về biện pháp điều tra khám xét từ năm 1945 đếntrước ngày01/07/2004 1.3.1. Từnăm 1945đến trước năm 1975 Lịch sử phát triển của các quy định về khám xét gắn liền với lịch sử xây dựng và hoàn thiện của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu sự ra đời của pháp luật xã hội chủ nghĩa, song trong thời gian này, nước ta chưa có BLTTHS thống nhất, pháp luật tố tụng hình sự chỉ bao gồm những văn bản đơn hành, riêng rẽ… Cho tới trước năm 1957, các quy định về khám xét cơ bản là không được đề cập. Tuy nhiên, bản Hiến pháp năm 1946 và sau đó là Hiến pháp năm 1959 đã có những quy định tương đối rõ ràng về một số nội dung cốt lõi để bảo vệ 17
  • 25. quyền công dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tạo cơ sở cho các quy định về khám xét sau này. Cụ thể: Hiến pháp năm 1946 quy định: “Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật” [25, Điều 11]; Hiến pháp năm 1959 ghi nhận: “Quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được bảo đảm… Pháp luật bảo đảm nhà ở của công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà không bị xâm phạm, thư tín được giữ bí mật” [26, Điều 27, 28]. Từ tinh thần trên của Hiến pháp, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 quy định về quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân và Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 đã lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên quan đến hoạt động khám người, khám đồ vật, nhà ở và thư tín với các nội dung cụ thể như sau: - Thẩm quyền khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân trong các trường hợp thông thường thuộc về: Công tố uỷ viên, phó công tố uỷ viên, thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh hoặc thành phố trở lên (được tạm uỷ quyền giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh hoặc thành phố trở lên được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà đối với những vụ án đem xét xử tại phiên toà ấy; Cục trưởng hoặc Cục phó Cục quân pháp; Công tố uỷ viên hoặc công tố uỷ viên Toà án binh các cấp, cán bộ công tố (được uỷ quyền giữ nhiệm vụ công tố); Chánh án, phó Chánh án, cán bộ thẩm phán (được uỷ quyền làm chủ toạ phiên toà); Những người thi hành lệnh viết của các cán bộ tư pháp nêu trên [14, Điều 12,13,14]. Trong những trường hợp phạm pháp quả tang, trường hợp khẩn cấp hoặc có triệu chứng phạm pháp, trường hợp đang tiến hành điều tra vụ án mà can phạm đang bị tạm giữ, hoặc tạm giam, hoặc trong trường hợp được uỷ quyền điều tra toàn bộ vụ phạm pháp, thì tùy từng trường hợp mà Thẩm phán 18
  • 26. Toà án nhân dân huyện, châu trở lên; Cán bộ công tố của Toà án binh; Nhân viên và cán bộ công an, chiến sĩ và và cán bộ bộ độibảo vệ, bộ đội biên phòng, chiến sĩ và cán bộ bộ đội quốc phòng làm nhiệm vụ bảo vệ; Trưởng công an huyện, châu, phó côngan huyện, châu, trưởng đồn, phó đồncôngan trở lên hoặc những nhân viên thi hành lệnh viết của các cán bộ nói trên cũng có quyền được khám người, đồ vật, nhà ở và thư tín của tư nhân [14, Điều 15,16,17]. Uỷ ban hành chính xã trong khi làm nhiệm vụ tư pháp, trưởng công an và phó công an xã có quyền khám người, đồ vật, nhà ở của người phạm pháp quả tang và những người có liên quan đến vụ phạm pháp quả tang xảy ra trong xã mình [14, Điều 18]. - Các hoạt động khám xét cụ thể được điều chỉnh chi tiết là khám người và khám nhà. Theo đó, Nghị định 301 ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ quy định: Khi khám người một phụ nữ phạm pháp cần có một phụ nữ khám ở một nơi kín đáo và trong những trường hợp thông thường, nhân viên thi hành lệnh khám nhà phải cùng đi với một uỷ viên Uỷ ban Hành chính địa phương, người chủ nhà hoặc thay mặt chủ nhà và một người láng giềng, khi khám xong phải lập biên bản khám xét và giữ tang vật nếu có [14, Điều 19, 20]. Có thể thấy, Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957 và Nghị định 301 ngày 10/7/1957 không phải là những văn bản điều chỉnh trực tiếp hoạt động khám xét nên những quy định về khám xét được ghi nhận trong hai văn bản này còn rất đơn giản, sơ lược. Tuy nhiên, xét trong bối cảnh lịch sử nước ta lúc bấy giờ, việc các nhà làm luật lần đầu tiên ghi nhận một số nội dung liên quan đến hoạt động khám xét trong riêng một chương của một văn bản Luật đã thể hiện rõ nguyên tắc bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Những quy định này sẽ tạo tiền đề vững chắc cho việc ra đời và phát triển của các quy định về khám xét sau này. 19
  • 27. Tóm lại, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1975, do Luật Tố tụng hình sự chưa được pháp điển hóa nên các quy định về khám xét cũng mới chỉ được thể hiện trong các văn bản pháp luật đơn lẻ về tố tụng. Tuy nhiên, những văn bản này cũng phần nào tạo cơ sở, định hướng cho việc phát triển và hoàn thiện các quy định về đến hoạt động khám xét trong các BLTTHS sau này. 1.3.2. Từnăm 1975đến trước 01/07/2004 Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian chờ đợi thống nhất về mặt Nhà nước (từ 30/4/1975 đến 29/06/1976), Nhà nước Cộng hòa đã ban hành một số văn bản Luật tố tụng hình sự đơn lẻ. Trong đó, Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976 quy định việc bắt giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật là văn bản có nội dung điều chỉnh trực tiếp hoạt động khám xét. Trong Sắc luật này, hoạt động khám xét được điều chỉnh tại 4 điều luật, với nội dung chủ yếu là quy định các hoạt động khám nhà ở, khám đồ vật trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang, nguyên tắc và việc lập biên bản khi tiến hành khám xét. Những quy định này đã được áp dụng khá triệt để trong hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam giai đoạn trước những năm 90 của thế kỷ XX. Thời kỳ này, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 là nguồn quan trọng của Luật tố tụng hình sự. Trong cả hai bản Hiến pháp trên, các quyền bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đều được ghi nhận và bảo vệ. Trên cơ sở những nguyên tắc Hiến định, BLTTHS 1988- BLTTHS đầu tiên của nước ta ra đời đã có những quy định rõ ràng, đầy đủ về hoạt động khám xét. Tại đây, hoạt động khám xét được điều chỉnh trong một chương độc lập, bao gồm 4 điều luật với các nội dung cụ thể như sau: 20
  • 28. - Căn cứ khám xét: khám xét chỉ được thực hiện khi có căn cứ nhận định trong người, chỗ ở, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã hoặc khi cần phải thu thập những tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm [28, Điều 115]. - Thẩm quyền ra lệnh khám xét: trong những trường hợp thông thường, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán Toàán nhân dân cấp tỉnh hoặc Toàán quân sựcấp quân khu trở lên, chủ toạ phiên toà; Trưởng công an, Phó trưởng côngan cấp huyện, Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT cấp tỉnh và cấp quân khu trở lên (có lệnh khám xét do Viện kiểm sát cũng cấp phêchuẩn) là những người có thẩm quyền banhành lệnh khám xét. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể trì hoãn, người chỉ huy của đơnvị quân độiđộc lập cấp trung đoàn;Người chỉ huy đồnbiên phòngở hải đảo hoặc biên giới; Người chỉ huy máy bay, tàu biển, khi máy bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng cũng có quyền ra lệnh khám xét. Trong những trường hợp này, sau khi khám xong, người ra lệnh khám phải báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp trongthời hạn 24 giờ [28, Điều 116]. - Trình tự, thủ tục tiến hành khám xét: khi khám xét, người tiến hành khám xét phải đọc lệnh khám và đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó, giải thích cho đương sự và những người có mặt biết quyền và nghĩa vụ của họ. Tuy nhiên, trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại nơi khám xét giấu trong người đồ vật cần thu giữ thì có thể tiến hành khám người mà không cần có lệnh. Trước khi khám, người tiến hành khám xét phải yêu cầu đương sự đưa ra những đồ vật có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến hành khám xét [28, Điều 117,118,119]. 21
  • 29. - Cáclưu ýkhitiến hành hoạtđộng khámxétcụ thể:Bên cạnhcăncứ, thẩm quyền và trình tự thủ tục khám xét, BLTTHS 1988 cũng quy định về những trường hợp khám xét cụ thể (khám người, khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm…). Theo đó, khi khám người, người tiến hành khám xét phải thực hiện theo nguyên tắc: nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến [28, Điều 117]. Khi tiến hành khám chỗ ở, địa điểm, người tiến hành khám xét phải đảm bảo sự có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường hoặc thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản. Khi khám chỗ làm việc của một người: thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.Việc khám chỗ làm việc phải có đại diện của cơ quan hoặc tổ chức chứng kiến. Khi tiến hành khám chỗ ở, địa điểm, những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ, trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong [28, Điều 118]; Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì CQĐT ra lệnh thu giữ. Người thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan trước khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ quan bưu điện hữu quan phải giúp đỡ người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm vụ. Khi thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản. Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết, trừ trường hợp việc thông báo cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra 22
  • 30. lệnh thu giữ phải thông báo ngay [28, Điều 119]. Bên cạnh đó, tất cả các hoạt độngkhám xét cần phải được lập biên bản, ghi nhận lại toàn bộ những hoạt động đã thực hiện, có chữ ký xác nhận của các thành phần tham gia [28, Điều 120]. Như vậy, khi BLTTHS 1988 ra đời, các quy định về khám xét đã lần đầu tiên được điều chỉnh trong một BLTTHS thống nhất với các nội dung khá rõ ràng, chi tiết và chặt chẽ. Những quy định về khám xét này vừa thể hiện sự thống nhất, kế thừa của những văn bản trước như Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957, Nghị định 301 ngày 10/7/1957, Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/03/1976… vừa có những điểm tiến bộ, phát triển hơn. Những quy định này là cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan chức năng thực hiện hoạt động khám xét và cũng là cơ sở để bảo vệ quyền côngdân. 1.4. Các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong luật tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới 1.4.1. Luậttố tụng hình sự của Nhật Bản BLTTHS hiện hành của Nhật Bản (thông qua năm 1948, sửa đổi bổ sung năm 2004) bao gồm 7 quyển, 23 chương đã điều chỉnh một cách toàn diện các nội dung về tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý cho việc làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án cũng như áp dụng và thực thi việc trừng trị một cách nhanh chóng đốivới các vụ án hình sự, trong khi vẫn xem xét đầy đủ đến việc duy trì phúc lợi công và đảm bảo nhân quyền đốivới từng cá nhân. Cùng với biện pháp tạm giữ, biện pháp khám xét được BLTTHS Nhật Bản điều chỉnh tại Chương IX với 28 điều luật chính. Theo quy định tại Bộ luật này, khám xét là một biện pháp điều tra, có thể được áp dụng đối với bị cáo hoặc người không phải bị cáo nếu có những tình huống đủ để chỉ ra đồ vật cần bị tạm giữ. Khi có căn cứ khám xét thân thể, đồ vật hoặc nơi ở, hoặc bất kì nơi nào của các đối tượng khám xét, Tòa án có thẩm quyền ra lệnh. Lệnh khám xét có các nội dung chính gồm: tên bị cáo, tội phạm, địa điểm, 23
  • 31. thân thể, hoặc đồ vật cần bị khám xét, thời hạn có hiệu lực, và tuyên bố là sau khi hết thời hạn này thì không được thi hành, phải trả lại lệnh cũng như ngày ban hành lệnh; các vấn đề được quy định trong các nguyên tắc của toà án; phải ký tên, đóng dấu của Chánh án. Lệnh này có thể được thi hành bởi thư kí văn phòng công tố hoặc cảnh sát dưới sự chỉ huy của công tố viên, trong trường hợp cần phải bảo vệ bị cáo, chánh án có thể ra lệnh cho thư kí toà hoặc cảnh sát thi hành. Theo BLTTHS Nhật Bản, nếu trong lệnh khám xét không cho phép tiến hành vào ban đêm thì không được khám xét vào ban đêm. Tuy nhiên, trong trường hợp khám xét tại những nơi được cho là thường xuyên được sử dụng để đánh bạc, chơi số đề, hoặc các hành vi có thể gây tổn hại đến tập quán và đạo đức; hộp đêm, nhà hàng, hoặc bất kì nơi nào khác nơi công chúng có thể ra vào cả vào ban đêm thì hoạt động khám xét vẫn có thể diễn ra vào ban đêm. Quy định này của BLTTHS Nhật Bản khá linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế, vừa bảo vệ quyền con người, vừa đảm bảo hiệu quả của hoạt động điều tra. BLTTHS Nhật Bản quy định: “Trường hợp cần khám xét thân thể phụ nữ, thì phải yêu cầu một phụ nữ đã trưởng thành có mặt: Với điều kiện là không áp dụng trong trường hợp khẩn cấp” [44, Điều 115]. Theo quy định này, có thể hiểu người thi hành lệnh khám không nhất thiết phải cùng giới với người bị khám (nam có thể khám nữ và ngược lại, nữ có thể khám nam) và khi khám nam giới, không cần có người cùng giới chứng kiến, chỉ trong trường hợp khám xét thân thể phụ nữ mới cần phải có người cùng giới chứng kiến. Đây có thể coi là một điểm không hợp lý trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản. Bởi lẽ, chủ thể bị áp dụng biện pháp khám xét ngoài bị cáo còn có thể là những người không phải là bị cáo (chỉ là những người bị tình nghi phạm tội hoặc có liên quan khác), họ chưa bị hạn chế một số quyền công dân 24
  • 32. nên việc pháp luật không quy định hoạt động khám người phải do người cùng giới thực hiện là không thỏa đáng, chưa thể hiện sự tôn trọng quyền được coi trọng thân thể của mỗi cá nhân. Vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, trong bối cảnh quyền con người đang ngày càng được đề cao ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, quy định này trong luật tố tụng hình sự Nhật Bản cũng nên sửa đổi, bổ sung theo hướng: khi khám người, nam khám nam, nữ khám nữ và bắt buộc phải có người cùng giới chứng kiến như trong pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của nhiều quốc gia có nền lập pháp tiến bộ khác trên thế giới. 1.4.2. LuậtTốtụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Hiện nay, do đặc điểm thể chế truyền thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, ở quốc gia này không có một BLTTHS riêng biệt, những quy định về tố tụng hình sự được điều chỉnh ở nhiều văn bản khác nhau như: Quy tắc tố tụng hình sự Liên bang, Quy tắc tố tụng phúc thẩm Liên bang, Quy tắc của Tòa án Tối cao, Quy tắc về bằng chứng của Liên bang và hàng loạt các Đạo luật của Liên bang, các Quyết định hợp Hiến của Tòa án Tối cao, Quy tắc nội bộ của Cơ quan Điều tra... Trong đó, biện pháp khám xét được điều chỉnh tập trung tại nguyên tắc thứ 41: Khám xét và bắt giữ của Các nguyên tắc Liên bang về Tố tụng hình sự năm 2006 (thường được gọi tắt là “Quy tắc tố tụng hình sự Liên bang”). Theo nguyên tắc này, lệnh khám xét có thể được ban hành đối với: Chứng cứ về một tội phạm; Hàng buôn lậu, tài sản có được do phạm tội, hoặc các đồ vật khác được sở hữu bất hợp pháp; Tài sản được thiết kế để sử dụng, có ý định để sử dụng hoặc được sử dụng để phạm tội; hoặc một người cần phải bị bắt hoặc người đang bị tạm giữ bất hợp pháp. Có thể thấy, so với pháp luật Nhật Bản, pháp luật Liên bang của Hoa Kỳ quy định về đối tượng bị áp dụng biện pháp khám xét rộng hơn, cụ thể hơn, bao gồm cả người và tài sản (gồm: tài liệu, sách, giấy tờ, các đồ vật hữu hình và thông tin). 25
  • 33. Nguyên tắc 41 (d) (1) của Các nguyên tắc Liên bang về Tố tụng hình sự Hoa Kỳ quy định thẩm phán sơ thẩm hoặc thẩm phán toà án bang nơi có hồ sơ (nếu được uỷ quyền) là những người có quyền ban hành lệnh khám xét. Thông thường, sau khi nhận được một bản khai hoặc thông báo đề nghị ban hành lệnh khám xét và nhận thấy có căn cứ để tiến hành khám xét người hoặc tài sản, thẩm phán sơ thẩm sẽ ban hành lệnh khám xét. Việc đề nghị ban hành lệnh khám xét cũng có thể được diễn ra qua điện thoại hoặc các phương tiện điện tử đáng tin cậy khác (như điện thoại, chuyển fax) nếu những thông tin này được tiến hành ghi âm, chứng nhận theo quy định của pháp luật. Tương tự, thẩm phán cũng có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện thoại hoặc các phương tiện điện tử khác, sau đó chuyển hóa lệnh này thành văn bản theo quy định tại Nguyên tắc 41(e) (3). Đây là một quy định khá khác biệt của pháp luật Hoa Kỳ, bởi hiện nay, hầu hết pháp luật của các nước trên thế giới có ghi nhận biện pháp khám xét đều quy định lệnh khám xét phải được lập thành văn bản, có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền – nghĩa là lệnh này phải được tồn tại dưới hình thức một văn bản giấy. Thực tế điều tra cho thấy, việc quy định cho cơ quan có thẩm quyền có thể ban hành lệnh khám xét bằng điện thoại hoặc các phương tiện điện tử khác như trong pháp luật Hoa Kỳ mang lại ý nghĩa lớn trong những trường hợp khẩn cấp hoặc không thể trì hoãn tiến hành khám xét. Quy định này vừa thể hiện sự linh hoạt của pháp luật vừa phản ánh một trình độ lập pháp khoa học, tiến bộ, văn minh ở quốc gia này. Nội dung của quy định trên sẽ được tác giả đưa vào nghiên cứu để kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam tại Chương 3. Để đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, pháp luật Hoa Kỳ đã ghi nhận các nguyên tắc thi hành lệnh đối với các cơ quan có thẩm quyền: - Thi hành lệnh trong khoảng thời gian cụ thể, không quá 10 ngày; - Thi hành lệnh vào ban ngày, trừ khi thẩm phán vì lí do chính đáng uỷ quyền việc thi hành vào thời điểm khác; 26
  • 34. - Sau khi thi hành, phải trả lại lệnh cho người thẩm phán sơ thẩm được ghi trong lệnh. Có thể thấy, với quan niệm khám xét là một biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, có nguy cơ xâm phạm đến quyền con người, pháp luật tố tụng hình sự Hoa Kỳ đã quy định về biện pháp này theo chiều hướng ràng buộc chặtchẽ trình tự, thủ tục ban hành và thực thi lệnh khám xét cũng như tính hợp pháp của nó. Tuy nhiên, không vì thế mà các quy định của pháp luật Hoa Kỳ trở nên cứng nhắc, trái lại, những quy định về khám xét trong luật tố tụng hình sự của quốc gia này có rất nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với kiểu mô hình tố tụng tranh tụng đặc trưng. Những điểm tiến bộ này rất đáng để nhiều quốc gia khác học hỏi và hoàn thiện pháp luật tố tụng của mình, trongđó có Việt Nam. 1.4.3. LuậtTốtụng hình sự của Liên bang Nga BLTTHS năm 2001 của Liên bang Nga có hiệu lực ngày 01/7/2002 thay thế cho BLTTHS năm 1960 thời Xô viết đã hệ thống và ghi nhận các quy định về hoạt động điều tra trên cơ sở những nguyên tắc mang tính dân chủ và pháp quyền. Những quy định này không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn mà còn bảo đảm tính hiệu quả của các cơ quan thực thi pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ và bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân. Với 01 chương, 11 mục và 77 điều quy định về hoạt động điều tra, BLTTHS 2001 đã điều chỉnh toàn bộ biện pháp điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các quy định về khám xét – dưới góc độ một biện pháp điều tra cũng được ghi nhận tại một số điều của Mục 25, thuộc Chương VIII của Bộ luật với các nội dung cụ thể sau: Về căn cứ tiến hành khám xét: Theo BLTTHS Liên bang Nga, mỗi hoạt động khám xét khác nhau, lại có những căn cứ tiến hành khác nhau: - Việc khám người, địa điểm chỉ được tiến hành khi có những tài liệu cho 27
  • 35. rằng ở một địa điểm hoặc trong một người nào đó có công cụ phạm tội, những vật, tài liệu có giá trị và có thểcó ý nghĩa đốivới vụ án [43, Điều 182, Khoản1]. - Việc khám xét điện báo, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm có thể được tiến hành khi có đủ căn cứ cho rằng đồ vật, tài liệu tin tức có ý nghĩa đối với vụ án đang ở trongcác bức điện báo, điệntín, bưukiện, bưu phẩmđó [43, Điều 185]. - Trong một số trường hợp việc khám xét cũng được thực hiện để nhằm phát hiện người đang bị truy nã và thi thể người chết [43, Điều 182, Khoản 6]. Như vậy, căn cứ tiến hành khám xét đã được luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định khá chặt chẽ và cụ thể. Theo đó, căn cứ vào những tính chất, đặc điểm khác nhau của những hoạt động khám xét cụ thể, pháp luật Liên bang Nga đã ghi nhận những căn cứ khám xét khác nhau. Những quy định này đã được các nhà làm luật Việt Nam học hỏi và ghi nhận trong BLTTHS năm 2003. Về thẩm quyền quyết định khám xét: Thông thường, việc khám xét được tiến hành căn cứ vào quyết định của Dự thẩm viên. Tuy nhiên, việc khám xét chỗ ở, khám xét điện báo, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm lại được tiến hành căn cứ vào quyết định của Toà án, ban hành theo thủ tục Toà án cho phép tiến hành hoạt động điều tra. Đối với việc khám người, có thể được tiến hành mà không cần có lệnh trong trường hợp tạm giữ, tạm giam người đó khi có đủ căn cứ để cho rằng một người ở một địa điểm hoặc ở nơi tiến hành khám xét đang cất giấu trong người những vật hoặc tài liệu có thể có ý nghĩa đốivới vụ án [43, Điều 184]. Quy định này cho thấy pháp luật Liên bang Nga đã giao thẩm quyền cưỡng chế khá lớn cho các cơ quan chức năng trong việc thực hiện hoạt động khám xét. Đây là sự ảnh hưởng của mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn đã tồn tại ở quốc gia này trong nhiều năm trở về trước. 28
  • 36. Về thủ tục tiến hành khám xét: Trước khi khám xét, Dự thẩm viên công bố quyết định tiến hành khám xét, nếu trong trường hợp Tòa án quyết định cho phép tiến hành khám xét thì công bố quyết định của Toà án. Sau đó, Dự thẩm viên yêu cầu tự nguyện giao nộp những đồ vật, tài liệu và những vật có giá trị có thể có ý nghĩa đốivới vụ án cần thu giữ. Nếu chúng được giao nộp một cách tự nguyện và không có căn cứ cho rằng chúng còn bị cất giấu thì Dự thẩm viên có quyền không tiến hành khám xét hoặc tiếp tục tiến hành khám xét. Khi tiến hành khám xét phải lập biên bản ghi nhận rõ những đồ vật, tài liệu hoặc vật có giá trị được phát hiện ở đâu và trong hoàn cảnh nào, chúng được giao nộp một cách tự nguyện hay bị thu giữ bằng biện pháp cưỡng chế. Tất cả đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ cần phải được liệt kê đầy đủ và nêu rõ số lượng, kích cỡ, trọng lượng, những dấu hiệu riêng và nếu có thể thì cả giá trị của chúng. Nếu trong quá trình khám xét phát hiện thấy có âm mưu huỷ hoại, cất giấu những đồ vật, tài liệu hoặc vật có giá trị thuộc loại bị thu giữ thì trong biên bản phải ghi rõ việc này và những biện pháp đã áp dụng. Bản sao biên bản được giao cho người có địa điểm bị khám xét hoặc giao cho người đã thành niên trong gia đình họ. Nếu việc khám xét được tiến hành tại công sở thì bản sao biên bản được giao cho đại diện lãnh đạo tổ chức nơi công sở bị khám xét và họ phải xác nhận vào giấy biên nhận. Một số nguyên tắc khi tiến hành khám xét: - Phải tránh gây hư hỏng tài sản một cách không cần thiết. - Dự thẩm viên áp dụng các biện pháp để giữ bí mật về đời tư của người đang sống tại nơi tiến hành khám xét, về bí mật cá nhân và gia đình họ cũng như của những người khác. - Khi tiến hành khám xét, mọi đồ vật và tài liệu thu thập được từ việc lưu thông phải được thu giữ trong mọi trường hợp. 29
  • 37. - Những đồ vật, tài liệu và vật có giá trị bị thu giữ phải được đưa cho những người chứng kiến và những người khác tham gia vào quá trình khám xem xét, nếu trong trường hợp cần thiết phải đóng gói và niêm phong tại nơi tiến hành khám xét thì những người này ký xác nhận. - Khi khám xét phải có mặt của người có địa điểm bị khám xét hoặc thành viên đã thành niên trong gia đình họ. Người bào chữa hoặc luật sư của người có địa điểm bị khám xét có thể có mặt khi tiến hành khám xét. - Việc khám người phải do người cùng giới tiến hành và phải có mặt những người chứng kiến và nhà chuyên môn là người cùng giới, nếu họ tham gia vào hoạt động điều tra này. - Sau khi tiến hành khám xét xong, phải tiến hành lập biên bản cuộc khám xét, có đầy đủ chữ ký của những người tham gia. Bên cạnh việc quy định về hoạt động khám xét người, địa điểm, nơi ở, nơi làm việc, thư tín, điện tín, bưu phẩm, bưu kiện, BLTTHS Liên bang Nga còn ghi nhận hoạt động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi khi có lệnh của Tòa án nếu có đủ căn cứ để cho rằng các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc bằng các hình thức khác của người bị tình nghi, bị can và những người khác có thể chứa đựng những thông tin có ý nghĩa đốivới vụ án có tội phạm là các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng hoặc trường hợp có sự đe doạ việc dùng vũ lực, tống tiền hoặc những hoạt động tội phạm khác đối với người bị hại, người làm chứng hoặc những người họ hàng thân thích của họ (Điều 186). Đây có thể coi là một biện pháp có ý nghĩa hỗ trợ, bổ sung cho biện pháp điều tra khám xét. Trong bối cảnh công nghệ thông tin (internet, điện thoại…) đang phát triển rầm rộ ở tất cả các quốc gia, việc ghi nhận hoạt động giám sát và ghi âm các cuộc trao đổi qua điện thoại hoặc bằng các hình thức khác là rất cần thiết và phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay, ở Việt Nam, hoạt động này vẫn chưa được ghi 30
  • 38. nhận trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan. Do đó, tại Chương 3 của Luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến việc hoàn thiện pháp luật về nội dung này. Như vậy, so với Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, luật Tố tụng hình sự của Liên bang Nga quy định về biện pháp khám xét chặt chẽ, cụ thể và rõ ràng hơn. Những quy định này hoàn toàn phù hợp với nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự của Liên bang Nga là: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra; Bảo vệ các cá nhân không bị buộc tội, bị kết án, bị hạn chế các quyền và tự do một cách không có căn cứ và trái pháp luật. Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga nói chung và một số quy định về biện pháp điều tra khám xét trong Bộ luật này nói riêng đã được các nhà làm luật Việt Nam nghiên cứu, tham khảo và vận dụng có chọn lọc vào BLTTHS Việt Nam trong quá trình pháp điển hóa lần đầu tiên vào năm 1988 cũng như lần pháp điển hóa thứ hai vào năm 2003 và định hướng là lần pháp điển hóa trong những năm tới đây. * Một số vấn đề rút ra khi nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra khám xéttrong Luậttố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các quy định về biện pháp điều tra khám xét trong Luật tố tụng hình sự của Nhật Bản, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và Liên bang Nga, chúng tôi rút ra một số nhận định sau: Một là, nhìn chung biện pháp điều tra khám xét trong pháp luật Tố tụng hình sự của cả ba quốc gia trên đều được quy định khá đầy đủ, rõ ràng và chi tiết về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiến hành. Tuy nhiên, nội dung của các quy định này lại không hoàn toàn giống nhau ở mỗi nước. Điều này là lẽ tự nhiên bởi mỗi quốc gia có một đặc trưng riêng về pháp luật và đời sống thực tiễn nên pháp luật cũng phản ánh và phù hợp với thực tiễn đó. 31
  • 39. Hai là, với bản chất của một mô hình tố tụng tranh tụng đặc trưng, trong pháp luật Hoa Kỳ, quyền con người luôn được đề cao, do đó các quy định về biện pháp điều tra khám xét của quốc gia này chủ yếu nhấn mạnh vào trình tự, thủ tục ban hành, tiến hành lệnh khám xét. Trong khi đó, ở Nhật Bản và Liên bang Nga, các quy định về biện pháp điều tra khám xét lại chủ yếu tập trung vào căn cứ và thẩm quyền tiến hành khám xét, thể hiện sự trao quyền của Nhà nước cho các cơ quan thực thi. Như vậy, trong khi các quy định về biện pháp điều tra khám xét của Hoa Kỳ chủ yếu hướng tới việc đảm bảo tính hợp pháp của hoạt động khám xét, từ đó bảo vệ tối đa quyền của người bị áp dụng thì pháp luật Nhật Bản và Liên bang Nga lại hướng tới mục tiêu đảm bảo tính khẩn trương, hiệu quả của hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ba là, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Liên bang Nga đều là những quốc gia có trình độ lập pháp tiến bộ trên thế giới, những quy định về biện pháp điều tra khám xét của các quốc gia này cũng khá đầy đủ, có nhiều nội dung tiến bộ, văn minh, phù hợp với thực tiễn. Chính vì vậy, để hoàn thiện luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung, quy định về biện pháp điều tra khám xét nói riêng ở nước ta, việc nghiên cứu, học hỏi các quy định của những quốc gia này là một đòi hỏi tất yếu. 32
  • 40. Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VỀ BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA KHÁM XÉT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 về biện pháp điều tra khám xét Là một biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự có mục đích là nhằm phát hiện, thu thập chứng cứ, tài liệu hoặc các đồ vật có liên quan khác, góp phần làm sáng tỏ những tình tiết khách quan trong vụ án hình sự, khám xét được BLTTHS năm 2003 quy định tại Chương XII với 8 điều luật chính: Điều 140, 141, 142, 143, 144, 145, 148, 149. Những điều luật này vừa trực tiếp hiện thực hóa các nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân quy định tại Điều 7, Điều 8 BLTTHS vừa là cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Có thể khái quát nội dung điều chỉnh của luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp điều tra khám xét bao gồm những vấn đề sau: căn cứ khám xét, thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét nói chung; các biện pháp khám xét cụ thể, bao gồm: khám người; khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; khám xét thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. 2.1.1. Căn cứ khám xét Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khám xét là một biện pháp điều tra thu thập chứng cứ cần thiết và quan trọng nhưng ở một góc độ khác, biện pháp điều tra này lại tác động trực tiếp đến các quyền bất khả xâm phạm của công dân được Hiến pháp và pháp luật của nước ta bảo vệ, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, thư tín, điện tín… Vì vậy, khi không có những căn cứ luật định, không cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được thực hiện biện pháp điều tra này. 33
  • 41. Căn cứ khám xét có thể hiểu là những thông tin mà các cơ quan có thẩm quyền thu thập được, qua đó có đủ cơ sở để nhận định rằng ở những đối tượng, địa điểm dự định khám xét đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, xác chết hoặc các phần của nó, người bị bắt cóc. Những thông tin này phải được kiểm tra, xác minh, đảm bảo độ tin cậy trước khi sử dụng làm căn cứ. Theo quy định tại BLTTHS năm 2003, việc khám xét chỉ được thực hiện khi có các căn cứ sau: 1. Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. 2. Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưukiện, bưu phẩm [31, Điều 140]. BLTTHS hiện hành không đưa ra căn cứ chung cho các hoạt động khám xét mà đối với mỗi biện pháp khám xét khác nhau lại ghi nhận những căn cứ khác nhau. Cụ thể: - Căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm - căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án hoặc khi cần phát hiện người đang bị truy nã. Công cụ phạm tội được hiểu là tất cả những vật được sử dụng trực tiếp trong quá trình thực hiện tội phạm; phương tiện phạm tội là những vật được sử dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội và 34
  • 42. đồ vật, tài sản do phạm tội mà có là tiền bạc hoặc những đồ vật khác có được do mua bán bằng tiền phạm tội, đổi chác những vật do phạm tội mà có. Tuy nhiên, việc quy định các căn cứ tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm như trên là chưa đầy đủ, bởi lẽ trên thực tế, các biện pháp khám xét này còn nhằm mục đích phát hiện người bị bắt cóc, tìm kiếm tử thi hoặc các phần của tử thi. Do đó, căn cứ để tiến hành khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng cần phải ghi nhận thêm nội dung này. - Căn cứđể tiến hành khám thư tín, điện tín, bưukiện, bưuphẩm – căn cứ để nhận định trong thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm chứanhững tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án cần phải thu thập. Đó có thể là giấy tờ, tiền hoặc những vật khác có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ án đanggiải quyết. Có thể thấy, mỗi biện pháp khám xét có một mục đích riêng và cũng tác động đến những quyền khác nhau của cá nhân, không biện pháp nào giống biện pháp nào. Do đó, việc BLTTHS quy định những căn cứ khác nhau cho các biện pháp khám xét khác nhau là phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra nói chung và khám xét nói riêng. Trên thực tế, việc xác định căn cứ khám xét là một hoạt động khá phức tạp và khó khăn bởi những tài liệu về đối tượng cần khám xét thường ít ỏi, trong khi đó, hoạt động điều tra khám xét lại đòi hỏi phải tiến hành khẩn trương, đề phòng sự tẩu tán, tiêu hủy những tài liệu, chứng cứ vụ án của tội phạm. Bởi vậy, trước khi ra lệnh khám xét, các cơ quan có thẩm quyền cần phải phân tích, đánh giá tất cả những tài liệu chứng cứ của vụ án có liên quan đến việc khám xét một cách thận trọng, khách quan, toàn diện nhưng cũng cần phải nhanh chóng, kịp thời. Nếu đủ căn cứ khám xét thì ra lệnh khám xét và tiến hành khám xét ngay để phát hiện, thu giữ những tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra. Những quy định về căn cứ tiến hành khám xét được quy định trong 35
  • 43. BLTTHS năm 2003 tuy còn một số hạn chế nhất định song mang nhiều ý nghĩa trong thực tiễn đều tra cũng như trong việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Một mặt, những quy định trên tạo cơ sở pháp lý, đảm bảo tính hợp pháp cho hoạt động khám xét của các cơ quan có thẩm quyền, mặt khác góp phần hạn chế sự lạm quyền, giảm thiểu những cuộc khám xét không đảm bảo tính hợp pháp về căn cứ tiến hành khám xét. Điều này đã khẳng định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng như nguyên tắc Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân, Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân của luật tố tụng hình sự Việt Nam. 2.1.2. Thẩm quyền ra lệnh và tiến hành khám xét 2.1.2.1. Thẩmquyền ra lệnh khám xét Thẩm quyền ra lệnh khám xét được quy định tại BLTTHS năm 2003 như sau: 1. Những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh khám xét của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. 2. Trongtrường hợp không thể trì hoãn, những người được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh khám phải thôngbáo bằngvănbảncho Viện kiểmsát cùngcấp [31, Điều 141]. Theo quy định trên, những người có thẩm quyền ra lệnh áp dụng biện pháp khám xét là Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà 36
  • 44. Tòaphúc thẩm Toà án nhân dân tối cao;Hội đồngxét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trongtrường hợp thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT ra lệnh khám xét thì phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trước khi thi hành. Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như hồ sơ, trình tự thủ tục, thời hạn… lại đang bị bỏ ngỏ, chưa được điều chỉnh. Điều này đã gây cho CQĐT nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể ở phần sau. Theo khoản 2 Điều 141 BLTTHS, trong trường hợp không thể trì hoãn, những người sau đây có quyền ra lệnh khám xét: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Sau khi khám xong, trong thời hạn 24 giờ, người ra lệnh khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp. Có thể thấy việc pháp luật ghi nhận và trao quyền ra lệnh khám xét cho những chủ thể trên đã thể hiện sự linh hoạt, phù hợp của pháp luật trong những trường hợp khẩn cấp, cần khám xét ngay. Điều này đã góp phần hạn chế tối đa khả năng thủ tiêu, cất giấu hoặc làm thay đổi tính chất những chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan đến vụ án của tội phạm và các đối tượng hữu quan, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động khám xét. Bên cạnh đó, việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các chủ thể trên phải thông báo bằng văn bản đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 24 giờ sau khi khám xong đã đảm bảo sự giám sát chặt chẽ về trình tự, thủ tục khám xét, hạn chế những cuộc khám xét tràn lan, vô căn cứ. Tuy nhiên, quy định này cũng bộc lộ hạn chế là chưa có hướng dẫn cụ thể về việc xác định Viện kiểm sát cùng cấp trong trường hợp lệnh khám xét được ban hành khi tàu bay tàu, biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Hơn nữa, những trường hợp không thể trì hoãn 37
  • 45. cũng không được quy định cụ thể trong BLTTHS. Các cơ quan có thẩm quyền chủ yếu phải căn cứ vào diễn biến, tính chất của từng vụ án để quyết định trường hợp nào là không thể trì hoãn, phải tiến hành khám xét khẩn cấp. Trong thực tiễn điều tra, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền đều xác định các các trường hợp không thể trì hoãn theo những căn cứ như: - Có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án, người đang bị truy nã. Nếu không tiến hành khám xét ngay thì rất có thể bị tẩu tán, tiêu hủy, người bị truy nã có thể lẩn trốn, tẩu thoát. - Những đồ vật, công cụ, phương tiện đang ở trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có thể gây nguy hại cho những người xung quanh hoặc bọn tội phạm có thể sử dụng để tiếp gây án tiếp tục [2, tr.30]. Tuy nhiên, những căn cứ này chỉ mang tính tham khảo chứ không phải là quy định của văn bản quy phạm pháp luật nên không có hiệu lực bắt buộc chung. Do đó, nếu các cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tài liệu này để xác định những trường hợp không thể trì hoãn thì không thuyết phục về mặt pháp lý. Nội dung này chúng tôi sẽ kiến nghị hoàn thiện pháp luật ở Chương sau. 2.1.2.2. Thẩmquyền tiến hành khám xét Khám xét là một biện pháp điều tra được tiến hành trước hoặc sau khi khởi tố vụ án hình sự hoặc trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Do đó, thẩm quyền tiến hành khám xét thuộc về các cơ quan được giao thẩm quyền điều tra vụ án hình sự, trước hết là CQĐT. Theo Điều 110 BLTTHS và Điều 1 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, CQĐT gồm có: CQĐT trong Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cụ thể như sau: - CQĐT trong Công an nhân dân gồm: CQĐT của Lực lượng Cảnh sát 38
  • 46. nhân dân: Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp tỉnh); Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện) và CQĐT của Lực lượng An ninh nhân dân: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an; Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Cơ quan An ninh điều tra Công an cấp tỉnh). - CQĐT trong Quân đội nhân dân gồm: CQĐT hình sự Quân đội; Cơ quan điều tra hình sự Bộ Quốc phòng; Cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương; Cơ quan điều tra hình sự khu vực và CQĐT An ninh điều tra Quân đội: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng; Cơ quan An ninh điều tra quân khu và tương đương. - CQĐT của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm: Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương. Xuất phát từ thực tế là tội phạm có thể xảy ra trong tất cả các lĩnh vực, ở tất cả các địa bàn, vào bất kỳ thời điểm nào nên để có thể kịp thời ngăn chặn tội phạm, thu thập chứng cứ ban đầu, hạn chế việc tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tang vật phạm tội, luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định giao cho một số cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực và những cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự đất nước được quyền tiến hành một số hoạt động điều tra. Do đó, những cơ quan này cũng có thẩm quyền tiến hành khám xét. Các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra bao gồm: Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. Đây không phải là các cơ quan tiến hành tố tụng, mà chỉ là các cơ quan quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực nhất định và những cơ quan trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ 39