SlideShare a Scribd company logo
1 of 164
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀI NAM
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI-năm 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HOÀI NAM
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9 38 01 04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Oanh
HÀ NỘI-năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của tôi. Các số liệu và tư liệu trong
luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình
nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 18
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn
đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án
21
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO
24
2.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
24
2.2. Những vấn đề lý luận về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao
44
2.3. Mối quan hệ, các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá chất lượng
thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao
53
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ
ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
63
3.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta
hiện nay
63
3.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình
sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay
84
Chương 4: YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ, KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
114
4.1. Yêu cầu đặt ra cho thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ
án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao
114
4.2. Quan điểm định hướng đảm bảo chất lượng thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân
cấp cao
120
4.3. Các giải pháp đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao
121
KẾT LUẬN CHUNG 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
PHỤ LỤC 154
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
1 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
2 GĐT Giám đốc thẩm
4 KSV Kiểm sát viên
3 KSXX Kiểm sát xét xử
5 PT Phúc thẩm
6 QCT Quyền công tố
7 TA Tòa án
8 TAND Tòa án nhân dân
10 TT Tái thẩm
9 THQCT Thực hành quyền công tố
11 VKS Viện kiểm sát
12 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC
Phụ lục 1 Thống kê kết quả kiểm sát bản án sơ thẩm hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018
Phụ lục 2 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018
Phụ lục 3 Thống kê kết quả giải quyết đơn đề nghị kháng nghị GĐT, TT
hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến
30/11/2018
Phụ lục 4 Thống kê kết quả THQCT và KSXX GĐT, TT án hình sự của các
VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018
Phụ lục 5 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các Viện
phúc thẩm VKSND tối cao từ ngày 01/12/2008 đến 31/5/2015
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy, cùng với sự phát triển của
xã hội loài người, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội ngày càng
phải chính xác, công bằng hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các lợi ích chung
của xã hội, đồng thời đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân. Xuất
phát từ yêu cầu khách quan của xã hội, hoạt động xét xử, một hoạt động tố tụng
rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dần phát triển các cơ chế
phù hợp để tăng cường tính chính xác, công bằng. Để hạn chế sai sót, có thể
kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của TA cấp dưới, cơ chế TA cấp
trên xét xử lại vụ án có bản án, quyết định chưa có hiệu lực (xét xử PT), hoặc xét
lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (GĐT, TT) dần dần xuất hiện và
ngày nay mang tính phổ biến trên toàn thế giới. Trong quá trình đó, đồng hành
với hoạt động xét xử của TA luôn luôn là hoạt động THQCT của cơ quan công
tố và cả hoạt động KSXX ở một số nước. Như vậy có thể nói xét xử PT, GĐT,
TT cũng như THQCT và KSXX PT, GĐT, TT tồn tại như một nhu cầu tất yếu ở
mọi nền tư pháp, là một giai đoạn tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo việc xét xử
vụ án hình sự được chính xác, công bằng.
Tuy mục tiêu cho hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình
sự là giống nhau, nhưng các nước ở từng giai đoạn lịch sử có cách thức tổ chức
thực hiện khác nhau. Đối với nước ta, để khắc phục các bất cập, hạn chế, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, cần đổi mới tổ chức hoạt động của cơ
quan tư pháp, trong đó có việc tổ chức ra VKSND cấp cao. VKSND cấp cao là một
cấp kiểm sát mới trong hệ thống VKSND 4 cấp, có nhiệm vụ THQCT và KSXX
theo thủ tục PT đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TA cấp
tỉnh; THQCT và KSXX theo thủ tục GĐT, TT đối với bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của TA cấp tỉnh, cấp huyện. Đây là một lựa chọn hợp lý nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của cả hệ thống VKS nói chung, hoạt động THQCT
và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự nói riêng.
2
Sau khi được thành lập, mặc dù phải thụ lý giải quyết khối lượng công việc
rất lớn, nhưng trong hơn 3 năm qua các Viện cấp cao cơ bản đã hoàn thành
nhiệm vụ THQCT và KSXX án hình sự theo các thủ tục PT, GĐT, TT. Tuy vậy
mô hình VKSND cấp cao còn hết sức mới mẻ ở nước ta. Các quy định của pháp
luật đảm bảo cho hoạt động của VKSND cấp cao nói chung, hoạt động THQCT
và KSXX vụ án hình sự nói riêng vẫn còn chưa đầy đủ và có những điểm chưa
phù hợp gây khó khăn cho hoạt động THQCT và KSXX án hình sự của VKSND
cấp cao. Cùng với đó, điều kiện hoạt động của các VKSND cấp cao còn rất thiếu
thốn về cơ sở vật chất, lực lượng cán bộ, lề lối làm việc. Thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao cho thấy, bên
cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu làm
rõ những vấn đề lý luận, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX vụ
án hình sự của VKSND cấp cao là rất cần thiết. Vì những lý do như trên, nghiên
cứu sinh đã chọn vấn đề “Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích nghiên cứu của Luận án là làm rõ những vấn đề lý luận về
THQCT và KSXX vụ án hình sự, thực trạng quy định, áp dụng pháp luật về
THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác này tại VKSND cấp cao.
* Để đạt mục đích đề ra, quá trình nghiên cứu Đề tài phải giải quyết một số
nhiệm vụ như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử theo thủ tục PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao;
- Khảo sát thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp
luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay,
đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân;
3
- Làm rõ yêu cầu, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả THQCT và KSXX vụ án hình sự tại VKSND cấp cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn THQCT và KSXX vụ án
hình sự của VKSND cấp cao.
* Phạm vi nghiên cứu của luận án: Đề tài được thực hiện trong phạm vi
của khoa học Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự; sử dụng số liệu thống kê về
hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của 03 VKSND cấp cao
và các bộ phận thuộc hệ thống cơ quan VKSND trước đây đã thực hiện nhiệm vụ
tương ứng trong thời gian 10 năm gần đây.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Phương pháp luận: Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước
ta về cải cách tư pháp trong những năm qua.
* Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp hệ thống, nghiên
cứu luật so sánh, tập trung nhất ở Chương 2 để làm rõ những vấn đề lý luận về
THQCT và KSXX nói chung, THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp
cao nói riêng;
Phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích so sánh, tọa đàm khoa học,
phỏng vấn trực tiếp chuyên gia, sử dụng số liệu thống kê của ngành kiểm sát
nhằm tìm hiểu về luật thực định về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của
VKSND cấp cao cũng như đánh giá thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
của VKSND cấp cao trong những năm qua, so sánh với giai đoạn trước đây được
sử dụng tập trung ở Chương 3;
Phương pháp tổng hợp, phân tích-dự báo nhằm dự báo xu hướng và nhu
cầu cần thiết về nâng cao chất lượng THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của
VKSND cấp cao các biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới tập trung ở
4
Chương 4.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Cùng với việc kế thừa những kết quả nghiên cứu về THQCT và KSXX đã
có, Luận án đóng góp mới về khoa học như sau:
- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối
tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự.
- Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ
khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp
luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện,
đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án
hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị
phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Đây là công trình khoa học nghiên cứu về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao ở Việt Nam. Với những phương pháp
nghiên cứu khoa học, Luận án đã đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề lý
luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về THQCT
và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao; đánh giá thực
tiễn quy định pháp luật, áp dụng quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT,
GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong những năm qua; đề xuất
đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như để đảm bảo hiệu
quả các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng về THQCT và KSXX PT,
GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong thời gian tới.
Các kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở cho
các nghiên cứu chuyên sâu về THQCT và KSXX vụ án hình sự. Luận án còn có
giá trị tham khảo hữu ích trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập, cũng như trong
thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp
cao.
5
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
Luận án gồm có 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
Chương 3: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố
và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước
ta hiện nay
Chương 4: Yêu cầu, quan điểm định hướng và các giải pháp bảo đảm
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đến nay trong nước đã có khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên
quan đến đề tài Luận án ở nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành một số
nhóm như sau:
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền công tố, thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử
THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của VKSND cấp cao là
một dạng hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, do vậy nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là
cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về THQCT và KSXX PT, GĐT,
TT. Liên quan đến những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp có thể kể đến một số công trình sau đây:
* Liên quan đến QCT, THQCT:
Trong nhóm liên quan đến QCT, THQCT đáng chú ý có các công trình
như Luận án tiến sỹ luật học “QCT ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa
(Viện nhà nước và pháp luật 2002), sách chuyên khảo “THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của tác giả Lê Hữu Thể (Nxb Tư pháp,
2005), Luận án tiến sỹ luật học “THQCT trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Nghệ An”
của tác giả Tôn Thiện Phương (Học viện khoa học xã hội năm 2017). Các công
trình đã nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc những vấn đề lý luận về nguồn gốc,
khái niệm, phạm vi, nội dung QCT, THQCT. Các giả cũng đã rất cố gắng phân
biệt làm rõ các khái niệm QCT và THQCT, mối quan hệ giữa QCT và THQCT –
một mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực
hiện quyền lực ấy; mối quan hệ giữa THQCT và KSXX là 2 chức năng của
VKS, tuy độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả nghiên cứu
cũng làm rõ nội dung THQCT trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó có
7
giai đoạn xét xử. Các công trình đã cung cấp kiến thức nền tảng cơ bản, có giá trị
tham khảo rất tốt khi nghiên cứu về đề tài Luận án.
Ngoài ra, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về QCT có khá nhiều bài
viết nêu lên những quan niệm khác nhau về QCT, thực tiễn THQCT ở nước ta
hiện nay như: bài viết "Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện
nay" của TS Đỗ Văn Đương in trên Tạp chí Nghiên cứ lập pháp số 07/ 2006;
“QCT và tổ chức thực hiện QCT trong nhà nước pháp quyền” của TS Nguyễn
Minh Đức in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1, 2/ 2012; “VKS với hai chức
năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp và sự lựa chọn thích hợp trong quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” của TS Nguyễn Văn
Quảng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012; “Công tố và THQCT trong tố tụng
hình sự” của tác giả Trần Đình Nhã trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
21/2014;...
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây còn có nhiều công trình nghiên cứu
về QCT, THQCT ở những góc độ khác, như Luận án tiến sỹ luật học “Các chức
năng trong TTHS Việt Nam: những vần đề lý luận và thực tiễn” của tác giả
Nguyễn Mạnh Hùng (Học viện khoa học xã hội năm 2012). Trong luận án của
mình tác giả nhìn nhận buộc tội (công tố) cùng với bào chữa, xét xử được xác
định là 3 chức năng cơ bản của TTHS. Các chức năng này có vị trí, vai trò, bản
chất, đặc trưng khác nhau, có sự độc lập với nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt
chẽ, ràng buộc nhau, đảm bảo sự vận hành của TTHS. Theo tác giả dù dưới hình
thức tố tụng nào (tố cáo, thẩm vấn, tranh tụng,...) thì ba chức năng này vẫn luôn
xuất hiện và tồn tại, chúng chỉ khác trong cách thể hiện mà thôi. Những kết quả
nghiên cứu trên mang đến những nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn về QCT, khi
đặt QCT trong mối tương tác với các chức năng tố tụng khác.
Tương tự như vậy, gần đây nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu THQCT
theo những cách thức mới, không chỉ là những hoạt động độc lập, mà cách thức
THQCT, địa vị pháp lý của KSV nói riêng được đặt trong trong mối liên hệ với
cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong mối quan hệ với
8
các chủ thể khác trong quá trình tố tụng..., như Luận án tiến sỹ luật học “Mô
hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn
Thị Thủy (2014). Trong luận án của mình tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý
luận cơ bản về mô hình TTHS; những tiêu chí khoa học về phân loại các mô
hình TTHS; làm rõ lịch sử hình thành, phát triển, đặc điểm, ưu thế, hạn chế của
các mô hình TTHS điển hình trên thế giới và xu thế phát triển chung của các mô
hình TTHS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chức năng công tố ở các mô hình tố
tụng vận hành theo những cách thức khác nhau, phù hợp với mô hình tố tụng; ở
chiều ngược lại, chức năng công tố là một thành tố của mô hình tố tụng, cách
thức vận hành của nó cũng tác động đến cách thức hoạt động của các thành tố
khác trong mô hình tố tụng đó.
Các vấn đề trên còn được nhiều tác giả khác quan tâm, thông qua các
nghiên cứu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện
các chức năng tố tụng trong các mô hình khác nhau, trong đó có việc thực hiện
chức năng buộc tội, thực tiễn ở nước ta hiện nay và các đề xuất hoàn thiện như:
tác giả Nguyễn Trương Tín với bài viết “Một số vấn đề lý luận về chức năng
buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự
2003 liên quan đến chức năng buộc tội” in trên Tập chí Nhà nước Pháp luật
8/2009; tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng
tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tung hình sự ở Việt Nam”
trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23, 24/2009; TS Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thuỷ
với “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư
pháp” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18/2010; tác giả Nguyễn Duy Giảng
với bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc tăng cường vai trò của
Viện kiểm sát trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” in trên Tạp chí Kiểm sát
2/2011; tác giả Nguyễn Ngọc Chí với bài viết “Cơ sở lựa chọn mô hình Tố tụng
hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” trên Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số chuyên đề Các cơ quan Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền 2011...
* Liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp:
9
KSXX là một dạng hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp, những vấn đề
này đã được đặt ra nghiên cứu trong khá nhiều công trình, như Đề tài khoa học
cấp bộ “Bàn về chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước và
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS ở nước ta” của VKSND tối
cao (2010). Công trình đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về quyền lực nhà nước, sự tất
yếu cần phải giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự hiện diện của VKS
với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là sản phẩm của một
chế độ xã hội theo kiểu quốc gia XHCN hay quốc gia TBCN, mà bởi đặc điểm
lịch sử, tính đặc thù của văn hóa, của truyền thống v.v… Đối với công tác
KSXX, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
xét xử của Toà án nhân dân, của những người tham gia tố tụng, VKS có vai trò
quan trọng trong kiểm tra, giám sát quyền lực tư pháp, có một vai trò và vị trí mà
các thiết chế khác không thay thế được.
Đề tài khoa học cấp bộ “VKS ở các nước chuyển đổi và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp” của VKSND tối cao
(2012) cho thấy, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội của các nước chuyển
đổi sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 có ảnh hưởng sâu sắc đến mô hình VKS
trên tất cả các phương diện vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy,... Sau chuyển đổi, bên cạnh chức năng công tố, VKS ở đa số các nước này
vẫn tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Qua nghiên
cứu, Đề tài cho rằng ở nước ta trong những năm tới cần khẳng định và duy trì hai
chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND.
Trong Đề án cấp bộ “Nghiên cứu về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ
quan tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp” của VKSND tối cao (2013) các tác
giả đã đi sâu làm rõ bản chất, nội dung và đặc điểm của quyền tư pháp, hoạt
động tư pháp, chủ thể các hoạt động tư pháp. Kết quả nghiên cứu cho thấy cấu
trúc và thẩm quyền và nhiệm vụ, địa vị pháp lý của các cơ quan tư pháp ở các
nước là rất đa dạng. Ở nhiều nước hình thức giám sát hoạt động xét xử phổ biến
thông qua tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm thẩm phán. Tuy vậy ở nước ta cần thiết
10
duy trì chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp” nói chung, KSXX nói riêng,
nhằm bảo đảm để các hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù
hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật.
Việc nghiên cứu về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, KSXX nói riêng
trong những năm gần đây tiếp tục có những phát triển mới, đi sâu, cụ thể hơn.
Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm sát các hoạt động tư pháp ở Việt Nam theo yêu
cầu cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật”
của VKSND tối cao (2014) đã tập trung làm rõ khái niệm, khách thể, đối tượng,
phạm vi của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp... Các tác giả cho rằng, kiểm
sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS để kiểm sát tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; được
thực hiện từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử,
hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là cùng do KSV thực
hiện, tuy nhiên mục đích và nội dung của các chức năng là khác nhau. Để tránh
sự mập mờ trong nhận thức, hạn chế trong thực tiễn thi hành thì các quy định của
pháp luật cần phân định rõ các chức năng này. Ngoài ra Đề tài cũng nghiên cứu
về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung KSXX nói riêng ở nước ta
và ở một số nước trên thế giới – cung cấp nhiều thông tin cần thiết trong quá
trình xây dựng Luận án.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp,
KSXX còn có khá nhiều công trình, bài viết khác nghiên cứu, góp phần làm sáng
tỏ các vấn đề như quan niệm về cơ quan tư pháp, quan niệm về kiểm sát hoạt
động tư pháp, KSXX, thẩm quyền, phạm vi, hình thức thực hiện công tác kiểm
sát, phân biệt kiểm sát hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong hoạt
động thực hiện chức năng của VKS... có thể kể đến như bài viết “Quan niệm về
cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp” của PGS, TS Phạm Hồng Hải trên Tạp
chí Kiểm sát số 8/ 2002; “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt
động tư pháp hình sự” của TS Nguyễn Thị Thủy trên Nghiên cứu lập pháp số
11
13/2009; “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở
nước ta hiện nay” của tác giả Trần Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 2/2014; TS
Đỗ Văn Đương với “ Đảm bảo tính độc lập của VKS và vai trò của VKS trong
kiểm sát các hoạt động tư pháp - kinh nghiệm từ thực tiễn Việt Nam” trên Tạp
chí Kiểm sát số 13/2012...
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự
Theo quy định của pháp luật ở nước hiện nay, THQCT và kiểm sát sát hoạt
động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện ở nhiều
giai đoạn khác nhau, từ giải quyết tin báo tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra, truy
tố, và tiếp tục được thực hiện liên tục ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, GĐT,
TT. Các hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp này do nhiểu cấp,
nhiều bộ phận khác nhau của cơ quan VKS thực hiện; trong đó VKSND cấp cao
ở nước ta hiện nay chỉ có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT, GĐT,
TT. Lịch sử tư pháp cho thấy cách thức tổ chức, vận hành hoạt động THQCT và
KSXX PT, GĐT, TT ở các nước là khác nhau và ở từng nước cũng khác nhau
qua các thời kỳ. Nghiên cứu về các vấn đề này có thể kể đến một số công trình
như:
* Nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT.
Hoạt động THQCT và KSXX nói chung, trong đó có THQCT và KSXX
trong giai đoạn PT, GĐT, TT nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ, quy định lẫn
nhau với các hoạt động tố tụng khác trong giai đoạn xét xử. Do đó nghiên cứu về
THQCT và KSXX thì cần nghiên cứu về hoạt động xét xử.
