SlideShare a Scribd company logo
1 of 100
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THANH PHƢƠNG
ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THANH PHƢƠNG
ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phƣợng
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
Ph¹m Thanh Ph-¬ng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁN TREO 6
1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý, những đặc điểm cơ bản của án treo 6
1.1.2. Bản chất pháp lý của án treo 9
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo 10
1.1.4. Phân biệt án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ 11
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam về án treo
14
1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
14
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 17
1.3. Án treo trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 20
1.3.1. Pháp luật Liên bang Nga 20
1.3.2. Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 22
1.3.3. Pháp luật Nhật Bản 24
1.3.4. Pháp luật nước Cộng hòa Liên bang Đức 26
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI
ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG
31
2.1. Quy định của bộ luật hình sự hiện hành về án treo 31
5
2.1.1 Căn cứ để người bị phạt tù được hưởng án treo 32
2.1.2. Thời gian, điều kiện thử thách của án treo, hậu quả và trách
nhiệm pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách
44
2.2. Thực tiễn áp dụng án treo tại địa bàn tỉnh Hải Dương 53
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng án treo 53
2.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng án treo 56
2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản 68
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁN TREO VÀ
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
ÁN TREO
72
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng
cao hiệu quả áp dụng án treo
72
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về án treo 75
3.3. Những giải pháp khác 78
3.3.1 Nâng cao ý thức trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng 78
3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn và giải thích pháp luật; công
tác kiểm tra giám sát của cấp trên và của Hội đồng nhân dân
các cấp
83
3.3.3. Tăng cường sự phối kết hợp hoạt động của các cơ quan có
trách nhiệm trong việc thi hành án treo và giám sát giáo dục
đối với người được hưởng án treo
84
3.3.4. Tăng cường các biện pháp giám sát đối với người được
hưởng án treo
86
3.3.5. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân về án treo 87
KẾT LUẬN 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình áp dụng án treo của Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương từ năm 2007 đến năm 2013
54
2.2 Tình hình áp dụng án treo của các Tòa án nhân dân cấp
huyện của tỉnh Hải Dương từ năm 2007 đến năm 2013
55
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm
đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác
nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả
với các tội phạm, đảm bảo được các nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự,
cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật hình sự quy định một hệ
thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để áp dụng
đối với từng tội phạm, từng người phạm tội.
Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo
dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa
là hoàn trả cho xã hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái
phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt -
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất - trong một số trường hợp nhất định sẽ
có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần bắt người phạm
tội phải chấp hành hình phạt. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong thực
tiễn là án treo.
Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện
quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là
nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của
chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó.
Tuy nhiên thực tiễn vận dụng án treo tại Hải Dương trong thời gian
qua bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, còn làm bộc lộ những hạn chế
nhất định trong cả pháp luật thực định và trong quá trình áp dụng các quy
định đó. Chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho hưởng
8
án treo hiện nay ở một số địa phương còn không chuẩn xác đó là cho hưởng
án treo cả những đối tượng đã có tiền án, tiền sự hoặc ngược lại những người
có nhân thân tốt nhất thời phạm tội đáng được xử treo nhưng lại xử giam, có
nơi có lúc còn xử quá nhẹ dưới mức 3 năm tù để rồi cho bị cáo được hưởng
án treo. Việc thi hành, giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo
trên địa bàn tỉnh Hải Dương ở nhiều xã, phường, thị trấn còn chưa chặt chẽ,
thậm chí có nơi không thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục người được
hưởng án treo. Việc phối hợp giữa Tòa án với cơ quan thực hiện việc giám
sát, giáo dục và gia đình người được hưởng án treo còn lỏng lẻo, mang tính hình
thức dẫn tới việc quản lý, giám sát, giáo dục chưa hiệu quả do vậy vẫn còn
trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.
Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách sâu rộng và
toàn diện về chế định án treo cũng như thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải
Dương là cần thiết góp phần hoàn thiện hơn các quy định về án treo và các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trên thực tế. Với ý nghĩa đó,
chúng tôi chọn và nghiên cứu "Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh
Hải Dương" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng
chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của
Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy đề tài cũng đã được rất nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau.
Ở cấp độ giáo trình, có: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội... Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ
cập nhật ở mức độ cơ bản.
Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu, có: "Tội phạm
học, luật hình sự và tố tụng hình sự’’, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp
9
luật, "Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" (sách chuyên khảo của tập thể
nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn
hành năm 1995, "Chế định án tích và mô hình lý luận của nó" của GS.TSKH Lê
Cảm; luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Nhuận với đề tài: "Án treo
trong luật hình sự Việt Nam" và một số cuốn sách chuyên khảo như "Án treo
trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Phạm Thị Học, Trường Đại học Luật
Hà Nội xuất bản năm 1996, "Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam"
của tác giả Lê Văn Luật do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2007... Trong
các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu
trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở đề cập một cách tổng thể hoặc từng khía
cạnh nào đó của chế định án treo.
Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết
đăng trên các tạp chí như: "Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện
pháp án treo", của Vũ Thế Đoàn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số
6/1990; "Điều kiện thử thách của án treo và hậu quả pháp lý của việc vi phạm
điều kiện thử thách của án treo theo luật hình sự Việt Nam", của Phạm Thị
Học, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2 năm 1999; "Án treo và thực tiễn áp
dụng", của Đỗ Văn Chỉnh, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007 và
các số 12, 13, 14/2013.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên ở góc độ nghiên
cứu những lý luận cao của án treo trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp
dụng tại Hải Dương thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận của
án treo trong luật hình sự Việt Nam, xây dựng và đề xuất một số kiến nghị và
giải pháp hoàn thiện chế định án treo trong Bộ luật hình sự và giải pháp nâng
cao hiệu quả án treo trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Hải Dương.
10
Quá trình nghiên cứu của luận văn là tiếp cận tổng thể đi từ cái chung
đến cái cụ thể, từ lý luận đến đánh giá thực tiễn để từ đó để tìm ra những
nguyên nhân tồn tại, thông qua đó đề ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện
chế định này.
Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ khái niệm, tính chất, mục đích, ý
nghĩa của chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, tập trung nhất vào
chế định hiện hành, đối chiếu, so sánh với luật pháp của một số nước trên thế
giới, đánh giá thông qua thực tiễn áp dụng tại địa phương.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn đưa ra một số
giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung những quy định cụ thể trong việc áp dụng chế
định đặc biệt này nhằm phát huy tác dụng triệt để nhất của chế định án treo
trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tác giả lấy học thuyết Mác - Lênin về vấn
đề về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng và là kim chỉ nam cho mọi vấn đề
cần nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng, Nhà nước, các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn việc áp
dụng pháp luật, các văn bản tổng kết thực tiễn và kiểm tra, kiểm sát công tác
xét xử hình sự của các Tòa án, Viện kiểm sát trên địa bàn tỉnh Hải Dương, các
tài liệu pháp lý trong và ngoài nước có liên quan. Dựa trên phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
nhằm tạo điều kiện cho tác giả có sự nhận thức đúng đắn sự tồn tại và quy
luật phát triển của xã hội loài người, quá trình nhận thức, tư duy, các quy luật
tự nhiên của xã hội loài người… cũng như những vấn đề về nhà nước và pháp
luật để từ đó có một tư duy đúng đắn, lôgic trong quá trình lập luận và giải
quyết vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu luận văn là phương pháp lịch sử, phân tích
tổng hợp, logic điều tra xã hội học và nghiên cứu so sánh.
11
5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn
Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận văn thạc sĩ
luật học về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một
cách sâu sắc và toàn diện nội dung chế định án treo trong luật hình sự Việt
Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao nhận thức về án treo, tạo
tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng thời định hướng cho
việc áp dụng án treo được chính xác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo
nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng, từ đó góp phần vào cuộc đấu tranh
phòng chống tội phạm.
Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn,
có thể làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng pháp luật hình sự,
góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về án treo.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về án treo và thực
tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về án treo và những giải pháp
nâng cao hiệu quả áp dụng án treo.
12
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁN TREO
1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ, NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN
CỦA ÁN TREO
Tù có thời hạn là một trong những hình phạt chính được quy định
trong Bộ luật hình sự đối với người phạm một tội cụ thể có mức tối thiểu là ba
tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Theo đó, tù có thời hạn là việc buộc người
bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định.
Điều 60 Bộ luật hình sự quy định "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy
không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và
ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [21]. Như vậy, án treo
là một biện pháp không buộc người bị phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại
giam, không buộc họ phải cách ly khỏi xã hội, họ được tự cải tạo, giáo dục trong
môi trường xã hội trong một thời gian thử thách nhất định với sự giám sát,
giáo dục và giúp đỡ của các cơ quan hoặc chính quyền địa phương cùng gia
đình người bị kết án. Hiện nay đã có nhiều ý kiến khác nhau về án treo.
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Án treo là án tù không phải thi hành
ngay, nhưng sẽ thi hành nếu trong thời gian quy định người bị kết án lại phạm
tội và bị xử án lần nữa". Quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất pháp lý
của án treo.
Từ điển Bách khoa toàn thư Mở (Wikipedia) định nghĩa: Án treo là
chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt. Án treo
được hiểu là việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, hình
phạt đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù
không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết
13
trở lên), và xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà
vẫn có thể cải tạo được, Tòa án có thể miễn chấp hành tại trại giam mà có thể
tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương cư trú của
chính quyền sở tại.
Có nhà khoa học quan niệm ngắn gọn và đầy đủ "Án treo là một biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định
đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ
và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định" [3, tr. 810].
Gần đây, có tác giả thể hiện bản chất pháp lý và ý nghĩa của việc cho
hưởng án treo khi viết:
Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện kèm theo một thời gian thử thách đối với người phạm tội,
do Tòa án áp dụng khi có những điều kiện do Bộ luật hình sự quy
định, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội
mà vẫn bảo đảm công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
cũng như yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội [49, tr. 450].
Như vậy, từ những quan điểm trên đây có thể hiểu: Án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị
phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét
thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù.
Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những
nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa
hình phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện
rõ phương châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục, thể hiện sự khoan hồng
và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Người phạm tội được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt
tù trong trại giam, không bị mất tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong
cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian thử thách người phạm tội bị hạn
14
chế một phần quyền tự do của mình so với những người bình thường khác, đó
là phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức
nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú
và họ luôn bị răn đe là nếu phạm tội mới thì họ sẽ không được hưởng án treo
nữa mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước tổng hợp với hình phạt
của bản án mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn đe nhưng lại có tác dụng
khuyến khích người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không vi phạm điều kiện
thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt tù.
Vì người được hưởng án treo được tự giáo dục, cải tạo ngay trong môi
trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động nên nó thu hút đông đảo thành
viên trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ, giáo dục và cải tạo người phạm
tội, góp phần xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội. Điều này có hiệu
quả rất cao, giúp người bị kết án thêm tin yêu vào cuộc sống, khơi dậy những
phẩm chất tốt đẹp vốn có của chính mình. Việc xã hội hóa quá trình cải tạo
người phạm tội cũng chính là góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trách
nhiệm của quần chúng nhân dân.
Trong luật hình sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và
mang tính giáo dục, cải biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu
sắc. Tuy nhiên, việc áp dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp,
nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều
kiện cải tạo, giáo dục người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được
thực hiện tốt. Qua thực tiễn cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ
rất lớn trong số các loại hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo bởi
lẽ đây cũng là một trong những loại hình phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận
dụng. Nếu tất cả các bị án phạt tù này đều được đưa đi thi hành tại các trại cải
tạo thì sẽ là một gánh nặng rất lớn đối với nhà nước về vấn đề con người quản
lý giáo dục, về cơ sở vật chất là rất tốn kém. Hơn nữa, theo kết quả điều tra xã
hội học và phạm tội học thì trong một số trường hợp người phạm tội vào chấp
hành hình phạt tù trong trại giam đã chịu ảnh hưởng xấu của những phạm
15
nhân khác nên hình thành những nhân cách xấu hơn trước khi vào tù và khi ra
tù họ trở thành những người còn hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn.
1.1.2. Bản chất pháp lý của án treo
Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy một
người bị phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi xử phạt tù
không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết
giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
Như vậy, việc xem xét cho hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết
định hình phạt, được đặt ra trong trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống.
Tòa án đã quyết định một hình phạt đối với người phạm tội, sau đó nếu hình
phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và
các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù
thì Tòa án cho hưởng án treo. Như vậy, án treo không phải là hình phạt mà là
một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù mặc dù
họ đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được hưởng án treo mà
phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp
hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
Do đó, nếu người phạm tội cải tạo tốt mà không phạm tội mới trong thời gian
thử thách thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù mà được miễn chấp
hành hình phạt tù. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm
tội mới và bị xét xử thì người đó không được hưởng án treo nữa và phải chấp
hành hình phạt đã tuyên. Khi xem xét quyết định cho người bị phạt tù hưởng
án treo Tòa án tin tưởng rằng người đó sẽ tự giáo dục, cải tạo trong môi
trường xã hội trong thời gian thử thách nhất định với sự giám sát của gia đình,
cơ quan, đơn vị hoặc chính quyền địa phương. Việc thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn sinh
sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã
16
hội bình thường. Hình phạt tù đã tuyên sẽ được thi hành nếu người phạm tội
vi phạm điều kiện đã được ấn định trong thời gian thử thách. Người phạm tội
không vi phạm điều kiện của án treo trong thời gian thử thách thì chứng tỏ họ
đã trở thành người lương thiện, vì vậy không phải chấp hành hình phạt tù đã
tuyên trong bản án. Do đó cần khẳng định bản chất pháp lý của án treo là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo
Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần
cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ đồng
thời là một chế định pháp lý độc lập thể hiện nguyên tắc nhân đạo và phương
châm xử lý trong chính sách hình sự của Nhà nước ta "nghiêm trị kết hợp với
khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục".
Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều
kiện. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống hình phạt bao gồm
bảy hình phạt chính và chín hình phạt bổ sung (được quy định từ Điều 28 đến
Điều 40 Bộ luật hình sự năm 1999), trong đó có hình phạt tù có thời hạn.
Người chịu hình phạt tù có thời hạn có thể được hưởng án treo. Trong các loại
hình phạt được quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự không có quy định án
treo, như vậy không thể coi án treo là hình phạt. Vì mối quan hệ giữa án treo
và tù có thời hạn nên nhiều người coi án treo là hình phạt. Tuy nhiên án treo
không phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có
điều kiện. Điều đó có nghĩa là người được hưởng án treo là người phạm tội
phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn việc chấp hành hình phạt
tù tại trại giam. Việc cho người phạm tội hưởng án treo là cho phép họ tự cải
tạo mà không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội dưới sự kiểm tra, giám sát
của các cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để họ tích cực cải tạo
và tránh được những hình vi sai trái.
17
Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự giám sát,
giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong một thời
gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định.
Thời gian thử thách là khoảng thời gian nhất định do Tòa án ấn định
để kiểm tra, đánh giá việc tự cải tạo của người phạm tội. Pháp luật quy định
về thời gian thử thách đối với người phạm tội từ một năm đến năm năm. Thời
gian thử thách được Tòa án xác định dựa trên cơ sở mức hình phạt mà người
phạm tội phải gánh chịu. Trong trường hợp người phạm tội không phạm tội
mới trong thời gian thử thách và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì
không phải chấp hành hình phạt đã tuyên. Ngược lại, đối với người được
hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định
buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án
mới theo quy định của pháp luật.
1.1.4. Phân biệt án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ
Khi nghiên cứu hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam ta
thấy hình phạt cải tạo không giam giữ, được quy định tại Điều 28, Điều 31 và
Điều 73 Bộ luật hình sự có những điểm tương đồng với chế định án treo rất dễ
bị nhầm lẫn.
Tại Điều 31 Bộ luật hình sự quy định:
1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba
năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng do Bộ luật này quy
định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ
ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải bắt cách ly người phạm tội
khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian
tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày
cải tạo không giam giữ.
18
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ
quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương
nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình người bị kết
án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức, chính quyền địa
phương trong việc giám sát giáo dục người đó [21].
Người bị kết án phải chịu một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo
không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ
nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể cho miễn việc
khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì thấy chế định án treo và
hình phạt cải tạo không giam giữ có một số điểm giống nhau là:
- Không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội (Điều 31, Điều 60
Bộ luật hình sự).
- Người bị kết án đều được giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát giáo dục (Điều 31, Điều 60
Bộ luật hình sự).
- Người bị kết án đều có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung.
- Người bị kết án đều được đương nhiên xóa án trong thời hạn một
năm kể từ ngày chấp hành xong bản án (Điều 63 Bộ luật hình sự).
Tuy nhiên giữa hình phạt cải tạo không giam giữ và án treo cũng có
những điểm khác nhau căn bản của nó như:
- Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính được quy định cụ
thể trong Điều 28 và Điều 31 của Bộ luật hình sự còn "án treo" là miễn chấp
hành hình phạt tù có điều kiện được quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự.
- Phạm vi và điều kiện áp dụng án treo và hình phạt cải tạo không
giam giữ có khác nhau như:
19
+ Cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng cho trường hợp là phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng tức là tội có khung hình phạt cao
nhất đến ba năm tù và đến bảy năm tù (theo Điều 8 Bộ luật hình sự), còn đối
với án treo không quy định cụ thể được áp dụng đối với loại tội phạm nào (ít
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng). Điều này cho thấy
phạm vi áp dụng cho người được hưởng án treo rộng hơn nhiều so với hình
phạt cải tạo không giam giữ.
+ Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng cho người
phạm tội bị xử phạt từ sáu tháng đến ba năm (Điều 31 Bộ luật hình sự), nhưng
đối với người được hưởng án treo thì phạm vi áp dụng đến ba năm tù mà hình
phạt tù quy định từ ba tháng trở lên do đó hình phạt đối với người được
hưởng án treo là từ ba tháng đến ba năm như vậy có thể nói là ngắn hơn
nhưng họ lại phải chịu thời gian thử thách mà thời gian này tối thiểu là một
năm và tối đa là 5 năm.
+ Điều kiện để người được hưởng án treo tuy có nhiều điểm giống với
loại hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng điều kiện cho việc áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ rõ ràng đòi hỏi phải cao hơn so với điều kiện của
người được hưởng án treo bởi lẽ hình phạt cải tạo không giam giữ nhẹ hơn so
với hình phạt tù khi áp dụng.
- Xét về hậu quả pháp lý người bị phạt tù cho hưởng án treo nếu trong
thời gian thử thách mà phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành
hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy
định của pháp luật vì vậy đối với người bị kết án coi như chưa chấp hành hình
phạt của bản án trước. Nhưng đối với hình phạt cải tạo không giam giữ vì
không có thời gian thử thách nếu trong thời gian chấp hành hình phạt này nếu
họ phạm tội mới thì họ chỉ phải chuyển phần hình phạt cải tạo không giam
giữ chưa chấp hành tính từ thời điểm họ phạm tội mới thành hình phạt cải tạo
không giam giữ hoặc hình phạt tù để quyết định hình phạt chung theo nguyên
20
tắc cứ ba ngày cải tạo không giam giữ bằng một ngày tù (Điều 50 Bộ luật
hình sự).
- Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chịu một số nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20%
để sung quỹ nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể cho
miễn việc khấu trừ thu nhập, còn đối với người được hưởng án treo không bị
ràng buộc bởi quy định này vì vậy họ không bị khấu trừ thu nhập.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ÁN TREO
1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trƣớc
khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Án treo là chế định được hình thành rất sớm trong Luật hình sự Việt
Nam và được quy định lần đầu tiên tại Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13.9.1945. Tại
khoản 4 Điều IV của Sắc lệnh quy định:
Nếu có những lý do chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì lầm
lẫn… thì Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo. Nghĩa là
bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong năm
năm, bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Tòa án quân sự
làm tội một lần nữa về việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi
như là không có; nếu trong hạn năm năm ấy, tội nhân bị kết án một
lần nữa trước Tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem ra thi hành [5].
Theo quy định này thể hiện điều kiện để người bị kết án hưởng án
treo; giải thích án treo, quy định thời gian thử thách đối với người được
hưởng án treo và trường hợp người được hưởng án treo phải chấp hành hình
phạt tù của bản án mà Tòa án đã cho hưởng án treo.
Sau đó, chế định án treo theo Sắc lệnh số 33C bị hủy bỏ và được thay
thế bằng Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân
21
chủ cộng hòa về "tổ chức Tòa án quân sự". Tại Điều 10 có quy định về án treo
như sau:
Khi bị phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án
treo nếu có những lý do đáng khoan hồng, bản án xử án treo sẽ tạm
đình chỉ việc thi hành nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên, tội
nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì
bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy
tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Tòa án quân sự thì bản
án sẽ đem thi hành [6].
Theo quy định như trên thì thấy, án treo chỉ được áp dụng đối với
người bị kết án tù, nghĩa là khi bản án xét xử người phạm tội cho hưởng án
treo trước hết Tòa án tuyên một hình phạt tù phù hợp với hành vi phạm tội mà
người đó gây ra, đồng thời khi xét thấy có lý do đáng khoan hồng Tòa án cho
tội nhân được hưởng án treo. Bản án này được tạm đình chỉ thi hành án trong
5 năm kể từ ngày tuyên án nếu như tội nhân không phạm tội mới. Nếu như tội
nhân chấp hành tốt, không vi phạm pháp luật tới mức phải đưa ra xét xử thì
bản án đã tuyên coi như không có, ngược lại nếu vi phạm mà bị xử lý thì bản
án sẽ được đưa ra thi hành.
Như vậy đây chính là một biện pháp để tạm đình chỉ thi hành án có điều
kiện. Những quy định trên đây cho thấy còn tồn tại nhiều khiếm khuyết như:
Việc có cho hưởng án treo tùy thuộc vào: "có lý do đáng khoan hồng"
sẽ dẫn đến việc hiểu và vận dụng có nhiều khó khăn thậm chí có nơi, có Tòa
vận dụng một cách tùy tiện, từ đó pháp luật không được nghiêm minh, công
bằng pháp luật không đảm bảo, pháp chế bị xâm phạm.
Mặt khác mức quy định thời gian thử thách của án treo một mức là 5 năm
mà không phụ thuộc vào mức hình phạt tù là không công bằng, không chuẩn
xác mà có tính chất đánh đồng mọi hành vi phạm tội như nhau, đáng lẽ ra tội
ít nghiêm trọng hơn, ít nguy hiểm cho xã hội hơn thì thời gian thử thách phải
22
ít hơn tội gây nguy hại lớn cho xã hội khi có mức hình phạt cao hơn thì phải
kéo dài thời gian thử thách hơn.
Một vấn đề khác nữa mà tại Điều 10 Sắc lệnh không quy định đó là
giao người bị phạt án treo cho ai giám sát theo dõi quản lý giáo dục. Như vậy
sau khi tuyên án người bị phạt án treo có thể hiểu coi như là xong mà không
bị ràng buộc bởi bất cứ chế tài pháp lý nào từ đó dễ có tình trạng người bị kết
án coi thường kỷ cương phép nước lại tiếp tục phạm tội mới gây bức xúc
trong quần chúng nhân dân.
Từ thực tế trên đây cho ta thấy do chưa có sự nhận thức thống nhất
trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong việc áp dụng quy định
pháp luật về án treo dẫn tới mỗi nơi có cách vận dụng khác nhau, từ đó có sự
tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật của mỗi địa phương.
Khắc phục tình trạng nêu trên, để đảm bảo việc vận dụng án treo được
thống nhất Tòa án nhân dân tối cao đã dự thảo Thông tư 2308/NCPL ngày
01/12/1961 về việc áp dụng chế độ án treo theo đó án treo là:
Một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối
với kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không cần thiết
phải thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự
nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng
thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử
thách, thì tùy trường hợp sẽ buộc phải chấp hành án cũ. Ngược lại,
nếu trong thời gian thử thách họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ
được xóa bỏ [28, tr. 135].
Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có công văn trao đổi hướng dẫn cụ
thể về mặt nghiệp vụ đối với một số tỉnh cụ thể theo tinh thần dự thảo thông
tư này với nhiều hình thức như báo cáo tổng kết công tác năm hoặc các bản sơ
kết, tổng kết rút kinh nghiệm hướng dẫn áp dụng chế độ án treo đối với một
số tội phạm cụ thể.
23
1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cùng với sự phát triển của xã hội, để phục tốt cho công cuộc xây dựng
Chủ nghĩa xã hội Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hoà đã ra đời và
chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đánh dấu một bước trưởng thành
trong quá trình hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật Việt nam.
Theo quy định mới trong Bộ luật hình sự thì chế định án treo được
quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 với một nội dung khá đầy đủ
và toàn diện. Án treo quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa,
phát triển quy định về án treo trong Sắc lệnh số 21 và Thông tư số 2308-NCPL
đồng thời quy định rõ năm nội dung về án treo như sau:
1. Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào thân nhân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn
định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Tòa án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc
tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi,
giáo dục.
3. Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt
bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những
nghề hoặc công việc nhất định quy định ở Điều 23 và Điều 28.
4. Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời
gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ
chức có trách nhiệm theo dõi, giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời
gian thử thách.
5. Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội
mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành
hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án
mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42 [20].
24
Quá trình thực hiện án treo, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã
nhận thấy quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều
bất cập nên đã sửa đổi bổ sung bằng các đạo luật do Quốc hội thông qua vào
các ngày cụ thể sau:
Vì khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự chỉ quy định chung là phạm tội
mới trong thời gian thử thách và tội mới phạm không phân biệt do lỗi vô ý
hay lỗi cố ý nên vào ngày 28.12.1989, khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự năm
1985 được sửa đổi, bổ sung như sau: Nếu trong thời gian thử thách, người bị
kết án treo bị phạm tội mới do vô ý và bị xử phạt tù hoặc phạm tội mới do cố
ý thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và
tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42. Theo
nội dung này thì trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong
thời gian thử thách được chia làm hai trường hợp:
Trường hợp 1: Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do lỗi vô
ý và bị phạt tù thì Tòa án buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù
cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt tù của bản án mới. Nếu phạm tội
mới do lỗi vô ý và không bị phạt tù thì Tòa án không được buộc người bị kết
án phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo.
Trường hợp 2: Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do lỗi cố
ý thì Tòa án phải xử phạt tù đối với tội mới phạm và tổng hợp hình phạt của
tội mới với hình phạt tù được hưởng án treo để người bị kết án chấp hành
hình phạt của hai bản án.
Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung vào ngày 22.12.1992, khoản 1 Điều 44
Bộ luật hình sự có nội dung: Khi xử phạt không quá ba năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời
gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy theo nội dung sửa đổi quy
định giảm mức hình phạt tù cho hưởng án treo từ năm năm xuống ba năm.
25
Ngoài hai lần sửa đổi trên, Toà án nhân dân tối cao và liên ngành còn
có các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về án treo như: Nghị
quyết số 02/HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05.01.1986 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình
sự; Thông tư số 01/NCPL ngày 06.4.1988 của Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn bổ sung về án treo; thông tư liên ngành số 01/TTLN-90 ngày 01.2.1990
của Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ -
Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự hướng dẫn thực hiện khoản 5 Điều 44 Bộ luật
hình sự năm 1985 về trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới
trong thời gian thử thách của án treo và việc tổng hợp hình phạt của hai bản án.
Ngày 21.12.1999, Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01.07.2000. Án treo được quy định tại Điều 60 vẫn giữ
nguyên 5 khoản của Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng đã được sửa
đổi, bổ sung để chính xác hơn về mặt ngữ nghĩa như: Sửa đổi cụm từ "theo
dõi" bằng cụm từ "giám sát", "người bị án treo" bằng cụm từ người được
hưởng án treo; sửa đổi khoản 5 về nội dung: Bãi bỏ cụm từ người bị án treo
phạm tội mới và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thành nội dung "đối với
người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách". Ngày
02.10.2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn thực
hiện Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 về án treo tại Nghị quyết số
01/2007/NQ-HĐTP. Sau 6 năm thực hiện Nghị quyết này đến ngày 06.11.2013,
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết
01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo, có
hiệu lực thi hành vào ngày 25.12.2013. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP đã
quy định cụ thể, chi tiết những điều kiện, trường hợp được hưởng án treo theo
hướng "siết chặt" hơn nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định án
treo, đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình
hình hiện nay.
26
1.3. ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN
THẾ GIỚI
Do có nhiều điểm ưu việt của án treo trong việc áp dụng các biện pháp
lý để đạt được mục đích của hình phạt đối với người phạm tội mà vẫn không
làm mất đi sự nghiêm minh của pháp luật do vậy pháp luật của nhiều nước
trên thế giới đã sớm đưa chế định này vào trong bộ luật hình sự của mình.
Nhìn chung ở các nước đều có những điểm tương đối giống nhau
trong việc áp dụng chế định án treo đó là Tòa án xét xử và kết án một người
về một tội danh nhất định với một hình phạt tù hoặc tiền cụ thể dưới năm
năm, tuy nhiên tòa án ấn định cho một thời gian thử thách trong khoảng thời
gian là năm năm tùy theo tính chất vụ việc có kèm theo một điều kiện nhất
định nào đó…nếu người phạm tội vi phạm những điều kiện này thì án cũ phải
được chấp hành cùng với hình phạt của bản án mới.
1.3.1. Pháp luật Liên bang Nga
Tại Điều 73 Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm
2010 quy định về án treo như sau:
1. Nếu sau khi đã quyết định các hình phạt lao động cải tạo,
hạn chế quân vụ, quản chế trong các đơn vị kỷ luật quân đội hoặc tù
trong thời hạn đến tám năm, Tòa án đi đến kết luận là có thể cải tạo
người phạm tội mà không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù và ra
quyết định cho hưởng án treo.
2. Khi quyết định án treo, Tòa án sẽ cân nhắc đến tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người
phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt.
3. Khi quyết định án treo, Tòa án sẽ quy định thời hạn thử
thách đối với người phạm tội và trong thời gian này người phạm tội
cần chứng tỏ sự ăn năn hối cải bằng hành vi của mình. Trường hợp
27
áp dụng hình phạt tù trong thời hạn một năm hoặc hình phạt khác
nhẹ hơn thì thời hạn thử thách bắt buộc phải dưới sáu tháng và
không được vượt quá ba năm, còn trường hợp áp dụng hình phạt tù
trong thời hạn từ một năm trở lên - bắt buộc không được dưới 6
tháng và không được vượt quá năm năm. Thời hạn thử thách được
tính từ thời điểm bản án bắt đầu có hiệu lực. Khoảng thời gian chờ
bản án có hiệu lực sẽ được tính vào thời hạn thử thách.
4. Trong quá trình quyết định án treo có thể quyết định các
loại hình phạt bổ sung khác.
5. Tòa án sau khi quyết định án treo sẽ giao việc thực hiện
các nhiệm vụ xác định cho người phạm tội trên cơ sở phù hợp với
độ tuổi, khả năng lao động và tình trạng sức khỏe: không được phép
thay đổi nơi thường trú, nơi công tác, nơi học tập mà không thông
báo cho các cơ quan chức năng nhà nước thực thi việc giám sát
hành vi của người hưởng án treo; không được thăm viếng những địa
điểm theo quy định; bắt buộc tiến hành điều trị các bệnh nghiện
rượu, nghiện ma túy, nhiễm độc, các bệnh hoa liễu; bắt buộc lao
động hoặc tiếp tục học tập trong các tổ chức giáo dục chung.
6. Giám sát hành vi của người hưởng án treo do cơ quan
chức năng nhà nước có thẩm quyền thực hiện, còn đối với trường
hợp người hưởng án treo là quân nhân - do ban chỉ huy các đơn vị
và cơ quan quân đội thực hiện.
7. Trong thời hạn áp dụng án treo, Tòa án theo đề nghị của
cơ quan thực thi việc giám sát hành vi của người hưởng án treo có
thể thay đổi từng phần hoặc thay đổi tất cả hoặc bổ sung các nhiệm
vụ đã quy định trước đó [42, tr. 98-100].
Như vậy, án treo trong Luật hình sự Liên bang Nga có tính chất pháp
lý tương tự như án treo trong luật hình sự Việt Nam, là biện pháp miễn chấp
28
hành hình phạt có điều kiện, được áp dụng với nhiều loại hình phạt. Tuy
nhiên, Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định nghĩa vụ của người được
hưởng án treo trong Bộ luật hình sự như: không được phép thay đổi nơi
thường trú, nơi công tác, nơi học tập mà không thông báo cho các cơ quan
chức năng nhà nước thực thi việc giám sát hành vi của người hưởng án treo;
không được thăm viếng những địa điểm theo quy định; bắt buộc tiến hành
điều trị các bệnh nghiện rượu, nghiện ma túy, nhiễm độc, các bệnh hoa liễu;
bắt buộc lao động hoặc tiếp tục học tập trong các tổ chức giáo dục chung.
1.3.2. Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự năm 1997, sửa đổi năm 2005 tại mục 5 về án treo quy
định từ Điều 72 đến Điều 77 [12, tr. 65-66]:
Điều 72 quy định những điều kiện áp dụng:
Khi bị xử phạt cải tạo lao động hoặc tù không quá ba năm,
căn cứ vào những tình tiết phạm tội và biểu hiện ăn năn hối lỗi của
người phạm tội, có thể cho người phạm tội hưởng án treo nếu xét
thấy việc áp dụng án treo sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội.
Nếu người bị án treo phải chịu thêm hình phạt bổ sung thì
vẫn phải chấp hành theo quy định chung [12].
Điều 73 quy định thời gian và cách tính:
Thời gian thử thách đối với người bị phạt cải tạo lao động
nhưng được hưởng án treo đến 1 năm nhưng không ít hơn 2 tháng.
Thời gian thử thách đối với người bị phạt tù có thời hạn nhưng
được hưởng án treo đến 5 năm nhưng không được ít hơn 1 năm.
Thời gian thử thách được tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật [12].
Điều 74 quy định việc không áp dụng án treo đối với người tái phạm.
29
Điều 75 quy định các nghĩa vụ của người hưởng án treo:
Người phạm tội được tuyên hưởng án treo, thì phải tuân
theo các quy định dưới đây:
1. Tuân thủ pháp luật, quy chế hành chính, phục tùng việc
giám sát;
2. Báo cáo hoạt động của bản thân theo quy định của cơ
quan giám sát;
3. Tuân thủ nội quy tiếp khách của cơ quan giám sát;
4. Trước khi thay đổi chỗ ở hoặc rời khỏi huyện, thành phố
nơi cư trú phải báo cáo và xin phép cơ quan giám sát [12].
Điều 76 quy định Cơ quan có trách nhiệm giám sát:
Cơ quan Công an chịu trách nhiệm giám sát người bị án treo
với sự giúp đỡ của cơ quan hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm
việc hoặc cư trú trong thời gian thử thách. Nếu như không có những
tình tiết quy định tại Điều 77 của Bộ luật này thì hết thời gian thử
thách sẽ không phải chấp hành hình phạt cũ và được thông báo
công khai [12].
Điều 77 quy định vấn đề vi phạm thời gian thử thách:
Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo lại
phạm tội mới hoặc phát hiện trước đó đã phạm tội khác nhưng chưa
bị xử lý, thì phải hủy bỏ án treo và đưa ra thi hành hình phạt chung
cho cả hai tội cũ và mới được quyết định theo quy định tại Điều 69
của Bộ luật này [12].
Người phạm tội được tuyên hưởng án treo, trong thời gian thử thách
nếu vi phạm pháp luật, quy chế hành chính hoặc quy định về quản lý giám sát
đối với án treo của cơ quan Công an thuộc Quốc vụ viện với tình tiết nghiêm
trọng thì hủy bỏ án treo và buộc chấp hành hình phạt đã tuyên trong bản án.
30
Án treo trong Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
được áp dụng đối với người phạm tội bị xử phạt cải tạo lao động hoặc tù
không quá ba năm. Luật quy định rõ không áp dụng án treo đối với người tái
phạm. Quy định về việc hủy bỏ án treo nếu trong thời gian thử thách phát hiện
trước đó người được hưởng án treo đã phạm tội khác nhưng chưa bị xử lý có
thể hiểu là quy định không áp dụng án treo đối với người phạm tội nhiều lần.
Thời gian thử thách và điều kiện thử thách đối với người bị phạt tù có thời
hạn tương tự như trong luật hình sự Việt Nam nhưng luật hình sự Trung Hoa
quy định nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo vi phạm
pháp luật, quy chế hành chính hoặc quy định về giám sát với tình tiết nghiêm
trọng thì vẫn hủy bỏ án treo. Quy định này đảm bảo sự chấp hành nghiêm
chỉnh điều kiện thử thách từ phía người được hưởng án treo.
1.3.3. Pháp luật Nhật Bản
Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 1907, sửa đổi năm 2011 tại chương 4
quy định về án treo thể hiện từ điều 25 - 27, cụ thể:
Điều 25 quy định điều kiện áp dụng:
I. Những người dưới đây bị tuyên tù giam hoặc cấm cố dưới
ba năm hoặc bị phạt tiền dưới 50 vạn Yên, tùy theo tình tiết giảm
nhẹ mà có thể được hưởng án treo trên 1 năm đến dưới 5 năm, tính
từ ngày bản án có hiệu lực:
1. Người mà trước đây chưa từng bị mức án trên cấm cố.
2. Người mà trước đây mặc dù đã bị xử mức án trên cấm cố,
nhưng kể từ ngày kết thúc việc chấp hành án đó, hoặc kể từ ngày
được miễn giảm việc chấp hành án đó mà trong vòng 5 năm chưa
hề bị tuyên án trên mức cấm cố.
II. Mặc dù trước đây đã bị xử mức án trên cấm cố, thì được
hưởng án treo đó mà bị ra bản án tù giam dưới 1 năm hoặc cấm cố
sẽ tương tự như khoản trên khi có tình tiết xem xét giảm nhẹ đặc biệt.
31
Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giám hộ quan sát theo
khoản 1 của Điều dưới thì cũng không có hạn chế [13].
Điều 25-2 quy định giám hộ quan sát:
1. Trong trường hợp của khoản 1 Điều 25, thì trong thời hạn
án treo có thể kèm thêm giám hộ quan sát. Và cũng trong trường
hợp khoản 2 Điều 25 thì trong thời hạn án treo có giám hộ quan sát.
2. Có thể tạm xóa giám hộ quan sát theo việc xử lý của cơ
quan hành chính.
3. Về việc áp dụng phần tuy nhiên của khoản II Điều 25 và
quy định của khoản II-2 của Điều 26 thì trong thời gian được tạm
xóa giám hộ quan sát được coi như không có giám hộ quan sát [13].
Điều 26 quy định trường hợp hủy bỏ án treo một cách cần thiết:
Tòa án phải hủy bỏ quyết định án treo đối với những trường
hợp dưới đây. Tuy nhiên, trong trường hợp của điểm 3 dưới đây,
người được tuyên án treo là người thuộc khoản I-2 Điều 25 và
khoản 3 Điều 26-2 thì không hạn chế:
1. Khi trong thời gian án treo mà vẫn phạm tội và bị xử lý
trên mức hình phạt cấm cố mà mức tù đó lại không được tuyên án treo.
2. Trước khi được tuyên án treo lại bị phạt trên mức tù cấm
cố về tội khác, mà mức tù đó lại không được tuyên án treo [13].
Điều 26-2 quy định hủy bỏ việc định lượng án treo:
Có thể hủy bỏ được việc thi hành án treo đối với những
trường hợp sau đây:
1. Khi trong thời gian án treo lại phạm tội mới và bị phạt tiền.
2. Người chịu giám hộ quan sát theo quy định của khoản 1
Điều 25-2 mà không tuân thủ những điều cần tuân thủ, mà tình tiết
lại tăng nặng.
32
3. Trước khi được ra bản án treo thì lại bị xử phạt trên cấm
cố về tội khác và bị phát giác về việc hưởng án treo đó [13].
Điều 26-3 quy định hủy bỏ án treo của án khác: "Khi hủy bỏ quyết định
án treo của mức án trên cấm cố theo quy định của hai điều luật trên, thì trong
thời gian án treo mà mức án trên mức cấm cố thì phải hủy án treo đó" [13].
Điều 27 quy định hiệu quả của việc đã quá thời hạn án treo: "Nếu đã
quá thời gian cho phép mà vẫn không được hủy việc tuyên treo, thì sẽ mất
hiệu lực" [13].
Bộ luật hình sự của Nhật Bản quy định điều kiện áp dụng án treo đối với
người phạm tội chịu các hình phạt khác nhau là tù giam, cấm cố dưới 3 năm,
phạt tiền dưới 50 vạn Yên. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định bắt buộc phải
giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc chính
quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự
Nhật Bản quy định trong thời hạn án treo "có thể" kèm theo giám hộ quan sát
đối với trường hợp của khoản 1 Điều 25, trong trường hợp khoản 2 của Điều 25
thì trong thời hạn án treo có giám hộ quan sát. Bộ luật hình sự Nhật Bản cũng
quy định chi tiết các trường hợp hủy bỏ án treo trong đó Bộ luật hình sự Việt
Nam quy định một căn cứ duy nhất là phạm tội trong thời gian thử thách. Bộ
luật hình sự Nhật Bản thể hiện điểm mới so với Bộ luật hình sự Việt Nam khi
quy định "hiệu quả của việc đã quá thời hạn án treo".
1.3.4. Pháp luật nƣớc Cộng hòa liên bang Đức
Theo quy định của luật hình sự của Cộng hòa liên bang Đức thì quy định
rất rõ về căn cứ, điều kiện cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách…
Điều 56 Bộ luật hình sự Đức quy định nhiều căn cứ: Hình phạt tù
không quá một năm; nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và tương lai
không phạm tội mới dù không bị tù; khi áp dụng án treo cần chú ý nhân thân
người phạm tội, cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau
khi phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo.
33
Quy định này là chặt chẽ, khắt khe, đã thu hẹp đối tượng được hưởng án treo
hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Về căn cứ nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và (cơ sở để tin)
tương lai không phạm tội mới dù không bị tù. Đây là căn cứ không được quy
định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Có thể nói, đây là quy định rất chặt chẽ,
hạn chế Thẩm phán tùy nghi áp dụng án treo mặc dù có đã có đủ điều kiện để
bị cáo được hưởng án treo. Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự Đức
thì Thẩm phán phải cân nhắc rất nhiều tình tiết để cho bị cáo được hưởng án
treo như: Cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi
phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo.
Toàn bộ những căn cứ trên giúp cho Hội đồng xét xử ban hành quyết định áp
dụng hay không áp dụng án treo một cách chính xác.
Thời gian thử thách của án treo: Điều 56a Bộ luật hình sự Đức quy
định "Tòa án quyết định thời gian thử thách của án treo là không quá năm
năm và không dưới hai năm" [41]. Như vậy, thời gian thử thách của án treo
trong Bộ luật hình sự Đức quy định chặt chẽ hơn trong Bộ luật hình sự Việt
Nam. Thể hiện ở mức tối thiểu của thời gian thử thách là hai năm so với một
năm của Việt Nam. Điểm tiến bộ của Bộ luật hình sự Đức trong quy định thời
gian thử thách của án treo là thời gian bắt đầu tính thời gian thử thách của án
treo được quy định ngay trong Bộ luật hình sự "Thời gian thử thách bắt đầu từ
khi bản án cho hưởng án treo có hiệu lực".
Về nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện. Theo quy
định của Bộ luật hình sự Đức, việc giao nghĩa vụ cho người được hưởng án
treo là rất cần thiết để quản lý, thấy được sự tiến bộ của người được hưởng án
treo. Là nghĩa vụ bằng khả năng của mình khắc phục hậu quả đã gây ra; nộp
tiền vào công quỹ hoặc cho cơ sở phục vụ hoạt động công cộng; các đóng góp
công ích khác...
Các quyết định áp đặt cho người được hưởng án treo: Bộ luật hình sự
Việt Nam không quy định các quyết định áp đặt cho người được hưởng án
34
treo. Trong khi đó, Điều 56c Bộ luật hình sự Đức quy định rất nhiều quyết
định để Thẩm phán có thể lựa chọn áp dụng áp đặt cho người được hưởng án
treo. Mục đích của quy định này là nhằm làm cho người được hưởng án treo
thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trong thời gian được hưởng án treo. Đó là, Tòa
án có thể chỉ thị: Về chỗ ở, học tập, việc làm nghỉ ngơi hoặc kinh doanh; trình
diện tại Tòa án hoặc nơi khác; không giao thiệp với một số người hoặc một
nhóm người nhất định có thể dẫn dắt vào việc phạm tội; không sở hữu, tàng
trữ công cụ phương tiện nhất định có thể gây án; thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng. Chỉ thị sau khi có sự đồng ý của người bị kết án là: Chữa bệnh bắt
buộc hoặc vào một cơ sở giáo dục; vào sống trong một ký túc xá.
Vấn đề giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian
thử thách: Điều 56d Bộ luật hình sự Đức quy định rất rõ ràng: Nếu người
được hưởng án treo chưa đủ 27 tuổi và hình phạt tự do của họ là trên 9 tháng
thì Tòa án có thể cử người trợ giúp trong thời gian thử thách.
Hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo: Điều 56b Bộ
luật hình sự Đức cho phép Thẩm phán có nhiều lựa chọn khi áp dụng hình
phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo gồm:
1- Bồi thường thiệt hại;
2- Trả một khoản tiền cho cơ sở dịch vụ công;
3- Lao động công ích;
4- Nộp một khoản tiền cho Nhà nước.
Điều kiện thử thách và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử
thách của án treo: Tại khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định
trường hợp bị tước án treo chỉ có một căn cứ duy nhất là phạm tội mới trong
thời gian thử thách. Nhưng Điều 56f Bộ luật hình sự Đức quy định rất rộng
các căn cứ khi vi phạm nghĩa vụ thực hiện trong thời gian được hưởng án treo
sẽ bị tước bỏ án treo là:
35
1- Trong thời gian thử thách phạm tội mới;
2- Không nghe lời người giúp đỡ, không tuân thủ các chỉ thị và có
nguy cơ phạm tội mới;
3- Không thanh toán các khoản phạt.
Bộ luật Hình sự Đức không quy định tổng hợp hình phạt đối với bị án
được hưởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách còn Bộ luật
hình sự Việt Nam lại quy định vấn đề này.
Bộ luật hình sự Đức quy định về hủy bỏ hình phạt tại Điều 56g. Theo
đó, khi hết thời gian thử thách mà Tòa án không phải ra quyết định hủy bỏ án
treo thì Tòa án ban hành quyết định hủy hình phạt tù đã tuyên. Bộ luật hình sự
Việt Nam không quy định vấn đề này.
Xét giảm thời gian thử thách: Bộ luật hình sự Đức không quy định xét
giảm thời gian thử thách đối với án treo, trong khi đó Bộ luật hình sự Việt
Nam quy định xét giảm thời gian thử thách đối với án treo tại khoản 4 Điều
60. Khi người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách,
có nhiều tiến bộ thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục làm
đề nghị để Tòa án ban hành quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
Bộ luật hình sự Đức còn quy định án treo cho trường hợp đang chấp
hành hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân tại Điều 57, 57a. Đây là quy
định rất khác so với Bộ luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 57 Bộ luật hình sự
Đức quy định: Tòa án cho người đang chấp hành án tù hưởng án treo khi: Bị
án đã chấp hành được 2/3 án tù (ít nhất là 2 tháng); bị án sẽ không phạm tội
mới dù được tự do thì Tòa án có thể cho hưởng án treo phần hình phạt còn lại
khi bị án chấp nhận việc thay thế này. Khi quyết định cho hưởng án treo, Tòa
án phải xem xét nhân thân người phạm tội, quá khứ của họ, các tình tiết của
tội phạm, thái độ người phạm tội trong trại giam, hoàn cảnh sống cũng như
tác động đến tương lai của họ nếu áp dụng án treo.
36
Tại Điều 57a Bộ luật hình sự Đức thì điều kiện để bị án chịu hình phạt
tù chung thân được chuyển đổi sang án treo là: Đã chấp hành hình phạt tù
được 15 năm; đã có kết quả cải tạo tốt; thỏa mãn điều kiện của khoản 1,
khoản 5 của Điều 57 (điều kiện cho hưởng án treo). Thời gian thử thách của
trường hợp này là 5 năm. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn và nhân đạo
sâu sắc.
Thông qua việc nghiên cứu về án treo của một số nước trên thế giới
thấy rằng ở mỗi nước tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, sự phát triển về kinh tế
xã hội, ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong việc thực thi pháp luật
mà mỗi quốc gia lựa chọn cho mình một giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, luật
hình sự hầu hết các quốc gia quy định về án treo có một điểm chung, giống
nhau đó là thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự về vấn đề
cưỡng chế của nhà nước với sự tham gia của xã hội trong quá trình giáo dục
cải tạo người phạm tội mà không bắt họ cách ly khỏi cộng đồng, tạo điều kiện
cho họ có một môi trường cải tạo tốt hơn. Mặt khác các bị án đều phải chịu
bởi hậu quả pháp lý xấu nếu điều kiện thử thách cụ thể của án treo bị vi phạm.
Điều này đảm bảo sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh những điều kiện
thử thách của án treo từ phía người phạm tội.
37
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG
2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO
Tại Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân
của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không
cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo
và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách Tòa án giao người được hưởng
án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền
địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình
người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức chính
quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó.
3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ
sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định được quy định tại Điều 30 và Điều 36 của
Bộ luật này.
4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần
hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ
quan tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục, Tòa án có thể rút
ngắn thời gian thử thách.
5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong
thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình
phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới
theo quy định tại Điều 51 Bộ luật này [21, tr. 72].
38
Hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo tại Nghị
quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 đã đưa ra khái niệm về án treo:
"Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án
áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc
phải chấp hành hình phạt tù" [37].
2.1.1 Căn cứ để ngƣời bị phạt tù đƣợc hƣởng án treo
Điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo mà trước
đây được quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 thì nay được quy
định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự hiện hành: "1. Khi xử phạt tù không
quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm
nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho
hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [21].
Như vậy các điều kiện mà Tòa án bắt buộc phải xem xét khi cho
người bị kết án được hưởng án treo, đó là mức phạt tù (bị xử phạt không quá
ba năm), điều kiện về nhân thân của người phạm tội, điều kiện về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều kiện không cần bắt người bị kết án chấp
hành hình phạt tù.
Tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 quy định:
Chỉ xem xét cho người bị phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều
kiện sau đây:
Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm
trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều
8 của Bộ luật hình sự;
Theo quy định này phạm vi được áp dụng đối với chế định án treo đã
thu hẹp lại, người bị kết án không quá 3 năm tù chỉ được hưởng án treo khi
phạm "tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng". Khi bị xét
xử trong cùng một lần về nhiều tội thì không cho hưởng án treo.
39
Như vậy căn cứ vào mức hình phạt tù là một trong những căn cứ đầu
tiên để xem xét cho người bị kết án được hưởng chế định án treo, đòi hỏi
Thẩm phán cũng các Hội thẩm nhân dân phải tuyệt đối tuân theo những quy
định của pháp luật đó chính là các nguyên tắc, những căn cứ pháp luật khi
quyết định hình phạt. Trong quá trình xét xử phải thực sự công tâm, phải xuất
phát từ yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, phải có lương tâm và trách
nhiệm nghề nghiệp có bản lĩnh vững vàng kiên quyết đấu tranh với những
hành vi phạm tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao, song cũng phải biết
đánh giá đúng đối với những người nhất thời phạm tội, biết ăn năn hối cải mà
tạo cơ hội cho họ được sửa chữa cải tạo ngoài xã hội, đó chính là yêu cầu của
những người làm công tác xét xử trong giai đoạn hiện nay.
Căn cứ về nhân thân người phạm tội
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Bộ luật hình sự thì việc áp
dụng chế định án treo phải xem xét khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội.
Cũng theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật tố tụng hình sự thì Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh một
trong 4 vấn đề của vụ án hình sự đó là: ... 3. Những tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về
nhân thân của bị can, bị cáo [22].
Như vậy cả trên lĩnh vực luật nội dung và luật hình thức thì vấn đề nhân
thân người phạm tội đều được pháp luật đề cập một cách rõ ràng, đầy đủ. Trong
khoa học luật hình sự xuất hiện nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân thân
người phạm tội như "Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu
là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với
việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ" [39, tr. 97] hay:
Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
40
phạm được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa
về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên
ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó [50, tr. 126].
Hoặc:
Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm về mặt
pháp lý hình sự, xã hội - nhân khẩu học, xã hội - sinh học và đạo
đức - tâm lý học của người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mà các đặc
điểm này có ý nghĩa quan trọng để giải quyết vấn đề trách nhiệm
hình sự của người đó một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp
luật đồng thời đấu tranh chống tình trạng phạm tội [2, tr. 6].
Như vậy có thể thấy nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc
điểm khác nhau của một con người cụ thể với tư cách là chủ thể của tội phạm
mà những đặc điểm này có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả
năng giáo dục, cải tạo người phạm tội. Việc xem xét vấn đề nhân thân đó
chính là thể hiện sự nhân đạo, sự khoan hồng và sự công bằng của Nhà nước
đối với những người phạm tội, thông qua đó việc áp dụng hình phạt cũng như
các chế định đối với người phạm tội mới có tác dụng và hiệu quả trong việc
giáo dục người phạm tội.
Theo văn bản hướng dẫn mới nhất của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013
hướng dẫn cụ thể hơn:
Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn
tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều
mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử
lý kỷ luật.
Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;
41
Theo như hướng dẫn nêu trên thì khi đánh giá, xem xét nhân thân một
người phạm tội để quyết định về mặt hình phạt và xem xét có cho họ được
hưởng chế định án treo hay không trên cơ sở họ có nhân thân tốt, có đầy đủ
những điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã
hội, luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật; nghĩa là trước khi phạm tội
họ là công dân tốt, chấp hành nghiêm đường lối chính sách pháp luật của
Đảng, Nhà nước, không vi phạm pháp luật, không bị xử lý kỷ luật, không phải
là đối tượng nghiện chất ma túy, không thuộc đối tượng hình sự, ổ nhóm tội
phạm cần phải quan tâm theo dõi…
Thứ hai: Họ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, điều kiện
này đối với người phạm tội được hiểu luật pháp nhà nước ta đã quy định các
quyền và nghĩa vụ của công dân trong hiến pháp và pháp luật, ví dụ: Người từ
đủ 18 tuổi trở lên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhưng họ không thực hiện
mà trốn tránh; hoặc người kinh doanh buôn bán phải có nghĩa vụ đóng thuế
đối với Nhà nước nhưng họ không thực hiện trong khi đó họ cũng chưa bị xử
lý bằng hình thức gì; không chấp hành nộp các loại phí theo quy định của địa
phương… Tất cả những hành vi đó đều có thể được hiểu là vi phạm điều kiện
về nghĩa vụ công dân, nếu như họ vi phạm thì họ không được hưởng án treo.
Thứ ba: Họ phải là người chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý hành chính,
xử lý kỷ luật nghĩa là bản thân họ từ trước tới ngày họ phạm tội họ chưa hề bị
kết án hoặc bị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt
hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật.
Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích,
được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính,
xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành
chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật
thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không
42
phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp
này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc
một trong các trường hợp sau:
b1) Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do
cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều
bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần
này đã quá 2 năm;
b2) Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian
được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b3) Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải
tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày
phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b4) Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích;
b5) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần
trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý
hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
b6) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần và
có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà
thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính,
chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến
ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;
b7) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời
gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính
đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;
b8) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ
luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần
này đã quá 18 tháng;
43
b9) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ
luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà
thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị
xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;
b10) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ
luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính,
chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng;
b11) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo
dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử
lý hành chính [37].
Như vậy đối với người phạm tội đã bị Tòa án kết án về một tội nào đó
nhưng đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật, hoặc họ đã bị các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính, bị xử lý kỷ luật nhưng sau khi được
xóa án tích hoặc đã hết thời hiệu xử lý đến ngày phạm tội lần này là một thời
gian cụ thể đối với từng loại đã liệt kê trên đây thì mới xem xét cho hưởng án treo.
Thứ tư: về vấn đề nhân thân là họ phải có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng để
nhằm quản lý, giáo dục họ khi Tòa án giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người
đó làm việc hoặc giao họ cho chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để
quản lý giáo dục theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm lại khi xem xét đánh giá về vấn đề nhân thân người phạm tội Hội
đồng xét xử phải xem xét một cách khách quan, toàn diện và hết sức cẩn
trọng, công tâm phải đặt trong một bối cảnh cụ thể và dựa trên đường lối
chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, có như vậy mới đưa ra một phán
quyết hợp tình, hợp lý và chính xác cao.
Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật
Tại Điều 60 Bộ luật hình sự quy định về chế định án treo thì điều kiện
cho người bị kết án được hưởng chế định án treo như sau:
44
Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành
hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ
một năm đến năm năm.
Tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện Điều 60 Bộ luật hình
sự về án treo trong đó có quy định về các tình tiết giảm nhẹ như sau:
Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có
đủ các điều kiện sau đây:
a. ...
d. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định
tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có
một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình
tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự [37].
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những yếu tố làm thay
đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn. Các tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong một vụ án cụ thể và đối với người
phạm tội cụ thể chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ án
đó và cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi
một cấu thành chứ không làm thay đổi tính chất của tội phạm ấy [18, tr. 236].
Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn chi tiết về các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 46 quy định các tình tiết sau đây
được coi là tình tiết giảm nhẹ khác:
45
Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người
có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng
một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng
lực lượng vũ trang, người mẹ Việt nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân,
nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân
dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy
định của Nhà nước;
- Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ,
chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sĩ;
- Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc
trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Người bị hại cũng có lỗi;
- Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
- Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
- Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về
mặt sức khỏe của người bị hại, gây thiệt hại về mặt tài sản;
- Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột
xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu;
- Ngoài ra khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn
cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác
là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án [32, tr. 21].
Như vậy theo các quy định của Bộ luật hình sự cũng như các hướng
dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì những tình tiết giảm
nhẹ được quy định mở hơn, có tính chất tùy nghi hơn phụ thuộc vào trường
hợp cụ thể của người phạm tội để có thể xem xét cho rằng đó là tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự, song theo tác giả thì việc cho phép tùy nghi trong
46
trường hợp này cũng cần phải hết sức chặt chẽ tránh sự lạm dụng, tùy tiện
theo tư tưởng chủ quan của Hội đồng xét xử.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những yếu tố làm thay
đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn, được quy
định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Những tình tiết được quy định từ điểm a đến
điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự mới được coi là tình tiết tăng nặng,
khi xét xử không được phép tùy tiện coi các tình tiết khác là tình tiết tăng
nặng làm xấu đi tình trạng của bị cáo.
Một vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết
tăng nặng đó là tất cả các tình tiết này đã là tình tiết định khung hay định tội
thì không được áp dụng làm tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự nữa.
Trên cơ sở các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định việc
có cho phép người bị kết án được hưởng chế định án treo hay không phải đảm
bảo nguyên tắc là không có tình tiết tăng nặng và có ít nhất từ hai tình tiết
giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại
khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cũng
cần chú ý đến những tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu
hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ nữa.
Trong trường hợp người bị kết án vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có
tình tiết tăng nặng thì tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013
hướng dẫn trong trường hợp nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có
ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự quy định về chế định án
treo thì điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo ghi:
..., nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án
cho hưởng án treo ...
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sựLuận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
Luận văn: Ủy thác thi hành án dân sự theo Pháp luậthi h tành án dân sự
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Bảo đảm quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOTLuận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự, HOT
 
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sựĐề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
Đề tài: Tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù trong Luật hình sự
 
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoãn thi hành án hình sự ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sựLuận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 

Similar to Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY

Similar to Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY (20)

Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng BìnhLuận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
Luận văn: Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự tại Quảng Bình
 
Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhÁp dụng án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
Luận văn: Quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật - Gửi miễ...
 
Luận văn thạc sĩ Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương.doc
Luận văn thạc sĩ Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương.docLuận văn thạc sĩ Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương.doc
Luận văn thạc sĩ Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương.doc
 
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Định hình phạt và tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyết định hình phạt tù có thời hạn tại TP Đà Nẵng, 9đ - Gửi miễn p...
 
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niênThi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
Thi hành án phạt tù đối với người bị kết án là người chưa thành niên
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đTình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Áp dụng hình phạt chính theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án, HAY
Luận văn: Thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án, HAYLuận văn: Thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án, HAY
Luận văn: Thi hành hình phạt tù theo pháp luật thi hành án, HAY
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 

Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH PHƢƠNG ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THANH PHƢƠNG ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phƣợng HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Ph¹m Thanh Ph-¬ng
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁN TREO 6 1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý, những đặc điểm cơ bản của án treo 6 1.1.2. Bản chất pháp lý của án treo 9 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo 10 1.1.4. Phân biệt án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ 11 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam về án treo 14 1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 14 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 17 1.3. Án treo trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 20 1.3.1. Pháp luật Liên bang Nga 20 1.3.2. Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 22 1.3.3. Pháp luật Nhật Bản 24 1.3.4. Pháp luật nước Cộng hòa Liên bang Đức 26 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG 31 2.1. Quy định của bộ luật hình sự hiện hành về án treo 31
  • 5. 5 2.1.1 Căn cứ để người bị phạt tù được hưởng án treo 32 2.1.2. Thời gian, điều kiện thử thách của án treo, hậu quả và trách nhiệm pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách 44 2.2. Thực tiễn áp dụng án treo tại địa bàn tỉnh Hải Dương 53 2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng án treo 53 2.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng án treo 56 2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản 68 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ ÁN TREO VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ÁN TREO 72 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng án treo 72 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về án treo 75 3.3. Những giải pháp khác 78 3.3.1 Nâng cao ý thức trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng 78 3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn và giải thích pháp luật; công tác kiểm tra giám sát của cấp trên và của Hội đồng nhân dân các cấp 83 3.3.3. Tăng cường sự phối kết hợp hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm trong việc thi hành án treo và giám sát giáo dục đối với người được hưởng án treo 84 3.3.4. Tăng cường các biện pháp giám sát đối với người được hưởng án treo 86 3.3.5. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân về án treo 87 KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
  • 6. 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tình hình áp dụng án treo của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương từ năm 2007 đến năm 2013 54 2.2 Tình hình áp dụng án treo của các Tòa án nhân dân cấp huyện của tỉnh Hải Dương từ năm 2007 đến năm 2013 55
  • 7. 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Các tội phạm rất phong phú và đa dạng, khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Để đấu tranh có hiệu quả với các tội phạm, đảm bảo được các nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật hình sự quy định một hệ thống hình phạt rất phong phú, đa dạng và có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng tội phạm, từng người phạm tội. Mục đích của việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có nghĩa là hoàn trả cho xã hội con người đã trở nên vô hại, không còn nguy cơ tái phạm. Tuy nhiên, để đạt được mục đích đó, ngoài việc áp dụng hình phạt - biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất - trong một số trường hợp nhất định sẽ có hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp khác, không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt. Một biện pháp được áp dụng nhiều trong thực tiễn là án treo. Phạt tù cho hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước trong việc áp dụng pháp luật hình sự là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tính ưu việt của chế định án treo chính là ở sự kết hợp đó. Tuy nhiên thực tiễn vận dụng án treo tại Hải Dương trong thời gian qua bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, còn làm bộc lộ những hạn chế nhất định trong cả pháp luật thực định và trong quá trình áp dụng các quy định đó. Chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho hưởng
  • 8. 8 án treo hiện nay ở một số địa phương còn không chuẩn xác đó là cho hưởng án treo cả những đối tượng đã có tiền án, tiền sự hoặc ngược lại những người có nhân thân tốt nhất thời phạm tội đáng được xử treo nhưng lại xử giam, có nơi có lúc còn xử quá nhẹ dưới mức 3 năm tù để rồi cho bị cáo được hưởng án treo. Việc thi hành, giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Hải Dương ở nhiều xã, phường, thị trấn còn chưa chặt chẽ, thậm chí có nơi không thực hiện việc quản lý, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo. Việc phối hợp giữa Tòa án với cơ quan thực hiện việc giám sát, giáo dục và gia đình người được hưởng án treo còn lỏng lẻo, mang tính hình thức dẫn tới việc quản lý, giám sát, giáo dục chưa hiệu quả do vậy vẫn còn trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách. Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách sâu rộng và toàn diện về chế định án treo cũng như thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương là cần thiết góp phần hoàn thiện hơn các quy định về án treo và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trên thực tế. Với ý nghĩa đó, chúng tôi chọn và nghiên cứu "Án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Án treo là một chế định đặc biệt của pháp luật hình sự và việc áp dụng chế định này có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội. Vì vậy đề tài cũng đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau. Ở cấp độ giáo trình, có: Giáo trình Luật hình sự của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội... Trong các giáo trình Luật hình sự này chế định án treo mới chỉ cập nhật ở mức độ cơ bản. Ở cấp độ bình luận khoa học, phân tích chuyên sâu, có: "Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự’’, của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp
  • 9. 9 luật, "Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" (sách chuyên khảo của tập thể nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 1995, "Chế định án tích và mô hình lý luận của nó" của GS.TSKH Lê Cảm; luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Hữu Nhuận với đề tài: "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" và một số cuốn sách chuyên khảo như "Án treo trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Phạm Thị Học, Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 1996, "Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam" của tác giả Lê Văn Luật do Nhà xuất bản Tư pháp ấn hành năm 2007... Trong các cuốn bình luận khoa học Bộ luật hình sự và cuốn sách chuyên khảo nêu trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở đề cập một cách tổng thể hoặc từng khía cạnh nào đó của chế định án treo. Ngoài các công trình nghiên cứu nêu trên, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí như: "Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo", của Vũ Thế Đoàn, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/1990; "Điều kiện thử thách của án treo và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo theo luật hình sự Việt Nam", của Phạm Thị Học, đăng trên Tạp chí Luật học, số 2 năm 1999; "Án treo và thực tiễn áp dụng", của Đỗ Văn Chỉnh, đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007 và các số 12, 13, 14/2013. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên ở góc độ nghiên cứu những lý luận cao của án treo trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Hải Dương thì chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích tổng quát của luận văn là làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận của án treo trong luật hình sự Việt Nam, xây dựng và đề xuất một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện chế định án treo trong Bộ luật hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả án treo trong thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Hải Dương.
  • 10. 10 Quá trình nghiên cứu của luận văn là tiếp cận tổng thể đi từ cái chung đến cái cụ thể, từ lý luận đến đánh giá thực tiễn để từ đó để tìm ra những nguyên nhân tồn tại, thông qua đó đề ra được các giải pháp nhằm hoàn thiện chế định này. Nhiệm vụ của luận văn là làm rõ khái niệm, tính chất, mục đích, ý nghĩa của chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, tập trung nhất vào chế định hiện hành, đối chiếu, so sánh với luật pháp của một số nước trên thế giới, đánh giá thông qua thực tiễn áp dụng tại địa phương. Thông qua việc nghiên cứu đề tài tác giả mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung những quy định cụ thể trong việc áp dụng chế định đặc biệt này nhằm phát huy tác dụng triệt để nhất của chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này tác giả lấy học thuyết Mác - Lênin về vấn đề về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng và là kim chỉ nam cho mọi vấn đề cần nghiên cứu. Ngoài ra tác giả còn lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước, các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn việc áp dụng pháp luật, các văn bản tổng kết thực tiễn và kiểm tra, kiểm sát công tác xét xử hình sự của các Tòa án, Viện kiểm sát trên địa bàn tỉnh Hải Dương, các tài liệu pháp lý trong và ngoài nước có liên quan. Dựa trên phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm tạo điều kiện cho tác giả có sự nhận thức đúng đắn sự tồn tại và quy luật phát triển của xã hội loài người, quá trình nhận thức, tư duy, các quy luật tự nhiên của xã hội loài người… cũng như những vấn đề về nhà nước và pháp luật để từ đó có một tư duy đúng đắn, lôgic trong quá trình lập luận và giải quyết vấn đề. Phương pháp nghiên cứu luận văn là phương pháp lịch sử, phân tích tổng hợp, logic điều tra xã hội học và nghiên cứu so sánh.
  • 11. 11 5. Những đóng góp mới và ý nghĩa của luận văn Đây là một công trình khoa học dưới hình thức là một luận văn thạc sĩ luật học về án treo trong luật hình sự Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện nội dung chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam cùng những vấn đề liên quan, từ đó nâng cao nhận thức về án treo, tạo tiền đề cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Đồng thời định hướng cho việc áp dụng án treo được chính xác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo nói chung và ở tỉnh Hải Dương nói riêng, từ đó góp phần vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Luận văn bảo vệ thành công sẽ có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, có thể làm tư liệu tham khảo có giá trị trong việc xây dựng pháp luật hình sự, góp phần khắc phục những khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng và thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm nâng cao hiệu quả của chế định này. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về án treo. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về án treo và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Hải Dương. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về án treo và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng án treo.
  • 12. 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁN TREO 1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ, NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA ÁN TREO Tù có thời hạn là một trong những hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình sự đối với người phạm một tội cụ thể có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Theo đó, tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Điều 60 Bộ luật hình sự quy định "Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [21]. Như vậy, án treo là một biện pháp không buộc người bị phạt tù phải chấp hành hình phạt tại trại giam, không buộc họ phải cách ly khỏi xã hội, họ được tự cải tạo, giáo dục trong môi trường xã hội trong một thời gian thử thách nhất định với sự giám sát, giáo dục và giúp đỡ của các cơ quan hoặc chính quyền địa phương cùng gia đình người bị kết án. Hiện nay đã có nhiều ý kiến khác nhau về án treo. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: "Án treo là án tù không phải thi hành ngay, nhưng sẽ thi hành nếu trong thời gian quy định người bị kết án lại phạm tội và bị xử án lần nữa". Quan điểm này chưa nêu rõ được bản chất pháp lý của án treo. Từ điển Bách khoa toàn thư Mở (Wikipedia) định nghĩa: Án treo là chế định pháp lý hình sự liên quan đến việc chấp hành hình phạt. Án treo được hiểu là việc tạm thời miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, hình phạt đối với người vi phạm luật ở mức độ ít nghiêm trọng, khi bị xử phạt tù không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ (từ 2 tình tiết
  • 13. 13 trở lên), và xét thấy không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được, Tòa án có thể miễn chấp hành tại trại giam mà có thể tự cải tạo dưới sự giám sát, quản lý và giáo dục tại địa phương cư trú của chính quyền sở tại. Có nhà khoa học quan niệm ngắn gọn và đầy đủ "Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định" [3, tr. 810]. Gần đây, có tác giả thể hiện bản chất pháp lý và ý nghĩa của việc cho hưởng án treo khi viết: Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện kèm theo một thời gian thử thách đối với người phạm tội, do Tòa án áp dụng khi có những điều kiện do Bộ luật hình sự quy định, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn bảo đảm công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như yêu cầu giáo dục, cải tạo người phạm tội [49, tr. 450]. Như vậy, từ những quan điểm trên đây có thể hiểu: Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần thiết phải chấp hành hình phạt tù. Việc áp dụng án treo là cần thiết, nó không những thể hiện được những nguyên tắc công bằng, nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể hiện rõ phương châm trừng trị kết hợp với cải tạo giáo dục, thể hiện sự khoan hồng và nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Người phạm tội được hưởng án treo không phải chấp hành hình phạt tù trong trại giam, không bị mất tự do, họ vẫn được làm ăn sinh sống trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian thử thách người phạm tội bị hạn
  • 14. 14 chế một phần quyền tự do của mình so với những người bình thường khác, đó là phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú và họ luôn bị răn đe là nếu phạm tội mới thì họ sẽ không được hưởng án treo nữa mà phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Án treo vẫn đảm bảo tính răn đe nhưng lại có tác dụng khuyến khích người phạm tội vì nếu họ cải tạo tốt, không vi phạm điều kiện thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt tù. Vì người được hưởng án treo được tự giáo dục, cải tạo ngay trong môi trường xã hội nơi họ vẫn sinh sống và lao động nên nó thu hút đông đảo thành viên trong xã hội tham gia theo dõi, giúp đỡ, giáo dục và cải tạo người phạm tội, góp phần xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội. Điều này có hiệu quả rất cao, giúp người bị kết án thêm tin yêu vào cuộc sống, khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp vốn có của chính mình. Việc xã hội hóa quá trình cải tạo người phạm tội cũng chính là góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Trong luật hình sự, hình phạt tù có tính nghiêm khắc, răn đe cao và mang tính giáo dục, cải biến quan niệm, lối sống của phạm nhân một cách sâu sắc. Tuy nhiên, việc áp dụng nó không phải là tối ưu trong mọi trường hợp, nhất là trong điều kiện cơ sở vật chất trại giam còn hạn chế, chật hẹp và điều kiện cải tạo, giáo dục người phạm tội trong trại giam nhiều nơi chưa được thực hiện tốt. Qua thực tiễn cho thấy thì tỷ lệ người bị phạt tù chiếm một tỷ lệ rất lớn trong số các loại hình phạt mà Tòa án đã tuyên đối với các bị cáo bởi lẽ đây cũng là một trong những loại hình phạt rất nghiêm khắc mà Tòa án vận dụng. Nếu tất cả các bị án phạt tù này đều được đưa đi thi hành tại các trại cải tạo thì sẽ là một gánh nặng rất lớn đối với nhà nước về vấn đề con người quản lý giáo dục, về cơ sở vật chất là rất tốn kém. Hơn nữa, theo kết quả điều tra xã hội học và phạm tội học thì trong một số trường hợp người phạm tội vào chấp hành hình phạt tù trong trại giam đã chịu ảnh hưởng xấu của những phạm
  • 15. 15 nhân khác nên hình thành những nhân cách xấu hơn trước khi vào tù và khi ra tù họ trở thành những người còn hung tợn và dễ dàng phạm tội hơn. 1.1.2. Bản chất pháp lý của án treo Theo quy định của các văn bản pháp luật trên thì có thể thấy một người bị phạt tù được hưởng án treo thực hiện theo trình tự: Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy, việc xem xét cho hưởng án treo là một bước của hoạt động quyết định hình phạt, được đặt ra trong trường hợp bị phạt tù từ 3 năm trở xuống. Tòa án đã quyết định một hình phạt đối với người phạm tội, sau đó nếu hình phạt tù là tù từ ba năm trở xuống, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo. Như vậy, án treo không phải là hình phạt mà là một biện pháp không bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù mặc dù họ đã bị xử phạt tù. Đồng thời cũng quy định người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới. Do đó, nếu người phạm tội cải tạo tốt mà không phạm tội mới trong thời gian thử thách thì họ sẽ không phải chấp hành hình phạt tù mà được miễn chấp hành hình phạt tù. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới và bị xét xử thì người đó không được hưởng án treo nữa và phải chấp hành hình phạt đã tuyên. Khi xem xét quyết định cho người bị phạt tù hưởng án treo Tòa án tin tưởng rằng người đó sẽ tự giáo dục, cải tạo trong môi trường xã hội trong thời gian thử thách nhất định với sự giám sát của gia đình, cơ quan, đơn vị hoặc chính quyền địa phương. Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã
  • 16. 16 hội bình thường. Hình phạt tù đã tuyên sẽ được thi hành nếu người phạm tội vi phạm điều kiện đã được ấn định trong thời gian thử thách. Người phạm tội không vi phạm điều kiện của án treo trong thời gian thử thách thì chứng tỏ họ đã trở thành người lương thiện, vì vậy không phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên trong bản án. Do đó cần khẳng định bản chất pháp lý của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. 1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của án treo Án treo có những đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, án treo là biện pháp giáo dục trong trường hợp không cần cách ly người phạm tội khỏi cộng đồng khi bị xử phạt tù tương đối nhẹ đồng thời là một chế định pháp lý độc lập thể hiện nguyên tắc nhân đạo và phương châm xử lý trong chính sách hình sự của Nhà nước ta "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục". Thứ hai, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hệ thống hình phạt bao gồm bảy hình phạt chính và chín hình phạt bổ sung (được quy định từ Điều 28 đến Điều 40 Bộ luật hình sự năm 1999), trong đó có hình phạt tù có thời hạn. Người chịu hình phạt tù có thời hạn có thể được hưởng án treo. Trong các loại hình phạt được quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự không có quy định án treo, như vậy không thể coi án treo là hình phạt. Vì mối quan hệ giữa án treo và tù có thời hạn nên nhiều người coi án treo là hình phạt. Tuy nhiên án treo không phải là hình phạt mà chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều đó có nghĩa là người được hưởng án treo là người phạm tội phải chịu hình phạt tù có thời hạn nhưng được miễn việc chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Việc cho người phạm tội hưởng án treo là cho phép họ tự cải tạo mà không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương để họ tích cực cải tạo và tránh được những hình vi sai trái.
  • 17. 17 Thứ ba, người được hưởng án treo phải tự cải tạo, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương trong một thời gian thử thách nhất định do Tòa án ấn định. Thời gian thử thách là khoảng thời gian nhất định do Tòa án ấn định để kiểm tra, đánh giá việc tự cải tạo của người phạm tội. Pháp luật quy định về thời gian thử thách đối với người phạm tội từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách được Tòa án xác định dựa trên cơ sở mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu. Trong trường hợp người phạm tội không phạm tội mới trong thời gian thử thách và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình thì không phải chấp hành hình phạt đã tuyên. Ngược lại, đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định buộc chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật. 1.1.4. Phân biệt án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ Khi nghiên cứu hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam ta thấy hình phạt cải tạo không giam giữ, được quy định tại Điều 28, Điều 31 và Điều 73 Bộ luật hình sự có những điểm tương đồng với chế định án treo rất dễ bị nhầm lẫn. Tại Điều 31 Bộ luật hình sự quy định: 1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải bắt cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
  • 18. 18 2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó [21]. Người bị kết án phải chịu một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Căn cứ vào các quy định của pháp luật thì thấy chế định án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ có một số điểm giống nhau là: - Không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội (Điều 31, Điều 60 Bộ luật hình sự). - Người bị kết án đều được giao cho cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát giáo dục (Điều 31, Điều 60 Bộ luật hình sự). - Người bị kết án đều có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung. - Người bị kết án đều được đương nhiên xóa án trong thời hạn một năm kể từ ngày chấp hành xong bản án (Điều 63 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên giữa hình phạt cải tạo không giam giữ và án treo cũng có những điểm khác nhau căn bản của nó như: - Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chính được quy định cụ thể trong Điều 28 và Điều 31 của Bộ luật hình sự còn "án treo" là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện được quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự. - Phạm vi và điều kiện áp dụng án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ có khác nhau như:
  • 19. 19 + Cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng cho trường hợp là phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng tức là tội có khung hình phạt cao nhất đến ba năm tù và đến bảy năm tù (theo Điều 8 Bộ luật hình sự), còn đối với án treo không quy định cụ thể được áp dụng đối với loại tội phạm nào (ít nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng). Điều này cho thấy phạm vi áp dụng cho người được hưởng án treo rộng hơn nhiều so với hình phạt cải tạo không giam giữ. + Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng cho người phạm tội bị xử phạt từ sáu tháng đến ba năm (Điều 31 Bộ luật hình sự), nhưng đối với người được hưởng án treo thì phạm vi áp dụng đến ba năm tù mà hình phạt tù quy định từ ba tháng trở lên do đó hình phạt đối với người được hưởng án treo là từ ba tháng đến ba năm như vậy có thể nói là ngắn hơn nhưng họ lại phải chịu thời gian thử thách mà thời gian này tối thiểu là một năm và tối đa là 5 năm. + Điều kiện để người được hưởng án treo tuy có nhiều điểm giống với loại hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng điều kiện cho việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ rõ ràng đòi hỏi phải cao hơn so với điều kiện của người được hưởng án treo bởi lẽ hình phạt cải tạo không giam giữ nhẹ hơn so với hình phạt tù khi áp dụng. - Xét về hậu quả pháp lý người bị phạt tù cho hưởng án treo nếu trong thời gian thử thách mà phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của pháp luật vì vậy đối với người bị kết án coi như chưa chấp hành hình phạt của bản án trước. Nhưng đối với hình phạt cải tạo không giam giữ vì không có thời gian thử thách nếu trong thời gian chấp hành hình phạt này nếu họ phạm tội mới thì họ chỉ phải chuyển phần hình phạt cải tạo không giam giữ chưa chấp hành tính từ thời điểm họ phạm tội mới thành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù để quyết định hình phạt chung theo nguyên
  • 20. 20 tắc cứ ba ngày cải tạo không giam giữ bằng một ngày tù (Điều 50 Bộ luật hình sự). - Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chịu một số nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, còn đối với người được hưởng án treo không bị ràng buộc bởi quy định này vì vậy họ không bị khấu trừ thu nhập. 1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ÁN TREO 1.2.1. Giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Án treo là chế định được hình thành rất sớm trong Luật hình sự Việt Nam và được quy định lần đầu tiên tại Sắc lệnh số 33C của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành ngày 13.9.1945. Tại khoản 4 Điều IV của Sắc lệnh quy định: Nếu có những lý do chính đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì lầm lẫn… thì Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo. Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; nếu trong năm năm, bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như là không có; nếu trong hạn năm năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem ra thi hành [5]. Theo quy định này thể hiện điều kiện để người bị kết án hưởng án treo; giải thích án treo, quy định thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo và trường hợp người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án mà Tòa án đã cho hưởng án treo. Sau đó, chế định án treo theo Sắc lệnh số 33C bị hủy bỏ và được thay thế bằng Sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân
  • 21. 21 chủ cộng hòa về "tổ chức Tòa án quân sự". Tại Điều 10 có quy định về án treo như sau: Khi bị phạt tù, Tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng, bản án xử án treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên, tội nhân không bị Tòa án quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì bản án đã tuyên sẽ bị hủy đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Tòa án quân sự thì bản án sẽ đem thi hành [6]. Theo quy định như trên thì thấy, án treo chỉ được áp dụng đối với người bị kết án tù, nghĩa là khi bản án xét xử người phạm tội cho hưởng án treo trước hết Tòa án tuyên một hình phạt tù phù hợp với hành vi phạm tội mà người đó gây ra, đồng thời khi xét thấy có lý do đáng khoan hồng Tòa án cho tội nhân được hưởng án treo. Bản án này được tạm đình chỉ thi hành án trong 5 năm kể từ ngày tuyên án nếu như tội nhân không phạm tội mới. Nếu như tội nhân chấp hành tốt, không vi phạm pháp luật tới mức phải đưa ra xét xử thì bản án đã tuyên coi như không có, ngược lại nếu vi phạm mà bị xử lý thì bản án sẽ được đưa ra thi hành. Như vậy đây chính là một biện pháp để tạm đình chỉ thi hành án có điều kiện. Những quy định trên đây cho thấy còn tồn tại nhiều khiếm khuyết như: Việc có cho hưởng án treo tùy thuộc vào: "có lý do đáng khoan hồng" sẽ dẫn đến việc hiểu và vận dụng có nhiều khó khăn thậm chí có nơi, có Tòa vận dụng một cách tùy tiện, từ đó pháp luật không được nghiêm minh, công bằng pháp luật không đảm bảo, pháp chế bị xâm phạm. Mặt khác mức quy định thời gian thử thách của án treo một mức là 5 năm mà không phụ thuộc vào mức hình phạt tù là không công bằng, không chuẩn xác mà có tính chất đánh đồng mọi hành vi phạm tội như nhau, đáng lẽ ra tội ít nghiêm trọng hơn, ít nguy hiểm cho xã hội hơn thì thời gian thử thách phải
  • 22. 22 ít hơn tội gây nguy hại lớn cho xã hội khi có mức hình phạt cao hơn thì phải kéo dài thời gian thử thách hơn. Một vấn đề khác nữa mà tại Điều 10 Sắc lệnh không quy định đó là giao người bị phạt án treo cho ai giám sát theo dõi quản lý giáo dục. Như vậy sau khi tuyên án người bị phạt án treo có thể hiểu coi như là xong mà không bị ràng buộc bởi bất cứ chế tài pháp lý nào từ đó dễ có tình trạng người bị kết án coi thường kỷ cương phép nước lại tiếp tục phạm tội mới gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Từ thực tế trên đây cho ta thấy do chưa có sự nhận thức thống nhất trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong việc áp dụng quy định pháp luật về án treo dẫn tới mỗi nơi có cách vận dụng khác nhau, từ đó có sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật của mỗi địa phương. Khắc phục tình trạng nêu trên, để đảm bảo việc vận dụng án treo được thống nhất Tòa án nhân dân tối cao đã dự thảo Thông tư 2308/NCPL ngày 01/12/1961 về việc áp dụng chế độ án treo theo đó án treo là: Một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không cần thiết phải thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp sẽ buộc phải chấp hành án cũ. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ [28, tr. 135]. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có công văn trao đổi hướng dẫn cụ thể về mặt nghiệp vụ đối với một số tỉnh cụ thể theo tinh thần dự thảo thông tư này với nhiều hình thức như báo cáo tổng kết công tác năm hoặc các bản sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm hướng dẫn áp dụng chế độ án treo đối với một số tội phạm cụ thể.
  • 23. 23 1.2.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 Cùng với sự phát triển của xã hội, để phục tốt cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hoà đã ra đời và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1986 đánh dấu một bước trưởng thành trong quá trình hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật Việt nam. Theo quy định mới trong Bộ luật hình sự thì chế định án treo được quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 với một nội dung khá đầy đủ và toàn diện. Án treo quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa, phát triển quy định về án treo trong Sắc lệnh số 21 và Thông tư số 2308-NCPL đồng thời quy định rõ năm nội dung về án treo như sau: 1. Khi xử phạt tù không quá năm năm, căn cứ vào thân nhân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. 2. Tòa án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục. 3. Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định quy định ở Điều 23 và Điều 28. 4. Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi, giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách. 5. Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42 [20].
  • 24. 24 Quá trình thực hiện án treo, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đã nhận thấy quy định về án treo tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều bất cập nên đã sửa đổi bổ sung bằng các đạo luật do Quốc hội thông qua vào các ngày cụ thể sau: Vì khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự chỉ quy định chung là phạm tội mới trong thời gian thử thách và tội mới phạm không phân biệt do lỗi vô ý hay lỗi cố ý nên vào ngày 28.12.1989, khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung như sau: Nếu trong thời gian thử thách, người bị kết án treo bị phạm tội mới do vô ý và bị xử phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42. Theo nội dung này thì trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách được chia làm hai trường hợp: Trường hợp 1: Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do lỗi vô ý và bị phạt tù thì Tòa án buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt tù của bản án mới. Nếu phạm tội mới do lỗi vô ý và không bị phạt tù thì Tòa án không được buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù cho hưởng án treo. Trường hợp 2: Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do lỗi cố ý thì Tòa án phải xử phạt tù đối với tội mới phạm và tổng hợp hình phạt của tội mới với hình phạt tù được hưởng án treo để người bị kết án chấp hành hình phạt của hai bản án. Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung vào ngày 22.12.1992, khoản 1 Điều 44 Bộ luật hình sự có nội dung: Khi xử phạt không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Như vậy theo nội dung sửa đổi quy định giảm mức hình phạt tù cho hưởng án treo từ năm năm xuống ba năm.
  • 25. 25 Ngoài hai lần sửa đổi trên, Toà án nhân dân tối cao và liên ngành còn có các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về án treo như: Nghị quyết số 02/HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05.01.1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự; Thông tư số 01/NCPL ngày 06.4.1988 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo; thông tư liên ngành số 01/TTLN-90 ngày 01.2.1990 của Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ - Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự hướng dẫn thực hiện khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 về trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo và việc tổng hợp hình phạt của hai bản án. Ngày 21.12.1999, Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01.07.2000. Án treo được quy định tại Điều 60 vẫn giữ nguyên 5 khoản của Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 nhưng đã được sửa đổi, bổ sung để chính xác hơn về mặt ngữ nghĩa như: Sửa đổi cụm từ "theo dõi" bằng cụm từ "giám sát", "người bị án treo" bằng cụm từ người được hưởng án treo; sửa đổi khoản 5 về nội dung: Bãi bỏ cụm từ người bị án treo phạm tội mới và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thành nội dung "đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách". Ngày 02.10.2007, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn thực hiện Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 về án treo tại Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP. Sau 6 năm thực hiện Nghị quyết này đến ngày 06.11.2013, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo, có hiệu lực thi hành vào ngày 25.12.2013. Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP đã quy định cụ thể, chi tiết những điều kiện, trường hợp được hưởng án treo theo hướng "siết chặt" hơn nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng chế định án treo, đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
  • 26. 26 1.3. ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI Do có nhiều điểm ưu việt của án treo trong việc áp dụng các biện pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt đối với người phạm tội mà vẫn không làm mất đi sự nghiêm minh của pháp luật do vậy pháp luật của nhiều nước trên thế giới đã sớm đưa chế định này vào trong bộ luật hình sự của mình. Nhìn chung ở các nước đều có những điểm tương đối giống nhau trong việc áp dụng chế định án treo đó là Tòa án xét xử và kết án một người về một tội danh nhất định với một hình phạt tù hoặc tiền cụ thể dưới năm năm, tuy nhiên tòa án ấn định cho một thời gian thử thách trong khoảng thời gian là năm năm tùy theo tính chất vụ việc có kèm theo một điều kiện nhất định nào đó…nếu người phạm tội vi phạm những điều kiện này thì án cũ phải được chấp hành cùng với hình phạt của bản án mới. 1.3.1. Pháp luật Liên bang Nga Tại Điều 73 Bộ luật hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010 quy định về án treo như sau: 1. Nếu sau khi đã quyết định các hình phạt lao động cải tạo, hạn chế quân vụ, quản chế trong các đơn vị kỷ luật quân đội hoặc tù trong thời hạn đến tám năm, Tòa án đi đến kết luận là có thể cải tạo người phạm tội mà không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù và ra quyết định cho hưởng án treo. 2. Khi quyết định án treo, Tòa án sẽ cân nhắc đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt. 3. Khi quyết định án treo, Tòa án sẽ quy định thời hạn thử thách đối với người phạm tội và trong thời gian này người phạm tội cần chứng tỏ sự ăn năn hối cải bằng hành vi của mình. Trường hợp
  • 27. 27 áp dụng hình phạt tù trong thời hạn một năm hoặc hình phạt khác nhẹ hơn thì thời hạn thử thách bắt buộc phải dưới sáu tháng và không được vượt quá ba năm, còn trường hợp áp dụng hình phạt tù trong thời hạn từ một năm trở lên - bắt buộc không được dưới 6 tháng và không được vượt quá năm năm. Thời hạn thử thách được tính từ thời điểm bản án bắt đầu có hiệu lực. Khoảng thời gian chờ bản án có hiệu lực sẽ được tính vào thời hạn thử thách. 4. Trong quá trình quyết định án treo có thể quyết định các loại hình phạt bổ sung khác. 5. Tòa án sau khi quyết định án treo sẽ giao việc thực hiện các nhiệm vụ xác định cho người phạm tội trên cơ sở phù hợp với độ tuổi, khả năng lao động và tình trạng sức khỏe: không được phép thay đổi nơi thường trú, nơi công tác, nơi học tập mà không thông báo cho các cơ quan chức năng nhà nước thực thi việc giám sát hành vi của người hưởng án treo; không được thăm viếng những địa điểm theo quy định; bắt buộc tiến hành điều trị các bệnh nghiện rượu, nghiện ma túy, nhiễm độc, các bệnh hoa liễu; bắt buộc lao động hoặc tiếp tục học tập trong các tổ chức giáo dục chung. 6. Giám sát hành vi của người hưởng án treo do cơ quan chức năng nhà nước có thẩm quyền thực hiện, còn đối với trường hợp người hưởng án treo là quân nhân - do ban chỉ huy các đơn vị và cơ quan quân đội thực hiện. 7. Trong thời hạn áp dụng án treo, Tòa án theo đề nghị của cơ quan thực thi việc giám sát hành vi của người hưởng án treo có thể thay đổi từng phần hoặc thay đổi tất cả hoặc bổ sung các nhiệm vụ đã quy định trước đó [42, tr. 98-100]. Như vậy, án treo trong Luật hình sự Liên bang Nga có tính chất pháp lý tương tự như án treo trong luật hình sự Việt Nam, là biện pháp miễn chấp
  • 28. 28 hành hình phạt có điều kiện, được áp dụng với nhiều loại hình phạt. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự Liên bang Nga quy định nghĩa vụ của người được hưởng án treo trong Bộ luật hình sự như: không được phép thay đổi nơi thường trú, nơi công tác, nơi học tập mà không thông báo cho các cơ quan chức năng nhà nước thực thi việc giám sát hành vi của người hưởng án treo; không được thăm viếng những địa điểm theo quy định; bắt buộc tiến hành điều trị các bệnh nghiện rượu, nghiện ma túy, nhiễm độc, các bệnh hoa liễu; bắt buộc lao động hoặc tiếp tục học tập trong các tổ chức giáo dục chung. 1.3.2. Pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Bộ luật hình sự năm 1997, sửa đổi năm 2005 tại mục 5 về án treo quy định từ Điều 72 đến Điều 77 [12, tr. 65-66]: Điều 72 quy định những điều kiện áp dụng: Khi bị xử phạt cải tạo lao động hoặc tù không quá ba năm, căn cứ vào những tình tiết phạm tội và biểu hiện ăn năn hối lỗi của người phạm tội, có thể cho người phạm tội hưởng án treo nếu xét thấy việc áp dụng án treo sẽ không gây nguy hiểm cho xã hội. Nếu người bị án treo phải chịu thêm hình phạt bổ sung thì vẫn phải chấp hành theo quy định chung [12]. Điều 73 quy định thời gian và cách tính: Thời gian thử thách đối với người bị phạt cải tạo lao động nhưng được hưởng án treo đến 1 năm nhưng không ít hơn 2 tháng. Thời gian thử thách đối với người bị phạt tù có thời hạn nhưng được hưởng án treo đến 5 năm nhưng không được ít hơn 1 năm. Thời gian thử thách được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật [12]. Điều 74 quy định việc không áp dụng án treo đối với người tái phạm.
  • 29. 29 Điều 75 quy định các nghĩa vụ của người hưởng án treo: Người phạm tội được tuyên hưởng án treo, thì phải tuân theo các quy định dưới đây: 1. Tuân thủ pháp luật, quy chế hành chính, phục tùng việc giám sát; 2. Báo cáo hoạt động của bản thân theo quy định của cơ quan giám sát; 3. Tuân thủ nội quy tiếp khách của cơ quan giám sát; 4. Trước khi thay đổi chỗ ở hoặc rời khỏi huyện, thành phố nơi cư trú phải báo cáo và xin phép cơ quan giám sát [12]. Điều 76 quy định Cơ quan có trách nhiệm giám sát: Cơ quan Công an chịu trách nhiệm giám sát người bị án treo với sự giúp đỡ của cơ quan hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú trong thời gian thử thách. Nếu như không có những tình tiết quy định tại Điều 77 của Bộ luật này thì hết thời gian thử thách sẽ không phải chấp hành hình phạt cũ và được thông báo công khai [12]. Điều 77 quy định vấn đề vi phạm thời gian thử thách: Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo lại phạm tội mới hoặc phát hiện trước đó đã phạm tội khác nhưng chưa bị xử lý, thì phải hủy bỏ án treo và đưa ra thi hành hình phạt chung cho cả hai tội cũ và mới được quyết định theo quy định tại Điều 69 của Bộ luật này [12]. Người phạm tội được tuyên hưởng án treo, trong thời gian thử thách nếu vi phạm pháp luật, quy chế hành chính hoặc quy định về quản lý giám sát đối với án treo của cơ quan Công an thuộc Quốc vụ viện với tình tiết nghiêm trọng thì hủy bỏ án treo và buộc chấp hành hình phạt đã tuyên trong bản án.
  • 30. 30 Án treo trong Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được áp dụng đối với người phạm tội bị xử phạt cải tạo lao động hoặc tù không quá ba năm. Luật quy định rõ không áp dụng án treo đối với người tái phạm. Quy định về việc hủy bỏ án treo nếu trong thời gian thử thách phát hiện trước đó người được hưởng án treo đã phạm tội khác nhưng chưa bị xử lý có thể hiểu là quy định không áp dụng án treo đối với người phạm tội nhiều lần. Thời gian thử thách và điều kiện thử thách đối với người bị phạt tù có thời hạn tương tự như trong luật hình sự Việt Nam nhưng luật hình sự Trung Hoa quy định nếu trong thời gian thử thách người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, quy chế hành chính hoặc quy định về giám sát với tình tiết nghiêm trọng thì vẫn hủy bỏ án treo. Quy định này đảm bảo sự chấp hành nghiêm chỉnh điều kiện thử thách từ phía người được hưởng án treo. 1.3.3. Pháp luật Nhật Bản Bộ luật hình sự Nhật Bản năm 1907, sửa đổi năm 2011 tại chương 4 quy định về án treo thể hiện từ điều 25 - 27, cụ thể: Điều 25 quy định điều kiện áp dụng: I. Những người dưới đây bị tuyên tù giam hoặc cấm cố dưới ba năm hoặc bị phạt tiền dưới 50 vạn Yên, tùy theo tình tiết giảm nhẹ mà có thể được hưởng án treo trên 1 năm đến dưới 5 năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực: 1. Người mà trước đây chưa từng bị mức án trên cấm cố. 2. Người mà trước đây mặc dù đã bị xử mức án trên cấm cố, nhưng kể từ ngày kết thúc việc chấp hành án đó, hoặc kể từ ngày được miễn giảm việc chấp hành án đó mà trong vòng 5 năm chưa hề bị tuyên án trên mức cấm cố. II. Mặc dù trước đây đã bị xử mức án trên cấm cố, thì được hưởng án treo đó mà bị ra bản án tù giam dưới 1 năm hoặc cấm cố sẽ tương tự như khoản trên khi có tình tiết xem xét giảm nhẹ đặc biệt.
  • 31. 31 Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giám hộ quan sát theo khoản 1 của Điều dưới thì cũng không có hạn chế [13]. Điều 25-2 quy định giám hộ quan sát: 1. Trong trường hợp của khoản 1 Điều 25, thì trong thời hạn án treo có thể kèm thêm giám hộ quan sát. Và cũng trong trường hợp khoản 2 Điều 25 thì trong thời hạn án treo có giám hộ quan sát. 2. Có thể tạm xóa giám hộ quan sát theo việc xử lý của cơ quan hành chính. 3. Về việc áp dụng phần tuy nhiên của khoản II Điều 25 và quy định của khoản II-2 của Điều 26 thì trong thời gian được tạm xóa giám hộ quan sát được coi như không có giám hộ quan sát [13]. Điều 26 quy định trường hợp hủy bỏ án treo một cách cần thiết: Tòa án phải hủy bỏ quyết định án treo đối với những trường hợp dưới đây. Tuy nhiên, trong trường hợp của điểm 3 dưới đây, người được tuyên án treo là người thuộc khoản I-2 Điều 25 và khoản 3 Điều 26-2 thì không hạn chế: 1. Khi trong thời gian án treo mà vẫn phạm tội và bị xử lý trên mức hình phạt cấm cố mà mức tù đó lại không được tuyên án treo. 2. Trước khi được tuyên án treo lại bị phạt trên mức tù cấm cố về tội khác, mà mức tù đó lại không được tuyên án treo [13]. Điều 26-2 quy định hủy bỏ việc định lượng án treo: Có thể hủy bỏ được việc thi hành án treo đối với những trường hợp sau đây: 1. Khi trong thời gian án treo lại phạm tội mới và bị phạt tiền. 2. Người chịu giám hộ quan sát theo quy định của khoản 1 Điều 25-2 mà không tuân thủ những điều cần tuân thủ, mà tình tiết lại tăng nặng.
  • 32. 32 3. Trước khi được ra bản án treo thì lại bị xử phạt trên cấm cố về tội khác và bị phát giác về việc hưởng án treo đó [13]. Điều 26-3 quy định hủy bỏ án treo của án khác: "Khi hủy bỏ quyết định án treo của mức án trên cấm cố theo quy định của hai điều luật trên, thì trong thời gian án treo mà mức án trên mức cấm cố thì phải hủy án treo đó" [13]. Điều 27 quy định hiệu quả của việc đã quá thời hạn án treo: "Nếu đã quá thời gian cho phép mà vẫn không được hủy việc tuyên treo, thì sẽ mất hiệu lực" [13]. Bộ luật hình sự của Nhật Bản quy định điều kiện áp dụng án treo đối với người phạm tội chịu các hình phạt khác nhau là tù giam, cấm cố dưới 3 năm, phạt tiền dưới 50 vạn Yên. Bộ luật hình sự Việt Nam quy định bắt buộc phải giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định trong thời hạn án treo "có thể" kèm theo giám hộ quan sát đối với trường hợp của khoản 1 Điều 25, trong trường hợp khoản 2 của Điều 25 thì trong thời hạn án treo có giám hộ quan sát. Bộ luật hình sự Nhật Bản cũng quy định chi tiết các trường hợp hủy bỏ án treo trong đó Bộ luật hình sự Việt Nam quy định một căn cứ duy nhất là phạm tội trong thời gian thử thách. Bộ luật hình sự Nhật Bản thể hiện điểm mới so với Bộ luật hình sự Việt Nam khi quy định "hiệu quả của việc đã quá thời hạn án treo". 1.3.4. Pháp luật nƣớc Cộng hòa liên bang Đức Theo quy định của luật hình sự của Cộng hòa liên bang Đức thì quy định rất rõ về căn cứ, điều kiện cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách… Điều 56 Bộ luật hình sự Đức quy định nhiều căn cứ: Hình phạt tù không quá một năm; nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và tương lai không phạm tội mới dù không bị tù; khi áp dụng án treo cần chú ý nhân thân người phạm tội, cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo.
  • 33. 33 Quy định này là chặt chẽ, khắt khe, đã thu hẹp đối tượng được hưởng án treo hơn quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Về căn cứ nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và (cơ sở để tin) tương lai không phạm tội mới dù không bị tù. Đây là căn cứ không được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Có thể nói, đây là quy định rất chặt chẽ, hạn chế Thẩm phán tùy nghi áp dụng án treo mặc dù có đã có đủ điều kiện để bị cáo được hưởng án treo. Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự Đức thì Thẩm phán phải cân nhắc rất nhiều tình tiết để cho bị cáo được hưởng án treo như: Cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi phạm tội, quan hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo. Toàn bộ những căn cứ trên giúp cho Hội đồng xét xử ban hành quyết định áp dụng hay không áp dụng án treo một cách chính xác. Thời gian thử thách của án treo: Điều 56a Bộ luật hình sự Đức quy định "Tòa án quyết định thời gian thử thách của án treo là không quá năm năm và không dưới hai năm" [41]. Như vậy, thời gian thử thách của án treo trong Bộ luật hình sự Đức quy định chặt chẽ hơn trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Thể hiện ở mức tối thiểu của thời gian thử thách là hai năm so với một năm của Việt Nam. Điểm tiến bộ của Bộ luật hình sự Đức trong quy định thời gian thử thách của án treo là thời gian bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo được quy định ngay trong Bộ luật hình sự "Thời gian thử thách bắt đầu từ khi bản án cho hưởng án treo có hiệu lực". Về nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện. Theo quy định của Bộ luật hình sự Đức, việc giao nghĩa vụ cho người được hưởng án treo là rất cần thiết để quản lý, thấy được sự tiến bộ của người được hưởng án treo. Là nghĩa vụ bằng khả năng của mình khắc phục hậu quả đã gây ra; nộp tiền vào công quỹ hoặc cho cơ sở phục vụ hoạt động công cộng; các đóng góp công ích khác... Các quyết định áp đặt cho người được hưởng án treo: Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định các quyết định áp đặt cho người được hưởng án
  • 34. 34 treo. Trong khi đó, Điều 56c Bộ luật hình sự Đức quy định rất nhiều quyết định để Thẩm phán có thể lựa chọn áp dụng áp đặt cho người được hưởng án treo. Mục đích của quy định này là nhằm làm cho người được hưởng án treo thực hiện nghiêm túc nghĩa vụ trong thời gian được hưởng án treo. Đó là, Tòa án có thể chỉ thị: Về chỗ ở, học tập, việc làm nghỉ ngơi hoặc kinh doanh; trình diện tại Tòa án hoặc nơi khác; không giao thiệp với một số người hoặc một nhóm người nhất định có thể dẫn dắt vào việc phạm tội; không sở hữu, tàng trữ công cụ phương tiện nhất định có thể gây án; thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Chỉ thị sau khi có sự đồng ý của người bị kết án là: Chữa bệnh bắt buộc hoặc vào một cơ sở giáo dục; vào sống trong một ký túc xá. Vấn đề giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách: Điều 56d Bộ luật hình sự Đức quy định rất rõ ràng: Nếu người được hưởng án treo chưa đủ 27 tuổi và hình phạt tự do của họ là trên 9 tháng thì Tòa án có thể cử người trợ giúp trong thời gian thử thách. Hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo: Điều 56b Bộ luật hình sự Đức cho phép Thẩm phán có nhiều lựa chọn khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo gồm: 1- Bồi thường thiệt hại; 2- Trả một khoản tiền cho cơ sở dịch vụ công; 3- Lao động công ích; 4- Nộp một khoản tiền cho Nhà nước. Điều kiện thử thách và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách của án treo: Tại khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự Việt Nam quy định trường hợp bị tước án treo chỉ có một căn cứ duy nhất là phạm tội mới trong thời gian thử thách. Nhưng Điều 56f Bộ luật hình sự Đức quy định rất rộng các căn cứ khi vi phạm nghĩa vụ thực hiện trong thời gian được hưởng án treo sẽ bị tước bỏ án treo là:
  • 35. 35 1- Trong thời gian thử thách phạm tội mới; 2- Không nghe lời người giúp đỡ, không tuân thủ các chỉ thị và có nguy cơ phạm tội mới; 3- Không thanh toán các khoản phạt. Bộ luật Hình sự Đức không quy định tổng hợp hình phạt đối với bị án được hưởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách còn Bộ luật hình sự Việt Nam lại quy định vấn đề này. Bộ luật hình sự Đức quy định về hủy bỏ hình phạt tại Điều 56g. Theo đó, khi hết thời gian thử thách mà Tòa án không phải ra quyết định hủy bỏ án treo thì Tòa án ban hành quyết định hủy hình phạt tù đã tuyên. Bộ luật hình sự Việt Nam không quy định vấn đề này. Xét giảm thời gian thử thách: Bộ luật hình sự Đức không quy định xét giảm thời gian thử thách đối với án treo, trong khi đó Bộ luật hình sự Việt Nam quy định xét giảm thời gian thử thách đối với án treo tại khoản 4 Điều 60. Khi người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách, có nhiều tiến bộ thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục làm đề nghị để Tòa án ban hành quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Bộ luật hình sự Đức còn quy định án treo cho trường hợp đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân tại Điều 57, 57a. Đây là quy định rất khác so với Bộ luật hình sự Việt Nam. Tại Điều 57 Bộ luật hình sự Đức quy định: Tòa án cho người đang chấp hành án tù hưởng án treo khi: Bị án đã chấp hành được 2/3 án tù (ít nhất là 2 tháng); bị án sẽ không phạm tội mới dù được tự do thì Tòa án có thể cho hưởng án treo phần hình phạt còn lại khi bị án chấp nhận việc thay thế này. Khi quyết định cho hưởng án treo, Tòa án phải xem xét nhân thân người phạm tội, quá khứ của họ, các tình tiết của tội phạm, thái độ người phạm tội trong trại giam, hoàn cảnh sống cũng như tác động đến tương lai của họ nếu áp dụng án treo.
  • 36. 36 Tại Điều 57a Bộ luật hình sự Đức thì điều kiện để bị án chịu hình phạt tù chung thân được chuyển đổi sang án treo là: Đã chấp hành hình phạt tù được 15 năm; đã có kết quả cải tạo tốt; thỏa mãn điều kiện của khoản 1, khoản 5 của Điều 57 (điều kiện cho hưởng án treo). Thời gian thử thách của trường hợp này là 5 năm. Đây là quy định thể hiện tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc. Thông qua việc nghiên cứu về án treo của một số nước trên thế giới thấy rằng ở mỗi nước tùy thuộc vào hoàn cảnh địa lý, sự phát triển về kinh tế xã hội, ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong việc thực thi pháp luật mà mỗi quốc gia lựa chọn cho mình một giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, luật hình sự hầu hết các quốc gia quy định về án treo có một điểm chung, giống nhau đó là thể hiện chính sách nhân đạo trong pháp luật hình sự về vấn đề cưỡng chế của nhà nước với sự tham gia của xã hội trong quá trình giáo dục cải tạo người phạm tội mà không bắt họ cách ly khỏi cộng đồng, tạo điều kiện cho họ có một môi trường cải tạo tốt hơn. Mặt khác các bị án đều phải chịu bởi hậu quả pháp lý xấu nếu điều kiện thử thách cụ thể của án treo bị vi phạm. Điều này đảm bảo sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh những điều kiện thử thách của án treo từ phía người phạm tội.
  • 37. 37 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TẠI ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG 2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ ÁN TREO Tại Điều 60 của Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: 1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. 2. Trong thời gian thử thách Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục người đó. 3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này. 4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan tổ chức có trách nhiệm giám sát giáo dục, Tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách. 5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 Bộ luật này [21, tr. 72].
  • 38. 38 Hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật hình sự về án treo tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 đã đưa ra khái niệm về án treo: "Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 3 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần buộc phải chấp hành hình phạt tù" [37]. 2.1.1 Căn cứ để ngƣời bị phạt tù đƣợc hƣởng án treo Điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo mà trước đây được quy định tại Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 thì nay được quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự hiện hành: "1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm" [21]. Như vậy các điều kiện mà Tòa án bắt buộc phải xem xét khi cho người bị kết án được hưởng án treo, đó là mức phạt tù (bị xử phạt không quá ba năm), điều kiện về nhân thân của người phạm tội, điều kiện về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và điều kiện không cần bắt người bị kết án chấp hành hình phạt tù. Tại Nghị quyết 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 quy định: Chỉ xem xét cho người bị phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây: Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự; Theo quy định này phạm vi được áp dụng đối với chế định án treo đã thu hẹp lại, người bị kết án không quá 3 năm tù chỉ được hưởng án treo khi phạm "tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng". Khi bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội thì không cho hưởng án treo.
  • 39. 39 Như vậy căn cứ vào mức hình phạt tù là một trong những căn cứ đầu tiên để xem xét cho người bị kết án được hưởng chế định án treo, đòi hỏi Thẩm phán cũng các Hội thẩm nhân dân phải tuyệt đối tuân theo những quy định của pháp luật đó chính là các nguyên tắc, những căn cứ pháp luật khi quyết định hình phạt. Trong quá trình xét xử phải thực sự công tâm, phải xuất phát từ yêu cầu đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, phải có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp có bản lĩnh vững vàng kiên quyết đấu tranh với những hành vi phạm tội có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao, song cũng phải biết đánh giá đúng đối với những người nhất thời phạm tội, biết ăn năn hối cải mà tạo cơ hội cho họ được sửa chữa cải tạo ngoài xã hội, đó chính là yêu cầu của những người làm công tác xét xử trong giai đoạn hiện nay. Căn cứ về nhân thân người phạm tội Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Bộ luật hình sự thì việc áp dụng chế định án treo phải xem xét khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội. Cũng theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật tố tụng hình sự thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh một trong 4 vấn đề của vụ án hình sự đó là: ... 3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo [22]. Như vậy cả trên lĩnh vực luật nội dung và luật hình thức thì vấn đề nhân thân người phạm tội đều được pháp luật đề cập một cách rõ ràng, đầy đủ. Trong khoa học luật hình sự xuất hiện nhiều cách định nghĩa khác nhau về nhân thân người phạm tội như "Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ" [39, tr. 97] hay: Nhân thân người phạm tội tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
  • 40. 40 phạm được hiểu là tổng thể tất cả các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó [50, tr. 126]. Hoặc: Nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm về mặt pháp lý hình sự, xã hội - nhân khẩu học, xã hội - sinh học và đạo đức - tâm lý học của người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mà các đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng để giải quyết vấn đề trách nhiệm hình sự của người đó một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đồng thời đấu tranh chống tình trạng phạm tội [2, tr. 6]. Như vậy có thể thấy nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm khác nhau của một con người cụ thể với tư cách là chủ thể của tội phạm mà những đặc điểm này có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội. Việc xem xét vấn đề nhân thân đó chính là thể hiện sự nhân đạo, sự khoan hồng và sự công bằng của Nhà nước đối với những người phạm tội, thông qua đó việc áp dụng hình phạt cũng như các chế định đối với người phạm tội mới có tác dụng và hiệu quả trong việc giáo dục người phạm tội. Theo văn bản hướng dẫn mới nhất của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06.11.2013 hướng dẫn cụ thể hơn: Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật. Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;
  • 41. 41 Theo như hướng dẫn nêu trên thì khi đánh giá, xem xét nhân thân một người phạm tội để quyết định về mặt hình phạt và xem xét có cho họ được hưởng chế định án treo hay không trên cơ sở họ có nhân thân tốt, có đầy đủ những điều kiện sau đây: Thứ nhất: Ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật; nghĩa là trước khi phạm tội họ là công dân tốt, chấp hành nghiêm đường lối chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, không vi phạm pháp luật, không bị xử lý kỷ luật, không phải là đối tượng nghiện chất ma túy, không thuộc đối tượng hình sự, ổ nhóm tội phạm cần phải quan tâm theo dõi… Thứ hai: Họ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, điều kiện này đối với người phạm tội được hiểu luật pháp nhà nước ta đã quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân trong hiến pháp và pháp luật, ví dụ: Người từ đủ 18 tuổi trở lên phải thực hiện nghĩa vụ quân sự nhưng họ không thực hiện mà trốn tránh; hoặc người kinh doanh buôn bán phải có nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước nhưng họ không thực hiện trong khi đó họ cũng chưa bị xử lý bằng hình thức gì; không chấp hành nộp các loại phí theo quy định của địa phương… Tất cả những hành vi đó đều có thể được hiểu là vi phạm điều kiện về nghĩa vụ công dân, nếu như họ vi phạm thì họ không được hưởng án treo. Thứ ba: Họ phải là người chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nghĩa là bản thân họ từ trước tới ngày họ phạm tội họ chưa hề bị kết án hoặc bị các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định xử phạt hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật. Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không
  • 42. 42 phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc một trong các trường hợp sau: b1) Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm; b2) Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm; b3) Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm; b4) Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích; b5) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm; b6) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm; b7) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng; b8) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;
  • 43. 43 b9) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm; b10) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng; b11) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính [37]. Như vậy đối với người phạm tội đã bị Tòa án kết án về một tội nào đó nhưng đã được xóa án tích theo quy định của pháp luật, hoặc họ đã bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt hành chính, bị xử lý kỷ luật nhưng sau khi được xóa án tích hoặc đã hết thời hiệu xử lý đến ngày phạm tội lần này là một thời gian cụ thể đối với từng loại đã liệt kê trên đây thì mới xem xét cho hưởng án treo. Thứ tư: về vấn đề nhân thân là họ phải có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng để nhằm quản lý, giáo dục họ khi Tòa án giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc giao họ cho chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để quản lý giáo dục theo đúng quy định của pháp luật. Tóm lại khi xem xét đánh giá về vấn đề nhân thân người phạm tội Hội đồng xét xử phải xem xét một cách khách quan, toàn diện và hết sức cẩn trọng, công tâm phải đặt trong một bối cảnh cụ thể và dựa trên đường lối chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước, có như vậy mới đưa ra một phán quyết hợp tình, hợp lý và chính xác cao. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật Tại Điều 60 Bộ luật hình sự quy định về chế định án treo thì điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo như sau:
  • 44. 44 Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo trong đó có quy định về các tình tiết giảm nhẹ như sau: Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây: a. ... d. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự [37]. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là những yếu tố làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng ít nghiêm trọng hơn. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong một vụ án cụ thể và đối với người phạm tội cụ thể chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong vụ án đó và cũng chỉ làm cho tội phạm thay đổi mức độ nguy hiểm trong phạm vi một cấu thành chứ không làm thay đổi tính chất của tội phạm ấy [18, tr. 236]. Các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn chi tiết về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 46 quy định các tình tiết sau đây được coi là tình tiết giảm nhẹ khác:
  • 45. 45 Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt nam anh hùng, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước; - Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sĩ; - Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; - Người bị hại cũng có lỗi; - Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; - Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; - Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về mặt sức khỏe của người bị hại, gây thiệt hại về mặt tài sản; - Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu; - Ngoài ra khi xét xử, tùy từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án [32, tr. 21]. Như vậy theo các quy định của Bộ luật hình sự cũng như các hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì những tình tiết giảm nhẹ được quy định mở hơn, có tính chất tùy nghi hơn phụ thuộc vào trường hợp cụ thể của người phạm tội để có thể xem xét cho rằng đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, song theo tác giả thì việc cho phép tùy nghi trong
  • 46. 46 trường hợp này cũng cần phải hết sức chặt chẽ tránh sự lạm dụng, tùy tiện theo tư tưởng chủ quan của Hội đồng xét xử. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là những yếu tố làm thay đổi mức độ của hành vi phạm tội theo hướng nghiêm trọng hơn, được quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Những tình tiết được quy định từ điểm a đến điểm o khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự mới được coi là tình tiết tăng nặng, khi xét xử không được phép tùy tiện coi các tình tiết khác là tình tiết tăng nặng làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Một vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng đó là tất cả các tình tiết này đã là tình tiết định khung hay định tội thì không được áp dụng làm tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nữa. Trên cơ sở các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định việc có cho phép người bị kết án được hưởng chế định án treo hay không phải đảm bảo nguyên tắc là không có tình tiết tăng nặng và có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cũng cần chú ý đến những tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ nữa. Trong trường hợp người bị kết án vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì tại Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn trong trường hợp nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Theo quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự quy định về chế định án treo thì điều kiện cho người bị kết án được hưởng chế định án treo ghi: ..., nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo ...