1 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HẢI PHÒNG -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄn
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
Công trình được hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. Nguyễn Ngọc Chí
Phản biện 1: Trịnh Quốc Toản
Phản biện 2: Nguyễn Văn Tuân
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012.
Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM
VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI
ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
6
1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và vai
trò của Viện kiểm sát
6
1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6
1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
8
1.2. Khái niệm chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
9
1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm
9
1.2.2. Khái niệm nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm
15
1.3. Nội dung của chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
16
1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố 16
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật 31
1.4. Lịch sử hình thành chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát ở
Việt Nam
36
1.4.1. Quá trình phát triển 36
1.4.2. Cơ quan Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới 40
4
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
44
2.1. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
44
2.1.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
44
2.1.2. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng
51
2.2. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng
78
2.2.1. Những tồn tại 78
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 84
Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP 87
3.1. Cơ sở của những kiến nghị, đề xuất đối với Viện kiểm sát khi
thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
87
3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng
87
3.1.2. Các định hướng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
92
3.2. Các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
96
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 96
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
105
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
5
PHỤ LỤC 127
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCA : Bộ Công an
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CQCSĐT : Cơ quan cảnh sát điều tra
CQĐT : Cơ quan điều tra
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV Điều tra viên
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐXX : Hội đồng xét xử
HTND : Hội thẩm nhân dân
KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp
KSV : Kiểm sát viên
KSXX : Kiểm sát xét xử
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân Tối Cao
THQCT : Thực hành quyền công tố
TTLT : Thông tư liên tịch
UBND : Ủy ban nhân dân
UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VKS : Viện kiểm sát
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VKSNDTP : Viện kiểm sát nhân dân thành phố
6
VKSQSTW : Viện kiểm sát quân sự Trung ương
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
7
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng
tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña
riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o
®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung
thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè
trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ TuyÕt Nhung
8
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
hiện nay để tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam. Chủ trương này đã được thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết
của Đảng. Theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định:
Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoạt động tư
pháp. Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án
và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai
phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh
tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác... tổ chức sắp xếp lại các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân các
cấp để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp... [8].
Và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ bên cạnh việc cải cách, sửa đổi hệ
thống pháp luật của nước ta, cần phải:
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Tòa án....Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử,
xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân
chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét
xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... [9].
10
Từ những quy định trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú
trọng đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Để hoạt động xét xử của Tòa án
được tiến hành có hiệu quả và đạt hiệu lực cao; đảm bảo việc xét xử khách quan,
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân thì VKS có vai trò rất quan trọng.
Theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
các vụ án hình sự, VKSND có chức năng, nhiệm vụ cụ thể là: kiểm sát hoạt động
chấp hành pháp luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử, thủ tục xét xử của Tòa án các
cấp, việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, việc ra
các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; việc áp dụng, thay đổi
biện pháp ngăn chặn của Tòa án; kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng về thành
phần Hội đồng xét xử (HĐXX) và những người tham gia phiên tòa; kiểm sát việc
xét xử của tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tòa... kiểm sát việc
tuyên án của HĐXX; sau kết thúc phiên tòa, Viện kiểm sát (VKS) còn kiểm tra biên
bản phiên tòa, giám sát việc ra bản án của Tòa án để thực hiện việc kháng nghị phúc
thẩm đối với bản án sơ thẩm Tòa án đã tuyên. Bên cạnh chức năng Kiểm sát hoạt
động tư pháp (KSHĐTP), VKS còn thực hiện chức năng công tố như: đọc cáo
trạng, các quyết định rút truy tố (nếu có), tham gia xét hỏi cùng HĐXX để làm sáng
tỏ các tình tiết của vụ án, luận tội đối với bị cáo, tranh tụng với người bào chữa, bị
cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Những năm gần đây, chất lượng thực hành quyền công tố (THQCT) và
KSHĐTP của VKS đã được nâng lên: chất lượng cáo trạng, chất lượng luận tội,
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa đã dần dần khắc phục
được những hạn chế trước đây đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Thông qua chức năng THQCT và KSHĐTP, VKS đã góp phần giúp Tòa án tuyên
những bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc
oan sai, bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế chưa đáp ứng
được yêu cầu của cải cách tư pháp đặc biệt là hoạt động tranh luận của KSV tại
11
phiên tòa đã ảnh hưởng đến chất lượng THQCT của VKS trong đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn để xảy ra tình trạng oan, sai,
bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Việc thực hiện các quy định pháp luật hình sự và
tố tụng hình sự chưa nghiêm, áp dụng pháp luật còn tùy tiện nên tình trạng trả hồ sơ
để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) vẫn xảy ra nhiều.
Văn hóa pháp lí chưa đúng chuẩn mực, chưa đảm bảo quyền con người trong hoạt
động xét xử...
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKS
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cần thiết trong lộ trình cải cách tư
pháp hiện nay. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những hạn chế,
thiếu sót từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp khắc phục để nâng cao chất
lượng THQCT và Kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm các vụ án hình sự. Thông qua
đó, giúp cho VKS ngày một nâng cao hơn nữa vị thế của mình trong hệ thống các
cơ quan bảo vệ pháp luật và trong hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo
vệ quyền con người. Vì vậy, em chọn đề tài: "Chức năng, nhiệm vụ của Viển kiểm
sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Bàn đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, có nhiều bài viết
liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn
xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng như: "Kỹ năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự"- TS. Nguyễn Văn
Huyên, Học viện tư pháp. Trong ngành kiểm sát cũng có một số chuyên đề nghiên
cứu về vấn đề này: chuyên đề "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự" của Vụ THQCT và KSXX án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); và một số chuyên đề nghiên cứu về một số
hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử: "Nâng hiệu quả công tác kiểm sát án
hình sự, hạn chế thấp nhất việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội năm 2008" của
VKSNDTC. Tại Hải Phòng cũng đã có một số chuyên đề liên quan đến hoạt động
12
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS ở giai đoạn xét xử: Chuyên đề "Nâng cao
chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết
49", chuyên đề: "Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự",
chuyên đề: "Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp", chuyên đề "tổ chức các
phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của
Kiểm sát viên"... Các chuyên đề này chủ yếu đề cập đến một trong những hoạt động
thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND chưa mang tính khái quát,
chuyên sâu về mặt lý luận.
Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Trên cơ sở thực tiễn của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố (VKSNDTP) Hải Phòng từ năm 2004 - 2011, Luận văn tiến
hành phân tích, đánh giá việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTP Hải
Phòng tìm ra các hạn chế, thiếu sót từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời gian tới. Qua đó, góp
phần nâng cao uy tín, vị thế của ngành kiểm sát nhân dân trong hoạt động giữ gìn
trật tự kỉ cương của pháp luật và bảo về quyền con người tại Hải Phòng.
3. Mục tiêu của luận văn
Luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận, đánh giá những thành
tựu đã đạt được, chỉ ra những vướng mắc và các yêu cầu của thực tiễn đối với công tác
THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP
Hải Phòng, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác này
trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đồng thời nhằm nâng cao uy tín,
vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp trong quá
trình đấu tranh, phòng, chống tội phạm; bảo vệ quyền và tự do của con người.
4. Nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số lý luận về chức năng, nhiệm vụ của
VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
13
- Tổng kết, phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động THQCT
và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải
Phòng từ năm 2004 - 2011.
- Đề xuất các phương hướng, xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn
chế của VKS trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất
lượng của hoạt động này trong thời gian tới đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của
ngành kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chức năng, nhiệm vụ của
VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật
hiện hành. Trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và
KSHĐTP của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 đến năm 2011.
- Trong phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ đề cập đến hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sở thẩm vụ án hình sự, cụ
thể là VKSNDTP Hải Phòng, không đề cập đến hoạt động của VKS quân sự.
6. Phương pháp tiếp cận vấn đề
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng cho
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
- Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu,
thông tin; thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và dự báo tình hình....
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội
dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng.
Chương 3: Những kiến nghị, đề xuất, giải pháp.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được
chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, làm oan người vô tội đồng
thời bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, BLTTHS nước ta quy định
trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, thi hành án.
Theo GS.TSKH Lê Cảm:
Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của quá trình tố tụng
hình sự, tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp
hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực
hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm
kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan,
có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp
luật, bảo vệ vững chắc các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực
tư pháp hình sự [2].
Mỗi giai đoạn tố tụng do những cơ quan tố tụng có thẩm quyền thực hiện.
Các giai đoạn của hoạt động tố tụng độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ
khăng khít với nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau tạo thành một hệ
thống hoạt động thống nhất. Những giai đoạn này có những nhiệm vụ và định
hướng khác nhau nhưng đều hướng tới một mục đích giải quyết vụ án khách quan,
toàn diện, đúng quy định của pháp luật.
15
Xét xử là chức năng của Tòa án, Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9
BLTTHS quy định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật" [34]. Kết quả xét xử của Tòa án là phán quyết cuối cùng
đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở duy nhất để xác định một
người có bị coi là có tội hay không. Do đó, xét xử là giai đoạn trung tâm và quan
trọng trong việc tăng cường pháp chế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bởi những lý do sau:
Thứ nhất, các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra
(CQĐT) trong giai đoạn điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và hành vi của
người phạm tội phục vụ cho việc xét xử. Thông qua hồ sơ vụ án do CQĐT thiết lập,
Tòa án kiểm tra tính xác thực của chứng cứ mà CQĐT thu thập được để từ đó đưa ra
những phán quyết về tội phạm và người phạm tội. Tại phiên tòa, chứng cứ được đưa
ra xem xét, đánh giá một cách chính thức và chỉ những chứng cứ nào được đưa ra
xem xét tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ chứng minh tội phạm mới là cơ sở
để HĐXX đưa ra các quyết định của mình. Vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ,
nhân danh Nhà nước ra bản án của HĐXX được xem là hoạt động điều tra chính thức
tại phiên tòa.
Thứ hai, quyết định truy tố của VKS chỉ là cơ sở để Tòa án quyết định đưa
vụ án ra xét xử còn việc phán quyết về sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo thuộc
chức năng của Tòa án. Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS quy định: "Tòa án chỉ
xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố..." [34]. Vì vậy,
có thể nói hoạt động truy tố của VKS hướng tới việc tạo căn cứ, giới hạn cho hoạt
động xét xử của Tòa án.
Thứ ba, bản án và quyết định của Tòa án là căn cứ pháp lý để tiến hành hoạt
động thi hành án, biến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của
các CQTHTT phát huy tác dụng trên thực tế.
Thứ tư, theo nguyên nghĩa, quyền tư pháp gắn liền với hoạt xét xử của Tòa
án, nên ở các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp... coi Tòa án là cơ quan đại diện
cho quyền tư pháp và hoạt động xét xử là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự.
16
Theo quy định tại Điều 20 BLTTHS quy định: "Tòa án thực hiện chế độ hai
cấp xét xử" [34], trong đó xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng, đây
là giai đoạn đầu tiên của Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét xử và tuyên một người
có bị coi là có tội hay không. Các quyết định, phán quyết của Tóa án cấp sơ thẩm là
những điều kiện, cơ sở để Tóa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án chưa có hiệu
lực pháp luật hoặc là căn cứ để Tóa án cấp trên xét lại bản án có hiệu lực pháp luật
của Tòa án cấp dưới theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Song hành với nhiệm vụ xét xử của tòa án là nhiệm vụ THQCT và KSXX
vụ án hình sự của VKS. Với tư cách là CQTHTT, VKS có trách nhiệm phối hợp
cùng Tòa án áp dụng nghiêm minh, thống nhất các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự và pháp luật hình sự để góp phần cùng Tòa án đưa ra bản án khách quan,
toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời góp phần
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo vệ pháp chế XHCN.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKS có những vai trò sau:
- Bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp
luật, không bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Việc truy tố của VKS phải dựa
trên cơ sở kết quả điều tra của CQĐT trong suốt quá trình điều tra và kết quả điều
tra công khai tại phiên tòa của HĐXX. Từ đó, VKS đưa ra sự buộc tội chính thức và
cuối cùng đối với người phạm tội.
- Bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ, công khai. Trách
nhiệm của VKS là phải đối đáp lại các ý kiến của những người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự công khai tại tòa. Khi tranh luận các bên có
quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau. Chỉ tranh luận những vấn đề liên quan đến
vụ án. Những nội dung đưa ra tranh luận đều phải được đối đáp lại.
- Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham
gia tố tụng khác. BLTTHS quy định quyền và nghĩa vụ của từng tư cách tham gia tố
17
tụng, trách nhiệm của VKS là bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ của những người
tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ.
- Bảo đảm cho việc tuân thủ và áp dụng pháp luật thống nhất. Hiện nay,
giữa lý luận và thực tiễn còn nhiều nhận thức khác nhau một số quy định pháp luật.
Kể cả trong chính những người làm thực tiễn cũng có nhiều quan điểm, nhận thức
khác nhau. Do đó, trách nhiệm của các CQTHTT nói chung và VKS nói riêng là rất
quan trọng trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.
- Bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi đúng quy
định pháp luật. Nếu các bản án, phán quyết của Tòa án không được đưa ra thi hành
thì cũng chỉ là các quyết định giấy. Việc thực hiện các quyết định đó như thế nào,
trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan hữu quan đến đâu, phải được đặt dưới sự
giám sát của cơ quan VKS.
1.2. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Vai trò của VKS được thể hiện cụ thể trong việc thực hiện chức năng nhiệm
vụ của mình đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Đề cập đến "chức năng" của một cơ quan là nói đến những mặt, những
phương diện hoạt động có tính chất cơ bản, tương đối ổn định. Theo từ điển Tiếng
Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2001 thuật ngữ "chức năng" theo từ điển định nghĩa
"là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan…" [90, tr. 191].
Theo từ điển Luật học và giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật
của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, định nghĩa:
Chức năng của nhà nước là hoạt động nhà nước cơ bản nhất,
mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản
chất, cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà
nước và có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước...
Chức năng của Nhà nước là hoạt động chủ yếu của bộ máy nhà nước mà
18
tất cả các cơ quan nhà nước đều tham gia thực hiện với mức độ, phạm vi
nhất định xuất phát từ vị trí, vai trò, thẩm quyền của mình [19], [46].
Theo đó, chức năng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là những hoạt
động chủ yếu thường xuyên có tính ổn định tương đối, trực tiếp thể hiện bản chất, nhiệm
vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài của nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước thì bản thân mỗi cơ quan nhà
nước phải thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, cần phân biệt khái niệm "chức
năng của cơ quan nhà nước" với "chức năng của nhà nước". Theo giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật định nghĩa: "chức năng của Cơ quan
nhà nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng
cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước" [19].
Với tư cách là Cơ quan nhà nước nằm trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam, VKSND cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng của mình.
Theo quy định tại điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi): "Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [31]. Cụ thể hóa quy định
này, điều 23 BLTTHS quy định:
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự,
quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, có trách nhiệm phát
hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những
biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của
những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo
mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [34].
19
Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật" [33, Điều 1]. "Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình
sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [33, Điều 16].
Những quy định trên cho thấy, VKSND có hai chức năng là THQCT và
KSHĐTP. VKS phối hợp cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng khác giúp đỡ lẫn
nhau để thực hiện tốt các nhiệm vụ chung mà Nhà nước đặt ra đối với ngành tư pháp
nói riêng và với cơ quan nhà nước nói chung là bảo vệ những cơ sở của chế độ Hiến
định, nhân thân, cũng như các quyền và tự do của con người và của công dân, đồng
thời bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh của
nhân loại trong khu vực và trên toàn thế giới.
Hiện nay, các nhà luật học có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố
và THQCT. Trong đó, có quan điểm cho rằng: quyền công tố của VKS được tiến
hành tại Tòa án thể hiện bằng quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án thông qua
Cáo trạng, bằng việc đọc Cáo trạng tại phiên tòa, bằng lời buộc tội của KSV khi
tranh luận và đề nghị kết tội với mức và loại hình phạt nhất định. Theo TS Lê Hữu
Thể thì:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực
hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền
này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Để làm
được điều này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu
thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội.
Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự
buộc tội đó trước phiên tòa [38].
Theo đó, phạm vi của quyền công tố trong giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi
VKS chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng truy tố bị can về tội danh cụ
20
thể đến Tòa án để xét xử và kết thúc khi bản án đã tuyên của Tòa án có hiệu lực
pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị.
Trong quá trình đấu tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, Nhà nước ta đã trao
quyền công tố cho Cơ quan duy nhất là VKS. Theo đó, VKS sử dụng tất cả các quyền
năng được nhà nước trao cho thông qua hệ thống các văn bản pháp luật quy định cụ thể
về chức năng, nhiệm vụ… để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Như
vậy, có thể hiểu THQCT là việc cơ quan VKS thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp
lý được nhà nước trao cho để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó.
Từ định nghĩa trên cho thấy hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử có
những đặc điểm:
Thứ nhất, THQCT do VKS thực hiện, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà
nước và có tính mục đích: mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời,
không để lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan người vô tội; việc điều tra, truy tố,
xét xử phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác.
Thứ hai, THQCT là những hoạt động do VKS tiến hành với những nội dung
cơ bản như: ban hành cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử về tội danh cụ
thể được quy định trong BLHS; tham gia xét hỏi làm rõ hành vi phạm tội và những
tình tiết khác của vụ án; luận tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội theo
toàn bộ hoặc một phần nội dung đã truy tố; tranh luận với người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác; kháng nghị bản án của tòa án khi áp dụng sai pháp luật
hoặc áp dụng hình phạt chưa tương xứng với tính chất và mức độ của tội phạm.
Bên cạnh khái niệm THQCT, khái niệm KSHĐTP cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau. Có một số khái niệm rất gần với khái niệm này như: kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự, KSHĐTP trong tố tụng hình sự... Vậy, thế nào
là hoạt động tư pháp? Có quan điểm cho rằng hoạt động tư pháp chính là hoạt động
xét xử của Tòa án trong việc thực hiện nhánh quyền tư pháp. Ý kiến khác cho rằng
hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động của các cơ quan, tổ
chức của nhà nước trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa
21
án. Theo đó, Tòa án sử dụng các kết quả của quá trình điều tra, truy tố, bào chữa,
giám định tư pháp…một cách công khai và áp dụng các thủ tục tố tụng để nhân
danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng. Theo TS.Trần Văn Nam "hoạt động tư
pháp là những hoạt động chủ yếu do các cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố
tụng nhằm mục đích là giải quyết các vụ việc một cách đúng đắn, khách quan" [25].
Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì: "Hoạt động tư pháp là tập hợp những việc làm
cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng trực tiếp liên quan và hướng tới
mục đích giải quyết các vụ án một cách khách quan" [14].
Do vậy, hoạt động tư pháp cần được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực
nhà nước của các Cơ quan tư pháp gồm CQTHTT (CQĐT, VKS, Tòa án), cơ quan thi
hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa
án, được quy định trong tố tụng và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết vụ án.
Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của các CQTHTT thực hiện,
mang tính quyền lực nhà nước, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và trực
tiếp liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, trong quá trình THQCT, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật tức là kiểm tra, giám sát các CQTHTT, những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng trong việc áp dụng và chấp hành pháp luật. Nếu phát
hiện vi phạm tùy từng trường hợp cụ thể sẽ có biện pháp xử lý để khắc phục kịp thời
nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình thực thi pháp luật.
Trong giới luật học hiện nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm KSHĐTP. Có quan điểm cho rằng: KSHĐTP chỉ bao gồm các hoạt động tố
tụng như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Có quan điểm khác cho rằng:
KSHĐTP còn bao gồm cả các hoạt động bổ trợ tư pháp hoặc là một dạng của giám
sát nhà nước về tư pháp… Theo TS Trần Văn Nam: "KSHĐTP là hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS đối với các tổ chức và cá nhân trong hoạt động
tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [25].
Theo em, KSHĐTP cần được hiểu: là hoạt động giám sát việc tuân theo
pháp luật của duy nhất cơ quan VKS đối với các CQTHTT, tổ chức, cá nhân trong
22
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án trong lĩnh vực hình sự và các lĩnh
vực dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động nhằm đảm bảo cho pháp
luật được nghiêm chỉnh chấp hành và áp dụng thống nhất.
Từ khái niệm trên có thể hiểu: KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự là tổng thể những hoạt động giám sát của VKS đối với Tòa án, tổ chức,
cá nhân trong quá trình đưa vụ án ra xét xử để tuyên một người là có tội nhằm đảm
bảo cho việc thực thi, áp dụng pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Từ những phân tích trên cho thấy, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có những đặc điểm:
Thứ nhất, hoạt động KSHĐTP là do VKS tiến hành nên nó mang tính
quyền lực nhà nước.
Thứ hai, hoạt động KSHĐTP được thực hiện trong tố tụng hình sự và do
BLTTHS điều chỉnh.
Thứ ba, hoạt động KSHĐTP là do VKS tiến hành trực tiếp liên quan đến
hoạt động giải quyết vụ án và có mục đích như: kiểm sát việc chấp hành, áp dụng
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án về thu thập chứng cứ, xác định tội danh,
điều khoản áp dụng, loại và mức hình phạt áp dụng… nhằm đảm bảo việc giải quyết
vụ án một cách khách quan, toàn diện đảm bảo cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Như vậy, VKS là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
VKS là cơ quan được nhà nước giao cho quyền năng đặc biệt là kiểm sát hoạt động
của các cơ quan tư pháp khác và THQCT. Đây là hai chức năng độc lập nhưng có
mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau đều nhằm mục
đích đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ đúng, đầy đủ các trình tự,
thủ tục được quy định của pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo việc xét xử khách
quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa chức năng KSHĐTP của
VKS với chức năng giám sát của Quốc hội. Đối với chức năng giám sát hoạt động
23
tư pháp của Quốc hội chỉ diễn ra trong các kỳ họp của Quốc hội còn chức năng
KSHĐTP của VKS lại diễn ra theo hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật hàng
ngày của các cơ quan tư pháp. Chức năng giám sát của VKS cũng khác với chức
năng của cơ quan Thanh tra. Chức năng giám sát của VKS áp dụng đối với các cơ
quan tư pháp và liên quan đến hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp còn chức
năng của cơ quan Thanh tra với tư cách là cơ quan giúp việc cho Chính phủ và
UBND các cấp nên hoạt động của Thanh tra chỉ liên quan đến hoạt động chỉ đạo
điều hành trong lĩnh vực hành pháp.
1.2.2. Khái niệm nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2001 thì nhiệm vụ
được hiểu là: "Công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất
định" [90, tr. 718].
Như vậy, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói
riêng được hiểu là những hoạt động cụ thể của từng cơ quan đó, trong một thời gian
nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện
nhiệm vụ chung của cả bộ máy nhà nước là bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật chống
mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do đó, có thể hiểu: nhiệm vụ của Viện kiểm
sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là những hoạt động cụ thể của
Viện kiểm sát từ khi Tòa án thụ lý xét xử cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật
không bị kháng cáo, kháng nghị nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Luật tổ chức VKSND năm 2002
quy định cụ thể những nhiệm vụ THQCT, KSHĐTP của VKS như: đọc cáo trạng,
luận tội đối với bị cáo, tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác... (Điều 17); kiểm sát hoạt động xét xử của TAND, những người tham gia
tố tụng... (Điều 18); kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,
24
kiến nghị với TAND và các cơ quan hữu quan, khởi tố vụ án hình sự nếu có dấu hiệu
tội phạm... (Điều 19).
1.3. NỘI DUNG CỦA CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố
1.3.1.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử
Cùng với việc tiến hành các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự KSV tiến hành các
nhiệm vụ THQCT như: xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, gặp bị can, bị cáo; thay
đổi nội dung truy tố, rút quyết định truy tố, giải quyết việc trả hồ sơ điều tra bổ
sung, lập kế hoạch xét hỏi tại phiên tòa, xây dựng dự thảo luận tội.
- Hoạt động xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm hoặc
địa điểm khác liên quan đến vụ án: Đối với những vụ án phức tạp, việc đánh giá
chứng cứ trên các vật chứng không thể nhìn qua bản ảnh hoặc do lỗi kỹ thuật ảnh
chụp không được nét hoặc vì lý do nào đó xét thấy cần thiết (ví dụ phát hiện thấy
thiếu sót, sơ suất của Điều tra viên (ĐTV) hoặc của chính KSV trong quá trình
khám nghiệm hiện trường vụ án...) thì KSV phải chủ động đến tận nơi lưu giữ vật
chứng để xem xét kỹ lưỡng các dấu vết để yên tâm bảo vệ quan điểm truy tố tại tòa
hoặc chủ động tìm những phương án xử lý những tình huống phát sinh tại phiên tòa,
hoặc kịp thời bổ sung những tài liệu cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Những vật chứng này thường là các phương tiện tham gia giao thông hoặc các dấu
vết trên hiện trường các vụ cháy, nổ... Khi tiến hành các hoạt động này, KSV phải
lập biên bản ghi rõ phục vụ cho hoạt động THQCT tại phiên tòa và lưu vào hồ sơ
kiểm sát.
- Hoạt động gặp bị can, bị cáo trước khi xét xử. Theo quy định của Quy chế
nghiệp vụ THQCT và KSXX hình sự thì trong các trường hợp vụ án có bị cáo là
người chưa thành niên; bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có thể xử phạt mức
án tù chung thân hoặc tử hình; bị cáo kêu oan, không nhận tội thì KSV có quyền
25
gặp gỡ, hỏi, ghi lời khai đối với các bị cáo này. Hoạt động này cũng phải lập biên
bản, ghi rõ lý do phục vụ cho hoạt động THQCT tại tòa.
- Thay đổi nội dung truy tố hoặc rút quyết định truy tố. Sau khi chuyển hồ
sơ vụ án sang Tòa án, để chuẩn bị tham gia phiên tòa KSV tiến hành nghiên cứu lại
toàn bộ hồ sơ vụ án phát hiện thấy việc truy tố của VKS chưa chính xác (ví dụ: xác
định tái phạm, tái phạm nguy hiểm...chưa chính xác dẫn đến khung khoản truy tố chưa
chính xác); hoặc sau khi bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ thuộc các trường hợp nêu
trên KSV thấy việc truy tố của VKS không khách quan, chưa chính xác, chưa đúng
thì báo cáo lãnh đạo viện về việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa.
Theo quy định tại điều 181 BLTTHS; điều 25, khoản 2 điều 69 BLHS thì
trong các trường hợp sau VKS rút quyết định truy tố:
 Không có sự việc phạm tội.
 Hành vi không cấu thành tội phạm.
 Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
 Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ
vụ án có hiệu lực pháp luật.
 Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: 5 năm đối với tội ít
nghiêm trọng, 10 năm đối với tội nghiêm trọng, 15 năm đối với tội rất nghiêm
trọng, 20 năm đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
 Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp tái
thẩm đối với người khác.
 Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự: tự ý nửa chừng chấm dứt
hành vi phạm tội; do chuyển biến của tình hình vào thời điểm điều tra, truy tố, xét
xử hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội tự thú trước khi bị
phát giác, thành khẩn khai báo, phạm tội ít nghiêm trọng, hạn chế đến mức thấp
nhất hậu quả tội phạm xảy ra xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm
hình sự; người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
26
nhiều tình tiết giảm nhẹ đã được gia đình và tổ chức nhận giáo dục, không cần phải
truy cứu trách nhiệm hình sự với họ.
- Hoạt động giải quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung: khi nhận
được quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, VKS tiến hành xem xét các
căn cứ được quy định tại điều 179 BLTTHS đó là: cần xem xét thêm các chứng cứ
quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại tòa được; có căn cứ cho rằng bị
cáo phạm tội khác hoặc có động phạm khác; phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng. Trước đây, chưa có thông tư hướng dẫn việc đánh giá căn cứ trả hồ sơ
điều tra bổ sung giữa các CQTHTT còn có nhiều quan điểm khác nhau về xác định
"chứng cứ quan trọng không thể bổ sung tại tòa được" nhưng từ sau khi có Thông tư
liên tịch số 01/2010/TTLT- VKSNDTC- Bộ công an (BCA)- Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC) thì không còn sự tranh cãi về vấn đề này nữa. Trong hoạt động giải
quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, VKS cần
lưu ý trường hợp "có người phạm tội mới". Tòa án chỉ được trả lại hồ sơ cho VKS
khi "người phạm tội mới" có dấu hiệu đồng phạm với bị cáo đã truy tố. Nếu không
có dấu hiệu của đồng phạm thì Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử và HĐXX
sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án.
- Hoạt động lập kế hoạch xét hỏi và xây dựng dự thảo luận tội: Việc xây
dựng kế hoạch xét hỏi nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi tại phiên tòa của KSV được
toàn diện, đầy đủ, hỏi có trọng tâm, không bỏ sót những vấn đề cần xét hỏi, không
hỏi lan man, vô nghĩa. Chuẩn bị đề cương xét hỏi kỹ lưỡng, cẩn thận, chu đáo, tỉ mỉ,
dự kiến các tình huống phát sinh tại phiên tòa và các phương án xử lý. Xây dựng dự
thảo luận tội sát với nội dung vụ án và diễn biến phiên tòa sẽ giúp KSV tự tin hơn
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.3.1.2. Truy tố bị can ra trước Tòa án
Truy tố bị can ra trước Tòa án là quyền năng pháp lý Nhà nước trao cho duy
nhất cơ quan VKS. Để thực hiện quyền năng này, VKS ban hành bản Cáo trạng để
thông qua đó thể hiện quan điểm buộc tội của mình đối với người phạm tội và quan
điểm giải quyết vụ án. Cáo trạng chính là hình thức thể hiện quyền công tố của VKS.
27
Cáo trạng là văn bản pháp lý thể hiện kết quả của quá trình điều tra, trong
đó thể hiện toàn bộ các chứng cứ buộc tội đối với người phạm tội, quan điểm đánh
giá chứng cứ, quan điểm xác định tội danh và quan điểm giải quyết vụ án. Cáo trạng
là văn bản pháp lý tố tụng hình sự do vậy phải tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định
về trình tự thủ tục, thẩm quyền ban hành cũng như nội dung, bố cục của Cáo trạng
theo quy định tại điều 167 BLTTHS. Như vậy, có thể hiểu Cáo trạng là văn bản
pháp lý do Cơ quan duy nhất là VKS được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chức
năng THQCT ban hành, thực hiện quyền buộc tội và truy tố bị can ra trước Tòa án
để xét xử về tội danh và điều luật được quy định trong BLHS.
Xuất phát từ khái niệm trên, có thể thấy Cáo trạng có những đặc trưng như sau:
- Mang tính quyền lực nhà nước: Cáo trạng là văn bản thể hiện quyền công
tố của VKS, chỉ có duy nhất VKS mới có quyền ban hành. Cáo trạng thể hiện sự
buộc tội của VKS đối với người phạm tội về tội danh theo điều luật cụ thể được quy
định trong BLHS. Trên cơ sở cáo trạng, Tòa án tiến hành xét xử theo những tội
danh và những nội dung mà cáo trạng đã truy tố đối với người phạm tội.
- Mang tính có căn cứ và đúng pháp luật: để có thể ban hành được bản cáo
trạng, VKS phải dựa trên kết quả của quá trình điều tra. Theo đó, CQĐT đã tiến
hành thu thập đầy đủ các chứng cứ buộc tội đối với người phạm tội theo những
trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Trong phạm vi, thẩm quyền của mình VKS
có thể tiến hành những biện pháp thu thập chứng cứ để làm rõ hơn và củng cố thêm
các tài liệu chứng cứ do CQĐT đã thu thập để làm căn cứ cho việc truy tố của mình
đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
- Việc truy tố phải đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước, đáp ứng được yêu cầu và các đòi hỏi của nhân dân: các đường lối
chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Trước
mỗi hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhân dân đều mong muốn các CQTHTT
tiến hành xử lý nghiêm minh, trừng trị nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng
ngừa chung để đáp ứng nhiệm vụ chính trị địa phương nhằm duy trì trật tự trị an
trên địa bàn dân cư.
28
- Ngôn ngữ sử dụng trong cáo trạng phải là ngôn ngữ phổ thông, ngôn từ
pháp lý có chọn lọc: lập luận trong cáo trạng phải sắc bén, chặt chẽ, có tính thuyết
phục cao, hình thức của cáo trạng phải được ban hành theo mẫu thống nhất do
VKSNDTC ban hành, không được tùy tiện sửa chữa, thay đổi.
Về nội dung cáo trạng gồm bốn phần: phần viện dẫn căn cứ pháp lý xác định
việc truy tố của VKS, phần mô tả hành vi của bị can, phần kết luận và phần quyết định:
- Phần viện dẫn căn cứ pháp lý: sau phần cơ quan ban hành, tiêu ngữ, tên
văn bản là phần nêu thẩm quyền của người ban hành cáo trạng là Viện trưởng
VKSND các cấp. Sau đó là phần nêu các căn cứ như quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can, tạm đình chỉ, phục hồi điều tra vụ án, quyết định nhập vụ án... đối với bị
can cụ thể theo tội danh, điều luật cụ thể...
- Phần mô tả hành vi của bị can: đây là phần trọng tâm của Cáo trạng. Sau
phần viện dẫn căn cứ pháp lý trên là câu chuyển tiếp "trên cơ sở kết quả cuộc điều
tra đã xác định được như sau" và trình bày toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội của
bị can. Tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể, tùy từng loại tội danh mà phần mô tả
hành vi phạm tội của bị can có thể tùy KSV lựa chọn cách thức diễn tả cho phù hợp,
có thể bằng cách diễn giải, cũng có thể bằng cách quy nạp, tổng hợp. Ví dụ: đối với
những vụ án bắt người có hành vi phạm tội quả tang thì thông thường các KSV lựa
chọn cách viết diễn giải; đối với những hành vi phạm tội không thuộc trường hợp
quả tang mà là án truy xét, án có đông bị can hoặc bị can phạm nhiều tội khác nhau
hoặc trường hợp phục hồi điều tra thì các KSV hay lựa chọn cách viết quy nạp để
giúp người đọc, người nghe dễ nắm bắt nội dung vụ án để tạo điều kiện cho việc
xác định hướng nghiên cứu cũng như dễ sắp xếp liệt kê chứng cứ trong hồ sơ vụ án.
Nội dung phần này bao gồm: thời gian, không gian, địa điểm, cách thức thực hiện,
phương thức, thủ đoạn, động cơ, mục đích của tội phạm... tiếp đó là phần viện dẫn
các chứng cứ: lời khai, biên bản khám nghiệm hiện trường, tử thi, các bản kết luận
giám định... cuối phần mô tả hành vi là phần đánh giá của VKS về các dấu hiệu đặc
trưng cấu thành cơ bản của tội danh truy tố, khối lượng buộc tội...
29
- Phần kết luận: Chuyển tiếp giữa phần mô tả hành vi và phần kết luận và
câu "căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên". Phần này tiến hành nêu toàn bộ
nhân thân bị can, nếu vụ án có nhiều bị can thì các bị can được sắp xếp vị trí theo
tính nguy hiểm cho xã hội từ cao đến thấp; nêu tội danh, điều khoản, mức hình phạt
sẽ áp dụng đối với bị can; nêu các vấn đề dân sự, vật chứng và các vấn đề khác liên
quan đến vụ án...
- Phần quyết định: Chuyển tiếp với phần kết luận là câu "vì các lẽ trên". Tại
phần này, nêu rõ việc truy tố ra trước tòa án để xét xử đối với bị can theo tội danh
điều khoản cụ thể đã phân tích, viện dẫn ở trên.
Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV THQCT đọc Cáo trạng truy tố bị can ra trước
Tòa án để Tòa án tiến hành xét xử bị cáo về hành vi phạm tội theo tội danh và điều
khoản mà VKS đã truy tố. Thông thường KSV công bố bản Cáo trạng đã được
chuyển cùng hồ sơ vụ án. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt, khi có sự thay
đổi về nhận thức, đánh giá chứng cứ hoặc trên cơ sở những phát sinh mới trong quá
trình chuẩn bị xét xử KSV có thể công bố những văn bản bổ sung cáo trạng như: truy
tố bổ sung thêm tội danh, thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thay đổi
khoản áp dụng đối với bị cáo, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố đối với bị
cáo… Các trường hợp và căn cứ rút quyết định truy tố ở giai đoạn chuẩn bị xét xử đã
trình bày ở trên. Tại mục này chỉ đề cập đến các trường hợp rút một phần quyết định
truy tố ngay sau khi KSV công bố Cáo trạng và trong khi Luận tội.
Về trình tự thủ tục rút quyết định truy tố: nếu ở giai đoạn chuẩn bị xét xử
hoặc ở thời điểm ngay sau khi công bố Cáo trạng thì KSV phải báo cáo Lãnh đạo
VKS xem xét quyết định. Còn tại phiên tòa, sau khi xét hỏi thấy không đủ căn cứ để
truy tố bị cáo về tội danh đã truy tố thì KSV có quyền đề nghị HĐXX hoãn phiên
tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung, sau đó báo cáo Lãnh đạo VKS quyết định; nếu
thấy không đủ căn cứ để truy tố bị cáo về toàn bộ hành vi phạm tội đã truy tố thì
KSV phải rút một phần hoặc có căn cứ truy tố bị cáo về tội danh nhẹ hơn thì trong
khi luận tội KSV tự quyết định và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKS về
quyết định của mình.
30
1.3.1.3. Tham gia xét hỏi bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
Xét hỏi là cách điều tra chủ yếu tại phiên tòa sơ thẩm, theo đó, những người
tiến hành tố tụng đặt các câu hỏi buộc bị cáo và những người tham gia tố tụng phải
trả lời để làm rõ các tình tiết của vụ án.
Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm có những đặc trưng:
- Xét hỏi trực tiếp bằng lời.
- Xét hỏi công khai, theo sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
- Xét hỏi phải theo một trình tự nhất định do BLTTHS quy định.
- Chủ thể tiến hành xét hỏi là người tiến hành tố tụng: Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa, Hội thẩm nhân dân (HTND), KSV và Luật sư.
- Đối tượng bị xét hỏi là những người tham gia tố tụng như: bị cáo, người bị
hại, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự.
- Nội dung xét hỏi chỉ liên quan đến vụ án đang xét xử và theo phạm vi truy
tố mà VKS đã truy tố.
Yêu cầu đối với người xét hỏi tại phiên tòa:
- Phải biết lựa chọn cách thức xét hỏi cho phù hợp với từng đối tượng, từng
giai đoạn, từng thời điểm để việc xét hỏi đạt hiệu quả.
- Phải xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, phù hợp với nội dung vụ án trước
khi tiến hành xét hỏi trực tiếp tại phiên tòa.
- Sử dụng chiến thuật hỏi hợp lý và phù hợp với từng đối tượng (ví dụ: bị
cáo nhận tội thì sử dụng chiến thuật hỏi thẳng, bị cáo chối tội sử dụng chiến thuật
hỏi dồn, ngắn gọn, trả lời chỉ có hai cách lựa chọn có hoặc không…), giọng xét hỏi
cũng phải thay đổi cho phù hợp với mỗi đối tượng và phù hợp với diễn biến phiên
tòa (ví dụ: bị cáo nhận tội thì hỏi giọng nghiêm nghị, bình thường; bị cáo không
nhận tội thì hỏi giọng nghiêm nghị đanh thép…), thái độ, cử chỉ, nét mặt của người
tiến hành xét hỏi phải thể hiện sự uy nghiêm, đĩnh đạc.
31
- Tránh nói ngọng, lắp bắp, hỏi không rõ nghĩa, hỏi quá dài, hỏi không có
mục đích, hỏi trùng lặp những nội dung đã được làm rõ…
Việc xét hỏi vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của KSV, cùng với HĐXX, KSV
giữ quyền công tố tại phiên tòa tham gia xét hỏi bị cáo và người tham gia tố tụng
khác để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, làm rõ hành vi phạm tội, làm rõ các
yếu tố cấu thành tội phạm, động cơ, mục đích, nguyên nhân thúc đẩy bị cáo phạm
tội. Đồng thời tiến hành kiểm tra toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do
CQĐT thu thập tại phiên tòa. Trên cơ sở đó, cùng HĐXX nghiên cứu, xem xét và
đánh giá các chứng cứ đó để đưa ra quan điểm giải quyết vụ án khách quan, toàn
diện, đúng quy định pháp luật.
Việc xét hỏi của KSV tại phiên tòa phải tuân theo một trình tự nhất định do
BLTTHS quy định tại Điều 207. Khi xét hỏi KSV phải hỏi sau Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa và HTND. Để việc xét hỏi đạt kết quả tốt, đảm bảo việc điều tra công khai
tại tòa được đầy đủ, toàn diện; tăng tính chủ động của KSV khi tranh tụng tại phiên
tòa thì việc hỏi của KSV phải bám sát những nội dung truy tố, hỏi có trọng tâm,
trọng điểm, không lọt, sót các vấn đề liên quan trong vụ án, không hỏi thừa, hỏi
không rõ nghĩa, trùng lặp với Thẩm phán hoặc HTND.
Để đạt được mục đích trên, KSV xây dựng "đề cương xét hỏi" với những
nội dung cụ thể dựa trên cơ sở nội dung vụ án, vì vậy KSV phải nghiên cứu kỹ hồ
sơ, nắm chắc các tình tiết của vụ án cũng như diễn biến quá trình thu thập chứng cứ,
diễn biến thay đổi lời khai của các đối tượng... từ đó xác định từng vấn đề cần hỏi,
cần làm rõ đối với từng đối tượng trong vụ án đồng thời dự kiến những tình huống
sẽ phát sinh tại phiên tòa, hoạch định những phương án xử lý những tình huống đó.
Nội dung của kế hoạch xét hỏi cần làm rõ: hành vi phạm tội của bị cáo,
năng lực trách nhiệm hình sự của bị cáo, lỗi của bị cáo, vị trí vai trò của bị cáo và
các đồng phạm khác, các đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do
hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả tội phạm, các vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự và những vấn đề liên quan khác trong vụ án…
32
Tùy theo tư cách của những người tham gia tố tụng mà KSV lựa chọn câu
hỏi cho phù hợp với các đối tượng này. Tuy nhiên cần chú ý đặc điểm tâm lý của
từng đối tượng khi hỏi để đạt được mục đích hỏi, ví dụ: bị cáo thường hay chối tội,
khai báo né tránh; người làm chứng sợ bị trả thù nên hay thay đổi lời khai tại tòa,
người bị hại hay khai tăng hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để đồi bồi thường
cao… Đối với những người tham gia tố tụng là đại diện cho các cơ quan chuyên
môn thì khi hỏi tại phiên tòa chỉ cần hỏi làm rõ những vấn đề chưa rõ hoặc liên
quan trực tiếp đến các kết luận chuyên môn có trong hồ sơ vụ án: ví dụ đối với giám
định viên chỉ hỏi những vấn đề liên quan đến kết luận giám định trong hồ sơ vụ án
chưa được rõ…
1.3.1.4. Luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
Khác với Cáo trạng, Luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm không phải là
văn bản pháp lý do nhà nước quy định mà chỉ là lời phát biểu của KSV tại phiên tòa
sơ thẩm nhưng nó lại có giá trị pháp lý rất cao.
Hiện nay, chưa có khái niệm chính thức định nghĩa thế nào là Luận tội. Theo
từ điển Tiếng Việt năm 2001 của Viện ngôn ngữ học thì Luận tội được hiểu là: "phân
tích, cân nhắc để xét tội" [90, tr. 590]. Từ đó có thể hiểu Luận tội là sự phân tích,
đánh giá chứng cứ trên cơ sở kết quả chứng minh công khai tại phiên tòa, kết hợp với
ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa.
Luận tội là sự buộc tội trực tiếp, chính thức và cuối cùng của VKS đối với
người phạm tội. Cũng giống như Cáo trạng sự buộc tội của Luận tội đều được xác
định là giới hạn xét xử của Tòa án.
Tương tự như Cáo trạng, Luận tội cũng có những đặc trưng mang tính quyền
lực nhà nước; tính có căn cứ và đúng pháp luật; tuân thủ các đường lối, chính sách
của Đảng và pháp luật của nhà nước cũng như đáp ứng được yêu cầu, tâm tư, nguyện
vọng của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, Luận tội khác Cáo trạng căn bản là sự
phân tích và đánh giá chứng cứ chứng minh bốn yếu tố cấu thành tội phạm, trên cơ sở
đánh giá quá trình nhân thân để đề xuất mức hình phạt, loại hình phạt chính thức và
cụ thể đối với người phạm tội nên Luận tội còn mang những đặc trưng khác như:
33
- Luận tội phải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể: các kết luận về
hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo phải được viện dẫn chứng cứ chứng minh. Các
chứng cứ được đưa vào Luận tội là những chứng cứ đã được đưa ra kiểm tra, xem xét
công khai tại tòa cụ thể là tại giai đoạn xét hỏi. Đánh giá tính chất, mức độ hành vi
phạm tội của bị cáo, vai trò vị trí, trách nhiệm của bị cáo trong vụ án. Viện dẫn các
căn cứ pháp luật phải đảm bảo chính xác, đúng lời văn điều luật quy định. Nếu quá
trình xét hỏi bị cáo tại phiên tòa xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung quyết
định truy tố trong bản Cáo trạng đã công bố thì trong lời Luận tội KSV phải đánh giá
tình tiết đó và trong phạm vi pháp luật cho phép KSV có thể đề nghị hoãn phiên tòa
để điều tra bổ sung hoặc rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc đề nghị
HĐXX tuyên bị cáo phạm tội danh khác nhẹ hơn. Khi đề xuất đường lối giải quyết vụ
án, KSV phải đề xuất mức, loại hình phạt cụ thể, các biện pháp tư pháp cần áp dụng...
- Luận tội phải có tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa tội phạm: khi
Luận tội đảm bảo được các yêu cầu trên thì đã có tính thuyết phục. Thông qua việc
phân tích, trích dẫn điều luật mà hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm trong Luận
tội đã góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giúp bị cáo và những người tham dự
phiên tòa hiểu rõ những hành vi nào bị pháp luật cấm. Qua đó, góp phần điều chỉnh
hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội. Tính phòng ngừa tội phạm của luận tội thể hiện
ở việc phân tích những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội,
trong đó có việc phân tích những sơ hở, thiếu sót vi phạm trong quản lý kinh tế, xã
hội, con người làm cơ sở để kiến nghị với các cơ quan chức năng kịp thời khắc phục.
- Văn phong sử dụng trong Luận tội phải trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu,
chuẩn xác không sử dụng những từ ngữ miệt thị bị cáo, không sử dụng những từ ngữ
"đao to, búa lớn". Bố cục Luận tội phải chặt chẽ, logic. Luận tội là một bài văn nhưng
không được quá "văn" làm cho người nghe thấy sáo rỗng.
Từ những đặc trưng trên, khi xây dựng Luận tội, KSV phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
- Luận tội nhằm bảo vệ Cáo trạng - quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án.
KSV phát biểu lời Luận tội là tiếp tục THQCT tại Tòa án để bảo vệ Cáo trạng. Vì
34
vậy, nội dung của Luận tội phải bám sát nội dung truy tố của Cáo trạng đồng thời
Luận tội còn phải phân tích, viện dẫn làm sáng tỏ nội dung truy tố của cáo trạng để
làm rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của Cáo trạng. Qua xét hỏi không có tình tiết
mới làm thay việc truy tố thì KSV không được phép thay đổi nội dung Cáo trạng.
- Luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa vì
vậy KSV phải chủ động tham gia xét hỏi để làm sáng tỏ những hành vi phạm tội của
các bị cáo và các tình tiết khác để làm sáng tỏ Cáo trạng, đồng thời đó cũng là những
nội dung Luận tội sẽ trình bày trước tòa. KSV phải theo dõi và chủ động tham gia vào
quá trình xét hỏi công khai tại tòa để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đây cũng là
cơ sở để sửa đổi, bổ sung dự thảo Luận tội cho phù hợp với diễn biến phiên tòa nhất
là khi có sự thay đổi lời khai hoặc có các tình tiết mới phát sinh tại tòa. Nếu sự thay
đổi tại phiên tòa là cơ sở quyết định cho việc truy tố của VKS thì KSV phải linh hoạt
sửa đổi cho phù hợp không được máy móc, cứng nhắc bảo vệ Cáo trạng trong khi
chứng cứ tại tòa không đủ.
- Luận tội phải thể hiện cả luận chứng và luận tội: Luận chứng là việc phân
tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án để xác định tội phạm và người phạm tội theo
các điều khoản của BLHS. Còn Luận tội là việc phân tích, phê phán tính chất hành vi
phạm tội, thủ đoạn phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, vai trò trách nhiệm
và nhân thân người phạm tội để đề xuất hình phạt. Đối với bất kỳ vụ án nào dù đơn
giản hay phức tạp đều phải đảm bảo hai yếu tố này, không thể thiếu được yếu tố nào.
Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau khó tách rời, có luận chứng kết luận
tội phạm và người phạm tội thì mới có căn cứ để phân tích, phê phán tội lỗi của bị
cáo mà đề xuất hình phạt. Chưa phân tích, đánh giá kết luận tội phạm và người phạm
tội thì không thể phân tích, phê phán tội lỗi của tội phạm.
- Hình thức của Luận tội phải khoa học và đúng quy định của pháp luật, do
vậy KSV phải quan tâm đúng mức đến hình thức thể hiện.
Luận tội gồm những nội dung cơ bản sau:
- Phân tích đánh giá chứng cứ: trên cơ sở hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, kết
quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ công khai tại phiên tòa, Luận tội phân tích, đánh
35
giá và chứng minh các vấn đề như: có hành vi phạm tội xảy ra không, thời gian, địa
điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi
phạm tội, có lỗi hay không, lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự
không, động có, mục đích phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cũng như những đặc điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất mức độ thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra. Nếu đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội, KSV
tiến hành khẳng định việc truy tố của VKS là đúng, có căn cứ và tiến hành Luận tội
đối với bị cáo theo tội danh đã truy tố tại bản Cáo trạng. Tuy nhiên, nếu qua xét hỏi
thấy các chứng cứ không đủ cơ sở chứng minh bị cáo có tội thì KSV phải rút toàn
bộ quyết định truy tố (rút toàn bộ quyết định truy tố tại bản Cáo trạng đã công bố
trước khi xét hỏi) và đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không phạm tội. Hoặc trong
trường hợp không đủ chứng cứ chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo
theo nội dung Cáo trạng mà chỉ đủ chứng cứ kết tội đối với bị cáo theo một phần
nội dung đã truy tố thì KSV phải rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo mà
không đủ chứng cứ chứng minh. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo đã chứng
minh được thì KSV luận tội theo tội danh đã truy tố hoặc theo tội danh khác nhẹ
hơn so với tội danh đã truy tố tại bản Cáo trạng.
- Phân tích đánh giá tính chất, mức độ, nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai
trò, vị trí của từng bị cáo trong vụ án và đề xuất biện pháp xử lý đối với bị cáo: qua
lời Luận tội, KSV phân tích, đánh giá các chứng cứ do CQĐT thu thập đã được đưa
ra xem xét công khai tại tòa, làm rõ hành vi phạm tội, khách thể bị xâm hại, chủ thể
thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự, lỗi của bị cáo, động cơ, mục đích, nguyên nhân, điều kiện phạm tội
và các tình tiết khác… từ đó đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi
phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá tính chất, vai trò của các bị cáo, đánh giá tình
hình chung từ đó đề xuất loại hình phạt, mức hình phạt đối với bị cáo để trừng trị,
răn đe, giáo dục bị cáo.
Sắp xếp vai trò cụ thể của từng bị cáo trong vụ án: nếu vụ án có nhiều tội
truy tố thì sắp xếp trình bày tội nặng hơn trước (đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng, nghiêm trọng, và ít nghiêm trọng). Nếu vụ án có nhiều bị cáo thì sắp xếp kết
36
luận các bị cáo phạm tội nặng trước, tội nhẹ sau. Khi phân tích các vụ án có đồng
phạm cần kết luận vai trò của từng đồng phạm (tổ chức - thực hành - giúp sức) phải
được viện dẫn đầy đủ điểm, khoản, điều luật mà bị cáo vi phạm.
- Phân tích những sơ hở, thiếu sót của các cơ quan chức năng trong việc
quản lý kinh tế, xã hội và con người để kiến nghị phòng ngừa: Luận tội của KSV
không chỉ kết luận về hành vi phạm tội của người phạm tội mà còn thể hiện đường lối
giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án như: đồng phạm khác, đối tượng liên
quan trong quá trình giải quyết vụ án, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, xử lý vật
chứng… Thông qua Luận tội của KSV thể hiện quan điểm của VKS đối với những
thiếu sót, vi phạm, những hạn chế của các cá nhân, tổ chức, cơ quan hữu quan từ đó
đưa ra những kiến nghị khắc phục.
Việc Luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm thể hiện quyền THQCT tại
phiên tòa của VKS. Tuy không được quy định là văn bản pháp lý nhưng không phải
vì thế mà có thể áp dụng Luận tội một cách tùy nghi. Điều 217 BLTTHS và Quy
chế KSXX của ngành Kiểm sát quy định chặt chẽ trình tự, quy cách, bố cục Luận
tội của KSV [34], [81]. Nếu như Cáo trạng là kết quả của quá trình điều tra thì Luận
tội là kết quả của quá trình điều tra công khai tại tòa. Cũng như Cáo trạng, Luận tội
là kết quả của quá trình nghiên cứu chuyên sâu, thể hiện năng lực, trình độ và kinh
nghiệm nghề nghiệp của KSV.
1.3.1.5. Tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên tòa
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001 của Viện ngôn ngữ học thì tranh luận
có nghĩa là "bàn cãi để tìm ra lẽ phải" [90, tr. 1024]; còn tranh tụng là "kiện tụng lẫn
nhau" [90, tr. 1025]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ "tranh tụng" được hiểu bao
gồm hai thuật ngữ "tranh luận" và "tố tụng". Trong tố tụng nói chung và tố tụng
hình sự nói riêng bao giờ cũng có ít nhất hai bên có những quyền và lợi ích trái ngược
nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Do đó các bên phải đưa ra những chứng cứ, phân
tích, đánh giá, tranh cãi với nhau để bảo vệ quan điểm của mình. Tòa án với tư cách
là cơ quan xét xử- cơ quan tài phán sẽ tiến hành xem xét, đánh giá và quyết định.
37
Tranh luận của KSV tại phiên tòa là một phần trong việc thực hiện tranh tụng
của VKS. Có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc của việc
tranh tụng tại giai đoạn xét xử, có quan điểm cho rằng tranh tụng ở giai đoạn xét xử bắt
đầu khi thủ tục phiên tòa bắt đầu và kết thúc khi Tòa tiến hành nghị án. Tuy nhiên, ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử, VKS đã phải tiến hành tranh tụng với Thẩm phán về một số
vấn đề như: tư cách của những người tham gia tố tụng, thành phần của HĐXX, cụ thể
là HTND trong những vụ án vị thành niên hoặc cố ý gây thương tích… Việc tranh tụng
kết thúc khi các bên trình bày xong ý kiến để bảo vệ quan điểm của mình. Còn việc
quyết định của Tòa án bên nào thắng, bên nào thua chỉ là kết quả của việc tranh tụng.
Do vậy, phạm vi tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm được bắt đầu từ khi Tòa án có
quyết định đưa vụ án ra xét xử và kết thúc khi HĐXX chuyển sang giai đoạn nghị án.
Hiểu theo nghĩa rộng, phạm vi của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là rất
rộng, được thực hiện trong hầu hết các giai đoạn của phiên tòa, đặc biệt là trong phần
xét hỏi và phần tranh luận. Hiểu theo nghĩa hẹp thì hoạt động tranh tụng là hoạt động
tranh luận của KSV tại phiên tòa. Chủ thể tham gia tranh luận gồm: Thẩm phán,
KSV, những người tham gia tố tụng khác như: bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo,
người bị hại, Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị hại, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan... Trong đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giữ vai trò là người điều
khiển tranh luận, KSV là chủ thể có trách nhiệm đối đáp với các ý kiến tranh luận của
Luật sư và những người tham gia tố tụng khác có ý kiến phản hồi. Vai trò của Thẩm
phán rất quan trọng, quyết định đến chất lượng của quá trình tranh luận. Mặc dù,
Thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là một chủ thể trong quá trình đối đáp
nhưng với tư cách là người điều khiển phiên tòa, họ có vai trò là người trọng tài, là
người hướng dẫn cho các bên trong việc thực hiện quyền tranh tụng đúng pháp luật.
Sau khi, KSV trình bày lời luận tội thì Luật sư và những người tham gia tố
tụng khác giữ vai trò một bên tranh tụng, có quyền trình bày ý kiến về luận tội của
KSV và đưa ra những đề nghị của mình, đồng thời cũng có quyền đối đáp với quan
điểm của KSV. Đây là các chủ thể rất quan trọng, trực tiếp tham gia vào hoạt động
tranh luận dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Chất lượng tranh luận có đạt
được hiệu quả dân chủ, công khai, toàn diện hay không thì ngoài việc phụ thuộc vào
38
sự điều khiển của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thì còn phụ thuộc trực tiếp vào hoạt
động đối đáp giữa KSV và những người tham gia tố tụng khác.
Việc tranh luận của KSV không bị giới hạn về thời gian, nội dung. Tuy
nhiên, để tránh tình trạng tranh luận tràn lan, dàn trải cùng một vấn đề hoặc những
vấn đề không liên quan đến vụ án, BLTTHS quy định: "Chủ tọa phiên tòa không
được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh
luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến
vụ án" [34, Điều 218] .
Để tranh luận tốt, KSV phải nắm chắc hồ sơ vụ án, nghiên cứu kỹ lưỡng các
tình tiết cụ thể của vụ án; dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa; nắm
vững các quy định của pháp luật; có phản ứng nhanh nhạy, kịp thời trước những
tình huống mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra.
Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hoạt động
tranh tụng đang được mở rộng phạm vi, ngày càng tăng cường hơn nữa việc tranh
tụng giữa KSV với người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. BLTTHS
không giới hạn thời hạn, phạm vi tranh tụng giữa KSV với người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác. Theo đó, KSV phải tranh tụng tất cả các vấn đề
mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Kết quả tranh
tụng là cơ sở để HĐXX xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án đồng thời cũng
thể hiện năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh và kinh nghiệm nghề
nghiệp của KSV.
1.3.1.6. Khởi tố vụ án hình sự nếu có dấu hiệu của tội phạm
Theo quy định tại điều 104 BLTTHS, VKS có quyền khởi tố vụ án hoặc
theo yêu cầu của HĐXX nếu trong quá trình xét xử phát hiện thấy tội phạm mới,
hoặc người phạm tội mới cần phải khởi tố điều tra để xử lý.
1.3.1.7. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Đây là một thẩm quyền riêng biệt của VKSND nói chung và của khâu THQCT
trong giai đoạn xét xử nói riêng. Để thực hiện tốt công tác kháng nghị thì khâu công tác
kiểm sát bản án của KSV được xem là khâu quan trọng trong vụ án.
39
Thẩm quyền kháng nghị của VKS được tiến hành:
- Đối với bản án chưa có hiệu lực pháp luật nếu có vi phạm trong việc áp dụng
pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để Tòa án cấp trên tiến
hành xét xử, xem xét lại vụ án trên cơ sở kháng nghị phúc thẩm của VKS.
- Đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát sinh tình tiết mới thì
VKS tiến hành kháng nghị để Tòa án cấp trên xem xét lại vụ án theo thủ tục tái
thẩm. Nếu có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị
để Tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
BLTTHS dành riêng hai phần (phần thứ tư và phần thứ sáu) gồm 54 điều
quy định về các trình tự thủ tục, thẩm quyền, giới hạn của việc xét xử phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật
1.3.2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử
Cùng với việc chuyển hồ sơ vụ án và Cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa
án để xét xử của VKS là việc thụ lý hồ sơ vụ án của Tòa án. Đây cũng chính là thời
điểm bắt đầu thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS kéo
dài cho đến khi Tòa án tiến hành đưa quyết định ra xét xử đối với vụ án thì kết thúc.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử sơ thẩm là hoạt động kiểm tra, giám sát của VKS đối với việc chấp hành pháp
luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử nhằm đảm bảo cho hoạt động chuẩn bị xét xử của Tòa án đúng pháp luật.
Chủ thể tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử là KSV được phân công nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án.
Đối tượng bị kiểm sát là hoạt động của Chánh án (phó Chánh án), Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ án và những người tham gia tố tụng khác.
Trong giai đoạn này, VKS tiến hành một số hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Tòa án và Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án
40
như: việc áp dụng biện pháp ngăn chặn của Tòa án đối với bị can đã bị truy tố, nếu
bị can bị tạm giam thì thời hạn tạm giam không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử,
nếu bị can được thay đổi biện pháp ngăn chặn thì KSV tiến hành kiểm sát các căn
cứ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn mà Tòa án áp dụng; thẩm quyền xét xử
của Tòa án; kiểm sát thời hạn ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử của tòa án có
đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS không; kiểm sát việc trả hồ sơ của Tòa án cho
VKS có căn cứ và đúng quy định của pháp luật không (Điều 179); kiểm sát các căn
cứ đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án (Điều 180); kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại và những yêu cầu của người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử… và kiểm sát việc tiến hành một số hoạt động để mở phiên tòa trong đó
đặc biệt chú ý đến thành phần HTND đối với các vụ án mà bị cáo là đối tượng đặc
biệt. Ví dụ: HTND phải là giáo viên hoặc Bí thư đoàn thanh niên trong các vụ án có
bị cáo là người chưa thành niên, HTND là bác sỹ trong các vụ án cố ý gây thương
tích hoặc có bị cáo là người có nhược điểm thể chất tâm thần…
Trong giai đoạn này, KSV có quyền: yêu cầu Tòa án khắc phục hoặc báo
cáo, đề xuất đến Lãnh đạo Viện kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử; báo cáo lãnh đạo đề xuất kháng nghị các quyết định của Tòa
án các cấp sơ thẩm theo quy định của BLTTHS.
- Hoạt động kiểm sát thẩm quyền xét xử của Tòa án: thông thường ngay từ
khi khởi tố vụ án, VKS đã xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử. Đối
với những vụ án không thuộc thẩm quyền, VKS có trách nhiệm ban hành quyết định
chuyển vụ án đến cơ quan có thẩm quyền để điều tra. Việc xác định thẩm quyền
trong giai đoạn này rất ít nhưng cũng có trường hợp vẫn xảy ra (ví dụ: liên quan đến
yếu tố nước ngoài...) Theo quy định tại điều 174 BLTTHS, nếu vụ án không thuộc
thẩm quyền của cấp mình, Tòa án tiến hành ra quyết định chuyển vụ án đến Tòa án
có thẩm quyền để xét xử. Sau 2 ngày kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án
phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Trách nhiệm của KSV phải kiểm tra căn cứ
chuyển vụ án, việc tống đạt quyết định chuyển vụ án của Tòa án đến bị cáo và
những người liên quan khác trong vụ án...
41
- Hoạt động kiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử: Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ
án hình sự là khoảng thời gian luật định để Tòa án tiến hành các hoạt động cần thiết
cho việc mở phiên tòa. Thời hạn chuẩn bị xét xử gồm có các loại: thời hạn để Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án ra một trong các quyết định cần thiết; thời
hạn mở phiên tòa sau khi đã có các quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính
chất của vụ án, mức độ nghiêm trọng của vụ án mà BLTTHS phân ra nhiều loại thời
hạn khác nhau để Tòa án có đủ thời gian để chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho
việc xét xử. Theo quy định tại điều 176 BLTTHS quy định: trong thời hạn 30 ngày
đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, 60 ngày đối với tội rất
nghiêm trọng và 90 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thì Thẩm phán phải ra
một trong các quyết định: tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; trả hồ sơ điều tra bổ sung,
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp thì Chánh án Tòa án
còn có thể Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thêm nhưng không quá 15
ngày đối với tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội rất nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Cần lưu ý cách tính thời hạn đối với các bị cáo tại
ngoại (thời điểm giao cáo trạng). Từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án
phải tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án trong thời hạn 15 ngày, nếu có lý do chính
đáng Tòa án có thể kéo dài thời hạn này đến 30 ngày. Quá trình kiểm sát, KSV
không nên cứng nhắc quá về mặt thời hạn vì trong những trường hợp đặc biệt, ở
những địa bàn nhiều án, số lượng thẩm phán hạn chế, khối lượng công việc nhiều
nên cũng cần sự phối hợp, linh động về mặt thời hạn.
- Hoạt động kiểm sát các việc ban hành các quyết định của Tòa án: KSV
cần nghiên cứu các căn cứ ban hành quyết định, hình thức quyết định và nội dung
của các quyết định đó:
 Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung: cần xem xét kỹ căn cứ trả hồ sơ
quy định tại Điều 174 BLTTHS, lý do trả phải được ghi rõ trong quyết định, những
yêu cầu điều tra của Tòa án đặt ra đối với vụ án có hợp lý không.
 Quyết định đình chỉ vụ án: xem kỹ các căn cứ quy định tại Điều 102, 107
BLTTHS, việc đình chỉ đối với bị cáo này có liên quan đến bị cáo khác hay không,
kiểm tra việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, việc xử lý vật chứng...
42
 Quyết định tạm đình chỉ vụ án: kiểm tra các căn cứ quy định tại Điều 160
BLTTHS, lý do tạm đình chỉ cần chú ý các trường hợp liên quan đến việc giám
định tâm thần, bệnh hiểm nghèo… các kết luận giám định có đúng không, có khách
quan không…
 Quyết định đưa vụ án ra xét xử: cần kiểm tra thời gian, địa điểm, hình
thức xét xử, thành phần những người tiến hành tố tụng: thẩm phán chủ tọa phiên
tòa, HTND, thư ký, KSV; những người tham gia tố tụng: bị cáo, nhân chứng, Luật
sư bào chữa, người bị hại, người giám định, phiên dịch…; kiểm tra tên, tuổi, địa chỉ
của bị cáo, tội danh, điều khoản cụ thể …
- Hoạt động kiểm sát việc quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn: BLTTHS quy định có 6 biện pháp ngăn chặn (Điều 79): bắt, tạm
giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cứ trú. Ở
giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án chỉ có quyền áp dụng các biện pháp: tạm giam,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú. KSV cần chú ý
các căn cứ Tòa án thay đổi biện pháp tạm giam bằng các biện pháp thay thế khác.
Việc áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn này do Chánh án hoặc
Phó Chánh án Tòa án quyết định. Thời hạn tạm giam bằng thời hạn chuẩn bị đưa vụ
án ra xét xử, BLTTHS quy định trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét
xử nếu thời hạn tạm giam đã hết Tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi xét xử
xong. Đây là quy định tạm giam vô thời hạn đối với Tòa án, quy định này chưa hợp
lý và tạo ra sự tùy tiện trong việc áp dụng.
Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo… KSV có thể trù bị trước với
thẩm phán về cách thức, trình tự giải quyết vụ án cũng như việc xác định những
người tham gia tố tụng cần triệu tập đến phiên tòa, các vật chứng cần được đưa ra
xem xét công khai tại tòa… Đây không phải là thủ tục bắt buộc do BLTTHS quy
định mà chỉ là thói quen trong quan hệ phối hợp công tác giữa Tòa án và VKS trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự đảm bảo cho việc giải quyết thuận lợi, nhanh
chóng, kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao.
43
1.3.2.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử vụ án
Sau khi Thư ký Tòa án đọc nội quy phiên tòa, HĐXX vào phòng xử án là thời
điểm bắt đầu công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những
người này kéo dài đến khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên án xong và tuyên bố kết
thúc phiên tòa. Đây cũng là quá trình thực hiện song hành cả hai chức năng THQCT và
KSHĐTP của VKS. Chất lượng THQCT, KSHĐTP của VKS có tốt hay không phụ thuộc
rất nhiều vào năng lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp của KSV.
Trong giai đoạn này, KSV phải kiểm sát việc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đọc
quyết định đưa vụ án ra xét xử có nội dung đúng với quyết định đã gửi đến VKS hay
không; trình tự thủ tục bắt đầu phiên tòa có diễn ra theo đúng quy định pháp luật hay
không. Việc kiểm tra căn cước, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo và những người
tham gia tố tụng khác, việc thay đổi người tiến hành tố tụng có đảm bảo đúng quy định
pháp luật không, việc vắng mặt người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có
ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án hay không, các căn cứ hoãn phiên tòa. Những
người tham gia phiên tòa có ai muốn cung cấp thêm chứng cứ, vật chứng cần xem xét,
hoặc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng khác nữa hay không. Trong quá trình xét
xử những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và nhân dân đến tham dự
phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định pháp luật chưa, có vi phạm pháp luật không, hình
thức xử lý… Việc bảo vệ phiên tòa, quản lý các bị cáo bị tạm giam đã đảm bảo các quy
định pháp luật chưa, trách nhiệm của những người liên quan thế nào…
Sau khi kết thúc phiên tòa, KSV kiểm tra biên bản phiên tòa xem có đúng
diễn biến quá trình xét xử hay không, cần thiết có thể yêu cầu thư ký Tòa án bổ
sung, chỉnh sửa cho phù hợp.
1.3.2.3. Kiểm sát việc ra bản án, quyết định của Tòa án
Việc ban hành bản án của Tòa án phải được gửi đến VKS trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày tuyên án. Khi nhận được bản án hoặc các quyết định khác (trả hồ sơ,
tạm đình chỉ, đình chỉ) của Tòa án thì KSV cần nghiên cứu kỹ nội dung bản án, quyết
44
định tiến hành kiểm tra các căn cứ áp dụng đối với các quyết định, kiểm tra nội dung
bản án có đúng với nội dung phiên tòa thực tế đã diễn ra hay không. Từ đó, tiến hành
đề xuất việc kháng nghị, kiến nghị khắc phục những vi phạm của Tòa án trong quá
trình áp dụng pháp luật. Việc chỉnh sửa, đính chính bản án, quyết định cũng được
BLTTHS quy định rất chặt chẽ, phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do luật quy định.
1.3.2.4. Kiến nghị với Tòa án, các cơ quan hữu quan
Quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và các cá nhân, công
dân, cơ quan, tổ chức nếu VKS phát hiện thấy có vi phạm pháp luật thì tùy tính
chất, mức độ từng trường hợp cụ thể VKS tiến hành ban hành kiến nghị đối với Tòa
án, các cơ quan hữu quan khắc phục những vi phạm, thiếu sót trong lĩnh vực mình
quản lý… để góp phần thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật.
Kiến nghị là quyền năng đặc biệt của VKS. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật
nước ta chưa quy định chế tài áp dụng đối với việc không chấp hành kiến nghị của
VKS. Qua thực tiễn xét xử thấy việc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, xã
hội, con người… còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế, VKS thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình phát hiện thấy sai phạm thì kiến nghị nhắc nhở các cơ quan nhà
nước biết để khắc phục nhưng việc các cơ quan nhà nước sửa chữa đến đâu, như thế
nào hoặc có ý thức chấp hành ý kiến nghị của VKS hay không thì không có bất kỳ
một chế tài nào, một cơ quan nào có quyền xử lý. Như vậy, đây là quyền năng đặc
biệt của VKS nhưng không có chế tài đảm bảo cho việc thực hiện quyền năng này
một cách triệt để nên nhiều khi xảy ra tình trạng, VKS cứ kiến nghị còn các cơ quan
chức năng cứ vi phạm. Do vậy, cần có chế tài xử lý để đảm bảo các cơ quan nhà
nước chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật góp phần bảo vệ pháp chế XHCN.
1.4. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT Ở VIỆT NAM
1.4.1. Quá trình phát triển
1.4.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1960
Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã bắt tay ngay vào việc kiện toàn lại bộ máy nhà nước. Trong đó,
45
hệ thống các cơ quan Tòa án đã được tổ chức hoạt động trên phạm vi cả nước. Tại
các Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945 Tòa án quân sự được thành lập ở 3 miền
Bắc, Trung, Nam; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 hệ thống Tòa án thường được
thành lập bao gồm các tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Sắc lệnh số 64
ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời thành lập Tòa án đặc biệt để xét
xử những nhân viên của UBND, nhân viên của các cơ quan của Chính phủ phạm
tội. Trong các Tòa án đều có "công tố viện" do Công tố ủy viên phụ trách, chuyên
thực hiện chức năng công tố. Chánh án và Công tố ủy viên trong các Tòa án đều là
thủ trưởng đơn vị, có nhiệm vụ riêng biệt.
Tại kỳ họp thứ 8, phiên họp ngày 29/4/1958, Quốc Hội khóa I đã quyết định
chia tách và thành lập mới một số cơ quan nhà nước, trong đó có việc thành lập
Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố, Tòa án cũng được thành lập
thành hệ thống riêng biệt. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị
định số 256/TTg quy định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố và tổ chức hệ
thống Viện công tố - tiền thân của VKSND, có nhiệm vụ chung là: giám sát việc
tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhà nước, truy tố theo luật hình sự những kẻ
phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tài
sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc
kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi... Khi thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể, Viện công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp pháp lý thích đáng
theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm pháp. Theo đó,
Viện công tố thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như: điều tra, truy tố trước Tòa án
những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều
tra của CQĐT; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử của Tòa án;
giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và
trong hoạt động của các cơ quan giam giữ, cải tạo; khởi tố hoặc tham gia tố tụng những
vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của nhà nước và nhân dân.
1.4.1.2. Từ năm 1960 đến năm 1980
Thời kỳ này, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất
46
nước nhà. Đây là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ với nhau, pháp luật của
thời kỳ này cũng phục vụ cả hai nhiệm vụ chiến lược đó. Trước tình hình của đất
nước, đòi hỏi phải có nền pháp chế thống nhất. Lúc này, Viện công tố được thành lập
năm 1958 hoạt động với nguyên tắc song trùng trực thuộc không còn thích hợp. Đảng
đã đặt vấn đề thành lập VKS thay thế Viện công tố, hoạt động theo nguyên tắc tập
trung thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng để thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ được giữ vững, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh, thống nhất nước nhà.
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức
VKSND năm 1960. Theo đó, VKS có một chức năng duy nhất là kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Do
đó, THQCT chỉ là một biện pháp thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật. Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã dành 1 chương riêng (Chương IV: Kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các TAND và trong việc chấp hành các
bản án, gồm 3 điều luật từ Điều 17 đến Điều 19). VKS có các quyền: khởi tố về hình sự
và giữ quyền công tố trước TAND cùng cấp; kháng nghị những bản án hoặc quyết định
của TAND cùng cấp và dưới một cấp. Mặc dù Luật tổ chức VKSND năm 1960 chưa
phân định rõ chức năng THQCT với chức năng KSXX nhưng đã quy định khái quát
và đầy đủ những nhiệm vụ quyền hạn cơ bản của công tác THQCT và KSXX hình sự.
1.4.1.3. Từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm
1980. So với Hiến pháp năm 1959 thì vị trí, vai trò của VKSND đã được khẳng định
rõ hơn và có những điểm bổ sung mới. Điều 138 nhấn mạnh chức năng THQCT và
đề cao vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng VKSNDTC, xác định nguyên tắc pháp
chế XHCN trong quản lý nhà nước.
Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức VKSND
năm 1981 đã dành 1 chương riêng (Chương IV với tên gọi "Công tác KSXX", gồm
3 điều từ Điều 12 đến Điều 14) quy định VKSND có các quyền: tham dự việc trù bị,
47
tham gia tố tụng tại phiên tòa của TAND cùng cấp, trong phiên tòa hình sự, KSV
đọc Cáo trạng và Luận tội; yêu cầu TAND cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án cần
thiết cho công tác KSXX; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy
có vi phạm pháp luật… So với Luật tổ chức VKSND năm 1960, Luật tổ chức
VKSND năm 1981 (sửa đổi bổ sung năm 1989) đã quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn
về công tác THQCT và KSXX hình sự.
Luật tổ chức VKSND năm 1992 vẫn giữ nguyên các chức năng, nhiệm vụ
của VKSND nhưng phạm vi đối tượng thực hiện chức năng của VKS có sự thu hẹp.
Trong lĩnh vực kiểm sát chung chỉ tập trung vào kiểm sát văn bản, chỉ tiến hành
kiểm sát hành vi khi phát hiện vi phạm có vi phạm pháp luật (Điều 8, Điều 9).
Ngoài ra, VKSND còn có nhiệm vụ trực tiếp điều tra tội phạm trong những trường
hợp do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
1.4.1.4. Theo pháp luật hiện hành
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong đó có sự điều
chỉnh về chức năng của VKSND bỏ chức năng kiểm sát chung. Tại điều 137, Hiến
pháp 1992 quy định chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân với hai chức
năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Tại kỳ
họp thứ 11 ngày 02/4/2002, Quốc Hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm
2002, tiếp tục khẳng định VKSND có hai chức năng cơ bản nhưng đã nhấn mạnh
chức năng THQCT nên đã đưa lên trước, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật không tiến hành trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội như trước đây nữa
mà chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hoạt động tư pháp.
Nhiệm vụ, quyền hạn của công tác THQCT và KSXX hình sự của VKSND
được quy định tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm 2002, với 4 điều (từ Điều
16 đến Điều 19) đã quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS: có trách nhiệm THQCT, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử hình sự,
nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
48
1.4.2. Cơ quan Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới
Nghiên cứu các mô hình VKS hay Viện công tố một số nước trên thế giới để
giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về chức năng, nhiệm vụ của VKS trên thế giới.
Theo Luật tổ chức VKS Liên bang Nga được công bố ngày 17/11/1995, đã
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004,
2005 thì VKS Liên bang Nga có chức năng duy nhất là "kiểm sát việc tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật có hiệu lực trên lãnh thổ Liên bang Nga" (Điều 1).
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật các bộ, các ủy ban, cơ quan
ngang bộ…; kiểm sát việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân…; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Cơ quan điều tra ban
đầu, cơ quan truy tìm và Cơ quan điều tra trong hoạt động nghiệp vụ theo
chức năng đã quy định; …; thực hành quyền công tố đối với các vụ án
hình sự theo chức năng đã được quy định trong các văn bản tố tụng hình
sự của Liên bang Nga… [36].
Liên bang Nga là nước đặc trưng cho kiểu tố tụng thẩm vấn đan xen tranh
tụng. Trước đây, THQCT chỉ là một nhiệm vụ để thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật của VKS Liên bang Nga thì giai đoạn hiện nay
Nga cũng đặt chức năng THQCT lên hàng đầu.
Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:
VKSND Trung Hoa là cơ quan giám sát việc tuân theo pháp luật. VKSND Trung
Hoa có nhiệm vụ trấn áp tất cả các mối đe dọa, tấn công, phá hoại đất nước... và
truy tố tội phạm… VKSND còn có nhiệm vụ giáo dục nhân dân... tuân thủ nhất
quán Hiến pháp, pháp luật và đấu tranh với mọi hoạt động trái pháp luật… Theo đó,
VKSND Trung Hoa có các quyền hạn: kiểm sát các vụ án đe dọa và tấn công phá
hoại đất nước... điều tra các vụ án tham nhũng, các hành vi vô trách nhiệm trong
thực hiện chức năng của nhà nước, các vụ án xâm hại đến các quyền khác của công
dân... thực hiện quyền công tố trong các vụ án hình sự và giám sát việc tuân thủ
pháp luật các phiên tòa của TAND; giám sát việc tuyên án và áp dụng hình phạt của
các TAND trong các vụ án hình sự, khi phát hiện có sai sót phải kháng nghị yêu cầu
49
sửa chữa... Trong những năm gần đây, Trung Quốc quan tâm và chú trọng đến chức
năng "thực hành quyền công tố" trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh chức
năng công tố VKSND Trung Hoa vẫn duy trì chức năng kiểm sát như: kiểm sát thủ
tục tố tụng, kiểm sát việc khởi tố điều tra, kiểm sát và phê chuẩn quyết định tạm
giam chờ xét xử, kiểm sát hoạt động điều tra, xem xét yêu cầu truy tố của CQĐT....
Cơ quan VKS Hoàng gia Anh là cơ quan truy tố quốc gia, cơ quan độc lập
thống nhất trên toàn quốc và thuộc nhánh quyền hành pháp. Đối với việc xét xử,
VKS có trách nhiệm tham gia xét xử sơ bộ tại Tòa án cơ sở nhằm bảo đảm vụ án đủ
điều kiện xét xử tại Hoàng gia với sự tham gia của Bồi thẩm đoàn. Nếu đủ điều kiện
thì VKS sẽ quyết định truy tố ra Tòa án đồng thời có trách nhiệm bảo vệ quyết định
truy tố của mình và chứng minh tội phạm. Khi kết thúc phiên tòa nếu nhận thấy việc
xét xử không đúng hoặc liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật thì có quyền kháng
nghị lên Tòa án tối cao. Như vậy, VKS Hoàng gia Anh chỉ thực hiện chức năng
"công tố" mà không có chức năng "kiểm sát".
Theo các nước có truyền thống án lệ và Mỹ, Văn phòng công tố không có
vai trò giám sát, chỉ đạo hoạt động điều tra mà chỉ có vai trò "Luật sư" hướng dẫn
và tư vấn pháp luật cho cảnh sát. Văn phòng công tố có thẩm quyền: tiến hành các
cuộc điều tra của bồi thẩm đoàn, quyết định về các cáo trạng hình sự... Tại tòa,
Công tố viên có trách nhiệm buộc tội và tranh luận bình đẳng với Luật sư. Nếu Tòa
tuyên bị cáo không có tội thì Viện công tố không được kháng nghị bản án của Tòa
án mà chỉ có quyền lưu ý về các chứng cứ, tài liệu về sự vô tội của bị cáo. Đặc biệt,
Viện công tố Hoa kỳ, có quyền "tùy nghi truy tố" kể cả khi chứng cứ đầy đủ. Đây là
quyền lực rất lớn của Viện công tố Hoa Kỳ.
Những nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa điển hình như
Pháp, Đức, Italia theo mô hình tố tụng tranh tụng. Viện công tố Pháp không phải là
cơ quan nhân danh nhà nước để phán quyết như Tòa án mà là cơ quan có thẩm
quyền buộc tội, bảo vệ các lợi ích của xã hội và công dân, giám sát sự tuân thủ pháp
luật, trật tự công cộng, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong cả nước. Viện công
tố có quyền tùy nghi rất lớn trong việc quyết định truy tố. Tại phiên tòa Công tố
50
viên có quyền tự do ngôn luận. Đối với Italia, từ những năm 1913 đến năm 1929 mô
hình Viện công tố ảnh hưởng mạnh mẽ của Pháp. Từ năm 1930 đến năm 1988
chuyển sang mô hình tố tụng thẩm vấn. Từ năm 1988 đến nay lại chuyển sang mô
hình tố tụng đan xe giữa tranh tụng và thẩm vấn chủ yếu là thẩm vấn. Công tố viên
có trách nhiệm chứng minh tội phạm, chỉ đạo hoạt động điều tra, giám sát hoạt động
điều tra do cảnh sát thực hiện; độc lập trong hoạt động tố tụng, đại diện cho nhà
nước trong các phiên tòa hình sự.
Ở Nhật Bản, Viện công tố chỉ thực hiện chức năng công tố mà không có
chức năng kiểm sát. Cơ quan công tố Australia có chức năng THQCT tại phiên tòa
hình sự và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đấu tranh
chống và phòng ngừa tội phạm. Hoạt động của Cơ quan công tố hoàn toàn độc lập
với hoạt động điều tra của cảnh sát. Việc tranh tụng tại phiên tòa tuyệt đối tuân theo
quy tắc về chứng cứ.
Viện công tố Indonesia nằm trong nhánh hành pháp. Viện công tố có quyền
quyết định và tiến hành việc truy tố hình sự, có quyền đạo diện cho Nhà nước và
Chính phủ trong các vấn đề dân sự hành chính và tư vấn pháp luật cho các cơ quan
nhà nước, có trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham
nhũng của Chính phủ.
Tại Hàn Quốc, công tố viên có quyền đại diện cho quyền lợi công như: điều
tra tội phạm, khởi tố và thực hiện những công việc cần thiết liên quan đến việc
chứng minh tội phạm và thực hiện việc buộc tội; hướng dẫn và giám sát cảnh sát
trong việc điều tra tội phạm; bảo vệ quyền con người trong quá trình truy cứu trách
nhiệm hình sự….
Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước thấy mỗi mô hình cơ quan Công
tố trên thế giới đều có những ưu khuyết điểm nhất định. Dù ở mô hình nào thì tất cả
các cơ quan công tố trên thế giới đều thực hiện chức năng chính và chủ yếu là công
tố. Những nước trong hệ thống các nước XHCN trước đây vẫn duy trì hai chức năng,
THQCT và KSHĐTP. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm khác nhau và dựa
trên cơ sở nền chính trị của mỗi quốc gia hoặc trong cùng một quốc gia ở những giai
51
đoạn khác nhau thì chức năng, nhiệm vụ cơ quan Công tố cũng có sự điều chỉnh cho
phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. VKS của chúng ta cũng không ngoại lệ. Trải qua
hơn 50 năm thực hiện chức năng nhiệm vụ, VKS của chúng ta cũng đã có sự thay đổi
cơ bản về chức năng nhiệm vụ: từ những năm mới thành lập nhà nước, tuy chưa có
VKS nhưng chức năng công tố đã được giao cho một bộ phận của Tòa án là "Công tố
viện". Đến những năm 1960, chúng ta tiếp thu và ảnh hưởng của hệ thống các nước
XHCN VKS đã ra đời với chức năng chủ yếu là kiểm sát, trong đó THQCT chỉ là
một hoạt động để thực hiện chức năng kiểm sát. Sau này, chúng ta học tập kinh
nghiệm của nhiều nước trên thế giới, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thực tiễn của đất
nước trong tiến trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy chức năng công tố
giữ vai trò quan trọng đối với cơ quan VKS. Đảng đề chủ trương "nghiên cứu chuyển
đổi mô hình cơ quan Viện kiểm sát sang Viện công tố", sự chuyển đổi này sẽ kéo
theo sự thay đổi cơ bản về chức năng nhiệm vụ của VKS. Tuy nhiên trong thời gian
hiện nay, VKS vẫn thực hiện hai chức năng THQCT và KSHĐTP.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích lý luận, nghiên cứu lịch sử, luận văn
đã làm sáng tỏ ở bình diện khoa học vị trí, vai trò, chức năng của VKSND trong
hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Luận văn đã khái quát được các khái niệm về THQCT, KSHĐTP, Cáo trạng, Luận
tội... trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ đó nêu lên những nhiệm
vụ cụ thể trong từng khâu công tác phải thực hiện, trách nhiệm của VKS cụ thể là
KSV trong giai đoạn này. Luận văn tiến hành xác định phạm vi, giới hạn của hoạt
động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời
luận văn cũng nêu và so sánh chức năng nhiệm vụ của VKS nước ta với VKS hoặc
Viện công tố một số nước trên thế giới để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của từng
mô hình để nghiên cứu, vận dụng, kế thừa những thành tựu của thế giới vào điều
kiện nước ta.
52
Chương 2
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự
2.1.1.1. Tình hình kinh tế, chính trị
Hải Phòng - thành phố Cảng, cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc,
đường ra biển ngắn nhất và thuận lợi nhất của Thủ đô Hà Nội. Hải Phòng nằm phía
Đông Bắc miền Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km, có diện tích
152.300 ha, chiếm 0,45% diện tích tự nhiên của cả nước (theo số liệu thống kê năm
2001). Hải Phòng là trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ; có vị trí quan trọng về
kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Duyên hải Bắc bộ; là thành phố
ven biển thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Về ranh giới hành chính: phía Bắc giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp Hải Dương,
phía Nam giáp Thái Bình, phía Đông giáp Biển Đông dài khoảng 300 km theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam từ phía Đông đảo Cát Hải đến cửa sông Thái Bình. Hải
Phòng có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, có 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô
Quyền, Kiến An, Hải An, Dương Kinh, Đồ Sơn), có 8 huyện (An Lão, An Dương,
Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo). Với số
lượng dân cư là 1.852.700 người, trong đó có khoảng 863.000 người sinh sống ở
thành thị, 990.000 người sinh sống ở nông thôn (theo số liệu thống kê năm 2009).
Mật độ dân cư bình quân 1207 người/km2
.
Thành phố Hải Phòng là đô thị trung tâm loại I cấp quốc gia, một trong ba
đỉnh của tam giác kinh tế trọng điểm miền Bắc (Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh);
53
là đầu mối giao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam - Trung
Quốc, có cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, có cảng biển, có sân bay và mạng lưới
giao thông khá đồng bộ: các tuyến đường quốc lộ, đường sắt, đường biển là những
mạch máu chính gắn kết quan hệ toàn diện của Hải Phòng với các tỉnh khác trong
nước và quốc tế; có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi. Hải Phòng đẩy mạnh
việc phát triển công nghiệp sản xuất, sản phẩm xuất khẩu và kinh tế biển.
Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng về sự phát triển
của Hải Phòng trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước (từ năm 2001 - 2010),
thành phố đã đạt được những kết quả như sau:
Về kinh tế: thành phố phát triển tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá
cao và liên tục được nâng lên. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện,
năng lực cạnh tranh của thành phố được nâng lên. Tốc độ tăng GDP bình quân gấp
gần 1,5 lần mức tăng bình quân chung của cả nước; GDP bình quân đầu người đạt
1.070 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Công nghiệp tiếp tục
giữ vai trò chủ lực, góp phần quan trọng hàng đầu vào tăng trưởng kinh tế, xuất
khẩu, thu hút lao động; tạo điều kiện thúc đẩy phát triển dịch vụ, đô thị, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế dịch vụ phát triển đa dạng,
đúng định hướng, chất lượng và hiệu quả được nâng lên. Hoạt động thương mại phát
triển khá nhanh và toàn diện. Du lịch có bước phát triển khá, cơ sở hạ tầng du lịch
được đầu tư, thêm nhiều khách sạn, nhà hàng, nhiều công trình văn hóa lịch sử được
tôn tạo. Bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển mạnh. Kinh tế nông nghiệp chuyển
dịch nhanh hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Về văn hóa - xã hội: có chuyển biến tích cực tiến bộ, gắn với phát triển kinh
tế, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giáo dục và đào
tạo phát triển khá toàn diện, nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tiến bộ. Phòng, chống,
dập tắt kịp thời các loại dịch bệnh. Thực hiện chính sách xã hội, giải quyết vấn đề
bức xúc và thực hiện công bằng xã hội được quan tâm, có tiến bộ rõ trên nhiều mặt.
Công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội tiếp tục được tăng cường. Quốc phòng - an
54
ninh được củng cố và tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định và
giữ vững. Hệ thống chính trị được xây dựng vững chắc, hoạt động có hiệu quả.
Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn tình trạng thực hiện chính sách xã hội, chính sách
kinh tế, giáo dục... chưa thực sự công bằng, khách quan nên việc người dân bức xúc
khiếu kiện, khiếu nại kéo dài vẫn còn nhiều. Đây cũng chính là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm ở Hải Phòng gia tăng. Là cửa ngõ giao thông
kết nối với nhiều tỉnh thành và các nước trên thế giới, Hải Phòng cũng là một trong
những điểm nóng về tội phạm có vũ khí hiện đại, nguy hiểm trong cả nước.
2.1.1.2. Tình hình tội phạm
Về tình hình an ninh tôn giáo ở Hải Phòng nhìn chung hoạt động đúng pháp
luật, không để xảy ra diễn biến phức tạp. Giáo hội, Phật giáo tổ chức các hoạt động
tham gia Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008 theo nghi lễ tôn giáo. An ninh
nông thôn, đô thị còn một số điểm khiếu kiện về quản lý đất đai, đền bù giải phóng
mặt bằng nhưng đã được tập trung giải quyết, không phát sinh điểm nóng về khiếu
kiện. Số lượt công dân khiếu kiện vượt cấp lên thành phố, Trung ương có chiều
hướng giảm dần.
Theo báo cáo của VKSNDTP Hải Phòng [60], trong thời gian qua, tình hình
tội phạm diễn biến hết sức phức tạp. Năm 2003 khởi tố 1686 vụ án hình sự tăng 94 vụ
bằng 5,9% so với năm 2002; năm 2004 khởi tố là 1704 vụ, tăng 18 vụ bằng 1% so
với năm 2003; năm 2005 khởi tố là 1733 vụ, tăng 29 vụ bằng 1,67% so với năm
2004; năm 2006 khởi tố là 1834 vụ, tăng 101 vụ bằng 5,8% so với năm 2005; năm
2007 khởi tố là 1644 vụ, giảm 190 vụ bằng 10,3% so với năm 2006; năm 2008 khởi
tố là 1661 vụ, tăng 17 vụ bằng 1% so với năm 2007; năm 2009 khởi tố 1480 giảm
181 vụ bằng 10,8% so với năm 2008, năm 2010 khởi tố: 1384 vụ giảm 96 vụ bằng
9% so với năm 2009; năm 2011 khởi tố 1497 vụ tăng 113 vụ so với năm 2010. Trong
đó, nhiều loại tội phạm nguy hiểm tăng như các tội phạm về ma túy, giết người, hiếp
dâm trẻ em, cướp tài sản và các tội gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản gây hậu
quả nghiêm trọng. Hình thức phạm tội của các đối tượng ngày càng tinh vi hơn, sử
dụng các loại vũ khí nguy hiểm đặc biệt là nhiều loại vũ khí do Trung Quốc sản xuất
55
được lưu hành trái phép trên địa bàn thành phố nhưng qua công tác giám định lại
không phải là vũ khí quân dụng: col xoay, col bas... Tính chất tội phạm ngày càng
nguy hiểm hơn, có nhiều đối tượng đồng phạm hơn...
Tội phạm về an ninh quốc gia: đã phát hiện khởi tố 1 vụ, đối tượng đã thực
hiện hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Mặc dù án
hình sự về an ninh quốc gia phát hiện và xử lý ít, nhưng các cơ quan chức năng đã
phát hiện nhiều tài liệu trên mạng Internet vu khống nhà nước ta vi phạm nhân
quyền, dân chủ với những âm mưu, thủ đoạn tinh vi.
Tội phạm về ma túy: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát hiện khởi tố từ
năm 2003 đến năm 2007 có chiều hướng giảm, nhưng đến năm 2008 có chiều hướng
gia tăng; chủ yếu là tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy.
Năm 2009 giảm 7,2% so với năm 2008; năm 2010 tăng 2% so với năm 2009; năm
2011 tăng 12,7% so với năm 2010. Tuy số lượng các vụ án ma túy lớn có giảm nhưng
chủ yếu tập trung vào các chất ma túy mới, ma túy tổng hợp sử dụng trong các nhà
nghỉ, vũ trường ngày càng gia tăng; các loại ma túy lá, cây khô (cần sa, tài mà…)
cũng được sử dụng rộng rãi hơn ở các quán bar, vũ trường, hộp đêm, nhà nghỉ…
Tội phạm về lĩnh vực trật tự xã hội: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát
hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2006 có chiều hướng tăng, nhưng đến năm 2007
và năm 2008 có chiều hướng giảm; năm 2009 tăng không đáng kể so với năm 2008,
năm 2010 tăng 10% so với năm 2009; năm 2011 giảm 0,2% so với năm 2010 chủ yếu
là tội Giết người, Hiếp dâm trẻ em, Chứa mại dâm, Cố ý gây thương tích, Đánh bạc
với quy mô lớn, Gây rối trật tự công cộng, Vi phạm quy định về an toàn giao thông
đường bộ. Đặc biệt trong năm 2010, 2011 tội phạm chống người thi hành công vụ
(lực lượng cảnh sát giao thông…) trên địa bàn thành phố gia tăng. Một số loại tội
phạm tiếp tục có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp cả về tính chất, mức độ,
thủ đoạn phạm tội...nhiều vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Điển hình là vụ
Nguyễn Dũng Giang phạm tội Giết người, các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em
gia tăng. Trong năm 2011 xảy ra vụ án vi phạm các quy định về phòng cháy chữa
cháy gây hậu quả đau thương, tang tóc làm 13 người chết, 25 người bị bỏng nặng và
thiệt hại khoảng 800 triệu đồng.
56
Tội phạm về kinh tế, chức vụ: Số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến
năm 2010 có chiều hướng giảm; năm 2011 đã khởi tố 07 vụ án tham nhũng tăng vọt
so với các năm trước. Các hành vi phạm tội chủ yếu trong lĩnh vực tài chính, đất
đai...về các tội Tham ô, Lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, Cố ý làm trái
các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, Lưu hành tiền giả, Buôn bán
hàng hóa qua biên giới, Trốn thuế, Vi phạm các quy định về quản lý đất đai… Điển
hình là vụ Vi phạm quản lý nhà nước về đất đai ở Đồ Sơn và xã Tú Sơn- Kiến Thụy.
Tội phạm về sở hữu: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát hiện khởi tố từ
năm 2003 đến năm 2007 có chiều hướng giảm, nhưng đến năm 2008 có chiều
hướng tăng; năm 2009 giảm 18,4% so với năm 2008; năm 2010 giảm 17,9% so với
năm 2009; năm 2011 tiếp tục giảm 8,4% so với năm 2010 chủ yếu là tội Cướp,
Trộm cắp, Lừa đảo tài sản… Đặc biệt chú ý là tình trạng cướp tài sản trong
container, cướp xe taxi trên đường bỏ trốn gây tai nạn giao thông với hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng. Xuất hiện các phương thức thủ đoạn phạm tội mới, người phạm
tội lợi dụng hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng hóa thông qua cửa khẩu cảng Hải
Phòng để vận chuyển ngà voi, gỗ quý, thuốc lá ngoại...
Tội phạm về hoạt động tư pháp: số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003
đến năm 2011 có số lượng ít và có chiều hướng giảm; chủ yếu là tội Trốn khỏi nơi
giam; năm 2010 có 01 vụ buôn lậu, đưa và nhận hối lộ.
Xuất phát từ đặc điểm vị trí địa lý, quá trình hình thành và phát triển của
thành phố Hải Phòng là nơi thường xuyên tiếp xúc, giao thoa với nhiều vùng miền
qua hệ thống cảng biển; đường bộ, đường không nên đây cũng là điều kiện để phát
sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm. Tổng số án thụ lý hàng năm của VKS TP Hải
Phòng (khoảng 2000 vụ/năm) chiếm từ 3,3% đến 4 % số lượng án cả nước (từ
50.000 vụ đến 60.000 vụ/ năm) (xem bảng 2.1, 2.2 phụ lục 1). Đặc trưng của tội
phạm ở Hải Phòng là có nhiều băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, thường
sử dụng các loại vũ khí nóng, hiện đại để chống trả các lực lượng chính quyền. Vì
vậy, nhiều vụ án, xuất phát từ việc bảo vệ an ninh chính trị địa phương, chính quyền
các cấp cũng có sự chỉ đạo, can thiệp để tăng cường bảo vệ an ninh nội bộ. Đây
57
cũng là một trong những áp lực và yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát. Việc đưa những vụ án điểm, đặc biệt
nghiêm trọng, phức tạp ra xét xử lưu động để tăng tính tuyên truyền, giáo dục pháp
luật thì chính bản thân những người tiến hành tố tụng lại bị đe dọa bởi chính những
phần tử xấu có liên quan đến các bị cáo trong vụ án. Có những vụ án, các KSV,
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải được bảo vệ 24/24 trong suốt thời gian xét xử
hoặc thậm chí hết thời hạn kháng cáo của các bị cáo (ví dụ vụ án giết người tại cây
xăng Đông Á). Để hoàn thành được nhiệm vụ đòi hỏi những người tiến hành tố tụng
nói chung và KSV nói riêng phải có bản lĩnh nghề nghiệp.
2.1.1.3. Tổ chức Viện kiểm sát Hải Phòng
Cùng với sự ra đời của hệ thống VKSND của nước ta, VKSND thành phố
Hải Phòng được thành lập từ năm 1960. Hiện nay, tổ chức bộ máy của VKSND
thành phố Hải Phòng có 12 phòng nghiệp vụ, gồm: Phòng THQCT, kiểm sát điều
tra, KSXX sơ thẩm án kinh tế, chức vụ (Phòng 1); Phòng THQCT, kiểm sát điều
tra, KSXX sơ thẩm án trật tự trị an xã hội (Phòng 1A); Phòng THQCT, kiểm sát
điều tra, KSXX sơ thẩm án an ninh, ma túy (Phòng 2); Phòng THQCT, KSXX phúc
thẩm, giám đốc, tái thẩm án hình sự (Phòng 3); Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù (Phòng 4); Phòng kiểm sát
việc giải quyết án dân sự (Phòng 5); Phòng kiểm sát việc khiếu tố (Phòng 7); Phòng
tổ chức cán bộ (Phòng 9); Phòng kiểm sát thi hành án dân sự (Phòng 10); Phòng
kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, hành chính và những việc khác
theo quy định của pháp luật (Phòng 12); Văn phòng tổng hợp; Phòng Thống kê tội
phạm và 15 VKS quận, huyện. Các VKS quận, huyện cơ cấu tổ chức gồm ba bộ
phận công tác: bộ phận kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và THQCT, kiểm sát điều
tra, KSXX án hình sự (bộ phận hình sự); bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, lao động, kinh doanh, thương và các việc
khác theo quy định của pháp luật, kiểm sát thi hành án (bộ phận dân sự) và bộ phận
Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và khiếu tố (văn phòng tổng hợp).
Tính đến ngày 30/11/2011, VKS Hải Phòng có 294 người làm việc. Về
trình độ chuyên môn có 01 người là tiến sĩ, 02 người là Thạc sĩ đang nghiên cứu
58
sinh, 30 người là Thạc sĩ luật hoặc đang theo học cao học, 247 người là Cử nhân
luật và các chuyên ngành khác, 4 người tốt nghiệp Cao đẳng Kiểm sát, 3 người tốt
nghiệp Trung cấp, văn thư lưu trữ. Về trình độ chính trị: 16 người tốt nghiệp Cử
nhân hoặc Cao cấp chính trị, 95 người tốt nghiệp Trung cấp hoặc tương đương. Ở
cấp tỉnh: 1 người là Viện trưởng - phụ trách chung, 3 người là Phó Viện trưởng phụ
trách nghiệp vụ, 44 người là KSV cấp tỉnh, 10 người là KSV cấp huyện, 25 người là
Kiểm tra viên, chuyên viên, cán sự, kế toán, 11 người là nhân viên hợp đồng. Ở cấp
huyện: 15 người là Viện trưởng VKSND cấp huyện, 23 người là Phó Viện trưởng, 7
KSV trung cấp, 96 người là KSV cấp huyện, 98 người là Kiểm tra viên, chuyên
viên, kế toán...
Khác với giai đoạn điều tra, tất cả các KSV, cán bộ, chuyên viên, kiểm tra
viên điều có thể làm công tác THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra thì giai đoạn
xét xử sơ thẩm chỉ có KSV - những người có chức danh tư pháp mới có quyền
THQCT và KSXX tại phiên tòa. Theo Pháp lệnh KSV quy định KSV sơ cấp chưa
được tham gia xét xử nên số lượng KSV trung cấp THQCT và KSXX tại phiên tòa
rất ít. Với số lượng 30 người làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự ở cấp tỉnh chỉ có 13 người THQCT, KSXX sơ thẩm. Còn
ở cấp huyện, thì các KSV đều tham gia phiên tòa nhưng những KSV giữ chức vụ
Viện trưởng, Phó viện trưởng rất ít khi tham gia phiên tòa. Với số lượng 156 người
làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở cấp
huyện chỉ có 50 KSV THQCT và KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự. Trong số này
chưa tính số lượng KSV chỉ chuyên làm án dân sự không làm án hình sự như VKS
Hồng Bàng, An Lão, An Dương… thì con số thực tế KSV THQCT KSXX sơ thẩm
các vụ án hình sự ở cấp huyện còn thấp hơn nữa. Do vậy, số lượng các vụ án hình
sự đưa ra xét xử hàng năm rất nhiều nên khối lượng công việc của các KSV trực
tiếp THQCT, KSXX sơ thẩm vụ án hình sự rất lớn.
Thời gian qua, VKSND TP Hải Phòng thường xuyên rà soát, kiện toàn số
cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử vụ án hình
sự; thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ dưới các hình thức hội thảo
chuyên sâu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các KSV. Bên cạnh đó,
59
các đơn vị VKS cấp huyện cũng tự tổ chức các buổi học tập rút kinh nghiệm qua
thực tiễn giải quyết các vụ án, học tập các văn bản pháp luật... vào buổi giao ban
hàng tuần như VKS Lê Chân, Hồng Bàng… đã góp phần giúp các KSV tự học hỏi
lẫn nhau, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót trong quá trình xét xử. Đến nay chất
lượng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở
VKS quận, huyện đã được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được
giao. Tuy nhiên, do trình độ, khả năng và năng lực chuyên môn giữa các KSV chưa
có sự đồng đều nên chất lượng một số phiên tòa hình sự chưa thực sự đảm bảo, vẫn
còn nhiều phiên tòa chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc phân công, bố trí nhân lực
giữa các đơn vị quận huyện chưa thực sự hợp lý, công tác luân chuyển cán bộ thực
hiện chưa quyết liệt nên chưa tạo sự năng động cho các KSV…
Nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất cho hoạt động công tác kiểm sát từ
năm 2006 đến năm 2011 toàn ngành đã xây dựng được nhiều trụ sở làm việc mới,
được trang bị mới nhiều máy tính và máy phôtô, máy fax, máy ghi hình, máy chụp
ảnh và nhiều trang thiết bị khác. Đáng chú ý là toàn ngành đã tập trung ưu tiên cho
việc đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin, liên lạc, đến nay đã ứng dụng
thành công nhiều phần mềm như: quản lý án hình sự, hộp thư điện tử, quản lý công
văn… phục vụ có hiệu quả cho công tác lãnh đạo, điều hành của VKS.
2.1.2. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hải Phòng
Theo báo cáo của VKSND TP Hải Phòng, hàng năm VKS thụ lý kiểm sát
điều tra, truy tố, xét xử hàng nghìn vụ án hình sự (xem bảng 2.2 phụ lục 1).
2.1.2.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử
VKS chuyển hồ sơ vụ án cùng bản Cáo trạng truy tố bị can sang tòa án là
thời điểm mở đầu cho giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trách nhiệm của VKS trong giai
đoạn này là kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với các
bị cáo; kiểm sát việc ra các quyết định của Tòa án có đúng quy định pháp luật hay
không. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án và phối hợp với Tòa án
cụ thể là Thẩm phán chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa đặc
60
biệt là những vụ án đưa ra xét xử lưu động, án điểm, án mẫu hoặc án bị cáo, bị hại
là người chưa thành niên có nhược điểm về thể chất, tâm thần…
- Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: thông thường các bị cáo sẽ
vẫn tiếp tục được áp dụng biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng ở giai đoạn truy tố
(Ví dụ: CQĐT, VKS áp dụng biện pháp tạm giam, sang giai đoạn chuẩn bị xét xử
Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam; hoặc CQĐT, VKS áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác: bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú thì sang Tòa án vẫn tiếp tục
duy trì áp dụng biện pháp này). Rất hiếm trường hợp Tòa án thay đổi biện pháp
ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nhất là biện pháp ngăn chặn tạm giam
bằng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú. Đặc
biệt đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo ở Hải Phòng chưa áp dụng đối
với 01 bị can nào trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Biện pháp này được
quy định trong BLTTHS 2003 nhưng đến nay gần 10 năm trôi qua hầu như không
được áp dụng trên thực tiễn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chưa có văn
bản pháp luật quy định số lượng tiền cụ thể, loại tội và đối tượng có thể áp dụng.
Các CQTHTT còn e ngại trong việc áp dụng biện pháp này. Do vậy, hầu như quy
định này được xem như quy định "treo" của luật. Đây là tình trạng chung của cả
nước không riêng Hải Phòng.
Về thời hạn tạm giam, Tòa án duy trì thường đúng quy định pháp luật,
không để xảy ra quá hạn tạm giam. Theo quy định tại Nghị Quyết số 04/2004 ngày
05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP)- TANDTC hướng dẫn thi hành một số
quy định về "xét xử sơ thẩm" quy định việc kéo dài thời hạn tạm giam cho đến khi xét
xử vụ án xong. Việc áp dụng lệnh tạm giam vô thời hạn này của Tòa án cũng rất hiếm
khi áp dụng, đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, đặc biệt phức tạp, đông bị
can... mới áp dụng loại lệnh giam này (ví dụ vụ án giết người tại cây xăng Đông Á,
vụ chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng ở Ngô Quyền...).
Theo quy định tại điều 176 BLTTHS, trong thời gian chuẩn bị xét xử Tòa
án có thể ban hành các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ
sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án:
61
BLTTHS quy định nhiều căn cứ để Tòa án có thể tiến hành ra các quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ xét xử đối với vụ án. Nhưng thực tiễn tại Hải Phòng, các Tòa
án tiến hành ra quyết định đình chỉ xét xử khi bị cáo chết, người bị hại rút đơn yêu
cầu khởi tố, bị can không có năng lực trách nhiệm hình sự... Tạm đình chỉ vụ án khi
bị cáo tại ngoại chốn, hoặc khi chưa có kết luận của cơ quan chuyên môn về vấn đề
cụ thể trong vụ án (ví dụ: kết luận giám định về tình trạng bệnh lý của bị can như mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm giảm hoặc mất khả năng nhận thức của bị cáo...).
Việc trả hồ sơ giữa các CQTHTT là việc làm bình thường được quy định tại
các điều 166, 176 BLTTHS nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, do nhận thức
khác nhau về việc trả hồ sơ giữa các CQTHTT đặc biệt là Tòa án và VKS về những
chứng cứ quan trọng trong vụ án nên tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn
nhiều. Theo quy chế phối hợp giữa hai ngành thì các bên phải trao đổi với nhau
trước khi tiến hành trả hồ sơ nhưng đa phần các Thẩm phán được phân công giải
quyết vụ án không trao đổi với VKS mà tiến hành ra quyết định trả hồ sơ ngay. Với
quan niệm: không có án trả hồ sơ điều tra bổ sung là thành tích thi đua đã gây ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động tố tụng và gây khó khăn cho những người tiến
hành tố tụng.
Mặc dù trong nhiều năm tỷ lệ án trả hồ sơ giảm, nhưng tỷ lệ Tòa án trả
đúng vẫn còn cao (xem bảng 2.3- phụ lục 1; phụ lục 2). Nguyên nhân dẫn đến việc
trả hồ sơ giữa các CQTHTT là do: tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, mức độ
phạm tội ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi,
nhiều vụ án phạm tội đông bị cáo, các đối tượng phạm tội có tổ chức, kết cấu chặt
chẽ mang tính chất bang, nhóm làm cho việc điều tra xác minh thu thập chứng cứ
gặp khó khăn. Một số điều luật quy định tội ghép của BLHS miêu tả các hành vi
khách quan và cấu thành đặc trưng của tội phạm chưa cụ thể, không rõ ràng làm cho
việc nhận thức và vận dụng còn chưa thống nhất. Việc ban hành các văn bản hướng
dẫn còn chậm và thiếu. Ảnh hưởng của Nghị Quyết 388/2003/ NQ- UBTVQH về
Bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự gây ra làm cho tâm lý một số ĐTV, KSV, Thẩm phán quá thận trọng trong đấu
62
tranh, xử lý tội phạm, né tránh để trả hồ sơ dù cho lý do không xác đáng. Mặt khác,
trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của KSV trong hoạt động kiểm sát điều
tra còn yếu, việc xác định tội danh, phân tích, tổng hợp đánh giá chứng cứ chưa
chính xác. Việc nhận thức pháp luật giữa các KSV, Thẩm phán còn chưa thống
nhất, đồng đều. Ý thức trách nhiệm của KSV trong việc thực hiện nhiệm vụ còn hạn
chế; thiếu chủ động, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để phát hiện những sai sót,
chưa đề ra yêu cầu điều tra cụ thể, chưa làm tốt việc kiểm sát kết thúc điều tra dẫn
đến tình trạng hồ sơ chuyển sang VKS đề nghị truy tố hoặc truy tố chuyển Tòa mới
phát hiện thiếu sót.
Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi khác
liên quan đến vụ án, gặp gỡ các bị can bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử rất ít
khi diễn ra trên thực tế. Vì đa số các vụ án thuộc trường hợp này VKS rất cẩn trọng
trong suốt quá trình điều tra đến khi truy tố. Các KSV làm việc với tinh thần trách
nhiệm cao, ít để xảy ra sai sót đến thời điểm này mới khắc phục. Tuy nhiên, về mặt
pháp luật BLTTHS không quy định cụ thể các trường hợp này mà chỉ được quy
định trong Quy chế nghiệp vụ của ngành nên tính pháp lý không cao. Khi đã chuyển
hồ sơ vụ án sang Tòa án là quyền hạn của VKS trong việc trích xuất bị can không
còn, những trường hợp này đa phần các bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam. Khi giao cáo trạng, VKS đã có lệnh trích xuất bị can ghi rõ lý do. Trình tự thủ
tục trích phạm nhân ở các Trại giam rất khó khăn, các thông tin xuất nhập trại được
cập nhật và thông tin hàng ngày do vậy VKS không thể tự mình trích xuất bị can
thực hiện các quyền năng trên được. Thực tiễn tại địa phương, VKS phải phối hợp
cùng Tòa án trích xuất bị can thông qua lệnh của Tòa án, Thẩm phán và KSV cùng
vào trại tạm giam làm việc. Nếu không có sự phối kết hợp quyền năng này của VKS
khó có thể thực hiện được.
Tòa án tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án chủ yếu là do bị cáo chết hoặc bị
hại rút đơn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Các trường hợp đình chỉ đúng quy định
pháp luật. Việc tạm đình chỉ xét xử của Tòa án chủ yếu do các bị cáo tại ngoại bỏ
trốn trong giai đoạn xét xử, hoặc tạm đình chỉ để chờ kết quả giám định của cơ quan
chuyên môn (chiếm số lượng ít) và hiếm có lý do tạm đình chỉ khác.
63
Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo, các bị cáo phạm nhiều tội danh
khác nhau, khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ hoặc được dư luận quan tâm,
thông thường Thẩm phán sẽ trù bị trước với KSV về việc xử lý các tình huống dự
kiến sẽ xảy ra tại phiên tòa, xác định các đối tượng sẽ triệu tập đến phiên tòa, cách
thức xét hỏi của Thẩm phán, KSV phù hợp với đặc điểm của vụ án. Ví dụ vụ án
Dương Văn Minh nguyên là Phó giám đốc Công ty cổ phần thoát nước và vệ sinh
phạm tội sử dụng trái phép tài sản trên địa bàn quận Lê Chân. Vụ án này có 03 Luật
sư bào chữa cho bị cáo. Quá trình điều tra, bị cáo và các Luật sư của bị cáo có quan
điểm bị cáo không phạm tội vì bị cáo chỉ mượn tư cách pháp nhân của Công ty nên
không sử dụng trái phép tài sản, hành vi của bị cáo không gây hậu quả nghiêm trọng
nên không cấu thành tội. Dự tính được các tình huống sẽ xảy ra tại phiên tòa, KSV đã
trù bị kỹ lưỡng với Thẩm phán về việc mời những đối tượng nào ra phiên tòa, trù bị
cách thức xét hỏi, phạm vi xét hỏi... do vậy phiên tòa đã diễn ra rất thành công. Tuy
nhiên, không phải Thẩm phán nào cũng thực hiện tốt Quy chế phối hợp này. Ví dụ,
có những vụ án nhiều bị can, bị can phạm nhiều tội, nhiều người tham gia tố tụng (vụ
gây rối Hồ Sen, Việt Tiệp, vụ Đầm Bầu), khi xét hỏi, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
hỏi lần lượt tất cả các bị cáo, các hành vi phạm tội, hỏi những người tham gia tố tụng
khác sau đó đến HTND, thời gian hỏi có thể kéo dài cả buổi hoặc cả ngày. Đến khi
KSV tham gia xét hỏi làm rõ các tình tiết, chứng cứ khác của vụ án phải nhắc lại một
số nội dung đã được Thẩm phán đã xét hỏi tạo nên sự dài dòng, mất thời gian, gây
mệt mỏi cho những người tham gia tố tụng và người dự phiên tòa. Trong những
trường hợp này Thẩm phán có thể trù bị trước với KSV để thống nhất cách xét hỏi
theo phương pháp "cuốn chiếu" đối với từng bị cáo hoặc tội danh. Thậm chí có thể
trù bị cả với HTND để tránh hỏi lại những nội dung Thẩm phán đã hỏi.
Đối với phiên tòa có bị cáo tại ngoại Thẩm phán không dự kiến trước tình
huống bị cáo vắng mặt tại phiên tòa để chuẩn bị phương án áp giải.
Có phiên tòa Thẩm phán không trao đổi với cơ quan Công an và Cảnh sát
hỗ trợ tư pháp về dự kiến thời gian xét xử nên có phiên tòa khai mạc quá muộn so
với thời gian trong quyết định gây tâm lý không tốt đối với những người tham gia tố
tụng, thậm chí có nhân chứng, bị hại bỏ về. Cá biệt có trường hợp xử quá giờ (hơn
64
12h), nên đến giờ nghị án Cảnh sát bảo vệ tự ý dẫn bị cáo về Trại giam không báo
với HĐXX (lý do Trại giam có quy định phải trả phạm nhân trước 12h). Có phiên
tòa xét xử lưu động (Vụ án Lê Văn Trường phạm tội cướp tài sản) ở một xã, Thẩm
phán không trù bị trước với Cảnh sát bảo vệ về phương án bảo vệ phiên tòa nên các
đồng chí Cảnh sát chỉ lưu ý bảo vệ can phạm mà không giữ trật tự phía ngoài tạo
nên sự lộn xộn gây ảnh hưởng không nhỏ đến phiên tòa.
2.1.2.2. Giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm
Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án gửi đến VKS và tiến
hành giao cho những người tham gia tố tụng để họ biết tham gia phiên tòa.
Theo quy định tại Điều 178 BLTTHS quy định, nội dung và hình thức của
Quyết định đưa vụ án ra xét xử gồm: ngày tháng năm, địa điểm mở phiên tòa, hình
thức xét xử, tên của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng,
vật chứng kèm theo... Thực tiễn hoạt động kiểm sát, ít khi có quyết định không
đúng về hình thức và nội dung nêu trên, các vụ án đều được đưa ra xét xử. Tuy
nhiên, vẫn còn một số trường hợp KSV thiếu trách nhiệm, làm việc qua loa, cẩu thả,
không kiểm sát kỹ nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến khi mở phiên tòa Luật
sư tham gia bào chữa cho bị cáo có ý kiến về việc Quyết định đưa ra xét xử đối với bị
cáo không nêu rõ hình thức xét xử là kín hay công khai là vi phạm pháp luật tố tụng
nên đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa tiến hành tống đạt lại quyết định để đảm bảo quyền
lợi cho bị cáo (vụ Nguyễn Văn Khánh phạm tội Giết người). Đây là trường hợp kéo dài
việc giải quyết vụ án không đáng có. Tương tự như vậy vụ án Nguyễn Văn Hoàng
phạm tội Hiếp dâm trẻ em, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người bị hại yêu cầu Tòa án
phải đính chính, bổ sung quyết định đưa vụ án ra xét xử nêu rõ hình thức xét xử là
xét xử kín để đảm bảo uy tín, danh dự và các quyền lợi ích khác cho người bị hại.
Bên cạnh đó, việc xác định tư cách của những người tham gia tố tụng
thường không chính xác: ví dụ trong quyết định đưa vụ án ra xét xử một tư cách, ra
phiên tòa với tư cách khác hoặc khác so với diễn biến vụ án. Đặc biệt trong các vụ
án Chống người thi hành công vụ, việc xác định tư cách tham gia tố tụng người thi
hành công vụ (thường là công an, cảnh sát giao thông) là người có quyền lợi nghĩa
65
vụ liên quan hay là nhân chứng hay cả hai tư cách; hoặc trong vụ án hủy hoại tài sản
việc xác định người trông coi quản lý tài sản tư cách là người bị hại hay nhân
chứng, chủ sở hữu hợp pháp tài sản là nguyên đơn dân sự hay bị hại... Về vấn đề
này vẫn còn nhiều quan điểm đánh giá khác nhau giữa Thẩm phán và KSV.
Hoặc trường hợp thay đổi HTND do bận công tác, trong quyết định đưa vụ
án ra xét xử tên một người, ra phiên tòa lại là người khác... Theo quy định của pháp
luật, phải tống đạt lại cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để đảm bảo
quyền và lợi ích của họ nhưng một số trường hợp các Thẩm phán và KSV tự sửa
chữa, thay đổi Quyết định đưa vụ án ra xét xử rồi thông báo cho nhau, không tống
đạt lại cho bị cáo. Thậm chí có trường hợp sau khi xét xử xong, đến khi hoàn chỉnh
hồ sơ lưu trữ hoặc kiểm tra chuyên môn thì lúc đó mới chỉnh sửa để hợp thức hóa.
Tại phiên tòa Thẩm phán cũng hỏi ý kiến của bị cáo về việc thay đổi này, đa phần
các bị cáo không có ý kiến mà chấp nhận ngay sự thay đổi này. Việc chấp nhận của
bị cáo một phần là do không hiểu biết pháp luật.
Việc chuẩn bị đề cương xét hỏi và dự thảo luận tội trong những năm gần
đây của các KSV đã có nhiều chuyển biến tích cực. Với quy định lãnh đạo VKS
duyệt đề cương xét hỏi, luận tội khi duyệt án xét xử cũng là biện pháp góp phần
nâng cao chất lượng của đề cương xét hỏi và dự thảo luận tội. Đề cương xét hỏi và
luận tội sát với nội dung vụ án, gần với diễn biến phiên tòa. Các KSV đã chủ động,
tích cực hơn trong hoạt động chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, vẫn còn những đề cương
xét hỏi và luận tội mang tính hình thức, cắt dán, copy từ những vụ án giống nhau
chỉ thay đổi tên bị cáo, có những đề cương xét hỏi và luận tội giống nhau gần như
tuyệt đối. Một số KSV thể hiện sự chủ quan, thiếu thận trọng đối với những vụ án
đơn giản, quả tang, chứng cứ rõ ràng, đề cương xét hỏi và luận tội sơ sài chỉ có vài
dòng hoặc nảy sinh tâm lý ỷ lại, làm việc qua loa, đại khái vì đã có lãnh đạo duyệt.
2.1.2.3. Tại phiên tòa sơ thẩm
a. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Việc kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa từ khi Thư ký Tòa án vào phòng xử
án, đọc nội quy phiên tòa và kết thúc khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên bố
66
chuyển sang phần xét hỏi. Trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này rất quan trọng,
ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động, diễn biến của phiên tòa. Nếu phần thủ tục chưa
đầy đủ, hoặc thiếu những người tham gia tố tụng có thể ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án KSV có quyền yêu cầu HĐXX hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Thực tiễn xét xử ở Hải Phòng những năm qua cho thấy, các Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa điều hành phiên tòa rất có "nghề", trình độ nghiệp vụ cao, chất lượng
phiên tòa được nâng lên đáng kể góp phần tăng uy tín của Tòa án nói riêng và các Cơ
quan tư pháp nói chung. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên
tòa, thấy Tòa án (Thẩm phán) còn một số hạn chế sau: không yêu cầu Thư ký và
Cảnh sát bảo vệ phiên tòa đảm bảo trật tự phiên tòa trước khi HĐXX vào phòng xử
án; không yêu cầu Thư ký phiên tòa thông báo nội quy phiên tòa nên khi người dân
đến tham dự phiên tòa đưa cả con nhỏ dưới 3 tuổi vào phòng xử án, khi KSV yêu cầu
cho cháu bé ra khỏi phòng xử án thì mẹ của cháu bé phản ứng lại về việc không có
quy định nào không cho trẻ em vào phòng xử án. Đây là phiên tòa lưu động, Thư ký
tòa án quên không phổ biến nội quy phiên tòa. Lỗi một phần cũng thuộc về KSV.
Mặc dù KSV đến sớm nhưng không ở dưới Hội trường xử án mà vào phòng xử án
cùng HĐXX nên không kiểm sát được các thủ tục trước khi phiên tòa bắt đầu. Cá biệt
có Thẩm phán không yêu cầu Thư ký báo cáo về lý do vắng mặt của những người
tham gia tố tụng: nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan... Thẩm phán
không hỏi bị cáo, bị hại về vấn đề này mà chỉ hỏi ý kiến KSV và Luật sư. KSV
THQCT, KSHĐTP tại phiên tòa phát hiện ra vi phạm tố tụng của Thẩm phán không
phản ứng ngay sợ gây phản cảm cho người dân đến tham dự phiên tòa về hình ảnh
của những người tham gia tố tụng. Đến phần xét hỏi hoặc tranh luận bị cáo yêu cầu
có mặt nhân chứng, lúc đó chủ tọa mới giải quyết. Lỗi một phần thuộc về KSV do
thái độ nể nang không kiên quyết trong việc ứng xử tại phiên tòa.
Đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến muộn, khi
phiên tòa đang xét xử (sau phần thủ tục) một số Thẩm phán không kiểm tra căn cước
mà dễ dàng chấp nhận, hoặc không giải thích quyền và nghĩa vụ của những người này
(ví dụ, vụ Vũ Văn Cường phạm tội Giao cấu với trẻ em). Việc kiểm tra căn cước của
67
Luật sư thường gây ra sự căng thẳng giữa Luật sư và Thẩm phán. Cũng có Luật sư
chấp nhận nhưng cũng có Luật sư thể hiện thái độ khó chịu, "mặt nặng mày nhẹ" tạo
không khí đầy căng thẳng tại phiên tòa. Thậm chí có Luật sư bỏ về không bào chữa
cho bị cáo nữa (Luật sư chỉ định). Đây cũng là một trong những quy định chưa có
hướng dẫn cụ thể, có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các Thẩm phán nên cũng cần có
hướng dẫn của các cơ quan liên ngành để tránh những trường hợp không đáng có.
Hầu hết các Thẩm phán (cấp huyện) không hỏi ý kiến KSV và những người
tham gia tố tụng xem có cần triệu tập nhân chứng hoặc đưa vật chứng, tài liệu xem
xét tại phiên tòa hay không. Trong khi đó có Thẩm phán bất kỳ tình huống nào phát
sinh cũng hỏi ý kiến KSV: như bị cáo xin được đeo kính vì cận thị, bị cáo xin được
ngồi vì bị đau chân…trong trường hợp này Thẩm phán hoàn toàn có thể quyết định
ngay mà không cần hỏi ý kiến KSV.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ của một số Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa chưa chuyên nghiệp, làm việc theo lối mòn, thói quen, không tôn
trọng những người tiến hành tố tụng, những người tham dự phiên tòa. Ý thức trách
nhiệm chưa cao. Bên cạnh đó, KSV cũng có phần trách nhiệm, còn có tâm lý nể
nang không nhắc nhở kịp thời, không chủ động can thiệp khi phát hiện Thẩm phán
đang sa đà vào vấn đề nào đó, chưa có ý kiến kịp thời về việc điều khiển phiên tòa
sót những phần thủ tục quan trọng. Đối với những vụ án không có người dân đến
tham dự phiên tòa, cả Thẩm phán và KSV đều có tâm lý làm cho xong nhanh nhanh
chóng chóng kết thúc để còn làm việc khác.
b. Đọc cáo trạng
Mở đầu cho giai đoạn xét hỏi, KSV công bố cáo trạng truy tố đối với bị cáo
và các văn bản bổ sung, thay đổi quyết định truy tố nếu có.
Trong những năm qua, chất lượng các bản cáo trạng đã được nâng lên, đáp
ứng được nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình mới. Việc ban hành Cáo trạng
là nhiệm vụ chủ yếu và trọng tâm của VKS nhưng đây lại là nhiệm vụ đặc trưng
nhất của giai đoạn truy tố. Ở giai đoạn xét xử, chất lượng cáo trạng cũng phần nào
ảnh hưởng đến chất lượng phiên tòa. Bởi nếu cáo trạng xây dựng ngắn gọn, rõ ràng,
68
súc tích khi KSV công bố người tham dự phiên tòa nghe dễ hiểu, nắm bắt được nội
dung cơ bản của vụ án tạo điều kiện cho việc xét hỏi có trọng tâm, tập trung vào
những vấn đề buộc tội, giúp cho KSV và những người tham gia tranh tụng xác định
giới hạn tranh tụng một cách cụ thể, tránh lan man, mất thời gian...
Thực tiễn ban hành Cáo trạng tại địa phương thấy còn một số hạn chế như:
vẫn còn tình trạng sử dụng văn nói, ngôn từ chưa rõ ràng, sử dụng từ địa phương
không mang tính phổ thông, sao chép nội dung kết luận điều tra. Đối với những vụ
án phức tạp, đông bị can, phạm nhiều tội hoặc có khó khăn trong việc đánh giá
chứng cứ KSV còn lúng túng trong việc lựa chọn cách viết. Đối với vụ án đông bị
can có bị can trốn, truy nã tạm đình chỉ sau này phục hồi điều tra, xét xử sau. Khi
viết cáo trạng, có KSV chưa biết diễn tả hành vi khách quan của đối tượng, không
tập trung vào hành vi của đối tượng phục hồi mà lại viết dàn trải như Cáo trạng lần
đầu, hoặc thậm chí còn sao chép lại nội dung Cáo trạng trước... Một số KSV diễn
đạt lủng củng, khó hiểu, hoặc quá dài dòng dẫn đến tình trạng sau khi KSV công bố
cáo trạng người tham dự phiên tòa không hiểu rõ nội dung vụ án, có những trường
hợp sau khi luận tội xong người tham dự phiên tòa mới hiểu bị can phạm tội gì,
thuộc khung khoản, điều luật nào...
Tại phiên tòa đa phần các KSV đọc cáo trạng to, rõ ràng, rành mạch, dứt
khoát, có điểm nhấn, ngắt nghỉ đúng nhịp tạo sự uy nghiêm trang trọng tại phiên
tòa. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, vẫn còn một số KSV không chịu
sửa chữa hạn chế của bản thân như: phát âm chưa chuẩn, nói bị ngọng, nói ê a, nói
nhỏ... khi đọc Cáo trạng gây tâm lý không tốt cho những người tham dự phiên tòa.
Hoặc có KSV đọc quá nhanh, nhấn mạnh quá nên giọng đọc bị giật cục, có KSV
phát âm tiếng nước ngoài chưa chuẩn nên gây phản cảm trước công chúng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do KSV chưa có ý thức tự sửa chữa
những nhược điểm của bản thân. Một số KSV lớn tuổi không có ý thức phấn đấu,
không nhiệt tình trong công việc nên nảy sinh tâm lý làm việc qua loa, đại khái, làm
cho xong việc. Mặc dù lãnh đạo các cấp đã sát sao kiểm tra, giám sát mọi hoạt động
nghiệp vụ của KSV nhưng có những trường hợp do KSV báo cáo quá muộn không
69
còn đủ thời gian khắc phục những hạn chế, những khiếm khuyết trong hồ sơ vụ án
nên nhiều khi phải chấp nhận "sản phẩm không hoàn hảo của KSV" chuyển Tòa vì
thời hạn truy tố không còn. Một phần cũng do lãnh đạo quá nhiều việc không thể
bao quát hết mọi việc, năng lực trình độ của lãnh đạo có phần hạn chế chưa bao
quát hết toàn bộ nội dung vụ án. Thậm chí có lãnh đạo chỉnh sửa cáo trạng khi
duyệt truy tố chỉ mang tính chất qua loa, đại khái, ỉ vào cấp cao hơn. Việc phân án
chưa căn cứ vào năng lực, trình độ của KSV: phân những vụ án quá phức tạp, quá
khó cho những KSV chưa có kinh nghiệm gây khó khăn cho hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử.
c. Xét hỏi tại phiên tòa
Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 của
BLTTHS. Phạm vi xét hỏi là phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án. Việc xét
hỏi chỉ được kết thúc khi mọi tình tiết của vụ án đã được làm rõ một cách đầy đủ.
Theo quy định tại Điều 209 BLTTHS thì KSV có trách nhiệm hỏi về những tình tiết
của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội; Luật sư hỏi về các tình tiết liên quan
đến việc bào chữa.
Trong những năm qua, đa số các Thẩm phán đều tuân thủ đúng các quy
định của BLTTHS. Các phiên tòa xét xử sơ thẩm hàng năm vẫn đạt kết quả tốt. Bản
thân mỗi KSV đều nhận thức việc xét hỏi tại phiên tòa vừa là quyền vừa là nghĩa vụ
nên khi tham gia phiên tòa đều chuẩn bị kỹ lưỡng đề cương xét hỏi, dự thảo những
tình huống phát sinh, những câu hỏi sẽ hỏi bị cáo, người làm chứng, người bị hại,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan... Tại phiên tòa có những tình huống nằm
ngoài dự kiến phát sinh, KSV đã chủ động đặt câu hỏi, đấu tranh với các bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác về sự thay đổi lời khai. KSV đặt các câu hỏi
ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với nội dung vụ án và sát với quan điểm buộc tội của
VKS. Âm lượng của KSV tại phiên tòa vừa đủ, phù hợp, cách hỏi các đối tượng
khác nhau cũng có sự điều chỉnh về cách thức và ngữ điệu hỏi làm cho việc xét hỏi
tại phiên tòa đạt kết quả cao. Ví dụ vụ án Nguyễn Văn Quý phạm tội Cướp tài sản
theo quy định tại khoản 2 điều 133 BLHS. Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
70
do quá nghiện game online, nhận thức của bị cáo về các quan hệ xã hội, về cuộc
sống thực và cuộc sống ảo trong game còn mơ hồ. KSV đã lựa chọn cách thức hỏi,
cách đặt câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi học sinh cấp 2, giọng điệu
không quá nhẹ nhàng, không quá đanh thép nên không gây ra tâm lý hoảng sợ bị áp
lực đối với 1 cháu bé ở tuổi 15 đứng trước phiên tòa đông nghịt người. Hoặc vụ án
Dương Văn Minh phạm tội Sử dụng trái phép tài sản. Tại phiên tòa, KSV đặt câu
hỏi ngắn gọn rõ ràng, kiên quyết đấu tranh với bị cáo Minh về ý thức chủ quan
trong việc sử dụng trái phép tài sản của công ty Cổ phần thoát nước và vệ sinh.
Cách xét hỏi của KSV tại phiên tòa đã làm rõ được bản chất hành vi phạm tội của bị
cáo. Hoặc vụ án Nguyễn Thị Thanh và đồng bọn phạm tội gây rối trật tự công cộng tại
quận Ngô Quyền và Hồng Bàng. Xuất phát từ việc vi phạm an toàn giao thông đường
bộ của Trần Đức Thành hậu quả làm Thành bị chấn thương sọ não dẫn đến tử vong.
Gia đình Thành cho rằng cảnh sát cơ động gây ra cái chết cho Thành nên trong đám
tang của Thành, gia đình và bạn bè Thành khoảng trên 100 người đã gây rối từ ngã
tư Lê Lai, Lê Thánh Tông đến trụ sở Công an thành phố. Các đối tượng tham gia
gây rối kéo dài trên 1 giờ đồng hồ: đập phá xe cảnh sát, trụ sở công an thành phố,
chửi bới, hò hét, kích động, hành hung các đồng chí công an, khiêng quan tài vào
công an thành phố... CQĐT tiến hành khởi tố 28 đối tượng. Nhận thấy đây là vụ án
phức tạp, KSV đã tiến hành tổng hợp chứng cứ, chuẩn bị câu hỏi từ dễ đến khó, hỏi
các bị cáo thành khẩn khai báo về nhiều hành vi phạm tội của các bị cáo khác trước,
các bị cáo thiếu thành khẩn hỏi sau... Trù bị với Thẩm phán về các nội dung KSV sẽ
hỏi, phạm vi nội dung hỏi của HĐXX. Kết quả đấu tranh tại phiên tòa các bị cáo
đều khai nhận hành vi phạm tội và không tranh luận gì sau khi KSV luận tội.
Tuy nhiên, ở một số phiên tòa còn có tình trạng KSV không tham gia xét
hỏi vì cho đó là trách nhiệm của HĐXX hoặc nếu có tham gia thì chỉ tập trung vào
việc buộc tội bị cáo mà không chú ý đến các tình tiết gỡ tội và các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự. Các câu hỏi còn chưa được chuẩn bị trước, kỹ năng xét hỏi
chưa nhuần nhuyễn dẫn đến việc những tình tiết cần làm rõ thì chưa được hỏi nhưng
lại hỏi lại những vấn đề đã được HĐXX hỏi và làm rõ. Hoặc có KSV khi xét hỏi
thường tỏ thái độ coi thường bị cáo, gây áp lực tâm lý như yêu cầu bị cáo phải đứng
71
nghiêm, trả lời to… Đối với những vụ án đơn giản thì thường Thẩm phán và HTND
đã hỏi rất kỹ nên KSV không cần thiết phải hỏi thêm. Đối với những vụ án phức tạp,
đông bị cáo, đông người tham gia tố tụng, bị cáo phạm nhiều tội, bị cáo không nhận
tội hoặc lúc nhận lúc không nhận tội, KSV thường hỏi rất vất vả để bảo vệ cáo trạng
của mình. KSV chỉ tập trung hỏi những gì phục vụ cho việc truy tố, hỏi những nội
dung mà HĐXX chưa hỏi. Cá biệt vẫn còn nhiều KSV hỏi quá nhẹ nhàng, ngữ điệu
không uy nghiêm, đặt câu hỏi dài dòng, khi xét hỏi nặng về giải thích, hỏi mớm, hỏi
dụ, ép cung hoặc mang tính đe dọa "nếu không khai báo thành khẩn thì không cho
hưởng tình tiết giảm nhẹ...", "bị cáo loanh quanh chối tội chỉ làm cho tội của bị cáo
nặng thêm", " khai như vậy là quyền của bị cáo...". Có thẩm phán đặt câu hỏi không
tương xứng với trình độ của bị cáo hoặc bị cáo là người dân tộc thiểu số nên không
hiểu ý nghĩa câu hỏi của Thẩm phán (vụ Hoàng Thị Phớ phạm tội Chứa mại dâm - bị
cáo điều hành công việc như thế nào, bị cáo không hiểu thế nào là điều hành). Hoặc
vụ án bị cáo là người chưa thành niên nhưng đặt câu hỏi khó hiểu không phù hợp với
lứa tuổi... làm mất tính khách quan và giảm đi chất lượng xét hỏi tại phiên tòa.
Để đảm bảo việc xét hỏi của KSV tại phiên tòa đảm bảo chất lượng, thì mỗi
KSV cần ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ nội dung các câu hỏi của Thẩm phán, HTND và
thậm chí cả câu hỏi của Luật sư để dự kiến những vấn đề sẽ tranh tụng. Việc xét hỏi
của KSV phải được xây dựng thành chiến thuật hỏi phù hợp với diễn biến vụ án để
phục vụ tốt cho việc đấu tranh công khai tại Tòa. KSV cần nắm kỹ các tình tiết dù
là nhỏ nhất, các thông tin xung quanh vụ án, tìm hiểu tâm lý đối tượng đang hỏi để
sử dụng chiến thuật hỏi cho phù hợp.
Qua KSHĐTP thấy một số Thẩm phán xét hỏi còn những khiếm khuyết
như: chưa chú ý đến thái độ, giọng nói của mình (nói quá nhỏ trong khi micro
không bắt tiếng), hỏi người bị hại hoặc người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan... với một thái độ gay gắt nên có trường hợp trong quá trình xét hỏi họ
tự ý bỏ về. Khi KSV đề nghị được xét hỏi, Thẩm phán không có ý kiến phản hồi,
thậm chí khi đề nghị HTND xét hỏi Thẩm phán không nói bằng lời mà ra hiệu (hất
hàm). Khi xét hỏi những người tham gia tố tụng như người đại diện hợp pháp,
người bị hại…có Thẩm phán để cho họ tự do phát biểu, ngược lại có Thẩm phán
72
không để cho họ trình bày một cách đầy đủ. Một số phiên tòa có Luật sư, chủ tọa
phiên tòa còn để Luật sư mớm cung cho thân chủ mà không nhắc nhở. Một số Thẩm
phán xét hỏi lan man, tập trung quá nhiều vào những vấn đề không liên quan đến
hành vi phạm tội. Ví dụ, bị cáo bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản, tại phiên tòa bị
cáo khai do nghiện ma túy nên đi lang thang tìm cơ hội trộm cắp. Thẩm phán hỏi bị
cáo 1 ngày sử dụng bao nhiêu lần ma túy, mua ở đâu, của ai vv... thời gian dành xét
hỏi vấn đề này còn nhiều hơn hỏi về hành vi trộm cắp.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán nhận được đơn, huân, huy
chương của gia đình bị cáo, không đưa ra xem xét tại tòa nhưng khi tuyên án vẫn
xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ (Vụ Phạm Văn Hiện phạm tội cướp tài
sản). Việc xem xét vật chứng tại tòa hầu như không được các Thẩm phán chú ý.
Hiện nay, VKS và Tòa án Hải Phòng có nhiều quan điểm khác nhau về
cách xét hỏi tại phiên tòa nhưng chủ yếu là 2 cách sau:
Cách thứ nhất: Thẩm phán xét hỏi tất cả vấn đề trong vụ án, vừa xét hỏi,
vừa công bố các tài liệu chứng cứ, vừa đấu tranh nếu bị cáo khai khác với tài liệu tại
CQĐT. Việc xét hỏi như trên xuất phát từ cách hiểu quy định pháp luật: khoản 1
Điều 207 BLTTHS: "HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và
từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý"…; khoản 3 Điều 209, Điều 210, Điều 211
BLTTHS quy định: KSV hỏi bị cáo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến
việc buộc tội, gỡ tội, hỏi thêm những người tham gia tố tụng khác về những vấn đề
thấy cần thiết. Như vậy có thể hiểu là HĐXX trong đó chủ yếu là Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa có trách nhiệm làm rõ đầy đủ nội dung và tình tiết vụ án, còn KSV chỉ bổ
sung, củng cố chứng cứ. Hơn nữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng là người tiến
hành tố tụng mà trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT và những
người tiến hành tố tụng trong đó có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thực tế trình độ
của KSV cũng không đồng đều nên trong những trường hợp này Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa đã "hỗ trợ" nhiều cho KSV đặc biệt là những KSV chưa có kinh nghiệm.
Cách thứ 2: Thẩm phán chỉ hỏi qua loa hoặc khi hỏi thấy có sự thay đổi lời
khai (khác với lời khai tại CQĐT) thì không tiếp tục hỏi nữa mà quay ngay sang
73
KSV "đề nghị làm rõ vấn đề này". Cách hỏi này xuất phát từ nhận thức cho rằng
trách nhiệm chứng minh và buộc tội là của KSV còn Thẩm phán chủ tọa phiên tòa
là trọng tài điều khiển và nghe các bên tranh luận.
Vấn đề đặt ra là: nhiệm vụ của HĐXX, của chủ tọa phiên tòa là xác định
đầy đủ các tình tiết của vụ án nhưng bằng cách nào: tự mình xác định, tự mình làm
rõ hay yêu cầu KSV và Luật sư làm rõ. Theo em, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ
là trọng tài, nghe các bên tranh luận và điều khiển việc tranh luận. Do vậy, KSV
phải là người hỏi chính, hỏi làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án để bảo vệ quan
điểm truy tố của mình. Tuy nhiên theo mô hình tố tụng hiện nay, thì cả Thẩm phán
và KSV phải hỏi làm rõ mọi tình tiết của vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và
KSV cùng phối hợp để hỏi, theo đó KSV hỏi để phục vụ cho việc bảo vệ Cáo trạng
và hỏi những gì HĐXX chưa hỏi để tránh sự trùng lặp và kéo dài thời gian không
cần thiết.
Quá trình xét xử vẫn có trường hợp Cảnh sát bảo về để bị cáo tiếp xúc với
người thân. Việc cách ly các bị cáo và các người làm chứng trong trường hợp lời
khai của họ có thể ảnh hưởng đến nhau hầu như không được quan tâm. Một phần là
do điều kiện cơ sở vật chất Tòa án không có nơi cách ly; vì vậy có tình trạng bị cáo
thay đổi lời khai tại phiên tòa sau khi nghe lời khai của bị cáo khác đã gây khó khăn
cho KSV trong việc bảo vệ Cáo trạng đặc biệt là những vụ án chứng cứ yếu.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do KSV chưa xác định được vị trí,
vai trò của mình trong giai đoạn xét hỏi, có KSV cho rằng việc xét hỏi là của Tòa án
nên chưa chú tâm vào việc xét hỏi. Nhiều phiên tòa, KSV không tham gia xét hỏi.
Một phần vì phiên tòa quá đơn giản, KSV chủ quan không cần hỏi. Bên cạnh đó,
chưa có sự hướng dẫn thống nhất chính thức của hai ngành Tòa án, Kiểm sát về
trình tự, trách nhiệm, vai trò của Thẩm phán, KSV trong khi xét hỏi. Thẩm phán và
KSV phối hợp chưa tốt nên chất lượng xét hỏi một số phiên tòa chưa cao. Một phần
do Lãnh đạo VKS chưa khắt khe trong việc duyệt "đề cương xét hỏi" của KSV khi
báo cáo án xét xử cũng tạo điều kiện cho KSV chủ quan, lười không nghiên cứu kỹ
hồ sơ trước khi xét xử.
74
d. Tranh luận tại phiên tòa
Giai đoạn tranh tụng được bắt đầu khi KSV luận tội, đưa ra quan điểm giải
quyết vụ án. KSV giữ vai trò là một bên chủ thể tranh luận, phải đưa ra những lập
luận đối đáp với các quan điểm của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác khi họ có ý kiến trái chiều về quan điểm giải quyết vụ
án của VKS. Đây là sự tranh luận trực tiếp từ hai phía buộc tội và gỡ tội nhằm làm
rõ sự thật khách quan của vụ án để từ đó HĐXX có căn cứ phán quyết đúng đắn.
Qua tổng kết hoạt động Luận tội của VKS Hải Phòng thấy có những ưu điểm:
- Luận tội của KSV bám sát nội dung, yêu cầu của Quy chế nghiệp vụ và
mẫu hướng dẫn của VKSNDTC. Nhiều luận tội được chuẩn bị khá tốt, chuẩn mực,
mang tính thuyết phục và tuyên truyền giáo dục cao. Kịp thời bổ sung những thay
đổi, phát sinh tại diễn biến phiên tòa vào Luận tội để tăng tính thuyết phục, đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Ví dụ vụ
án Dương Văn Minh phạm tội Sử dụng trái phép tài sản; Nguyễn Thị Thanh cùng
đồng bọn phạm tội Gây rối trật tự công cộng.
- Các Luận tội không còn những lời lẽ "đao to, búa lớn" hoặc có tính suy
diễn, quy chụp. Khi luận tội, KSV đã vận dụng chính sách hình sự một cách nhuần
nhuyễn, linh hoạt trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự, góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật, tạo lòng tin trong
nhân dân vào sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Ví dụ vụ án Nguyễn
Xuân Nghĩa cùng đồng bọn phạm tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
Tuy nhiên, về hình thức còn một số Luận tội chưa đúng mẫu quy định: bắt
đầu Luận tội bằng câu: "Thưa HĐXX". Sau đó, KSV tự giới thiệu về mình là đại
diện VKS THQCT tại phiên tòa sơ thẩm xét xử về hình sự vụ án đối với bị cáo bị
truy tố về tội... Sau khi nêu một cách ngắn gọn mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm
quan trọng của việc xét xử vụ án, KSV nói: "... tôi trình bày quan điểm về việc xử
lý đối với bị cáo (hoặc các bị cáo) và giải quyết đối với vụ án như sau". Vẫn có
KSV không thực hiện dúng hướng dẫn trên mà chuẩn bị theo lối mòn, không phù
75
hợp, có thể gây phản ứng của các Thẩm phán, ví dụ: ...thay mặt Nhà nước, phát
biểu quan điểm để HĐXX xem xét, cân nhắc trước khi quyết định tội trạng, mức
hình phạt đối với các bị cáo cho phù hợp với quy định của pháp luật, ...để HĐXX
cân nhắc ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ...phát biểu kết luận về
hành vi phạm tội của bị cáo, phân tích tính chất vụ án, đồng thời tôi đề nghị với
HĐXX về mức hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo…
Theo quy định của BLTTHS, Luận tội của KSV mở đầu phần tranh luận tại
phiên tòa nhưng vẫn còn KSV cho rằng "phát biểu luận tội trước khi nghị án, cùng với
HĐXX", "giúp cho", hoặc "để HĐXX quyết định bản án đúng người đúng tội, đúng
pháp luật". Nhiều bản Luận tội trong phần mở đầu vẫn còn dùng câu:"Trước khi
HĐXX vào nghị án". Đây là lời phát biểu không đúng với trình tự tố tụng tại phiên tòa,
vì sau khi luận tội là phần tranh luận; nếu qua tranh luận, xét thấy cần thiết, HĐXX trở
lại phần xét hỏi.
Về nội dung, nhiều Luận tội chưa lấy kết quả điều tra tại phiên tòa để làm
căn cứ cho nội dung luận tội, vẫn sử dụng "tài liệu có trong hồ sơ vụ án", "lời khai tại
CQĐT" để mở đầu cho việc chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, nội dung luận
tội lặp lại cáo trạng, không nêu và lồng ghép được kết quả xét hỏi công khai tại phiên
tòa vào nội dung bản luận tội.
Hạn chế thường gặp ở nhiều Luận tội là phần chứng minh tội phạm yếu
hoặc thiếu chặt chẽ. KSV không phân tích, đánh giá chứng cứ, chứng minh tội
phạm, chỉ nêu diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo, lặp lại gần như nguyên văn nội
dung Cáo trạng. Có nhiều Luận tội tuy dài nhưng lại thiếu chặt chẽ, chưa theo đúng
trình tự của luận tội theo mẫu là: chứng minh tội phạm, phân tích đánh giá mức độ
nguy hiểm của tội phạm, phân tích đánh giá vai trò của từng bị cáo, tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trên cơ sở đó mới kết tội và đề nghị mức hình phạt. Có Luận tội
diễn đạt ý không rõ, lộn xộn, lủng củng về câu chữ. Ví dụ: Việc tạm giam, truy tố và
đưa bị cáo ra xét xử theo nguyên tắc vi phạm pháp luật thì sẽ bị pháp luật trừng trị,
ngoài ra còn là bài học cho những người coi thường mạng sống của người khác chỉ
vì lợi ích của mình dẫn đến hậu quả mà bị cáo phải chịu sự phán quyết của pháp
76
luật. Có Luận tội đi sâu phân tích lần lượt đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm như
trong bài học ở trường mà không chú ý phân tích đánh giá chứng cứ, chứng minh
các yếu tố đó. Hoặc có Luận tội chưa chú trọng phân tích các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nên khi đề nghị HĐXX áp dụng điều luật
và hình phạt đã bỏ sót một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.
Một số Luận tội tuy không còn từ "đao to, búa lớn", nhưng vẫn còn KSV
luận tội theo kiểu"nâng cao quan điểm", dùng từ ngữ không chính xác, chưa đúng
mức. Ví dụ luận tội về hành vi đánh bạc đối với bị cáo chưa có tiền án, tiền sự:
"...hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm
trực tiếp đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và nếp sống văn minh mà còn là
nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác". Hoặc hành vi mua bán chất ma túy
với số lượng nhỏ, bị truy tố theo khoản 1 Điều 194 BLHS, tính chất tội phạm có mức
độ, nhưng KSV đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi không phù hợp, thiếu
sức thuyết phục: bị cáo... nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi
phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội. Không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe,
nhân phẩm, tương lai, cuộc sống của chính bản thân bị cáo mà còn góp phần gây ra
những tệ nạn, hủy hoại đạo đức con người, các gia đình tan vỡ, khánh kiệt, có tác
động tiêu cực tới đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Các lý lẽ trong luận tội còn
thiếu thuyết phục, thể hiện lúng túng, mâu thuẫn trong cách lập luận. Ví dụ, ở phần
trên KSV nhận xét về bị cáo đã có tiền án nhưng đã được xóa án tích "là người khó
giáo dục, cải tạo, không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà còn tiếp
tục phạm tội". Nhưng ngay sau đó, KSV nhận định: " tại CQĐT và tại phiên tòa, bị
cáo luôn khai báo thành khẩn, tỏ ra là người biết ăn năn hối cải" để đề nghị áp
dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS.
Luận tội của một số KSV không xuất phát từ hành vi, hậu quả của tội phạm,
đặc điểm về nhân thân cụ thể của bị cáo nên đã không nhận xét, đánh giá chính xác
tính chất vụ án. Ví dụ, luận tội về hành vi chứa mãi dâm đối với bị cáo lần đầu phạm
tội theo khoản 1 Điều 254 BLHS:
Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội,
không chỉ xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và
77
nếp sống văn minh mà còn xâm phạm đến sức khỏe con người, là nguyên
nhân làm lây truyền một số bệnh nguy hiểm do vi rút gây nên. Đồng thời
là một trong những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình của nhiều
người, bị xã hội và dư luận lên án mạnh mẽ [30].
Có nhiều Luận tội na ná giống nhau. Ví dụ như luận tội trong các vụ án Tàng
trữ trái phép chất ma túy, nếu có khác nhau chỉ là họ, tên bị cáo, trọng lượng ma túy.
Như vậy, có thể thấy ở một số vụ án đơn giản, KSV khi chuẩn bị luận tội đã "sao
chép, cắt dán", thể hiện cẩu thả, thiếu trách nhiệm. Có Luận tội chỉ chú ý tập trung
phân tích trách nhiệm hình sự, nhưng không đề cập trách nhiệm dân sự hoặc có đề
cập một cách chung chung, không nêu được căn cứ, cơ sở chấp nhận hay không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn dân sự, người bị hại, từ đó đề nghị HĐXX quyết định
việc bồi thường.
Một trong những yêu cầu khác của Luận tội là phải phân tích thủ đoạn
phạm tội, xem xét mục đích và động cơ phạm tội, mức độ hậu quả do tội phạm gây
ra, nêu những thiếu sót, sơ hở, vi phạm trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, xác định nguyên nhân, điều kiện tội phạm, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức
rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa. Đây là những yêu cầu quan
trọng, trong một số vụ án bắt buộc phải nêu trong bản luận tội nhưng chưa được nhiều
KSV chú trọng. Có những vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận quan tâm chú
ý nhưng khi luận tội KSV đề cập về vấn đề này sơ sài hoặc kiến nghị chung chung.
Sau khi KSV Luận tội, người bào chữa trình bày lời bào chữa của mình, có
thể đồng tình với quan điểm của KSV nhưng không ít Luật sư phản bác lại quan
điểm của KSV. Trách nhiệm của KSV phải đối đáp lại quan điểm của người bào
chữa, bị cáo, bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại...
Về tương quan lực lượng KSV thường ít hơn các Luật sư. Thông thường
mỗi phiên tòa chỉ có 1 đến 2 KSV trong khi đó, số lượng Luật sư không hạn chế, có
thể có rất đông người cùng tham gia một phiên tòa. Về trách nhiệm, các KSV phải
độc lập xử lý tình huống, phải chịu trách nhiệm về hành vi tố tụng của mình, đây là
áp lực lớn đối với KSV. Về tính chủ động, Luật sư và người bào chữa, những người
78
tham gia tố tụng khác là người chủ động đưa ra các tình huống buộc KSV phải tranh
luận, do đó yêu cầu về tính chuyên nghiệp đối với KSV là rất cao. Về cách phát
ngôn, nếu Luật sư có thể phát ngôn một cách "tự do" để bảo vệ quyền lợi của thân
chủ mình, có thể đưa ra nhiều luận điểm kể cả luận điểm sai trái nhằm "rũ rối" KSV
trong việc giải quyết vụ án gây tâm lý hoang mang, mất tập trung vào việc THQCT
tại phiên tòa trong khi đó mọi ứng xử, phát ngôn của KSV phải chuẩn mực, không
được sơ suất (ví dụ vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa phạm tội Tuyên truyền chống Nhà
nước CHXHCN Việt Nam, Luật sư xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng nhằm
kích động KSV và HĐXX). Do vậy, đòi hỏi bản thân mỗi KSV phải biết kiềm chế
và tự rèn luyện ý chí, tư tưởng vững vàng trong khi tranh tụng.
Việc tranh tụng của KSV muốn đạt kết quả tốt, KSV phải biết tận dụng
những ưu thế của mình như: là người chuyên làm công tác THQCT, kiểm sát giải
quyết các vụ án hình sự được kiểm nghiệm cả về lý luận và thực tiễn nên hoạt động
của KSV mang tính chuyên nghiệp cao, KSV có điều kiện tiếp cận hồ sơ vụ án hình
sự sớm, có trách nhiệm quản lý hồ sơ trong thời gian dài, chịu trách nhiệm về việc
lập hồ sơ truy tố; có quyền bổ sung, củng cố các chứng cứ buộc tội chặt chẽ trước
khi chuyển hồ sơ sang tòa án. Đặc biệt KSV có được sự chỉ đạo về đường lối giải
quyết vụ án của Lãnh đạo ngành, cũng như sự hỗ trợ của các đồng nghiệp khi gặp
khó khăn, vướng mắc; được sự phối hợp, hỗ trợ của các CQTHTT (HĐXX, CQĐT
và các cơ quan hữu quan trong việc củng cố, thu thập chứng cứ...).
Để hoạt động tranh tụng đạt kết quả, KSV cần làm tốt công tác chuẩn bị như:
nghiên cứu và nắm chắc các tình tiết trong hồ sơ vụ án, diễn biến của quá trình điều
tra, thu thập chứng cứ buộc tội, gỡ tội; chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, xác định rõ
những vấn đề cần làm rõ tại phiên tòa (lưu ý cả giới hạn trong việc xét hỏi), dự kiến
các tình huống phát sinh tại tòa, các vấn đề người bào chữa, bị cáo quan tâm, các tình
huống người bị hại và những người liên quan sẽ yêu cầu giải quyết, nội dung sẽ đối
đáp để làm căn cứ cho việc luận tội và tranh luận tại phiên tòa của KSV; đối với
những vụ án phức tạp cần trù bị trước với Thẩm phán về mọi vấn đề liên quan đến
giải quyết vụ án; chuẩn bị Luận tội có bố cục rõ ràng, súc tích, tập trung vào việc đưa
ra các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, khối lượng buộc tội đặc biệt là trong trường hợp bị
79
cáo không nhận tội. Luận tội phải đánh giá đúng tính chất của vụ án cũng như tính
nguy hiểm của tội phạm, không đơn giản hóa cũng không thổi phồng quá mức cần
thiết đặc biệt là không nan giải, không đưa vào những tình tiết nằm ngoài phạm vi
buộc tội vì như vậy sẽ làm phức tạp hơn rất nhiều trong khi tranh tụng; cần tìm hiểu
về những vấn đề xung quanh vụ án cũng như cách thức tranh tụng và đặc điểm của
từng Luật sư để có thể phán đoán tình huống và cách thức tranh tụng tại phiên tòa
trên cơ sở đó dự tính những tình huống xử lý tại phiên tòa. Đồng thời, KSV phải
thường xuyên trau dồi, nghiên cứu lý luận chuyên ngành, các văn bản pháp luật để bổ
sung kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội phục vụ tốt cho hoạt động tranh tụng.
Luận tội xong, KSV phải hết sức tập trung, chuẩn bị sẵn giấy bút, lắng
nghe, tóm lược ý kiến mà người bào chữa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác đưa
ra, phải tập hợp các vấn đề cần tranh tụng thành từng nhóm để tiện tranh tụng tránh
trùng lặp, nội dung nào chính thì dành nhiều thời gian tranh tụng, giải thích cho rõ
ràng; vấn đề nào phụ thì chỉ nhắc qua nêu rõ quan điểm không phân tích rườm rà làm
mất sự tập trung chú ý của người nghe. Hầu như, tại phiên tòa KSV không có thời
gian để chuẩn bị nên đòi hỏi KSV phải có phản ứng nhanh. Quá trình nghe và tóm
lược ý kiến của những người tham gia tranh tụng KSV đã phải tư duy xem những vấn
đề đang tranh tụng có trong dự kiến chưa, nếu ngoài dự kiến thì phải chuẩn bị phương
án đối đáp như thế nào cho phù hợp, tuyệt đối không được thể hiện thái độ, biểu lộ
cảm xúc thể hiện vấn đề tranh tụng nằm ngoài sự chuẩn bị, tuyệt đối bình tĩnh, không
giở hồ sơ hay loay hoay tìm điều luật. Việc đối đáp với Luật sư phải thể hiện thái độ
ung dung, đĩnh đạc, ôn hòa, không căng thẳng, nhìn thẳng vào Luật sư để đối đáp,
không né tránh trong việc đối đáp. Đối đáp lần đầu càng triệt để càng tốt, chú ý
những lần tranh luận sau Luật sư thường hay sa đà vào những vấn đề không phải
trọng tâm của vụ án hoặc cố ý "rũ rối" để quảng bá thương hiệu...
Tuy nhiên, còn có những KSV chưa quan tâm tới việc tranh luận, đối đáp mà
mới chỉ tập trung vào việc luận tội, coi luận tội xong là hoàn thành nhiệm vụ. KSV
chỉ mới thấy quyền chứ chưa thấy nghĩa vụ phải tranh luận, đối đáp tại phiên tòa.
Xuất phát từ nhận thức chưa đúng đắn về quyền bình đẳng giữa các bên tham gia
tranh tụng khi đưa ra chứng cứ, lý lẽ trước HĐXX vì thế không chuẩn bị kỹ ý kiến
80
đối đáp, để xảy bị động, lúng túng khi tranh luận. Đặc biệt tại các phiên tòa xét xử tội
phạm tham nhũng, kinh tế, trật tự xã hội, ma túy đặc biệt nghiêm trọng có nhiều Luật
sư tham gia, có nhiều bị cáo không nhận tội, có KSV còn bị động, phụ thuộc nhiều
vào tài liệu do CQĐT thu thập từ giai đoạn điều tra mà chưa khai thác triệt để chứng
cứ đã được điều tra công khai tại phiên tòa. Cá biệt có KSV khi đối đáp với Luật sư,
người bào chữa còn lúng túng, thiếu lý lẽ sắc sảo, chưa thuyết phục được Hội đồng xét
xử, người tham gia phiên tòa. Khi gặp những tình huống mới phát sinh tại phiên tòa cần
phải tranh tụng, KSV còn có biểu hiện né tránh câu hỏi khi đối đáp hoặc đối đáp cho qua
chuyện. Ví dụ "KSV vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, quyền quyết định thuộc về Hội
đồng xét xử" dẫn đến việc Hội đồng xét xử phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung,
sau đó phải đình chỉ điều tra do không chứng minh được hành vi phạm tội...
Bên cạnh đó, kỹ năng tranh tụng của một số KSV còn chưa đạt yêu cầu, việc
cập nhật văn bản quy định hướng dẫn không thường xuyên, khả năng khai thác công
nghệ thông tin và ngoại ngữ còn yếu, chất lượng kiểm sát điều tra chưa đảm bảo, còn
sai sót về pháp luật tố tụng và nội dung đã ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng tranh
tụng. Khả năng bao quát, tổng hợp, xử lý thông tin và ứng biến trong quá trình tranh
luận còn hạn chế nên nhiều khi những ý kiến phản bác của Luật sư không được đối
đáp thỏa đáng. Vẫn còn tồn tại tâm lý ngại tranh luận, không vững vàng, mất tự tin,
thậm chí bị động thì sẵn sàng nhận sai sót và đẩy khó khăn sang HĐXX. Cá biệt vẫn
còn KSV không tranh luận mà chỉ "giữ nguyên quan điểm truy tố" hoặc "không có ý
kiến gì tùy HĐXX xem xét" khi Luật sư, bị cáo và người tham gia tố tụng đưa ra
những ý kiến phản bác lời luận tội của KSV. Chủ tọa điều khiển phiên tòa không đề
nghị KSV phải đáp lại những ý kiến phản bác mà chấp nhận việc trả lời của KSV giữ
nguyên quan điểm là chưa đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong hoạt động tranh
luận, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp.
Thực tiễn tranh tụng tại Hải Phòng cho thấy, chất lượng tranh tụng của
KSV tại phiên tòa đã có nhiều chuyển biến tích cực, đóng vai trò quan trọng trong
việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo Tòa án xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật. Đa số các KSV đều xác định được vị trí, tầm quan trọng của
việc tranh tụng tại phiên tòa, chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, phát biểu lời luận tội,
81
quan điểm đối đáp chặt chẽ, lý lẽ sắc bén với đầy đủ căn cứ pháp lý công khai, dân
chủ hơn, tự tin, có sức thuyết phục, bảo vệ tốt quan điểm truy tố, đáp ứng được yêu
cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu của cải cách tư pháp.
Đối với các Luật sư, chất lượng của việc bào chữa nhìn chung là đạt yêu
cầu, các Luật sư trong khi hành nghề đều tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo
đức nghề nghiệp, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, có trách nhiệm về hoạt
động của mình. Trong quá trình tranh tụng, đa số các chứng cứ được Luật sư đưa ra
để bảo vệ cho quan điểm của mình đều có tính chính xác và thuyết phục. Điều này
chứng tỏ sự nghiêm túc trong công việc, khả năng nghiên cứu và kỹ năng nghề
nghiệp vững vàng của các Luật sư. Thái độ và tác phong chuẩn mực khi tham gia
tranh tụng của các Luật sư đã được đông đảo quần chúng tham dự phiên tòa đồng
tình và HĐXX đánh giá cao. Quan điểm của các Luật sư tại các phiên tòa đã được
ghi nhận góp phần làm sáng tỏ vụ án, là cơ sở để HĐXX đưa ra những phán quyết
khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo vệ pháp chế XHCN.
Lực lượng Luật sư tham gia tranh tụng chiếm số đông nhưng trách nhiệm của
Luật sư trong việc tranh tụng chưa cao, chưa thể hiện vai trò của người bào chữa vì
đa phần là Luật sư chỉ định hầu như các Luật sự này chỉ xin giảm nhẹ cho các bị cáo
còn lại các vấn đề khác đều nhất trí với quan điểm của VKS. Một số Luật sư khi tham
gia tranh tụng tại phiên tòa còn thiếu sự cẩn trọng, đưa ra những luận cứ chưa thật
chọn lọc, chưa mang tính pháp lý và thiếu sức thuyết phục. Nhiều vẫn đề đã rõ ràng
về mặt chứng cứ và căn cứ pháp lý nhưng Luật sư vẫn cố tình phủ định, không thừa
nhận sự thật khách quan. Trong quá trình đối đáp vẫn còn tình trạng "lạc đề", nói dài,
bàn rộng về những tình tiết, nội dung không liên quan đến vụ án; vẫn tồn tại tâm lý
"sợ không được nói". Một số Luật sư viện dẫn văn bản pháp lý không phù hợp với
nội dung vấn đề đang tranh luận. Trong vụ án hình sự, một Luật sư có thể bào chữa
cho nhiều bị cáo hoặc ngược lại, nhiều Luật sư cùng bào chữa cho một bị cáo, trên
thực tế đã xảy ra tình trạng: khi một Luật sư bào chữa cho nhiều bị cáo thì chỉ tập
trung bào chữa cho một hoặc hai bị cáo còn đối với các bị cáo còn lại, việc bào chữa
chỉ mang tính chiếu lệ, thiếu sự khách quan, công bằng. Ngược lại, khi nhiều Luật sư
82
cùng bào chữa cho một bị cáo thì giữa các Luật sư thiếu sự phối hợp dẫn đến việc bào
chữa không tập trung hoặc lặp lại không cần thiết làm mất thời gian của HĐXX.
Trong 3 năm qua (từ năm 2009 đến năm 2011), VKS Hải Phòng liên tục tổ
chức các phiên tòa cải cách tư pháp (gọi tắt là phiên tòa 08) và chuyên đề "tổ chức
phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của
Kiểm sát viên" để các KSV tự học lẫn nhau góp phần nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa. Qua đó thấy vai trò, vị trí của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phần
nào ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng. Một số Thẩm phán được phân công Chủ
tọa phiên tòa chưa làm hết trách nhiệm trong việc điều khiển tranh luận, mới chỉ
quan tâm đến việc đối đáp giữa KSV với bị cáo và người bào chữa cho bị cáo còn
những người tham gia tố tụng khác như bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, nguyên đơn, bị đơn dân sự thì chưa được quan tâm. Những vụ án bị cáo
không có người bào chữa thì bị cáo rất ít khi tranh luận với KSV do bị áp lực tâm
lý, sợ hãi. Chủ tọa điều khiển phiên tòa chưa làm đúng vai trò trọng tài của mình,
chưa tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo được tham gia tranh luận dân chủ bằng cách
gợi mở cho bị cáo, giải thích lại cho bị cáo hiểu rõ hơn các quyền và nghĩa vụ của
mình... Thông thường Chủ tọa hỏi bị cáo có tranh luận không, nếu bị cáo trả lời
không thì coi như bị cáo chấp nhận quan điểm buộc tội và bỏ qua phần tranh luận.
Cá biệt có trường hợp thay vì yêu cầu KSV tranh luận với bị cáo thì Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa lại tranh luận thay cho KSV. Việc các bị cáo không tranh luận sau khi
KSV Luận tội cũng là một yếu tố làm hạn chế việc tranh tụng.
Có Thẩm phán ngại va chạm với Luật sư nên để Luật sư nói thoải mái về
những nội dung ngoài phạm vi truy tố. Nhiều Thẩm phán không lắng nghe lời bào
chữa của Luật sư, ít ghi chép lại các quan điểm của Luật sư vì vậy không tóm tắt
khái quát được các vấn đề mà Luật sư đưa ra để yêu cầu KSV đối đáp, từ đó dẫn
đến tình trạng đối đáp giữa KSV và Luật sư không đúng trọng tâm.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do: Năng lực trình độ của KSV,
Thẩm phán và Luật sư không đồng đều, vẫn còn tình trạng thiếu sự đầu tư công sức
trong việc nghiên cứu hồ sơ, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác,
83
thiếu tinh thần cầu thị, nhận thức không đầy đủ các quy định của pháp luật và các
văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Cá biệt một số Luật sư tại phiên tòa, còn sử
dụng những từ ngữ thiếu tôn trọng, gây phản cảm, thậm chí không chấp hành theo
sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện văn hóa ứng xử chưa cao. Hệ thống
pháp luật tố tụng hình sự còn thiếu, chưa hoàn chỉnh. Tranh tụng chưa trở thành một
trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Do đó, chưa bảo đảm sự bình đẳng
giữa các chủ thể khi tham gia tranh tụng.
Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật trang bị còn thiếu, lạc hậu. Phòng xử
án của nhiều Tòa án cấp quận, huyện còn chật hẹp, hệ thống âm thanh, ánh sáng
chưa đáp ứng được yêu cầu. Đây cũng là một yếu tố hạn chế chất lượng tranh tụng.
Một vấn đề tuy pháp luật chưa có quy định cụ thể nhưng cũng ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng tranh tụng, đó là văn hóa ứng xử tại phiên tòa (văn hóa pháp
đình). Đây cũng là một nội dung theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Thực tiễn tranh
tụng cho thấy, ở một số phiên tòa vấn đề văn hóa pháp đình chưa được KSV và
Luật sư coi trọng. Vẫn còn có Luật sư đến chậm so với giờ khai mạc phiên tòa mà
không có lý do. Có những Luật sư, tại phiên tòa, khi những yêu cầu của mình không
được HĐXX chấp nhận (mặc dù đó là yêu cầu thiếu căn cứ) đã tự động bỏ về khi
chưa được chủ tọa phiên tòa cho phép. Có những Luật sư không đứng dậy khi tranh
luận mặc dù đã được chủ tọa phiên tòa yêu cầu với lý do "luật không quy định".
Trong quá trình tranh luận, nhiều Luật sư thiếu sự cẩn trọng, kiềm chế trong sử
dụng ngôn từ, có thái độ thiếu tôn trọng đối với đang người tranh luận, ví dụ: "Tôi
thấy thật buồn với phần tranh luận của Kiểm sát viên".
Về phía cơ quan công tố, một số KSV mới chỉ nghiêng về tư duy đối đầu với
Luật sư mà quên đi khía cạnh hợp tác (để bảo vệ sự thật, bảo vệ pháp chế XHCN)
theo luật định. Vẫn còn có những KSV và Luật sư trong khi tranh tụng đã tỏ thái độ
gay gắt, bức xúc, sử dụng ngôn ngữ không phù hợp với văn hóa pháp lý nơi xét xử,
coi thường những người tham gia tố tụng khác. Ví dụ vụ án Dương Văn Minh, sau
khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên án, giao bị cáo cho cảnh sát hỗ trợ tư pháp,
Luật sư đề nghị HĐXX cho bị cáo kháng cáo trong khi bị cáo chưa có ý kiến. Luật sư
84
đề nghị HĐXX cho bị cáo viết đơn tại chỗ, HĐXX trả lời không còn nhiệm vụ quyền
hạn vì đã giao bị cáo cho Cảnh sát hỗ trợ tư pháp, việc có cho bị cáo viết đơn kháng
cáo hay không là do Cảnh sát tư pháp quyết định. Ngay sau khi HĐXX trả lời, Luật
sư to tiếng và thể hiện thái độ bức xúc, nóng nảy, nói năng thiếu tôn trọng HĐXX và
làm đơn kiến nghị HĐXX đã vi phạm quyền bào chữa của Luật sư. Trong tình huống
này, Luật sư hoàn toàn có thể có cách xử sự khác, trong thời hạn 15 ngày kháng cáo,
Luật sư hoàn toàn có quyền gặp gỡ bị cáo, hướng dẫn bị cáo viết đơn kháng cáo,
không cần thiết phải thể hiện hoặc có cách ứng xử chưa phù hợp như vậy. Vì vậy,
Văn hóa ứng xử của Thẩm phán, KSV và Luật sư tại phiên tòa cũng góp phần quan
trọng không thể thiếu để thể hiện sự công minh, dân chủ bảo đảm sự bình đẳng,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
2.1.2.4. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm
a. Kiểm sát biên bản phiên tòa
BLTTHS quy định (Điều 200): sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, KSV
THQCT có quyền xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên tòa và ký tên xác nhận vào biên bản phiên tòa. Theo Quy chế
KSXX ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ- VKSTC ngày 17/9/2007 của
Viện trưởng VKSNDTC, sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm KSV phải tiến hành
kiểm sát biên bản phiên tòa (Điều 26). Thực tiễn xét xử cho thấy, dường như các
KSV "quên" đi nhiệm vụ này, chỉ những vụ án trái quan điểm hoặc khác về mức
án, loại hình phạt áp dụng thì KSV mới chú ý đến biên bản phiên tòa. Tuy nhiên,
hiện nay, các KSV cũng gặp khó khăn từ phía Tòa án không hợp tác và thấy
không "thoải mái" khi KSV đòi xem biên bản phiên tòa. Thư ký Tòa án thường
viện lý do: "chưa ghi kịp", "chưa đánh máy xong" (nhiều thư ký tòa án ghi biên
bản phiên tòa trên máy tính xách tay). Việc kiểm sát biên bản phiên tòa còn mang
tính hình thức bởi KSV không ký nháy vào từng tờ của biên bản phiên tòa, đọc
qua một lượt rồi quên ngay, khó có thể biết được thư ký có chỉnh sửa bổ sung gì
hay không. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc KSV "quên"
nhiệm vụ này.
85
b. Kháng nghị phúc thẩm
Qua hoạt động kiểm sát việc tuyên án của HĐXX, KSV đối chiếu với các
đề xuất của mình khi luận tội, thấy việc tuyên án của HĐXX không có căn cứ hoặc
có vi phạm pháp luật thì sau phiên tòa KSV phải đề xuất đến lãnh đạo VKS quyết
định có kháng nghị phúc thẩm hay không. Hoặc khi nhận được bản án sơ thẩm,
KSV phải chủ động nghiên cứu, kiểm sát chặt chẽ nội dung, hình thức. Đối chiếu
với bản ghi chép diễn biến phiên tòa, xem xét các quyết định của Tòa án có đúng
nội dung đã tuyên tại tòa hay không. Các phán quyết của Tòa án có căn cứ pháp luật
hay không. Nếu phát hiện thấy có vi phạm, KSV báo cáo đề nghị lãnh đạo xem xét
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Để công tác kháng nghị phúc thẩm có chất lượng, đạt hiệu quả đòi hỏi các
KSV phải thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp luật, để nâng cao
trình độ chuyên môn, kịp thời phát hiện những sai sót, tăng tính thuyết phục khi
kháng nghị, cũng như không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Việc
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có ý nghĩa rất quan trọng, làm tốt công tác kháng
nghị phúc thẩm là điều kiện để đảm bảo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án hạn
chế tối đa việc sai sót, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội
phạm, đảm bảo tính nghiêm minh, thống nhất khi áp dụng pháp luật và bảo vệ pháp
chế XHCN. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS cần chú ý đến
công tác này bởi kháng nghị nhiều sẽ ảnh hưởng không tốt đến quan hệ phối hợp
giữa hai cơ quan Tòa án và VKS.
Quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò và ý nghĩa công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự, những năm qua VKS Hải Phòng đã thực hiện tốt công tác kháng nghị đối
với bản án, quyết định sơ thẩm hình sự của Tòa án, phát hiện vi phạm và kháng
nghị nhiều bản án, quyết định của Tòa án, để bảo vệ quan điểm đúng đắn của VKS,
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ tài sản
của Nhà nước cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng,
góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Theo số liệu (xem bảng 2.4, 2.5 phụ lục 1) cho thấy, công tác kháng nghị phúc
thẩm của VKS Hải Phòng ngày càng được tăng cường, chất lượng kháng nghị phúc
86
thẩm ngày một tăng. Tuy nhiên, việc rút kháng nghị phúc thẩm vẫn còn nhiều. Nguyên
nhân do nhận thức pháp luật còn khác nhau, chưa có văn bản hướng dẫn liên ngành nên
vẫn còn tình trạng "quyền anh, quyền tôi"... Thực hiện Chỉ thị số 03/2008 ngày
19/6/2008 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự, công tác kháng nghị không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất
lượng. Một số vụ án qua công tác kháng nghị của VKS đã khắc phục được sai phạm,
thiếu sót của cấp sơ thẩm như xét xử không đúng tội danh, tuyên không phạm tội
không có căn cứ, xử án treo không đúng, xét xử quá nghiêm khắc (xem phụ lục 3). Chất
lượng kháng nghị tăng lên rõ rệt, hầu hết đảm bảo về hình thức, chặt chẽ về nội dung.
c. Kiến nghị với các cơ quan chức năng
Theo báo cáo của VKSND TP Hải Phòng, trong hoạt động thực hiện chức
năng KSHĐTP, VKS đã ban hành nhiều kiến nghị yêu cầu các cơ quan khắc phục
vi phạm (xem bảng 2.6 phụ lục 1).
Qua đó cho thấy, hoạt động thực hiện chức năng KSHĐTP của VKS đã góp
phần giúp các cơ quan tư pháp hình sự hạn chế những sai phạm, kịp thời sửa chữa
những vi phạm nhỏ không để trở thành lỗi hệ thống, góp phần đẩy nhanh tiến độ
giải quyết các vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian, tiền bạc cho nhà nước, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế XHCN. Tuy nhiên,
vẫn còn tình trạng nể nang, không mạnh tay với những vi phạm của các cơ quan tư
pháp, còn e dè trong việc ban hành các kiến nghị sợ ảnh hưởng đến thành tích thi
đua của các đơn vị bạn. Do vậy, vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật nhỏ chưa
được khắc phục triệt để.
2.2. NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỨC NĂNG,
NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.2.1. Những tồn tại
Nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành đạt hiệu quả,
VKSND nói chung và VKSND TP Hải Phòng nói riêng thường xuyên tổng kết rút
kinh nghiệm tìm ra những tồn tại, hạn chế để tìm ra các biện pháp khắc phục nâng
87
cao chất lượng THQCT và kiểm sát giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, chất lượng
THQCT và KSXX trong những năm qua đã được nâng lên rõ rệt. Giai đoạn xét xử đã
được quan tâm và đặt đúng là vị trí trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự
bởi đây là khâu quan trọng nhất kiểm chứng lại toàn bộ các chứng cứ của vụ án và
đưa ra phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án. VKSND đã thực hiện tốt chức
năng kiểm sát hoạt động xét xử, đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan,
kịp thời, không có trường hợp án quá hạn, hạn chế tình trạng án tồn đọng, oan, sai, lọt
tội phạm. Chất lượng THQCT của KSV tại phiên tòa đã nâng lên, ngày một đáp ứng
với yêu cầu cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng của KSV ngày càng hiệu quả, góp
phần xây dựng uy tín cho ngành kiểm sát và bảo vệ pháp chế XHCN.
Ba ngành Công an, VKS, Tòa án tiến hành phối hợp xác định nhiều vụ án
trọng điểm, nhiều chuyên án lớn đặc biệt là việc phối hợp giải quyết các vụ án được
xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp đã góp phần tuyên truyền, giáo dục, răn đe,
phòng ngừa chung và phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương.
Theo báo cáo tổng kết năm và báo cáo các chuyên đề nghiệp vụ từ năm
2004 đến năm 2011, toàn ngành kiểm sát Hải Phòng đã xét xử sơ thẩm 11903 vụ/
18568 bị can. Trong đó, có khoảng 1000 vụ án điểm, 3000 vụ án được đưa ra xét xử
lưu động, 354 vụ án 08 (từ năm 2008 đến năm 2011), VKS kháng nghị 188 vụ.
Không có vụ nào Tòa án tuyên không phạm tội và phải bồi thường theo Nghị quyết
388. Riêng vụ Nguyễn Trọng Êm phạm tội Giết người bồi thường theo Nghị quyết
388 là do CQĐT đình chỉ vì không chứng minh được tình trạng năng lực nhận thức
và điều khiển hành vi của bị can khi thực hiện hành vi phạm tội. (Nội dung: ngày
27/01/2006 Nguyễn Trọng Êm, sinh năm 1968 ở đội 11, xã Liên Khê, huyện Thủy
nguyên, Hải Phòng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng
đầu thú về việc giết hai vợ chồng anh Phạm Văn Luân sinh năm 1962 và vợ là chị
Lê Thị Thu sinh năm 1964 ở đội 11 xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Ngày 25/01/2006 CQĐT Công an thành phố đã ra quyết định khởi tố vụ án để tiến
hành điều tra, đến ngày 18/02/2007 ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối
với Nguyễn Trọng Êm về tội giết người. Quá trình điều tra không chứng minh được
Êm có hành vi giết người, ngày 12/7/2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã căn cứ tại
88
khoản 2 Điều 164 BLTTHS ra quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Êm và tạm
đình chỉ điều tra vụ án. Việc bồi thường này không liên quan đến giai đoạn xét xử).
Nguyên nhân của các thành tựu đạt được:
- Đường lối của Đảng về công tác cải cách tư pháp, về công tác THQCT và
KSXX hình sự ngày càng hoàn thiện hơn.
- Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, hình sự, luật tổ chức VKSND ngày
càng hoàn thiện hơn. Chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát được quy định rõ
ràng, cụ thể hơn. Nội dung của luật hình thức và luật nội dung cũng phù hợp với
thực tiễn hơn, nhiều quy định được sửa đổi, nhiều loại tội phạm mới được bổ sung.
- Lãnh đạo VKS Hải Phòng chỉ đạo điều hành ngày càng chặt chẽ, thường
xuyên đổi mới phương pháp quản lý, đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng
THQCT và KSHĐTP nói chung và kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng.
- Các KSV đều nhận thức rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành,
đều có tinh thần trách nhiệm, luôn có ý thức cố gắng phấn đấu hoàn thiện mình để đáp
ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới. Nhiều KSV đã không ngừng học tập, tự giác
học hỏi, nghiên cứu các văn bản chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản kiến thức khoa
học chuyên ngành, bổ túc thường xuyên kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội để
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp:
nghiên cứu kỹ hồ sơ, chuẩn bị đề cương xét hỏi, luận tội, dự kiến các tình huống tốt; ra
phiên tòa thực hiện tốt các khâu công tác, tranh luận sắc bén, linh hoạt, phản ứng
nhanh trước những diễn biến của phiên tòa, đề xuất mức án hợp lý, đúng đắn.
- Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của các KSV đã được
trang bị tương đối đầy đủ: có máy tính xách tay, máy ảnh, camera... Chế độ lương,
phụ cấp, khen thưởng được quan tâm kịp thời, động viên khích lệ tinh thần làm việc
của cán bộ trong ngành.
Bên cạnh những kết quả đã đạt, Công tác THQCT và KSXX sơ thẩm của
VKSND TP Hải Phòng vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót sau:
- KSV chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên vẫn để xảy ra tình trạng trả hồ
sơ điều tra bổ sung do không phát hiện được những vi phạm tố tụng, thiếu chứng
89
cứ, lọt hành vi phạm tội, lọt tội danh… tỷ lệ Tòa án trả đúng cao chiếm 2/3 tổng số
án trả. Đối với một số vụ án phức tạp, việc đánh giá chứng cứ khó khăn, đông bị
can, bị can không nhận tội… KSV chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, làm việc chưa thể
hiện tinh thần trách nhiệm (ví dụ bị cáo chối tội, vụ án phức tạp nhưng KSV không
tiến hành phúc cung khi các chứng cứ kết tội chưa vững chắc). Tình trạng copy, sao
chép nội dung Kết luận điều tra sang Cáo trạng vẫn chưa chấm dứt, KSV còn thấy
lúng túng trong việc lựa chọn cách viết cáo trạng đặc biệt đối với những vụ án phục
hồi điều tra, đông bị can, bị can phạm nhiều tội ở nhiều địa bàn khác nhau… Chuẩn
bị Luận tội hời hợt, đánh giá chứng cứ không chính xác, không chuẩn bị đề cương
xét hỏi hoặc có chuẩn bị nhưng mang tính hình thức nên khi THQCT tại phiên tòa
chất lượng không cao. Việc tranh luận của KSV chưa đạt hiệu quả, còn mang tính
hình thức, qua loa, thậm chí có những KSV sợ tham gia phiên tòa sơ thẩm lưu động,
hoặc những phiên tòa mẫu (thường những vụ này đông người tham dự), KSV bị áp
lực tâm lý do quá căng thẳng dẫn đến tình trạng tụt huyết áp, ngất xỉu tại hội trường
xử án không thể tiếp tục phiên tòa… KSV không nắm chắc hồ sơ vụ án và tình hình
xã hội xung quanh vụ án, thiếu kinh nghiệm xét xử, không dự phòng được những
tình huống sẽ xảy ra tại phiên tòa nên khi xảy ra tình huống KSV đã không biết phải
xử lý như thế nào mà phải đề nghị HĐXX tạm dừng phiên tòa để tham khảo các
đồng nghiệp khác hoặc tranh thủ ý kiến của lãnh đạo Viện. KSV không nắm được các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm
tội…việc đánh giá các tình tiết này chưa chính xác, đề xuất loại và mức hình phạt chưa
phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên tỷ lệ án hủy, cải
sửa còn nhiều. Tỷ lệ Tòa án cấp trên chấp nhận kháng nghị không cao. Vì vậy, chất
lượng THQCT và KSXX sơ thẩm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.
- Chất lượng THQCT vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn:
+ Việc soạn thảo, ban hành Cáo trạng còn hạn chế: một số Cáo trạng sử
dụng văn phong, từ ngữ không mang tính phổ thông, diễn đạt trừu tượng khó hiểu,
vẫn sử dụng văn nói, còn sao chép, cắt dán... Khi công bố Cáo trạng một số KSV
chưa đọc rõ ràng, rành mạch, chưa có kinh nghiệm tham gia phiên tòa, hạn chế về
thể chất, giọng nói, ngôn ngữ, còn nói ngọng, chưa ngắt nghỉ đúng nhịp, chưa đanh
90
thép, có KSV đọc bị giật cục, chưa có điểm nhấn nên chưa thu hút người nghe, tính
thuyết phục không cao.
+ Việc tham gia xét hỏi hời hợt, qua loa, đại khái, không sát với nội dung vụ
án. Một số KSV chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc xét hỏi, chưa ghi chép
đầy đủ diễn biến phiên tòa nên việc xét hỏi còn trùng lặp, chưa làm rõ được tội danh,
chưa làm rõ được sự thật khách quan của vụ án; còn có tâm lý ngại đấu tranh, bị cáo
khai khác với lời khai có tại hồ sơ, không cần hỏi nhiều mà công bố luôn lời khai tại
giai đoạn trước… Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo, có bị cáo không nhận
tội, bị cáo nhận một phần tội đã thực hiện hoặc khó khăn trong việc đánh giá chứng
cứ, KSV xét hỏi chưa làm rõ tính đồng phạm (sự tiếp nhận ý chí của những người
phạm tội), động cơ, mục đích, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, đặc điểm của
chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ chưa được làm rõ (tính liên quan), lý lẽ của
KSV chưa đủ để bác lời khai chối tội của bị cáo hoặc những quan điểm không đúng
của những người tham gia tố tụng khác… Mặt khác, KSV chưa giữ được thái độ bình
tĩnh khi xét hỏi, có người thì nóng nảy quá, quát tháo ầm ĩ, có người lại hỏi giọng quá
nhẹ nhàng vừa hỏi vừa cười…, hỏi mớm cung cho các bị cáo.
+ Luận tội của KSV chưa bổ sung những thay đổi tại phiên tòa, có những
tình huống khác hẳn so với nội dung dự kiến phát sinh tại phiên tòa: thay đổi tội
danh, rút một phần truy tố (rút một trong số những tình tiết tăng nặng định khung)
nhưng KSV không bổ sung vẫn đọc y nguyên Luận tội đã chuẩn bị từ trước. Thậm
chí có KSV không giám quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình do sợ phải
chịu trách nhiệm. Ví dụ: qua xét hỏi thấy nguyên nhân dẫn đến sự việc có một phần lỗi
của bị hại, nên cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ, trong khi bị cáo đã có hai tình
tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo và tự thú, KSV sợ không tranh luận được khi Luật
sư đề nghị cho bị cáo hưởng án treo nên không dám cho bị cáo hưởng thêm tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 46 BLHS. Việc phân tích đánh giá chứng cứ buộc
tội trong một số bản Luận tội còn yếu, chưa tập trung làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội
phạm, nhiều Luận tội mô tả hoặc copy y nguyên nội dung Cáo trạng. Phân tích chưa
sâu, chưa làm bật lên nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, đánh giá chưa sát
với thực tiễn. Nhiều Luận tội chưa thực sự chú ý đến việc tuyên truyền giáo dục
91
pháp luật, kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước chuyên môn. Hầu như các
KSV chỉ chú ý trong các phiên tòa lưu động, án điểm, án mẫu…
Việc đề nghị mức án và áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo chưa
phù hợp với thực tiễn và những thay đổi tại phiên tòa ví dụ: bị cáo phạm tội tàng trữ
ma túy tuyên phạt hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với mức từ 5 triệu đồng đến
7 triệu đồng trong khi bị cáo không có gia đình, không có công ăn việc làm, không
có tài sản nào khác… việc tuyên phạt bổ sung không phù hợp đã dẫn đến tình trạng
quá tải việc tồn đọng các việc thi hành án dân sự không có điều kiện thi hành. Hoặc
trong trường hợp tại phiên tòa chứng minh bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ, KSV
không dám hạ mức án khởi điểm đã duyệt từ trước xuống mà máy móc, sợ trách
nhiệm nên vẫn đề nghị nguyên mức hình phạt đã duyệt, như vậy việc có thêm tình
tiết giảm nhẹ không có ý nghĩa gì với bị cáo.
Việc trình bày, diễn đạt Luận tội còn yếu, chủ yếu là đọc Luận tội đã được
chuẩn bị sẵn. Vẫn còn tình trạng đọc chưa dứt khoát, thiếu mạnh mẽ nên người
nghe thấy rời rạc, lủng củng, không làm bật lên được uy thế của VKS làm mất sự
trang nghiêm của phiên tòa. Thậm chí có những Luận tội được sao chép, cắt dán khi
đọc KSV không phát hiện ra sai tên bị cáo nên xét xử 1 bị cáo, luận tội 1 bị cáo...
+ KSV còn rụt rè, e ngại khi tranh tụng với luật sư và những người tham gia
tố tụng khác, thậm chí còn có tình trạng KSV sợ tranh luận… Nhiều KSV chưa
nhận thấy đây là nhiệm vụ quan trọng của VKS tại giai đoạn xét xử sơ thẩm. Đây
cũng khâu công tác thể hiện bản lĩnh nghiệp vụ yếu nhất của ngành Kiểm sát nói
chung và Kiểm sát Hải Phòng nói riêng. Một số KSV chưa tự tin khi tham gia tranh
luận. Việc tranh luận chưa đúng nội dung, chưa tập trung vào vấn đề chính đang
tranh luận, viện dẫn văn bản áp dụng pháp luật còn hạn chế nhiều khi nói vo nên
phản bác lại các quan điểm trái chiều thiếu căn cứ và không thuyết phục. Những vụ
án phức tạp, khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ, KSV tranh luận còn yếu, thiếu
về mặt lý luận cơ bản đưa ra những lý lẽ lập luận thiếu khoa học mang tính chung
chung, không cụ thể, thậm chí áp đặt ý chí chủ quan... Khi tranh luận đuối lý có
KSV thể hiện thái độ nóng nảy, dùng những từ ngữ không trong sáng để đối đáp
làm mất sự trang nghiêm của phiên tòa.
92
- Quá trình kiểm sát điều tra, truy tố KSV chưa làm hết trách nhiệm nên
tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn xảy ra, vẫn còn việc trả hồ sơ do vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
- Quá trình KSXX, do trình độ nghiệp vụ của một số KSV còn hạn chế nên
không phát hiện những sai phạm của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật nên tình
trạng kháng nghị phúc thẩm trên 1 cấp vẫn còn nhiều.
- KSV chưa thật sự tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật, chưa chủ
động cập nhật, nghiên cứu các nội dung thay đổi, bổ sung để nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Vẫn còn tình trạng ỷ lại vào lãnh đạo, cấp trên. Khi tham
gia phiên tòa, chưa chuẩn bị các hệ thống văn bản pháp luật kèm theo để viện dẫn
khi tranh luận chủ quan dựa vào trí nhớ của bản thân...
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại
2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan
- Hệ thống pháp luật của nước ta chưa hoàn thiện, còn thiếu nhiều văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ, còn nhiều cách hiểu khác nhau giữa các CQTHTT, người tiến
hành tố tụng nên việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất.
- Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm gia tăng các loại tội phạm
mới, hình thức hoạt động, quy mô, cách thức thực hiện, thủ đoạn phạm tội ngày
càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đặc biệt là các loại tội phạm liên quan đến hoạt động
viễn thông, công nghệ cao... Hệ thống pháp luật hình sự chưa kịp thời bổ sung nên
việc xử lý đối với các loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nên
tình trạng tội phạm ẩn còn nhiều.
- Việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ của ngành trong một thời gian ngắn
đã xuất hiện những quan điểm xem nhẹ chức năng KSHĐTP chỉ chú trọng đến chức
năng THQCT. Việc nghiên cứu chuyển đổi mô hình hoạt động từ VKS thành Viện
công tố, chuyển đổi VKS theo mô hình khu vực cũng gây tâm lý hoang mang,
không yên tâm công tác cho một bộ phận cán bộ KSV.
93
- Quy định tái bổ nhiệm KSV với thời hạn 5 năm/lần chưa tạo được sự yên
tâm công tác cho các KSV, làm việc còn e dè, sợ trách nhiệm. "Căn bệnh thành
tích" phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng THQCT và KSXX sơ thẩm.
- Việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhiều khi còn mang
tính hình thức, ôm đồm quá nhiều nội dung, trong thời gian hạn hẹp từ 1 đến 2 ngày
không thể giải quyết hết các vấn đề liên quan. Nội dung học tập một số chuyên đề
quá sơ sài, thời gian thảo luận không có, nhiều lý thuyết mà chưa chú ý đến kinh
nghiệm xử lý trong những trường hợp cụ thể.
- Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo điều hành đôi khi còn thiếu sát sao, đôn đốc
chưa kịp thời nên vẫn còn tình trạng án trả do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,
hoặc khởi tố thêm tội danh...
2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan
- Một bộ phận KSV nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của ngành, còn thể hiện tư tưởng dao động, không tin tưởng vào sự ổn
định chức năng nhiệm vụ của ngành, không có ý thức phấn đấu.
- Việc tự học chưa được các KSV chú ý, việc tham gia các lớp tập huấn
nghiệp vụ chỉ mang tính hình thức, đi cho đủ quân số. Khi trao đổi thảo luận mang
tính thụ động, trả lời một cách qua loa, đại khái, không nghiên cứu các tài liệu liên
quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Chưa ý thức cập
nhật các văn bản pháp luật mới, tự giác nghiên cứu còn thể hiện thái độ làm việc
dựa vào kinh nghiệm.
- Năng lực trình độ của KSV chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Nhiều
loại tội phạm mới xuất hiện, trình độ ngoại ngữ, tin học của KSV chưa kịp thời đáp
ứng được nhiệm vụ, ví dụ: các loại tội phạm lừa đảo trên mạng, tội phạm rửa tiền,
tội phạm liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao...
- Mặc dù lực lượng các KSV được bổ sung kịp thời nhưng lực lượng các
KSV tham gia xét xử sơ thẩm rất ít, đặc biệt là KSV trung cấp. Đa phần các KSV
trung cấp hiện nay đang giữ các chức vụ quản lý, không trực tiếp làm công tác
chuyên môn nên lực lượng KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm rất mỏng.
94
- Trang thiết bị vật chất mặc dù đã được trang bị nhưng vẫn chưa đủ, còn
thiếu các thiết bị: máy ghi âm, máy vi tính, phương tiện đi lại... Chất lượng các loại
trang thiết bị được cấp phát còn thấp, nhiều khi không có hiệu quả. Ví dụ: máy ảnh,
máy camera chất lượng thấp độ phân giải không cao nên hình ảnh ghi lại không nét;
máy ghi âm thu không rõ tiếng...
- Chế độ lương, thưởng đã được quan tâm nhưng vẫn còn thấp chưa đảm
bảo được cuộc sống cho các cán bộ, KSV nên chưa tạo được sự yên tâm công tác.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu với những quy định chung
về chức năng, nhiệm vụ của ngành, thông qua thực tiễn thực hiện chức năng nhiệm
vụ của VKS Hải Phòng. Luận văn đã đánh giá các thành tựu và hạn chế trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. Đặc biệt Luận văn tiến hành phân tích, đánh giá hoạt động tranh tụng, chất
lượng tranh tụng, kỹ năng tranh tụng, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tranh
tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm. Đồng thời Luận văn chỉ rõ những nguyên nhân
của những thành tựu, nguyên nhân của hạn chế để có cơ sở đưa ra những kiến nghị
và giải pháp hoàn thiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát Hải
Phòng tốt hơn nữa trong thời gian tới.
95
Chương 3
NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP
3.1. CƠ SỞ CỦA NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆN KIỂM
SÁT KHI THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên
địa bàn thành phố Hải Phòng
3.1.1.1. Dự báo tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian tới
Trên cơ sở các báo cáo về điều kiện, tình hình phát triển của đất nước và
của thành phố Hải Phòng trong những năm qua và thời gian tới đây; tình hình, yêu
cầu của cải cách tư pháp đến năm 2020; diễn biến của tình hình tội phạm, kết quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong thời gian
qua, em đưa ra dự báo về các yếu tố tác động đến công tác THQCT và KSHĐTP
trong giai đoạn KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong những năm tới như sau:
Tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian tới:
Năm 2010 nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới. Trong nước, Chính phủ quyết tâm giải tỏa các điểm nghẽn của nền kinh
tế, tiếp tục các biện pháp kích cầu đã giúp nền kinh tế dần lấy lại đà phục hồi, hoạt
động xuất nhập khẩu, sản xuất công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên.
- Thành phố tập trung triển khai thực hiện Đề án phát triển kinh tế biển
thành phố Hải Phòng đến năm 2015 định hướng đến năm 2020. Nâng cao năng lực
cạnh tranh nhằm khai thác các lợi thế về dịch vụ hàng hải, phát triển và khai thác
cảng biển, du lịch biển. Hoạt động cạnh tranh không lành mạnh giữa các cá thể kinh
doanh, doanh nghiệp sẽ phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến kinh tế. Dự kiến
trong thời gian tới, các yếu tố mặt trái của nền kinh tế thị trường sẽ ảnh hưởng
96
không nhỏ đến hoạt động các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói
riêng trong đó có VKS.
- Triển khai Quyết định số 1448/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm
2025 và tầm nhìn đến năm 2050 bằng các Đề án, Dự án cụ thể. Tổ chức công bố
công khai các quy hoạch và cắm mốc các quy hoạch được duyệt để quản lý. Khẩn
trương rà soát, xây dựng quy chế quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, kiểm tra, xử lý
vi phạm. Đây là lĩnh vực liên quan đến đất đai, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của người dân. Nếu các cơ quan chức năng làm chưa tốt một mặt nào đó sẽ gây ra
tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân sẽ kéo theo nhiều loại vi
phạm pháp luật mới, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố.
- Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính
Giai đoạn III, đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2010- 2015, thường xuyên,
kiên quyết và đồng bộ, có trọng tâm từ cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy,
đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và
hiện đại hóa nền hành chính nhà nước.
Tình hình cải cách tư pháp trong thời gian tới:
Từ nay đến năm 2020 là một khoảng thời gian tương đối dài, sẽ có nhiều
yếu tố tác động đến việc hoạch định có tính chất chiến lược của Đảng và nhà nước
về thể chế. Trong đó:
- Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, sẽ xác định cụ thể mô
hình và chức năng nhiệm vụ của VKS theo hướng VKS vẫn là một cơ quan Nhà nước
được quy định trong Hiến pháp và là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước phù
hợp với Hiến pháp; tiếp tục thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
Ngành. Theo định hướng của Nghị quyết 49 đề cập đến vấn đề nghiên cứu chuyển mô
hình VKS thành Viện công tố. Như vậy, Viện công tố có sự khác biệt như thế nào so
với VKS như hiện nay. Viện công tố tương lai có thực hiện chức năng KSHĐTP nữa
hay không? Các nhiệm vụ cụ thể của KSV/ Công tố viên đối với hoạt động xét xử sơ
thẩm là gì? Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hay KSV là người xét hỏi chính? KSV tranh
97
tụng như thế nào? Thời hạn tranh tụng có bị giới hạn không? Thời hạn xét xử giải
quyết vụ án sẽ quy định như thế nào? Thẩm quyền của VKS đối với giai đoạn phúc
thẩm sẽ ra sao? Một thực tế là trên thế giới hiện nay, mô hình tổ chức cơ quan công
tố cũng có nhiều kiểu. Vậy, mô hình Viện công tố Việt Nam sẽ được tổ chức như
thế nào? Tất cả những vấn đề này sẽ được giải đáp trong thời gian tới.
- Chính sách hình sự sẽ có sự thay đổi lớn theo chiến lược xây dựng đến
năm 2020, một số điều luật mới bổ sung nhằm điều chỉnh một số quan hệ pháp luật
phát sinh. Nhà nước ta đang xây dựng xã hội dân sự phát triển điều đó cũng đồng
nghĩa với việc một số điều luật trong BLHS hiện hành sẽ được sửa đổi căn bản theo
hướng giảm mức hình phạt ở các khung của điều luật theo hướng nhẹ hơn, thậm chí
sẽ loại bỏ một số loại tội phạm (lạm dụng, lừa đảo…). Mở rộng việc áp dụng các
loại hình phạt không phải phải là hình phạt tù đối với tội ít nghiêm trọng. Hạn chế
hình phạt tử hình…
- Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 theo hướng phù hợp với
quy định của Hiến pháp. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của VKS nói chung và chức
năng, nhiệm vụ của VKS trong công tác THQCT, KSXX sơ thẩm nói riêng sẽ được
quy định lại. VKS vẫn tiếp tục thực hiện hai chức năng THQCT và KSHĐTP tăng
cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự, đặc biệt chú ý
đến hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm. Sau năm 2015 sẽ chuyển từ
mô hình VKS tổ chức ba cấp theo đơn vị hành chính sang mô hình VKS bốn cấp (khu
vực) tương đương với hệ thống của Tòa án, không phụ thuộc và đơn vị hành chính.
Theo đó Luật tổ chức VKS cũng có những thay đổi theo hướng trên.
- Theo tinh thần của Nghị quyết 49 thì cơ cấu tổ chức của VKS sẽ thay đổi
về yêu cầu nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ VKS, đặc biệt là
năng lực tranh tụng trong giai đoạn KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự. Bồi thường
oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các
cấp chính quyền và quần chúng nhân dân. Luật bồi thường Nhà nước có hiệu lực
pháp luật là những thách thức và là rào cản đối với ĐTV, KSV, Thẩm phán trong
quá trình giải quyết vụ án. Các ĐTV, KSV, Thẩm phán sẽ thận trọng hơn trong điều
tra, truy tố, xét xử; tư tưởng đùn đẩy trách nhiệm giữa các CQTHTT rất dễ nảy sinh
98
chùn bước trong việc đấu tranh với tội phạm, e dè trong việc đưa ra quyết định quan
trọng liên quan đến việc giải quyết vụ án.
- Ngạch bậc KSV sẽ thay đổi theo đơn vị hành chính. Thời hạn bổ nhiệm
KSV sẽ thay đổi theo hướng không quy định thời hạn năm năm như hiện nay. Hệ
thống thang bậc lương sẽ thay đổi ngoài phụ cấp nghề nghiệp như hiện nay, còn có
phụ cấp thâm niên và những phụ cấp khác.
Trước tình hình trên VKS phải chủ động nắm bắt chủ trương nói trên của
Đảng và Nhà nước để chủ động triển khai trong công việc của ngành mình. Đồng
thời có kế hoạch đào tạo một đội ngũ KSV nắm chắc các quy định pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ khi thực hiện nhiệm vụ
được Đảng và Nhà nước giao cho.
3.1.1.2. Tình hình tội phạm trong thời gian tới
Xuất phát từ đường lối, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế,
xã hội của Đảng, nhà nước và thành phố. Từ kết quả và những kinh nghiệm đã được
tích lũy trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, cùng với thực trạng tình
hình tội phạm, những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Em đưa ra về một số
dự báo tình hình tội phạm ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành phố Hải Phòng
nói riêng trong thời gian tới như sau:
Tình hình tội phạm ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành phố Hải
phòng nói riêng sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng về số lượng,
tính chất, mức độ, thủ đoạn phạm tội ngày nghiêm trọng và phức tạp hơn. Một số
loại tội xâm phạm về trật tự xã hội có chiều hướng gia tăng, phức tạp, xu hướng
hình thành băng, ổ, nhóm tội phạm sử dụng vũ khí hiện đại để thực hiện hành vi
phạm tội, cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội dã man, tàn bạo hơn…
Bên cạnh những tội phạm "đặc trưng theo kiểu Hải Phòng" - manh động,
côn đồ thường sử dụng vũ khí nóng, hiện đại thanh toán lẫn nhau giữa các băng
nhóm, thậm chí đe dọa cả những người tiến hành tố tụng đã và đang hoạt động như
hiện nay có thể xuất hiện một số loại tội phạm nguy hiểm, hoạt động mang tính
xuyên quốc gia như: Khủng bố quốc tế, tội phạm trong lĩnh vực tin học, công nghệ
99
sinh học, viễn thông, tội phạm bắt cóc con tin, không tặc, hải tặc, tội phạm có tính
chất khủng bố, xã hội đen, tội phạm có sử dụng vũ khí và các phương tiện khoa học
kỹ thuật gây hậu quả tác hại lớn, buôn lậu quốc tế, tội phạm về ma túy, lừa đảo, rửa
tiền, sản xuất và tiêu thụ hàng giả … Ngoài ra một số loại tội phạm có chiều hướng
gia tăng như: Cướp có sử dụng vũ khí, cướp ngân hàng, kho bạc, cướp xe ôtô du
lịch, cướp tài sản người nước ngoài, cướp tiệm vàng, tội phạm giết người do các
mâu thuẫn xã hội, tội phạm cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, chống
người thi hành công vụ, tội buôn bán người.
Tội phạm về kinh tế sẽ xuất hiện những loại tội phạm mới như tội phạm
trong lĩnh vực chứng khoán, tội phạm quốc tế, tội phạm đình công, biểu tình trong
các doanh nghiệp có thuê công nhân hoặc hợp đồng lao động… một số tội phạm có
liên quan đến nước ngoài sẽ gia tăng. Các hành vi phạm tội của người nước ngoài ở
Việt Nam sẽ có chiều hướng gia tăng và phức tạp ở các loại tội: lừa đảo, kinh doanh
trái phép, trốn thuế, cố ý làm trái, kinh doanh hàng giả, mua bán vận chuyển trái
phép ma túy, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tẩy rửa tiền bất
hợp pháp có thủ đoạn phạm tội kín đáo, tinh vi hơn.
Tội phạm về ma túy tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều loại ma túy mới được
phát hiện như Ketamin, Methamphetamine, tài mà, cỏ… hình thức phạm tội ngày
càng tinh vi hơn nhất là các tội phạm sản xuất, tàng trữ, mua bán trái phép các chất
ma túy. Các chợ ma túy hình thành công khai và buôn bán theo kiểu "lô cốt" sẽ cản
trở hoạt động điều tra, xử lý loại tội phạm này. Đối tượng nhóm tội phạm này nhằm
đến chủ yếu là thanh, thiếu niên mới lớn. Sẽ tiếp tục hình thành các đường dây về
các tội phạm về ma túy, có sự móc nối, liên kết với đối tượng là người nước ngoài,
nhất là các nước láng giềng. Đối tượng phạm tội sẽ triệt để lợi dụng các tuyến giao
thông quốc tế (sắt, thủy, bộ, hàng không) để vận chuyển ma túy với thủ đoạn cất
giấu, đối phó sẽ ngày càng xảo quyệt hơn.
Về địa bàn phạm tội ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới, dự báo tội
phạm xảy ra chủ yếu ở các đô thị tập trung đông dân cư và một số huyện có diện tích
rộng, giáp ranh như: quận Lê Chân, Ngô Quyền, các huyện Thủy Nguyên, An Dương...
Bên cạnh đó, các đối tượng phạm tội cũng sẽ móc ngoặc với các cán bộ cơ quan nhà
100
nước nói để phạm tội và với các cán bộ tư pháp nói riêng để "chạy án, chạy tội". Các
tội phạm liên quan đến chức vụ, tham nhũng cũng sẽ gia tăng. Đây cũng là một thách
thức to lớn đối với các ngành tư pháp nói chung và VKS nói riêng trong quá trình đấu
tranh phòng chống tội phạm. Đòi hỏi các cán bộ tư pháp phải có bản lĩnh nghề
nghiệp, lập trường tư tưởng vững vàng không trở thành "tay sai" của tội phạm.
Tóm lại, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội và những tiêu cực khác ở nước ta
nói chung và tại Hải Phòng nói riêng trong thời gian tới có xu hướng tiếp tục diễn
biến phức tạp và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác THQCT, KSXX sơ thẩm các
vụ án hình sự. Đòi hỏi các cấp Ủy Đảng, chính quyền thành phố, các ngành và toàn
xã hội và đặc biệt là các CQTHTT phải phối hợp chặt chẽ, chủ động đấu tranh đối
với tội phạm mới đạt kết quả.
3.1.2. Các định hướng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.1.2.1. Thực tiễn cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng
trong những năm qua
Triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, dưới sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố Hải Phòng,
các cơ quan tư pháp thành phố đã xây dựng nhiều chương trình, giải pháp tích cực
nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương.
Năm 2007, thực hiện ý kiến của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố,
các ngành tư pháp thành phố đã có sự chủ động phối hợp tổ chức xây dựng các
chuyên đề đánh giá về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp tại địa phương (Cơ
quan điều tra, VKS, Tòa án và Luật sư). Trên cơ sở đó tổ chức các cuộc hội thảo,
tọa đàm nhằm phân tích, đánh giá các hạn chế và bàn các giải pháp nâng cao trình
độ cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp.
Năm 2008, ngành tư pháp thành phố tiếp tục phối hợp tổ chức thành công
hội thảo bước hai chương trình cải cách tư pháp, tập trung vào việc: "Nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự".
101
Trên cơ sở thành công của hội thảo bước 1, bước 2, năm 2009 Thành ủy
Hải Phòng, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố tiếp tục chỉ đạo các cơ quan tư
pháp thành phố xây dựng quy chế phối hợp trong công tác đấu tranh, phòng,
chống tội phạm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành
phố. Đến nay các ngành đã cùng thống nhất ký kết và triển khai thực hiện Quy chế
phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hình sự giữa các CQTHTT (CQĐT,
VKS và Tòa án). Các giải pháp đề ra đang được triển khai thực hiện và phát huy
hiệu quả trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm trong thời
gian qua.
Năm 2009 VKSNDTP Hải Phòng tổ chức chuyên đề: "các phiên tòa theo tinh
thần Nghị quyết 08" tổ chức thi "Kiểm sát viên giỏi trong các lĩnh vực hình sự, dân sự,
thi hành án..." để tăng cường nâng cao chất lượng THQCT và KSXX của KSV.
Triển khai kế hoạch chương trình cải cách tư pháp bước 3, năm 2010
VKSNDTP Hải Phòng tổ chức chuyên đề: "tổ chức các phiên tòa nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên”. Qua đó, chất
lượng xét hỏi, chất lượng luận tội, chất lượng tranh tụng cũng được nâng lên. Mọi
hành vi, xử sự của KSV và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đã
chuẩn mực hơn, thể hiện văn hóa pháp đình cao hơn, các quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân ngày càng được quan tâm hơn.
Tuy nhiên, cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng còn nhiều
khó khăn vướng mắc, cần có những giải pháp hữu hiệu hơn ở tầm vĩ mô, tạo cơ sở
pháp lý cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp thành phố.
3.1.2.2. Yêu cầu đối với Viện kiểm sát, Tòa án ở giai đoạn xét xử trong
tiến trình cải cách tư pháp
Các chủ trương của Đảng và những quy định mới của Nhà nước đối với
ngành Kiểm sát trong thời gian tới:
- Về chức năng của ngành Kiểm sát: trước mắt vẫn giữ nguyên hai chức
năng THQCT và KSHĐTP.
102
- Tăng cường nhiệm vụ công tố đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, gắn
công tố với điều tra để tiến đến chỉ đạo hoạt động điều tra. Trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm thì phải nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa.
- Tăng cường vai trò của VKS trong việc KSHĐTP, trong đó nhấn mạnh
tăng cường KSHĐTP trong xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, giam giữ
cải tạo, thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo.
- Đổi mới VKSND theo tiến trình cải cách tư pháp, theo đó tổ chức VKS
theo mô hình khu vực (4 cấp), không theo địa giới hành chính phù hợp với TAND.
Các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Kiểm sát trong thời gian tới:
- Một là, làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền chủ trương, chính sách
của Đảng, các quy định của pháp luật về VKSND, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học
về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong cải cách tư pháp.
- Hai là, công tác kiểm sát phải bám sát, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng.
- Ba là, nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về chức năng,
nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân.
- Bốn là, nâng cao vai trò chủ động và trách nhiệm của Viện trưởng VKSND
các cấp, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSNDTC trong quản lý, chỉ đạo điều hành.
- Năm là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm
vụ mới.
- Sáu là, đổi mới công tác kế hoạch - tài chính, công tác thống kê, tăng
cường hợp tác quốc tế, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của ngành.
Xuất phát từ những đặc điểm điều kiện thực tế của thành phố, Ban chỉ đạo
Cải cách tư pháp thành phố Hải Phòng đã đặt ra một số yêu cầu:
Đối với cơ quan VKS:
Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành trong theo quy định tại
Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS, BLHS, Quy chế THQCT và KSXX...
Nâng cao chất lượng THQCT, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
103
điều tra, truy tố, xét xử. Phấn đấu không để xảy ra trường hợp VKS truy tố, Tòa án
tuyên không phạm tội.
Chủ động đào tạo nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt là chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa cần được quan tâm, chú ý. Các quyền con người phải được bảo
đảm. Sau các phiên tòa cần tổ chức rút kinh nghiệm để đánh giá những ưu, khuyết
điểm từ đó tìm ra những hạn chế cần phải khắc phục, sửa chữa kịp thời.
Chủ động phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan đấu tranh có hiệu
quả và giải quyết kịp thời, nghiêm minh đối với các loại tội xâm phạm an ninh quốc
gia; các vụ án trọng điểm về buôn lậu, ma túy; các vụ án xâm phạm trật tự an toàn
xã hội mà dư luận xã hội quan tâm. Tập trung phát hiện xử lý kiên quyết các vụ án
tham nhũng để nâng cao hiệu quả đích thực trong việc thực hiện chủ trương của
Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng. Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm
việc giải quyết các vụ án trọng điểm về tham nhũng, những vụ án đã có ý kiến chỉ
đạo của cấp ủy xác định những vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết. Đề xuất cơ chế,
chính sách, biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, xử lý có hiệu quả đối với các
hành vi tham những, nhất là hành vi đưa, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn
chiếm đoạt tài sản, cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng.
Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng gây ra.
Tiến hành rà soát, đánh giá việc giải quyết các vụ việc khiếu kiện về tư
pháp, tập trung phối hợp với các ngành chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc
khiếu kiện về tư pháp kéo dài và vẫn còn tái khiếu trong lĩnh vực tư pháp.
Đối với cơ quan Tòa án:
Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, trọng tâm là hoạt động
xét xử; thực hiện đúng các quy định của BLTTHS, BLHS; tổ chức xét xử kịp thời,
nghiêm minh đúng pháp luật các vụ án, nhất là các vụ án lớn, trọng điểm góp phần
thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm
tham nhũng, ma túy, buôn lậu, tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu "xã hội đen".
104
Trên cơ sở lộ trình cải cách tư pháp và hướng dẫn của TANDTC, đánh giá
kết quả bước đầu triển khai và chủ động thực hiện đề án tăng thẩm quyền xét xử của
Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định của BLTTHS.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trên cơ sở các vấn đề lý luận cơ bản về THQCT, KSXX sơ thẩm, qua đánh
giá thực trạng công tác này trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian từ năm
2004 đến năm 2011. Từ những yêu cầu đã nêu trên, để VKS Hải Phòng làm tốt
công tác THQCT, KSXX cần thực hiện tốt một số nhóm giải pháp cơ bản sau:
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật
3.2.1.1 Hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm
sát trong Hiến pháp
Hiện nay, trong giới nghiên cứu đang hình thành hai hệ thống quan điểm về
chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát:
Một là: bỏ chức năng kiểm sát, chỉ tập trung làm tốt một chức năng là công
tố. Những người theo quan điểm này cho rằng đây là xu hướng tất yếu khách quan
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Nếu giao cả hai chức năng
THQCT và KSHĐTP cho VKS sẽ làm lẫn lộn hai chức năng này với nhau, giống
như tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi" nên không khách quan, làm giảm chức
năng công tố, không tập trung toàn bộ hoạt động của mình để phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử nên hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không cao.
Những người theo quan điểm này thường đặt ra câu hỏi, VKS kiểm sát hoạt động
của các cơ quan tư pháp còn cơ quan nào sẽ kiểm sát hoạt động của VKS? Trong
điều kiện đất nước hiện nay, vai trò của VKS trong hoạt động điều tra chưa mạnh,
chưa có thực quyền, năng lực trình độ của KSV chưa ngang tầm với những quyền
hạn mà nhà nước trao cho ngành Kiểm sát. Hơn nữa, hiện nay đất nước chúng ta
đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập, cần có những quy định thống nhất, tương
105
đồng với các nước trên thế giới để tạo điều kiện đưa đất nước phát triển, sánh vai
cùng các cường quốc trên thế giới.
Hai là: vẫn giữ nguyên chức năng, nhiệm vụ của VKS như hiện nay. Thậm
chí một số người cùng quan điểm này còn muốn phục hồi chức năng kiểm sát chung
như trước đây. Những người theo quan điểm này cho rằng bản nhất nhà nước ta là
nhà nước XHCN, quyền lực tập trung thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước không giống các nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục
địa hay truyền thống luật án lệ, đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập. Do đó, mô
hình tổ chức bộ máy Nhà nước ta cũng khác so với các nước khác. Tương tự như
mô hình của các nước theo hệ thống XHCN trước đây, Trung Quốc, Lào, Cu Ba,
Bắc Triều Tiên...cơ quan VKS được giao chức năng THQCT và KSHĐTP. Xuất
phát từ điều kiện kinh tế của nhà nước ta - công hữu về tư liệu sản xuất nên rất cần
có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra trông coi, giám sát tài sản của nhà nước
khỏi sự xâm phạm của những đối tượng khác. Nhà nước ta thực hiện chế độ nhất
nguyên về chính trị, không có sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực mà
chủ yếu là phân công, phối hợp để cùng thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước
tập trung dưới sự chỉ đạo của Quốc hội - cơ quan dân cử đại diện cho quyền và lợi
ích của nhân dân. Các quyền lực của các cơ quan tư pháp (quyền của VKS) là
quyền phái sinh từ quyền lực của Quốc Hội (chỉ giám sát ở tầm thấp) và phải chịu
sự giám sát của Quốc Hội. Hoạt động giám sát của Quốc Hội chỉ nhằm kiểm tra,
giám sát các chủ thể trong việc thực hiện Hiến pháp do Quốc Hội ban hành. Bên
cạnh đó, trình độ nhận thức pháp luật của người dân chưa cao, văn hóa pháp lý chưa
phát triển, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật còn thấp, tình trạng coi thường
pháp luật còn tương đối phổ biến. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, VKS
thực hiện 02 chức năng THQCT và KSHĐTP không bị chồng chéo, trùng lặp mà
hai chức năng này bổ trợ cho nhau. VKS đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
mình, thể hiện tính hữu hiệu của cơ chế giám sát. Vì vậy, trong điều kiện đất nước
ta hiện nay, cơ quan VKS với hai chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật để đảm bảo việc chấp hành pháp luật thống nhất tạo điều kiện tiền đề cho
xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN.
106
Em đồng ý với quan điểm thứ 2, cần giữ nguyên chức năng nhiệm vụ của
VKS như hiện nay. Vì đất nước chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới,
đẩy mạnh tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Trong
đó, yêu cầu cấp bách đặt ra trong các văn kiện của Đảng trong những năm gần đây
là tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian qua đã chỉ rõ sự thiếu đồng bộ của hệ
thống các cơ quan kiểm tra, giám sát; sự bất cập việc kiểm tra giám sát... Điều này
đã được chứng minh bằng nhiều công trình nghiên cứu trong những năm qua. Và
nói rộng ra một chút, sự bất cập này đã được chứng minh bằng việc Quốc Hội đã trả
lại cho VKS chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự. Lý luận và thực
tiễn đều chứng minh sự cần thiết phải có sự kiểm tra, giám sát của VKS trong lĩnh
vực KSHĐTP.
Đối với chủ trương chuyển VKS thành Viện công tố theo quy định tại Nghị
quyết 49-NQ/TW: "... Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống
Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố, tăng
cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [9]. VKS hay Viện công
tố, chức năng công tố hay chức năng vừa công tố vừa KSHĐTP đang là vấn đề đặt
ra đối với các Cơ quan chức năng của nước ta hiện nay. Nhìn rộng ra xung quanh
các nước trong khu vực và trên thế giới, mô hình VKS và Viện công tố cũng có
nhiều đặc trưng giống và khác nhau. Không hẳn Viện công tố chỉ thực hiện duy
nhất chức năng công tố mà không thực hiện chức năng kiểm sát và ngược lại VKS
chỉ thực hiện hai chức năng công tố và KSHĐTP. Nhiều công trình nghiên cứu về
mô hình tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của VKS/Viện công tố các nước
trên thế giới đã chỉ ra rằng: những nước Mỹ, Nhật, Pháp, Bỉ, Ba Lan, Hà Lan,
Rumani, Đan Mạch... Viện công tố chỉ thực hiện duy nhất chức năng công tố. Các
nước theo hệ thống XHCN trước đây, Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên,
Lào, Columbia, Equador... VKS/Viện công tố thực hiện hai chức năng công tố và
kiểm sát. Riêng đối với chức năng kiểm sát thì tùy từng điều kiện của các quốc gia
khác nhau mà phạm vi của chức năng này được thu hẹp hoặc mở rộng. Việt Nam
xây dựng mô hình cơ quan VKS gần như "sao chép" mô hình của Liên Xô và các
107
nước XHCN trước đây. Trong giai đoạn hiện nay, việc chuyển đổi VKS thành Viện
công tố chúng ta cũng cần lưu ý đến bài học về cải tổ chức năng, nhiệm vụ VKS
Liên Bang Nga trước đây. Như chúng ta đã biết, sau khi Liên Xô tan ra, nước Nga
kế thừa toàn bộ các hệ thống cơ quan nhà tư pháp của Liên Xô cũ. Năm 1991, đề án
cải cách tư pháp được đưa ra cải tổ chức năng của VKS theo đó VKS chỉ còn duy
nhất một chức năng công tố, buộc tội trước tòa với lập luận chức năng giám sát hoạt
động tuân thủ pháp luật đã có các thiết chế khác đảm nhiệm, còn việc giám sát các
hoạt động tư pháp của VKS là trái với yêu cầu độc lập của Tòa án và hoạt động xét
xử. VKS cần tập trung làm tốt chức năng buộc tội trước tòa. Nhưng ngay sau đó, năm
1992 các Đại biểu Xô Viết tối cao Liên bang Nga đã bỏ phiếu phủ quyết đề án này tại
kỳ họp đầu tiên. Đồng thời là bài học hạn chế quyền, nhiệm vụ của VKS trong việc giải
quyết các vụ án dân sự ở nước ta trong giai đoạn vừa qua đã thấy được sự thiếu hụt,
mất cân bằng, ổn định xã hội, áp dụng pháp luật thiếu nghiêm chỉnh dẫn đến tình
trạng án xử hủy nhiều trong lĩnh vực dân sự. Do đó, em không đồng tình với quan
điểm chuyển VKS thành Viện công tố. Đồng thời em kiến nghị giữ nguyên điều 137
Hiến pháp, quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKS như hiện nay.
3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự liên quan đến hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
Thực tiễn đã chứng minh những quy định tại BLHS, BLTTHS, Thông tư
liên ngành, Quy chế nghiệp vụ của VKSNDTC... có nhiều bất cập, trực tiếp ảnh
hưởng đến công tác THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự làm phát sinh những vướng mắc, tồn tại cần được sửa đổi bổ sung và hướng
dẫn tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật thống nhất, cụ thể như sau:
a. Hoàn thiện các quy định của BLHS
BLHS mới được sửa đổi bổ sung năm 2009 song mới chỉ tập trung sửa đổi
những vấn đề cấp bách mang tính thời sự nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong
thực tiễn như: giảm hình phạt tử hình, điều chỉnh định lượng truy cứu trách nhiệm
hình sự, điều chỉnh cấu thành và hình phạt đối với một số tội phạm. Bổ sung thêm
một số hành vi phạm tội mới trong thực tiễn. Từ nay đến năm 2020, chúng ta cần
108
phải sửa đổi các quy định pháp luật hình sự một cách tổng thể, mang tính đồng bộ
giữa phần chung và phần riêng.
- Về khái niệm "tội phạm" và "phân loại tội phạm": đây là những quy định
thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Việc phân hóa tội phạm theo
định tính (phân hóa thành 04 loại tội phạm) quy định tại điều 8 BLHS hiện nay,
thực tế áp dụng pháp luật phân biệt rất khó khăn, chủ yếu dựa vào khung hình phạt.
Gộp khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm vào cùng một điều luật về mặt kỹ
thuật lập pháp chưa đảm bảo bởi đây là hai khái niệm hết sức cơ bản của BLHS.
Xác định hành vi vi phạm pháp luật xảy ra có phải là tội phạm hay không, đòi hỏi
việc quy định các giới hạn của tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cần được quy định
cụ thể trong BLHS. Do vậy, cần phải tách thành hai điều luật cụ thể quy định rõ về
tội phạm và phân loại tội phạm.
- Quy định rõ cụ thể các trường hợp miễn, loại trừ trách nhiệm hình sự
trong BLHS thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong lĩnh vực hình sự,
tăng cường áp dụng các biện pháp, chế tài ít nghiêm trọng hơn chế tài hình sự; mở
rộng phạm vi áp dụng các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình sự.
- Bổ sung và hoàn thiện các quy định về chế định lỗi, chế định các giai đoạn
thực hiện tội phạm (BLHS hiện hành quy định thiếu hai khái niệm tội phạm hoàn
thành và tội phạm chưa hoàn thành), chế định đồng phạm (cần quy định cụ thể
giữa khái niệm phạm tội có tổ chức và tổ chức phạm tội). Quy định cụ thể chế
định đa tội phạm (phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm...). Việc quyết định hình phạt trong
trường hợp có đồng phạm cũng cần quy định cụ thể, thống nhất giữa Điều 47 và
Điều 53 BLHS "khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án
phải xem xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội
của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách
nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó" [30].
Thực tiễn xét xử những vụ án có đông bị cáo tham gia, tính chất, mức độ tham gia
của các đồng phạm rất khác nhau nhưng vì đồng phạm nên các bị cáo phải chịu
109
trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng. Điều 47 quy định: "chỉ khi có
ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 BLHS Tòa án mới có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy
định" [30]. Thực tế có những vụ án đồng phạm bị cáo là đầu vụ, chủ mưu, thực
hành tích cực, hoặc hưởng lợi chính từ hành vi phạm tội so với các đồng phạm khác
tính chất vai trò của các bị cáo đồng phạm khác thấp hơn nhưng mức án bị xét xử
bằng hoặc thậm chí thấp hơn bị cáo vai trò nguy hiểm trong vụ án vì những bị cáo
này có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46. Hoặc thậm chí chỉ có
01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 nhưng ở những tình tiết quy định
ghép, Tòa án tách các tình tiết này để thành nhiều tình tiết giảm nhẹ tại điều 46. Ví
dụ điểm p (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) khoản 1 điều 46 BLHS. Thực tiễn
vận dụng còn nhiều bất cập, chưa có các quy định cụ thể về những vấn đề này. Các
tình tiết giảm nhẹ cần được nêu rõ khái niệm để vận dụng thống nhất trên thực tiễn
tránh tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Khái niệm tự thú, đầu thú, gây thiệt hại
không lớn... Đồng thời cũng cần làm rõ các khái niệm chưa được giải thích rõ bằng
các quy định cụ thể: phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội vì động cơ đê hèn,
phạm tội nhiều lần, vì động cơ đê hèn; hậu quả nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng... Các tội phạm cụ thể cần xây dựng theo
hướng nhân đạo hóa.
b. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS
Thực tiễn xét xử cho thấy, mặc dù BLTTHS đã được sửa đổi bổ sung so với
BLTTHS năm 1988 nhưng vẫn còn nhiều quy định chưa thực sự đi vào đời sống tố
tụng. Nhiều quy định còn chưa rõ ràng, đặc biệt là trong giai đoạn cải cách tư pháp
hiện nay, khi yêu cầu về việc thực thi nhiệm vụ của các CQTHTT đang đòi hỏi trình
độ lập pháp về tố tụng phải cao hơn nữa. Đứng trước những dự kiến thay đổi về
chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của các CQTHTT, cụ thể là Tòa án và VKS đòi
hỏi BLTTHS cần phải sửa đổi kịp thời đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới.
Việc xác định mô hình tố tụng là thẩm vấn, tranh tụng hay thẩm vấn đan
xen lẫn tranh tụng sẽ liên quan trực tiếp đến các quy định của BLTTHS. Nếu chúng
110
ta chuyển đổi VKS thành Viện công tố thì điều đó cũng có nghĩa mô hình tố tụng
của chúng ta không còn là tố tụng thẩm vấn đan xen tranh tụng như hiện nay nữa
mà chuyển sang mô hình tố tụng tranh tụng. Như vậy, cũng với những điều kiện về
đặc điểm tình hình đất nước, trình độ dân trí, trình độ nhận thức pháp luật, trình độ
ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đã phân tích ở trên thì mô hình tố
tụng tranh tụng chưa thực sự phù hợp với đất nước ta. Trong thời kỳ quá độ, nước ta
vẫn nên duy trì mô hình tố tụng thẩm vấn đan xen tranh tụng như hiện nay là phù
hợp, chủ yếu tập trung tăng cường hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự. Điều này, đã được chứng minh bằng thực tiễn thực hiện chức năng
nhiệm vụ hơn 50 năm qua của ngành Kiểm sát nhân dân.
Để tạo điều kiện đưa đất nước hội nhập cùng thế giới, trong lĩnh vực tố tụng
hình sự, chúng ta cần nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các mô
hình tố tụng trên thế giới vận dụng linh hoạt trong điều kiện của Việt Nam nhằm
tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự.
Bổ sung một số nguyên tắc cơ bản của BLTTHS:
- Nguyên tắc tranh tụng: chưa được quy định thành nguyên tắc cụ thể bằng
điều luật riêng trong BLTTHS mà được đề cập trong các điều 19 và các điều cụ thể
khác trong BLTTHS. Việc xây dựng, ghi nhận nguyên tắc tranh tụng thành điều luật
cụ thể trong BLTTHS có ý nghĩa là tư tưởng chủ đạo trong việc xây dựng các quy
định về thủ tục tố tụng đặc biệt là thủ tục tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội: được coi là tiêu chí để đánh giá một nhà nước
có thực sự dân chủ và tôn trọng quyền con người hay không. BLTTHS nước ta chưa
quy định nguyên tắc này thành một điều luật riêng nhưng đã được đề cập tại Điều
10 "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT", Điều 9 "không ai bị
có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật". Nhiều nước trên thế giới ghi nhận nguyên tắc này trong hiến pháp để
thể hiện sự dân chủ của mình. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ, xây dựng nhà
111
nước pháp quyền XHCN, cần ghi nhận nguyên tắc này trong BLTTHS bằng một
điều luật riêng để xác định đây là những tư tưởng chủ đạo xây dựng, hoàn thiện
pháp luật đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật.
- Nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo: nguyên tắc này chưa được quy định
trong BLTTHS nhưng thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
hình sự các CQTHTT đã quan tâm đến nguyên tắc này. Việc quy định nguyên tắc này
trong BLTTHS là điều rất cần thiết góp phần đưa nguyên tắc này thành tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ áp dụng tùy nghi như hiện nay. Qua
đó cũng thể hiện trình độ văn hóa pháp lý cũng như chính sách hình sự của một quốc
gia trong việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là quyền của bị can, bị cáo.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các quy định nâng cao trách nhiệm, vai trò của
cá nhân người tiến hành tố tụng; xác định rõ vai trò của các CQTHTT, mối quan hệ
giữa các CQTHTT, đặc biệt là CQĐT và VKS trong việc chỉ đạo hoạt động điều tra,
gắn công tố với điều tra.
Hoàn thiện các chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự. Mở
rộng khái niệm chứng cứ, bổ sung thêm nguồn chứng cứ đặc biệt là những chứng cứ
liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao; hoạt động thu thập chứng cứ cũng cần quy
định trình tự đơn giản hơn, các cơ quan hữu quan nếu không cung cấp chứng cứ
theo yêu cầu của các CQTHTT cần phải có chế tài cụ thể để xử phạt.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm cần quy định rõ trình tự, thủ tục theo
hướng làm rõ các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự. Quy
định như hiện nay thì tố tụng hình sự Việt Nam là tố tụng buộc tội từ giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố đến xét xử các CQTHTT đều có nghĩa vụ phải chứng minh tội phạm.
Theo đó HĐXX là người hỏi chính, rồi đến KSV và những người tham gia tố tụng
khác. Để thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp "nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm" cần sửa đổi theo hướng KSV là người hỏi chính, hỏi đầu tiên, đến luật sư,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, thẩm phán hỏi sau cùng và chỉ
hỏi những nội dung liên quan đến tố tụng hoặc những chứng cứ thiếu, chưa rõ ràng
cần thiết phục vụ cho việc đưa ra bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng
112
pháp luật. Cùng với việc đưa tranh tụng thành nguyên tắc trong BLTTHS, việc tăng
cường hoạt động tranh tụng trong giai đoạn xét xử thì quy định này rất phù hợp với
điều kiện của Việt Nam với mô hình tố tụng xét hỏi đan xen tranh tụng.
Mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, đặc biệt là
giai đoạn xét xử sơ thẩm, cần giản lược các thành phần, trình tự tham gia tố tụng
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo hướng chỉ cần 1 thẩm phán, không cần HTND
trong phiên tòa rút gọn. Tuy nhiên, việc sửa đổi này sẽ ảnh hưởng đến quy định
"Tòa án xét xử tập thể, quyết định theo đa số" trong Hiến pháp. Do vậy, cần có sự
chỉnh sửa mang tính hệ thống và đồng bộ.
c. Hoàn thiện các quy định khác có liên quan đến VKSND
Luật tổ chức VKSND: trên cơ sở định hướng chuyển mô hình tổ chức cơ
quan VKS thành 4 cấp tương đương với mô hình, tổ chức của Tòa án nhân dân
trong tiến trình cải cách tư pháp. Luật tổ chức VKSND cần sửa đổi theo hướng:
- Khẳng định VKSND là hệ thống cơ quan tư pháp độc lập trực thuộc Quốc
Hội, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất. VKSND thực hiện hai chức
năng THQCT và KSHĐTP.
- Bộ máy VKSND được tổ chức thành bốn cấp: VKSNDTC, VKSND cấp
cao; VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện (không nên quy định cấp khu vực) để
tăng cường hoạt động công tố trong điều tra vì hiện nay mô hình tổ chức của CQĐT
vẫn giữ nguyên.
Pháp lệnh KSV: cần sửa đổi theo hướng:
- Xây dựng cơ chế bổ nhiệm KSV theo hướng bổ nhiệm suốt đời, bỏ ngạch
KSV theo cấp hành chính như hiện nay; tăng cường trách nhiệm, vai trò, quyền hạn
của KSV với tư cách là một chức danh tố tụng độc lập, KSV được giao một số
quyền lực cụ thể... Xây dựng thang bảng lương, chế độ phụ cấp riêng cho cán bộ,
công chức ngành kiểm sát không theo bảng lương hành chính như hiện nay.
- Hoàn thiện các quy định về trang bị các phương tiện làm việc, cơ sở vật
chất cho các KSV khi tham gia xét xử như máy tính sách tay, máy ghi âm, camera...
113
hoặc những trang thiết bị bảo vệ tính mạng cho KSV trong những vụ án phức tạp,
liên quan đến các băng nhóm xã hội, hoặc tổ chức xã hội đen.
3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
3.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức
Theo lộ trình cải cách tư pháp, trước mắt từ nay đến năm 2015 phải chuyển
đổi VKS khu vực tương đương với mô hình Tòa án khu vực (04 cấp). Việc chuyển
đổi phải đảm bảo nguyên tắc tổ chức quyền lực của nhà nước ta, bảo đảm chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của VKSND các cấp. Đây là nhiệm vụ lớn, khó khăn và
phức tạp đối với ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới. Việc chuyển đổi tổ
chức và thẩm quyền của VKSND khu vực đảm bảo tương đương với số lượng địa hạt
tư pháp của TAND sơ thẩm khu vực đồng thời phải đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ
THQCT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra trong điều kiện tổ
chức và hoạt động của CQĐT vẫn giữ nguyên như hiện nay. Đây là thách thức đối
với ngành Kiểm sát về mặt con người, năng lực, trình độ chuyên môn cũng như cơ sở
vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác trong thời gian tới. Nếu chuyển thành
VKS khu vực thì đa phần các VKS cấp huyện ở các tỉnh, thành phố lớn hầu như
không có sự thay đổi về mặt tổ chức, biên chế, địa bàn hoạt động vì khối lượng công
việc ở các đơn vị này hầu như không thay đổi. Việc sát nhập thành VKS khu vực
(tương đương với VKS cấp huyện) chủ yếu là ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, ít án. Như
vậy, việc đi lại của KSV trong quá trình giải quyết án hình sự sẽ rất khó khăn và bất
cập trong điều kiện nền kinh tế còn thấp kém như hiện nay. Việc bố trí nhân lực,
trang thiết bị phục vụ công tác cũng đòi hỏi Nhà nước, VKSNDTC chú ý quan tâm
bởi nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cán bộ KSV. Với điều kiện thang
bảng lương của cán bộ KSV hưởng theo ngạch công chức như hiện nay khó có thể
đảm bảo được cuộc sống cho các KSV nếu thường xuyên phải đi làm trong điều kiện
cơ sở vật chất khó khăn và điều kiện kinh tế hạn hẹp. Việc thanh toán công tác phí
lại phải theo thủ tục xét duyệt chờ đợi lâu. Do vậy, để chuyển đổi VKS khu vực
thành công trước hết Nhà nước, Lãnh đạo ngành cần quan tâm đến các điều kiện, cơ
sở vật chất, chế độ lương, thưởng đối với các cán bộ, KSV công tác ở những VKS
114
khu vực nơi xa xôi hẻo lánh nói riêng và cán bộ, KSV trong toàn ngành nói chung để
khuyến khích động viên và tạo điều kiện để họ chuyên tâm với công tác từ đó sẽ nâng
cao được chất lượng THQCT, KSHĐTP góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ
KSV của ngành.
Lộ trình cải cách tư pháp còn dài, các cơ quan chức năng cần cân nhắc, xem
xét kỹ lưỡng việc chuyển đổi tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm
sát nhân dân để đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật thống nhất xây dựng thành
công nhà nước pháp quyền XHCN. Do đó, em mạnh dạn kiến nghị giữ nguyên tổ
chức của ngành kiểm sát như hiện nay không chuyển sang mô hình khu vực.
Về tổ chức cán bộ:
Trong thời gian tới, VKSNDTP cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới
công tác tổ chức, cán bộ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và
KSHĐTP ở giai đoạn xét xử sơ thẩm theo hướng tăng cường cán bộ có phẩm chất
đạo đức tốt và năng lực chuyên môn cao, phù hợp cho công tác này. Cần có kế
hoạch tổng thể về việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển, điều động cán bộ, KSV phù hợp
với đặc thù, tính chất, số lượng các vụ án của từng đơn vị.
Việc đổi mới công tác tổ chức bộ máy làm công tác THQCT và KSHĐTP
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm phải xuất phát từ vấn đề con người; do đó cần tăng
cường cán bộ, KSV có trình độ và thực sự có năng lực cho công tác này, thực hiện
tốt việc điều động cán bộ, KSV từ VKSNDTP xuống VKS cấp huyện và ngược lại
hoặc giữa VKS cấp huyện với nhau đảm bảo khoa học, hợp lý về tính chất công
việc, sở trường, năng lực công tác, giới tính....nhằm hạn chế những tồn tại, bất cập
góp phần nâng cao chất lượng công tác.
Rà soát lại đội ngũ cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm ở VKS để sắp xếp, điều động cho hợp lý; không để cán bộ,
KSV làm công tác này quá 10 năm tại một đơn vị hoặc kiên quyết điều động cán bộ,
KSV không đủ phẩm chất chính trị, đạo đực, năng lực công tác sang công tác khác,
kịp thời bổ sung cán bộ, KSV có đủ tiêu chuẩn thay thế, đảm bảo sự điều động
không làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
115
Đổi mới cơ chế quản lý, phân công Phó Viện trưởng phụ trách từ giai đoạn
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự phải đề xuất Viện trưởng quyết định mọi vấn đề
liên quan đến việc giải quyết vụ án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhằm
đảm bảo sự chế ước và nâng cao trách nhiệm công tác, chống chủ quan, duy ý chí. Tăng
cường trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong công tác quản lý chỉ đạo điều hành.
Thường xuyên cử cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ...
do VKSNDTC tổ chức nhằm nâng cao trình độ, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp. Nghiên cứu, dự kiến danh sách các VKS khu vực làm cơ sở cho
việc xây dựng, quy hoạch, điều động, đào tạo cán bộ trong thời gian tới nhằm đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Thường xuyên tổ chức học tập bằng cách nghiên cứu các chuyên đề nghiệp
vụ: nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, nâng cao chất lượng cáo trạng,
kỹ năng xét hỏi, kỹ năng luận tội, kỹ năng tranh tụng, kỹ năng kháng nghị phúc
thẩm... Tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm từ công tác nghiên cứu và công tác
thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác.
Để nâng cao chất lượng cán bộ đòi hỏi trước hết người cán bộ, KSV phải tự
rèn luyện ý thức chính trị. Rèn luyện nâng cao ý thức chính trị sẽ giúp cán bộ, KSV
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành một cách có lý, có tình được nhân dân tin
tưởng và đồng tình; giúp cán bộ, KSV vận dụng pháp luật được đúng đắn. Xa rời ý
thức chính trị dễ làm cho cán bộ, KSV đánh mất ý thức rèn luyện, dễ bị những lợi
ích vật chất, tinh thần cám dỗ và đi đến vi phạm pháp luật. Việc rèn luyện ý thức
chính trị luôn phải đi đôi với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ
kiểm sát theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Công minh, chính trực, khách
quan, thận trọng và khiêm tốn". Trong công tác THQCT, kiểm sát giải quyết vụ án
hình sự nói chung và ở giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng cán bộ, KSV hàng ngày,
hàng giờ tiếp xúc với những mặt trái của xã hội, tiếp xúc với đủ loại vi phạm và tội
phạm. Nếu họ không được trau dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị thì rất dễ
bị mua chuộc, sa vào con đường "chạy án, chạy tội", không hoàn thành nhiệm vụ
được giao làm mất uy tín của ngành kiểm sát.
116
3.2.2.2. Về yêu cầu nghiệp vụ đối với các Kiểm sát viên
Để nâng cao yêu cầu nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời
gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số hoạt động nghiệp vụ sau:
Nâng cao kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, tập trung làm rõ các cấu
thành cơ bản trong quá trình nghiên cứu. Cần ghi chép cụ thể tỉ mỉ những chứng cứ
buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có trong hồ sơ
vụ án hình sự. Đối với những vụ án phức tạp, có đông bị cáo tham gia cần có cách
thức nghiên cứu khoa học để tổng hợp các chứng cứ, phân hóa vai trò của từng bị
cáo trong vụ án, hệ thống các chứng cứ theo từng nhóm, phân loại những người
tham gia tố tụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét hỏi, luận tội đối với bị cáo
tại phiên tòa cũng như đảm bảo việc tranh tụng với luật sư và những người tham gia
tố tụng khác một cách hệ thống, khoa học đảm bảo viện dẫn căn cứ pháp luật chính
xác. Nếu thấy các chứng cứ buộc tội không đủ hoặc có tội phạm khác thì KSV phải
báo cáo ngay với lãnh đạo đơn vị để giải quyết kịp thời.
Xây dựng đề cương xét hỏi khoa học, dự kiến những tình huống xảy ra tại
phiên tòa sát với thực tế. Kế hoạch xét hỏi phải hỗ trợ cho kế hoạch tranh luận tại
phiên tòa. Đòi hỏi, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm chắc diễn biến tố tụng,
diễn biến lời khai, dự kiến những tình huống sát với diễn biến phiên tòa. Mỗi loại tội
danh có những đặc trưng riêng, khi xây dựng kế hoạch xét hỏi, KSV phải đặt những
câu hỏi làm rõ những dấu hiệu cơ bản cấu thành tội phạm, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đối tượng liên quan, vai trò của các đồng phạm....
KSV phải tự đặt mình vào vị trí của bị cáo, người bào chữa, luật sư hoặc những người
tham gia tố tụng khác để dự tính những tình huống phát sinh tại tòa, đây cũng chính
là những nội dung chính sẽ tiến hành tranh luận tại tòa. Đồng thời KSV cũng phải
xây dựng, tìm những tài liệu, lý lẽ để bác bỏ những luận điểm trái chiều có liên quan
đến việc xác định tội danh, điều khoản, áp dụng hình phạt, trách nhiệm dân sự đối với
bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan...
Xây dựng dự thảo Luận tội sát với nội dung diễn biến phiên tòa, kịp thời
chỉnh sửa những nội dung mới phát sinh theo diễn biến phiên tòa. KSV phải có khả
117
năng tổng hợp, khả năng viết, khả năng phân tích đánh giá các chứng cứ buộc tội,
gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo. Đánh giá phân hóa vai trò, trách
nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo cụ thể. Đặc biệt đối với một số
tội danh có những hành vi khách quan giống nhau như: giết người với cố ý gây thương
tích dẫn đến hậu quả chế người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, tham ô với cố ý làm trái hoặc thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng, cướp tài sản với cưỡng đoạt tài sản, hiếp dâm với cưỡng dâm... KSV cần phân
tích làm rõ ý thức chủ quan của bị cáo khi phạm tội; hoặc trạng thái tâm lý của người bị
hại tại thời điểm xảy ra vụ án; không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh...xảy ra sự
việc phạm tội để khẳng định việc truy tố của VKS là đúng, có căn cứ pháp luật. Luận
tội là cơ sở, tiền đề cho hoạt động tranh tụng nên cần phải chuẩn bị tỉ mỉ, chi tiết các
tình tiết để tranh tụng với Luật sư những người tham gia tố tụng khác. Trong Luận
tội cũng phải viện dẫn các căn cứ pháp luật, các văn bản hướng dẫn, các kiến thức
chuyên ngành để chứng minh và bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS. Đồng thời,
KSV cũng phải có kiến thức xã hội, thường xuyên cập nhật các thông tin xã hội, dư
luận của quần chúng nhân dân để nắm bắt các tâm lý xã hội để thuận tiện cho việc
tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho phù hợp với từng đối tượng, từng vụ án cụ thể.
Tại phiên tòa, KSV cần tập trung tư tưởng theo dõi toàn bộ diễn biến phiên
tòa, ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ những câu hỏi của HĐXX, luật sư, người bào chữa và
những câu trả lời của bị cáo, người bị hại, nhân chứng... để phán đoán những vấn đề
sẽ tranh luận. KSV phải tích cực tham gia xét hỏi, làm rõ những chứng cứ buộc tội,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đối tượng liên quan khác,
các vấn đề dân sự trong vụ án...
KSV cần rèn luyện kỹ năng tranh tụng theo từng loại tội hoặc nhóm tội
danh cụ thể. Mỗi loại tội danh, mỗi đối tượng tham gia tranh tụng có những đặc
trưng riêng, khi tranh luận KSV cần xây dựng những hướng tranh tụng cụ thể:
Đối với bị cáo và người bào chữa của bị cáo:
- Hướng thứ nhất: bị cáo không nhận phạm tội như VKS truy tố: KSV phải
đưa ra các chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa kết hợp với những chứng cứ đã
118
có trong hồ sơ vụ án. Nêu ra những căn cứ pháp luật nhằm bác bỏ những chứng cứ,
căn cứ pháp luật mà bị cáo và người bào chữa đưa ra. Vận dụng lý luận về cấu
thành tội phạm để chứng minh bị cáo đã phạm tội như nội dung truy tố. KSV không
được nóng nảy, phải bình tĩnh, căn cứ vào những chứng cứ đã được kiểm tra tại
phiên tòa để hệ thống tổng hợp với các chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra
có trong hồ sơ vụ án, phân tích logic, lập luận chặt chẽ trả lời bị cáo và luật sư bào
chữa bác quan điểm bị cáo không phạm tội như VKS truy tố.
Nếu bị cáo và luật sư cho rằng người làm chứng và người bị hại do có quan
hệ kinh tế, tình cảm nên lời khai của họ không khách quan làm xấu đi tình trạng của
bị cáo, KSV cần đưa ra những chứng cứ chứng minh lời khai của họ là khách quan,
trung thực và được thu thập theo đúng quy định của pháp luật bác lời khai của
người bào chữa và luật sư.
- Hướng thứ hai: luật sư và người bào chữa đưa ra cơ sở chứng minh bị cáo
không phạm tội hoặc phạm tội danh khác với tội danh mà VKS truy tố mà những tội
danh này có khung hình phạt nhẹ hơn hoặc bị cáo phạm tội như tội danh VKS truy
tố nhưng khung hình phạt nhẹ hơn khung VKS truy tố. KSV phải đưa ra các chứng
cứ buộc tội, có thể thẩm vấn ngay lại để làm rõ chứng cứ buộc tội. Vận dụng những
lý thuyết cấu thành tội phạm để phân tích chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo
hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm mà VKS đã truy tố. KSV phải chứng minh tội
danh mà bị cáo và luật sư đưa ra phải có ít nhất 01 yếu tố không cấu thành tội phạm
hoặc khung khoản đề nghị không chính xác.
- Hướng thứ ba: luật sư thống nhất với VKS về tội danh nhưng không thống
nhất cách đánh giá tính chất mức độ phạm tội của bị cáo và đưa ra một số tình tiết
giảm nhẹ, hoặc tình tiết giảm nhẹ về nhân thân xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo,
xin được hưởng án treo, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại cho bị
cáo... KSV ghi chép kỹ các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết về nhân thân mà luật sư
nêu ra. Đối chiếu với các quy định của pháp luật xem tình tiết nào đã được pháp luật
quy định, tình tiết nào pháp luật chưa quy định. Tình tiết nào đã được VKS xem xét
cân nhắc đề nghị khi quyết định hình phạt trong luận tội, tình tiết nào VKS chưa
xem xét từ đó chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của Luật sư.
119
- Hướng thứ tư: tại phiên tòa luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX
hoãn phiên tòa, trả lại hồ sơ cho VKS yêu cầu điều tra bổ sung do kết luận giám
định không khách quan, không chính xác... KSV cần nghiên cứu kỹ nội dung lời
bào chữa của Luật sư, đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án về công tác
giám định và kết quả giám định tư pháp... căn cứ vào các quy định của BLTTHS và
Pháp lệnh giám định tư pháp để chấp nhận hoặc bác bỏ lời bào chữa của luật sư.
Đối với người bị hại và luật sư của họ:
- Hướng thứ nhất: đưa ra ý kiến về các CQTHTT bỏ lọt hành vi phạm tội và
người phạm tội khác yêu cầu xử lý. KSV xem xét kỹ yêu cầu của người bị hại, đối
chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phân tích có hay không việc CQTHTT bỏ
lọt hành vi phạm tội và người phạm tội. Nếu không có bác đề nghị của người bị hại và
luật sư của họ. Nếu có, KSV đề xuất việc khởi tố bị can để tiếp tục điều tra xử lý nếu việc
xử lý người phạm tội này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án hiện tại. Hoặc đề nghị
HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu thấy không điều tra bổ sung sẽ ảnh hưởng đến
việc xét xử vụ án và việc điều tra bổ sung này không thể thực hiện tại phiên tòa được.
- Hướng thứ hai: đưa ra các tình tiết tăng nặng để yêu cầu tăng hình phạt
đối với bị cáo. KSV cần xem xét kỹ yêu cầu của người bị hại, đối chiếu với các quy
định của pháp luật, xem xét kỹ luận tội đã áp dụng tình tiết giảm tăng nặng, tình tiết
nhẹ nào, tình tiết nào chưa áp dụng từ đó có chấp nhận hay không chấp nhận yêu
cầu của người bị hại.
- Hướng thứ ba: đưa ra yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại. KSV xem
xét các chứng từ, tài liệu họ xuất trình có hợp lý hay không có phù hợp với thực tế
hay không. Nếu yêu cầu không đúng thì KSV đề nghị HĐXX không chấp nhận.
Nếu yêu cầu đúng pháp luật nhưng không có chứng từ xuất trình trước ngày đưa vụ
án ra xét xử thì KSV có quyền đề nghị HĐXX tách thành vụ án dân sự riêng. Tuy
nhiên KSV cần lưu ý chỉ được tách vụ án để giải quyết riêng hoặc tách một phần
dân sự giải quyết riêng bằng một vụ án dân sự khi có yêu cầu. Phần dân sự được
tách ra không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, tình tiết tăng nặng,
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; chưa tìm được hoặc chưa xác định
120
được người bị hại, nguyên đơn dân sự; hoặc người bị hại, nguyên đơn dân sự chưa có
yêu cầu, hoặc đã có yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ
chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình cho CQTHTT; người bị hại, nguyên đơn
dân sự vắng mặt tại phiên tòa gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự đó. Nếu
yêu cầu đúng pháp luật nhưng chứng từ chứng minh lại chưa đảm bảo về mặt pháp
lý thì KSV phải xem xét kỹ lưỡng các khoản chi đó có phù hợp với thực tế và có
thật hay không để làm cơ sở cho việc đề nghị chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu.
Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: thông thường họ có yêu
cầu tăng quyền lợi, giảm nghĩa vụ. Tương tự như đối với người bị hại đòi tăng bồi
thường thiệt hại, KSV cần nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu cung cấp cũng như yêu
cầu của họ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, xem xét trên cơ sở thực tế để
chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ.
Một số vấn đề khác liên quan đến luật sư:
- Luật sư đưa ra một số tài liệu, chứng cứ chưa rõ, chưa có căn cứ để kết luận
chính xác thì KSV có quyền đề nghị HĐXX quay trở lại phần xét hỏi, sau đó mới phát
biểu ý kiến đối đáp, tranh luận (Điều 219 BLTTHS). Nếu quay trở lại xét hỏi chưa rõ
những tình tiết này hoặc những chứng cứ này có ảnh hưởng tới kết luận vụ án thì KSV
đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung (điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS).
- Luật sư vắng mặt nhưng đã có bài bào chữa gửi Tòa án: nếu KSV biết trước
nội dung bài bào chữa trước khi mở phiên tòa thì KSV cần đưa nội dung đối đáp
tranh luận với người bào chữa vào trong bản Luận tội của mình. Nếu tại phiên tòa bị
cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ, hoặc những người tham gia tố tụng khác có
những ý kiến có nội dung khác thì KSV vẫn phải đối đáp tranh luận theo quy định
của pháp luật. Nếu ra phiên tòa KSV mới biết thì KSV cần yêu cầu HĐXX công bố
bài bào chữa của luật sư, sau đó KSV đối đáp tranh luận lại theo thủ tục chung.
Khi tranh luận KSV phải đảm bảo các yêu cầu:
- Tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, thực sự cầu thị. Qua tranh luận có
những vấn đề trong hồ sơ vụ án chưa được làm sáng tỏ, nếu có căn cứ thì KSV phải
chấp nhận những tình tiết, chứng cứ này.
121
- Tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo, luật sư và những người tham gia tố
tụng khác, dân chủ bình đẳng trong đối đáp tranh luận.
- Bảo đảm văn hóa ứng xử trong đối đáp tranh luận. KSV giữ đúng chuẩn
mực là người thay mặt nhà nước THQCT và KSHĐTP.
- Đối đáp, tranh luận phải đảm bảo có căn cứ, hợp lý và thuyết phục.
- Khi đối đáp tranh luận, KSV phải đối đáp với từng ý kiến một.
- KSV phải lựa chọn những ý kiến nào quan trọng mang tính chất then chốt,
quyết định đến nội dung vụ án để đối đáp trước còn những ý kiến khác trả lời sau.
Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng công tố, VKS phải thực sự là cơ
quan giám sát của nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Từ khi chuyển hồ sơ vụ
án sang Tòa án, VKS phải kiểm sát các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử. Đối chiếu với các quy định của pháp luật xem các quyết định đó có căn
cứ không, có đúng hay không, nội dung các quyết định có đảm bảo hay không...
HĐXX có tuân thủ đúng các quy định về trình tự xét xử tại phiên tòa hay không,
những người tham gia phiên tòa có chấp hành pháp luật đúng hay không. Để có thể
đối chiếu mọi hành vi, xử sự của những người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng, KSV luôn phải để BLTTHS trước mặt mình trong toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án để kịp thời theo dõi và viện dẫn căn cứ pháp luật khi cần thiết.
Sau phiên tòa, KSV phải kiểm tra biên tòa phiên tòa, tập hợp những vi phạm của
Tòa án để xem xét kháng nghị hoặc kiến nghị khắc phục những hạn chế đó.
3.2.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp
a. Đổi mới quan hệ phối hợp giữa VKS với Tòa án
Trước hết các KSV, Thẩm phán phải nhận thức rõ vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của ngành để từ đó thấy được tầm quan trọng của công việc mình đang
thực hiện. Kết hợp với hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho đội ngũ
KSV, Thẩm phán để họ nhận thấy rõ vai trò, hiệu quả của mối quan hệ phối hợp
giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan VKS và Tòa
122
án là nhân tố quyết định sự thành công trong việc xử lý vụ án, đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo kịp thời, nhanh chóng và đáp ứng được sự trông
đợi của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, nếu phối hợp thiếu chặt chẽ, việc xử lý tội
phạm sẽ kéo dài, kém hiệu quả sẽ làm giảm uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật đối
với quần chúng, còn có thể dẫn đến sai sót, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng
đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự.
Một trong những giải pháp cơ bản để đổi mới mối quan hệ giữa VKS và
Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là việc nâng cao năng lực
nghiệp vụ cho các KSV, Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng phối hợp và hiệu
quả hoạt động của từng cơ quan. Thẩm phán và KSV phải tự mình bồi dưỡng những
phẩm chất, kiến thức, xác định rõ trách nhiệm để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình
thực thi nhiệm vụ. Tòa án và VKS cần phải thường xuyên đào tạo, trang bị kiến
thức nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kiến thức khoa học công nghệ, ngoại ngữ cho
họ. Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm đối với những vụ án phối hợp tốt mang
lại hiệu quả cao để học tập và cũng tổ chức rút kinh nghiệm những vụ án không có
sự phối hợp tốt dẫn đến những sai sót, vi phạm để không lặp lại.
Để đảm bảo mối quan hệ hợp tác, trước hết, KSV và Thẩm phán phải hiểu
rõ và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của quyền hạn của ngành và của bản
thân, không ngừng học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng xét xử, phải
nắm chắc các quy định của pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ. Cùng với BLHS,
BLTTHS cần phải nắm chắc các văn bản dưới luật như Thông tư liên ngành, các
quy định của từng ngành, quy chế phối hợp của các ngành trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Riêng đối với các KSV còn phải nắm chắc quy chế THQCT và
KSXX các vụ án hình sự.
Thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo của cấp Ủy để tăng cường mối quan hệ
phối hợp, đặc biệt khi giải quyết các vụ án lớn, phức tạp tại địa phương.
Hai ngành Tòa án, VKS cần sớm ban hành Quy chế phối hợp trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự.
123
b. Đổi mới quan hệ phối hợp giữa VKS và các bổ trợ tư pháp
Với các cơ quan bổ trợ tư pháp:
Để nâng cao chất lượng xét xử, trong những phiên tòa phức tạp, khó về đánh
giá chứng cứ cần có sự phối hợp của các cơ quan giám định, các trường giáo dục người
khuyết tật, khiếm thính... hoặc người phiên dịch để làm tăng tính khách quan và thuyết
phục tại phiên tòa. Khi tham gia phiên tòa đòi hỏi những người này phải nâng cao nhận
thức, nâng cao trách nhiệm trong công tác và thực hiện đầy đủ quyền hạn, nhiệm vụ mà
pháp luật tố tụng quy định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân góp
phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
KSV, Thẩm phán cần phối hợp với những người này trong quá trình xét xử;
nếu có thể trù bị trước với họ về cách thức trình bày khi tham gia phiên tòa để tránh
tình trạng họ ít tham gia tố tụng sẽ có những phản ứng không tốt khi thấy KSV hoặc
HĐXX hỏi mình như hỏi cung bị cáo trước phiên tòa. KSV, Thẩm phán cũng cần
chú ý ngữ điệu, cách thức xét hỏi đối với đại diện các cơ quan này trong quá trình
giải quyết vụ án, không nên quá gay gắt, không nên quá nhẹ nhàng. Nếu phối hợp
không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng vụ án.
Giữa các đơn vị trong VKSND TP Hải Phòng:
Quá trình phối hợp luôn đòi hỏi các KSV phải có trình độ nhận thức,
chuyên môn nghiệp vụ đồng đều thì hiệu quả hoạt động phối hợp mới cao. Thực
tiễn cho thấy có nhiều lý do khác nhau dẫn đến hiệu quả của công tác phối hợp
trong ngành chưa cao, trong đó có một lý do chủ yếu là trình độ của các KSV làm
công tác kiểm sát hình sự không đồng đều từ đó có nhiều vấn đề không nhận thức
thống nhất hoặc do tự ti về trình độ mà nhiều KSV không dám mạnh dạn thể hiện quan
điểm nghiệp vụ của mình...dẫn đến sự thiếu chủ động tích cực trong hoạt động phối
hợp làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này. Do đó, thường xuyên bằng nhiều hình
thức khác nhau nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các KSV và có những
cơ chế thích hợp nhằm phát huy sự chủ động, tích cực của các KSV trong hoạt động
nghiệp vụ nói chung và hoạt động phối kết hợp nói riêng. Từng KSV phải nâng cao
ý thức, trách nhiệm tự giác với công việc được giao, cần tránh tư tưởng ỷ lại vào
quyết định của lãnh đạo VKS hoặc nghiên cứu hời hợt không báo cáo được những
124
vấn đề vướng mắc trong đánh giá chứng cứ và các vấn đề liên quan trong vụ án.
Đồng thời cũng cần chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ khi THQCT và KSXX.
Lãnh đạo VKS cần tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với
hoạt động phối hợp các khâu công tác kiểm sát, cần lưu ý đến hoạt động phối kết hợp
hoạt động giữa các khâu công tác kiểm sát, coi đây là một trong những nội dung đổi
mới về phương thức hoạt động kiểm sát nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động kiểm sát, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm.
Tăng cường công tác tổng kết, hướng dẫn nghiệp vụ về hoạt động phối hợp
giữa các khâu công tác kiểm sát.
VKSNDTP cần tăng cường công tác phối hợp với VKS cấp huyện thông
qua công tác trả lời thỉnh thị nghiệp vụ. Cần yêu cầu các đơn vị VKS quận, huyện
nghiêm túc thực hiện quy định về việc họp đơn vị để bàn bạc, thảo luận vấn đề
vướng mắc trước khi quyết định thỉnh thị. Báo cáo thỉnh thị phải nêu rõ các quan điểm
khác nhau đối với những vướng mắc về áp dụng pháp luật, đường lối giải quyết vụ án.
Nội dung thỉnh thị phải rõ ràng, cụ thể. Đối với các vụ án chưa chuyển Tòa án thì thỉnh
thị nghiệp vụ (phòng 1, phòng 1A, phòng 2). Các vụ án đã chuyển Tòa án thì thỉnh thị
phòng 3. Cần lưu ý việc thực hiện ý kiến trả lời thỉnh thị của VKSNDTP, các đơn vị
VKSND quận, huyện phải báo cáo kết quả đã được chỉ đạo hướng dẫn; nếu còn
vướng mắc thì cần tiếp tục báo cáo VKSNDTP để hướng dẫn chỉ đạo.
Kịp thời thông báo rút kinh nghiệm thông qua các vụ án có nhiều vi phạm
phải trả hồ sơ, đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm, án phúc thẩm
cải sửa; án bị cấp giám đốc, tái thẩm hủy để điều tra, xét xử lại.
VKSND cấp huyện: tổng hợp những khó khăn, vướng mắc của đơn vị, chủ
động, kịp thời báo cáo những vụ án phức tạp, khó, được dư luận quần chúng quan
tâm để tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của VKS thành phố.
c. Tăng cường sự lãnh đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương
và các tổ chức xã hội khác
Quán triệt nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với
hoạt động THQCT và KSXX các vụ án hình sự. Đảng bộ các cấp cần tiếp tục kiện
125
toàn ban chỉ đạo cải cách tư pháp, chỉ đạo sâu sát để thực hiện các Chỉ thị, Nghị
quyết, có lộ trình đặc thù cho địa phương mình, tiến hành tổ chức rút kinh nghiệm
để đề ra những giải pháp thiết thực về cải cách tư pháp trong đó có công tác
THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Đổi mới công tác báo cáo của VKS và việc lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy.
VKS không chỉ báo cáo những hoạt động công tác chung hoặc theo sự vụ mà cần
tập trung vào những vấn đề cần tháo gỡ, xin ý kiến chỉ đạo. Cấp ủy cũng cần định
hướng về nội dung báo cáo, những nội dung cần tập trung làm sâu và những chỉ đạo
định hướng trong từng thời điểm.
Cấp ủy Đảng cần chú trọng lãnh đạo về công tác cán bộ để nâng cao chất
lượng công tác tư pháp, lựa chọn những cán bộ có trình độ năng lực, có tâm huyết bố
trí vào những vị trí trọng trách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Hoạt động giám sát của HĐND luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bám
sát nghị quyết của Đảng, đặc biệt các nghị quyết về cải cách tư pháp. Hoạt động giám
sát của HĐND cần được phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức xã
hội, để công tác giám sát được toàn diện, các thông tin về vi phạm tội phạm được xử lý
kịp thời. HĐND cần có những kế hoạch, định hướng và phương thức giám sát hữu hiệu
đối với hoạt động của VKS trong điều kiện thí điểm không tổ chức HĐND quận,
huyện. Thường trực HĐND thành phố tiến hành hoặc phân công Ban pháp chế HĐND
thành phố tăng cường giám sát hoạt động của VKSND các huyện, quận bằng cách yêu
cầu báo cáo định kỳ hàng quý hoặc thành lập Đoàn giám sát theo từng chuyên đề, vụ
việc cụ thể, nhất là những hoạt động liên quan đến việc thực hiện tăng thẩm quyền.
3.3.3.4. Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
Cơ sở vật chất là điều kiện quan trọng để những người tiến hành tố tụng nói
chung và KSV nói riêng tiến hành nhiệm vụ thắng lợi. Hiện nay, các trụ sở làm việc
của nhiều Tòa án, VKS còn chật hẹp, trang thiết bị lạc hậu cần tập trung đầu tư xây
dựng, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc đặc biệt chú ý hội trường xét xử phải rộng
rãi, thoáng mát; hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị như hệ thống loa đài, âm
126
thanh… Cần trang bị cho KSV những thiết bị bảo vệ để phòng thân trong quá trình
giải quyết vụ án. Cấp thêm phương tiện đi lại cho các KSV trong những trường hợp
địa bàn xa, rộng hoặc khi chuyển đổi sang mô hình VKS khu vực.
Bên cạnh đó cũng cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động nghiệp vụ. Mỗi KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP cần được trang bị 01
máy vi tính xách tay, máy ghi âm...để phục vụ công tác.
3.3.3.5. Hợp tác quốc tế
Nhà nước ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế, để đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam và người nước ngoài làm ăn sinh
sống tại Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần tăng cường phối hợp trong lĩnh vực
điều tra, xử lý tội phạm quốc tế thông qua các Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc các
cam kết quốc tế về tư pháp hình sự.
Thường xuyên tổ chức các Hội thảo khoa học nghiên cứu về những vấn đề
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của các nước trên thế giới để có cái nhìn tổng
thể từ đó đưa ra những quan điểm, đề xuất chính xác, có hiệu quả về việc thay đổi,
áp dụng mô hình các cơ quan nhà nước nói chung và VKS nói riêng.
127
KẾT LUẬN
Thực hiện chủ trương cải cách, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới được
Đảng đề ra từ sau Đại hội VI năm 1986. Đảng ta kiên trì với đường lối đổi mới, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN với mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho
hành động. Đảng đã đề ra các chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và xác định: nhiệm vụ trọng tâm là phải xây
dựng nền kinh tế mạnh đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, nhiệm vụ then chốt là
phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng xã hội dân sự phát triển trên
nền pháp luật tiến bộ, đổi mới toàn diện sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý
nhà nước và cải cách bộ máy nhà nước. Trước tiên là các cơ quan tư pháp, cụ thể là
TAND và VKSND. Đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải tự đổi mới mình, làm
đúng, đầy đủ, có hiệu quả chức năng nhà nước đã giao cho ngành.
Những năm qua lãnh đạo VKSND các cấp đã quán triệt các tư tưởng của
Đảng, thực hiện các bước trong tiến trình cải cách tư pháp bước đầu đã mang lại
những kết quả đáng ghi nhận, trong đó có VKSNDTP Hải Phòng. Việc thực hiện
chức năng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của ngành kiểm sát
Hải Phòng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, trước yêu cầu của
cải cách tư pháp, chất lượng THQCT và KSXX sơ thẩm của VKSNDTP Hải Phòng
vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế đặc biệt là hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên
tòa. Do vậy, em đã đặt vấn đề nghiên cứu để nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về
chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên
cơ sở đánh giá tổng kết kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ tại VKSNDTP Hải
Phòng so sánh đối chiều tìm ra những thiếu sót, hạn chế để đưa ra những giải pháp cụ
thể nhằm thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của VKS Hải Phòng. Đồng thời
Luận văn cũng chỉ ra một số sự bất cập giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình
thực hiện cải cách tư pháp về mô hình, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của
VKSND từ đó đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền chỉnh
sửa những quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa sát với thực tiễn để tạo mọi
điều kiện cho việc thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đã giao
cho ngành kiểm sát nói chung và VKSNDTP Hải Phòng nói riêng góp phần tích cực
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Đức Anh (2010), "Một vài ý kiến về việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát
theo mô hình khu vực", vksndtc.gov.vn.
2. Lê Văn Cảm (2004), "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng",
Kiểm sát, (2).
3. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống Tư pháp Hình sự trong giai đoan xây dựng nhà
nước pháp quyền (sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Lê Văn Cảm (2010), "Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", Kiểm sát, (7+9).
5. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Xét xử trong tố tụng hình sự, (Tài liệu dùng cho học
viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
6. Lý Văn Chính (2004), Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc
vận dụng trong điều kiện Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính
trị (khóa IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện
trong năm 2000, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7 của Bộ
Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Cơ quan điều tra, Hà Nội.
11. Trần Văn Độ (2003), "Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động
tư pháp ở nước ta hiện nay", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những giải pháp
nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
129
12. Nguyễn Minh Đức (2008), "Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo
tinh thần cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn.
13. Nguyễn Duy Giảng (2010), "Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn.
14. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp",
Kiểm sát, (8).
15. Nguyễn Hữu Hậu (2009), "Những vấn đề đặt ra khi đổi mới tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn.
16. Nguyễn Văn Hiển (2010), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt
Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học.
17. Nguyễn Văn Huyên (2007), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Tập bài giảng, Học viện Tư pháp, Hà Nội.
18. Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học.
19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007) Giáo trình Lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011). Mô hình tố tụng hình sự một số
nước trên thế giới- kinh nghiệm với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự
Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học tại Hà Nội, tháng 11.
21. Ngô Ngọc Liên (2005), "Một số ý kiến qua 5 năm thi hành Pháp lệnh kiểm sát
viên Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2002 đến năm 2005", vksndtc.gov.vn.
22. Ngô Quang Liễn (2004), "Cơ quan công tố và việc tranh tụng tại các nước
Autralia và New Zealand", Kiểm sát, (11).
23. Trương Đắc Linh (2008), "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức VKS trong chiến
lược cải cách tư pháp ở nhà nước ta hiện nay", vksndtc.gov.vn.
24. Bùi Đức Long (2010), "Một số kiến nghị về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn.
25. Trần Văn Nam (2010), Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm
sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học.
130
26. Tôn Thiện Phương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình
sự, Luận văn thạc sĩ Luật học.
27. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đinh Văn Quế (2010), "Một số vấn đề về mô hình tổ chức của Tòa án nhân dân
theo yêu cầu cải cách tư pháp", toaan.gov.vn.
29. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
31. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
32. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
33. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
34. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
36. Bùi Quang Thạch (2007), Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga, (Tài liệu
dịch), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
37. Trần Đại Thắng (2003), "Viện công tố một số nước trong quá trình chuyển
đổi", Kiểm sát, (7).
38. Lê Hữu Thể (2003), Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ.
39. Lê Hữu Thể (2009), "Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viểm sát
trong tiến trình cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn.
40. Lê Hữu Thể (2012), "Một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định
về Viện kiểm sát trong Hiến pháp năm 1992", Kiểm sát, (1).
41. Vũ Xuân Thu (2004), "Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy
Viện kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", Kiểm sát, (12).
42. Trần Quang Tiệp (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Những vấn đề cần trao đổi trong
việc điều khiển phiên tòa của Thẩm phán chủ tọa tại Hải Phòng, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học, Hải Phòng.
131
44. Tòa án nhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội.
45. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/ NQ-HĐTP ngày 05/11
của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong phần thứ ba "xét xử sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003, Hà Nội.
46. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
48. Nguyễn Thị Tuyết (2011), "Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng hình sự
của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp",
Tòa án nhân dân, (3).
49. Đào Trí Úc (2012), "Sửa đổi Hiến pháp và vấn đề sửa đổi, bổ sung quy định về
Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp", Kiểm sát, (3).
50. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Báo cáo tình hình cải cách tư
pháp giai đoạn 1, Hải Phòng.
51. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2009), Báo cáo tình hình cải cách tư
pháp giai đoạn 2, Hải Phòng.
52. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Báo cáo tình hình cải cách tư
pháp giai đoạn 3, Hải Phòng.
53. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2004 - 2010), Báo cáo tình hình kinh tế
xã hội các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hải Phòng.
54. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên, Hà Nội.
55. Nguyễn Tất Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và Kiểm sát hoạt động tư pháp",
vksndtc.gov.vn.
56. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa hình sự ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW,
Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng.
57. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Phiên tòa theo tinh thần
cải cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng.
132
58. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Báo cáo tổng kết về tình hình
đổi mới của Hải Phòng từ năm 1986 đến nay, Hải Phòng.
59. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Nâng cao chất lượng
kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng.
60. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2004-2010), Báo cáo tổng kết
công tác các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hải Phòng.
61. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng cáo
trạng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 9, Hải Phòng.
62. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Các biện pháp bảo đảm
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học, Dự án Jica, tháng 9, Hải Phòng.
63. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng
công tác kiểm sát và tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 10, Hải Phòng.
64. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng trả
hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án
Jica, tháng 11, Hải Phòng.
65. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng - Tòa án nhân dân thành phố Hải
Phòng - Công an thành phố Hải Phòng (2009), Quy chế phối hợp giữa Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, Hải Phòng.
66. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2011), Nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quảng
Ninh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Quảng Ninh.
67. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), "Luật cán bộ kiểm sát nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa", (Tài liệu dịch tham khảo), Dự án Vie/95/018: Tăng
cường năng lực Kiểm sát viên tại Việt Nam, Hà Nội.
68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Quy tắc tố tụng hình sự viện kiểm sát
nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", (Tài liệu dịch tham khảo), Dự
án Vie/95/018: Tăng cường năng lực Kiểm sát viên tại Việt Nam, Hà Nội.
133
69. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật tố tụng hình sự Canada 1994,
(tài liệu dịch tham khảo), Dự án VIE/95/018, Hà Nội.
70. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia, (tài
liệu dịch tham khảo), Dự án VIE/95/018, Hà Nội.
71. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
72. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga,
(tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
73. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Tập tài liệu về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
74. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Tập bài giảng Lớp bồi dưỡng kiến thức
thực hành quyền công tố và kiểm sát hình sự dùng cho Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện, Hà Nội.
75. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Luật tổ chức cơ quan công tố Hàn
Quốc, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
76. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Luật tổ chức cơ quan công tố nước
Cộng hòa Indonesia, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
77. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội.
78. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Luật công tố viên Hoàng gia Anh",
Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5).
79. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Luật tổ chức Tòa án cộng hòa Liên
bang Đức", Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5).
80. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Các nhiệm vụ cụ thể của ngành kiểm
sát nhân dân giai đoạn 2006-2010 để thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005", Kiểm sát, (8).
81. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Quy chế thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử (ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSNDTC
ngày 17 tháng 9 năm 2007), Hà Nội.
134
82. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên
tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
83. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội.
84. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội..
85. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Dự án Danida, Hà Nội.
86. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Tổng kết 50 năm công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (1960-
2010), Hà Nội.
87. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), "Nâng cao chất lượng công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự", Kiểm sát, (Số chuyên đề).
88. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), "Vai trò, thẩm quyền của các chủ thể
tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", Kiểm
sát, (Số chuyên đề).
89. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004-2010), Báo cáo tổng kết công tác các
năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hà Nội.
90. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
91. Lại Hợp Việt (2010), "Bàn về mô hình Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư
pháp", vksndtc.gov.vn.
92. Võ Khánh Vinh (2003), "Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta", Nhà nước và pháp luật, (8).
93. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (2008), Nâng cao hiệu
quả công tác kiểm sát án hình sự, hạn chế thấp nhất việc tòa án tuyên bị cáo
không phạm tội năm 2008, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
135
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
Bảng 2.1: Thụ lý khởi tố điều tra, truy tố, xét xử của cả nước
NĂM
ĐIỀU TRA TRUY TỐ XÉT XỬ
Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị cáo
2005 59.720 87.606 50.732 81.425 48.859 77.810
2006 65.773 98.483 56.553 92.632 55.766 90.507
2007 64.709 97.131 57.332 96.466 56.541 94.291
2008 69.370 106.375 60.404 103.089 58.738 99.289
2009 66.314 101.733 59. 486 101.616 59.140 100.630
2010 62.746 97.000 54.197 92.272 52.797 89.457
TỔNG SỐ 388.632 588.328 338.704 567.500 331.841 551.984
(Nguồn Báo cáo VKSND tối cao).
Bảng 2.2: Thụ lý THQCT và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Năm
Số thụ lý Đã xét xử Loại hình phạt
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Tử hình
Tù
chung
thân
Tù có
thời hạn
Tù cho
hưởng
án treo
Cải tạo
không
giam
giữ
Phạt
tiền,
cảnh
cáo
2004 1809 2497 1644 2248 12 29 1759 347 95 06
2005 1651 2360 1456 2046 03 16 1608 333 86 0
2006 1929 2955 1743 2633 05 11 2123 387 102 05
2007 1656 2658 1500 2315 04 12 1723 467 107 02
2008 1630 2626 1481 2372 03 08 1747 491 91 32
2009 1645 2722 1487 2411 04 09 1708 476 151 63
2010 1394 2528 1219 2195 04 16 1414 511 192 58
2011 1538 2688 1373 2348 04 15 1581 456 220 72
( Nguồn Báo cáo VKSND TP Hải Phòng).
136
Bảng 2.3: Số liệu thống kê về án Tòa án trả cho VKS để điều tra bổ sung
Năm
Tổng số Trả đúng Lý do
Vụ Lượt Vụ
Thiếu
chứng
cứ quan
trọng
Vi phạm
thủ tục
tố tụng
Khởi tố
thêm bị
can, tội
danh
Thay đổi
tội danh Khác
2004 48 48 40 27 09 08 04
2005 37 37 28 18 10
2006 54 56 42 28 05 16 04 03
2007 41 45 34 27 04 15
2008 29 29 22 19 02 07 01
2009 23 23 18 16 01 05 01
2010 37 37 22 30 02 02 03
2011 21 21 13 02 04 11 04
( Nguồn báo cáo VKSND TP Hải Phòng)
Bảng 2.4: Số liệu án VKS kháng nghị phúc thẩm
Năm
Tổng số Kháng nghị cùng cấp Kháng nghị trên 1 cấp
Vụ Bị cáo
Cấp tỉnh Cấp huyện
Vụ Bị cáo
Vụ Bị cáo
2004 29 34 10 11 17 21 02 02
2005 27 35 04 07 13 18 10 10
2006 28 37 06 09 16 20 06 08
2007 27 41 02 03 14 18 11 20
2008 22 40 02 05 18 33 02 02
2009 27 34 02 05 23 26 02 03
2010 16 19 04 04 10 11 02 04
2011 12 17 03 05 06 07 03 05
( Nguồn báo cáo VKSND TP Hải Phòng)
137
2.5. Kết quả công tác kháng nghị phúc thẩm
Năm
Số thụ lý Đã xét xử
Kháng nghị
phúc thẩm
Chấp nhận
kháng nghị
Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo
2004 1809 2497 1644 2248 29 34 12 20
2005 1651 2360 1456 2046 27 35 12 16
2006 1929 2955 1743 2633 28 37 13 16
2007 1656 2658 1500 2315 27 41 12 21
2008 1630 2626 1481 2372 22 40 10 22
2009 1645 2722 1487 2411 27 34 15 17
2010 1394 2528 1219 2195 16 19 06 08
2011 1538 2688 1373 2348 12 17 06 09
Ghi chú: Tỷ lệ chấp nhận kháng nghị phúc thẩm trên không tính số kháng nghị rút
và số Tòa án chưa đưa ra xét xử. Tính theo thời điểm lập báo cáo
2.6. Bảng số liệu các kiến nghị của VKS
Năm Kiến nghị với CQĐT Kiến nghị với tòa án Kiến nghị với CQ khác
2005 41 12
2006 57 07
2007 25 10
2008 39 09
2009 31 17
2010 36 13 01
2011 24 12
(Nguồn Báo cáo VKSNDTP Hải Phòng).
138
PHỤ LỤC 2
* Một số vụ Tòa án trả do thiếu chứng cứ quan trọng của vụ án:
- Vụ án Ngô Văn Thành phạm tội Chống người thi hành công vụ theo quy định
tại khoản 1 điều 257 BLHS (xảy ra ngày 02/10/2007 ở huyện Kiến Thụy). Tòa án trả
hồ sơ điều tra bổ sung vì thiếu chứng cứ quan trọng chứng minh “người thi hành công
vụ” là các ông trưởng thôn, an ninh thôn... (thiếu quyết định phân công của UBND xã
về việc thành lập đoàn kiểm tra cưỡng chế nếu dân tiếp tục thả vịt trên cánh đồng).
- Vụ án Hoàng Văn Bộ phạm tội bức tử quy định tại khoản 1 điều 100
BLHS, sau thay đổi tội danh sang Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2
điều 104 BLHS. Xuất phát từ việc ghen tuông nên Bộ đã đánh vợ là Phạm Thị
Hương, uất ức nên chị Hương đã treo cổ tự tử. Quá trình điều tra, CQĐT không ra
quyết định trưng cầu giám định đối với thương tích của chị Hương mà chỉ ban hành
công văn trao đổi với cơ quan pháp y xác định tỷ lệ thương tật của chị Hương nếu
còn sống giảm từ 11- 15% sức lao động. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán
thấy trong biên bản khám nghiệm tử thi có dấu vết nạn nhân bị đánh vào mặt và có
01 vết rách ra cung mày chưa được làm rõ nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung. Kết
quả điều tra bổ sung xác định thương tích trên của nạn nhân giảm 4% sức lao động.
Như vậy, VKS truy tố bị can Bộ trên cơ sở Công văn làm việc không phải là kết
luận giám định của cơ quan có thẩm quyền.
- Vụ án Nguyễn Văn Hậu bị VKS truy tố về tội Cố ý gây thương tích. Qua
xét hỏi, HĐXX quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung vì bị cáo khai nhận tội thay
Nguyễn Văn Vinh. Chứng cứ chứng minh tội của bị cáo là lời khai nhận tội của bị
cáo và lời khai của các nhân chứng gián tiếp, người bị hại nhận diện không chắc
chắn, bị cáo có dấu hiệu phản cung ngay từ giai đoạn điều tra nhưng VKS không
phúc cung để truy tố nên khi bị cáo thay đổi lời khai tại phiên tòa KSV không có
căn cứ để bác lời khai.
Vụ Hoàng Thụy Khá và đồng bọn bị VKSND Hải Phòng truy tố về các tội
Giết Người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại các
điều 93, 104, 105 BLHS. Tòa án trả hồ sơ vì trong vụ án thu được của bị cáo Đoàn
139
Văn Dương 01 con dao có dính máu nhưng không xác định là máu của bị hại nào
(vụ án có 2 bị hại cùng nhóm máu). Đây là chứng cứ quan trọng để xác định hành vi
phạm tội của bị can Khá. Nhưng do thời gian quá lâu, không thể giám định được
ADN nên không đủ căn cứ kết tội bị can Khá.
* Một số vụ án Tòa án trả do có căn cứ để khởi tố bị can về tội danh khác
hoặc có đồng phạm khác, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:
- Vụ án Hoàng Ngọc Cường và Bùi Thị Thắm bị VKS truy tố về tội Môi giới
mại dâm. Tại phiên tòa, Thắm khai phù hợp với lời khai của các nhân chứng là gái bán
dâm về việc đã nhiều lần tổ chức cho gái bán dâm tại quán cafe do Thắm làm chủ nên
Tòa án trả hồ sơ VKS để khởi tố bổ sung với Thắm và Cường về tội Chứa mại dâm.
- Vụ án Đoàn Văn Bách cùng đồng bọn bị VKS An Dương truy tố tội Cố ý
gây thương tích và gây rối trật tự công cộng. Tại phiên tòa các bị cáo Trương Quang
Lân, Nguyễn Anh Khoảng, Trịnh Văn Huy bị truy tố tôi Gây rối trật tự công cộng
khai cùng với Bách và Phạm Thế Dương tấn công anh Tiến. Tòa án trả để thay đổi tội
danh với Lân, Khoảng và Huy khởi tố đồng phạm tội Cố ý gây thương tích.
- Vụ án Trần Quốc Hưng phạm tội Cố ý gây thương tích có đơn khiếu nại
ngay sau khi nhận được Kết luận điều tra và Cáo trạng nhưng không được VKS giải
quyết là vi phạm các điều 325, 326 BLTTHS. Tòa án trả cho VKS để giải quyết
khiếu nại.
* Một số vụ Toà án trả không đúng:
- Vụ án Ngô Đăng Đỉnh bị VKS truy tố về tội Cướp tài sản, Tòa án đánh
giá thiếu chứng cứ quan trọng là giấy khai sinh của các nhân chứng là người chưa
thành niên trong vụ án. Hoặc vụ án Bùi Văn Chót bị truy tố về tội Cố ý gây thương
tích, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung vì đánh giá chứng cứ là bản sao bệnh án của
người bị hại ghi lý do vào viện là do tai nạn sinh hoạt. Mặc dù điều này đã được
nhân chứng xác định khai như vậy để hưởng chế độ bảo hiểm. Vụ án Nguyễn Sỹ
Dũng, Tòa án trả hồ sơ vì cho rằng chưa tiến hành đối chất lời khai của các nhân
chứng mặc dù lời khai của họ không hề mâu thuẫn. Vụ án Phạm Lương Minh phạm
tội Cố ý gây thương tích, Tòa án tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung hỏi về quy
140
trình giám định thương tích đối với người bị hại mặc dù đã có công văn trả lời của
Trung tâm pháp y về quy trình giám định là khách quan trước đó.
- Vụ án Lee Cheng An người Đài Loan, quốc tịch Trung Quốc phạm tội
Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, h khoản 2 BLHS. Tòa án
trả hồ sơ để xác định tình trạng bệnh lý của Lee Cheng An có phải bị ung thư gan
hay không để xác định động cơ, mục đích phạm tội. Quan điểm của VKS Hải
Phòng việc xác định nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội không phải là yếu tố
xác định tình tiết định khung hay là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với
bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
141
PHỤ LỤC 3
* Một số vụ án qua công tác kháng nghị của VKS đã khắc phục được sai
phạm, thiếu sót của cấp sơ thẩm
- Vụ Nguyễn Văn Hồng phạm tội Cướp tài sản, VKS truy tố bị can khoản 2
điểm d Điều 133 BLHS. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Hồng phạm tội Cướp tài sản
theo khoản 1 Điều 133 BLHS. VKS kháng nghị phúc thẩm hình sự đề nghị Tòa
phúc thẩm TAND Tối cao áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS. Tòa phúc thẩm
TAND Tối cao chấp nhận áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133.
- Vụ Trần Đức Lan, VKSND TP Hải Phòng truy tố hai tội Cố ý làm trái các
quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 165 BLHS
năm 1999 và tội Tham ô tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1985.
Tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Đức Lan phạm tội Cố ý làm trái các quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và tuyên bị cáo Lan không
phạm tội Tham ô tài sản. VKS kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa phúc thẩm
TAND Tối cao xử bị cáo Lan hai tội như cáo trạng đã nêu. Tòa án phúc thẩm Tòa
án Tối cao chấp nhận kháng nghị của VKS, tuyên Trần Đức Lan phạm hai tội như
cáo trạng của VKS đã truy tố.
- Vụ Nguyễn Văn Tuấn, VKS truy tố tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1
Điều 138 BLHS. VKSND TP Hải Phòng đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều
138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS phạt bị cáo từ 18
tháng đến 24 tháng tù. Tòa án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p
khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Tuấn 6 tháng
tù giam. VKS kháng nghị phúc thẩm đề nghị tăng hình phạt do bị cáo đã có tiền án
chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, nên cần phải xét xử nghiêm
khắc mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Tòa phúc thẩm TAND Tối cao
đã chấp nhận kháng nghị của VKSND Tòa án Hải Phòng xét xử tăng hình phạt đối
với bị cáo Tuấn, mức hình phạt là 12 tháng tù.

Nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

  • 1.
    1 2 ĐẠI HỌCQUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI HẢI PHÒNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄn Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS.GVC. Nguyễn Ngọc Chí Phản biện 1: Trịnh Quốc Toản Phản biện 2: Nguyễn Văn Tuân Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm tư liệu - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
  • 2.
    3 MỤC LỤC Trang Trang phụbìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 6 1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và vai trò của Viện kiểm sát 6 1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6 1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 8 1.2. Khái niệm chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 9 1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 9 1.2.2. Khái niệm nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 15 1.3. Nội dung của chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 16 1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố 16 1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật 31 1.4. Lịch sử hình thành chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát ở Việt Nam 36 1.4.1. Quá trình phát triển 36 1.4.2. Cơ quan Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới 40
  • 3.
    4 Chương 2: THỰCTIỄN THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 44 2.1. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 44 2.1.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 44 2.1.2. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 51 2.2. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng 78 2.2.1. Những tồn tại 78 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 84 Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP 87 3.1. Cơ sở của những kiến nghị, đề xuất đối với Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 87 3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng 87 3.1.2. Các định hướng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 92 3.2. Các giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 96 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 96 3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 105 KẾT LUẬN 119 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
  • 4.
    5 PHỤ LỤC 127 DANHMỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BCA : Bộ Công an BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQCSĐT : Cơ quan cảnh sát điều tra CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐND : Hội đồng nhân dân HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân KSHĐTP : Kiểm sát hoạt động tư pháp KSV : Kiểm sát viên KSXX : Kiểm sát xét xử TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân Tối Cao THQCT : Thực hành quyền công tố TTLT : Thông tư liên tịch UBND : Ủy ban nhân dân UBTVQH : Ủy ban Thường vụ Quốc hội VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTP : Viện kiểm sát nhân dân thành phố
  • 5.
    6 VKSQSTW : Việnkiểm sát quân sự Trung ương XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 6.
    7 Lêi cam ®oan T«ixin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ TuyÕt Nhung
  • 7.
  • 8.
    9 MỞ ĐẦU 1. Tínhcấp thiết của việc nghiên cứu Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước hiện nay để tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Chủ trương này đã được thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết của Đảng. Theo Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được tiến hành ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... tổ chức sắp xếp lại các đơn vị Viện kiểm sát nhân dân các cấp để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp... [8]. Và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ bên cạnh việc cải cách, sửa đổi hệ thống pháp luật của nước ta, cần phải: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án....Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... [9].
  • 9.
    10 Từ những quyđịnh trên cho thấy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng đến hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Để hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành có hiệu quả và đạt hiệu lực cao; đảm bảo việc xét xử khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì VKS có vai trò rất quan trọng. Theo quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKSND có chức năng, nhiệm vụ cụ thể là: kiểm sát hoạt động chấp hành pháp luật của Tòa án về thẩm quyền xét xử, thủ tục xét xử của Tòa án các cấp, việc chuyển vụ án; về thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, việc ra các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; việc áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn của Tòa án; kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng về thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) và những người tham gia phiên tòa; kiểm sát việc xét xử của tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng, những người tham dự phiên tòa... kiểm sát việc tuyên án của HĐXX; sau kết thúc phiên tòa, Viện kiểm sát (VKS) còn kiểm tra biên bản phiên tòa, giám sát việc ra bản án của Tòa án để thực hiện việc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm Tòa án đã tuyên. Bên cạnh chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP), VKS còn thực hiện chức năng công tố như: đọc cáo trạng, các quyết định rút truy tố (nếu có), tham gia xét hỏi cùng HĐXX để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, luận tội đối với bị cáo, tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Những năm gần đây, chất lượng thực hành quyền công tố (THQCT) và KSHĐTP của VKS đã được nâng lên: chất lượng cáo trạng, chất lượng luận tội, chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa đã dần dần khắc phục được những hạn chế trước đây đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Thông qua chức năng THQCT và KSHĐTP, VKS đã góp phần giúp Tòa án tuyên những bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất việc oan sai, bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ một số hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp đặc biệt là hoạt động tranh luận của KSV tại
  • 10.
    11 phiên tòa đãảnh hưởng đến chất lượng THQCT của VKS trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vẫn để xảy ra tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Việc thực hiện các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chưa nghiêm, áp dụng pháp luật còn tùy tiện nên tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) vẫn xảy ra nhiều. Văn hóa pháp lí chưa đúng chuẩn mực, chưa đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử... Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cần thiết trong lộ trình cải cách tư pháp hiện nay. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật để tìm ra những hạn chế, thiếu sót từ đó đề ra những phương hướng, giải pháp khắc phục để nâng cao chất lượng THQCT và Kiểm sát xét xử (KSXX) sơ thẩm các vụ án hình sự. Thông qua đó, giúp cho VKS ngày một nâng cao hơn nữa vị thế của mình trong hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật và trong hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm bảo vệ quyền con người. Vì vậy, em chọn đề tài: "Chức năng, nhiệm vụ của Viển kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hải Phòng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Bàn đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, có nhiều bài viết liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử nói chung và xét xử sơ thẩm nói riêng như: "Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự"- TS. Nguyễn Văn Huyên, Học viện tư pháp. Trong ngành kiểm sát cũng có một số chuyên đề nghiên cứu về vấn đề này: chuyên đề "Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự" của Vụ THQCT và KSXX án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); và một số chuyên đề nghiên cứu về một số hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử: "Nâng hiệu quả công tác kiểm sát án hình sự, hạn chế thấp nhất việc Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội năm 2008" của VKSNDTC. Tại Hải Phòng cũng đã có một số chuyên đề liên quan đến hoạt động
  • 11.
    12 thực hiện chứcnăng, nhiệm vụ của VKS ở giai đoạn xét xử: Chuyên đề "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết 49", chuyên đề: "Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự", chuyên đề: "Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp", chuyên đề "tổ chức các phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên"... Các chuyên đề này chủ yếu đề cập đến một trong những hoạt động thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND chưa mang tính khái quát, chuyên sâu về mặt lý luận. Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Trên cơ sở thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân thành phố (VKSNDTP) Hải Phòng từ năm 2004 - 2011, Luận văn tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSNDTP Hải Phòng tìm ra các hạn chế, thiếu sót từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động này trong thời gian tới. Qua đó, góp phần nâng cao uy tín, vị thế của ngành kiểm sát nhân dân trong hoạt động giữ gìn trật tự kỉ cương của pháp luật và bảo về quyền con người tại Hải Phòng. 3. Mục tiêu của luận văn Luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận, đánh giá những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những vướng mắc và các yêu cầu của thực tiễn đối với công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng, từ đó có những kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao chất lượng công tác này trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Đồng thời nhằm nâng cao uy tín, vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan tư pháp trong quá trình đấu tranh, phòng, chống tội phạm; bảo vệ quyền và tự do của con người. 4. Nhiệm vụ của luận văn Xuất phát từ mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
  • 12.
    13 - Tổng kết,phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 - 2011. - Đề xuất các phương hướng, xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế của VKS trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong thời gian tới đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của ngành kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân. 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn thực hiện chức năng THQCT và KSHĐTP của VKSNDTP Hải Phòng từ năm 2004 đến năm 2011. - Trong phạm vi nghiên cứu luận văn chỉ đề cập đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sở thẩm vụ án hình sự, cụ thể là VKSNDTP Hải Phòng, không đề cập đến hoạt động của VKS quân sự. 6. Phương pháp tiếp cận vấn đề - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. - Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu, thông tin; thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và dự báo tình hình.... 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Chương 2: Thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng. Chương 3: Những kiến nghị, đề xuất, giải pháp.
  • 13.
    14 Chương 1 MỘT SỐVẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT 1.1.1. Đặc điểm của giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, làm oan người vô tội đồng thời bảo về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, BLTTHS nước ta quy định trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự trải qua các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Theo GS.TSKH Lê Cảm: Giai đoạn tố tụng hình sự là những bước của quá trình tố tụng hình sự, tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [2]. Mỗi giai đoạn tố tụng do những cơ quan tố tụng có thẩm quyền thực hiện. Các giai đoạn của hoạt động tố tụng độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ khăng khít với nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau tạo thành một hệ thống hoạt động thống nhất. Những giai đoạn này có những nhiệm vụ và định hướng khác nhau nhưng đều hướng tới một mục đích giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật.
  • 14.
    15 Xét xử làchức năng của Tòa án, Điều 72 Hiến pháp 1992 và Điều 9 BLTTHS quy định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [34]. Kết quả xét xử của Tòa án là phán quyết cuối cùng đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Đây là cơ sở duy nhất để xác định một người có bị coi là có tội hay không. Do đó, xét xử là giai đoạn trung tâm và quan trọng trong việc tăng cường pháp chế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bởi những lý do sau: Thứ nhất, các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra (CQĐT) trong giai đoạn điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và hành vi của người phạm tội phục vụ cho việc xét xử. Thông qua hồ sơ vụ án do CQĐT thiết lập, Tòa án kiểm tra tính xác thực của chứng cứ mà CQĐT thu thập được để từ đó đưa ra những phán quyết về tội phạm và người phạm tội. Tại phiên tòa, chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá một cách chính thức và chỉ những chứng cứ nào được đưa ra xem xét tại phiên tòa mới được dùng làm căn cứ chứng minh tội phạm mới là cơ sở để HĐXX đưa ra các quyết định của mình. Vì vậy, hoạt động đánh giá chứng cứ, nhân danh Nhà nước ra bản án của HĐXX được xem là hoạt động điều tra chính thức tại phiên tòa. Thứ hai, quyết định truy tố của VKS chỉ là cơ sở để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử còn việc phán quyết về sự việc phạm tội, hành vi của bị cáo thuộc chức năng của Tòa án. Theo quy định tại Điều 196 BLTTHS quy định: "Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố..." [34]. Vì vậy, có thể nói hoạt động truy tố của VKS hướng tới việc tạo căn cứ, giới hạn cho hoạt động xét xử của Tòa án. Thứ ba, bản án và quyết định của Tòa án là căn cứ pháp lý để tiến hành hoạt động thi hành án, biến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của các CQTHTT phát huy tác dụng trên thực tế. Thứ tư, theo nguyên nghĩa, quyền tư pháp gắn liền với hoạt xét xử của Tòa án, nên ở các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp... coi Tòa án là cơ quan đại diện cho quyền tư pháp và hoạt động xét xử là giai đoạn trung tâm của tố tụng hình sự.
  • 15.
    16 Theo quy địnhtại Điều 20 BLTTHS quy định: "Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử" [34], trong đó xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đóng vai trò quan trọng, đây là giai đoạn đầu tiên của Tòa án có thẩm quyền tiến hành xét xử và tuyên một người có bị coi là có tội hay không. Các quyết định, phán quyết của Tóa án cấp sơ thẩm là những điều kiện, cơ sở để Tóa án cấp phúc thẩm xem xét lại bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc là căn cứ để Tóa án cấp trên xét lại bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Song hành với nhiệm vụ xét xử của tòa án là nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án hình sự của VKS. Với tư cách là CQTHTT, VKS có trách nhiệm phối hợp cùng Tòa án áp dụng nghiêm minh, thống nhất các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự để góp phần cùng Tòa án đưa ra bản án khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và bảo vệ pháp chế XHCN. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKS có những vai trò sau: - Bảo đảm cho việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội. Việc truy tố của VKS phải dựa trên cơ sở kết quả điều tra của CQĐT trong suốt quá trình điều tra và kết quả điều tra công khai tại phiên tòa của HĐXX. Từ đó, VKS đưa ra sự buộc tội chính thức và cuối cùng đối với người phạm tội. - Bảo đảm cho việc tranh tụng được bình đẳng, dân chủ, công khai. Trách nhiệm của VKS là phải đối đáp lại các ý kiến của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự công khai tại tòa. Khi tranh luận các bên có quyền và nghĩa vụ bình đẳng với nhau. Chỉ tranh luận những vấn đề liên quan đến vụ án. Những nội dung đưa ra tranh luận đều phải được đối đáp lại. - Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và những người tham gia tố tụng khác. BLTTHS quy định quyền và nghĩa vụ của từng tư cách tham gia tố
  • 16.
    17 tụng, trách nhiệmcủa VKS là bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ. - Bảo đảm cho việc tuân thủ và áp dụng pháp luật thống nhất. Hiện nay, giữa lý luận và thực tiễn còn nhiều nhận thức khác nhau một số quy định pháp luật. Kể cả trong chính những người làm thực tiễn cũng có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Do đó, trách nhiệm của các CQTHTT nói chung và VKS nói riêng là rất quan trọng trong việc áp dụng thống nhất pháp luật. - Bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được thực thi đúng quy định pháp luật. Nếu các bản án, phán quyết của Tòa án không được đưa ra thi hành thì cũng chỉ là các quyết định giấy. Việc thực hiện các quyết định đó như thế nào, trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan hữu quan đến đâu, phải được đặt dưới sự giám sát của cơ quan VKS. 1.2. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Vai trò của VKS được thể hiện cụ thể trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đặc biệt trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. 1.2.1. Khái niệm chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Đề cập đến "chức năng" của một cơ quan là nói đến những mặt, những phương diện hoạt động có tính chất cơ bản, tương đối ổn định. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2001 thuật ngữ "chức năng" theo từ điển định nghĩa "là hoạt động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan…" [90, tr. 191]. Theo từ điển Luật học và giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, định nghĩa: Chức năng của nhà nước là hoạt động nhà nước cơ bản nhất, mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định tương đối, xuất phát từ bản chất, cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu cơ bản của nhà nước và có ý nghĩa quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nhà nước... Chức năng của Nhà nước là hoạt động chủ yếu của bộ máy nhà nước mà
  • 17.
    18 tất cả cáccơ quan nhà nước đều tham gia thực hiện với mức độ, phạm vi nhất định xuất phát từ vị trí, vai trò, thẩm quyền của mình [19], [46]. Theo đó, chức năng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là những hoạt động chủ yếu thường xuyên có tính ổn định tương đối, trực tiếp thể hiện bản chất, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài của nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước thì bản thân mỗi cơ quan nhà nước phải thực hiện tốt chức năng của mình. Do đó, cần phân biệt khái niệm "chức năng của cơ quan nhà nước" với "chức năng của nhà nước". Theo giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật định nghĩa: "chức năng của Cơ quan nhà nước là hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước" [19]. Với tư cách là Cơ quan nhà nước nằm trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, VKSND cũng có những chức năng, nhiệm vụ riêng của mình. Theo quy định tại điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi): "Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [31]. Cụ thể hóa quy định này, điều 23 BLTTHS quy định: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, có trách nhiệm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [34].
  • 18.
    19 Luật tổ chứcVKSND năm 2002 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" [33, Điều 1]. "Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời" [33, Điều 16]. Những quy định trên cho thấy, VKSND có hai chức năng là THQCT và KSHĐTP. VKS phối hợp cùng với các cơ quan tiến hành tố tụng khác giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện tốt các nhiệm vụ chung mà Nhà nước đặt ra đối với ngành tư pháp nói riêng và với cơ quan nhà nước nói chung là bảo vệ những cơ sở của chế độ Hiến định, nhân thân, cũng như các quyền và tự do của con người và của công dân, đồng thời bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật, góp phần giữ gìn hòa bình và an ninh của nhân loại trong khu vực và trên toàn thế giới. Hiện nay, các nhà luật học có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố và THQCT. Trong đó, có quan điểm cho rằng: quyền công tố của VKS được tiến hành tại Tòa án thể hiện bằng quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án thông qua Cáo trạng, bằng việc đọc Cáo trạng tại phiên tòa, bằng lời buộc tội của KSV khi tranh luận và đề nghị kết tội với mức và loại hình phạt nhất định. Theo TS Lê Hữu Thể thì: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc buộc tội, hay nói cách khác là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này là quyền của Nhà nước, Nhà nước giao cho VKS thực hiện. Để làm được điều này, cơ quan công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [38]. Theo đó, phạm vi của quyền công tố trong giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi VKS chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng bản cáo trạng truy tố bị can về tội danh cụ
  • 19.
    20 thể đến Tòaán để xét xử và kết thúc khi bản án đã tuyên của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị. Trong quá trình đấu tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, Nhà nước ta đã trao quyền công tố cho Cơ quan duy nhất là VKS. Theo đó, VKS sử dụng tất cả các quyền năng được nhà nước trao cho thông qua hệ thống các văn bản pháp luật quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ… để truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Như vậy, có thể hiểu THQCT là việc cơ quan VKS thực hiện tổng hợp các quyền năng pháp lý được nhà nước trao cho để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó. Từ định nghĩa trên cho thấy hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử có những đặc điểm: Thứ nhất, THQCT do VKS thực hiện, vì vậy nó mang tính quyền lực nhà nước và có tính mục đích: mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, người phạm tội, làm oan người vô tội; việc điều tra, truy tố, xét xử phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác. Thứ hai, THQCT là những hoạt động do VKS tiến hành với những nội dung cơ bản như: ban hành cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử về tội danh cụ thể được quy định trong BLHS; tham gia xét hỏi làm rõ hành vi phạm tội và những tình tiết khác của vụ án; luận tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội theo toàn bộ hoặc một phần nội dung đã truy tố; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác; kháng nghị bản án của tòa án khi áp dụng sai pháp luật hoặc áp dụng hình phạt chưa tương xứng với tính chất và mức độ của tội phạm. Bên cạnh khái niệm THQCT, khái niệm KSHĐTP cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Có một số khái niệm rất gần với khái niệm này như: kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, KSHĐTP trong tố tụng hình sự... Vậy, thế nào là hoạt động tư pháp? Có quan điểm cho rằng hoạt động tư pháp chính là hoạt động xét xử của Tòa án trong việc thực hiện nhánh quyền tư pháp. Ý kiến khác cho rằng hoạt động tư pháp là hoạt động xét xử của Tòa án và hoạt động của các cơ quan, tổ chức của nhà nước trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa
  • 20.
    21 án. Theo đó,Tòa án sử dụng các kết quả của quá trình điều tra, truy tố, bào chữa, giám định tư pháp…một cách công khai và áp dụng các thủ tục tố tụng để nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết cuối cùng. Theo TS.Trần Văn Nam "hoạt động tư pháp là những hoạt động chủ yếu do các cơ quan tư pháp thực hiện trong quá trình tố tụng nhằm mục đích là giải quyết các vụ việc một cách đúng đắn, khách quan" [25]. Theo PGS.TS Phạm Hồng Hải thì: "Hoạt động tư pháp là tập hợp những việc làm cụ thể do cơ quan tư pháp thực hiện trong tố tụng trực tiếp liên quan và hướng tới mục đích giải quyết các vụ án một cách khách quan" [14]. Do vậy, hoạt động tư pháp cần được hiểu là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của các Cơ quan tư pháp gồm CQTHTT (CQĐT, VKS, Tòa án), cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức liên quan hoặc bổ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án, được quy định trong tố tụng và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết vụ án. Hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của các CQTHTT thực hiện, mang tính quyền lực nhà nước, được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và trực tiếp liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trong quá trình THQCT, VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật tức là kiểm tra, giám sát các CQTHTT, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc áp dụng và chấp hành pháp luật. Nếu phát hiện vi phạm tùy từng trường hợp cụ thể sẽ có biện pháp xử lý để khắc phục kịp thời nhằm mang lại hiệu quả cao trong quá trình thực thi pháp luật. Trong giới luật học hiện nay, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm KSHĐTP. Có quan điểm cho rằng: KSHĐTP chỉ bao gồm các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Có quan điểm khác cho rằng: KSHĐTP còn bao gồm cả các hoạt động bổ trợ tư pháp hoặc là một dạng của giám sát nhà nước về tư pháp… Theo TS Trần Văn Nam: "KSHĐTP là hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đối với các tổ chức và cá nhân trong hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [25]. Theo em, KSHĐTP cần được hiểu: là hoạt động giám sát việc tuân theo pháp luật của duy nhất cơ quan VKS đối với các CQTHTT, tổ chức, cá nhân trong
  • 21.
    22 hoạt động điềutra, truy tố, xét xử và thi hành án trong lĩnh vực hình sự và các lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động nhằm đảm bảo cho pháp luật được nghiêm chỉnh chấp hành và áp dụng thống nhất. Từ khái niệm trên có thể hiểu: KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là tổng thể những hoạt động giám sát của VKS đối với Tòa án, tổ chức, cá nhân trong quá trình đưa vụ án ra xét xử để tuyên một người là có tội nhằm đảm bảo cho việc thực thi, áp dụng pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Từ những phân tích trên cho thấy, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm: Thứ nhất, hoạt động KSHĐTP là do VKS tiến hành nên nó mang tính quyền lực nhà nước. Thứ hai, hoạt động KSHĐTP được thực hiện trong tố tụng hình sự và do BLTTHS điều chỉnh. Thứ ba, hoạt động KSHĐTP là do VKS tiến hành trực tiếp liên quan đến hoạt động giải quyết vụ án và có mục đích như: kiểm sát việc chấp hành, áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án về thu thập chứng cứ, xác định tội danh, điều khoản áp dụng, loại và mức hình phạt áp dụng… nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Như vậy, VKS là một cơ quan nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp. VKS là cơ quan được nhà nước giao cho quyền năng đặc biệt là kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp khác và THQCT. Đây là hai chức năng độc lập nhưng có mối quan hệ biện chứng, gắn bó mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ đúng, đầy đủ các trình tự, thủ tục được quy định của pháp luật tố tụng hình sự đảm bảo việc xét xử khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chúng ta cũng cần phân biệt sự khác nhau giữa chức năng KSHĐTP của VKS với chức năng giám sát của Quốc hội. Đối với chức năng giám sát hoạt động
  • 22.
    23 tư pháp củaQuốc hội chỉ diễn ra trong các kỳ họp của Quốc hội còn chức năng KSHĐTP của VKS lại diễn ra theo hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật hàng ngày của các cơ quan tư pháp. Chức năng giám sát của VKS cũng khác với chức năng của cơ quan Thanh tra. Chức năng giám sát của VKS áp dụng đối với các cơ quan tư pháp và liên quan đến hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp còn chức năng của cơ quan Thanh tra với tư cách là cơ quan giúp việc cho Chính phủ và UBND các cấp nên hoạt động của Thanh tra chỉ liên quan đến hoạt động chỉ đạo điều hành trong lĩnh vực hành pháp. 1.2.2. Khái niệm nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học năm 2001 thì nhiệm vụ được hiểu là: "Công việc phải làm vì một mục đích và trong một thời gian nhất định" [90, tr. 718]. Như vậy, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng được hiểu là những hoạt động cụ thể của từng cơ quan đó, trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của cả bộ máy nhà nước là bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Do đó, có thể hiểu: nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là những hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát từ khi Tòa án thụ lý xét xử cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định cụ thể những nhiệm vụ THQCT, KSHĐTP của VKS như: đọc cáo trạng, luận tội đối với bị cáo, tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... (Điều 17); kiểm sát hoạt động xét xử của TAND, những người tham gia tố tụng... (Điều 18); kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,
  • 23.
    24 kiến nghị vớiTAND và các cơ quan hữu quan, khởi tố vụ án hình sự nếu có dấu hiệu tội phạm... (Điều 19). 1.3. NỘI DUNG CỦA CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.3.1. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố 1.3.1.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử Cùng với việc tiến hành các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự KSV tiến hành các nhiệm vụ THQCT như: xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ, gặp bị can, bị cáo; thay đổi nội dung truy tố, rút quyết định truy tố, giải quyết việc trả hồ sơ điều tra bổ sung, lập kế hoạch xét hỏi tại phiên tòa, xây dựng dự thảo luận tội. - Hoạt động xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác liên quan đến vụ án: Đối với những vụ án phức tạp, việc đánh giá chứng cứ trên các vật chứng không thể nhìn qua bản ảnh hoặc do lỗi kỹ thuật ảnh chụp không được nét hoặc vì lý do nào đó xét thấy cần thiết (ví dụ phát hiện thấy thiếu sót, sơ suất của Điều tra viên (ĐTV) hoặc của chính KSV trong quá trình khám nghiệm hiện trường vụ án...) thì KSV phải chủ động đến tận nơi lưu giữ vật chứng để xem xét kỹ lưỡng các dấu vết để yên tâm bảo vệ quan điểm truy tố tại tòa hoặc chủ động tìm những phương án xử lý những tình huống phát sinh tại phiên tòa, hoặc kịp thời bổ sung những tài liệu cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Những vật chứng này thường là các phương tiện tham gia giao thông hoặc các dấu vết trên hiện trường các vụ cháy, nổ... Khi tiến hành các hoạt động này, KSV phải lập biên bản ghi rõ phục vụ cho hoạt động THQCT tại phiên tòa và lưu vào hồ sơ kiểm sát. - Hoạt động gặp bị can, bị cáo trước khi xét xử. Theo quy định của Quy chế nghiệp vụ THQCT và KSXX hình sự thì trong các trường hợp vụ án có bị cáo là người chưa thành niên; bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có thể xử phạt mức án tù chung thân hoặc tử hình; bị cáo kêu oan, không nhận tội thì KSV có quyền
  • 24.
    25 gặp gỡ, hỏi,ghi lời khai đối với các bị cáo này. Hoạt động này cũng phải lập biên bản, ghi rõ lý do phục vụ cho hoạt động THQCT tại tòa. - Thay đổi nội dung truy tố hoặc rút quyết định truy tố. Sau khi chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án, để chuẩn bị tham gia phiên tòa KSV tiến hành nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ vụ án phát hiện thấy việc truy tố của VKS chưa chính xác (ví dụ: xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm...chưa chính xác dẫn đến khung khoản truy tố chưa chính xác); hoặc sau khi bổ sung thêm các tài liệu chứng cứ thuộc các trường hợp nêu trên KSV thấy việc truy tố của VKS không khách quan, chưa chính xác, chưa đúng thì báo cáo lãnh đạo viện về việc rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa. Theo quy định tại điều 181 BLTTHS; điều 25, khoản 2 điều 69 BLHS thì trong các trường hợp sau VKS rút quyết định truy tố:  Không có sự việc phạm tội.  Hành vi không cấu thành tội phạm.  Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự.  Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật.  Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: 5 năm đối với tội ít nghiêm trọng, 10 năm đối với tội nghiêm trọng, 15 năm đối với tội rất nghiêm trọng, 20 năm đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.  Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp tái thẩm đối với người khác.  Các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự: tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội; do chuyển biến của tình hình vào thời điểm điều tra, truy tố, xét xử hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội tự thú trước khi bị phát giác, thành khẩn khai báo, phạm tội ít nghiêm trọng, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tội phạm xảy ra xét thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự; người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có
  • 25.
    26 nhiều tình tiếtgiảm nhẹ đã được gia đình và tổ chức nhận giáo dục, không cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự với họ. - Hoạt động giải quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung: khi nhận được quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án, VKS tiến hành xem xét các căn cứ được quy định tại điều 179 BLTTHS đó là: cần xem xét thêm các chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại tòa được; có căn cứ cho rằng bị cáo phạm tội khác hoặc có động phạm khác; phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trước đây, chưa có thông tư hướng dẫn việc đánh giá căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa các CQTHTT còn có nhiều quan điểm khác nhau về xác định "chứng cứ quan trọng không thể bổ sung tại tòa được" nhưng từ sau khi có Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT- VKSNDTC- Bộ công an (BCA)- Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) thì không còn sự tranh cãi về vấn đề này nữa. Trong hoạt động giải quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, VKS cần lưu ý trường hợp "có người phạm tội mới". Tòa án chỉ được trả lại hồ sơ cho VKS khi "người phạm tội mới" có dấu hiệu đồng phạm với bị cáo đã truy tố. Nếu không có dấu hiệu của đồng phạm thì Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử và HĐXX sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án. - Hoạt động lập kế hoạch xét hỏi và xây dựng dự thảo luận tội: Việc xây dựng kế hoạch xét hỏi nhằm đảm bảo cho việc xét hỏi tại phiên tòa của KSV được toàn diện, đầy đủ, hỏi có trọng tâm, không bỏ sót những vấn đề cần xét hỏi, không hỏi lan man, vô nghĩa. Chuẩn bị đề cương xét hỏi kỹ lưỡng, cẩn thận, chu đáo, tỉ mỉ, dự kiến các tình huống phát sinh tại phiên tòa và các phương án xử lý. Xây dựng dự thảo luận tội sát với nội dung vụ án và diễn biến phiên tòa sẽ giúp KSV tự tin hơn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. 1.3.1.2. Truy tố bị can ra trước Tòa án Truy tố bị can ra trước Tòa án là quyền năng pháp lý Nhà nước trao cho duy nhất cơ quan VKS. Để thực hiện quyền năng này, VKS ban hành bản Cáo trạng để thông qua đó thể hiện quan điểm buộc tội của mình đối với người phạm tội và quan điểm giải quyết vụ án. Cáo trạng chính là hình thức thể hiện quyền công tố của VKS.
  • 26.
    27 Cáo trạng làvăn bản pháp lý thể hiện kết quả của quá trình điều tra, trong đó thể hiện toàn bộ các chứng cứ buộc tội đối với người phạm tội, quan điểm đánh giá chứng cứ, quan điểm xác định tội danh và quan điểm giải quyết vụ án. Cáo trạng là văn bản pháp lý tố tụng hình sự do vậy phải tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định về trình tự thủ tục, thẩm quyền ban hành cũng như nội dung, bố cục của Cáo trạng theo quy định tại điều 167 BLTTHS. Như vậy, có thể hiểu Cáo trạng là văn bản pháp lý do Cơ quan duy nhất là VKS được Nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện chức năng THQCT ban hành, thực hiện quyền buộc tội và truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử về tội danh và điều luật được quy định trong BLHS. Xuất phát từ khái niệm trên, có thể thấy Cáo trạng có những đặc trưng như sau: - Mang tính quyền lực nhà nước: Cáo trạng là văn bản thể hiện quyền công tố của VKS, chỉ có duy nhất VKS mới có quyền ban hành. Cáo trạng thể hiện sự buộc tội của VKS đối với người phạm tội về tội danh theo điều luật cụ thể được quy định trong BLHS. Trên cơ sở cáo trạng, Tòa án tiến hành xét xử theo những tội danh và những nội dung mà cáo trạng đã truy tố đối với người phạm tội. - Mang tính có căn cứ và đúng pháp luật: để có thể ban hành được bản cáo trạng, VKS phải dựa trên kết quả của quá trình điều tra. Theo đó, CQĐT đã tiến hành thu thập đầy đủ các chứng cứ buộc tội đối với người phạm tội theo những trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Trong phạm vi, thẩm quyền của mình VKS có thể tiến hành những biện pháp thu thập chứng cứ để làm rõ hơn và củng cố thêm các tài liệu chứng cứ do CQĐT đã thu thập để làm căn cứ cho việc truy tố của mình đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. - Việc truy tố phải đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đáp ứng được yêu cầu và các đòi hỏi của nhân dân: các đường lối chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Trước mỗi hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhân dân đều mong muốn các CQTHTT tiến hành xử lý nghiêm minh, trừng trị nghiêm khắc để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung để đáp ứng nhiệm vụ chính trị địa phương nhằm duy trì trật tự trị an trên địa bàn dân cư.
  • 27.
    28 - Ngôn ngữsử dụng trong cáo trạng phải là ngôn ngữ phổ thông, ngôn từ pháp lý có chọn lọc: lập luận trong cáo trạng phải sắc bén, chặt chẽ, có tính thuyết phục cao, hình thức của cáo trạng phải được ban hành theo mẫu thống nhất do VKSNDTC ban hành, không được tùy tiện sửa chữa, thay đổi. Về nội dung cáo trạng gồm bốn phần: phần viện dẫn căn cứ pháp lý xác định việc truy tố của VKS, phần mô tả hành vi của bị can, phần kết luận và phần quyết định: - Phần viện dẫn căn cứ pháp lý: sau phần cơ quan ban hành, tiêu ngữ, tên văn bản là phần nêu thẩm quyền của người ban hành cáo trạng là Viện trưởng VKSND các cấp. Sau đó là phần nêu các căn cứ như quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tạm đình chỉ, phục hồi điều tra vụ án, quyết định nhập vụ án... đối với bị can cụ thể theo tội danh, điều luật cụ thể... - Phần mô tả hành vi của bị can: đây là phần trọng tâm của Cáo trạng. Sau phần viện dẫn căn cứ pháp lý trên là câu chuyển tiếp "trên cơ sở kết quả cuộc điều tra đã xác định được như sau" và trình bày toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội của bị can. Tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể, tùy từng loại tội danh mà phần mô tả hành vi phạm tội của bị can có thể tùy KSV lựa chọn cách thức diễn tả cho phù hợp, có thể bằng cách diễn giải, cũng có thể bằng cách quy nạp, tổng hợp. Ví dụ: đối với những vụ án bắt người có hành vi phạm tội quả tang thì thông thường các KSV lựa chọn cách viết diễn giải; đối với những hành vi phạm tội không thuộc trường hợp quả tang mà là án truy xét, án có đông bị can hoặc bị can phạm nhiều tội khác nhau hoặc trường hợp phục hồi điều tra thì các KSV hay lựa chọn cách viết quy nạp để giúp người đọc, người nghe dễ nắm bắt nội dung vụ án để tạo điều kiện cho việc xác định hướng nghiên cứu cũng như dễ sắp xếp liệt kê chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Nội dung phần này bao gồm: thời gian, không gian, địa điểm, cách thức thực hiện, phương thức, thủ đoạn, động cơ, mục đích của tội phạm... tiếp đó là phần viện dẫn các chứng cứ: lời khai, biên bản khám nghiệm hiện trường, tử thi, các bản kết luận giám định... cuối phần mô tả hành vi là phần đánh giá của VKS về các dấu hiệu đặc trưng cấu thành cơ bản của tội danh truy tố, khối lượng buộc tội...
  • 28.
    29 - Phần kếtluận: Chuyển tiếp giữa phần mô tả hành vi và phần kết luận và câu "căn cứ vào các tình tiết và chứng cứ nêu trên". Phần này tiến hành nêu toàn bộ nhân thân bị can, nếu vụ án có nhiều bị can thì các bị can được sắp xếp vị trí theo tính nguy hiểm cho xã hội từ cao đến thấp; nêu tội danh, điều khoản, mức hình phạt sẽ áp dụng đối với bị can; nêu các vấn đề dân sự, vật chứng và các vấn đề khác liên quan đến vụ án... - Phần quyết định: Chuyển tiếp với phần kết luận là câu "vì các lẽ trên". Tại phần này, nêu rõ việc truy tố ra trước tòa án để xét xử đối với bị can theo tội danh điều khoản cụ thể đã phân tích, viện dẫn ở trên. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV THQCT đọc Cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án để Tòa án tiến hành xét xử bị cáo về hành vi phạm tội theo tội danh và điều khoản mà VKS đã truy tố. Thông thường KSV công bố bản Cáo trạng đã được chuyển cùng hồ sơ vụ án. Tuy nhiên trong những trường hợp đặc biệt, khi có sự thay đổi về nhận thức, đánh giá chứng cứ hoặc trên cơ sở những phát sinh mới trong quá trình chuẩn bị xét xử KSV có thể công bố những văn bản bổ sung cáo trạng như: truy tố bổ sung thêm tội danh, thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, thay đổi khoản áp dụng đối với bị cáo, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố đối với bị cáo… Các trường hợp và căn cứ rút quyết định truy tố ở giai đoạn chuẩn bị xét xử đã trình bày ở trên. Tại mục này chỉ đề cập đến các trường hợp rút một phần quyết định truy tố ngay sau khi KSV công bố Cáo trạng và trong khi Luận tội. Về trình tự thủ tục rút quyết định truy tố: nếu ở giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc ở thời điểm ngay sau khi công bố Cáo trạng thì KSV phải báo cáo Lãnh đạo VKS xem xét quyết định. Còn tại phiên tòa, sau khi xét hỏi thấy không đủ căn cứ để truy tố bị cáo về tội danh đã truy tố thì KSV có quyền đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung, sau đó báo cáo Lãnh đạo VKS quyết định; nếu thấy không đủ căn cứ để truy tố bị cáo về toàn bộ hành vi phạm tội đã truy tố thì KSV phải rút một phần hoặc có căn cứ truy tố bị cáo về tội danh nhẹ hơn thì trong khi luận tội KSV tự quyết định và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng VKS về quyết định của mình.
  • 29.
    30 1.3.1.3. Tham giaxét hỏi bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm Xét hỏi là cách điều tra chủ yếu tại phiên tòa sơ thẩm, theo đó, những người tiến hành tố tụng đặt các câu hỏi buộc bị cáo và những người tham gia tố tụng phải trả lời để làm rõ các tình tiết của vụ án. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm có những đặc trưng: - Xét hỏi trực tiếp bằng lời. - Xét hỏi công khai, theo sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. - Xét hỏi phải theo một trình tự nhất định do BLTTHS quy định. - Chủ thể tiến hành xét hỏi là người tiến hành tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân (HTND), KSV và Luật sư. - Đối tượng bị xét hỏi là những người tham gia tố tụng như: bị cáo, người bị hại, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. - Nội dung xét hỏi chỉ liên quan đến vụ án đang xét xử và theo phạm vi truy tố mà VKS đã truy tố. Yêu cầu đối với người xét hỏi tại phiên tòa: - Phải biết lựa chọn cách thức xét hỏi cho phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn, từng thời điểm để việc xét hỏi đạt hiệu quả. - Phải xây dựng kế hoạch chi tiết, cụ thể, phù hợp với nội dung vụ án trước khi tiến hành xét hỏi trực tiếp tại phiên tòa. - Sử dụng chiến thuật hỏi hợp lý và phù hợp với từng đối tượng (ví dụ: bị cáo nhận tội thì sử dụng chiến thuật hỏi thẳng, bị cáo chối tội sử dụng chiến thuật hỏi dồn, ngắn gọn, trả lời chỉ có hai cách lựa chọn có hoặc không…), giọng xét hỏi cũng phải thay đổi cho phù hợp với mỗi đối tượng và phù hợp với diễn biến phiên tòa (ví dụ: bị cáo nhận tội thì hỏi giọng nghiêm nghị, bình thường; bị cáo không nhận tội thì hỏi giọng nghiêm nghị đanh thép…), thái độ, cử chỉ, nét mặt của người tiến hành xét hỏi phải thể hiện sự uy nghiêm, đĩnh đạc.
  • 30.
    31 - Tránh nóingọng, lắp bắp, hỏi không rõ nghĩa, hỏi quá dài, hỏi không có mục đích, hỏi trùng lặp những nội dung đã được làm rõ… Việc xét hỏi vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của KSV, cùng với HĐXX, KSV giữ quyền công tố tại phiên tòa tham gia xét hỏi bị cáo và người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án, làm rõ hành vi phạm tội, làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, động cơ, mục đích, nguyên nhân thúc đẩy bị cáo phạm tội. Đồng thời tiến hành kiểm tra toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do CQĐT thu thập tại phiên tòa. Trên cơ sở đó, cùng HĐXX nghiên cứu, xem xét và đánh giá các chứng cứ đó để đưa ra quan điểm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng quy định pháp luật. Việc xét hỏi của KSV tại phiên tòa phải tuân theo một trình tự nhất định do BLTTHS quy định tại Điều 207. Khi xét hỏi KSV phải hỏi sau Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và HTND. Để việc xét hỏi đạt kết quả tốt, đảm bảo việc điều tra công khai tại tòa được đầy đủ, toàn diện; tăng tính chủ động của KSV khi tranh tụng tại phiên tòa thì việc hỏi của KSV phải bám sát những nội dung truy tố, hỏi có trọng tâm, trọng điểm, không lọt, sót các vấn đề liên quan trong vụ án, không hỏi thừa, hỏi không rõ nghĩa, trùng lặp với Thẩm phán hoặc HTND. Để đạt được mục đích trên, KSV xây dựng "đề cương xét hỏi" với những nội dung cụ thể dựa trên cơ sở nội dung vụ án, vì vậy KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, nắm chắc các tình tiết của vụ án cũng như diễn biến quá trình thu thập chứng cứ, diễn biến thay đổi lời khai của các đối tượng... từ đó xác định từng vấn đề cần hỏi, cần làm rõ đối với từng đối tượng trong vụ án đồng thời dự kiến những tình huống sẽ phát sinh tại phiên tòa, hoạch định những phương án xử lý những tình huống đó. Nội dung của kế hoạch xét hỏi cần làm rõ: hành vi phạm tội của bị cáo, năng lực trách nhiệm hình sự của bị cáo, lỗi của bị cáo, vị trí vai trò của bị cáo và các đồng phạm khác, các đặc điểm nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả tội phạm, các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và những vấn đề liên quan khác trong vụ án…
  • 31.
    32 Tùy theo tưcách của những người tham gia tố tụng mà KSV lựa chọn câu hỏi cho phù hợp với các đối tượng này. Tuy nhiên cần chú ý đặc điểm tâm lý của từng đối tượng khi hỏi để đạt được mục đích hỏi, ví dụ: bị cáo thường hay chối tội, khai báo né tránh; người làm chứng sợ bị trả thù nên hay thay đổi lời khai tại tòa, người bị hại hay khai tăng hậu quả do hành vi phạm tội gây ra để đồi bồi thường cao… Đối với những người tham gia tố tụng là đại diện cho các cơ quan chuyên môn thì khi hỏi tại phiên tòa chỉ cần hỏi làm rõ những vấn đề chưa rõ hoặc liên quan trực tiếp đến các kết luận chuyên môn có trong hồ sơ vụ án: ví dụ đối với giám định viên chỉ hỏi những vấn đề liên quan đến kết luận giám định trong hồ sơ vụ án chưa được rõ… 1.3.1.4. Luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm Khác với Cáo trạng, Luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm không phải là văn bản pháp lý do nhà nước quy định mà chỉ là lời phát biểu của KSV tại phiên tòa sơ thẩm nhưng nó lại có giá trị pháp lý rất cao. Hiện nay, chưa có khái niệm chính thức định nghĩa thế nào là Luận tội. Theo từ điển Tiếng Việt năm 2001 của Viện ngôn ngữ học thì Luận tội được hiểu là: "phân tích, cân nhắc để xét tội" [90, tr. 590]. Từ đó có thể hiểu Luận tội là sự phân tích, đánh giá chứng cứ trên cơ sở kết quả chứng minh công khai tại phiên tòa, kết hợp với ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Luận tội là sự buộc tội trực tiếp, chính thức và cuối cùng của VKS đối với người phạm tội. Cũng giống như Cáo trạng sự buộc tội của Luận tội đều được xác định là giới hạn xét xử của Tòa án. Tương tự như Cáo trạng, Luận tội cũng có những đặc trưng mang tính quyền lực nhà nước; tính có căn cứ và đúng pháp luật; tuân thủ các đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước cũng như đáp ứng được yêu cầu, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, Luận tội khác Cáo trạng căn bản là sự phân tích và đánh giá chứng cứ chứng minh bốn yếu tố cấu thành tội phạm, trên cơ sở đánh giá quá trình nhân thân để đề xuất mức hình phạt, loại hình phạt chính thức và cụ thể đối với người phạm tội nên Luận tội còn mang những đặc trưng khác như:
  • 32.
    33 - Luận tộiphải có căn cứ, chính xác, khách quan và cụ thể: các kết luận về hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo phải được viện dẫn chứng cứ chứng minh. Các chứng cứ được đưa vào Luận tội là những chứng cứ đã được đưa ra kiểm tra, xem xét công khai tại tòa cụ thể là tại giai đoạn xét hỏi. Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vai trò vị trí, trách nhiệm của bị cáo trong vụ án. Viện dẫn các căn cứ pháp luật phải đảm bảo chính xác, đúng lời văn điều luật quy định. Nếu quá trình xét hỏi bị cáo tại phiên tòa xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi nội dung quyết định truy tố trong bản Cáo trạng đã công bố thì trong lời Luận tội KSV phải đánh giá tình tiết đó và trong phạm vi pháp luật cho phép KSV có thể đề nghị hoãn phiên tòa để điều tra bổ sung hoặc rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc đề nghị HĐXX tuyên bị cáo phạm tội danh khác nhẹ hơn. Khi đề xuất đường lối giải quyết vụ án, KSV phải đề xuất mức, loại hình phạt cụ thể, các biện pháp tư pháp cần áp dụng... - Luận tội phải có tính thuyết phục, giáo dục và phòng ngừa tội phạm: khi Luận tội đảm bảo được các yêu cầu trên thì đã có tính thuyết phục. Thông qua việc phân tích, trích dẫn điều luật mà hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm trong Luận tội đã góp phần tuyên truyền, giáo dục pháp luật, giúp bị cáo và những người tham dự phiên tòa hiểu rõ những hành vi nào bị pháp luật cấm. Qua đó, góp phần điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội. Tính phòng ngừa tội phạm của luận tội thể hiện ở việc phân tích những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội, trong đó có việc phân tích những sơ hở, thiếu sót vi phạm trong quản lý kinh tế, xã hội, con người làm cơ sở để kiến nghị với các cơ quan chức năng kịp thời khắc phục. - Văn phong sử dụng trong Luận tội phải trong sáng, mạch lạc, dễ hiểu, chuẩn xác không sử dụng những từ ngữ miệt thị bị cáo, không sử dụng những từ ngữ "đao to, búa lớn". Bố cục Luận tội phải chặt chẽ, logic. Luận tội là một bài văn nhưng không được quá "văn" làm cho người nghe thấy sáo rỗng. Từ những đặc trưng trên, khi xây dựng Luận tội, KSV phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Luận tội nhằm bảo vệ Cáo trạng - quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án. KSV phát biểu lời Luận tội là tiếp tục THQCT tại Tòa án để bảo vệ Cáo trạng. Vì
  • 33.
    34 vậy, nội dungcủa Luận tội phải bám sát nội dung truy tố của Cáo trạng đồng thời Luận tội còn phải phân tích, viện dẫn làm sáng tỏ nội dung truy tố của cáo trạng để làm rõ tính có căn cứ và tính hợp pháp của Cáo trạng. Qua xét hỏi không có tình tiết mới làm thay việc truy tố thì KSV không được phép thay đổi nội dung Cáo trạng. - Luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa vì vậy KSV phải chủ động tham gia xét hỏi để làm sáng tỏ những hành vi phạm tội của các bị cáo và các tình tiết khác để làm sáng tỏ Cáo trạng, đồng thời đó cũng là những nội dung Luận tội sẽ trình bày trước tòa. KSV phải theo dõi và chủ động tham gia vào quá trình xét hỏi công khai tại tòa để tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đây cũng là cơ sở để sửa đổi, bổ sung dự thảo Luận tội cho phù hợp với diễn biến phiên tòa nhất là khi có sự thay đổi lời khai hoặc có các tình tiết mới phát sinh tại tòa. Nếu sự thay đổi tại phiên tòa là cơ sở quyết định cho việc truy tố của VKS thì KSV phải linh hoạt sửa đổi cho phù hợp không được máy móc, cứng nhắc bảo vệ Cáo trạng trong khi chứng cứ tại tòa không đủ. - Luận tội phải thể hiện cả luận chứng và luận tội: Luận chứng là việc phân tích, đánh giá các chứng cứ của vụ án để xác định tội phạm và người phạm tội theo các điều khoản của BLHS. Còn Luận tội là việc phân tích, phê phán tính chất hành vi phạm tội, thủ đoạn phạm tội, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, vai trò trách nhiệm và nhân thân người phạm tội để đề xuất hình phạt. Đối với bất kỳ vụ án nào dù đơn giản hay phức tạp đều phải đảm bảo hai yếu tố này, không thể thiếu được yếu tố nào. Hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau khó tách rời, có luận chứng kết luận tội phạm và người phạm tội thì mới có căn cứ để phân tích, phê phán tội lỗi của bị cáo mà đề xuất hình phạt. Chưa phân tích, đánh giá kết luận tội phạm và người phạm tội thì không thể phân tích, phê phán tội lỗi của tội phạm. - Hình thức của Luận tội phải khoa học và đúng quy định của pháp luật, do vậy KSV phải quan tâm đúng mức đến hình thức thể hiện. Luận tội gồm những nội dung cơ bản sau: - Phân tích đánh giá chứng cứ: trên cơ sở hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ công khai tại phiên tòa, Luận tội phân tích, đánh
  • 34.
    35 giá và chứngminh các vấn đề như: có hành vi phạm tội xảy ra không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có lỗi hay không, lỗi cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự không, động có, mục đích phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như những đặc điểm về nhân thân của bị cáo; tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Nếu đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có tội, KSV tiến hành khẳng định việc truy tố của VKS là đúng, có căn cứ và tiến hành Luận tội đối với bị cáo theo tội danh đã truy tố tại bản Cáo trạng. Tuy nhiên, nếu qua xét hỏi thấy các chứng cứ không đủ cơ sở chứng minh bị cáo có tội thì KSV phải rút toàn bộ quyết định truy tố (rút toàn bộ quyết định truy tố tại bản Cáo trạng đã công bố trước khi xét hỏi) và đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không phạm tội. Hoặc trong trường hợp không đủ chứng cứ chứng minh toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo nội dung Cáo trạng mà chỉ đủ chứng cứ kết tội đối với bị cáo theo một phần nội dung đã truy tố thì KSV phải rút một phần quyết định truy tố đối với bị cáo mà không đủ chứng cứ chứng minh. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo đã chứng minh được thì KSV luận tội theo tội danh đã truy tố hoặc theo tội danh khác nhẹ hơn so với tội danh đã truy tố tại bản Cáo trạng. - Phân tích đánh giá tính chất, mức độ, nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, vị trí của từng bị cáo trong vụ án và đề xuất biện pháp xử lý đối với bị cáo: qua lời Luận tội, KSV phân tích, đánh giá các chứng cứ do CQĐT thu thập đã được đưa ra xem xét công khai tại tòa, làm rõ hành vi phạm tội, khách thể bị xâm hại, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, lỗi của bị cáo, động cơ, mục đích, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và các tình tiết khác… từ đó đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá tính chất, vai trò của các bị cáo, đánh giá tình hình chung từ đó đề xuất loại hình phạt, mức hình phạt đối với bị cáo để trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo. Sắp xếp vai trò cụ thể của từng bị cáo trong vụ án: nếu vụ án có nhiều tội truy tố thì sắp xếp trình bày tội nặng hơn trước (đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, nghiêm trọng, và ít nghiêm trọng). Nếu vụ án có nhiều bị cáo thì sắp xếp kết
  • 35.
    36 luận các bịcáo phạm tội nặng trước, tội nhẹ sau. Khi phân tích các vụ án có đồng phạm cần kết luận vai trò của từng đồng phạm (tổ chức - thực hành - giúp sức) phải được viện dẫn đầy đủ điểm, khoản, điều luật mà bị cáo vi phạm. - Phân tích những sơ hở, thiếu sót của các cơ quan chức năng trong việc quản lý kinh tế, xã hội và con người để kiến nghị phòng ngừa: Luận tội của KSV không chỉ kết luận về hành vi phạm tội của người phạm tội mà còn thể hiện đường lối giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án như: đồng phạm khác, đối tượng liên quan trong quá trình giải quyết vụ án, vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, xử lý vật chứng… Thông qua Luận tội của KSV thể hiện quan điểm của VKS đối với những thiếu sót, vi phạm, những hạn chế của các cá nhân, tổ chức, cơ quan hữu quan từ đó đưa ra những kiến nghị khắc phục. Việc Luận tội của KSV tại phiên tòa sơ thẩm thể hiện quyền THQCT tại phiên tòa của VKS. Tuy không được quy định là văn bản pháp lý nhưng không phải vì thế mà có thể áp dụng Luận tội một cách tùy nghi. Điều 217 BLTTHS và Quy chế KSXX của ngành Kiểm sát quy định chặt chẽ trình tự, quy cách, bố cục Luận tội của KSV [34], [81]. Nếu như Cáo trạng là kết quả của quá trình điều tra thì Luận tội là kết quả của quá trình điều tra công khai tại tòa. Cũng như Cáo trạng, Luận tội là kết quả của quá trình nghiên cứu chuyên sâu, thể hiện năng lực, trình độ và kinh nghiệm nghề nghiệp của KSV. 1.3.1.5. Tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2001 của Viện ngôn ngữ học thì tranh luận có nghĩa là "bàn cãi để tìm ra lẽ phải" [90, tr. 1024]; còn tranh tụng là "kiện tụng lẫn nhau" [90, tr. 1025]. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ "tranh tụng" được hiểu bao gồm hai thuật ngữ "tranh luận" và "tố tụng". Trong tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng bao giờ cũng có ít nhất hai bên có những quyền và lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Do đó các bên phải đưa ra những chứng cứ, phân tích, đánh giá, tranh cãi với nhau để bảo vệ quan điểm của mình. Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử- cơ quan tài phán sẽ tiến hành xem xét, đánh giá và quyết định.
  • 36.
    37 Tranh luận củaKSV tại phiên tòa là một phần trong việc thực hiện tranh tụng của VKS. Có nhiều quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu và kết thúc của việc tranh tụng tại giai đoạn xét xử, có quan điểm cho rằng tranh tụng ở giai đoạn xét xử bắt đầu khi thủ tục phiên tòa bắt đầu và kết thúc khi Tòa tiến hành nghị án. Tuy nhiên, ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, VKS đã phải tiến hành tranh tụng với Thẩm phán về một số vấn đề như: tư cách của những người tham gia tố tụng, thành phần của HĐXX, cụ thể là HTND trong những vụ án vị thành niên hoặc cố ý gây thương tích… Việc tranh tụng kết thúc khi các bên trình bày xong ý kiến để bảo vệ quan điểm của mình. Còn việc quyết định của Tòa án bên nào thắng, bên nào thua chỉ là kết quả của việc tranh tụng. Do vậy, phạm vi tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm được bắt đầu từ khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử và kết thúc khi HĐXX chuyển sang giai đoạn nghị án. Hiểu theo nghĩa rộng, phạm vi của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa là rất rộng, được thực hiện trong hầu hết các giai đoạn của phiên tòa, đặc biệt là trong phần xét hỏi và phần tranh luận. Hiểu theo nghĩa hẹp thì hoạt động tranh tụng là hoạt động tranh luận của KSV tại phiên tòa. Chủ thể tham gia tranh luận gồm: Thẩm phán, KSV, những người tham gia tố tụng khác như: bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo, người bị hại, Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan... Trong đó, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giữ vai trò là người điều khiển tranh luận, KSV là chủ thể có trách nhiệm đối đáp với các ý kiến tranh luận của Luật sư và những người tham gia tố tụng khác có ý kiến phản hồi. Vai trò của Thẩm phán rất quan trọng, quyết định đến chất lượng của quá trình tranh luận. Mặc dù, Thẩm phán không trực tiếp tham gia với tư cách là một chủ thể trong quá trình đối đáp nhưng với tư cách là người điều khiển phiên tòa, họ có vai trò là người trọng tài, là người hướng dẫn cho các bên trong việc thực hiện quyền tranh tụng đúng pháp luật. Sau khi, KSV trình bày lời luận tội thì Luật sư và những người tham gia tố tụng khác giữ vai trò một bên tranh tụng, có quyền trình bày ý kiến về luận tội của KSV và đưa ra những đề nghị của mình, đồng thời cũng có quyền đối đáp với quan điểm của KSV. Đây là các chủ thể rất quan trọng, trực tiếp tham gia vào hoạt động tranh luận dưới sự điều khiển của Chủ tọa phiên tòa. Chất lượng tranh luận có đạt được hiệu quả dân chủ, công khai, toàn diện hay không thì ngoài việc phụ thuộc vào
  • 37.
    38 sự điều khiểncủa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, thì còn phụ thuộc trực tiếp vào hoạt động đối đáp giữa KSV và những người tham gia tố tụng khác. Việc tranh luận của KSV không bị giới hạn về thời gian, nội dung. Tuy nhiên, để tránh tình trạng tranh luận tràn lan, dàn trải cùng một vấn đề hoặc những vấn đề không liên quan đến vụ án, BLTTHS quy định: "Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án" [34, Điều 218] . Để tranh luận tốt, KSV phải nắm chắc hồ sơ vụ án, nghiên cứu kỹ lưỡng các tình tiết cụ thể của vụ án; dự kiến những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa; nắm vững các quy định của pháp luật; có phản ứng nhanh nhạy, kịp thời trước những tình huống mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Trong giai đoạn hiện nay, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng đang được mở rộng phạm vi, ngày càng tăng cường hơn nữa việc tranh tụng giữa KSV với người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. BLTTHS không giới hạn thời hạn, phạm vi tranh tụng giữa KSV với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Theo đó, KSV phải tranh tụng tất cả các vấn đề mà người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đưa ra. Kết quả tranh tụng là cơ sở để HĐXX xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án đồng thời cũng thể hiện năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh và kinh nghiệm nghề nghiệp của KSV. 1.3.1.6. Khởi tố vụ án hình sự nếu có dấu hiệu của tội phạm Theo quy định tại điều 104 BLTTHS, VKS có quyền khởi tố vụ án hoặc theo yêu cầu của HĐXX nếu trong quá trình xét xử phát hiện thấy tội phạm mới, hoặc người phạm tội mới cần phải khởi tố điều tra để xử lý. 1.3.1.7. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm Đây là một thẩm quyền riêng biệt của VKSND nói chung và của khâu THQCT trong giai đoạn xét xử nói riêng. Để thực hiện tốt công tác kháng nghị thì khâu công tác kiểm sát bản án của KSV được xem là khâu quan trọng trong vụ án.
  • 38.
    39 Thẩm quyền khángnghị của VKS được tiến hành: - Đối với bản án chưa có hiệu lực pháp luật nếu có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để Tòa án cấp trên tiến hành xét xử, xem xét lại vụ án trên cơ sở kháng nghị phúc thẩm của VKS. - Đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát sinh tình tiết mới thì VKS tiến hành kháng nghị để Tòa án cấp trên xem xét lại vụ án theo thủ tục tái thẩm. Nếu có vi phạm trong việc áp dụng pháp luật thì VKS tiến hành kháng nghị để Tòa án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. BLTTHS dành riêng hai phần (phần thứ tư và phần thứ sáu) gồm 54 điều quy định về các trình tự thủ tục, thẩm quyền, giới hạn của việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ kiểm sát tuân theo pháp luật 1.3.2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Cùng với việc chuyển hồ sơ vụ án và Cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử của VKS là việc thụ lý hồ sơ vụ án của Tòa án. Đây cũng chính là thời điểm bắt đầu thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS kéo dài cho đến khi Tòa án tiến hành đưa quyết định ra xét xử đối với vụ án thì kết thúc. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm là hoạt động kiểm tra, giám sát của VKS đối với việc chấp hành pháp luật của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nhằm đảm bảo cho hoạt động chuẩn bị xét xử của Tòa án đúng pháp luật. Chủ thể tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là KSV được phân công nhiệm vụ THQCT và KSXX vụ án. Đối tượng bị kiểm sát là hoạt động của Chánh án (phó Chánh án), Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án và những người tham gia tố tụng khác. Trong giai đoạn này, VKS tiến hành một số hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án
  • 39.
    40 như: việc ápdụng biện pháp ngăn chặn của Tòa án đối với bị can đã bị truy tố, nếu bị can bị tạm giam thì thời hạn tạm giam không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu bị can được thay đổi biện pháp ngăn chặn thì KSV tiến hành kiểm sát các căn cứ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn mà Tòa án áp dụng; thẩm quyền xét xử của Tòa án; kiểm sát thời hạn ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử của tòa án có đúng quy định tại Điều 176 BLTTHS không; kiểm sát việc trả hồ sơ của Tòa án cho VKS có căn cứ và đúng quy định của pháp luật không (Điều 179); kiểm sát các căn cứ đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án (Điều 180); kiểm sát việc giải quyết khiếu nại và những yêu cầu của người tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử… và kiểm sát việc tiến hành một số hoạt động để mở phiên tòa trong đó đặc biệt chú ý đến thành phần HTND đối với các vụ án mà bị cáo là đối tượng đặc biệt. Ví dụ: HTND phải là giáo viên hoặc Bí thư đoàn thanh niên trong các vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, HTND là bác sỹ trong các vụ án cố ý gây thương tích hoặc có bị cáo là người có nhược điểm thể chất tâm thần… Trong giai đoạn này, KSV có quyền: yêu cầu Tòa án khắc phục hoặc báo cáo, đề xuất đến Lãnh đạo Viện kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; báo cáo lãnh đạo đề xuất kháng nghị các quyết định của Tòa án các cấp sơ thẩm theo quy định của BLTTHS. - Hoạt động kiểm sát thẩm quyền xét xử của Tòa án: thông thường ngay từ khi khởi tố vụ án, VKS đã xác định thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử. Đối với những vụ án không thuộc thẩm quyền, VKS có trách nhiệm ban hành quyết định chuyển vụ án đến cơ quan có thẩm quyền để điều tra. Việc xác định thẩm quyền trong giai đoạn này rất ít nhưng cũng có trường hợp vẫn xảy ra (ví dụ: liên quan đến yếu tố nước ngoài...) Theo quy định tại điều 174 BLTTHS, nếu vụ án không thuộc thẩm quyền của cấp mình, Tòa án tiến hành ra quyết định chuyển vụ án đến Tòa án có thẩm quyền để xét xử. Sau 2 ngày kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho VKS cùng cấp biết. Trách nhiệm của KSV phải kiểm tra căn cứ chuyển vụ án, việc tống đạt quyết định chuyển vụ án của Tòa án đến bị cáo và những người liên quan khác trong vụ án...
  • 40.
    41 - Hoạt độngkiểm sát thời hạn chuẩn bị xét xử: Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án hình sự là khoảng thời gian luật định để Tòa án tiến hành các hoạt động cần thiết cho việc mở phiên tòa. Thời hạn chuẩn bị xét xử gồm có các loại: thời hạn để Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án ra một trong các quyết định cần thiết; thời hạn mở phiên tòa sau khi đã có các quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tùy theo tính chất của vụ án, mức độ nghiêm trọng của vụ án mà BLTTHS phân ra nhiều loại thời hạn khác nhau để Tòa án có đủ thời gian để chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc xét xử. Theo quy định tại điều 176 BLTTHS quy định: trong thời hạn 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, 60 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và 90 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thì Thẩm phán phải ra một trong các quyết định: tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; trả hồ sơ điều tra bổ sung, quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp thì Chánh án Tòa án còn có thể Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử thêm nhưng không quá 15 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Cần lưu ý cách tính thời hạn đối với các bị cáo tại ngoại (thời điểm giao cáo trạng). Từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án phải tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án trong thời hạn 15 ngày, nếu có lý do chính đáng Tòa án có thể kéo dài thời hạn này đến 30 ngày. Quá trình kiểm sát, KSV không nên cứng nhắc quá về mặt thời hạn vì trong những trường hợp đặc biệt, ở những địa bàn nhiều án, số lượng thẩm phán hạn chế, khối lượng công việc nhiều nên cũng cần sự phối hợp, linh động về mặt thời hạn. - Hoạt động kiểm sát các việc ban hành các quyết định của Tòa án: KSV cần nghiên cứu các căn cứ ban hành quyết định, hình thức quyết định và nội dung của các quyết định đó:  Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung: cần xem xét kỹ căn cứ trả hồ sơ quy định tại Điều 174 BLTTHS, lý do trả phải được ghi rõ trong quyết định, những yêu cầu điều tra của Tòa án đặt ra đối với vụ án có hợp lý không.  Quyết định đình chỉ vụ án: xem kỹ các căn cứ quy định tại Điều 102, 107 BLTTHS, việc đình chỉ đối với bị cáo này có liên quan đến bị cáo khác hay không, kiểm tra việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, việc xử lý vật chứng...
  • 41.
    42  Quyết địnhtạm đình chỉ vụ án: kiểm tra các căn cứ quy định tại Điều 160 BLTTHS, lý do tạm đình chỉ cần chú ý các trường hợp liên quan đến việc giám định tâm thần, bệnh hiểm nghèo… các kết luận giám định có đúng không, có khách quan không…  Quyết định đưa vụ án ra xét xử: cần kiểm tra thời gian, địa điểm, hình thức xét xử, thành phần những người tiến hành tố tụng: thẩm phán chủ tọa phiên tòa, HTND, thư ký, KSV; những người tham gia tố tụng: bị cáo, nhân chứng, Luật sư bào chữa, người bị hại, người giám định, phiên dịch…; kiểm tra tên, tuổi, địa chỉ của bị cáo, tội danh, điều khoản cụ thể … - Hoạt động kiểm sát việc quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: BLTTHS quy định có 6 biện pháp ngăn chặn (Điều 79): bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cứ trú. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án chỉ có quyền áp dụng các biện pháp: tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú. KSV cần chú ý các căn cứ Tòa án thay đổi biện pháp tạm giam bằng các biện pháp thay thế khác. Việc áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn này do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết định. Thời hạn tạm giam bằng thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, BLTTHS quy định trong trường hợp đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử nếu thời hạn tạm giam đã hết Tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi xét xử xong. Đây là quy định tạm giam vô thời hạn đối với Tòa án, quy định này chưa hợp lý và tạo ra sự tùy tiện trong việc áp dụng. Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo… KSV có thể trù bị trước với thẩm phán về cách thức, trình tự giải quyết vụ án cũng như việc xác định những người tham gia tố tụng cần triệu tập đến phiên tòa, các vật chứng cần được đưa ra xem xét công khai tại tòa… Đây không phải là thủ tục bắt buộc do BLTTHS quy định mà chỉ là thói quen trong quan hệ phối hợp công tác giữa Tòa án và VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đảm bảo cho việc giải quyết thuận lợi, nhanh chóng, kịp thời, chính xác và đạt hiệu quả cao.
  • 42.
    43 1.3.2.2. Kiểm sátviệc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình xét xử vụ án Sau khi Thư ký Tòa án đọc nội quy phiên tòa, HĐXX vào phòng xử án là thời điểm bắt đầu công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa. Việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người này kéo dài đến khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên án xong và tuyên bố kết thúc phiên tòa. Đây cũng là quá trình thực hiện song hành cả hai chức năng THQCT và KSHĐTP của VKS. Chất lượng THQCT, KSHĐTP của VKS có tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp của KSV. Trong giai đoạn này, KSV phải kiểm sát việc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử có nội dung đúng với quyết định đã gửi đến VKS hay không; trình tự thủ tục bắt đầu phiên tòa có diễn ra theo đúng quy định pháp luật hay không. Việc kiểm tra căn cước, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, việc thay đổi người tiến hành tố tụng có đảm bảo đúng quy định pháp luật không, việc vắng mặt người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng có ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án hay không, các căn cứ hoãn phiên tòa. Những người tham gia phiên tòa có ai muốn cung cấp thêm chứng cứ, vật chứng cần xem xét, hoặc yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng khác nữa hay không. Trong quá trình xét xử những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và nhân dân đến tham dự phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định pháp luật chưa, có vi phạm pháp luật không, hình thức xử lý… Việc bảo vệ phiên tòa, quản lý các bị cáo bị tạm giam đã đảm bảo các quy định pháp luật chưa, trách nhiệm của những người liên quan thế nào… Sau khi kết thúc phiên tòa, KSV kiểm tra biên bản phiên tòa xem có đúng diễn biến quá trình xét xử hay không, cần thiết có thể yêu cầu thư ký Tòa án bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp. 1.3.2.3. Kiểm sát việc ra bản án, quyết định của Tòa án Việc ban hành bản án của Tòa án phải được gửi đến VKS trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án. Khi nhận được bản án hoặc các quyết định khác (trả hồ sơ, tạm đình chỉ, đình chỉ) của Tòa án thì KSV cần nghiên cứu kỹ nội dung bản án, quyết
  • 43.
    44 định tiến hànhkiểm tra các căn cứ áp dụng đối với các quyết định, kiểm tra nội dung bản án có đúng với nội dung phiên tòa thực tế đã diễn ra hay không. Từ đó, tiến hành đề xuất việc kháng nghị, kiến nghị khắc phục những vi phạm của Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật. Việc chỉnh sửa, đính chính bản án, quyết định cũng được BLTTHS quy định rất chặt chẽ, phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do luật quy định. 1.3.2.4. Kiến nghị với Tòa án, các cơ quan hữu quan Quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và các cá nhân, công dân, cơ quan, tổ chức nếu VKS phát hiện thấy có vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ từng trường hợp cụ thể VKS tiến hành ban hành kiến nghị đối với Tòa án, các cơ quan hữu quan khắc phục những vi phạm, thiếu sót trong lĩnh vực mình quản lý… để góp phần thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật. Kiến nghị là quyền năng đặc biệt của VKS. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta chưa quy định chế tài áp dụng đối với việc không chấp hành kiến nghị của VKS. Qua thực tiễn xét xử thấy việc quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, con người… còn nhiều khiếm khuyết, hạn chế, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình phát hiện thấy sai phạm thì kiến nghị nhắc nhở các cơ quan nhà nước biết để khắc phục nhưng việc các cơ quan nhà nước sửa chữa đến đâu, như thế nào hoặc có ý thức chấp hành ý kiến nghị của VKS hay không thì không có bất kỳ một chế tài nào, một cơ quan nào có quyền xử lý. Như vậy, đây là quyền năng đặc biệt của VKS nhưng không có chế tài đảm bảo cho việc thực hiện quyền năng này một cách triệt để nên nhiều khi xảy ra tình trạng, VKS cứ kiến nghị còn các cơ quan chức năng cứ vi phạm. Do vậy, cần có chế tài xử lý để đảm bảo các cơ quan nhà nước chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. 1.4. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT Ở VIỆT NAM 1.4.1. Quá trình phát triển 1.4.1.1. Từ năm 1945 đến năm 1960 Cùng với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã bắt tay ngay vào việc kiện toàn lại bộ máy nhà nước. Trong đó,
  • 44.
    45 hệ thống cáccơ quan Tòa án đã được tổ chức hoạt động trên phạm vi cả nước. Tại các Sắc lệnh số 33c/SL ngày 13/9/1945 Tòa án quân sự được thành lập ở 3 miền Bắc, Trung, Nam; Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 hệ thống Tòa án thường được thành lập bao gồm các tòa án sơ cấp, đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm; Sắc lệnh số 64 ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời thành lập Tòa án đặc biệt để xét xử những nhân viên của UBND, nhân viên của các cơ quan của Chính phủ phạm tội. Trong các Tòa án đều có "công tố viện" do Công tố ủy viên phụ trách, chuyên thực hiện chức năng công tố. Chánh án và Công tố ủy viên trong các Tòa án đều là thủ trưởng đơn vị, có nhiệm vụ riêng biệt. Tại kỳ họp thứ 8, phiên họp ngày 29/4/1958, Quốc Hội khóa I đã quyết định chia tách và thành lập mới một số cơ quan nhà nước, trong đó có việc thành lập Viện công tố trung ương và hệ thống Viện công tố, Tòa án cũng được thành lập thành hệ thống riêng biệt. Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 256/TTg quy định vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố và tổ chức hệ thống Viện công tố - tiền thân của VKSND, có nhiệm vụ chung là: giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của nhà nước, truy tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của người công dân, bảo đảm cho công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi... Khi thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, Viện công tố có trách nhiệm áp dụng những biện pháp pháp lý thích đáng theo pháp luật để xử lý mọi hành vi phạm pháp, mọi phần tử phạm pháp. Theo đó, Viện công tố thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như: điều tra, truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của CQĐT; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử của Tòa án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của các cơ quan giam giữ, cải tạo; khởi tố hoặc tham gia tố tụng những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của nhà nước và nhân dân. 1.4.1.2. Từ năm 1960 đến năm 1980 Thời kỳ này, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa, miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất
  • 45.
    46 nước nhà. Đâylà hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ với nhau, pháp luật của thời kỳ này cũng phục vụ cả hai nhiệm vụ chiến lược đó. Trước tình hình của đất nước, đòi hỏi phải có nền pháp chế thống nhất. Lúc này, Viện công tố được thành lập năm 1958 hoạt động với nguyên tắc song trùng trực thuộc không còn thích hợp. Đảng đã đặt vấn đề thành lập VKS thay thế Viện công tố, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ được giữ vững, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh, thống nhất nước nhà. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ chức VKSND năm 1960. Theo đó, VKS có một chức năng duy nhất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Do đó, THQCT chỉ là một biện pháp thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã dành 1 chương riêng (Chương IV: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các TAND và trong việc chấp hành các bản án, gồm 3 điều luật từ Điều 17 đến Điều 19). VKS có các quyền: khởi tố về hình sự và giữ quyền công tố trước TAND cùng cấp; kháng nghị những bản án hoặc quyết định của TAND cùng cấp và dưới một cấp. Mặc dù Luật tổ chức VKSND năm 1960 chưa phân định rõ chức năng THQCT với chức năng KSXX nhưng đã quy định khái quát và đầy đủ những nhiệm vụ quyền hạn cơ bản của công tác THQCT và KSXX hình sự. 1.4.1.3. Từ năm 1980 đến năm 1992 Sau khi thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980. So với Hiến pháp năm 1959 thì vị trí, vai trò của VKSND đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới. Điều 138 nhấn mạnh chức năng THQCT và đề cao vai trò, trách nhiệm của Viện trưởng VKSNDTC, xác định nguyên tắc pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước. Cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức VKSND năm 1981 đã dành 1 chương riêng (Chương IV với tên gọi "Công tác KSXX", gồm 3 điều từ Điều 12 đến Điều 14) quy định VKSND có các quyền: tham dự việc trù bị,
  • 46.
    47 tham gia tốtụng tại phiên tòa của TAND cùng cấp, trong phiên tòa hình sự, KSV đọc Cáo trạng và Luận tội; yêu cầu TAND cùng cấp chuyển hồ sơ những vụ án cần thiết cho công tác KSXX; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật… So với Luật tổ chức VKSND năm 1960, Luật tổ chức VKSND năm 1981 (sửa đổi bổ sung năm 1989) đã quy định cụ thể hơn, rõ ràng hơn về công tác THQCT và KSXX hình sự. Luật tổ chức VKSND năm 1992 vẫn giữ nguyên các chức năng, nhiệm vụ của VKSND nhưng phạm vi đối tượng thực hiện chức năng của VKS có sự thu hẹp. Trong lĩnh vực kiểm sát chung chỉ tập trung vào kiểm sát văn bản, chỉ tiến hành kiểm sát hành vi khi phát hiện vi phạm có vi phạm pháp luật (Điều 8, Điều 9). Ngoài ra, VKSND còn có nhiệm vụ trực tiếp điều tra tội phạm trong những trường hợp do pháp luật tố tụng hình sự quy định. 1.4.1.4. Theo pháp luật hiện hành Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong đó có sự điều chỉnh về chức năng của VKSND bỏ chức năng kiểm sát chung. Tại điều 137, Hiến pháp 1992 quy định chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân với hai chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Tại kỳ họp thứ 11 ngày 02/4/2002, Quốc Hội đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 2002, tiếp tục khẳng định VKSND có hai chức năng cơ bản nhưng đã nhấn mạnh chức năng THQCT nên đã đưa lên trước, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật không tiến hành trên các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội như trước đây nữa mà chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của công tác THQCT và KSXX hình sự của VKSND được quy định tại Chương III Luật tổ chức VKSND năm 2002, với 4 điều (từ Điều 16 đến Điều 19) đã quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS: có trách nhiệm THQCT, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử hình sự, nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
  • 47.
    48 1.4.2. Cơ quanViện kiểm sát ở một số nước trên thế giới Nghiên cứu các mô hình VKS hay Viện công tố một số nước trên thế giới để giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về chức năng, nhiệm vụ của VKS trên thế giới. Theo Luật tổ chức VKS Liên bang Nga được công bố ngày 17/11/1995, đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các năm 1999, 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005 thì VKS Liên bang Nga có chức năng duy nhất là "kiểm sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật có hiệu lực trên lãnh thổ Liên bang Nga" (Điều 1). Kiểm sát việc tuân theo pháp luật các bộ, các ủy ban, cơ quan ngang bộ…; kiểm sát việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Cơ quan điều tra ban đầu, cơ quan truy tìm và Cơ quan điều tra trong hoạt động nghiệp vụ theo chức năng đã quy định; …; thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự theo chức năng đã được quy định trong các văn bản tố tụng hình sự của Liên bang Nga… [36]. Liên bang Nga là nước đặc trưng cho kiểu tố tụng thẩm vấn đan xen tranh tụng. Trước đây, THQCT chỉ là một nhiệm vụ để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của VKS Liên bang Nga thì giai đoạn hiện nay Nga cũng đặt chức năng THQCT lên hàng đầu. Điều 129 Hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: VKSND Trung Hoa là cơ quan giám sát việc tuân theo pháp luật. VKSND Trung Hoa có nhiệm vụ trấn áp tất cả các mối đe dọa, tấn công, phá hoại đất nước... và truy tố tội phạm… VKSND còn có nhiệm vụ giáo dục nhân dân... tuân thủ nhất quán Hiến pháp, pháp luật và đấu tranh với mọi hoạt động trái pháp luật… Theo đó, VKSND Trung Hoa có các quyền hạn: kiểm sát các vụ án đe dọa và tấn công phá hoại đất nước... điều tra các vụ án tham nhũng, các hành vi vô trách nhiệm trong thực hiện chức năng của nhà nước, các vụ án xâm hại đến các quyền khác của công dân... thực hiện quyền công tố trong các vụ án hình sự và giám sát việc tuân thủ pháp luật các phiên tòa của TAND; giám sát việc tuyên án và áp dụng hình phạt của các TAND trong các vụ án hình sự, khi phát hiện có sai sót phải kháng nghị yêu cầu
  • 48.
    49 sửa chữa... Trongnhững năm gần đây, Trung Quốc quan tâm và chú trọng đến chức năng "thực hành quyền công tố" trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh chức năng công tố VKSND Trung Hoa vẫn duy trì chức năng kiểm sát như: kiểm sát thủ tục tố tụng, kiểm sát việc khởi tố điều tra, kiểm sát và phê chuẩn quyết định tạm giam chờ xét xử, kiểm sát hoạt động điều tra, xem xét yêu cầu truy tố của CQĐT.... Cơ quan VKS Hoàng gia Anh là cơ quan truy tố quốc gia, cơ quan độc lập thống nhất trên toàn quốc và thuộc nhánh quyền hành pháp. Đối với việc xét xử, VKS có trách nhiệm tham gia xét xử sơ bộ tại Tòa án cơ sở nhằm bảo đảm vụ án đủ điều kiện xét xử tại Hoàng gia với sự tham gia của Bồi thẩm đoàn. Nếu đủ điều kiện thì VKS sẽ quyết định truy tố ra Tòa án đồng thời có trách nhiệm bảo vệ quyết định truy tố của mình và chứng minh tội phạm. Khi kết thúc phiên tòa nếu nhận thấy việc xét xử không đúng hoặc liên quan đến vấn đề áp dụng pháp luật thì có quyền kháng nghị lên Tòa án tối cao. Như vậy, VKS Hoàng gia Anh chỉ thực hiện chức năng "công tố" mà không có chức năng "kiểm sát". Theo các nước có truyền thống án lệ và Mỹ, Văn phòng công tố không có vai trò giám sát, chỉ đạo hoạt động điều tra mà chỉ có vai trò "Luật sư" hướng dẫn và tư vấn pháp luật cho cảnh sát. Văn phòng công tố có thẩm quyền: tiến hành các cuộc điều tra của bồi thẩm đoàn, quyết định về các cáo trạng hình sự... Tại tòa, Công tố viên có trách nhiệm buộc tội và tranh luận bình đẳng với Luật sư. Nếu Tòa tuyên bị cáo không có tội thì Viện công tố không được kháng nghị bản án của Tòa án mà chỉ có quyền lưu ý về các chứng cứ, tài liệu về sự vô tội của bị cáo. Đặc biệt, Viện công tố Hoa kỳ, có quyền "tùy nghi truy tố" kể cả khi chứng cứ đầy đủ. Đây là quyền lực rất lớn của Viện công tố Hoa Kỳ. Những nước theo truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa điển hình như Pháp, Đức, Italia theo mô hình tố tụng tranh tụng. Viện công tố Pháp không phải là cơ quan nhân danh nhà nước để phán quyết như Tòa án mà là cơ quan có thẩm quyền buộc tội, bảo vệ các lợi ích của xã hội và công dân, giám sát sự tuân thủ pháp luật, trật tự công cộng, đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong cả nước. Viện công tố có quyền tùy nghi rất lớn trong việc quyết định truy tố. Tại phiên tòa Công tố
  • 49.
    50 viên có quyềntự do ngôn luận. Đối với Italia, từ những năm 1913 đến năm 1929 mô hình Viện công tố ảnh hưởng mạnh mẽ của Pháp. Từ năm 1930 đến năm 1988 chuyển sang mô hình tố tụng thẩm vấn. Từ năm 1988 đến nay lại chuyển sang mô hình tố tụng đan xe giữa tranh tụng và thẩm vấn chủ yếu là thẩm vấn. Công tố viên có trách nhiệm chứng minh tội phạm, chỉ đạo hoạt động điều tra, giám sát hoạt động điều tra do cảnh sát thực hiện; độc lập trong hoạt động tố tụng, đại diện cho nhà nước trong các phiên tòa hình sự. Ở Nhật Bản, Viện công tố chỉ thực hiện chức năng công tố mà không có chức năng kiểm sát. Cơ quan công tố Australia có chức năng THQCT tại phiên tòa hình sự và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Hoạt động của Cơ quan công tố hoàn toàn độc lập với hoạt động điều tra của cảnh sát. Việc tranh tụng tại phiên tòa tuyệt đối tuân theo quy tắc về chứng cứ. Viện công tố Indonesia nằm trong nhánh hành pháp. Viện công tố có quyền quyết định và tiến hành việc truy tố hình sự, có quyền đạo diện cho Nhà nước và Chính phủ trong các vấn đề dân sự hành chính và tư vấn pháp luật cho các cơ quan nhà nước, có trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm tham nhũng của Chính phủ. Tại Hàn Quốc, công tố viên có quyền đại diện cho quyền lợi công như: điều tra tội phạm, khởi tố và thực hiện những công việc cần thiết liên quan đến việc chứng minh tội phạm và thực hiện việc buộc tội; hướng dẫn và giám sát cảnh sát trong việc điều tra tội phạm; bảo vệ quyền con người trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự…. Qua nghiên cứu pháp luật của một số nước thấy mỗi mô hình cơ quan Công tố trên thế giới đều có những ưu khuyết điểm nhất định. Dù ở mô hình nào thì tất cả các cơ quan công tố trên thế giới đều thực hiện chức năng chính và chủ yếu là công tố. Những nước trong hệ thống các nước XHCN trước đây vẫn duy trì hai chức năng, THQCT và KSHĐTP. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm khác nhau và dựa trên cơ sở nền chính trị của mỗi quốc gia hoặc trong cùng một quốc gia ở những giai
  • 50.
    51 đoạn khác nhauthì chức năng, nhiệm vụ cơ quan Công tố cũng có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. VKS của chúng ta cũng không ngoại lệ. Trải qua hơn 50 năm thực hiện chức năng nhiệm vụ, VKS của chúng ta cũng đã có sự thay đổi cơ bản về chức năng nhiệm vụ: từ những năm mới thành lập nhà nước, tuy chưa có VKS nhưng chức năng công tố đã được giao cho một bộ phận của Tòa án là "Công tố viện". Đến những năm 1960, chúng ta tiếp thu và ảnh hưởng của hệ thống các nước XHCN VKS đã ra đời với chức năng chủ yếu là kiểm sát, trong đó THQCT chỉ là một hoạt động để thực hiện chức năng kiểm sát. Sau này, chúng ta học tập kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ thực tiễn của đất nước trong tiến trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy chức năng công tố giữ vai trò quan trọng đối với cơ quan VKS. Đảng đề chủ trương "nghiên cứu chuyển đổi mô hình cơ quan Viện kiểm sát sang Viện công tố", sự chuyển đổi này sẽ kéo theo sự thay đổi cơ bản về chức năng nhiệm vụ của VKS. Tuy nhiên trong thời gian hiện nay, VKS vẫn thực hiện hai chức năng THQCT và KSHĐTP. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Bằng phương pháp tổng hợp, phân tích lý luận, nghiên cứu lịch sử, luận văn đã làm sáng tỏ ở bình diện khoa học vị trí, vai trò, chức năng của VKSND trong hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Luận văn đã khái quát được các khái niệm về THQCT, KSHĐTP, Cáo trạng, Luận tội... trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ đó nêu lên những nhiệm vụ cụ thể trong từng khâu công tác phải thực hiện, trách nhiệm của VKS cụ thể là KSV trong giai đoạn này. Luận văn tiến hành xác định phạm vi, giới hạn của hoạt động THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đồng thời luận văn cũng nêu và so sánh chức năng nhiệm vụ của VKS nước ta với VKS hoặc Viện công tố một số nước trên thế giới để tìm ra những ưu điểm, hạn chế của từng mô hình để nghiên cứu, vận dụng, kế thừa những thành tựu của thế giới vào điều kiện nước ta.
  • 51.
    52 Chương 2 THỰC TIỄNTHỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.1. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 2.1.1.1. Tình hình kinh tế, chính trị Hải Phòng - thành phố Cảng, cửa ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, đường ra biển ngắn nhất và thuận lợi nhất của Thủ đô Hà Nội. Hải Phòng nằm phía Đông Bắc miền Duyên hải Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km, có diện tích 152.300 ha, chiếm 0,45% diện tích tự nhiên của cả nước (theo số liệu thống kê năm 2001). Hải Phòng là trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ; có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng của vùng Duyên hải Bắc bộ; là thành phố ven biển thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Về ranh giới hành chính: phía Bắc giáp Quảng Ninh, phía Tây giáp Hải Dương, phía Nam giáp Thái Bình, phía Đông giáp Biển Đông dài khoảng 300 km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam từ phía Đông đảo Cát Hải đến cửa sông Thái Bình. Hải Phòng có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, có 7 quận (Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền, Kiến An, Hải An, Dương Kinh, Đồ Sơn), có 8 huyện (An Lão, An Dương, Bạch Long Vĩ, Cát Hải, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Thủy Nguyên, Vĩnh Bảo). Với số lượng dân cư là 1.852.700 người, trong đó có khoảng 863.000 người sinh sống ở thành thị, 990.000 người sinh sống ở nông thôn (theo số liệu thống kê năm 2009). Mật độ dân cư bình quân 1207 người/km2 . Thành phố Hải Phòng là đô thị trung tâm loại I cấp quốc gia, một trong ba đỉnh của tam giác kinh tế trọng điểm miền Bắc (Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh);
  • 52.
    53 là đầu mốigiao thông quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam - Trung Quốc, có cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ, có cảng biển, có sân bay và mạng lưới giao thông khá đồng bộ: các tuyến đường quốc lộ, đường sắt, đường biển là những mạch máu chính gắn kết quan hệ toàn diện của Hải Phòng với các tỉnh khác trong nước và quốc tế; có môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi. Hải Phòng đẩy mạnh việc phát triển công nghiệp sản xuất, sản phẩm xuất khẩu và kinh tế biển. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng về sự phát triển của Hải Phòng trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước (từ năm 2001 - 2010), thành phố đã đạt được những kết quả như sau: Về kinh tế: thành phố phát triển tương đối toàn diện, tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục được nâng lên. Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, năng lực cạnh tranh của thành phố được nâng lên. Tốc độ tăng GDP bình quân gấp gần 1,5 lần mức tăng bình quân chung của cả nước; GDP bình quân đầu người đạt 1.070 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng. Công nghiệp tiếp tục giữ vai trò chủ lực, góp phần quan trọng hàng đầu vào tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, thu hút lao động; tạo điều kiện thúc đẩy phát triển dịch vụ, đô thị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế dịch vụ phát triển đa dạng, đúng định hướng, chất lượng và hiệu quả được nâng lên. Hoạt động thương mại phát triển khá nhanh và toàn diện. Du lịch có bước phát triển khá, cơ sở hạ tầng du lịch được đầu tư, thêm nhiều khách sạn, nhà hàng, nhiều công trình văn hóa lịch sử được tôn tạo. Bưu chính, viễn thông tiếp tục phát triển mạnh. Kinh tế nông nghiệp chuyển dịch nhanh hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về văn hóa - xã hội: có chuyển biến tích cực tiến bộ, gắn với phát triển kinh tế, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giáo dục và đào tạo phát triển khá toàn diện, nguồn nhân lực phát triển cả về số lượng và chất lượng. Sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân có chuyển biến tiến bộ. Phòng, chống, dập tắt kịp thời các loại dịch bệnh. Thực hiện chính sách xã hội, giải quyết vấn đề bức xúc và thực hiện công bằng xã hội được quan tâm, có tiến bộ rõ trên nhiều mặt. Công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội tiếp tục được tăng cường. Quốc phòng - an
  • 53.
    54 ninh được củngcố và tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định và giữ vững. Hệ thống chính trị được xây dựng vững chắc, hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn tình trạng thực hiện chính sách xã hội, chính sách kinh tế, giáo dục... chưa thực sự công bằng, khách quan nên việc người dân bức xúc khiếu kiện, khiếu nại kéo dài vẫn còn nhiều. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tội phạm ở Hải Phòng gia tăng. Là cửa ngõ giao thông kết nối với nhiều tỉnh thành và các nước trên thế giới, Hải Phòng cũng là một trong những điểm nóng về tội phạm có vũ khí hiện đại, nguy hiểm trong cả nước. 2.1.1.2. Tình hình tội phạm Về tình hình an ninh tôn giáo ở Hải Phòng nhìn chung hoạt động đúng pháp luật, không để xảy ra diễn biến phức tạp. Giáo hội, Phật giáo tổ chức các hoạt động tham gia Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc năm 2008 theo nghi lễ tôn giáo. An ninh nông thôn, đô thị còn một số điểm khiếu kiện về quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng nhưng đã được tập trung giải quyết, không phát sinh điểm nóng về khiếu kiện. Số lượt công dân khiếu kiện vượt cấp lên thành phố, Trung ương có chiều hướng giảm dần. Theo báo cáo của VKSNDTP Hải Phòng [60], trong thời gian qua, tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp. Năm 2003 khởi tố 1686 vụ án hình sự tăng 94 vụ bằng 5,9% so với năm 2002; năm 2004 khởi tố là 1704 vụ, tăng 18 vụ bằng 1% so với năm 2003; năm 2005 khởi tố là 1733 vụ, tăng 29 vụ bằng 1,67% so với năm 2004; năm 2006 khởi tố là 1834 vụ, tăng 101 vụ bằng 5,8% so với năm 2005; năm 2007 khởi tố là 1644 vụ, giảm 190 vụ bằng 10,3% so với năm 2006; năm 2008 khởi tố là 1661 vụ, tăng 17 vụ bằng 1% so với năm 2007; năm 2009 khởi tố 1480 giảm 181 vụ bằng 10,8% so với năm 2008, năm 2010 khởi tố: 1384 vụ giảm 96 vụ bằng 9% so với năm 2009; năm 2011 khởi tố 1497 vụ tăng 113 vụ so với năm 2010. Trong đó, nhiều loại tội phạm nguy hiểm tăng như các tội phạm về ma túy, giết người, hiếp dâm trẻ em, cướp tài sản và các tội gây rối trật tự công cộng, hủy hoại tài sản gây hậu quả nghiêm trọng. Hình thức phạm tội của các đối tượng ngày càng tinh vi hơn, sử dụng các loại vũ khí nguy hiểm đặc biệt là nhiều loại vũ khí do Trung Quốc sản xuất
  • 54.
    55 được lưu hànhtrái phép trên địa bàn thành phố nhưng qua công tác giám định lại không phải là vũ khí quân dụng: col xoay, col bas... Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm hơn, có nhiều đối tượng đồng phạm hơn... Tội phạm về an ninh quốc gia: đã phát hiện khởi tố 1 vụ, đối tượng đã thực hiện hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Mặc dù án hình sự về an ninh quốc gia phát hiện và xử lý ít, nhưng các cơ quan chức năng đã phát hiện nhiều tài liệu trên mạng Internet vu khống nhà nước ta vi phạm nhân quyền, dân chủ với những âm mưu, thủ đoạn tinh vi. Tội phạm về ma túy: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2007 có chiều hướng giảm, nhưng đến năm 2008 có chiều hướng gia tăng; chủ yếu là tội mua bán, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép chất ma túy. Năm 2009 giảm 7,2% so với năm 2008; năm 2010 tăng 2% so với năm 2009; năm 2011 tăng 12,7% so với năm 2010. Tuy số lượng các vụ án ma túy lớn có giảm nhưng chủ yếu tập trung vào các chất ma túy mới, ma túy tổng hợp sử dụng trong các nhà nghỉ, vũ trường ngày càng gia tăng; các loại ma túy lá, cây khô (cần sa, tài mà…) cũng được sử dụng rộng rãi hơn ở các quán bar, vũ trường, hộp đêm, nhà nghỉ… Tội phạm về lĩnh vực trật tự xã hội: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2006 có chiều hướng tăng, nhưng đến năm 2007 và năm 2008 có chiều hướng giảm; năm 2009 tăng không đáng kể so với năm 2008, năm 2010 tăng 10% so với năm 2009; năm 2011 giảm 0,2% so với năm 2010 chủ yếu là tội Giết người, Hiếp dâm trẻ em, Chứa mại dâm, Cố ý gây thương tích, Đánh bạc với quy mô lớn, Gây rối trật tự công cộng, Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ. Đặc biệt trong năm 2010, 2011 tội phạm chống người thi hành công vụ (lực lượng cảnh sát giao thông…) trên địa bàn thành phố gia tăng. Một số loại tội phạm tiếp tục có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp cả về tính chất, mức độ, thủ đoạn phạm tội...nhiều vụ án gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Điển hình là vụ Nguyễn Dũng Giang phạm tội Giết người, các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em gia tăng. Trong năm 2011 xảy ra vụ án vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy gây hậu quả đau thương, tang tóc làm 13 người chết, 25 người bị bỏng nặng và thiệt hại khoảng 800 triệu đồng.
  • 55.
    56 Tội phạm vềkinh tế, chức vụ: Số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2010 có chiều hướng giảm; năm 2011 đã khởi tố 07 vụ án tham nhũng tăng vọt so với các năm trước. Các hành vi phạm tội chủ yếu trong lĩnh vực tài chính, đất đai...về các tội Tham ô, Lợi dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng, Lưu hành tiền giả, Buôn bán hàng hóa qua biên giới, Trốn thuế, Vi phạm các quy định về quản lý đất đai… Điển hình là vụ Vi phạm quản lý nhà nước về đất đai ở Đồ Sơn và xã Tú Sơn- Kiến Thụy. Tội phạm về sở hữu: có biểu hiện phức tạp, số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2007 có chiều hướng giảm, nhưng đến năm 2008 có chiều hướng tăng; năm 2009 giảm 18,4% so với năm 2008; năm 2010 giảm 17,9% so với năm 2009; năm 2011 tiếp tục giảm 8,4% so với năm 2010 chủ yếu là tội Cướp, Trộm cắp, Lừa đảo tài sản… Đặc biệt chú ý là tình trạng cướp tài sản trong container, cướp xe taxi trên đường bỏ trốn gây tai nạn giao thông với hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Xuất hiện các phương thức thủ đoạn phạm tội mới, người phạm tội lợi dụng hoạt động tạm nhập, tái xuất hàng hóa thông qua cửa khẩu cảng Hải Phòng để vận chuyển ngà voi, gỗ quý, thuốc lá ngoại... Tội phạm về hoạt động tư pháp: số vụ án đã phát hiện khởi tố từ năm 2003 đến năm 2011 có số lượng ít và có chiều hướng giảm; chủ yếu là tội Trốn khỏi nơi giam; năm 2010 có 01 vụ buôn lậu, đưa và nhận hối lộ. Xuất phát từ đặc điểm vị trí địa lý, quá trình hình thành và phát triển của thành phố Hải Phòng là nơi thường xuyên tiếp xúc, giao thoa với nhiều vùng miền qua hệ thống cảng biển; đường bộ, đường không nên đây cũng là điều kiện để phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm. Tổng số án thụ lý hàng năm của VKS TP Hải Phòng (khoảng 2000 vụ/năm) chiếm từ 3,3% đến 4 % số lượng án cả nước (từ 50.000 vụ đến 60.000 vụ/ năm) (xem bảng 2.1, 2.2 phụ lục 1). Đặc trưng của tội phạm ở Hải Phòng là có nhiều băng nhóm hoạt động theo kiểu xã hội đen, thường sử dụng các loại vũ khí nóng, hiện đại để chống trả các lực lượng chính quyền. Vì vậy, nhiều vụ án, xuất phát từ việc bảo vệ an ninh chính trị địa phương, chính quyền các cấp cũng có sự chỉ đạo, can thiệp để tăng cường bảo vệ an ninh nội bộ. Đây
  • 56.
    57 cũng là mộttrong những áp lực và yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát. Việc đưa những vụ án điểm, đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp ra xét xử lưu động để tăng tính tuyên truyền, giáo dục pháp luật thì chính bản thân những người tiến hành tố tụng lại bị đe dọa bởi chính những phần tử xấu có liên quan đến các bị cáo trong vụ án. Có những vụ án, các KSV, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải được bảo vệ 24/24 trong suốt thời gian xét xử hoặc thậm chí hết thời hạn kháng cáo của các bị cáo (ví dụ vụ án giết người tại cây xăng Đông Á). Để hoàn thành được nhiệm vụ đòi hỏi những người tiến hành tố tụng nói chung và KSV nói riêng phải có bản lĩnh nghề nghiệp. 2.1.1.3. Tổ chức Viện kiểm sát Hải Phòng Cùng với sự ra đời của hệ thống VKSND của nước ta, VKSND thành phố Hải Phòng được thành lập từ năm 1960. Hiện nay, tổ chức bộ máy của VKSND thành phố Hải Phòng có 12 phòng nghiệp vụ, gồm: Phòng THQCT, kiểm sát điều tra, KSXX sơ thẩm án kinh tế, chức vụ (Phòng 1); Phòng THQCT, kiểm sát điều tra, KSXX sơ thẩm án trật tự trị an xã hội (Phòng 1A); Phòng THQCT, kiểm sát điều tra, KSXX sơ thẩm án an ninh, ma túy (Phòng 2); Phòng THQCT, KSXX phúc thẩm, giám đốc, tái thẩm án hình sự (Phòng 3); Phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù (Phòng 4); Phòng kiểm sát việc giải quyết án dân sự (Phòng 5); Phòng kiểm sát việc khiếu tố (Phòng 7); Phòng tổ chức cán bộ (Phòng 9); Phòng kiểm sát thi hành án dân sự (Phòng 10); Phòng kiểm sát việc giải quyết các vụ án kinh tế, lao động, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật (Phòng 12); Văn phòng tổng hợp; Phòng Thống kê tội phạm và 15 VKS quận, huyện. Các VKS quận, huyện cơ cấu tổ chức gồm ba bộ phận công tác: bộ phận kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và THQCT, kiểm sát điều tra, KSXX án hình sự (bộ phận hình sự); bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, lao động, kinh doanh, thương và các việc khác theo quy định của pháp luật, kiểm sát thi hành án (bộ phận dân sự) và bộ phận Văn phòng tổng hợp, thống kê tội phạm và khiếu tố (văn phòng tổng hợp). Tính đến ngày 30/11/2011, VKS Hải Phòng có 294 người làm việc. Về trình độ chuyên môn có 01 người là tiến sĩ, 02 người là Thạc sĩ đang nghiên cứu
  • 57.
    58 sinh, 30 ngườilà Thạc sĩ luật hoặc đang theo học cao học, 247 người là Cử nhân luật và các chuyên ngành khác, 4 người tốt nghiệp Cao đẳng Kiểm sát, 3 người tốt nghiệp Trung cấp, văn thư lưu trữ. Về trình độ chính trị: 16 người tốt nghiệp Cử nhân hoặc Cao cấp chính trị, 95 người tốt nghiệp Trung cấp hoặc tương đương. Ở cấp tỉnh: 1 người là Viện trưởng - phụ trách chung, 3 người là Phó Viện trưởng phụ trách nghiệp vụ, 44 người là KSV cấp tỉnh, 10 người là KSV cấp huyện, 25 người là Kiểm tra viên, chuyên viên, cán sự, kế toán, 11 người là nhân viên hợp đồng. Ở cấp huyện: 15 người là Viện trưởng VKSND cấp huyện, 23 người là Phó Viện trưởng, 7 KSV trung cấp, 96 người là KSV cấp huyện, 98 người là Kiểm tra viên, chuyên viên, kế toán... Khác với giai đoạn điều tra, tất cả các KSV, cán bộ, chuyên viên, kiểm tra viên điều có thể làm công tác THQCT và kiểm sát hoạt động điều tra thì giai đoạn xét xử sơ thẩm chỉ có KSV - những người có chức danh tư pháp mới có quyền THQCT và KSXX tại phiên tòa. Theo Pháp lệnh KSV quy định KSV sơ cấp chưa được tham gia xét xử nên số lượng KSV trung cấp THQCT và KSXX tại phiên tòa rất ít. Với số lượng 30 người làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở cấp tỉnh chỉ có 13 người THQCT, KSXX sơ thẩm. Còn ở cấp huyện, thì các KSV đều tham gia phiên tòa nhưng những KSV giữ chức vụ Viện trưởng, Phó viện trưởng rất ít khi tham gia phiên tòa. Với số lượng 156 người làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự ở cấp huyện chỉ có 50 KSV THQCT và KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự. Trong số này chưa tính số lượng KSV chỉ chuyên làm án dân sự không làm án hình sự như VKS Hồng Bàng, An Lão, An Dương… thì con số thực tế KSV THQCT KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự ở cấp huyện còn thấp hơn nữa. Do vậy, số lượng các vụ án hình sự đưa ra xét xử hàng năm rất nhiều nên khối lượng công việc của các KSV trực tiếp THQCT, KSXX sơ thẩm vụ án hình sự rất lớn. Thời gian qua, VKSND TP Hải Phòng thường xuyên rà soát, kiện toàn số cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự; thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo tại chỗ dưới các hình thức hội thảo chuyên sâu để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các KSV. Bên cạnh đó,
  • 58.
    59 các đơn vịVKS cấp huyện cũng tự tổ chức các buổi học tập rút kinh nghiệm qua thực tiễn giải quyết các vụ án, học tập các văn bản pháp luật... vào buổi giao ban hàng tuần như VKS Lê Chân, Hồng Bàng… đã góp phần giúp các KSV tự học hỏi lẫn nhau, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót trong quá trình xét xử. Đến nay chất lượng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở VKS quận, huyện đã được nâng lên, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, do trình độ, khả năng và năng lực chuyên môn giữa các KSV chưa có sự đồng đều nên chất lượng một số phiên tòa hình sự chưa thực sự đảm bảo, vẫn còn nhiều phiên tòa chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc phân công, bố trí nhân lực giữa các đơn vị quận huyện chưa thực sự hợp lý, công tác luân chuyển cán bộ thực hiện chưa quyết liệt nên chưa tạo sự năng động cho các KSV… Nhằm đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất cho hoạt động công tác kiểm sát từ năm 2006 đến năm 2011 toàn ngành đã xây dựng được nhiều trụ sở làm việc mới, được trang bị mới nhiều máy tính và máy phôtô, máy fax, máy ghi hình, máy chụp ảnh và nhiều trang thiết bị khác. Đáng chú ý là toàn ngành đã tập trung ưu tiên cho việc đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin, liên lạc, đến nay đã ứng dụng thành công nhiều phần mềm như: quản lý án hình sự, hộp thư điện tử, quản lý công văn… phục vụ có hiệu quả cho công tác lãnh đạo, điều hành của VKS. 2.1.2. Thực trạng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng Theo báo cáo của VKSND TP Hải Phòng, hàng năm VKS thụ lý kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử hàng nghìn vụ án hình sự (xem bảng 2.2 phụ lục 1). 2.1.2.1. Giai đoạn chuẩn bị xét xử VKS chuyển hồ sơ vụ án cùng bản Cáo trạng truy tố bị can sang tòa án là thời điểm mở đầu cho giai đoạn chuẩn bị xét xử. Trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này là kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với các bị cáo; kiểm sát việc ra các quyết định của Tòa án có đúng quy định pháp luật hay không. Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án và phối hợp với Tòa án cụ thể là Thẩm phán chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc mở phiên tòa đặc
  • 59.
    60 biệt là nhữngvụ án đưa ra xét xử lưu động, án điểm, án mẫu hoặc án bị cáo, bị hại là người chưa thành niên có nhược điểm về thể chất, tâm thần… - Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: thông thường các bị cáo sẽ vẫn tiếp tục được áp dụng biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng ở giai đoạn truy tố (Ví dụ: CQĐT, VKS áp dụng biện pháp tạm giam, sang giai đoạn chuẩn bị xét xử Tòa án vẫn tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam; hoặc CQĐT, VKS áp dụng biện pháp ngăn chặn khác: bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú thì sang Tòa án vẫn tiếp tục duy trì áp dụng biện pháp này). Rất hiếm trường hợp Tòa án thay đổi biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử nhất là biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo, cấm đi khỏi nơi cư trú. Đặc biệt đối với biện pháp đặt tiền hoặc tài sản đảm bảo ở Hải Phòng chưa áp dụng đối với 01 bị can nào trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Biện pháp này được quy định trong BLTTHS 2003 nhưng đến nay gần 10 năm trôi qua hầu như không được áp dụng trên thực tiễn. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chưa có văn bản pháp luật quy định số lượng tiền cụ thể, loại tội và đối tượng có thể áp dụng. Các CQTHTT còn e ngại trong việc áp dụng biện pháp này. Do vậy, hầu như quy định này được xem như quy định "treo" của luật. Đây là tình trạng chung của cả nước không riêng Hải Phòng. Về thời hạn tạm giam, Tòa án duy trì thường đúng quy định pháp luật, không để xảy ra quá hạn tạm giam. Theo quy định tại Nghị Quyết số 04/2004 ngày 05/11/2004 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP)- TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định về "xét xử sơ thẩm" quy định việc kéo dài thời hạn tạm giam cho đến khi xét xử vụ án xong. Việc áp dụng lệnh tạm giam vô thời hạn này của Tòa án cũng rất hiếm khi áp dụng, đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, đặc biệt phức tạp, đông bị can... mới áp dụng loại lệnh giam này (ví dụ vụ án giết người tại cây xăng Đông Á, vụ chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng ở Ngô Quyền...). Theo quy định tại điều 176 BLTTHS, trong thời gian chuẩn bị xét xử Tòa án có thể ban hành các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án:
  • 60.
    61 BLTTHS quy địnhnhiều căn cứ để Tòa án có thể tiến hành ra các quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ xét xử đối với vụ án. Nhưng thực tiễn tại Hải Phòng, các Tòa án tiến hành ra quyết định đình chỉ xét xử khi bị cáo chết, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố, bị can không có năng lực trách nhiệm hình sự... Tạm đình chỉ vụ án khi bị cáo tại ngoại chốn, hoặc khi chưa có kết luận của cơ quan chuyên môn về vấn đề cụ thể trong vụ án (ví dụ: kết luận giám định về tình trạng bệnh lý của bị can như mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm giảm hoặc mất khả năng nhận thức của bị cáo...). Việc trả hồ sơ giữa các CQTHTT là việc làm bình thường được quy định tại các điều 166, 176 BLTTHS nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, do nhận thức khác nhau về việc trả hồ sơ giữa các CQTHTT đặc biệt là Tòa án và VKS về những chứng cứ quan trọng trong vụ án nên tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung vẫn còn nhiều. Theo quy chế phối hợp giữa hai ngành thì các bên phải trao đổi với nhau trước khi tiến hành trả hồ sơ nhưng đa phần các Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án không trao đổi với VKS mà tiến hành ra quyết định trả hồ sơ ngay. Với quan niệm: không có án trả hồ sơ điều tra bổ sung là thành tích thi đua đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tố tụng và gây khó khăn cho những người tiến hành tố tụng. Mặc dù trong nhiều năm tỷ lệ án trả hồ sơ giảm, nhưng tỷ lệ Tòa án trả đúng vẫn còn cao (xem bảng 2.3- phụ lục 1; phụ lục 2). Nguyên nhân dẫn đến việc trả hồ sơ giữa các CQTHTT là do: tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn thực hiện tội phạm ngày càng tinh vi, nhiều vụ án phạm tội đông bị cáo, các đối tượng phạm tội có tổ chức, kết cấu chặt chẽ mang tính chất bang, nhóm làm cho việc điều tra xác minh thu thập chứng cứ gặp khó khăn. Một số điều luật quy định tội ghép của BLHS miêu tả các hành vi khách quan và cấu thành đặc trưng của tội phạm chưa cụ thể, không rõ ràng làm cho việc nhận thức và vận dụng còn chưa thống nhất. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm và thiếu. Ảnh hưởng của Nghị Quyết 388/2003/ NQ- UBTVQH về Bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra làm cho tâm lý một số ĐTV, KSV, Thẩm phán quá thận trọng trong đấu
  • 61.
    62 tranh, xử lýtội phạm, né tránh để trả hồ sơ dù cho lý do không xác đáng. Mặt khác, trình độ chuyên môn, năng lực nghiệp vụ của KSV trong hoạt động kiểm sát điều tra còn yếu, việc xác định tội danh, phân tích, tổng hợp đánh giá chứng cứ chưa chính xác. Việc nhận thức pháp luật giữa các KSV, Thẩm phán còn chưa thống nhất, đồng đều. Ý thức trách nhiệm của KSV trong việc thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế; thiếu chủ động, không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để phát hiện những sai sót, chưa đề ra yêu cầu điều tra cụ thể, chưa làm tốt việc kiểm sát kết thúc điều tra dẫn đến tình trạng hồ sơ chuyển sang VKS đề nghị truy tố hoặc truy tố chuyển Tòa mới phát hiện thiếu sót. Việc xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi khác liên quan đến vụ án, gặp gỡ các bị can bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử rất ít khi diễn ra trên thực tế. Vì đa số các vụ án thuộc trường hợp này VKS rất cẩn trọng trong suốt quá trình điều tra đến khi truy tố. Các KSV làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, ít để xảy ra sai sót đến thời điểm này mới khắc phục. Tuy nhiên, về mặt pháp luật BLTTHS không quy định cụ thể các trường hợp này mà chỉ được quy định trong Quy chế nghiệp vụ của ngành nên tính pháp lý không cao. Khi đã chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án là quyền hạn của VKS trong việc trích xuất bị can không còn, những trường hợp này đa phần các bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Khi giao cáo trạng, VKS đã có lệnh trích xuất bị can ghi rõ lý do. Trình tự thủ tục trích phạm nhân ở các Trại giam rất khó khăn, các thông tin xuất nhập trại được cập nhật và thông tin hàng ngày do vậy VKS không thể tự mình trích xuất bị can thực hiện các quyền năng trên được. Thực tiễn tại địa phương, VKS phải phối hợp cùng Tòa án trích xuất bị can thông qua lệnh của Tòa án, Thẩm phán và KSV cùng vào trại tạm giam làm việc. Nếu không có sự phối kết hợp quyền năng này của VKS khó có thể thực hiện được. Tòa án tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án chủ yếu là do bị cáo chết hoặc bị hại rút đơn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm. Các trường hợp đình chỉ đúng quy định pháp luật. Việc tạm đình chỉ xét xử của Tòa án chủ yếu do các bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn xét xử, hoặc tạm đình chỉ để chờ kết quả giám định của cơ quan chuyên môn (chiếm số lượng ít) và hiếm có lý do tạm đình chỉ khác.
  • 62.
    63 Đối với nhữngvụ án phức tạp, đông bị cáo, các bị cáo phạm nhiều tội danh khác nhau, khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ hoặc được dư luận quan tâm, thông thường Thẩm phán sẽ trù bị trước với KSV về việc xử lý các tình huống dự kiến sẽ xảy ra tại phiên tòa, xác định các đối tượng sẽ triệu tập đến phiên tòa, cách thức xét hỏi của Thẩm phán, KSV phù hợp với đặc điểm của vụ án. Ví dụ vụ án Dương Văn Minh nguyên là Phó giám đốc Công ty cổ phần thoát nước và vệ sinh phạm tội sử dụng trái phép tài sản trên địa bàn quận Lê Chân. Vụ án này có 03 Luật sư bào chữa cho bị cáo. Quá trình điều tra, bị cáo và các Luật sư của bị cáo có quan điểm bị cáo không phạm tội vì bị cáo chỉ mượn tư cách pháp nhân của Công ty nên không sử dụng trái phép tài sản, hành vi của bị cáo không gây hậu quả nghiêm trọng nên không cấu thành tội. Dự tính được các tình huống sẽ xảy ra tại phiên tòa, KSV đã trù bị kỹ lưỡng với Thẩm phán về việc mời những đối tượng nào ra phiên tòa, trù bị cách thức xét hỏi, phạm vi xét hỏi... do vậy phiên tòa đã diễn ra rất thành công. Tuy nhiên, không phải Thẩm phán nào cũng thực hiện tốt Quy chế phối hợp này. Ví dụ, có những vụ án nhiều bị can, bị can phạm nhiều tội, nhiều người tham gia tố tụng (vụ gây rối Hồ Sen, Việt Tiệp, vụ Đầm Bầu), khi xét hỏi, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi lần lượt tất cả các bị cáo, các hành vi phạm tội, hỏi những người tham gia tố tụng khác sau đó đến HTND, thời gian hỏi có thể kéo dài cả buổi hoặc cả ngày. Đến khi KSV tham gia xét hỏi làm rõ các tình tiết, chứng cứ khác của vụ án phải nhắc lại một số nội dung đã được Thẩm phán đã xét hỏi tạo nên sự dài dòng, mất thời gian, gây mệt mỏi cho những người tham gia tố tụng và người dự phiên tòa. Trong những trường hợp này Thẩm phán có thể trù bị trước với KSV để thống nhất cách xét hỏi theo phương pháp "cuốn chiếu" đối với từng bị cáo hoặc tội danh. Thậm chí có thể trù bị cả với HTND để tránh hỏi lại những nội dung Thẩm phán đã hỏi. Đối với phiên tòa có bị cáo tại ngoại Thẩm phán không dự kiến trước tình huống bị cáo vắng mặt tại phiên tòa để chuẩn bị phương án áp giải. Có phiên tòa Thẩm phán không trao đổi với cơ quan Công an và Cảnh sát hỗ trợ tư pháp về dự kiến thời gian xét xử nên có phiên tòa khai mạc quá muộn so với thời gian trong quyết định gây tâm lý không tốt đối với những người tham gia tố tụng, thậm chí có nhân chứng, bị hại bỏ về. Cá biệt có trường hợp xử quá giờ (hơn
  • 63.
    64 12h), nên đếngiờ nghị án Cảnh sát bảo vệ tự ý dẫn bị cáo về Trại giam không báo với HĐXX (lý do Trại giam có quy định phải trả phạm nhân trước 12h). Có phiên tòa xét xử lưu động (Vụ án Lê Văn Trường phạm tội cướp tài sản) ở một xã, Thẩm phán không trù bị trước với Cảnh sát bảo vệ về phương án bảo vệ phiên tòa nên các đồng chí Cảnh sát chỉ lưu ý bảo vệ can phạm mà không giữ trật tự phía ngoài tạo nên sự lộn xộn gây ảnh hưởng không nhỏ đến phiên tòa. 2.1.2.2. Giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án gửi đến VKS và tiến hành giao cho những người tham gia tố tụng để họ biết tham gia phiên tòa. Theo quy định tại Điều 178 BLTTHS quy định, nội dung và hình thức của Quyết định đưa vụ án ra xét xử gồm: ngày tháng năm, địa điểm mở phiên tòa, hình thức xét xử, tên của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng, vật chứng kèm theo... Thực tiễn hoạt động kiểm sát, ít khi có quyết định không đúng về hình thức và nội dung nêu trên, các vụ án đều được đưa ra xét xử. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp KSV thiếu trách nhiệm, làm việc qua loa, cẩu thả, không kiểm sát kỹ nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử, đến khi mở phiên tòa Luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo có ý kiến về việc Quyết định đưa ra xét xử đối với bị cáo không nêu rõ hình thức xét xử là kín hay công khai là vi phạm pháp luật tố tụng nên đề nghị Tòa án hoãn phiên tòa tiến hành tống đạt lại quyết định để đảm bảo quyền lợi cho bị cáo (vụ Nguyễn Văn Khánh phạm tội Giết người). Đây là trường hợp kéo dài việc giải quyết vụ án không đáng có. Tương tự như vậy vụ án Nguyễn Văn Hoàng phạm tội Hiếp dâm trẻ em, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người bị hại yêu cầu Tòa án phải đính chính, bổ sung quyết định đưa vụ án ra xét xử nêu rõ hình thức xét xử là xét xử kín để đảm bảo uy tín, danh dự và các quyền lợi ích khác cho người bị hại. Bên cạnh đó, việc xác định tư cách của những người tham gia tố tụng thường không chính xác: ví dụ trong quyết định đưa vụ án ra xét xử một tư cách, ra phiên tòa với tư cách khác hoặc khác so với diễn biến vụ án. Đặc biệt trong các vụ án Chống người thi hành công vụ, việc xác định tư cách tham gia tố tụng người thi hành công vụ (thường là công an, cảnh sát giao thông) là người có quyền lợi nghĩa
  • 64.
    65 vụ liên quanhay là nhân chứng hay cả hai tư cách; hoặc trong vụ án hủy hoại tài sản việc xác định người trông coi quản lý tài sản tư cách là người bị hại hay nhân chứng, chủ sở hữu hợp pháp tài sản là nguyên đơn dân sự hay bị hại... Về vấn đề này vẫn còn nhiều quan điểm đánh giá khác nhau giữa Thẩm phán và KSV. Hoặc trường hợp thay đổi HTND do bận công tác, trong quyết định đưa vụ án ra xét xử tên một người, ra phiên tòa lại là người khác... Theo quy định của pháp luật, phải tống đạt lại cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác để đảm bảo quyền và lợi ích của họ nhưng một số trường hợp các Thẩm phán và KSV tự sửa chữa, thay đổi Quyết định đưa vụ án ra xét xử rồi thông báo cho nhau, không tống đạt lại cho bị cáo. Thậm chí có trường hợp sau khi xét xử xong, đến khi hoàn chỉnh hồ sơ lưu trữ hoặc kiểm tra chuyên môn thì lúc đó mới chỉnh sửa để hợp thức hóa. Tại phiên tòa Thẩm phán cũng hỏi ý kiến của bị cáo về việc thay đổi này, đa phần các bị cáo không có ý kiến mà chấp nhận ngay sự thay đổi này. Việc chấp nhận của bị cáo một phần là do không hiểu biết pháp luật. Việc chuẩn bị đề cương xét hỏi và dự thảo luận tội trong những năm gần đây của các KSV đã có nhiều chuyển biến tích cực. Với quy định lãnh đạo VKS duyệt đề cương xét hỏi, luận tội khi duyệt án xét xử cũng là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng của đề cương xét hỏi và dự thảo luận tội. Đề cương xét hỏi và luận tội sát với nội dung vụ án, gần với diễn biến phiên tòa. Các KSV đã chủ động, tích cực hơn trong hoạt động chuẩn bị xét xử. Tuy nhiên, vẫn còn những đề cương xét hỏi và luận tội mang tính hình thức, cắt dán, copy từ những vụ án giống nhau chỉ thay đổi tên bị cáo, có những đề cương xét hỏi và luận tội giống nhau gần như tuyệt đối. Một số KSV thể hiện sự chủ quan, thiếu thận trọng đối với những vụ án đơn giản, quả tang, chứng cứ rõ ràng, đề cương xét hỏi và luận tội sơ sài chỉ có vài dòng hoặc nảy sinh tâm lý ỷ lại, làm việc qua loa, đại khái vì đã có lãnh đạo duyệt. 2.1.2.3. Tại phiên tòa sơ thẩm a. Thủ tục bắt đầu phiên tòa Việc kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa từ khi Thư ký Tòa án vào phòng xử án, đọc nội quy phiên tòa và kết thúc khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên bố
  • 65.
    66 chuyển sang phầnxét hỏi. Trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này rất quan trọng, ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động, diễn biến của phiên tòa. Nếu phần thủ tục chưa đầy đủ, hoặc thiếu những người tham gia tố tụng có thể ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án KSV có quyền yêu cầu HĐXX hoãn phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Thực tiễn xét xử ở Hải Phòng những năm qua cho thấy, các Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều hành phiên tòa rất có "nghề", trình độ nghiệp vụ cao, chất lượng phiên tòa được nâng lên đáng kể góp phần tăng uy tín của Tòa án nói riêng và các Cơ quan tư pháp nói chung. Tuy nhiên, qua công tác kiểm sát phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, thấy Tòa án (Thẩm phán) còn một số hạn chế sau: không yêu cầu Thư ký và Cảnh sát bảo vệ phiên tòa đảm bảo trật tự phiên tòa trước khi HĐXX vào phòng xử án; không yêu cầu Thư ký phiên tòa thông báo nội quy phiên tòa nên khi người dân đến tham dự phiên tòa đưa cả con nhỏ dưới 3 tuổi vào phòng xử án, khi KSV yêu cầu cho cháu bé ra khỏi phòng xử án thì mẹ của cháu bé phản ứng lại về việc không có quy định nào không cho trẻ em vào phòng xử án. Đây là phiên tòa lưu động, Thư ký tòa án quên không phổ biến nội quy phiên tòa. Lỗi một phần cũng thuộc về KSV. Mặc dù KSV đến sớm nhưng không ở dưới Hội trường xử án mà vào phòng xử án cùng HĐXX nên không kiểm sát được các thủ tục trước khi phiên tòa bắt đầu. Cá biệt có Thẩm phán không yêu cầu Thư ký báo cáo về lý do vắng mặt của những người tham gia tố tụng: nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan... Thẩm phán không hỏi bị cáo, bị hại về vấn đề này mà chỉ hỏi ý kiến KSV và Luật sư. KSV THQCT, KSHĐTP tại phiên tòa phát hiện ra vi phạm tố tụng của Thẩm phán không phản ứng ngay sợ gây phản cảm cho người dân đến tham dự phiên tòa về hình ảnh của những người tham gia tố tụng. Đến phần xét hỏi hoặc tranh luận bị cáo yêu cầu có mặt nhân chứng, lúc đó chủ tọa mới giải quyết. Lỗi một phần thuộc về KSV do thái độ nể nang không kiên quyết trong việc ứng xử tại phiên tòa. Đối với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến muộn, khi phiên tòa đang xét xử (sau phần thủ tục) một số Thẩm phán không kiểm tra căn cước mà dễ dàng chấp nhận, hoặc không giải thích quyền và nghĩa vụ của những người này (ví dụ, vụ Vũ Văn Cường phạm tội Giao cấu với trẻ em). Việc kiểm tra căn cước của
  • 66.
    67 Luật sư thườnggây ra sự căng thẳng giữa Luật sư và Thẩm phán. Cũng có Luật sư chấp nhận nhưng cũng có Luật sư thể hiện thái độ khó chịu, "mặt nặng mày nhẹ" tạo không khí đầy căng thẳng tại phiên tòa. Thậm chí có Luật sư bỏ về không bào chữa cho bị cáo nữa (Luật sư chỉ định). Đây cũng là một trong những quy định chưa có hướng dẫn cụ thể, có nhiều cách hiểu khác nhau giữa các Thẩm phán nên cũng cần có hướng dẫn của các cơ quan liên ngành để tránh những trường hợp không đáng có. Hầu hết các Thẩm phán (cấp huyện) không hỏi ý kiến KSV và những người tham gia tố tụng xem có cần triệu tập nhân chứng hoặc đưa vật chứng, tài liệu xem xét tại phiên tòa hay không. Trong khi đó có Thẩm phán bất kỳ tình huống nào phát sinh cũng hỏi ý kiến KSV: như bị cáo xin được đeo kính vì cận thị, bị cáo xin được ngồi vì bị đau chân…trong trường hợp này Thẩm phán hoàn toàn có thể quyết định ngay mà không cần hỏi ý kiến KSV. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ của một số Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa chuyên nghiệp, làm việc theo lối mòn, thói quen, không tôn trọng những người tiến hành tố tụng, những người tham dự phiên tòa. Ý thức trách nhiệm chưa cao. Bên cạnh đó, KSV cũng có phần trách nhiệm, còn có tâm lý nể nang không nhắc nhở kịp thời, không chủ động can thiệp khi phát hiện Thẩm phán đang sa đà vào vấn đề nào đó, chưa có ý kiến kịp thời về việc điều khiển phiên tòa sót những phần thủ tục quan trọng. Đối với những vụ án không có người dân đến tham dự phiên tòa, cả Thẩm phán và KSV đều có tâm lý làm cho xong nhanh nhanh chóng chóng kết thúc để còn làm việc khác. b. Đọc cáo trạng Mở đầu cho giai đoạn xét hỏi, KSV công bố cáo trạng truy tố đối với bị cáo và các văn bản bổ sung, thay đổi quyết định truy tố nếu có. Trong những năm qua, chất lượng các bản cáo trạng đã được nâng lên, đáp ứng được nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình mới. Việc ban hành Cáo trạng là nhiệm vụ chủ yếu và trọng tâm của VKS nhưng đây lại là nhiệm vụ đặc trưng nhất của giai đoạn truy tố. Ở giai đoạn xét xử, chất lượng cáo trạng cũng phần nào ảnh hưởng đến chất lượng phiên tòa. Bởi nếu cáo trạng xây dựng ngắn gọn, rõ ràng,
  • 67.
    68 súc tích khiKSV công bố người tham dự phiên tòa nghe dễ hiểu, nắm bắt được nội dung cơ bản của vụ án tạo điều kiện cho việc xét hỏi có trọng tâm, tập trung vào những vấn đề buộc tội, giúp cho KSV và những người tham gia tranh tụng xác định giới hạn tranh tụng một cách cụ thể, tránh lan man, mất thời gian... Thực tiễn ban hành Cáo trạng tại địa phương thấy còn một số hạn chế như: vẫn còn tình trạng sử dụng văn nói, ngôn từ chưa rõ ràng, sử dụng từ địa phương không mang tính phổ thông, sao chép nội dung kết luận điều tra. Đối với những vụ án phức tạp, đông bị can, phạm nhiều tội hoặc có khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ KSV còn lúng túng trong việc lựa chọn cách viết. Đối với vụ án đông bị can có bị can trốn, truy nã tạm đình chỉ sau này phục hồi điều tra, xét xử sau. Khi viết cáo trạng, có KSV chưa biết diễn tả hành vi khách quan của đối tượng, không tập trung vào hành vi của đối tượng phục hồi mà lại viết dàn trải như Cáo trạng lần đầu, hoặc thậm chí còn sao chép lại nội dung Cáo trạng trước... Một số KSV diễn đạt lủng củng, khó hiểu, hoặc quá dài dòng dẫn đến tình trạng sau khi KSV công bố cáo trạng người tham dự phiên tòa không hiểu rõ nội dung vụ án, có những trường hợp sau khi luận tội xong người tham dự phiên tòa mới hiểu bị can phạm tội gì, thuộc khung khoản, điều luật nào... Tại phiên tòa đa phần các KSV đọc cáo trạng to, rõ ràng, rành mạch, dứt khoát, có điểm nhấn, ngắt nghỉ đúng nhịp tạo sự uy nghiêm trang trọng tại phiên tòa. Tuy nhiên, thực tiễn những năm qua cho thấy, vẫn còn một số KSV không chịu sửa chữa hạn chế của bản thân như: phát âm chưa chuẩn, nói bị ngọng, nói ê a, nói nhỏ... khi đọc Cáo trạng gây tâm lý không tốt cho những người tham dự phiên tòa. Hoặc có KSV đọc quá nhanh, nhấn mạnh quá nên giọng đọc bị giật cục, có KSV phát âm tiếng nước ngoài chưa chuẩn nên gây phản cảm trước công chúng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do KSV chưa có ý thức tự sửa chữa những nhược điểm của bản thân. Một số KSV lớn tuổi không có ý thức phấn đấu, không nhiệt tình trong công việc nên nảy sinh tâm lý làm việc qua loa, đại khái, làm cho xong việc. Mặc dù lãnh đạo các cấp đã sát sao kiểm tra, giám sát mọi hoạt động nghiệp vụ của KSV nhưng có những trường hợp do KSV báo cáo quá muộn không
  • 68.
    69 còn đủ thờigian khắc phục những hạn chế, những khiếm khuyết trong hồ sơ vụ án nên nhiều khi phải chấp nhận "sản phẩm không hoàn hảo của KSV" chuyển Tòa vì thời hạn truy tố không còn. Một phần cũng do lãnh đạo quá nhiều việc không thể bao quát hết mọi việc, năng lực trình độ của lãnh đạo có phần hạn chế chưa bao quát hết toàn bộ nội dung vụ án. Thậm chí có lãnh đạo chỉnh sửa cáo trạng khi duyệt truy tố chỉ mang tính chất qua loa, đại khái, ỉ vào cấp cao hơn. Việc phân án chưa căn cứ vào năng lực, trình độ của KSV: phân những vụ án quá phức tạp, quá khó cho những KSV chưa có kinh nghiệm gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. c. Xét hỏi tại phiên tòa Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được quy định từ Điều 206 đến Điều 216 của BLTTHS. Phạm vi xét hỏi là phải xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án. Việc xét hỏi chỉ được kết thúc khi mọi tình tiết của vụ án đã được làm rõ một cách đầy đủ. Theo quy định tại Điều 209 BLTTHS thì KSV có trách nhiệm hỏi về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội; Luật sư hỏi về các tình tiết liên quan đến việc bào chữa. Trong những năm qua, đa số các Thẩm phán đều tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS. Các phiên tòa xét xử sơ thẩm hàng năm vẫn đạt kết quả tốt. Bản thân mỗi KSV đều nhận thức việc xét hỏi tại phiên tòa vừa là quyền vừa là nghĩa vụ nên khi tham gia phiên tòa đều chuẩn bị kỹ lưỡng đề cương xét hỏi, dự thảo những tình huống phát sinh, những câu hỏi sẽ hỏi bị cáo, người làm chứng, người bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan... Tại phiên tòa có những tình huống nằm ngoài dự kiến phát sinh, KSV đã chủ động đặt câu hỏi, đấu tranh với các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác về sự thay đổi lời khai. KSV đặt các câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với nội dung vụ án và sát với quan điểm buộc tội của VKS. Âm lượng của KSV tại phiên tòa vừa đủ, phù hợp, cách hỏi các đối tượng khác nhau cũng có sự điều chỉnh về cách thức và ngữ điệu hỏi làm cho việc xét hỏi tại phiên tòa đạt kết quả cao. Ví dụ vụ án Nguyễn Văn Quý phạm tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 2 điều 133 BLHS. Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội
  • 69.
    70 do quá nghiệngame online, nhận thức của bị cáo về các quan hệ xã hội, về cuộc sống thực và cuộc sống ảo trong game còn mơ hồ. KSV đã lựa chọn cách thức hỏi, cách đặt câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi học sinh cấp 2, giọng điệu không quá nhẹ nhàng, không quá đanh thép nên không gây ra tâm lý hoảng sợ bị áp lực đối với 1 cháu bé ở tuổi 15 đứng trước phiên tòa đông nghịt người. Hoặc vụ án Dương Văn Minh phạm tội Sử dụng trái phép tài sản. Tại phiên tòa, KSV đặt câu hỏi ngắn gọn rõ ràng, kiên quyết đấu tranh với bị cáo Minh về ý thức chủ quan trong việc sử dụng trái phép tài sản của công ty Cổ phần thoát nước và vệ sinh. Cách xét hỏi của KSV tại phiên tòa đã làm rõ được bản chất hành vi phạm tội của bị cáo. Hoặc vụ án Nguyễn Thị Thanh và đồng bọn phạm tội gây rối trật tự công cộng tại quận Ngô Quyền và Hồng Bàng. Xuất phát từ việc vi phạm an toàn giao thông đường bộ của Trần Đức Thành hậu quả làm Thành bị chấn thương sọ não dẫn đến tử vong. Gia đình Thành cho rằng cảnh sát cơ động gây ra cái chết cho Thành nên trong đám tang của Thành, gia đình và bạn bè Thành khoảng trên 100 người đã gây rối từ ngã tư Lê Lai, Lê Thánh Tông đến trụ sở Công an thành phố. Các đối tượng tham gia gây rối kéo dài trên 1 giờ đồng hồ: đập phá xe cảnh sát, trụ sở công an thành phố, chửi bới, hò hét, kích động, hành hung các đồng chí công an, khiêng quan tài vào công an thành phố... CQĐT tiến hành khởi tố 28 đối tượng. Nhận thấy đây là vụ án phức tạp, KSV đã tiến hành tổng hợp chứng cứ, chuẩn bị câu hỏi từ dễ đến khó, hỏi các bị cáo thành khẩn khai báo về nhiều hành vi phạm tội của các bị cáo khác trước, các bị cáo thiếu thành khẩn hỏi sau... Trù bị với Thẩm phán về các nội dung KSV sẽ hỏi, phạm vi nội dung hỏi của HĐXX. Kết quả đấu tranh tại phiên tòa các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội và không tranh luận gì sau khi KSV luận tội. Tuy nhiên, ở một số phiên tòa còn có tình trạng KSV không tham gia xét hỏi vì cho đó là trách nhiệm của HĐXX hoặc nếu có tham gia thì chỉ tập trung vào việc buộc tội bị cáo mà không chú ý đến các tình tiết gỡ tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các câu hỏi còn chưa được chuẩn bị trước, kỹ năng xét hỏi chưa nhuần nhuyễn dẫn đến việc những tình tiết cần làm rõ thì chưa được hỏi nhưng lại hỏi lại những vấn đề đã được HĐXX hỏi và làm rõ. Hoặc có KSV khi xét hỏi thường tỏ thái độ coi thường bị cáo, gây áp lực tâm lý như yêu cầu bị cáo phải đứng
  • 70.
    71 nghiêm, trả lờito… Đối với những vụ án đơn giản thì thường Thẩm phán và HTND đã hỏi rất kỹ nên KSV không cần thiết phải hỏi thêm. Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo, đông người tham gia tố tụng, bị cáo phạm nhiều tội, bị cáo không nhận tội hoặc lúc nhận lúc không nhận tội, KSV thường hỏi rất vất vả để bảo vệ cáo trạng của mình. KSV chỉ tập trung hỏi những gì phục vụ cho việc truy tố, hỏi những nội dung mà HĐXX chưa hỏi. Cá biệt vẫn còn nhiều KSV hỏi quá nhẹ nhàng, ngữ điệu không uy nghiêm, đặt câu hỏi dài dòng, khi xét hỏi nặng về giải thích, hỏi mớm, hỏi dụ, ép cung hoặc mang tính đe dọa "nếu không khai báo thành khẩn thì không cho hưởng tình tiết giảm nhẹ...", "bị cáo loanh quanh chối tội chỉ làm cho tội của bị cáo nặng thêm", " khai như vậy là quyền của bị cáo...". Có thẩm phán đặt câu hỏi không tương xứng với trình độ của bị cáo hoặc bị cáo là người dân tộc thiểu số nên không hiểu ý nghĩa câu hỏi của Thẩm phán (vụ Hoàng Thị Phớ phạm tội Chứa mại dâm - bị cáo điều hành công việc như thế nào, bị cáo không hiểu thế nào là điều hành). Hoặc vụ án bị cáo là người chưa thành niên nhưng đặt câu hỏi khó hiểu không phù hợp với lứa tuổi... làm mất tính khách quan và giảm đi chất lượng xét hỏi tại phiên tòa. Để đảm bảo việc xét hỏi của KSV tại phiên tòa đảm bảo chất lượng, thì mỗi KSV cần ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ nội dung các câu hỏi của Thẩm phán, HTND và thậm chí cả câu hỏi của Luật sư để dự kiến những vấn đề sẽ tranh tụng. Việc xét hỏi của KSV phải được xây dựng thành chiến thuật hỏi phù hợp với diễn biến vụ án để phục vụ tốt cho việc đấu tranh công khai tại Tòa. KSV cần nắm kỹ các tình tiết dù là nhỏ nhất, các thông tin xung quanh vụ án, tìm hiểu tâm lý đối tượng đang hỏi để sử dụng chiến thuật hỏi cho phù hợp. Qua KSHĐTP thấy một số Thẩm phán xét hỏi còn những khiếm khuyết như: chưa chú ý đến thái độ, giọng nói của mình (nói quá nhỏ trong khi micro không bắt tiếng), hỏi người bị hại hoặc người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan... với một thái độ gay gắt nên có trường hợp trong quá trình xét hỏi họ tự ý bỏ về. Khi KSV đề nghị được xét hỏi, Thẩm phán không có ý kiến phản hồi, thậm chí khi đề nghị HTND xét hỏi Thẩm phán không nói bằng lời mà ra hiệu (hất hàm). Khi xét hỏi những người tham gia tố tụng như người đại diện hợp pháp, người bị hại…có Thẩm phán để cho họ tự do phát biểu, ngược lại có Thẩm phán
  • 71.
    72 không để chohọ trình bày một cách đầy đủ. Một số phiên tòa có Luật sư, chủ tọa phiên tòa còn để Luật sư mớm cung cho thân chủ mà không nhắc nhở. Một số Thẩm phán xét hỏi lan man, tập trung quá nhiều vào những vấn đề không liên quan đến hành vi phạm tội. Ví dụ, bị cáo bị truy tố về tội Trộm cắp tài sản, tại phiên tòa bị cáo khai do nghiện ma túy nên đi lang thang tìm cơ hội trộm cắp. Thẩm phán hỏi bị cáo 1 ngày sử dụng bao nhiêu lần ma túy, mua ở đâu, của ai vv... thời gian dành xét hỏi vấn đề này còn nhiều hơn hỏi về hành vi trộm cắp. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán nhận được đơn, huân, huy chương của gia đình bị cáo, không đưa ra xem xét tại tòa nhưng khi tuyên án vẫn xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ (Vụ Phạm Văn Hiện phạm tội cướp tài sản). Việc xem xét vật chứng tại tòa hầu như không được các Thẩm phán chú ý. Hiện nay, VKS và Tòa án Hải Phòng có nhiều quan điểm khác nhau về cách xét hỏi tại phiên tòa nhưng chủ yếu là 2 cách sau: Cách thứ nhất: Thẩm phán xét hỏi tất cả vấn đề trong vụ án, vừa xét hỏi, vừa công bố các tài liệu chứng cứ, vừa đấu tranh nếu bị cáo khai khác với tài liệu tại CQĐT. Việc xét hỏi như trên xuất phát từ cách hiểu quy định pháp luật: khoản 1 Điều 207 BLTTHS: "HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý"…; khoản 3 Điều 209, Điều 210, Điều 211 BLTTHS quy định: KSV hỏi bị cáo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội, hỏi thêm những người tham gia tố tụng khác về những vấn đề thấy cần thiết. Như vậy có thể hiểu là HĐXX trong đó chủ yếu là Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm làm rõ đầy đủ nội dung và tình tiết vụ án, còn KSV chỉ bổ sung, củng cố chứng cứ. Hơn nữa Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cũng là người tiến hành tố tụng mà trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT và những người tiến hành tố tụng trong đó có Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thực tế trình độ của KSV cũng không đồng đều nên trong những trường hợp này Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã "hỗ trợ" nhiều cho KSV đặc biệt là những KSV chưa có kinh nghiệm. Cách thứ 2: Thẩm phán chỉ hỏi qua loa hoặc khi hỏi thấy có sự thay đổi lời khai (khác với lời khai tại CQĐT) thì không tiếp tục hỏi nữa mà quay ngay sang
  • 72.
    73 KSV "đề nghịlàm rõ vấn đề này". Cách hỏi này xuất phát từ nhận thức cho rằng trách nhiệm chứng minh và buộc tội là của KSV còn Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là trọng tài điều khiển và nghe các bên tranh luận. Vấn đề đặt ra là: nhiệm vụ của HĐXX, của chủ tọa phiên tòa là xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án nhưng bằng cách nào: tự mình xác định, tự mình làm rõ hay yêu cầu KSV và Luật sư làm rõ. Theo em, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ là trọng tài, nghe các bên tranh luận và điều khiển việc tranh luận. Do vậy, KSV phải là người hỏi chính, hỏi làm rõ tất cả các tình tiết của vụ án để bảo vệ quan điểm truy tố của mình. Tuy nhiên theo mô hình tố tụng hiện nay, thì cả Thẩm phán và KSV phải hỏi làm rõ mọi tình tiết của vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và KSV cùng phối hợp để hỏi, theo đó KSV hỏi để phục vụ cho việc bảo vệ Cáo trạng và hỏi những gì HĐXX chưa hỏi để tránh sự trùng lặp và kéo dài thời gian không cần thiết. Quá trình xét xử vẫn có trường hợp Cảnh sát bảo về để bị cáo tiếp xúc với người thân. Việc cách ly các bị cáo và các người làm chứng trong trường hợp lời khai của họ có thể ảnh hưởng đến nhau hầu như không được quan tâm. Một phần là do điều kiện cơ sở vật chất Tòa án không có nơi cách ly; vì vậy có tình trạng bị cáo thay đổi lời khai tại phiên tòa sau khi nghe lời khai của bị cáo khác đã gây khó khăn cho KSV trong việc bảo vệ Cáo trạng đặc biệt là những vụ án chứng cứ yếu. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do KSV chưa xác định được vị trí, vai trò của mình trong giai đoạn xét hỏi, có KSV cho rằng việc xét hỏi là của Tòa án nên chưa chú tâm vào việc xét hỏi. Nhiều phiên tòa, KSV không tham gia xét hỏi. Một phần vì phiên tòa quá đơn giản, KSV chủ quan không cần hỏi. Bên cạnh đó, chưa có sự hướng dẫn thống nhất chính thức của hai ngành Tòa án, Kiểm sát về trình tự, trách nhiệm, vai trò của Thẩm phán, KSV trong khi xét hỏi. Thẩm phán và KSV phối hợp chưa tốt nên chất lượng xét hỏi một số phiên tòa chưa cao. Một phần do Lãnh đạo VKS chưa khắt khe trong việc duyệt "đề cương xét hỏi" của KSV khi báo cáo án xét xử cũng tạo điều kiện cho KSV chủ quan, lười không nghiên cứu kỹ hồ sơ trước khi xét xử.
  • 73.
    74 d. Tranh luậntại phiên tòa Giai đoạn tranh tụng được bắt đầu khi KSV luận tội, đưa ra quan điểm giải quyết vụ án. KSV giữ vai trò là một bên chủ thể tranh luận, phải đưa ra những lập luận đối đáp với các quan điểm của bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác khi họ có ý kiến trái chiều về quan điểm giải quyết vụ án của VKS. Đây là sự tranh luận trực tiếp từ hai phía buộc tội và gỡ tội nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án để từ đó HĐXX có căn cứ phán quyết đúng đắn. Qua tổng kết hoạt động Luận tội của VKS Hải Phòng thấy có những ưu điểm: - Luận tội của KSV bám sát nội dung, yêu cầu của Quy chế nghiệp vụ và mẫu hướng dẫn của VKSNDTC. Nhiều luận tội được chuẩn bị khá tốt, chuẩn mực, mang tính thuyết phục và tuyên truyền giáo dục cao. Kịp thời bổ sung những thay đổi, phát sinh tại diễn biến phiên tòa vào Luận tội để tăng tính thuyết phục, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Ví dụ vụ án Dương Văn Minh phạm tội Sử dụng trái phép tài sản; Nguyễn Thị Thanh cùng đồng bọn phạm tội Gây rối trật tự công cộng. - Các Luận tội không còn những lời lẽ "đao to, búa lớn" hoặc có tính suy diễn, quy chụp. Khi luận tội, KSV đã vận dụng chính sách hình sự một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt trong việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, góp phần tuyên truyền giáo dục pháp luật, tạo lòng tin trong nhân dân vào sự công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Ví dụ vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa cùng đồng bọn phạm tội Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tuy nhiên, về hình thức còn một số Luận tội chưa đúng mẫu quy định: bắt đầu Luận tội bằng câu: "Thưa HĐXX". Sau đó, KSV tự giới thiệu về mình là đại diện VKS THQCT tại phiên tòa sơ thẩm xét xử về hình sự vụ án đối với bị cáo bị truy tố về tội... Sau khi nêu một cách ngắn gọn mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, tầm quan trọng của việc xét xử vụ án, KSV nói: "... tôi trình bày quan điểm về việc xử lý đối với bị cáo (hoặc các bị cáo) và giải quyết đối với vụ án như sau". Vẫn có KSV không thực hiện dúng hướng dẫn trên mà chuẩn bị theo lối mòn, không phù
  • 74.
    75 hợp, có thểgây phản ứng của các Thẩm phán, ví dụ: ...thay mặt Nhà nước, phát biểu quan điểm để HĐXX xem xét, cân nhắc trước khi quyết định tội trạng, mức hình phạt đối với các bị cáo cho phù hợp với quy định của pháp luật, ...để HĐXX cân nhắc ra bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ...phát biểu kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo, phân tích tính chất vụ án, đồng thời tôi đề nghị với HĐXX về mức hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo… Theo quy định của BLTTHS, Luận tội của KSV mở đầu phần tranh luận tại phiên tòa nhưng vẫn còn KSV cho rằng "phát biểu luận tội trước khi nghị án, cùng với HĐXX", "giúp cho", hoặc "để HĐXX quyết định bản án đúng người đúng tội, đúng pháp luật". Nhiều bản Luận tội trong phần mở đầu vẫn còn dùng câu:"Trước khi HĐXX vào nghị án". Đây là lời phát biểu không đúng với trình tự tố tụng tại phiên tòa, vì sau khi luận tội là phần tranh luận; nếu qua tranh luận, xét thấy cần thiết, HĐXX trở lại phần xét hỏi. Về nội dung, nhiều Luận tội chưa lấy kết quả điều tra tại phiên tòa để làm căn cứ cho nội dung luận tội, vẫn sử dụng "tài liệu có trong hồ sơ vụ án", "lời khai tại CQĐT" để mở đầu cho việc chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, nội dung luận tội lặp lại cáo trạng, không nêu và lồng ghép được kết quả xét hỏi công khai tại phiên tòa vào nội dung bản luận tội. Hạn chế thường gặp ở nhiều Luận tội là phần chứng minh tội phạm yếu hoặc thiếu chặt chẽ. KSV không phân tích, đánh giá chứng cứ, chứng minh tội phạm, chỉ nêu diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo, lặp lại gần như nguyên văn nội dung Cáo trạng. Có nhiều Luận tội tuy dài nhưng lại thiếu chặt chẽ, chưa theo đúng trình tự của luận tội theo mẫu là: chứng minh tội phạm, phân tích đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm, phân tích đánh giá vai trò của từng bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trên cơ sở đó mới kết tội và đề nghị mức hình phạt. Có Luận tội diễn đạt ý không rõ, lộn xộn, lủng củng về câu chữ. Ví dụ: Việc tạm giam, truy tố và đưa bị cáo ra xét xử theo nguyên tắc vi phạm pháp luật thì sẽ bị pháp luật trừng trị, ngoài ra còn là bài học cho những người coi thường mạng sống của người khác chỉ vì lợi ích của mình dẫn đến hậu quả mà bị cáo phải chịu sự phán quyết của pháp
  • 75.
    76 luật. Có Luậntội đi sâu phân tích lần lượt đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm như trong bài học ở trường mà không chú ý phân tích đánh giá chứng cứ, chứng minh các yếu tố đó. Hoặc có Luận tội chưa chú trọng phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nên khi đề nghị HĐXX áp dụng điều luật và hình phạt đã bỏ sót một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Một số Luận tội tuy không còn từ "đao to, búa lớn", nhưng vẫn còn KSV luận tội theo kiểu"nâng cao quan điểm", dùng từ ngữ không chính xác, chưa đúng mức. Ví dụ luận tội về hành vi đánh bạc đối với bị cáo chưa có tiền án, tiền sự: "...hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và nếp sống văn minh mà còn là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác". Hoặc hành vi mua bán chất ma túy với số lượng nhỏ, bị truy tố theo khoản 1 Điều 194 BLHS, tính chất tội phạm có mức độ, nhưng KSV đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi không phù hợp, thiếu sức thuyết phục: bị cáo... nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội. Không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, tương lai, cuộc sống của chính bản thân bị cáo mà còn góp phần gây ra những tệ nạn, hủy hoại đạo đức con người, các gia đình tan vỡ, khánh kiệt, có tác động tiêu cực tới đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Các lý lẽ trong luận tội còn thiếu thuyết phục, thể hiện lúng túng, mâu thuẫn trong cách lập luận. Ví dụ, ở phần trên KSV nhận xét về bị cáo đã có tiền án nhưng đã được xóa án tích "là người khó giáo dục, cải tạo, không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội". Nhưng ngay sau đó, KSV nhận định: " tại CQĐT và tại phiên tòa, bị cáo luôn khai báo thành khẩn, tỏ ra là người biết ăn năn hối cải" để đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS. Luận tội của một số KSV không xuất phát từ hành vi, hậu quả của tội phạm, đặc điểm về nhân thân cụ thể của bị cáo nên đã không nhận xét, đánh giá chính xác tính chất vụ án. Ví dụ, luận tội về hành vi chứa mãi dâm đối với bị cáo lần đầu phạm tội theo khoản 1 Điều 254 BLHS: Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội và
  • 76.
    77 nếp sống vănminh mà còn xâm phạm đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm lây truyền một số bệnh nguy hiểm do vi rút gây nên. Đồng thời là một trong những nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình của nhiều người, bị xã hội và dư luận lên án mạnh mẽ [30]. Có nhiều Luận tội na ná giống nhau. Ví dụ như luận tội trong các vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy, nếu có khác nhau chỉ là họ, tên bị cáo, trọng lượng ma túy. Như vậy, có thể thấy ở một số vụ án đơn giản, KSV khi chuẩn bị luận tội đã "sao chép, cắt dán", thể hiện cẩu thả, thiếu trách nhiệm. Có Luận tội chỉ chú ý tập trung phân tích trách nhiệm hình sự, nhưng không đề cập trách nhiệm dân sự hoặc có đề cập một cách chung chung, không nêu được căn cứ, cơ sở chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn dân sự, người bị hại, từ đó đề nghị HĐXX quyết định việc bồi thường. Một trong những yêu cầu khác của Luận tội là phải phân tích thủ đoạn phạm tội, xem xét mục đích và động cơ phạm tội, mức độ hậu quả do tội phạm gây ra, nêu những thiếu sót, sơ hở, vi phạm trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, xác định nguyên nhân, điều kiện tội phạm, kiến nghị với các cơ quan, tổ chức rút kinh nghiệm, đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa. Đây là những yêu cầu quan trọng, trong một số vụ án bắt buộc phải nêu trong bản luận tội nhưng chưa được nhiều KSV chú trọng. Có những vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận quan tâm chú ý nhưng khi luận tội KSV đề cập về vấn đề này sơ sài hoặc kiến nghị chung chung. Sau khi KSV Luận tội, người bào chữa trình bày lời bào chữa của mình, có thể đồng tình với quan điểm của KSV nhưng không ít Luật sư phản bác lại quan điểm của KSV. Trách nhiệm của KSV phải đối đáp lại quan điểm của người bào chữa, bị cáo, bị hại và người bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại... Về tương quan lực lượng KSV thường ít hơn các Luật sư. Thông thường mỗi phiên tòa chỉ có 1 đến 2 KSV trong khi đó, số lượng Luật sư không hạn chế, có thể có rất đông người cùng tham gia một phiên tòa. Về trách nhiệm, các KSV phải độc lập xử lý tình huống, phải chịu trách nhiệm về hành vi tố tụng của mình, đây là áp lực lớn đối với KSV. Về tính chủ động, Luật sư và người bào chữa, những người
  • 77.
    78 tham gia tốtụng khác là người chủ động đưa ra các tình huống buộc KSV phải tranh luận, do đó yêu cầu về tính chuyên nghiệp đối với KSV là rất cao. Về cách phát ngôn, nếu Luật sư có thể phát ngôn một cách "tự do" để bảo vệ quyền lợi của thân chủ mình, có thể đưa ra nhiều luận điểm kể cả luận điểm sai trái nhằm "rũ rối" KSV trong việc giải quyết vụ án gây tâm lý hoang mang, mất tập trung vào việc THQCT tại phiên tòa trong khi đó mọi ứng xử, phát ngôn của KSV phải chuẩn mực, không được sơ suất (ví dụ vụ án Nguyễn Xuân Nghĩa phạm tội Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Luật sư xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng nhằm kích động KSV và HĐXX). Do vậy, đòi hỏi bản thân mỗi KSV phải biết kiềm chế và tự rèn luyện ý chí, tư tưởng vững vàng trong khi tranh tụng. Việc tranh tụng của KSV muốn đạt kết quả tốt, KSV phải biết tận dụng những ưu thế của mình như: là người chuyên làm công tác THQCT, kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự được kiểm nghiệm cả về lý luận và thực tiễn nên hoạt động của KSV mang tính chuyên nghiệp cao, KSV có điều kiện tiếp cận hồ sơ vụ án hình sự sớm, có trách nhiệm quản lý hồ sơ trong thời gian dài, chịu trách nhiệm về việc lập hồ sơ truy tố; có quyền bổ sung, củng cố các chứng cứ buộc tội chặt chẽ trước khi chuyển hồ sơ sang tòa án. Đặc biệt KSV có được sự chỉ đạo về đường lối giải quyết vụ án của Lãnh đạo ngành, cũng như sự hỗ trợ của các đồng nghiệp khi gặp khó khăn, vướng mắc; được sự phối hợp, hỗ trợ của các CQTHTT (HĐXX, CQĐT và các cơ quan hữu quan trong việc củng cố, thu thập chứng cứ...). Để hoạt động tranh tụng đạt kết quả, KSV cần làm tốt công tác chuẩn bị như: nghiên cứu và nắm chắc các tình tiết trong hồ sơ vụ án, diễn biến của quá trình điều tra, thu thập chứng cứ buộc tội, gỡ tội; chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, xác định rõ những vấn đề cần làm rõ tại phiên tòa (lưu ý cả giới hạn trong việc xét hỏi), dự kiến các tình huống phát sinh tại tòa, các vấn đề người bào chữa, bị cáo quan tâm, các tình huống người bị hại và những người liên quan sẽ yêu cầu giải quyết, nội dung sẽ đối đáp để làm căn cứ cho việc luận tội và tranh luận tại phiên tòa của KSV; đối với những vụ án phức tạp cần trù bị trước với Thẩm phán về mọi vấn đề liên quan đến giải quyết vụ án; chuẩn bị Luận tội có bố cục rõ ràng, súc tích, tập trung vào việc đưa ra các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, khối lượng buộc tội đặc biệt là trong trường hợp bị
  • 78.
    79 cáo không nhậntội. Luận tội phải đánh giá đúng tính chất của vụ án cũng như tính nguy hiểm của tội phạm, không đơn giản hóa cũng không thổi phồng quá mức cần thiết đặc biệt là không nan giải, không đưa vào những tình tiết nằm ngoài phạm vi buộc tội vì như vậy sẽ làm phức tạp hơn rất nhiều trong khi tranh tụng; cần tìm hiểu về những vấn đề xung quanh vụ án cũng như cách thức tranh tụng và đặc điểm của từng Luật sư để có thể phán đoán tình huống và cách thức tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở đó dự tính những tình huống xử lý tại phiên tòa. Đồng thời, KSV phải thường xuyên trau dồi, nghiên cứu lý luận chuyên ngành, các văn bản pháp luật để bổ sung kiến thức chuyên môn, kiến thức xã hội phục vụ tốt cho hoạt động tranh tụng. Luận tội xong, KSV phải hết sức tập trung, chuẩn bị sẵn giấy bút, lắng nghe, tóm lược ý kiến mà người bào chữa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác đưa ra, phải tập hợp các vấn đề cần tranh tụng thành từng nhóm để tiện tranh tụng tránh trùng lặp, nội dung nào chính thì dành nhiều thời gian tranh tụng, giải thích cho rõ ràng; vấn đề nào phụ thì chỉ nhắc qua nêu rõ quan điểm không phân tích rườm rà làm mất sự tập trung chú ý của người nghe. Hầu như, tại phiên tòa KSV không có thời gian để chuẩn bị nên đòi hỏi KSV phải có phản ứng nhanh. Quá trình nghe và tóm lược ý kiến của những người tham gia tranh tụng KSV đã phải tư duy xem những vấn đề đang tranh tụng có trong dự kiến chưa, nếu ngoài dự kiến thì phải chuẩn bị phương án đối đáp như thế nào cho phù hợp, tuyệt đối không được thể hiện thái độ, biểu lộ cảm xúc thể hiện vấn đề tranh tụng nằm ngoài sự chuẩn bị, tuyệt đối bình tĩnh, không giở hồ sơ hay loay hoay tìm điều luật. Việc đối đáp với Luật sư phải thể hiện thái độ ung dung, đĩnh đạc, ôn hòa, không căng thẳng, nhìn thẳng vào Luật sư để đối đáp, không né tránh trong việc đối đáp. Đối đáp lần đầu càng triệt để càng tốt, chú ý những lần tranh luận sau Luật sư thường hay sa đà vào những vấn đề không phải trọng tâm của vụ án hoặc cố ý "rũ rối" để quảng bá thương hiệu... Tuy nhiên, còn có những KSV chưa quan tâm tới việc tranh luận, đối đáp mà mới chỉ tập trung vào việc luận tội, coi luận tội xong là hoàn thành nhiệm vụ. KSV chỉ mới thấy quyền chứ chưa thấy nghĩa vụ phải tranh luận, đối đáp tại phiên tòa. Xuất phát từ nhận thức chưa đúng đắn về quyền bình đẳng giữa các bên tham gia tranh tụng khi đưa ra chứng cứ, lý lẽ trước HĐXX vì thế không chuẩn bị kỹ ý kiến
  • 79.
    80 đối đáp, đểxảy bị động, lúng túng khi tranh luận. Đặc biệt tại các phiên tòa xét xử tội phạm tham nhũng, kinh tế, trật tự xã hội, ma túy đặc biệt nghiêm trọng có nhiều Luật sư tham gia, có nhiều bị cáo không nhận tội, có KSV còn bị động, phụ thuộc nhiều vào tài liệu do CQĐT thu thập từ giai đoạn điều tra mà chưa khai thác triệt để chứng cứ đã được điều tra công khai tại phiên tòa. Cá biệt có KSV khi đối đáp với Luật sư, người bào chữa còn lúng túng, thiếu lý lẽ sắc sảo, chưa thuyết phục được Hội đồng xét xử, người tham gia phiên tòa. Khi gặp những tình huống mới phát sinh tại phiên tòa cần phải tranh tụng, KSV còn có biểu hiện né tránh câu hỏi khi đối đáp hoặc đối đáp cho qua chuyện. Ví dụ "KSV vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, quyền quyết định thuộc về Hội đồng xét xử" dẫn đến việc Hội đồng xét xử phải trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, sau đó phải đình chỉ điều tra do không chứng minh được hành vi phạm tội... Bên cạnh đó, kỹ năng tranh tụng của một số KSV còn chưa đạt yêu cầu, việc cập nhật văn bản quy định hướng dẫn không thường xuyên, khả năng khai thác công nghệ thông tin và ngoại ngữ còn yếu, chất lượng kiểm sát điều tra chưa đảm bảo, còn sai sót về pháp luật tố tụng và nội dung đã ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng tranh tụng. Khả năng bao quát, tổng hợp, xử lý thông tin và ứng biến trong quá trình tranh luận còn hạn chế nên nhiều khi những ý kiến phản bác của Luật sư không được đối đáp thỏa đáng. Vẫn còn tồn tại tâm lý ngại tranh luận, không vững vàng, mất tự tin, thậm chí bị động thì sẵn sàng nhận sai sót và đẩy khó khăn sang HĐXX. Cá biệt vẫn còn KSV không tranh luận mà chỉ "giữ nguyên quan điểm truy tố" hoặc "không có ý kiến gì tùy HĐXX xem xét" khi Luật sư, bị cáo và người tham gia tố tụng đưa ra những ý kiến phản bác lời luận tội của KSV. Chủ tọa điều khiển phiên tòa không đề nghị KSV phải đáp lại những ý kiến phản bác mà chấp nhận việc trả lời của KSV giữ nguyên quan điểm là chưa đảm bảo tính dân chủ, công bằng trong hoạt động tranh luận, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Thực tiễn tranh tụng tại Hải Phòng cho thấy, chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa đã có nhiều chuyển biến tích cực, đóng vai trò quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án, đảm bảo Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đa số các KSV đều xác định được vị trí, tầm quan trọng của việc tranh tụng tại phiên tòa, chuẩn bị tốt đề cương xét hỏi, phát biểu lời luận tội,
  • 80.
    81 quan điểm đốiđáp chặt chẽ, lý lẽ sắc bén với đầy đủ căn cứ pháp lý công khai, dân chủ hơn, tự tin, có sức thuyết phục, bảo vệ tốt quan điểm truy tố, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, yêu cầu của cải cách tư pháp. Đối với các Luật sư, chất lượng của việc bào chữa nhìn chung là đạt yêu cầu, các Luật sư trong khi hành nghề đều tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan, có trách nhiệm về hoạt động của mình. Trong quá trình tranh tụng, đa số các chứng cứ được Luật sư đưa ra để bảo vệ cho quan điểm của mình đều có tính chính xác và thuyết phục. Điều này chứng tỏ sự nghiêm túc trong công việc, khả năng nghiên cứu và kỹ năng nghề nghiệp vững vàng của các Luật sư. Thái độ và tác phong chuẩn mực khi tham gia tranh tụng của các Luật sư đã được đông đảo quần chúng tham dự phiên tòa đồng tình và HĐXX đánh giá cao. Quan điểm của các Luật sư tại các phiên tòa đã được ghi nhận góp phần làm sáng tỏ vụ án, là cơ sở để HĐXX đưa ra những phán quyết khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và bảo vệ pháp chế XHCN. Lực lượng Luật sư tham gia tranh tụng chiếm số đông nhưng trách nhiệm của Luật sư trong việc tranh tụng chưa cao, chưa thể hiện vai trò của người bào chữa vì đa phần là Luật sư chỉ định hầu như các Luật sự này chỉ xin giảm nhẹ cho các bị cáo còn lại các vấn đề khác đều nhất trí với quan điểm của VKS. Một số Luật sư khi tham gia tranh tụng tại phiên tòa còn thiếu sự cẩn trọng, đưa ra những luận cứ chưa thật chọn lọc, chưa mang tính pháp lý và thiếu sức thuyết phục. Nhiều vẫn đề đã rõ ràng về mặt chứng cứ và căn cứ pháp lý nhưng Luật sư vẫn cố tình phủ định, không thừa nhận sự thật khách quan. Trong quá trình đối đáp vẫn còn tình trạng "lạc đề", nói dài, bàn rộng về những tình tiết, nội dung không liên quan đến vụ án; vẫn tồn tại tâm lý "sợ không được nói". Một số Luật sư viện dẫn văn bản pháp lý không phù hợp với nội dung vấn đề đang tranh luận. Trong vụ án hình sự, một Luật sư có thể bào chữa cho nhiều bị cáo hoặc ngược lại, nhiều Luật sư cùng bào chữa cho một bị cáo, trên thực tế đã xảy ra tình trạng: khi một Luật sư bào chữa cho nhiều bị cáo thì chỉ tập trung bào chữa cho một hoặc hai bị cáo còn đối với các bị cáo còn lại, việc bào chữa chỉ mang tính chiếu lệ, thiếu sự khách quan, công bằng. Ngược lại, khi nhiều Luật sư
  • 81.
    82 cùng bào chữacho một bị cáo thì giữa các Luật sư thiếu sự phối hợp dẫn đến việc bào chữa không tập trung hoặc lặp lại không cần thiết làm mất thời gian của HĐXX. Trong 3 năm qua (từ năm 2009 đến năm 2011), VKS Hải Phòng liên tục tổ chức các phiên tòa cải cách tư pháp (gọi tắt là phiên tòa 08) và chuyên đề "tổ chức phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên" để các KSV tự học lẫn nhau góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Qua đó thấy vai trò, vị trí của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phần nào ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng. Một số Thẩm phán được phân công Chủ tọa phiên tòa chưa làm hết trách nhiệm trong việc điều khiển tranh luận, mới chỉ quan tâm đến việc đối đáp giữa KSV với bị cáo và người bào chữa cho bị cáo còn những người tham gia tố tụng khác như bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nguyên đơn, bị đơn dân sự thì chưa được quan tâm. Những vụ án bị cáo không có người bào chữa thì bị cáo rất ít khi tranh luận với KSV do bị áp lực tâm lý, sợ hãi. Chủ tọa điều khiển phiên tòa chưa làm đúng vai trò trọng tài của mình, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho bị cáo được tham gia tranh luận dân chủ bằng cách gợi mở cho bị cáo, giải thích lại cho bị cáo hiểu rõ hơn các quyền và nghĩa vụ của mình... Thông thường Chủ tọa hỏi bị cáo có tranh luận không, nếu bị cáo trả lời không thì coi như bị cáo chấp nhận quan điểm buộc tội và bỏ qua phần tranh luận. Cá biệt có trường hợp thay vì yêu cầu KSV tranh luận với bị cáo thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa lại tranh luận thay cho KSV. Việc các bị cáo không tranh luận sau khi KSV Luận tội cũng là một yếu tố làm hạn chế việc tranh tụng. Có Thẩm phán ngại va chạm với Luật sư nên để Luật sư nói thoải mái về những nội dung ngoài phạm vi truy tố. Nhiều Thẩm phán không lắng nghe lời bào chữa của Luật sư, ít ghi chép lại các quan điểm của Luật sư vì vậy không tóm tắt khái quát được các vấn đề mà Luật sư đưa ra để yêu cầu KSV đối đáp, từ đó dẫn đến tình trạng đối đáp giữa KSV và Luật sư không đúng trọng tâm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do: Năng lực trình độ của KSV, Thẩm phán và Luật sư không đồng đều, vẫn còn tình trạng thiếu sự đầu tư công sức trong việc nghiên cứu hồ sơ, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công tác,
  • 82.
    83 thiếu tinh thầncầu thị, nhận thức không đầy đủ các quy định của pháp luật và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Cá biệt một số Luật sư tại phiên tòa, còn sử dụng những từ ngữ thiếu tôn trọng, gây phản cảm, thậm chí không chấp hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa thể hiện văn hóa ứng xử chưa cao. Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự còn thiếu, chưa hoàn chỉnh. Tranh tụng chưa trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Do đó, chưa bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia tranh tụng. Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật trang bị còn thiếu, lạc hậu. Phòng xử án của nhiều Tòa án cấp quận, huyện còn chật hẹp, hệ thống âm thanh, ánh sáng chưa đáp ứng được yêu cầu. Đây cũng là một yếu tố hạn chế chất lượng tranh tụng. Một vấn đề tuy pháp luật chưa có quy định cụ thể nhưng cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tranh tụng, đó là văn hóa ứng xử tại phiên tòa (văn hóa pháp đình). Đây cũng là một nội dung theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Thực tiễn tranh tụng cho thấy, ở một số phiên tòa vấn đề văn hóa pháp đình chưa được KSV và Luật sư coi trọng. Vẫn còn có Luật sư đến chậm so với giờ khai mạc phiên tòa mà không có lý do. Có những Luật sư, tại phiên tòa, khi những yêu cầu của mình không được HĐXX chấp nhận (mặc dù đó là yêu cầu thiếu căn cứ) đã tự động bỏ về khi chưa được chủ tọa phiên tòa cho phép. Có những Luật sư không đứng dậy khi tranh luận mặc dù đã được chủ tọa phiên tòa yêu cầu với lý do "luật không quy định". Trong quá trình tranh luận, nhiều Luật sư thiếu sự cẩn trọng, kiềm chế trong sử dụng ngôn từ, có thái độ thiếu tôn trọng đối với đang người tranh luận, ví dụ: "Tôi thấy thật buồn với phần tranh luận của Kiểm sát viên". Về phía cơ quan công tố, một số KSV mới chỉ nghiêng về tư duy đối đầu với Luật sư mà quên đi khía cạnh hợp tác (để bảo vệ sự thật, bảo vệ pháp chế XHCN) theo luật định. Vẫn còn có những KSV và Luật sư trong khi tranh tụng đã tỏ thái độ gay gắt, bức xúc, sử dụng ngôn ngữ không phù hợp với văn hóa pháp lý nơi xét xử, coi thường những người tham gia tố tụng khác. Ví dụ vụ án Dương Văn Minh, sau khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên án, giao bị cáo cho cảnh sát hỗ trợ tư pháp, Luật sư đề nghị HĐXX cho bị cáo kháng cáo trong khi bị cáo chưa có ý kiến. Luật sư
  • 83.
    84 đề nghị HĐXXcho bị cáo viết đơn tại chỗ, HĐXX trả lời không còn nhiệm vụ quyền hạn vì đã giao bị cáo cho Cảnh sát hỗ trợ tư pháp, việc có cho bị cáo viết đơn kháng cáo hay không là do Cảnh sát tư pháp quyết định. Ngay sau khi HĐXX trả lời, Luật sư to tiếng và thể hiện thái độ bức xúc, nóng nảy, nói năng thiếu tôn trọng HĐXX và làm đơn kiến nghị HĐXX đã vi phạm quyền bào chữa của Luật sư. Trong tình huống này, Luật sư hoàn toàn có thể có cách xử sự khác, trong thời hạn 15 ngày kháng cáo, Luật sư hoàn toàn có quyền gặp gỡ bị cáo, hướng dẫn bị cáo viết đơn kháng cáo, không cần thiết phải thể hiện hoặc có cách ứng xử chưa phù hợp như vậy. Vì vậy, Văn hóa ứng xử của Thẩm phán, KSV và Luật sư tại phiên tòa cũng góp phần quan trọng không thể thiếu để thể hiện sự công minh, dân chủ bảo đảm sự bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. 2.1.2.4. Sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm a. Kiểm sát biên bản phiên tòa BLTTHS quy định (Điều 200): sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, KSV THQCT có quyền xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký tên xác nhận vào biên bản phiên tòa. Theo Quy chế KSXX ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ- VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng VKSNDTC, sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm KSV phải tiến hành kiểm sát biên bản phiên tòa (Điều 26). Thực tiễn xét xử cho thấy, dường như các KSV "quên" đi nhiệm vụ này, chỉ những vụ án trái quan điểm hoặc khác về mức án, loại hình phạt áp dụng thì KSV mới chú ý đến biên bản phiên tòa. Tuy nhiên, hiện nay, các KSV cũng gặp khó khăn từ phía Tòa án không hợp tác và thấy không "thoải mái" khi KSV đòi xem biên bản phiên tòa. Thư ký Tòa án thường viện lý do: "chưa ghi kịp", "chưa đánh máy xong" (nhiều thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa trên máy tính xách tay). Việc kiểm sát biên bản phiên tòa còn mang tính hình thức bởi KSV không ký nháy vào từng tờ của biên bản phiên tòa, đọc qua một lượt rồi quên ngay, khó có thể biết được thư ký có chỉnh sửa bổ sung gì hay không. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc KSV "quên" nhiệm vụ này.
  • 84.
    85 b. Kháng nghịphúc thẩm Qua hoạt động kiểm sát việc tuyên án của HĐXX, KSV đối chiếu với các đề xuất của mình khi luận tội, thấy việc tuyên án của HĐXX không có căn cứ hoặc có vi phạm pháp luật thì sau phiên tòa KSV phải đề xuất đến lãnh đạo VKS quyết định có kháng nghị phúc thẩm hay không. Hoặc khi nhận được bản án sơ thẩm, KSV phải chủ động nghiên cứu, kiểm sát chặt chẽ nội dung, hình thức. Đối chiếu với bản ghi chép diễn biến phiên tòa, xem xét các quyết định của Tòa án có đúng nội dung đã tuyên tại tòa hay không. Các phán quyết của Tòa án có căn cứ pháp luật hay không. Nếu phát hiện thấy có vi phạm, KSV báo cáo đề nghị lãnh đạo xem xét kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Để công tác kháng nghị phúc thẩm có chất lượng, đạt hiệu quả đòi hỏi các KSV phải thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các văn bản pháp luật, để nâng cao trình độ chuyên môn, kịp thời phát hiện những sai sót, tăng tính thuyết phục khi kháng nghị, cũng như không để xảy ra tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm. Việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có ý nghĩa rất quan trọng, làm tốt công tác kháng nghị phúc thẩm là điều kiện để đảm bảo bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án hạn chế tối đa việc sai sót, góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo tính nghiêm minh, thống nhất khi áp dụng pháp luật và bảo vệ pháp chế XHCN. Tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS cần chú ý đến công tác này bởi kháng nghị nhiều sẽ ảnh hưởng không tốt đến quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan Tòa án và VKS. Quán triệt sâu sắc vị trí, vai trò và ý nghĩa công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, những năm qua VKS Hải Phòng đã thực hiện tốt công tác kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm hình sự của Tòa án, phát hiện vi phạm và kháng nghị nhiều bản án, quyết định của Tòa án, để bảo vệ quan điểm đúng đắn của VKS, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ tài sản của Nhà nước cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Theo số liệu (xem bảng 2.4, 2.5 phụ lục 1) cho thấy, công tác kháng nghị phúc thẩm của VKS Hải Phòng ngày càng được tăng cường, chất lượng kháng nghị phúc
  • 85.
    86 thẩm ngày mộttăng. Tuy nhiên, việc rút kháng nghị phúc thẩm vẫn còn nhiều. Nguyên nhân do nhận thức pháp luật còn khác nhau, chưa có văn bản hướng dẫn liên ngành nên vẫn còn tình trạng "quyền anh, quyền tôi"... Thực hiện Chỉ thị số 03/2008 ngày 19/6/2008 của Viện trưởng VKSNDTC về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, công tác kháng nghị không ngừng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Một số vụ án qua công tác kháng nghị của VKS đã khắc phục được sai phạm, thiếu sót của cấp sơ thẩm như xét xử không đúng tội danh, tuyên không phạm tội không có căn cứ, xử án treo không đúng, xét xử quá nghiêm khắc (xem phụ lục 3). Chất lượng kháng nghị tăng lên rõ rệt, hầu hết đảm bảo về hình thức, chặt chẽ về nội dung. c. Kiến nghị với các cơ quan chức năng Theo báo cáo của VKSND TP Hải Phòng, trong hoạt động thực hiện chức năng KSHĐTP, VKS đã ban hành nhiều kiến nghị yêu cầu các cơ quan khắc phục vi phạm (xem bảng 2.6 phụ lục 1). Qua đó cho thấy, hoạt động thực hiện chức năng KSHĐTP của VKS đã góp phần giúp các cơ quan tư pháp hình sự hạn chế những sai phạm, kịp thời sửa chữa những vi phạm nhỏ không để trở thành lỗi hệ thống, góp phần đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian, tiền bạc cho nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cường pháp chế XHCN. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng nể nang, không mạnh tay với những vi phạm của các cơ quan tư pháp, còn e dè trong việc ban hành các kiến nghị sợ ảnh hưởng đến thành tích thi đua của các đơn vị bạn. Do vậy, vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật nhỏ chưa được khắc phục triệt để. 2.2. NHỮNG TỒN TẠI TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 2.2.1. Những tồn tại Nhằm đảm bảo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành đạt hiệu quả, VKSND nói chung và VKSND TP Hải Phòng nói riêng thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm tìm ra những tồn tại, hạn chế để tìm ra các biện pháp khắc phục nâng
  • 86.
    87 cao chất lượngTHQCT và kiểm sát giải quyết vụ án hình sự. Do vậy, chất lượng THQCT và KSXX trong những năm qua đã được nâng lên rõ rệt. Giai đoạn xét xử đã được quan tâm và đặt đúng là vị trí trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự bởi đây là khâu quan trọng nhất kiểm chứng lại toàn bộ các chứng cứ của vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án. VKSND đã thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động xét xử, đảm bảo việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan, kịp thời, không có trường hợp án quá hạn, hạn chế tình trạng án tồn đọng, oan, sai, lọt tội phạm. Chất lượng THQCT của KSV tại phiên tòa đã nâng lên, ngày một đáp ứng với yêu cầu cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng của KSV ngày càng hiệu quả, góp phần xây dựng uy tín cho ngành kiểm sát và bảo vệ pháp chế XHCN. Ba ngành Công an, VKS, Tòa án tiến hành phối hợp xác định nhiều vụ án trọng điểm, nhiều chuyên án lớn đặc biệt là việc phối hợp giải quyết các vụ án được xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp đã góp phần tuyên truyền, giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung và phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Theo báo cáo tổng kết năm và báo cáo các chuyên đề nghiệp vụ từ năm 2004 đến năm 2011, toàn ngành kiểm sát Hải Phòng đã xét xử sơ thẩm 11903 vụ/ 18568 bị can. Trong đó, có khoảng 1000 vụ án điểm, 3000 vụ án được đưa ra xét xử lưu động, 354 vụ án 08 (từ năm 2008 đến năm 2011), VKS kháng nghị 188 vụ. Không có vụ nào Tòa án tuyên không phạm tội và phải bồi thường theo Nghị quyết 388. Riêng vụ Nguyễn Trọng Êm phạm tội Giết người bồi thường theo Nghị quyết 388 là do CQĐT đình chỉ vì không chứng minh được tình trạng năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của bị can khi thực hiện hành vi phạm tội. (Nội dung: ngày 27/01/2006 Nguyễn Trọng Êm, sinh năm 1968 ở đội 11, xã Liên Khê, huyện Thủy nguyên, Hải Phòng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hải Phòng đầu thú về việc giết hai vợ chồng anh Phạm Văn Luân sinh năm 1962 và vợ là chị Lê Thị Thu sinh năm 1964 ở đội 11 xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Ngày 25/01/2006 CQĐT Công an thành phố đã ra quyết định khởi tố vụ án để tiến hành điều tra, đến ngày 18/02/2007 ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam đối với Nguyễn Trọng Êm về tội giết người. Quá trình điều tra không chứng minh được Êm có hành vi giết người, ngày 12/7/2008, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã căn cứ tại
  • 87.
    88 khoản 2 Điều164 BLTTHS ra quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Êm và tạm đình chỉ điều tra vụ án. Việc bồi thường này không liên quan đến giai đoạn xét xử). Nguyên nhân của các thành tựu đạt được: - Đường lối của Đảng về công tác cải cách tư pháp, về công tác THQCT và KSXX hình sự ngày càng hoàn thiện hơn. - Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, hình sự, luật tổ chức VKSND ngày càng hoàn thiện hơn. Chức năng nhiệm vụ của ngành kiểm sát được quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Nội dung của luật hình thức và luật nội dung cũng phù hợp với thực tiễn hơn, nhiều quy định được sửa đổi, nhiều loại tội phạm mới được bổ sung. - Lãnh đạo VKS Hải Phòng chỉ đạo điều hành ngày càng chặt chẽ, thường xuyên đổi mới phương pháp quản lý, đào tạo cán bộ để nâng cao chất lượng THQCT và KSHĐTP nói chung và kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm nói riêng. - Các KSV đều nhận thức rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành, đều có tinh thần trách nhiệm, luôn có ý thức cố gắng phấn đấu hoàn thiện mình để đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới. Nhiều KSV đã không ngừng học tập, tự giác học hỏi, nghiên cứu các văn bản chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản kiến thức khoa học chuyên ngành, bổ túc thường xuyên kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp: nghiên cứu kỹ hồ sơ, chuẩn bị đề cương xét hỏi, luận tội, dự kiến các tình huống tốt; ra phiên tòa thực hiện tốt các khâu công tác, tranh luận sắc bén, linh hoạt, phản ứng nhanh trước những diễn biến của phiên tòa, đề xuất mức án hợp lý, đúng đắn. - Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc của các KSV đã được trang bị tương đối đầy đủ: có máy tính xách tay, máy ảnh, camera... Chế độ lương, phụ cấp, khen thưởng được quan tâm kịp thời, động viên khích lệ tinh thần làm việc của cán bộ trong ngành. Bên cạnh những kết quả đã đạt, Công tác THQCT và KSXX sơ thẩm của VKSND TP Hải Phòng vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót sau: - KSV chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên vẫn để xảy ra tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung do không phát hiện được những vi phạm tố tụng, thiếu chứng
  • 88.
    89 cứ, lọt hànhvi phạm tội, lọt tội danh… tỷ lệ Tòa án trả đúng cao chiếm 2/3 tổng số án trả. Đối với một số vụ án phức tạp, việc đánh giá chứng cứ khó khăn, đông bị can, bị can không nhận tội… KSV chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ, làm việc chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm (ví dụ bị cáo chối tội, vụ án phức tạp nhưng KSV không tiến hành phúc cung khi các chứng cứ kết tội chưa vững chắc). Tình trạng copy, sao chép nội dung Kết luận điều tra sang Cáo trạng vẫn chưa chấm dứt, KSV còn thấy lúng túng trong việc lựa chọn cách viết cáo trạng đặc biệt đối với những vụ án phục hồi điều tra, đông bị can, bị can phạm nhiều tội ở nhiều địa bàn khác nhau… Chuẩn bị Luận tội hời hợt, đánh giá chứng cứ không chính xác, không chuẩn bị đề cương xét hỏi hoặc có chuẩn bị nhưng mang tính hình thức nên khi THQCT tại phiên tòa chất lượng không cao. Việc tranh luận của KSV chưa đạt hiệu quả, còn mang tính hình thức, qua loa, thậm chí có những KSV sợ tham gia phiên tòa sơ thẩm lưu động, hoặc những phiên tòa mẫu (thường những vụ này đông người tham dự), KSV bị áp lực tâm lý do quá căng thẳng dẫn đến tình trạng tụt huyết áp, ngất xỉu tại hội trường xử án không thể tiếp tục phiên tòa… KSV không nắm chắc hồ sơ vụ án và tình hình xã hội xung quanh vụ án, thiếu kinh nghiệm xét xử, không dự phòng được những tình huống sẽ xảy ra tại phiên tòa nên khi xảy ra tình huống KSV đã không biết phải xử lý như thế nào mà phải đề nghị HĐXX tạm dừng phiên tòa để tham khảo các đồng nghiệp khác hoặc tranh thủ ý kiến của lãnh đạo Viện. KSV không nắm được các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội…việc đánh giá các tình tiết này chưa chính xác, đề xuất loại và mức hình phạt chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nên tỷ lệ án hủy, cải sửa còn nhiều. Tỷ lệ Tòa án cấp trên chấp nhận kháng nghị không cao. Vì vậy, chất lượng THQCT và KSXX sơ thẩm chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. - Chất lượng THQCT vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn: + Việc soạn thảo, ban hành Cáo trạng còn hạn chế: một số Cáo trạng sử dụng văn phong, từ ngữ không mang tính phổ thông, diễn đạt trừu tượng khó hiểu, vẫn sử dụng văn nói, còn sao chép, cắt dán... Khi công bố Cáo trạng một số KSV chưa đọc rõ ràng, rành mạch, chưa có kinh nghiệm tham gia phiên tòa, hạn chế về thể chất, giọng nói, ngôn ngữ, còn nói ngọng, chưa ngắt nghỉ đúng nhịp, chưa đanh
  • 89.
    90 thép, có KSVđọc bị giật cục, chưa có điểm nhấn nên chưa thu hút người nghe, tính thuyết phục không cao. + Việc tham gia xét hỏi hời hợt, qua loa, đại khái, không sát với nội dung vụ án. Một số KSV chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc xét hỏi, chưa ghi chép đầy đủ diễn biến phiên tòa nên việc xét hỏi còn trùng lặp, chưa làm rõ được tội danh, chưa làm rõ được sự thật khách quan của vụ án; còn có tâm lý ngại đấu tranh, bị cáo khai khác với lời khai có tại hồ sơ, không cần hỏi nhiều mà công bố luôn lời khai tại giai đoạn trước… Đối với những vụ án phức tạp, đông bị cáo, có bị cáo không nhận tội, bị cáo nhận một phần tội đã thực hiện hoặc khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ, KSV xét hỏi chưa làm rõ tính đồng phạm (sự tiếp nhận ý chí của những người phạm tội), động cơ, mục đích, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, đặc điểm của chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ chưa được làm rõ (tính liên quan), lý lẽ của KSV chưa đủ để bác lời khai chối tội của bị cáo hoặc những quan điểm không đúng của những người tham gia tố tụng khác… Mặt khác, KSV chưa giữ được thái độ bình tĩnh khi xét hỏi, có người thì nóng nảy quá, quát tháo ầm ĩ, có người lại hỏi giọng quá nhẹ nhàng vừa hỏi vừa cười…, hỏi mớm cung cho các bị cáo. + Luận tội của KSV chưa bổ sung những thay đổi tại phiên tòa, có những tình huống khác hẳn so với nội dung dự kiến phát sinh tại phiên tòa: thay đổi tội danh, rút một phần truy tố (rút một trong số những tình tiết tăng nặng định khung) nhưng KSV không bổ sung vẫn đọc y nguyên Luận tội đã chuẩn bị từ trước. Thậm chí có KSV không giám quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình do sợ phải chịu trách nhiệm. Ví dụ: qua xét hỏi thấy nguyên nhân dẫn đến sự việc có một phần lỗi của bị hại, nên cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ, trong khi bị cáo đã có hai tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo và tự thú, KSV sợ không tranh luận được khi Luật sư đề nghị cho bị cáo hưởng án treo nên không dám cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 46 BLHS. Việc phân tích đánh giá chứng cứ buộc tội trong một số bản Luận tội còn yếu, chưa tập trung làm rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm, nhiều Luận tội mô tả hoặc copy y nguyên nội dung Cáo trạng. Phân tích chưa sâu, chưa làm bật lên nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, đánh giá chưa sát với thực tiễn. Nhiều Luận tội chưa thực sự chú ý đến việc tuyên truyền giáo dục
  • 90.
    91 pháp luật, kiếnnghị với các cơ quan quản lý nhà nước chuyên môn. Hầu như các KSV chỉ chú ý trong các phiên tòa lưu động, án điểm, án mẫu… Việc đề nghị mức án và áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo chưa phù hợp với thực tiễn và những thay đổi tại phiên tòa ví dụ: bị cáo phạm tội tàng trữ ma túy tuyên phạt hình phạt bổ sung là hình phạt tiền với mức từ 5 triệu đồng đến 7 triệu đồng trong khi bị cáo không có gia đình, không có công ăn việc làm, không có tài sản nào khác… việc tuyên phạt bổ sung không phù hợp đã dẫn đến tình trạng quá tải việc tồn đọng các việc thi hành án dân sự không có điều kiện thi hành. Hoặc trong trường hợp tại phiên tòa chứng minh bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ, KSV không dám hạ mức án khởi điểm đã duyệt từ trước xuống mà máy móc, sợ trách nhiệm nên vẫn đề nghị nguyên mức hình phạt đã duyệt, như vậy việc có thêm tình tiết giảm nhẹ không có ý nghĩa gì với bị cáo. Việc trình bày, diễn đạt Luận tội còn yếu, chủ yếu là đọc Luận tội đã được chuẩn bị sẵn. Vẫn còn tình trạng đọc chưa dứt khoát, thiếu mạnh mẽ nên người nghe thấy rời rạc, lủng củng, không làm bật lên được uy thế của VKS làm mất sự trang nghiêm của phiên tòa. Thậm chí có những Luận tội được sao chép, cắt dán khi đọc KSV không phát hiện ra sai tên bị cáo nên xét xử 1 bị cáo, luận tội 1 bị cáo... + KSV còn rụt rè, e ngại khi tranh tụng với luật sư và những người tham gia tố tụng khác, thậm chí còn có tình trạng KSV sợ tranh luận… Nhiều KSV chưa nhận thấy đây là nhiệm vụ quan trọng của VKS tại giai đoạn xét xử sơ thẩm. Đây cũng khâu công tác thể hiện bản lĩnh nghiệp vụ yếu nhất của ngành Kiểm sát nói chung và Kiểm sát Hải Phòng nói riêng. Một số KSV chưa tự tin khi tham gia tranh luận. Việc tranh luận chưa đúng nội dung, chưa tập trung vào vấn đề chính đang tranh luận, viện dẫn văn bản áp dụng pháp luật còn hạn chế nhiều khi nói vo nên phản bác lại các quan điểm trái chiều thiếu căn cứ và không thuyết phục. Những vụ án phức tạp, khó khăn trong việc đánh giá chứng cứ, KSV tranh luận còn yếu, thiếu về mặt lý luận cơ bản đưa ra những lý lẽ lập luận thiếu khoa học mang tính chung chung, không cụ thể, thậm chí áp đặt ý chí chủ quan... Khi tranh luận đuối lý có KSV thể hiện thái độ nóng nảy, dùng những từ ngữ không trong sáng để đối đáp làm mất sự trang nghiêm của phiên tòa.
  • 91.
    92 - Quá trìnhkiểm sát điều tra, truy tố KSV chưa làm hết trách nhiệm nên tình trạng vi phạm thủ tục tố tụng vẫn xảy ra, vẫn còn việc trả hồ sơ do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. - Quá trình KSXX, do trình độ nghiệp vụ của một số KSV còn hạn chế nên không phát hiện những sai phạm của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật nên tình trạng kháng nghị phúc thẩm trên 1 cấp vẫn còn nhiều. - KSV chưa thật sự tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật, chưa chủ động cập nhật, nghiên cứu các nội dung thay đổi, bổ sung để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Vẫn còn tình trạng ỷ lại vào lãnh đạo, cấp trên. Khi tham gia phiên tòa, chưa chuẩn bị các hệ thống văn bản pháp luật kèm theo để viện dẫn khi tranh luận chủ quan dựa vào trí nhớ của bản thân... 2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại 2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan - Hệ thống pháp luật của nước ta chưa hoàn thiện, còn thiếu nhiều văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, còn nhiều cách hiểu khác nhau giữa các CQTHTT, người tiến hành tố tụng nên việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất. - Sự phát triển của nền kinh tế thị trường làm gia tăng các loại tội phạm mới, hình thức hoạt động, quy mô, cách thức thực hiện, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đặc biệt là các loại tội phạm liên quan đến hoạt động viễn thông, công nghệ cao... Hệ thống pháp luật hình sự chưa kịp thời bổ sung nên việc xử lý đối với các loại tội phạm này còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nên tình trạng tội phạm ẩn còn nhiều. - Việc thay đổi chức năng, nhiệm vụ của ngành trong một thời gian ngắn đã xuất hiện những quan điểm xem nhẹ chức năng KSHĐTP chỉ chú trọng đến chức năng THQCT. Việc nghiên cứu chuyển đổi mô hình hoạt động từ VKS thành Viện công tố, chuyển đổi VKS theo mô hình khu vực cũng gây tâm lý hoang mang, không yên tâm công tác cho một bộ phận cán bộ KSV.
  • 92.
    93 - Quy địnhtái bổ nhiệm KSV với thời hạn 5 năm/lần chưa tạo được sự yên tâm công tác cho các KSV, làm việc còn e dè, sợ trách nhiệm. "Căn bệnh thành tích" phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng THQCT và KSXX sơ thẩm. - Việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhiều khi còn mang tính hình thức, ôm đồm quá nhiều nội dung, trong thời gian hạn hẹp từ 1 đến 2 ngày không thể giải quyết hết các vấn đề liên quan. Nội dung học tập một số chuyên đề quá sơ sài, thời gian thảo luận không có, nhiều lý thuyết mà chưa chú ý đến kinh nghiệm xử lý trong những trường hợp cụ thể. - Hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo điều hành đôi khi còn thiếu sát sao, đôn đốc chưa kịp thời nên vẫn còn tình trạng án trả do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hoặc khởi tố thêm tội danh... 2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan - Một bộ phận KSV nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành, còn thể hiện tư tưởng dao động, không tin tưởng vào sự ổn định chức năng nhiệm vụ của ngành, không có ý thức phấn đấu. - Việc tự học chưa được các KSV chú ý, việc tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ chỉ mang tính hình thức, đi cho đủ quân số. Khi trao đổi thảo luận mang tính thụ động, trả lời một cách qua loa, đại khái, không nghiên cứu các tài liệu liên quan đến hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Chưa ý thức cập nhật các văn bản pháp luật mới, tự giác nghiên cứu còn thể hiện thái độ làm việc dựa vào kinh nghiệm. - Năng lực trình độ của KSV chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, trình độ ngoại ngữ, tin học của KSV chưa kịp thời đáp ứng được nhiệm vụ, ví dụ: các loại tội phạm lừa đảo trên mạng, tội phạm rửa tiền, tội phạm liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao... - Mặc dù lực lượng các KSV được bổ sung kịp thời nhưng lực lượng các KSV tham gia xét xử sơ thẩm rất ít, đặc biệt là KSV trung cấp. Đa phần các KSV trung cấp hiện nay đang giữ các chức vụ quản lý, không trực tiếp làm công tác chuyên môn nên lực lượng KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm rất mỏng.
  • 93.
    94 - Trang thiếtbị vật chất mặc dù đã được trang bị nhưng vẫn chưa đủ, còn thiếu các thiết bị: máy ghi âm, máy vi tính, phương tiện đi lại... Chất lượng các loại trang thiết bị được cấp phát còn thấp, nhiều khi không có hiệu quả. Ví dụ: máy ảnh, máy camera chất lượng thấp độ phân giải không cao nên hình ảnh ghi lại không nét; máy ghi âm thu không rõ tiếng... - Chế độ lương, thưởng đã được quan tâm nhưng vẫn còn thấp chưa đảm bảo được cuộc sống cho các cán bộ, KSV nên chưa tạo được sự yên tâm công tác. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Bằng phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu với những quy định chung về chức năng, nhiệm vụ của ngành, thông qua thực tiễn thực hiện chức năng nhiệm vụ của VKS Hải Phòng. Luận văn đã đánh giá các thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Đặc biệt Luận văn tiến hành phân tích, đánh giá hoạt động tranh tụng, chất lượng tranh tụng, kỹ năng tranh tụng, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm. Đồng thời Luận văn chỉ rõ những nguyên nhân của những thành tựu, nguyên nhân của hạn chế để có cơ sở đưa ra những kiến nghị và giải pháp hoàn thiện thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát Hải Phòng tốt hơn nữa trong thời gian tới.
  • 94.
    95 Chương 3 NHỮNG KIẾNNGHỊ, ĐỀ XUẤT, GIẢI PHÁP 3.1. CƠ SỞ CỦA NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI VIỆN KIỂM SÁT KHI THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1.1. Dự báo các yếu tố tác động đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng 3.1.1.1. Dự báo tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian tới Trên cơ sở các báo cáo về điều kiện, tình hình phát triển của đất nước và của thành phố Hải Phòng trong những năm qua và thời gian tới đây; tình hình, yêu cầu của cải cách tư pháp đến năm 2020; diễn biến của tình hình tội phạm, kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong thời gian qua, em đưa ra dự báo về các yếu tố tác động đến công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm tới như sau: Tình hình kinh tế - xã hội trong thời gian