Liên quan đến hoạt động xét xử PT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “Nguyên
tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của Vũ Gia Lâm (2008). Công trình
đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xét xử và cấp xét xử trong tố tụng nói
chung và tố tụng hình sự nói riêng. Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy,
xuất phát từ đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, công bằng, nên cần các cấp TA
khác nhau để TA cấp trên xem xét lại bản án của TA cấp dưới. Sự ra đời của
12
nguyên tắc 2 cấp xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan khi sự phát triển của
xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Trên cơ sở nghiên cứu
sâu sắc về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của Nguyên tắc, Luận án cũng đưa ra
nhiều đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng hoạt động tiến hành tố
tụng trong giai đoạn xét xử nói chung, công tác THQCT và KSXX nói riêng.
Cùng nghiên cứu về xét xử PT còn phải kể đến Luận án tiến sĩ “PT trong
TTHS” của Nguyễn Đức Mai (2004). Trong công trình của mình tác giả đã
nghiên cứu khá toàn diện về PT trong TTHS. Về mặt lý luận, công trình đã làm
rõ được sự cần thiết, bản chất của PT trong TTHS; đồng thời cũng cho thấy các
quan điểm về giới hạn, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục ... rất đa dạng, khác nhau
với mỗi nước qua các thời kỳ. Với những kết quả đạt được luận án rất có giá trị
khi nghiên cứu về THQCT và KSXX PT của VKSND cấp cao khi nghiên cứu nó
trong tổng thể các hoạt động tố tụng trong giai đoạn này.
Đối với hoạt động xét xử GĐT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “GĐT trong
TTHS Việt Nam” của Phan Thị Thanh Mai (2007). Luận án đã làm sáng tỏ
những dấu hiệu đặc trưng của GĐT trong tố tụng hình sự, góp phần thống nhất
nhận thức về bản chất, ý nghĩa của GĐT và nội dung của chế định GĐT. Luận án
cũng phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật thực
định về GĐT và thực tiễn GĐT ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy
những điểm khác biệt của giai đoạn GĐT so với các giai đoạn xét xử sơ thẩm,
PT, do đó THQCT và KSXX trong giai đoạn GĐT cũng cần được điều chỉnh
phù hợp.
Liên quan đến cách thức phân cấp xét xử, góp phần lý giải lý do cần tổ
chức lại hệ thống cơ quan tòa án, cần có thêm các TAND cấp cao (cũng là lý do
để có thêm VKSND cấp cao) có thể thể kể đến Đề án thành lập TA sơ thẩm khu
vực, tòa PT, tòa thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao.
Đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động, TAND tối cao đã nêu ra khá nhiều
tồn tại, bất cập như việc xác định thẩm quyền xét xử của mỗi TA vừa theo lãnh
thổ, vừa theo tính chất vụ việc còn nhiều bất hợp lý; nhiệm vụ của TAND tối cao
13
nặng nề ... Do vậy, cần thiết phải tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống TAND nước
ta gồm 4 cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TƯ.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT
còn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu. Các bài viết này nêu ra
những điểm mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật, tranh luận về
cách hiểu, cách áp dụng, đồng thời kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật
về xét xử PT, GĐT, TT như: bài viết “Hoàn thiện một số quy định về xét xử PT
hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” của tác giả Vũ
Gia Lâm trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23/2006; “Một số vấn đề về phạm vi
xét xử và quyền hạn của hội đồng xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Vũ Gia
Lâm(2009) trên Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2009; “Thủ tục xét xử PT vụ án
hình sự theo pháp luật của một số nước” của tác giả Nguyễn Đức Mai trên Tạp
chí Toà án nhân dân số 2/2010; tác giả Nguyễn Văn Trượng với một loạt bài viết
như: “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét
xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2005, “Cần sửa đổi bổ sung một số
quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét xử phúc thẩm” trên Tạp chí
Kiểm sát số 17/2006, “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS
năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 15/2006, “Hoàn thiện
một số quy định của BLTTHS về xét xử PT theo tinh thần cải cách tư pháp” trên
Tạp chí Toà án nhân dân số 22/2008, “Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của
BLTTHS về thủ tục xét xử PT theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số 2/2010, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử
PT” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2011; “TA cấp PT hủy án sơ thẩm
để xét xử lại theo hướng có tội - những vấn về lý luận và thực tiễn” của tác giả
Đinh Văn Quế trên Tạp chí TAND số 8/2013; “Một số vướng mắc khi áp dụng
các quy định của pháp luật trong xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Dương Thị
Diệu Hiền trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2014...
Đặc biệt trong giai đoạn nghiên cứu xây dựng BLTTHS 2015 có khá nhiều
bài viết góp ý vào các dự thảo như “Góp ý một số quy định về xét xử PT trong
14
Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Mai Thị Thanh Thảo trên Tạp chí Kiểm
sát số 6/2015; “Bình luận một số quy định về xét xử sơ thẩm và PT trong Dự
thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Phạm Công Hùng trên Tạp chí Kiểm sát số
10/2015; “Không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự trong xét xử
PT” của tác giả Mai Thanh Hiếu trên Tạp chí Luật học số 10/2015; “Một số vấn
đề về các quy định chung trong thủ tục xét xử PT” của tác giả Duy Kiên trên Tạp
chí Kiểm sát số Tân Xuân/2015; ...
* Nhóm các công trình liên quan đến nội dung THQCT và KSXX PT, GĐT,
TT của KSV
Bên cạnh nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT,
mà thực chất trong đó đã có đề cập đến hoạt động THQCT và KSXX, còn có
không ít nghiên cứu chuyên sâu, đề cập trực diện đến THQCT và KSXX của
KSV trong giai đoạn này. Liên quan đến nội dung này có thể kể đến một số công
trình như cuốn “Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
TTHS” của Học viện tư pháp (2005), “Tranh luận tại phiên tòa PT”, “Kỹ năng
THQCT và KSXX vụ án hình sự theo thủ tục GĐT và TT”của TS Dương Thanh
Biểu (2008, 2010). Cùng với việc phân tích tính chất của giai đoạn xét xử PT,
GĐT và TT, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong giai đoạn này theo quy
định của luật thực định ở nước ta cũng như quan điểm của một số nước khác; các
cuốn sách cũng đã tổng kết từ thực tiễn, nêu ra được khá phong phú, sinh động
những kỹ năng, những hoạt động KSV phải thực hiện khi THQCT và KSXX
trước khi mở phiên tòa, tại phiên tòa, sau khi kết thúc phiên tòa trong các giai
đoạn này...
Những nội dung quan trọng nhất của THQCT và KSXX của KSV đã được
pháp luật TTHS và luật tổ chức VKSND quy định, điều chỉnh. Do vậy, các tài
liệu nghiên cứu về các ngành luật này có giá trị quan trọng trong việc làm sáng
tỏ nội dung THQCT và KSXX. Thuộc nhóm này có thể kể đến Bình luận khoa
học BLTTHS do PGS, TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân
2004), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB
15
Công an nhân dân, 2007), Bình luận khoa học BLTTHS 2003 do PGS, TS
Nguyễn Ngọc Anh chủ biên (NXB Chính trị quốc gia 2009). Đặc biệt, sau khi
BLTTHS 2015 ra đời đã có những nghiên cứu kịp thời các quy định mới của
pháp luật như cuốn “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS,
TS Nguyễn Hòa Bình chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016), Giáo
trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB Công an nhân
dân, 2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do TS Phạm Mạnh Hùng
chủ biên (NXB Lao động, 2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do
GS, TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS Phan Trung Hoài đồng chủ biên
(NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2018),...
Kháng nghị PT là thẩm quyền quan trọng được quy định trong BLTTHS,
để VKS nói chung, VKS cấp cao nói riêng thực hiện chức năng THQCT và
KSXX. Nghiên cứu về thẩm quyền này có thể kể đến Luận án tiến sĩ: “Chế định
kháng nghị PT hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nguyễn Huy Tiến
(2015). Trong luận án của mình tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về
nguồn gốc, bản chất, ý nghĩa, nguyên tắc của kháng nghị PT; phân tích các quy
định về kháng nghị PT trong pháp luật thực định ở nước ta và một số nước qua
các thời kỳ, thực tiến áp dụng chế định kháng nghị PT của VKS các cấp trong
giai đoạn hiện nay... do đó công trình rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về
vấn đề THQCT và KSXX PT của VKS.
Trong các vấn đề về THQCT và KSXX của KSV, tranh tụng là nội dung
được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nghiên cứu về vấn đề này
có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS việt
nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển (2010), Đề tài
khoa học cấp bộ “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và những vấn đề đặt ra đối
với việc sửa đổi BLTTHS” của VKSND tối cao (2015). Trong công trình của
mình, các tác giả khằng định, sự tồn tại khách quan của hai chức năng buộc tội
và gỡ tội làm xuất hiện nhu cầu đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có
quyền và lợi ích đối chọi nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình và phủ định,
16
phản bác quan điểm của chủ thể đối lập. Như vậy, muốn hay không muốn, nhà
làm luật có ghi nhận hay không ghi nhận thì tranh tụng vẫn tồn tại trong TTHS
với tính chất là một thuộc tính khách quan của TTHS. Tuy nhiên, thuộc tính này
bộc lộ, biểu hiện như thế nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, văn hoá,
lịch sử, truyền thống, mô hình tố tụng của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể. Mặc dù chưa được quy định là một nguyên tắc, nhưng trong các BLTTHS ở
nước ta đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm sự tranh tụng giữa các bên trong.
Thực tiễn thực hiện mở rộng tranh tụng tại phiên toà thời gian qua đã thu được
những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để tăng cường tranh tụng, các tác giả
cũng đề xuất sửa đổi một số quy định của BLTTHS để tăng cường tranh tụng
trong TTHS Việt Nam.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến nội dung hoạt động THQCT và
KSXX PT, GĐT, TT của KSV còn có rất nhiều bài viết như: tác giả Nguyễn Huy
Tiến với các bài viết “Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của
VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số
17/2009, “Hoàn thiện quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của VKS trong giai đoạn xét xử PT các vụ án hình sự” trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 1/2010; “Về THQCT trong giai đoạn xét xử” của tác giả Lý
Văn Chính trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2006; “Một số trường hợp giải
quyết kháng cáo, kháng nghị liên quan đến phạm vi xét xử PT vụ án hình sự”
của tác giả Quách Thành Vinh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 17/2009; “Một
số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của VKS ở giai đoạn xét xử PT” của tác
giả Nguyễn Thị Phương Thảo trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2012 ....
* Nhóm các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp
tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT
Các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp tổ chức
thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKS khá phong phú. Có
thể kể đến như các Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và giải pháp nâng cao
chất lượng và hiệu quả công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự”, “Nâng
17
cao chất lượng công tác THQCT và KSXX PT đối với các vụ án kinh tế chức
vụ”, sách chuyên khảo “Tổng kết 50 năm công tác THQCT và KSXX hình sự
của VKSND” của VKSND tối cao. Các công trình nghiên cứu đã phân tích vị trí,
vai trò, nội dung và phạm vi của công tác THQCT và KSXX hình sự; qua tổng
hợp, phân tích, đánh giá số liệu, hoặc minh họa bằng các vụ án cụ thể sinh động
để khái quát kết quả công tác này của toàn ngành Kiểm sát qua các thời kỳ khác
nhau, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó
đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát
hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử các vụ án hình sự.
Bên cạnh đó một số công trình đi sâu đánh giá kết quả một khâu, một mặt
công tác THQCT và KSXX cụ thể của VKS như một số Đề tài khoa học cấp bộ
“Các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của VKSND tỉnh Bắc Ninh (2009), “Những
giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV” của VKSND
tỉnh Phú Thọ (2005) tập trung đánh giá thực trạng tranh tụng trên địa bàn. Kết
quả nghiên cứu thể hiện, thực hiện tinh thần Nghị quyết 08, 49 VKS địa phương
đã có nhiều biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về
tranh tụng, chất lượng tranh tụng của KSV ngày càng nâng lên (thể hiện qua chất
lượng bản luận tội nâng lên, việc thẩm vấn của KSV đã chủ động, đạt chất lượng
cao), việc tham gia bào chữa của luật sư ngày càng được chú trọng. Đánh giá về
nguyên nhân hạn chế tranh tụng, đề tài có một số nhận xét đáng chú ý như: do
pháp luật chưa quy định cụ thể về tranh tụng, người tiến hành tố tụng chưa nắm
vững nhiệm vụ, vai trò của mình tại phiên tòa, trình độ nhận thức pháp luật của
bị cáo, bị hại còn thấp, không tự bào chữa hay bảo vệ quyền lợi của mình...
Đặc biệt trong thời gian gần đây đã có những nghiên cứu đánh giá về tổ
chức bộ máy cơ quan làm công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung, nghiên cứu về VKSND cấp cao – một cấp kiểm sát mới. Có thể kể đến
các công trình như các Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc thành lập VKSND cấp cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, “VKSND
18
cấp cao trong hệ thống VKSND mới” của VKSND Tối cao đi sâu phân tích cơ
sở hình thành, kinh nghiệm ở một số nước; thực trạng trước khi ban hành Luật tổ
chức VKSND năm 2014, mô hình tổ chức hoạt động của hệ thống cơ quan VKS
còn nhiều điểm bất hợp lý, việc tổ chức VKSND cấp cao ở nước ta là cần thiết.
Qua khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động của các VKSND cấp cao sau 2
năm thực tế hoạt động; đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế,
so sánh với giai đoạn trước đây; từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động của các VKSND cấp cao.
Ngoài các công trình trên, liên quan đến việc đánh giá kết quả, đề xuất biện
pháp tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT còn có những
bài viết trên các tạp chí nghiên cứu như: bài viết “Nâng cao chất lượng công tác
THQCT, KSXX PT hình sự của VKSND” của TS Dương Thanh Biểu trên Tạp
chí Kiểm sát số 22/2005; tác giả Phạm Văn An với các bài viết “Một số kinh
nghiệm trong công tác THQCT, KSXX hình sự tại phiên toà hình sự theo yêu
cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2011, “Thay đổi trong quan
điểm chỉ đạo của đảng về tổ chức xét xử GĐT, TT vụ án hình sự” trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 16/2011, “Nâng cao vai trò, trách nhiệm , tính chủ động
của KSV trong THQCT và KSXX vụ án hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số
15/2017, ...
1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Một số công trình ở nước ngoài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Đề
tài như:
- Cuốn Giáo trình chế độ công tố, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung
Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao đẳng
kiểm sát Hà Nội) phản ánh tình hình nghiên cứu rất toàn diện của các nhà khoa
học Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến công tố, được coi là một “chế độ”
trong pháp luật Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một cách sâu sắc
nguồn gốc, bản chất của QCT cũng như các vấn đề cơ bản của công tố như: tính
chất của QCT, căn cứ của QCT, các quyền năng, chức năng cơ bản của QCT;
19
các cơ chế để thực hiện, kiểm soát, và hỗ trợ thực hiện QCT; các chuẩn mực tư
pháp hình sự quốc tế, nguyên tắc của pháp luật, các chính sách hình sự phải được
tuân thủ trong quá trình THQCT. Đặc biệt các tác giả đã có đưa ra quan điểm về
nguyên tắc cân bằng giá trị công tố. Theo đó mục tiêu giá trị công tố nhằm tới cơ
bản là chính nghĩa pháp luật – không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội
phạm, trình tự công bằng – quá trình tố tụng giải quyết vụ án phải công bằng,
hợp pháp, và hiệu quả tố tụng – tổng hợp hiệu quả đạt được của hoạt động công
tố.
Cuốn sách chỉ ra sự đa dạng các loại hình chế độ công tố ở các nước trên
thế giới, được các tác giả chia thành 5 loại cơ bản là: Do Công tố viên nắm QCT
như ở Nhật, Trung Quốc; do Công tố viên và thẩm phán dự thẩm cùng thi hành
như ở Pháp; do Viện công tố và đại bồi thẩm đoàn thi hành như ở Mỹ; do Công
tố viên và cảnh sát thi hành như ở Phần Lan, Na Uy; do Công tố viên và luật sư
cùng thi hành như ở Anh. Cùng với đó các tác giả cũng tập trung nghiên cứu về
chế độ công tố ở Trung Quốc, trong đó KSV có vị trí song trùng trong tố tụng,
vừa là người giám sát pháp luật vừa là Công tố viên, quá trình VKS tiến hành
truy tố vừa là quá trình THQCT vừa là thực thi giám sát pháp luật; các hình thức
biểu hiện cụ thể của QCT, trong đó có QCT trong giai đoạn xét xử cũng được
nghiên cứu, chiếm một dung lượng lớn của cuốn sách. Đây là một công trình
nghiên cứu khá toàn diện về QCT, THQCT, liên quan trực tiếp đến Luận án và
rất có giá trị tham khảo.
- Cuốn Giáo trình công tác kiểm sát, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia
Trung Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao
đẳng kiểm sát Hà Nội). Trung Quốc là một trong những nước có nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động kiểm sát nói chung, KSXX vụ án hình sự nói riêng.
Cuốn sách luận giải một cách sâu sắc những vấn đề cơ bản của công tác kiểm sát
như: quyền kiểm sát và các tính chất của nó; nguyên tắc cơ bản của hoạt động
kiểm sát; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật và chế độ giám sát tư pháp
của VKS,... đặc biệt, cuốn sách có những phân tích rất thú vị về sự khác biệt về ý
20
nghĩa, nhiệm vụ, vị trí của công tác kiểm sát với hoạt động công tố, về mối quan
hệ mật thiết, hữu cơ của các hoạt động này; đồng thời nêu ra những kinh nghiệm
của Trung Quốc về việc xử lý những mâu thuẫn khi giao cho một Kiểm sát viên
đồng thời giữ các vai trò khác nhau trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cuốn
sách rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về KSXX, cũng như nêu ra các đề
xuất, kiến nghị về vấn đề này trong Luận án, vì đây là một công trình nghiên cứu
khá toàn diện về công tác kiểm sát.
- John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler eds. Comparative
criminal procedure, B.I.I.C.L published, London, 1996 (bản tiếng Anh). Cuốn
sách này được xây dựng trên cơ sở tóm tắt, biên soạn lại những nội dung, kết quả
hoạt động chính của Uỷ ban hỗn hợp do Viện luật quốc tế và luật so sánh Anh đã
thành lập tháng 4/1991. Trong cuốn sách các tác giả đã đi sâu phân tích 3 hệ
thống TTHS: Pháp, Đức, Anh và xứ Uên - là 3 hệ thống tư pháp hình sự có ảnh
hưởng rất lớn thể hiện những xu thế nổi bật nhất của hệ thống tư pháp hình sự ở
Châu Âu và có giá trị ảnh hưởng, định hình cho các hệ thống tố tụng trên phạm
vi toàn cầu – trên các phương diện như: nguồn của TTHS, các nguyên tắc cơ
bản, thủ tục, các giai đoạn tố tụng, nguồn chứng cứ, các cơ quan liên quan trong
hệ thống tư pháp hình sự và những người tham gia tố tụng khác,...
Ở các nước này đều quy định việc xét xử lại bản án nếu bị kháng cáo,
kháng nghị. Ở Pháp, xét xử PT là cấp xét xử thứ 2 và có thể được xét xử lại toàn
bộ vụ án. Việc xét xử GĐT do Tòa phá án, TA tối cao thực hiện đối với các bản
án quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra ở Pháp còn quy định thủ tục TT
để sửa chữa những sai lầm rõ ràng về tình tiết thực tế sau khi vụ án đã kết thúc.
Ở Đức cũng quy định các thủ tục PT lần thứ nhất, PT lần hai (GĐT và TT). Việc
PT lần 1 được tiến hành dưới hình thức một phiên toà xét xử mới theo cùng một
cách thức giống như phiên tòa sơ thẩm, Toà PT có quyền đưa ra phán quyết mới
trên cơ sở xem xét toàn bộ chứng cứ. Ở phiên tòa GĐT chỉ xem xét các vấn đề
pháp lý mà thôi. Ở Anh và xứ Uên, toà PT có quyền chấp thuận kháng cáo, huỷ
án sơ thẩm nếu thấy việc kết tội không có cơ sở. Từ những phân tích về từng hệ
21
thống TTHS cuốn sách cũng nêu nên những quan điểm chính của Uỷ ban về việc
so sánh ba hệ thống này, đưa ra các nhận xét, về sự ảnh hưởng của cơ chế xem
xét lại vụ án đối với các yêu cẩu về cơ sở nhân vật lực cũng như hiệu quả của
hoạt động xét xử PT. Cuốn sách rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về
hoạt động xét xử PT, GĐT, TT cũng như hoạt động THQCT của cơ quan công tố
trong giai đoạn này.
- Chương trình đối tác tư pháp (2012), sách chuyên khảo “Những mô hình
TTHS điển hình trên thế giới” (bản tiếng Việt). Cuốn sách là tập hợp các báo cáo
nghiên cứu của các nhà khoa học và thực tiễn có kinh nghiệm và uy tín quốc tế
về mô hình TTHS của 7 quốc gia đại diện cho các mô hình TTHS điển hình trên
thế giới, gồm có Chuyên đề về mô hình TTHS Nhật Bản và Chuyên đề về mô
hình TTHS Hàn Quốc của giáo sư Buyn-Sun-Cho, chuyên đề Mô hình TTHS
Trung Quốc của giáo sư Liling Yue, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa liên
bang Nga của giáo sư William Burnham, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa
Italia của tiến sỹ Marco Fabri, chuyên đề Mô hình TTHS Liên bang Hoa Kỳ của
giáo sư Richard S.Shine, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa Pháp của Jean-
Philippe Rivaud. Các chuyên đề này đều đã tổng quan quá trình phát triển và đặc
điểm của mô hình TTHS ở mỗi nước; đi sâu phân tích các vấn đề như cơ cấu tổ
chức hệ thống cơ quan tư pháp, địa vị tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia tố tụng; các giai đoạn TTHS, như giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử sơ
bộ, giai đoạn xét xử, giai đoạn kháng cáo; quyền truy tố, cơ chế giám sát đối với
các hoạt động TTHS … Kết quả nghiên cứu cho thấy, tùy thuộc vào lịch sử, kinh tế
xã hội mà mỗi nước có cách thức tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng, quy định trình
tự, thủ tục tố tụng khác nhau. Trong mỗi mô hình TTHS thì địa vị, nhiệm vụ quyền
hạn của công tố viên nói chung, trong giai đoạn xét xử nói riêng cũng không giống
nhau. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy sự đa dạng trong cách thức tổ
chức THQCT, do đó rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về vấn đề này
trong Luận án.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những
22
vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án
1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa phát triển
- Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề chung về QCT,
THQCT. Tuy còn những ý kiến khác nhau nhưng những vấn đề cơ bản như:
Khái niệm, nguồn gốc, phạm vi của QCT; khái niệm THQCT và mối quan hệ
với QCT; nội dung và phạm vi THQCT v.v... đã được nghiên cứu khá sâu sắc.
- Vấn đề KSXX nói chung đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi về quan điểm
cách thức tổ chức kiểm soát quyền lực nhà nước và cũng là vấn đề cân nhắc có
chuyển VKS thành Viện công tố hay không. Tuy vậy đây không phải là mục tiêu
nghiên cứu của Luận án. Những vấn đề liên quan đến Luận án là khái niệm, nội
dung và phạm vi của KSXX đến nay cơ bản đã được làm rõ.
- VKSND cấp cao có nhiệm vụ THQCT và KSXX trong theo thủ tục PT,
GĐT, TT. Để đánh giá đúng chất lượng hoạt động của VKSND cấp cao thì phải
đánh giá đúng tính chất của các thủ tục tố tụng này, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho
mỗi chủ thể tố tụng. Đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu phân tích làm sáng tỏ
các vấn đề này.
- Một số nhiệm vụ, quyền hạn pháp lý cụ thể VKSND cấp cao phải thực
hiện trong giai đoạn này, như vấn đề kháng nghị PT, vấn đề tranh tụng của KSV
tại phiên tòa,... đã được một số công trình quan tâm nghiên cứu.
- Kết quả thực tế công tác THQCT và KSXX vụ án hình sự của các
VKSND cấp cao cũng đã được khảo sát ở mức độ nhất định trong một số công
trình nghiên cứu.
Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu này trong Luận án
của mình.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Luận án sẽ được tiếp thu các kết quả nghiên cứu liên quan và tiếp tục
nghiên cứu những vấn đề sau:
- Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối
tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự.
23
- Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ
khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp
luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện,
đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án
hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị
phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này.
24
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN CẤP CAO
2.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn
xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
2.1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử
vụ án hình sự
Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, sự xuất hiện
quyền buộc tội là vấn đề thuộc phạm trù khách quan. Trong thời kỳ đầu sản
sinh ra nhà nước, loài người chỉ coi tội phạm là sự thù oán của các cá nhân
với nhau, nhưng sau đó nhà nước dần can thiệp, thống nhất thực thi quyền
ngăn chặn, trừng phạt tội phạm. Cơ quan xét xử được nhà nước lập ra để can
thiệp vào tranh chấp tư nhân, lấy việc xét xử thay thế cho báo thù tư nhân [13,
tr.8]. Đồng hành cùng với hoạt động xét xử là hoạt động buộc tội. Ngày nay
các công trình nghiên cứu cho thấy chức năng cơ bản trong TTHS có ba loại
đó là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Tuy rằng
có sự khác nhau trong việc tổ chức vận hành các chức năng cơ bản, song các
mô hình TTHS đều tồn tại ba chức năng TTHS cơ bản nêu trên; sự tồn tại các
chức năng cơ bản của TTHS là vấn đề thuộc phạm trù khách quan [38].
Công tố và tư tố là những hình thức khác nhau để thực hiện việc buộc
tội. Về mặt truy tố tội phạm, trong lịch sử các nước từng thi hành một thời kỳ
dài hình thức tố tụng kiểu vạch tội, nhà nước không chủ động truy tố tội
phạm, mà người bị hại trực tiếp nhân danh cá nhân để bảo vệ lợi ích của bản
thân mình trước tòa. Quyền này của người bị hại được gọi là “quyền tư tố”
[34, tr.18]. Cùng với sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước cũng
như hệ thống pháp luật, sự nhận thức của xã hội về lợi ích công và lợi ích tư,
25
về trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội đã có sự thay đổi đáng kể. Càng
về sau, giai cấp thống trị nhận ra rằng trong nhiều trường hợp khi các lợi ích
cá nhân bị xâm hại thì lợi ích công cộng (như trật tự công cộng, an ninh xã
hội ...) cũng bị đe dọa hoặc bị xâm hại, do đó cần có sự can thiệp của nhà
nước để chống lại các hành vi xâm phạm này. Chính vì vậy, vai trò của công
tố ngày càng được đề cao, thay thế cho tư tố. Ngày nay tư tố vẫn tồn tại song
song cùng công tố ở hầu hết các nước nhưng phạm vi bị thu hẹp lại [13,
tr.17].
Xung quanh khái niệm QCT có khá nhiều quan niệm khác nhau, như
cho rằng QCT chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật, hoặc nhận thức khác nhau về nội dung,
phạm vi của QCT, khi cho rằng QCT không chỉ có trong lĩnh vực hình sự mà
còn có trong các lĩnh vực dân sự, hành chính. Quan niệm về phạm vi QCT
trong TTHS cũng có những điểm chưa thống nhất, có quan điểm cho rằng
QCT do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong suốt quá trình khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự [34, tr.40]
[10, tr.29], ngược lại một số tác giả lại có xu hướng thu hẹp khái niệm QCT
khi cho rằng, QCT là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước TA, thực hiện sự buộc
tội tại phiên tòa [21, tr.14]... Do phạm vi nghiên cứu, Luận án không đi sâu
bàn luận về các quan điểm này mà cho rằng: “Quyền công tố trong tố tụng
hình sự là quyền đại diện cho nhà nước để buộc tội đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội”.
Để QCT được thực hiện nhà nước tổ chức ra các chủ thể thực hiện QCT,
quy định trong luật TTHS vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn để các chủ thể đó
có thể thực hiện QCT trong thực tiễn. Tuy vậy, không được nhầm lẫn việc một
số cơ quan nhà nước có quyền tiến hành một số quyền năng pháp lý như khởi tố
vụ án khởi tố bị can để cho rằng cũng là cơ quan THQCT. Chỉ chủ thể nào được
giao nhiệm vụ nhân danh Nhà nước đưa vụ án ra tòa, yêu cầu truy cứu trách
26
nhiệm hình sự một cách công khai bằng con đường TA thì chủ thể ấy mới chính
là cơ quan THQCT. Việc quy định chủ thể nào THQCT lại tùy theo mỗi nước. Ở
nước ta chủ thể THQCT là VKS, “Về THQCT là chức năng mà không cơ quan
nhà nước nào làm thay VKS” [10, tr.39]. Tuy nhiên do sự khác nhau về truyền
thống lịch sử, chế độ pháp luật các loại hình chế độ công tố ở các nước trên thế
giới rất đa dạng, được các nhà nghiên cứu trên thế giới chia thành 5 loại cơ bản là:
Do Công tố viên nắm QCT như ở Nhật, Trung Quốc; do Công tố viên và thẩm phán
dự thẩm cùng thi hành như ở Pháp; do Viện công tố và đại bồi thẩm đoàn thi hành
như ở Mỹ; do Công tố viên và cảnh sát thi hành như ở Phần Lan, Na Uy; do Công
tố viên và luật sư cùng thi hành như ở Anh [13].
QCT trong TTHS là quyền lực của nhà nước có nội dung là sự buộc tội đối
với người thực hiện tội phạm, THQCT trong TTHS có nội dung là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện quyền buộc tội ấy. Trong thực tiễn
cần phân biệt giữa THQCT với các quyền năng cụ thể mà pháp luật quy định để
thực hiện quyền lực ấy. THQCT không phải là khởi tố vụ án, ra lệnh bắt tạm
giam, công bố cáo trạng tại phiên tòa,... mà THQCT là việc sử dụng các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định này để “buộc tội đối với người đã thực hiện
hành vi phạm tội”. Đối tượng nhằm tới của THQCT là tội phạm và người phạm
tội. Đối tượng của THQCT gắn bó mật thiết với chính sách hình sự và đường lối
xử lý tội phạm của nhà nước. Nếu mở rộng phạm vi các hành vi bị coi là tội
phạm được quy định trong BLHS hoặc ngược lại loại bỏ các hành vi không phải
là tội phạm ra khỏi BLHS thì đối tượng tác động của THQCT cũng thay đổi
theo.
Có thể nói “Mối quan hệ giữa QCT và THQCT trong TTHS là mối quan
hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực
ấy” [10, tr.50]. Với cách hiểu QCT như đã trình bày trên, có thể hiểu: “Thực
hành quyền công tố là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử
dụng tổng hợp các quyền năng do pháp luật quy định để buộc tội đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội”.
27
Thời điểm phát sinh THQCT tùy thuộc vào pháp luật của mỗi nước ở từng
thời điểm. QCT trong TTHS bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, song hoạt động
THQCT chỉ bắt đầu ở thời điểm pháp luật quy định các quyền năng pháp lý để
cơ quan công tố có các hoạt động thực hiện nhiệm vụ phát hiện, điều tra tội
phạm để buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, phạm vi
THQCT không đồng nhất với phạm vi QCT; THQCT thường được quy định trễ
hơn so với phạm vi QCT. Để tăng cường hiệu quả THQCT thì pháp luật cần quy
định để phạm vi THQCT ngày càng tiệm cận phạm vi QCT. Thời điểm THQCT
kết thúc là khi đã có quyết định về việc giải quyết vụ án và cơ quan công tố cũng
chấm dứt các hoạt động nhằm phát hiện, điều tra truy tố người phạm tội theo quy
định của pháp luật. Thời điểm này có thể là khi ban hành quyết định đình chỉ
điều tra vụ án, cũng có thể là khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với các trường hợp bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị yêu cầu xem xét lại thì việc xem xét lại này
cũng đã kết thúc.
THQCT có thể được thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Khi THQCT
trong giai đoạn xét xử cơ quan THQCT sử dụng quyền năng pháp lý pháp luật
quy định cơ quan THQCT có thể thực hiện trong giai đoạn đó để thực hiện sự
buộc tội đối với người phạm tội trước TA. Trong giai đoạn xét xử cơ quan
THQCT lại THQCT ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử PT, xét xử GĐT, TT,
trong mỗi giai đoạn pháp luật lại quy định cơ quan này lại có những quyền năng
pháp lý khác nhau. Các công trình nghiên cứu cho thấy có sự đa dạng về mô
hình TTHS, với nhiều cách phân loại khác nhau, theo cách phân loại phổ biến
gồm: mô hình TTHS tranh tụng, mô hình TTHS thẩm vấn, mô hình TTHS pha
trộn [38]; ví trí, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THQCT, THQCT trong giai
đoạn xét xử trong mỗi mô hình tố tụng là khác nhau. Tương tự như vậy, nội
dung, phạm vi THQCT ở giai đoạn xét xử cũng rất khác nhau ở từng nước, trong
từng giai đoạn...
28
Với cách hiểu THQCT như đã nêu trên thì: “Thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sử dụng tổng hợp các quyền năng do pháp luật quy định trong
giai đoạn đó để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội trước tòa
án”.
Tuy có sự đa dạng trong nội dung, phạm vi THQCT, nhưng nhìn chung để
thực hiện nhiệm vụ THQCT thì THQCT ở giai đoạn xét xử có vai trò rất quan
trọng, mang tính quyết định. Phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn, có thể nói, thực
chất là sự tiếp tục của quá trình điều tra liên tục, tại phiên tòa cùng với những
chứng cứ trực tiếp được trình bày bằng lời của các nhân chứng trước Tòa [15,
tr.62], các chứng cứ đã thu thập được trong các giai đoạn tố tụng trước đó được
kiểm tra, xác minh lại làm căn cứ cho việc ra phán quyết. Do vậy, hoạt động
THQCT trong giai đoạn xét xử có vai trò quan trọng để tài liệu, chứng cứ được
thu thập trong quá trình điều tra, truy tố được sử dụng, xem xét làm cơ sở cho
phán quyết của TA. Trong mô hình tố tụng tranh tụng “với quan niệm TTHS chỉ
gồm có giai đoạn xét xử, các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử chỉ thực sự
bắt đầu tại phiên tòa sơ thẩm” [15, tr.67] vai trò THQCT của KSV tại phiên tòa
lại càng quan trọng hơn.
2.1.2. Xét xử phúc thẩm và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự
2.1.2.1. Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
* Nguyên tắc 2 cấp xét xử
Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy, sự ra đời của nguyên tắc 2 cấp
xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan. Cùng với sự phát triển của xã hội loài
người, hoạt động xét xử ngày càng yêu cầu phải chính xác, công bằng hơn, nhằm
bảo vệ có hiệu quả hơn các quyền và tự do cơ bản của công dân. Để hạn chế sai
sót, cần có cơ chế phù hợp để kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của
TA. Cơ chế phù hợp và đảm bảo hiệu quả cao nhất chính là tổ chức tố tụng xét
xử theo “cấp xét xử”, để xét xử và xét xử lại vụ án một hoặc một số lần nữa, đảm
29
bảo giải quyết vụ án thật sự khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy vậy để đảm
bảo yêu cầu việc giải quyết vụ án cần nhanh chóng, kịp thời khôi phục các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, tránh gây lãng phí về thời gian, tiền bạc của
Nhà nước và những người tham gia tố tụng ... “việc phân cấp xét xử nhằm đảm
bảo cho một vụ án có thể được xét xử nhiều lần ở các cấp xét xử khác nhau là
cần thiết, nhưng không nên tổ chức nhiều cấp xét xử mà chỉ cần tổ chức 2 cấp
xét xử” [17, Tr.20].
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, có
tính bắt buộc chung thể hiện quan điểm có tính định hướng của nhà nước trong
việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự, được quy định trong pháp luật
TTHS, trong đó xác định một vụ án hình sự được xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm
(cấp xét xử thứ nhất) có thể được xét xử lại và chỉ có thể được xét xử lại một lần
nữa ở cấp PT (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo kháng nghị hợp lệ, nhằm
giải quyết đúng đắn vụ án, đảm bảo lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân cơ quan tổ chức.
Kết quả nghiên cứu quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho
thấy, Nguyên tắc hai cấp xét xử đã được xác lập rất sớm [17, Tr.19]. Khoản 5
Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ngày 16/12/1966 của
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ghi rõ: “bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều
có quyền yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình
theo quy định của pháp luật”. Điều 81 phần 8 Quy chế Rome về TA hình sự
quốc tế cũng xác định: “bản án có thể bị công tố viên hoặc bị người kết án kháng
cáo phù hợp với quy tắc về tố tụng và chứng cứ dựa trên cơ sở thiếu sự cân đối
giữa tội phạm và bản án” Điều 83 Quy chế quy định: “khi tiến hành việc xem xét
theo quy định tại điều 81 và điều này hội đồng PT có tất cả các quyền hạn của
hội đồng xét xử”. Hiện nay đa số các quốc gia trên thế giới đều thực hiện nguyên
tắc 2 cấp xét xử và quy định thủ tục tố tụng cũng như tổ chức hệ thống TA phù
hợp để thực hiện nguyên tắc này.
* Xét xử phúc thẩm:
30
Xét xử PT là việc TA cấp trên xét xử lại vụ án đã được TA cấp dưới xét xử
sơ thẩm (lần 1) trước đó. Cùng với việc thừa nhận rộng rãi Nguyên tắc 2 cấp xét
xử, pháp luật TTHS đa số các nước quy định PT là giai đoạn tố tụng tiếp theo
của giai đoạn xét xử sơ thẩm, từ đó tạo ra cơ chế để mọi vụ án đều có thể được
xét xử lại lần 2. Có thể nói sự hình thành và phát triển của chế định phúc thẩm trong
TTHS gắn liền với tiến trình phát triển của xã hội, với sự hình thành và phát triển
các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ. Đến lượt mình, phúc thẩm tác động
trở lại trở lại với những ý nghĩa vô cùng quan trọng như [18, Tr.9]:
Một là, PT là một trong những hình thức giám đốc xét xử chủ yếu của TA
cấp trên đối với TA cấp dưới. Qua đó kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, phát hiện và khắc
phục kịp thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của TA cấp dưới.
Hai là, PT là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất bản chất dân
chủ và tiến bộ của TTHS, không cho phép TA cấp PT sửa bản án sơ thẩm theo
hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị
hại hoặc kháng nghị theo hướng đó.
Ba là, PT còn là một trong các phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và
có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, đặc biệt là của bị cáo.
Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, TA cấp phúc thẩm hướng dẫn
cho các TA cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tăng cường hiệu quả
giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân,
đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Với tư cách là một giai đoạn độc lập và bắt buộc của quá trình TTHS, giai
đoạn phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc bản án sơ thẩm có
kháng cáo, kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét
xử sơ thẩm, được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên. Tuy vậy,
không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại
theo thủ tục PT. Về nguyên tắc chung, xét xử PT chỉ được tiến hành sau khi có
31
các hoạt động phát động xét xử PT theo quy định của pháp luật, vì: xét xử PT có
mục tiêu nhằm kiểm soát và đánh giá lại kết quả của việc nhận thức ở lần xét xử
đầu tiên, do vậy thủ tục xét xử PT đối với một vụ án chỉ phát sinh khi có sự
không đồng ý đối với bản án (quyết định) sơ thẩm về vụ án – nói cách khác là
phải có kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật đối với bản án
(quyết định) sơ thẩm đó. Do việc xét xử chỉ được thực hiện qua 2 cấp, nên bản
án (quyết định) PT phải phát sinh hiệu lực pháp luật ngay sau khi được tuyên.
Quan niệm về tính chất của PT là một trong những vấn đề quan trọng trong
định hướng xây dựng pháp luật và thực tiễn thi hành. Quan điểm về tính chất của
PT có thể chia thành hai nhóm chính sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp
xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó TA cấp trên trực tiếp
xét lại các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị. Điều đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là
"xét lại" chứ không phải là "xét xử lại".
Quan điểm thứ hai cho rằng, tính chất của phúc thẩm không phải
là xét lại mà là xét xử lại các vụ án, mà bản án (quyết định) chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị [18, Tr.12].
Tuy vậy với việc thừa nhận Nguyên tắc 2 cấp xét xử, tính chất của PT
trong TTHS cần được xác định là “xét xử lại”. Theo đó, TA cấp PT không chỉ
kiểm tra mà còn có nhiệm vụ xét xử cả về nội dung vụ án.
Việc quy định trong pháp luật TTHS của các nước về phạm vi thẩm quyền
của TA cấp PT cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 2 xu hướng điều
chỉnh thẩm quyền của TA cấp PT trong pháp luật các nước. Xu hướng PT mở
rộng: Xu hướng này xuất phát từ quan niệm cho rằng PT là một cấp xét xử, vì
vậy, pháp luật phải đối xử với TA cấp PT bình đẳng như đối với TA cấp sơ
thẩm. Điều đó có nghĩa là cho phép kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục PT đối
với tất cả các bản án sơ thẩm và không hạn chế thẩm quyền xem xét và quyền
quyết định của TA cấp PT theo bất cứ hướng nào. Xu hướng PT thu hẹp: Theo
32
quan niệm của xu hướng này, thì PT là cấp xét xử thứ hai chứ không phải là cấp
xét xử lần thứ hai đối với vụ án. Thông qua việc xét xử lại vụ án, Tòa PT khắc
phục những sai sót về xét xử của Tòa sơ thẩm. Bởi vậy, cần hạn chế phạm vi
xem xét và quyền hạn của Tòa PT [18, Tr.23-27].
Tuy còn có các quan niệm khác nhau, nhưng xuất phát từ nguyên tắc 2 cấp
xét xử, nên cần quy định TA cấp phúc thẩm có nhiệm vụ “xét xử lại” vụ án, chứ
không phải “xét lại” bản án, quyết định của TA sơ thẩm; Tuy vậy, về phạm vi
thẩm quyền, TA cấp PT chỉ nên xét xử lại những vấn đề mà cấp sơ thẩm đã xem
xét, quyết định; đối với những vấn đề mà cấp sơ thẩm chưa xem xét và quyết
định thì không thuộc phạm vi của TA cấp PT; đồng thời TA cấp phúc thẩm có
nhiệm vụ giải quyết những khiếu nại của các bên, nên phạm vi những vấn đề xét
xử của TA cấp PT cũng không thể vượt ra ngoài phạm vi bị giới hạn bởi nội
dung kháng cáo, kháng nghị.
2.1.2.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự
* Chủ thể thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Để THQCT trong giai đoạn xét xử PT vụ án hình sự, nhà nước tổ chức ra
và phân công các cơ quan làm nhiệm vụ này. Nghiên cứu về chủ thể THQCT
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở các nước cho thấy, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như tổ chức, thẩm quyền của cơ quan TA, truyền thống pháp
luật, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội,... sự phân công ở các nước là rất khác
nhau [65]. Đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Liên
Bang Nga, hệ thống TA, VKS thường được tổ chức tương ứng với hệ thống cơ
quan hành chính. Trong mô hình này không có các TA chuyên trách xét xử PT,
mà do nhiều cấp TA đảm nhiệm; Về cơ bản TA cấp trên xét xử PT, đối với bản
án, quyết định của TA cấp dưới trực tiếp, do đó, loại án mà TA cấp PT có thẩm
quyền giải được quy định bởi thẩm quyền xét xử của TA cấp sơ thẩm. Ở các
nước này VKS làm công tác THQCT và KSXX cũng được tổ chức tương ứng
với TA xét xử PT, do vậy cũng gồm nhiều cấp khác nhau. Đối với những nước
33
có truyền thống án lệ như Mỹ và Anh, hệ thống TA được tổ chức để làm các
nhiệm vụ: xét xử sơ thẩm, xét xử PT; và TA ở cấp trung ương chỉ giải quyết một
số lượng rất hạn chế các vụ án GĐT, phát triển án lệ, tổng kết kinh nghiệm xét
xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Tuy vậy, trong mô hình này, tổ chức cơ
quan công tố không có cấp chuyên trách để làm nhiệm vụ THQCT trong việc xét
xử PT, mà do các công tố viên đã tham gia truy tố tại toà án cấp sơ thẩm tiếp tục
đảm nhiệm. Đối với những nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa, cơ
quan TA được tổ chức theo thẩm quyền xét xử như ở các nước có truyền thống
án lệ. Tương ứng với TA cấp PT ở các nước này có các VKS/ Viện công tố cấp
cao/ PT để chuyên THQCT trong giai đoạn xét xử PT của TA cấp PT.
* Nội dung thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự:
Là việc cơ quan công tố sử dụng quyền năng pháp lý phù hợp được pháp luật
quy định để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội trước TA cấp PT.
Để THQCT trong giai đoạn cơ quan công tố phải tiến hành các hoạt động:
- Phát động xét xử PT thông qua kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật
Cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử tại cấp sơ thẩm là quyết định
truy tố của VKS, quyết định đưa ra xét xử của TA. Đối với thủ tục PT, cơ sở
pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử là kháng cáo, kháng nghị. Ngoài bị cáo,
người bị hại, các bị đơn dân sự có quyền kháng cáo, các nước đều khá nhất quán
quy định cơ quan công tố là cơ quan duy nhất được giao quyền phát động thủ tục
xét xử phúc thẩm. Khi thấy việc xét xử sơ thẩm không đúng với phạm vi truy tố
có thể về tình tiết vụ việc hoặc về áp dụng luật hình sự, mức hình phạt quá nhẹ,
thậm chí là tuyên không phạm tội thì VKS có quyền kháng nghị yêu cầu xét xử
lại vụ án để sửa hoặc hủy án sơ thẩm. Do vậy kháng nghị PT như một sự “nối
dài” việc THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Tuy nhiên thực tế VKS không phải chỉ kháng nghị PT theo hướng tăng
nặng mà không ít kháng nghị PT của VKS đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị
cáo, đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo, thậm chí nếu TA xét xử oan thì
34
VKS, nhất là VKS cấp trên có thể kháng nghị đề nghị tuyên bị cáo không phạm
tội. Vậy những trường hợp kháng nghị PT như trên có phải là việc THQCT hay
không? Quan điểm của một số học giả Trung Quốc cho rằng: kháng nghị theo
hướng bị cáo không có tội thì không thể lý giải từ QCT mà chỉ có thể lý giải từ
quyền giám sát pháp luật và từ góc độ bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật.
Ngoài ra kháng nghị đối với vụ án tư tố, thì vốn không có quyền tố tụng đối với
vụ án này, mà chỉ xem xét trên lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng để tiến hành
kháng nghị từ góc độ cơ quan giám sát pháp luật [13, tr.63].
Quan điểm nêu trên là chưa chính xác. Kháng nghị PT dù theo hướng tăng
nặng hay giảm nhẹ thì cũng nhằm để thực hiện buộc tội chính xác, công bằng –
tức là THQCT. Theo quan điểm của chính các học giả Trung Quốc, mục tiêu giá
trị công tố nhằm tới cơ bản là chính nghĩa pháp luật (không làm oan người vô
tội, không bỏ lọt tội phạm), trình tự công bằng (quá trình tố tụng giải quyết vụ án
phải công bằng, hợp pháp), và hiệu quả tố tụng (tổng hợp hiệu quả đạt được của
hoạt động công tố) [13]. Để thực hiện mục tiêu chính nghĩa pháp luật, cơ quan
công tố phải kịp thời phát hiện sự không chính xác của bản án sơ thẩm. Khi TA
cấp sơ thẩm bắt người không phạm tội phải chịu tội, VKS phải kháng nghị để xét
xử lại người này theo hướng không phạm tội; hoặc khi hình phạt TA sơ thẩm đã
quyết định là quá nặng thì cơ quan công tố phải kháng nghị theo hướng giảm
nhẹ. Dù kháng nghị theo hướng buộc tội hay không tội, kháng nghị tăng nặng
hay giảm nhẹ hình phạt thì cũng là thực hiện mục tiêu của THQCT.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, chế định kháng nghị PT của cơ quan công tố
các nước có sự khác nhau theo những xu hướng mở rộng hoặc thu hẹp quyền
kháng nghị của cơ quan công tố. Theo xu hướng thu hẹp quyền kháng nghị,
không phải bất cứ vụ án nào cũng có quyền kháng cáo, kháng nghị. Phạm vi, chủ
thể có quyền kháng nghị cũng có giới hạn. Những nước theo xu hướng này thuộc
những nước có truyền thống pháp luật Common law. Ví dụ ở các nước này cơ
quan công tố sẽ bị giới hạn đối với những bản án tha bổng (không phạm tội)
hoặc phạt tiền bởi những trường hợp này sẽ không có chống án lên cấp phúc
35
thẩm... Theo xu hướng mở rộng quyền kháng nghị PT, đối với các nước theo
truyền thống Châu Âu lục địa (civil law) và các nước đang trong giai đoạn
chuyển đổi (Nga, Trung Quốc...) thì quyền kháng cáo, kháng nghị không bị giới
hạn bởi những phán quyết vô tội. Người Nhật cũng đồng nhất quan điểm này.
Luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định KSV xét thấy án sơ thẩm xử quá nhẹ,
quá nặng hoặc tuyên bị cáo vô tội là không đúng thì có quyền kháng nghị PT
[39]. Mặc dù có sự khác nhau trong xu hướng thực hiện quyền kháng nghị do
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, các
điều kiện hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển, truyền thống pháp luật, song
cần khẳng định kháng nghị PT chính là một quyền năng để cơ quan công tố phát
động việc xét xử PT, tiếp tục bảo vệ quan điểm buộc tội, do vậy là một phương
thức để THQCT trong giai đoạn PT.
- THQCT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo trình tự PT
+ Sử dụng quyền nghiên cứu hồ sơ PT: Nghiên cứu hồ sơ là quá trình
chuẩn bị cho việc THQCT tại phiên toà PT. Thông qua việc nghiên cứu bản án
sơ thẩm, hồ sơ vụ án, KSV nắm vững các tình tiết, nội dung vụ án; nội dung
kháng cáo, kháng nghị; các căn cứ pháp luật và các tài liệu chứng cứ cần thiết
khác. Trên cơ sở đó KSV dự thảo quan điểm của VKS, chuẩn bị đề cương xét
hỏi cũng như kế hoạch tranh luận tại phiên toà PT. Tại phiên tòa PT KSV tham
gia xét hỏi, cập nhật các tài liệu chứng cứ mới phát sinh để bổ sung, hoàn thiện
bài phát biểu quan điểm của VKS và thực hiện tranh luận. Tuy vậy ở hầu hết các
vụ án, việc xác định sự thật cũng như quan điểm của các bên liên quan về việc
giải quyết vụ án thường đã được phản ánh từ giai đoạn sơ thẩm. Do đó, tuy đây
chỉ là bước chuẩn bị cho việc tham gia phiên toà PT nhưng có thể nói việc
nghiên cứu hồ sơ có ý nghĩa hết sức quan trọng, có tính quyết định tới sự thành
công hay không thành công của KSV tại phiên toà PT. KSV có nắm chắc các
tình tiết của hồ sơ vụ án, nội dung kháng cáo, kháng nghị nhất thì mới chủ
động khi THQCT tại phiên toà, đặc biệt là trong việc tranh luận đối đáp với
luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm
36
buộc tội của VKS.
Sử dụng quyền điều tra xác minh bổ sung: PT là việc “xét xử lại” vụ án,
bản án, quyết định PT được ban hành phải dựa trên cơ sở xem xét các tài liệu,
chứng cứ cả ở giai đoạn sơ thẩm và tài liệu, chứng cứ mới phát sinh ở giai đoạn
PT. Do đó việc xác minh bổ sung chứng cứ ở cấp PT là một trong những nội
dung cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm việc xét xử
vụ án có căn cứ và đúng pháp luật nói chung và công tác THQCT của VKS nói
riêng. Để bảo vệ quan điểm buộc tội KSV ở cấp PT có quyền tự mình hoặc hoặc
yêu cầu VKS cấp dưới xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật theo
quy định của BLTTHS. Tuy vậy điều tra xác minh bổ sung không phải là hoạt động
điều tra lại vụ án. Nhìn chung điều tra xác minh ở giai đoạn PT chỉ để làm sáng tỏ
thêm một số tình tiết nhất định và là những vấn đề mà cấp PT có thể và có điều kiện
làm rõ được, ví dụ xác minh bổ sung về tuổi của bị cáo, tuổi của bị hại, những vấn
đề cần giám định bổ sung... trong những trường hợp khác cấp PT phải huỷ án để
điều tra lại, dù như vậy là mất thời gian và tốn kém chi phí xã hội hơn.
+ Sử dụng quyền của KSV tại phiên tòa PT
Khi THQCT tại phiên tòa PT KSV có quyền xét hỏi nhằm bảo vệ quan
điểm buộc tội. Xét hỏi tại phiên toà là một phần của quá trình xét xử một vụ án
hình sự, trong đó Hội đồng xét xử, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của đương sự phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị thiệt hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm
chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét xác vật chứng, đọc biên bản,
công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ… Xét hỏi tại phiên toà
đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ những tình tiết, xác định sự thật khách
quan về vụ án. Để THQCT KSV phải tích cực tham gia vào việc xét hỏi, chủ
động làm rõ sự thật khách quan của vụ án để chuẩn bị cho việc phát biểu quan
điểm giải quyết vụ án, tranh luận bảo vệ quan điểm buộc tội.
Tại phiên tòa PT, KSV có quyền phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ
án. Có thể nói, phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án là kết tinh
37
kết quả của các hoạt động trước đó như: hoạt động nghiên cứu hồ sơ, tham gia
xét hỏi... KSV phải bổ sung và sửa chữa bản dự thảo quan điểm của VKS, để
phát biểu làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của nó, thủ đoạn,
công cụ, phương tiện, động cơ mục đích phạm tội, những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự....; phân tích các căn cứ pháp luật áp dụng để giải
quyết vụ án. Nội dung quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án phải đảm
bảo đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao, để tạo tiền đề đảm bảo cho việc
tranh luận có hiệu quả sau đó của KSV tại phiên tòa.
KSV có quyền tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án,
bảo vệ quan điểm đường lối giải quyết vụ án của VKS, bác bỏ những ý kiến
không đúng của những người tham gia tố tụng. Tranh luận là phần rất quan trọng
của một phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Là sự đối đầu trực tiếp, công khai của
những quan điểm, ý kiến khác nhau, thông qua sự cọ xát các chứng cứ của vụ án
do KSV và bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng đưa ra để xác định
sự thật vụ án và tìm ra đường lối giải quyết vụ án được các bên “tâm phục, khẩu
phục”. Vì vậy các bên tham gia tranh luận, bao gồm cả KSV, cần được tạo điều
kiện tối đa trong việc phát biểu ý kiến tranh luận. Để làm tốt chức trách nhiệm
vụ là bên “buộc tội”, việc đối đáp tranh luận của KSV phải đảm bảo tính chính
xác, lý lẽ, lập luận phải căn cứ pháp luật, từ đó phân tích bác bỏ những quan
điểm lập luận không đúng của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, bảo
vệ quan điểm giải quyết vụ án của VKS.
* Phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn xét xử PT:
THQCT trong giai đoạn xét xử PT của VKS được bắt đầu ngay từ sau khi
giai đoạn xét xử sơ thẩm chấm dứt, bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành.
Từ sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành VKS có quyền kháng nghị
PT – hoạt động THQCT phát sinh. THQCT giai đoạn xét xử PT kết thúc khi TA
cấp PT ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sựKiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
 
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAYKiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, HAY
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết ngườiLuận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
 
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAYĐề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
Đề tài: Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước cải cách tư pháp, HAY
 
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư phápThi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp
 
Quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sựQuyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOTLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sựNâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Nâng cao chất lượng pháp luật trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sựLuận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
Luận án: Hoạt động của Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 

Similar to Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát

Similar to Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát (20)

Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, HAY
 
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAYChất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
Chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử, HAY
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dânMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát nhân dân
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
LUẬN ÁN LUẬT HỌC MỐI QUAN HỆ TỐ TỤNG GIỮA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA VÀ VIỆN K...
 
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAYMối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
Mối quan hệ tố tụng giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, HAY
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.docGiám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
Giám Đốc Thẩm Vụ Án Hình Sự Theo Pháp Luật Tố Tụng.doc
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quận Long Biên, Hà Nội - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
ĐỀ TÀI : XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ ...
 
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOTLuận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự c...
 
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái NguyênLuận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
Luận văn: Yêu cầu điều tra của viện kiểm sát tỉnh Thái Nguyên
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 

Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HOÀI NAM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI-năm 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HOÀI NAM THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9 38 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Cao Thị Oanh HÀ NỘI-năm 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các số liệu và tư liệu trong luận án đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình. TÁC GIẢ LUẬN ÁN
  • 4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước 6 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 18 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án 21 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO 24 2.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 24 2.2. Những vấn đề lý luận về kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 44 2.3. Mối quan hệ, các yếu tố tác động và tiêu chí đánh giá chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 53 Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 63 3.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay 63 3.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay 84 Chương 4: YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 114 4.1. Yêu cầu đặt ra cho thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao 114 4.2. Quan điểm định hướng đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao 120 4.3. Các giải pháp đảm bảo chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân cấp cao 121 KẾT LUẬN CHUNG 145 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 147 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148 PHỤ LỤC 154
  • 5. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT 1 BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 2 GĐT Giám đốc thẩm 4 KSV Kiểm sát viên 3 KSXX Kiểm sát xét xử 5 PT Phúc thẩm 6 QCT Quyền công tố 7 TA Tòa án 8 TAND Tòa án nhân dân 10 TT Tái thẩm 9 THQCT Thực hành quyền công tố 11 VKS Viện kiểm sát 12 VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG PHỤ LỤC Phụ lục 1 Thống kê kết quả kiểm sát bản án sơ thẩm hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 2 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 3 Thống kê kết quả giải quyết đơn đề nghị kháng nghị GĐT, TT hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 4 Thống kê kết quả THQCT và KSXX GĐT, TT án hình sự của các VKSND cấp cao từ ngày 01/6/2015 đến 30/11/2018 Phụ lục 5 Thống kê kết quả THQCT và KSXX PT án hình sự của các Viện phúc thẩm VKSND tối cao từ ngày 01/12/2008 đến 31/5/2015
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội ngày càng phải chính xác, công bằng hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các lợi ích chung của xã hội, đồng thời đảm bảo các quyền và tự do cơ bản của công dân. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của xã hội, hoạt động xét xử, một hoạt động tố tụng rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dần phát triển các cơ chế phù hợp để tăng cường tính chính xác, công bằng. Để hạn chế sai sót, có thể kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của TA cấp dưới, cơ chế TA cấp trên xét xử lại vụ án có bản án, quyết định chưa có hiệu lực (xét xử PT), hoặc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (GĐT, TT) dần dần xuất hiện và ngày nay mang tính phổ biến trên toàn thế giới. Trong quá trình đó, đồng hành với hoạt động xét xử của TA luôn luôn là hoạt động THQCT của cơ quan công tố và cả hoạt động KSXX ở một số nước. Như vậy có thể nói xét xử PT, GĐT, TT cũng như THQCT và KSXX PT, GĐT, TT tồn tại như một nhu cầu tất yếu ở mọi nền tư pháp, là một giai đoạn tố tụng quan trọng nhằm đảm bảo việc xét xử vụ án hình sự được chính xác, công bằng. Tuy mục tiêu cho hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự là giống nhau, nhưng các nước ở từng giai đoạn lịch sử có cách thức tổ chức thực hiện khác nhau. Đối với nước ta, để khắc phục các bất cập, hạn chế, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, cần đổi mới tổ chức hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó có việc tổ chức ra VKSND cấp cao. VKSND cấp cao là một cấp kiểm sát mới trong hệ thống VKSND 4 cấp, có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TA cấp tỉnh; THQCT và KSXX theo thủ tục GĐT, TT đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TA cấp tỉnh, cấp huyện. Đây là một lựa chọn hợp lý nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cả hệ thống VKS nói chung, hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự nói riêng.
  • 8. 2 Sau khi được thành lập, mặc dù phải thụ lý giải quyết khối lượng công việc rất lớn, nhưng trong hơn 3 năm qua các Viện cấp cao cơ bản đã hoàn thành nhiệm vụ THQCT và KSXX án hình sự theo các thủ tục PT, GĐT, TT. Tuy vậy mô hình VKSND cấp cao còn hết sức mới mẻ ở nước ta. Các quy định của pháp luật đảm bảo cho hoạt động của VKSND cấp cao nói chung, hoạt động THQCT và KSXX vụ án hình sự nói riêng vẫn còn chưa đầy đủ và có những điểm chưa phù hợp gây khó khăn cho hoạt động THQCT và KSXX án hình sự của VKSND cấp cao. Cùng với đó, điều kiện hoạt động của các VKSND cấp cao còn rất thiếu thốn về cơ sở vật chất, lực lượng cán bộ, lề lối làm việc. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao là rất cần thiết. Vì những lý do như trên, nghiên cứu sinh đã chọn vấn đề “Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án * Mục đích nghiên cứu của Luận án là làm rõ những vấn đề lý luận về THQCT và KSXX vụ án hình sự, thực trạng quy định, áp dụng pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác này tại VKSND cấp cao. * Để đạt mục đích đề ra, quá trình nghiên cứu Đề tài phải giải quyết một số nhiệm vụ như sau: - Làm rõ những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo thủ tục PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao; - Khảo sát thực trạng quy định của pháp luật và áp dụng các quy định pháp luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay, đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân;
  • 9. 3 - Làm rõ yêu cầu, định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và KSXX vụ án hình sự tại VKSND cấp cao. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án * Đối tượng nghiên cứu là lý luận và thực tiễn THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKSND cấp cao. * Phạm vi nghiên cứu của luận án: Đề tài được thực hiện trong phạm vi của khoa học Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự; sử dụng số liệu thống kê về hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của 03 VKSND cấp cao và các bộ phận thuộc hệ thống cơ quan VKSND trước đây đã thực hiện nhiệm vụ tương ứng trong thời gian 10 năm gần đây. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án * Phương pháp luận: Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về cải cách tư pháp trong những năm qua. * Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp hệ thống, nghiên cứu luật so sánh, tập trung nhất ở Chương 2 để làm rõ những vấn đề lý luận về THQCT và KSXX nói chung, THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao nói riêng; Phương pháp khảo sát thực tiễn, phân tích so sánh, tọa đàm khoa học, phỏng vấn trực tiếp chuyên gia, sử dụng số liệu thống kê của ngành kiểm sát nhằm tìm hiểu về luật thực định về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao cũng như đánh giá thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao trong những năm qua, so sánh với giai đoạn trước đây được sử dụng tập trung ở Chương 3; Phương pháp tổng hợp, phân tích-dự báo nhằm dự báo xu hướng và nhu cầu cần thiết về nâng cao chất lượng THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKSND cấp cao các biện pháp cần thực hiện trong thời gian tới tập trung ở
  • 10. 4 Chương 4. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Cùng với việc kế thừa những kết quả nghiên cứu về THQCT và KSXX đã có, Luận án đóng góp mới về khoa học như sau: - Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự. - Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện, đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó. - Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Đây là công trình khoa học nghiên cứu về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao ở Việt Nam. Với những phương pháp nghiên cứu khoa học, Luận án đã đi sâu phân tích, luận giải những vấn đề lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao; đánh giá thực tiễn quy định pháp luật, áp dụng quy định pháp luật về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong những năm qua; đề xuất đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như để đảm bảo hiệu quả các quy định của pháp luật, nâng cao chất lượng về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao trong thời gian tới. Các kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở cho các nghiên cứu chuyên sâu về THQCT và KSXX vụ án hình sự. Luận án còn có giá trị tham khảo hữu ích trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập, cũng như trong thực tiễn THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự tại các VKSND cấp cao.
  • 11. 5 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, Luận án gồm có 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao Chương 3: Quy định của pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay Chương 4: Yêu cầu, quan điểm định hướng và các giải pháp bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở nước ta hiện nay
  • 12. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Đến nay trong nước đã có khá nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài Luận án ở nhiều góc độ khác nhau, có thể phân chia thành một số nhóm như sau: 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự của VKSND cấp cao là một dạng hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, do vậy nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp là cơ sở để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về THQCT và KSXX PT, GĐT, TT. Liên quan đến những vấn đề lý luận chung về QCT, THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp có thể kể đến một số công trình sau đây: * Liên quan đến QCT, THQCT: Trong nhóm liên quan đến QCT, THQCT đáng chú ý có các công trình như Luận án tiến sỹ luật học “QCT ở Việt Nam” của tác giả Lê Thị Tuyết Hoa (Viện nhà nước và pháp luật 2002), sách chuyên khảo “THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của tác giả Lê Hữu Thể (Nxb Tư pháp, 2005), Luận án tiến sỹ luật học “THQCT trong TTHS từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” của tác giả Tôn Thiện Phương (Học viện khoa học xã hội năm 2017). Các công trình đã nghiên cứu khá toàn diện, sâu sắc những vấn đề lý luận về nguồn gốc, khái niệm, phạm vi, nội dung QCT, THQCT. Các giả cũng đã rất cố gắng phân biệt làm rõ các khái niệm QCT và THQCT, mối quan hệ giữa QCT và THQCT – một mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy; mối quan hệ giữa THQCT và KSXX là 2 chức năng của VKS, tuy độc lập nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kết quả nghiên cứu cũng làm rõ nội dung THQCT trong các giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó có
  • 13. 7 giai đoạn xét xử. Các công trình đã cung cấp kiến thức nền tảng cơ bản, có giá trị tham khảo rất tốt khi nghiên cứu về đề tài Luận án. Ngoài ra, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về QCT có khá nhiều bài viết nêu lên những quan niệm khác nhau về QCT, thực tiễn THQCT ở nước ta hiện nay như: bài viết "Cơ quan THQCT trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay" của TS Đỗ Văn Đương in trên Tạp chí Nghiên cứ lập pháp số 07/ 2006; “QCT và tổ chức thực hiện QCT trong nhà nước pháp quyền” của TS Nguyễn Minh Đức in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1, 2/ 2012; “VKS với hai chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp và sự lựa chọn thích hợp trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” của TS Nguyễn Văn Quảng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012; “Công tố và THQCT trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Đình Nhã trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21/2014;... Bên cạnh đó, trong những năm gần đây còn có nhiều công trình nghiên cứu về QCT, THQCT ở những góc độ khác, như Luận án tiến sỹ luật học “Các chức năng trong TTHS Việt Nam: những vần đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (Học viện khoa học xã hội năm 2012). Trong luận án của mình tác giả nhìn nhận buộc tội (công tố) cùng với bào chữa, xét xử được xác định là 3 chức năng cơ bản của TTHS. Các chức năng này có vị trí, vai trò, bản chất, đặc trưng khác nhau, có sự độc lập với nhau, nhưng lại có mối liên hệ chặt chẽ, ràng buộc nhau, đảm bảo sự vận hành của TTHS. Theo tác giả dù dưới hình thức tố tụng nào (tố cáo, thẩm vấn, tranh tụng,...) thì ba chức năng này vẫn luôn xuất hiện và tồn tại, chúng chỉ khác trong cách thể hiện mà thôi. Những kết quả nghiên cứu trên mang đến những nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn về QCT, khi đặt QCT trong mối tương tác với các chức năng tố tụng khác. Tương tự như vậy, gần đây nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu THQCT theo những cách thức mới, không chỉ là những hoạt động độc lập, mà cách thức THQCT, địa vị pháp lý của KSV nói riêng được đặt trong trong mối liên hệ với cách thức tổ chức hoạt động tố tụng hình sự nói chung, trong mối quan hệ với
  • 14. 8 các chủ thể khác trong quá trình tố tụng..., như Luận án tiến sỹ luật học “Mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy (2014). Trong luận án của mình tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về mô hình TTHS; những tiêu chí khoa học về phân loại các mô hình TTHS; làm rõ lịch sử hình thành, phát triển, đặc điểm, ưu thế, hạn chế của các mô hình TTHS điển hình trên thế giới và xu thế phát triển chung của các mô hình TTHS. Kết quả nghiên cứu cho thấy chức năng công tố ở các mô hình tố tụng vận hành theo những cách thức khác nhau, phù hợp với mô hình tố tụng; ở chiều ngược lại, chức năng công tố là một thành tố của mô hình tố tụng, cách thức vận hành của nó cũng tác động đến cách thức hoạt động của các thành tố khác trong mô hình tố tụng đó. Các vấn đề trên còn được nhiều tác giả khác quan tâm, thông qua các nghiên cứu về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể thực hiện các chức năng tố tụng trong các mô hình khác nhau, trong đó có việc thực hiện chức năng buộc tội, thực tiễn ở nước ta hiện nay và các đề xuất hoàn thiện như: tác giả Nguyễn Trương Tín với bài viết “Một số vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự 2003 liên quan đến chức năng buộc tội” in trên Tập chí Nhà nước Pháp luật 8/2009; tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Đặc điểm của mô hình tố tụng tranh tụng và phương hướng hoàn thiện mô hình tố tung hình sự ở Việt Nam” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23, 24/2009; TS Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Thuỷ với “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18/2010; tác giả Nguyễn Duy Giảng với bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc tăng cường vai trò của Viện kiểm sát trong mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” in trên Tạp chí Kiểm sát 2/2011; tác giả Nguyễn Ngọc Chí với bài viết “Cơ sở lựa chọn mô hình Tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề Các cơ quan Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền 2011... * Liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp:
  • 15. 9 KSXX là một dạng hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp, những vấn đề này đã được đặt ra nghiên cứu trong khá nhiều công trình, như Đề tài khoa học cấp bộ “Bàn về chức năng giám sát việc thực hiện quyền lực của nhà nước và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS ở nước ta” của VKSND tối cao (2010). Công trình đã nghiên cứu, làm sáng tỏ về quyền lực nhà nước, sự tất yếu cần phải giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Sự hiện diện của VKS với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải là sản phẩm của một chế độ xã hội theo kiểu quốc gia XHCN hay quốc gia TBCN, mà bởi đặc điểm lịch sử, tính đặc thù của văn hóa, của truyền thống v.v… Đối với công tác KSXX, thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân, của những người tham gia tố tụng, VKS có vai trò quan trọng trong kiểm tra, giám sát quyền lực tư pháp, có một vai trò và vị trí mà các thiết chế khác không thay thế được. Đề tài khoa học cấp bộ “VKS ở các nước chuyển đổi và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong quá trình cải cách tư pháp” của VKSND tối cao (2012) cho thấy, những thay đổi về chính trị, kinh tế, xã hội của các nước chuyển đổi sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991 có ảnh hưởng sâu sắc đến mô hình VKS trên tất cả các phương diện vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,... Sau chuyển đổi, bên cạnh chức năng công tố, VKS ở đa số các nước này vẫn tiếp tục thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Qua nghiên cứu, Đề tài cho rằng ở nước ta trong những năm tới cần khẳng định và duy trì hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Trong Đề án cấp bộ “Nghiên cứu về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp” của VKSND tối cao (2013) các tác giả đã đi sâu làm rõ bản chất, nội dung và đặc điểm của quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, chủ thể các hoạt động tư pháp. Kết quả nghiên cứu cho thấy cấu trúc và thẩm quyền và nhiệm vụ, địa vị pháp lý của các cơ quan tư pháp ở các nước là rất đa dạng. Ở nhiều nước hình thức giám sát hoạt động xét xử phổ biến thông qua tuyển chọn, bầu cử, bổ nhiệm thẩm phán. Tuy vậy ở nước ta cần thiết
  • 16. 10 duy trì chức năng “kiểm sát các hoạt động tư pháp” nói chung, KSXX nói riêng, nhằm bảo đảm để các hoạt động của các chủ thể diễn ra trong giai đoạn này phù hợp với pháp luật, tuân theo pháp luật. Việc nghiên cứu về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, KSXX nói riêng trong những năm gần đây tiếp tục có những phát triển mới, đi sâu, cụ thể hơn. Đề tài khoa học cấp bộ “Kiểm sát các hoạt động tư pháp ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp – Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật” của VKSND tối cao (2014) đã tập trung làm rõ khái niệm, khách thể, đối tượng, phạm vi của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp... Các tác giả cho rằng, kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp; được thực hiện từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, hai chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là cùng do KSV thực hiện, tuy nhiên mục đích và nội dung của các chức năng là khác nhau. Để tránh sự mập mờ trong nhận thức, hạn chế trong thực tiễn thi hành thì các quy định của pháp luật cần phân định rõ các chức năng này. Ngoài ra Đề tài cũng nghiên cứu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung KSXX nói riêng ở nước ta và ở một số nước trên thế giới – cung cấp nhiều thông tin cần thiết trong quá trình xây dựng Luận án. Ngoài các công trình trên, liên quan đến kiểm sát hoạt động tư pháp, KSXX còn có khá nhiều công trình, bài viết khác nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề như quan niệm về cơ quan tư pháp, quan niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp, KSXX, thẩm quyền, phạm vi, hình thức thực hiện công tác kiểm sát, phân biệt kiểm sát hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong hoạt động thực hiện chức năng của VKS... có thể kể đến như bài viết “Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp” của PGS, TS Phạm Hồng Hải trên Tạp chí Kiểm sát số 8/ 2002; “Tư pháp hình sự và yêu cầu tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự” của TS Nguyễn Thị Thủy trên Nghiên cứu lập pháp số
  • 17. 11 13/2009; “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay” của tác giả Trần Văn Độ trên Tạp chí Luật học số 2/2014; TS Đỗ Văn Đương với “ Đảm bảo tính độc lập của VKS và vai trò của VKS trong kiểm sát các hoạt động tư pháp - kinh nghiệm từ thực tiễn Việt Nam” trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2012... 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hình sự Theo quy định của pháp luật ở nước hiện nay, THQCT và kiểm sát sát hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được thực hiện ở nhiều giai đoạn khác nhau, từ giải quyết tin báo tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, và tiếp tục được thực hiện liên tục ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, GĐT, TT. Các hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp này do nhiểu cấp, nhiều bộ phận khác nhau của cơ quan VKS thực hiện; trong đó VKSND cấp cao ở nước ta hiện nay chỉ có nhiệm vụ THQCT và KSXX theo thủ tục PT, GĐT, TT. Lịch sử tư pháp cho thấy cách thức tổ chức, vận hành hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT ở các nước là khác nhau và ở từng nước cũng khác nhau qua các thời kỳ. Nghiên cứu về các vấn đề này có thể kể đến một số công trình như: * Nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT. Hoạt động THQCT và KSXX nói chung, trong đó có THQCT và KSXX trong giai đoạn PT, GĐT, TT nói riêng có mối liên hệ chặt chẽ, quy định lẫn nhau với các hoạt động tố tụng khác trong giai đoạn xét xử. Do đó nghiên cứu về THQCT và KSXX thì cần nghiên cứu về hoạt động xét xử. Liên quan đến hoạt động xét xử PT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTHS Việt Nam” của Vũ Gia Lâm (2008). Công trình đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về xét xử và cấp xét xử trong tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng. Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy, xuất phát từ đòi hỏi việc xét xử phải chính xác, công bằng, nên cần các cấp TA khác nhau để TA cấp trên xem xét lại bản án của TA cấp dưới. Sự ra đời của
  • 18. 12 nguyên tắc 2 cấp xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan khi sự phát triển của xã hội loài người phát triển đến một trình độ nhất định. Trên cơ sở nghiên cứu sâu sắc về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của Nguyên tắc, Luận án cũng đưa ra nhiều đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng hoạt động tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử nói chung, công tác THQCT và KSXX nói riêng. Cùng nghiên cứu về xét xử PT còn phải kể đến Luận án tiến sĩ “PT trong TTHS” của Nguyễn Đức Mai (2004). Trong công trình của mình tác giả đã nghiên cứu khá toàn diện về PT trong TTHS. Về mặt lý luận, công trình đã làm rõ được sự cần thiết, bản chất của PT trong TTHS; đồng thời cũng cho thấy các quan điểm về giới hạn, phạm vi, thẩm quyền, thủ tục ... rất đa dạng, khác nhau với mỗi nước qua các thời kỳ. Với những kết quả đạt được luận án rất có giá trị khi nghiên cứu về THQCT và KSXX PT của VKSND cấp cao khi nghiên cứu nó trong tổng thể các hoạt động tố tụng trong giai đoạn này. Đối với hoạt động xét xử GĐT có thể kể đến Luận án tiến sĩ “GĐT trong TTHS Việt Nam” của Phan Thị Thanh Mai (2007). Luận án đã làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của GĐT trong tố tụng hình sự, góp phần thống nhất nhận thức về bản chất, ý nghĩa của GĐT và nội dung của chế định GĐT. Luận án cũng phân tích, đánh giá một cách khoa học những quy định của pháp luật thực định về GĐT và thực tiễn GĐT ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy những điểm khác biệt của giai đoạn GĐT so với các giai đoạn xét xử sơ thẩm, PT, do đó THQCT và KSXX trong giai đoạn GĐT cũng cần được điều chỉnh phù hợp. Liên quan đến cách thức phân cấp xét xử, góp phần lý giải lý do cần tổ chức lại hệ thống cơ quan tòa án, cần có thêm các TAND cấp cao (cũng là lý do để có thêm VKSND cấp cao) có thể thể kể đến Đề án thành lập TA sơ thẩm khu vực, tòa PT, tòa thượng thẩm, đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND tối cao. Đánh giá về thực tiễn tổ chức và hoạt động, TAND tối cao đã nêu ra khá nhiều tồn tại, bất cập như việc xác định thẩm quyền xét xử của mỗi TA vừa theo lãnh thổ, vừa theo tính chất vụ việc còn nhiều bất hợp lý; nhiệm vụ của TAND tối cao
  • 19. 13 nặng nề ... Do vậy, cần thiết phải tiếp tục cải cách, đổi mới hệ thống TAND nước ta gồm 4 cấp theo đúng tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TƯ. Ngoài các công trình trên, liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT còn có rất nhiều bài viết trên các tạp chí nghiên cứu. Các bài viết này nêu ra những điểm mâu thuẫn, bất cập trong các quy định của pháp luật, tranh luận về cách hiểu, cách áp dụng, đồng thời kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật về xét xử PT, GĐT, TT như: bài viết “Hoàn thiện một số quy định về xét xử PT hình sự nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc hai cấp xét xử” của tác giả Vũ Gia Lâm trên Tạp chí Toà án nhân dân số 23/2006; “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của hội đồng xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Vũ Gia Lâm(2009) trên Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2009; “Thủ tục xét xử PT vụ án hình sự theo pháp luật của một số nước” của tác giả Nguyễn Đức Mai trên Tạp chí Toà án nhân dân số 2/2010; tác giả Nguyễn Văn Trượng với một loạt bài viết như: “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2005, “Cần sửa đổi bổ sung một số quy định của BLTTHS năm 2003 về thủ tục xét xử phúc thẩm” trên Tạp chí Kiểm sát số 17/2006, “Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về xét xử PT” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 15/2006, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử PT theo tinh thần cải cách tư pháp” trên Tạp chí Toà án nhân dân số 22/2008, “Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS về thủ tục xét xử PT theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 2/2010, “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS về xét xử PT” trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2011; “TA cấp PT hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo hướng có tội - những vấn về lý luận và thực tiễn” của tác giả Đinh Văn Quế trên Tạp chí TAND số 8/2013; “Một số vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật trong xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Dương Thị Diệu Hiền trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 3/2014... Đặc biệt trong giai đoạn nghiên cứu xây dựng BLTTHS 2015 có khá nhiều bài viết góp ý vào các dự thảo như “Góp ý một số quy định về xét xử PT trong
  • 20. 14 Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Mai Thị Thanh Thảo trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2015; “Bình luận một số quy định về xét xử sơ thẩm và PT trong Dự thảo BLTTHS (sửa đổi)” của tác giả Phạm Công Hùng trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2015; “Không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự trong xét xử PT” của tác giả Mai Thanh Hiếu trên Tạp chí Luật học số 10/2015; “Một số vấn đề về các quy định chung trong thủ tục xét xử PT” của tác giả Duy Kiên trên Tạp chí Kiểm sát số Tân Xuân/2015; ... * Nhóm các công trình liên quan đến nội dung THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của KSV Bên cạnh nhóm công trình liên quan đến hoạt động xét xử PT, GĐT, TT, mà thực chất trong đó đã có đề cập đến hoạt động THQCT và KSXX, còn có không ít nghiên cứu chuyên sâu, đề cập trực diện đến THQCT và KSXX của KSV trong giai đoạn này. Liên quan đến nội dung này có thể kể đến một số công trình như cuốn “Kỹ năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS” của Học viện tư pháp (2005), “Tranh luận tại phiên tòa PT”, “Kỹ năng THQCT và KSXX vụ án hình sự theo thủ tục GĐT và TT”của TS Dương Thanh Biểu (2008, 2010). Cùng với việc phân tích tính chất của giai đoạn xét xử PT, GĐT và TT, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong giai đoạn này theo quy định của luật thực định ở nước ta cũng như quan điểm của một số nước khác; các cuốn sách cũng đã tổng kết từ thực tiễn, nêu ra được khá phong phú, sinh động những kỹ năng, những hoạt động KSV phải thực hiện khi THQCT và KSXX trước khi mở phiên tòa, tại phiên tòa, sau khi kết thúc phiên tòa trong các giai đoạn này... Những nội dung quan trọng nhất của THQCT và KSXX của KSV đã được pháp luật TTHS và luật tổ chức VKSND quy định, điều chỉnh. Do vậy, các tài liệu nghiên cứu về các ngành luật này có giá trị quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung THQCT và KSXX. Thuộc nhóm này có thể kể đến Bình luận khoa học BLTTHS do PGS, TS Võ Khánh Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân 2004), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB
  • 21. 15 Công an nhân dân, 2007), Bình luận khoa học BLTTHS 2003 do PGS, TS Nguyễn Ngọc Anh chủ biên (NXB Chính trị quốc gia 2009). Đặc biệt, sau khi BLTTHS 2015 ra đời đã có những nghiên cứu kịp thời các quy định mới của pháp luật như cuốn “Những nội dung mới trong BLTTHS năm 2015” do PGS, TS Nguyễn Hòa Bình chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2016), Giáo trình luật tố tụng hình sự của Trường đại học luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân, 2016), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do TS Phạm Mạnh Hùng chủ biên (NXB Lao động, 2018), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2015 do GS, TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, TS Phan Trung Hoài đồng chủ biên (NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2018),... Kháng nghị PT là thẩm quyền quan trọng được quy định trong BLTTHS, để VKS nói chung, VKS cấp cao nói riêng thực hiện chức năng THQCT và KSXX. Nghiên cứu về thẩm quyền này có thể kể đến Luận án tiến sĩ: “Chế định kháng nghị PT hình sự, những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nguyễn Huy Tiến (2015). Trong luận án của mình tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu sắc về nguồn gốc, bản chất, ý nghĩa, nguyên tắc của kháng nghị PT; phân tích các quy định về kháng nghị PT trong pháp luật thực định ở nước ta và một số nước qua các thời kỳ, thực tiến áp dụng chế định kháng nghị PT của VKS các cấp trong giai đoạn hiện nay... do đó công trình rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về vấn đề THQCT và KSXX PT của VKS. Trong các vấn đề về THQCT và KSXX của KSV, tranh tụng là nội dung được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây. Nghiên cứu về vấn đề này có thể kể đến Luận án tiến sỹ luật học “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS việt nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển (2010), Đề tài khoa học cấp bộ “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và những vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi BLTTHS” của VKSND tối cao (2015). Trong công trình của mình, các tác giả khằng định, sự tồn tại khách quan của hai chức năng buộc tội và gỡ tội làm xuất hiện nhu cầu đối chất, tranh tụng giữa hai nhóm chủ thể có quyền và lợi ích đối chọi nhau nhằm bảo vệ quan điểm của mình và phủ định,
  • 22. 16 phản bác quan điểm của chủ thể đối lập. Như vậy, muốn hay không muốn, nhà làm luật có ghi nhận hay không ghi nhận thì tranh tụng vẫn tồn tại trong TTHS với tính chất là một thuộc tính khách quan của TTHS. Tuy nhiên, thuộc tính này bộc lộ, biểu hiện như thế nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, văn hoá, lịch sử, truyền thống, mô hình tố tụng của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Mặc dù chưa được quy định là một nguyên tắc, nhưng trong các BLTTHS ở nước ta đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm sự tranh tụng giữa các bên trong. Thực tiễn thực hiện mở rộng tranh tụng tại phiên toà thời gian qua đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, để tăng cường tranh tụng, các tác giả cũng đề xuất sửa đổi một số quy định của BLTTHS để tăng cường tranh tụng trong TTHS Việt Nam. Ngoài các công trình trên, liên quan đến nội dung hoạt động THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của KSV còn có rất nhiều bài viết như: tác giả Nguyễn Huy Tiến với các bài viết “Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số 17/2009, “Hoàn thiện quy định của BLTTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn xét xử PT các vụ án hình sự” trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2010; “Về THQCT trong giai đoạn xét xử” của tác giả Lý Văn Chính trên Tạp chí Toà án nhân dân số 12/2006; “Một số trường hợp giải quyết kháng cáo, kháng nghị liên quan đến phạm vi xét xử PT vụ án hình sự” của tác giả Quách Thành Vinh trên Tạp chí Toà án nhân dân số 17/2009; “Một số vấn đề về hoạt động điều tra bổ sung của VKS ở giai đoạn xét xử PT” của tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2012 .... * Nhóm các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT Các công trình liên quan đến đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT của VKS khá phong phú. Có thể kể đến như các Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác THQCT và KSXX các vụ án hình sự”, “Nâng
  • 23. 17 cao chất lượng công tác THQCT và KSXX PT đối với các vụ án kinh tế chức vụ”, sách chuyên khảo “Tổng kết 50 năm công tác THQCT và KSXX hình sự của VKSND” của VKSND tối cao. Các công trình nghiên cứu đã phân tích vị trí, vai trò, nội dung và phạm vi của công tác THQCT và KSXX hình sự; qua tổng hợp, phân tích, đánh giá số liệu, hoặc minh họa bằng các vụ án cụ thể sinh động để khái quát kết quả công tác này của toàn ngành Kiểm sát qua các thời kỳ khác nhau, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp ở giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. Bên cạnh đó một số công trình đi sâu đánh giá kết quả một khâu, một mặt công tác THQCT và KSXX cụ thể của VKS như một số Đề tài khoa học cấp bộ “Các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” của VKSND tỉnh Bắc Ninh (2009), “Những giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV” của VKSND tỉnh Phú Thọ (2005) tập trung đánh giá thực trạng tranh tụng trên địa bàn. Kết quả nghiên cứu thể hiện, thực hiện tinh thần Nghị quyết 08, 49 VKS địa phương đã có nhiều biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, KSV về tranh tụng, chất lượng tranh tụng của KSV ngày càng nâng lên (thể hiện qua chất lượng bản luận tội nâng lên, việc thẩm vấn của KSV đã chủ động, đạt chất lượng cao), việc tham gia bào chữa của luật sư ngày càng được chú trọng. Đánh giá về nguyên nhân hạn chế tranh tụng, đề tài có một số nhận xét đáng chú ý như: do pháp luật chưa quy định cụ thể về tranh tụng, người tiến hành tố tụng chưa nắm vững nhiệm vụ, vai trò của mình tại phiên tòa, trình độ nhận thức pháp luật của bị cáo, bị hại còn thấp, không tự bào chữa hay bảo vệ quyền lợi của mình... Đặc biệt trong thời gian gần đây đã có những nghiên cứu đánh giá về tổ chức bộ máy cơ quan làm công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, nghiên cứu về VKSND cấp cao – một cấp kiểm sát mới. Có thể kể đến các công trình như các Đề tài khoa học cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thành lập VKSND cấp cao đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, “VKSND
  • 24. 18 cấp cao trong hệ thống VKSND mới” của VKSND Tối cao đi sâu phân tích cơ sở hình thành, kinh nghiệm ở một số nước; thực trạng trước khi ban hành Luật tổ chức VKSND năm 2014, mô hình tổ chức hoạt động của hệ thống cơ quan VKS còn nhiều điểm bất hợp lý, việc tổ chức VKSND cấp cao ở nước ta là cần thiết. Qua khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt động của các VKSND cấp cao sau 2 năm thực tế hoạt động; đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế, so sánh với giai đoạn trước đây; từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các VKSND cấp cao. Ngoài các công trình trên, liên quan đến việc đánh giá kết quả, đề xuất biện pháp tổ chức thực hiện công tác THQCT và KSXX PT, GĐT, TT còn có những bài viết trên các tạp chí nghiên cứu như: bài viết “Nâng cao chất lượng công tác THQCT, KSXX PT hình sự của VKSND” của TS Dương Thanh Biểu trên Tạp chí Kiểm sát số 22/2005; tác giả Phạm Văn An với các bài viết “Một số kinh nghiệm trong công tác THQCT, KSXX hình sự tại phiên toà hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp” trên Tạp chí Kiểm sát số 10/2011, “Thay đổi trong quan điểm chỉ đạo của đảng về tổ chức xét xử GĐT, TT vụ án hình sự” trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 16/2011, “Nâng cao vai trò, trách nhiệm , tính chủ động của KSV trong THQCT và KSXX vụ án hình sự” trên Tạp chí Kiểm sát số 15/2017, ... 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Một số công trình ở nước ngoài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Đề tài như: - Cuốn Giáo trình chế độ công tố, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội) phản ánh tình hình nghiên cứu rất toàn diện của các nhà khoa học Trung Quốc về các vấn đề liên quan đến công tố, được coi là một “chế độ” trong pháp luật Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra một cách sâu sắc nguồn gốc, bản chất của QCT cũng như các vấn đề cơ bản của công tố như: tính chất của QCT, căn cứ của QCT, các quyền năng, chức năng cơ bản của QCT;
  • 25. 19 các cơ chế để thực hiện, kiểm soát, và hỗ trợ thực hiện QCT; các chuẩn mực tư pháp hình sự quốc tế, nguyên tắc của pháp luật, các chính sách hình sự phải được tuân thủ trong quá trình THQCT. Đặc biệt các tác giả đã có đưa ra quan điểm về nguyên tắc cân bằng giá trị công tố. Theo đó mục tiêu giá trị công tố nhằm tới cơ bản là chính nghĩa pháp luật – không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, trình tự công bằng – quá trình tố tụng giải quyết vụ án phải công bằng, hợp pháp, và hiệu quả tố tụng – tổng hợp hiệu quả đạt được của hoạt động công tố. Cuốn sách chỉ ra sự đa dạng các loại hình chế độ công tố ở các nước trên thế giới, được các tác giả chia thành 5 loại cơ bản là: Do Công tố viên nắm QCT như ở Nhật, Trung Quốc; do Công tố viên và thẩm phán dự thẩm cùng thi hành như ở Pháp; do Viện công tố và đại bồi thẩm đoàn thi hành như ở Mỹ; do Công tố viên và cảnh sát thi hành như ở Phần Lan, Na Uy; do Công tố viên và luật sư cùng thi hành như ở Anh. Cùng với đó các tác giả cũng tập trung nghiên cứu về chế độ công tố ở Trung Quốc, trong đó KSV có vị trí song trùng trong tố tụng, vừa là người giám sát pháp luật vừa là Công tố viên, quá trình VKS tiến hành truy tố vừa là quá trình THQCT vừa là thực thi giám sát pháp luật; các hình thức biểu hiện cụ thể của QCT, trong đó có QCT trong giai đoạn xét xử cũng được nghiên cứu, chiếm một dung lượng lớn của cuốn sách. Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về QCT, THQCT, liên quan trực tiếp đến Luận án và rất có giá trị tham khảo. - Cuốn Giáo trình công tác kiểm sát, Học viện cán bộ kiểm sát quốc gia Trung Quốc, Nhà xuất bản pháp luật Bắc Kinh 2002 (bản dịch của trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội). Trung Quốc là một trong những nước có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kiểm sát nói chung, KSXX vụ án hình sự nói riêng. Cuốn sách luận giải một cách sâu sắc những vấn đề cơ bản của công tác kiểm sát như: quyền kiểm sát và các tính chất của nó; nguyên tắc cơ bản của hoạt động kiểm sát; chức năng giám sát việc tuân theo pháp luật và chế độ giám sát tư pháp của VKS,... đặc biệt, cuốn sách có những phân tích rất thú vị về sự khác biệt về ý
  • 26. 20 nghĩa, nhiệm vụ, vị trí của công tác kiểm sát với hoạt động công tố, về mối quan hệ mật thiết, hữu cơ của các hoạt động này; đồng thời nêu ra những kinh nghiệm của Trung Quốc về việc xử lý những mâu thuẫn khi giao cho một Kiểm sát viên đồng thời giữ các vai trò khác nhau trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Cuốn sách rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về KSXX, cũng như nêu ra các đề xuất, kiến nghị về vấn đề này trong Luận án, vì đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện về công tác kiểm sát. - John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler eds. Comparative criminal procedure, B.I.I.C.L published, London, 1996 (bản tiếng Anh). Cuốn sách này được xây dựng trên cơ sở tóm tắt, biên soạn lại những nội dung, kết quả hoạt động chính của Uỷ ban hỗn hợp do Viện luật quốc tế và luật so sánh Anh đã thành lập tháng 4/1991. Trong cuốn sách các tác giả đã đi sâu phân tích 3 hệ thống TTHS: Pháp, Đức, Anh và xứ Uên - là 3 hệ thống tư pháp hình sự có ảnh hưởng rất lớn thể hiện những xu thế nổi bật nhất của hệ thống tư pháp hình sự ở Châu Âu và có giá trị ảnh hưởng, định hình cho các hệ thống tố tụng trên phạm vi toàn cầu – trên các phương diện như: nguồn của TTHS, các nguyên tắc cơ bản, thủ tục, các giai đoạn tố tụng, nguồn chứng cứ, các cơ quan liên quan trong hệ thống tư pháp hình sự và những người tham gia tố tụng khác,... Ở các nước này đều quy định việc xét xử lại bản án nếu bị kháng cáo, kháng nghị. Ở Pháp, xét xử PT là cấp xét xử thứ 2 và có thể được xét xử lại toàn bộ vụ án. Việc xét xử GĐT do Tòa phá án, TA tối cao thực hiện đối với các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra ở Pháp còn quy định thủ tục TT để sửa chữa những sai lầm rõ ràng về tình tiết thực tế sau khi vụ án đã kết thúc. Ở Đức cũng quy định các thủ tục PT lần thứ nhất, PT lần hai (GĐT và TT). Việc PT lần 1 được tiến hành dưới hình thức một phiên toà xét xử mới theo cùng một cách thức giống như phiên tòa sơ thẩm, Toà PT có quyền đưa ra phán quyết mới trên cơ sở xem xét toàn bộ chứng cứ. Ở phiên tòa GĐT chỉ xem xét các vấn đề pháp lý mà thôi. Ở Anh và xứ Uên, toà PT có quyền chấp thuận kháng cáo, huỷ án sơ thẩm nếu thấy việc kết tội không có cơ sở. Từ những phân tích về từng hệ
  • 27. 21 thống TTHS cuốn sách cũng nêu nên những quan điểm chính của Uỷ ban về việc so sánh ba hệ thống này, đưa ra các nhận xét, về sự ảnh hưởng của cơ chế xem xét lại vụ án đối với các yêu cẩu về cơ sở nhân vật lực cũng như hiệu quả của hoạt động xét xử PT. Cuốn sách rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về hoạt động xét xử PT, GĐT, TT cũng như hoạt động THQCT của cơ quan công tố trong giai đoạn này. - Chương trình đối tác tư pháp (2012), sách chuyên khảo “Những mô hình TTHS điển hình trên thế giới” (bản tiếng Việt). Cuốn sách là tập hợp các báo cáo nghiên cứu của các nhà khoa học và thực tiễn có kinh nghiệm và uy tín quốc tế về mô hình TTHS của 7 quốc gia đại diện cho các mô hình TTHS điển hình trên thế giới, gồm có Chuyên đề về mô hình TTHS Nhật Bản và Chuyên đề về mô hình TTHS Hàn Quốc của giáo sư Buyn-Sun-Cho, chuyên đề Mô hình TTHS Trung Quốc của giáo sư Liling Yue, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa liên bang Nga của giáo sư William Burnham, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa Italia của tiến sỹ Marco Fabri, chuyên đề Mô hình TTHS Liên bang Hoa Kỳ của giáo sư Richard S.Shine, chuyên đề Mô hình TTHS Cộng hòa Pháp của Jean- Philippe Rivaud. Các chuyên đề này đều đã tổng quan quá trình phát triển và đặc điểm của mô hình TTHS ở mỗi nước; đi sâu phân tích các vấn đề như cơ cấu tổ chức hệ thống cơ quan tư pháp, địa vị tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng; các giai đoạn TTHS, như giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử sơ bộ, giai đoạn xét xử, giai đoạn kháng cáo; quyền truy tố, cơ chế giám sát đối với các hoạt động TTHS … Kết quả nghiên cứu cho thấy, tùy thuộc vào lịch sử, kinh tế xã hội mà mỗi nước có cách thức tổ chức cơ quan tiến hành tố tụng, quy định trình tự, thủ tục tố tụng khác nhau. Trong mỗi mô hình TTHS thì địa vị, nhiệm vụ quyền hạn của công tố viên nói chung, trong giai đoạn xét xử nói riêng cũng không giống nhau. Những kết quả nghiên cứu trên cho thấy sự đa dạng trong cách thức tổ chức THQCT, do đó rất có ý nghĩa tham khảo khi nghiên cứu về vấn đề này trong Luận án. 1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những
  • 28. 22 vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu trong luận án 1.3.1. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa phát triển - Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu các vấn đề chung về QCT, THQCT. Tuy còn những ý kiến khác nhau nhưng những vấn đề cơ bản như: Khái niệm, nguồn gốc, phạm vi của QCT; khái niệm THQCT và mối quan hệ với QCT; nội dung và phạm vi THQCT v.v... đã được nghiên cứu khá sâu sắc. - Vấn đề KSXX nói chung đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi về quan điểm cách thức tổ chức kiểm soát quyền lực nhà nước và cũng là vấn đề cân nhắc có chuyển VKS thành Viện công tố hay không. Tuy vậy đây không phải là mục tiêu nghiên cứu của Luận án. Những vấn đề liên quan đến Luận án là khái niệm, nội dung và phạm vi của KSXX đến nay cơ bản đã được làm rõ. - VKSND cấp cao có nhiệm vụ THQCT và KSXX trong theo thủ tục PT, GĐT, TT. Để đánh giá đúng chất lượng hoạt động của VKSND cấp cao thì phải đánh giá đúng tính chất của các thủ tục tố tụng này, yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho mỗi chủ thể tố tụng. Đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề này. - Một số nhiệm vụ, quyền hạn pháp lý cụ thể VKSND cấp cao phải thực hiện trong giai đoạn này, như vấn đề kháng nghị PT, vấn đề tranh tụng của KSV tại phiên tòa,... đã được một số công trình quan tâm nghiên cứu. - Kết quả thực tế công tác THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao cũng đã được khảo sát ở mức độ nhất định trong một số công trình nghiên cứu. Nghiên cứu sinh sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu này trong Luận án của mình. 1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Luận án sẽ được tiếp thu các kết quả nghiên cứu liên quan và tiếp tục nghiên cứu những vấn đề sau: - Tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, như: Chủ thể, đối tượng, nội dung, phạm vi của THQCT và KSXX PT, GĐT, TT vụ án hình sự.
  • 29. 23 - Tiếp tục khảo sát và nghiên cứu toàn diện, tổng kết thực tiễn dưới góc độ khoa học hoạt động xây dựng pháp luật cũng như áp dụng các quy định của pháp luật về THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao; phát hiện, đánh giá đúng những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân của nó. - Lảm rõ các yêu cầu mới đặt ra cho hoạt động THQCT và KSXX vụ án hình sự của các VKSND cấp cao trong giai đoạn hiện nay; đề xuất, kiến nghị phù hợp để nâng cao chất lượng hoạt động này.
  • 30. 24 Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO 2.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao 2.1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử vụ án hình sự Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy, sự xuất hiện quyền buộc tội là vấn đề thuộc phạm trù khách quan. Trong thời kỳ đầu sản sinh ra nhà nước, loài người chỉ coi tội phạm là sự thù oán của các cá nhân với nhau, nhưng sau đó nhà nước dần can thiệp, thống nhất thực thi quyền ngăn chặn, trừng phạt tội phạm. Cơ quan xét xử được nhà nước lập ra để can thiệp vào tranh chấp tư nhân, lấy việc xét xử thay thế cho báo thù tư nhân [13, tr.8]. Đồng hành cùng với hoạt động xét xử là hoạt động buộc tội. Ngày nay các công trình nghiên cứu cho thấy chức năng cơ bản trong TTHS có ba loại đó là: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Tuy rằng có sự khác nhau trong việc tổ chức vận hành các chức năng cơ bản, song các mô hình TTHS đều tồn tại ba chức năng TTHS cơ bản nêu trên; sự tồn tại các chức năng cơ bản của TTHS là vấn đề thuộc phạm trù khách quan [38]. Công tố và tư tố là những hình thức khác nhau để thực hiện việc buộc tội. Về mặt truy tố tội phạm, trong lịch sử các nước từng thi hành một thời kỳ dài hình thức tố tụng kiểu vạch tội, nhà nước không chủ động truy tố tội phạm, mà người bị hại trực tiếp nhân danh cá nhân để bảo vệ lợi ích của bản thân mình trước tòa. Quyền này của người bị hại được gọi là “quyền tư tố” [34, tr.18]. Cùng với sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước cũng như hệ thống pháp luật, sự nhận thức của xã hội về lợi ích công và lợi ích tư,
  • 31. 25 về trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội đã có sự thay đổi đáng kể. Càng về sau, giai cấp thống trị nhận ra rằng trong nhiều trường hợp khi các lợi ích cá nhân bị xâm hại thì lợi ích công cộng (như trật tự công cộng, an ninh xã hội ...) cũng bị đe dọa hoặc bị xâm hại, do đó cần có sự can thiệp của nhà nước để chống lại các hành vi xâm phạm này. Chính vì vậy, vai trò của công tố ngày càng được đề cao, thay thế cho tư tố. Ngày nay tư tố vẫn tồn tại song song cùng công tố ở hầu hết các nước nhưng phạm vi bị thu hẹp lại [13, tr.17]. Xung quanh khái niệm QCT có khá nhiều quan niệm khác nhau, như cho rằng QCT chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, hoặc nhận thức khác nhau về nội dung, phạm vi của QCT, khi cho rằng QCT không chỉ có trong lĩnh vực hình sự mà còn có trong các lĩnh vực dân sự, hành chính. Quan niệm về phạm vi QCT trong TTHS cũng có những điểm chưa thống nhất, có quan điểm cho rằng QCT do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự [34, tr.40] [10, tr.29], ngược lại một số tác giả lại có xu hướng thu hẹp khái niệm QCT khi cho rằng, QCT là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước TA, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa [21, tr.14]... Do phạm vi nghiên cứu, Luận án không đi sâu bàn luận về các quan điểm này mà cho rằng: “Quyền công tố trong tố tụng hình sự là quyền đại diện cho nhà nước để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội”. Để QCT được thực hiện nhà nước tổ chức ra các chủ thể thực hiện QCT, quy định trong luật TTHS vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn để các chủ thể đó có thể thực hiện QCT trong thực tiễn. Tuy vậy, không được nhầm lẫn việc một số cơ quan nhà nước có quyền tiến hành một số quyền năng pháp lý như khởi tố vụ án khởi tố bị can để cho rằng cũng là cơ quan THQCT. Chỉ chủ thể nào được giao nhiệm vụ nhân danh Nhà nước đưa vụ án ra tòa, yêu cầu truy cứu trách
  • 32. 26 nhiệm hình sự một cách công khai bằng con đường TA thì chủ thể ấy mới chính là cơ quan THQCT. Việc quy định chủ thể nào THQCT lại tùy theo mỗi nước. Ở nước ta chủ thể THQCT là VKS, “Về THQCT là chức năng mà không cơ quan nhà nước nào làm thay VKS” [10, tr.39]. Tuy nhiên do sự khác nhau về truyền thống lịch sử, chế độ pháp luật các loại hình chế độ công tố ở các nước trên thế giới rất đa dạng, được các nhà nghiên cứu trên thế giới chia thành 5 loại cơ bản là: Do Công tố viên nắm QCT như ở Nhật, Trung Quốc; do Công tố viên và thẩm phán dự thẩm cùng thi hành như ở Pháp; do Viện công tố và đại bồi thẩm đoàn thi hành như ở Mỹ; do Công tố viên và cảnh sát thi hành như ở Phần Lan, Na Uy; do Công tố viên và luật sư cùng thi hành như ở Anh [13]. QCT trong TTHS là quyền lực của nhà nước có nội dung là sự buộc tội đối với người thực hiện tội phạm, THQCT trong TTHS có nội dung là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện quyền buộc tội ấy. Trong thực tiễn cần phân biệt giữa THQCT với các quyền năng cụ thể mà pháp luật quy định để thực hiện quyền lực ấy. THQCT không phải là khởi tố vụ án, ra lệnh bắt tạm giam, công bố cáo trạng tại phiên tòa,... mà THQCT là việc sử dụng các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định này để “buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội”. Đối tượng nhằm tới của THQCT là tội phạm và người phạm tội. Đối tượng của THQCT gắn bó mật thiết với chính sách hình sự và đường lối xử lý tội phạm của nhà nước. Nếu mở rộng phạm vi các hành vi bị coi là tội phạm được quy định trong BLHS hoặc ngược lại loại bỏ các hành vi không phải là tội phạm ra khỏi BLHS thì đối tượng tác động của THQCT cũng thay đổi theo. Có thể nói “Mối quan hệ giữa QCT và THQCT trong TTHS là mối quan hệ biện chứng giữa quyền lực nhà nước và cách thức tổ chức thực hiện quyền lực ấy” [10, tr.50]. Với cách hiểu QCT như đã trình bày trên, có thể hiểu: “Thực hành quyền công tố là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng tổng hợp các quyền năng do pháp luật quy định để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội”.
  • 33. 27 Thời điểm phát sinh THQCT tùy thuộc vào pháp luật của mỗi nước ở từng thời điểm. QCT trong TTHS bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra, song hoạt động THQCT chỉ bắt đầu ở thời điểm pháp luật quy định các quyền năng pháp lý để cơ quan công tố có các hoạt động thực hiện nhiệm vụ phát hiện, điều tra tội phạm để buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, phạm vi THQCT không đồng nhất với phạm vi QCT; THQCT thường được quy định trễ hơn so với phạm vi QCT. Để tăng cường hiệu quả THQCT thì pháp luật cần quy định để phạm vi THQCT ngày càng tiệm cận phạm vi QCT. Thời điểm THQCT kết thúc là khi đã có quyết định về việc giải quyết vụ án và cơ quan công tố cũng chấm dứt các hoạt động nhằm phát hiện, điều tra truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật. Thời điểm này có thể là khi ban hành quyết định đình chỉ điều tra vụ án, cũng có thể là khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Đối với các trường hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị yêu cầu xem xét lại thì việc xem xét lại này cũng đã kết thúc. THQCT có thể được thực hiện qua nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Khi THQCT trong giai đoạn xét xử cơ quan THQCT sử dụng quyền năng pháp lý pháp luật quy định cơ quan THQCT có thể thực hiện trong giai đoạn đó để thực hiện sự buộc tội đối với người phạm tội trước TA. Trong giai đoạn xét xử cơ quan THQCT lại THQCT ở các giai đoạn xét xử sơ thẩm, xét xử PT, xét xử GĐT, TT, trong mỗi giai đoạn pháp luật lại quy định cơ quan này lại có những quyền năng pháp lý khác nhau. Các công trình nghiên cứu cho thấy có sự đa dạng về mô hình TTHS, với nhiều cách phân loại khác nhau, theo cách phân loại phổ biến gồm: mô hình TTHS tranh tụng, mô hình TTHS thẩm vấn, mô hình TTHS pha trộn [38]; ví trí, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THQCT, THQCT trong giai đoạn xét xử trong mỗi mô hình tố tụng là khác nhau. Tương tự như vậy, nội dung, phạm vi THQCT ở giai đoạn xét xử cũng rất khác nhau ở từng nước, trong từng giai đoạn...
  • 34. 28 Với cách hiểu THQCT như đã nêu trên thì: “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền sử dụng tổng hợp các quyền năng do pháp luật quy định trong giai đoạn đó để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội trước tòa án”. Tuy có sự đa dạng trong nội dung, phạm vi THQCT, nhưng nhìn chung để thực hiện nhiệm vụ THQCT thì THQCT ở giai đoạn xét xử có vai trò rất quan trọng, mang tính quyết định. Phiên tòa trong tố tụng thẩm vấn, có thể nói, thực chất là sự tiếp tục của quá trình điều tra liên tục, tại phiên tòa cùng với những chứng cứ trực tiếp được trình bày bằng lời của các nhân chứng trước Tòa [15, tr.62], các chứng cứ đã thu thập được trong các giai đoạn tố tụng trước đó được kiểm tra, xác minh lại làm căn cứ cho việc ra phán quyết. Do vậy, hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử có vai trò quan trọng để tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố được sử dụng, xem xét làm cơ sở cho phán quyết của TA. Trong mô hình tố tụng tranh tụng “với quan niệm TTHS chỉ gồm có giai đoạn xét xử, các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử chỉ thực sự bắt đầu tại phiên tòa sơ thẩm” [15, tr.67] vai trò THQCT của KSV tại phiên tòa lại càng quan trọng hơn. 2.1.2. Xét xử phúc thẩm và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự 2.1.2.1. Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự * Nguyên tắc 2 cấp xét xử Kết quả các công trình nghiên cứu cho thấy, sự ra đời của nguyên tắc 2 cấp xét xử là một nhu cầu tất yếu khách quan. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, hoạt động xét xử ngày càng yêu cầu phải chính xác, công bằng hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả hơn các quyền và tự do cơ bản của công dân. Để hạn chế sai sót, cần có cơ chế phù hợp để kiểm soát và đánh giá lại bản án, quyết định của TA. Cơ chế phù hợp và đảm bảo hiệu quả cao nhất chính là tổ chức tố tụng xét xử theo “cấp xét xử”, để xét xử và xét xử lại vụ án một hoặc một số lần nữa, đảm
  • 35. 29 bảo giải quyết vụ án thật sự khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy vậy để đảm bảo yêu cầu việc giải quyết vụ án cần nhanh chóng, kịp thời khôi phục các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, tránh gây lãng phí về thời gian, tiền bạc của Nhà nước và những người tham gia tố tụng ... “việc phân cấp xét xử nhằm đảm bảo cho một vụ án có thể được xét xử nhiều lần ở các cấp xét xử khác nhau là cần thiết, nhưng không nên tổ chức nhiều cấp xét xử mà chỉ cần tổ chức 2 cấp xét xử” [17, Tr.20]. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung thể hiện quan điểm có tính định hướng của nhà nước trong việc tổ chức tố tụng để xét xử các vụ án hình sự, được quy định trong pháp luật TTHS, trong đó xác định một vụ án hình sự được xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) có thể được xét xử lại và chỉ có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp PT (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo kháng nghị hợp lệ, nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, đảm bảo lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cơ quan tổ chức. Kết quả nghiên cứu quy định của các hệ thống pháp luật khác nhau cho thấy, Nguyên tắc hai cấp xét xử đã được xác lập rất sớm [17, Tr.19]. Khoản 5 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ghi rõ: “bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu TA cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật”. Điều 81 phần 8 Quy chế Rome về TA hình sự quốc tế cũng xác định: “bản án có thể bị công tố viên hoặc bị người kết án kháng cáo phù hợp với quy tắc về tố tụng và chứng cứ dựa trên cơ sở thiếu sự cân đối giữa tội phạm và bản án” Điều 83 Quy chế quy định: “khi tiến hành việc xem xét theo quy định tại điều 81 và điều này hội đồng PT có tất cả các quyền hạn của hội đồng xét xử”. Hiện nay đa số các quốc gia trên thế giới đều thực hiện nguyên tắc 2 cấp xét xử và quy định thủ tục tố tụng cũng như tổ chức hệ thống TA phù hợp để thực hiện nguyên tắc này. * Xét xử phúc thẩm:
  • 36. 30 Xét xử PT là việc TA cấp trên xét xử lại vụ án đã được TA cấp dưới xét xử sơ thẩm (lần 1) trước đó. Cùng với việc thừa nhận rộng rãi Nguyên tắc 2 cấp xét xử, pháp luật TTHS đa số các nước quy định PT là giai đoạn tố tụng tiếp theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm, từ đó tạo ra cơ chế để mọi vụ án đều có thể được xét xử lại lần 2. Có thể nói sự hình thành và phát triển của chế định phúc thẩm trong TTHS gắn liền với tiến trình phát triển của xã hội, với sự hình thành và phát triển các tư tưởng, các nguyên tắc dân chủ và tiến bộ. Đến lượt mình, phúc thẩm tác động trở lại trở lại với những ý nghĩa vô cùng quan trọng như [18, Tr.9]: Một là, PT là một trong những hình thức giám đốc xét xử chủ yếu của TA cấp trên đối với TA cấp dưới. Qua đó kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, phát hiện và khắc phục kịp thời các vi phạm nghiêm trọng về xét xử của TA cấp dưới. Hai là, PT là một trong những chế định thể hiện rõ nét nhất bản chất dân chủ và tiến bộ của TTHS, không cho phép TA cấp PT sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu không có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị theo hướng đó. Ba là, PT còn là một trong các phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo. Bốn là, thông qua việc xét xử các vụ án, TA cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các TA cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Với tư cách là một giai đoạn độc lập và bắt buộc của quá trình TTHS, giai đoạn phúc thẩm tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào việc bản án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hay không. Đây là giai đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử sơ thẩm, được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được tuyên. Tuy vậy, không phải tất cả các vụ án hình sự sau khi xét xử sơ thẩm đều được xem xét lại theo thủ tục PT. Về nguyên tắc chung, xét xử PT chỉ được tiến hành sau khi có
  • 37. 31 các hoạt động phát động xét xử PT theo quy định của pháp luật, vì: xét xử PT có mục tiêu nhằm kiểm soát và đánh giá lại kết quả của việc nhận thức ở lần xét xử đầu tiên, do vậy thủ tục xét xử PT đối với một vụ án chỉ phát sinh khi có sự không đồng ý đối với bản án (quyết định) sơ thẩm về vụ án – nói cách khác là phải có kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật đối với bản án (quyết định) sơ thẩm đó. Do việc xét xử chỉ được thực hiện qua 2 cấp, nên bản án (quyết định) PT phải phát sinh hiệu lực pháp luật ngay sau khi được tuyên. Quan niệm về tính chất của PT là một trong những vấn đề quan trọng trong định hướng xây dựng pháp luật và thực tiễn thi hành. Quan điểm về tính chất của PT có thể chia thành hai nhóm chính sau đây: Quan điểm thứ nhất cho rằng, phúc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục tố tụng mà theo đó TA cấp trên trực tiếp xét lại các bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Điều đó có nghĩa là tính chất của phúc thẩm chỉ là "xét lại" chứ không phải là "xét xử lại". Quan điểm thứ hai cho rằng, tính chất của phúc thẩm không phải là xét lại mà là xét xử lại các vụ án, mà bản án (quyết định) chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị [18, Tr.12]. Tuy vậy với việc thừa nhận Nguyên tắc 2 cấp xét xử, tính chất của PT trong TTHS cần được xác định là “xét xử lại”. Theo đó, TA cấp PT không chỉ kiểm tra mà còn có nhiệm vụ xét xử cả về nội dung vụ án. Việc quy định trong pháp luật TTHS của các nước về phạm vi thẩm quyền của TA cấp PT cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 2 xu hướng điều chỉnh thẩm quyền của TA cấp PT trong pháp luật các nước. Xu hướng PT mở rộng: Xu hướng này xuất phát từ quan niệm cho rằng PT là một cấp xét xử, vì vậy, pháp luật phải đối xử với TA cấp PT bình đẳng như đối với TA cấp sơ thẩm. Điều đó có nghĩa là cho phép kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục PT đối với tất cả các bản án sơ thẩm và không hạn chế thẩm quyền xem xét và quyền quyết định của TA cấp PT theo bất cứ hướng nào. Xu hướng PT thu hẹp: Theo
  • 38. 32 quan niệm của xu hướng này, thì PT là cấp xét xử thứ hai chứ không phải là cấp xét xử lần thứ hai đối với vụ án. Thông qua việc xét xử lại vụ án, Tòa PT khắc phục những sai sót về xét xử của Tòa sơ thẩm. Bởi vậy, cần hạn chế phạm vi xem xét và quyền hạn của Tòa PT [18, Tr.23-27]. Tuy còn có các quan niệm khác nhau, nhưng xuất phát từ nguyên tắc 2 cấp xét xử, nên cần quy định TA cấp phúc thẩm có nhiệm vụ “xét xử lại” vụ án, chứ không phải “xét lại” bản án, quyết định của TA sơ thẩm; Tuy vậy, về phạm vi thẩm quyền, TA cấp PT chỉ nên xét xử lại những vấn đề mà cấp sơ thẩm đã xem xét, quyết định; đối với những vấn đề mà cấp sơ thẩm chưa xem xét và quyết định thì không thuộc phạm vi của TA cấp PT; đồng thời TA cấp phúc thẩm có nhiệm vụ giải quyết những khiếu nại của các bên, nên phạm vi những vấn đề xét xử của TA cấp PT cũng không thể vượt ra ngoài phạm vi bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng nghị. 2.1.2.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự * Chủ thể thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự Để THQCT trong giai đoạn xét xử PT vụ án hình sự, nhà nước tổ chức ra và phân công các cơ quan làm nhiệm vụ này. Nghiên cứu về chủ thể THQCT trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự ở các nước cho thấy, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tổ chức, thẩm quyền của cơ quan TA, truyền thống pháp luật, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội,... sự phân công ở các nước là rất khác nhau [65]. Đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Liên Bang Nga, hệ thống TA, VKS thường được tổ chức tương ứng với hệ thống cơ quan hành chính. Trong mô hình này không có các TA chuyên trách xét xử PT, mà do nhiều cấp TA đảm nhiệm; Về cơ bản TA cấp trên xét xử PT, đối với bản án, quyết định của TA cấp dưới trực tiếp, do đó, loại án mà TA cấp PT có thẩm quyền giải được quy định bởi thẩm quyền xét xử của TA cấp sơ thẩm. Ở các nước này VKS làm công tác THQCT và KSXX cũng được tổ chức tương ứng với TA xét xử PT, do vậy cũng gồm nhiều cấp khác nhau. Đối với những nước
  • 39. 33 có truyền thống án lệ như Mỹ và Anh, hệ thống TA được tổ chức để làm các nhiệm vụ: xét xử sơ thẩm, xét xử PT; và TA ở cấp trung ương chỉ giải quyết một số lượng rất hạn chế các vụ án GĐT, phát triển án lệ, tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Tuy vậy, trong mô hình này, tổ chức cơ quan công tố không có cấp chuyên trách để làm nhiệm vụ THQCT trong việc xét xử PT, mà do các công tố viên đã tham gia truy tố tại toà án cấp sơ thẩm tiếp tục đảm nhiệm. Đối với những nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa, cơ quan TA được tổ chức theo thẩm quyền xét xử như ở các nước có truyền thống án lệ. Tương ứng với TA cấp PT ở các nước này có các VKS/ Viện công tố cấp cao/ PT để chuyên THQCT trong giai đoạn xét xử PT của TA cấp PT. * Nội dung thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự: Là việc cơ quan công tố sử dụng quyền năng pháp lý phù hợp được pháp luật quy định để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội trước TA cấp PT. Để THQCT trong giai đoạn cơ quan công tố phải tiến hành các hoạt động: - Phát động xét xử PT thông qua kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật Cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử tại cấp sơ thẩm là quyết định truy tố của VKS, quyết định đưa ra xét xử của TA. Đối với thủ tục PT, cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động xét xử là kháng cáo, kháng nghị. Ngoài bị cáo, người bị hại, các bị đơn dân sự có quyền kháng cáo, các nước đều khá nhất quán quy định cơ quan công tố là cơ quan duy nhất được giao quyền phát động thủ tục xét xử phúc thẩm. Khi thấy việc xét xử sơ thẩm không đúng với phạm vi truy tố có thể về tình tiết vụ việc hoặc về áp dụng luật hình sự, mức hình phạt quá nhẹ, thậm chí là tuyên không phạm tội thì VKS có quyền kháng nghị yêu cầu xét xử lại vụ án để sửa hoặc hủy án sơ thẩm. Do vậy kháng nghị PT như một sự “nối dài” việc THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên thực tế VKS không phải chỉ kháng nghị PT theo hướng tăng nặng mà không ít kháng nghị PT của VKS đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo, thậm chí nếu TA xét xử oan thì
  • 40. 34 VKS, nhất là VKS cấp trên có thể kháng nghị đề nghị tuyên bị cáo không phạm tội. Vậy những trường hợp kháng nghị PT như trên có phải là việc THQCT hay không? Quan điểm của một số học giả Trung Quốc cho rằng: kháng nghị theo hướng bị cáo không có tội thì không thể lý giải từ QCT mà chỉ có thể lý giải từ quyền giám sát pháp luật và từ góc độ bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật. Ngoài ra kháng nghị đối với vụ án tư tố, thì vốn không có quyền tố tụng đối với vụ án này, mà chỉ xem xét trên lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng để tiến hành kháng nghị từ góc độ cơ quan giám sát pháp luật [13, tr.63]. Quan điểm nêu trên là chưa chính xác. Kháng nghị PT dù theo hướng tăng nặng hay giảm nhẹ thì cũng nhằm để thực hiện buộc tội chính xác, công bằng – tức là THQCT. Theo quan điểm của chính các học giả Trung Quốc, mục tiêu giá trị công tố nhằm tới cơ bản là chính nghĩa pháp luật (không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm), trình tự công bằng (quá trình tố tụng giải quyết vụ án phải công bằng, hợp pháp), và hiệu quả tố tụng (tổng hợp hiệu quả đạt được của hoạt động công tố) [13]. Để thực hiện mục tiêu chính nghĩa pháp luật, cơ quan công tố phải kịp thời phát hiện sự không chính xác của bản án sơ thẩm. Khi TA cấp sơ thẩm bắt người không phạm tội phải chịu tội, VKS phải kháng nghị để xét xử lại người này theo hướng không phạm tội; hoặc khi hình phạt TA sơ thẩm đã quyết định là quá nặng thì cơ quan công tố phải kháng nghị theo hướng giảm nhẹ. Dù kháng nghị theo hướng buộc tội hay không tội, kháng nghị tăng nặng hay giảm nhẹ hình phạt thì cũng là thực hiện mục tiêu của THQCT. Kết quả nghiên cứu cho thấy, chế định kháng nghị PT của cơ quan công tố các nước có sự khác nhau theo những xu hướng mở rộng hoặc thu hẹp quyền kháng nghị của cơ quan công tố. Theo xu hướng thu hẹp quyền kháng nghị, không phải bất cứ vụ án nào cũng có quyền kháng cáo, kháng nghị. Phạm vi, chủ thể có quyền kháng nghị cũng có giới hạn. Những nước theo xu hướng này thuộc những nước có truyền thống pháp luật Common law. Ví dụ ở các nước này cơ quan công tố sẽ bị giới hạn đối với những bản án tha bổng (không phạm tội) hoặc phạt tiền bởi những trường hợp này sẽ không có chống án lên cấp phúc
  • 41. 35 thẩm... Theo xu hướng mở rộng quyền kháng nghị PT, đối với các nước theo truyền thống Châu Âu lục địa (civil law) và các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi (Nga, Trung Quốc...) thì quyền kháng cáo, kháng nghị không bị giới hạn bởi những phán quyết vô tội. Người Nhật cũng đồng nhất quan điểm này. Luật Tố tụng Hình sự Nhật Bản quy định KSV xét thấy án sơ thẩm xử quá nhẹ, quá nặng hoặc tuyên bị cáo vô tội là không đúng thì có quyền kháng nghị PT [39]. Mặc dù có sự khác nhau trong xu hướng thực hiện quyền kháng nghị do phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, các điều kiện hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển, truyền thống pháp luật, song cần khẳng định kháng nghị PT chính là một quyền năng để cơ quan công tố phát động việc xét xử PT, tiếp tục bảo vệ quan điểm buộc tội, do vậy là một phương thức để THQCT trong giai đoạn PT. - THQCT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo trình tự PT + Sử dụng quyền nghiên cứu hồ sơ PT: Nghiên cứu hồ sơ là quá trình chuẩn bị cho việc THQCT tại phiên toà PT. Thông qua việc nghiên cứu bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án, KSV nắm vững các tình tiết, nội dung vụ án; nội dung kháng cáo, kháng nghị; các căn cứ pháp luật và các tài liệu chứng cứ cần thiết khác. Trên cơ sở đó KSV dự thảo quan điểm của VKS, chuẩn bị đề cương xét hỏi cũng như kế hoạch tranh luận tại phiên toà PT. Tại phiên tòa PT KSV tham gia xét hỏi, cập nhật các tài liệu chứng cứ mới phát sinh để bổ sung, hoàn thiện bài phát biểu quan điểm của VKS và thực hiện tranh luận. Tuy vậy ở hầu hết các vụ án, việc xác định sự thật cũng như quan điểm của các bên liên quan về việc giải quyết vụ án thường đã được phản ánh từ giai đoạn sơ thẩm. Do đó, tuy đây chỉ là bước chuẩn bị cho việc tham gia phiên toà PT nhưng có thể nói việc nghiên cứu hồ sơ có ý nghĩa hết sức quan trọng, có tính quyết định tới sự thành công hay không thành công của KSV tại phiên toà PT. KSV có nắm chắc các tình tiết của hồ sơ vụ án, nội dung kháng cáo, kháng nghị nhất thì mới chủ động khi THQCT tại phiên toà, đặc biệt là trong việc tranh luận đối đáp với luật sư, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để bảo vệ quan điểm
  • 42. 36 buộc tội của VKS. Sử dụng quyền điều tra xác minh bổ sung: PT là việc “xét xử lại” vụ án, bản án, quyết định PT được ban hành phải dựa trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ cả ở giai đoạn sơ thẩm và tài liệu, chứng cứ mới phát sinh ở giai đoạn PT. Do đó việc xác minh bổ sung chứng cứ ở cấp PT là một trong những nội dung cần thiết và có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm việc xét xử vụ án có căn cứ và đúng pháp luật nói chung và công tác THQCT của VKS nói riêng. Để bảo vệ quan điểm buộc tội KSV ở cấp PT có quyền tự mình hoặc hoặc yêu cầu VKS cấp dưới xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật theo quy định của BLTTHS. Tuy vậy điều tra xác minh bổ sung không phải là hoạt động điều tra lại vụ án. Nhìn chung điều tra xác minh ở giai đoạn PT chỉ để làm sáng tỏ thêm một số tình tiết nhất định và là những vấn đề mà cấp PT có thể và có điều kiện làm rõ được, ví dụ xác minh bổ sung về tuổi của bị cáo, tuổi của bị hại, những vấn đề cần giám định bổ sung... trong những trường hợp khác cấp PT phải huỷ án để điều tra lại, dù như vậy là mất thời gian và tốn kém chi phí xã hội hơn. + Sử dụng quyền của KSV tại phiên tòa PT Khi THQCT tại phiên tòa PT KSV có quyền xét hỏi nhằm bảo vệ quan điểm buộc tội. Xét hỏi tại phiên toà là một phần của quá trình xét xử một vụ án hình sự, trong đó Hội đồng xét xử, KSV, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự phải trực tiếp xét hỏi bị cáo, người bị thiệt hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, nghe kết luận của người giám định, xem xét xác vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại chỗ… Xét hỏi tại phiên toà đóng vai trò quan trọng trong việc làm rõ những tình tiết, xác định sự thật khách quan về vụ án. Để THQCT KSV phải tích cực tham gia vào việc xét hỏi, chủ động làm rõ sự thật khách quan của vụ án để chuẩn bị cho việc phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, tranh luận bảo vệ quan điểm buộc tội. Tại phiên tòa PT, KSV có quyền phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Có thể nói, phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án là kết tinh
  • 43. 37 kết quả của các hoạt động trước đó như: hoạt động nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét hỏi... KSV phải bổ sung và sửa chữa bản dự thảo quan điểm của VKS, để phát biểu làm sáng tỏ hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của nó, thủ đoạn, công cụ, phương tiện, động cơ mục đích phạm tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự....; phân tích các căn cứ pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án. Nội dung quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án phải đảm bảo đúng pháp luật, có tính thuyết phục cao, để tạo tiền đề đảm bảo cho việc tranh luận có hiệu quả sau đó của KSV tại phiên tòa. KSV có quyền tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quan điểm đường lối giải quyết vụ án của VKS, bác bỏ những ý kiến không đúng của những người tham gia tố tụng. Tranh luận là phần rất quan trọng của một phiên tòa xét xử vụ án hình sự. Là sự đối đầu trực tiếp, công khai của những quan điểm, ý kiến khác nhau, thông qua sự cọ xát các chứng cứ của vụ án do KSV và bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng đưa ra để xác định sự thật vụ án và tìm ra đường lối giải quyết vụ án được các bên “tâm phục, khẩu phục”. Vì vậy các bên tham gia tranh luận, bao gồm cả KSV, cần được tạo điều kiện tối đa trong việc phát biểu ý kiến tranh luận. Để làm tốt chức trách nhiệm vụ là bên “buộc tội”, việc đối đáp tranh luận của KSV phải đảm bảo tính chính xác, lý lẽ, lập luận phải căn cứ pháp luật, từ đó phân tích bác bỏ những quan điểm lập luận không đúng của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, bảo vệ quan điểm giải quyết vụ án của VKS. * Phạm vi THQCT của VKS trong giai đoạn xét xử PT: THQCT trong giai đoạn xét xử PT của VKS được bắt đầu ngay từ sau khi giai đoạn xét xử sơ thẩm chấm dứt, bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành. Từ sau khi bản án, quyết định sơ thẩm được ban hành VKS có quyền kháng nghị PT – hoạt động THQCT phát sinh. THQCT giai đoạn xét xử PT kết thúc khi TA cấp PT ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó.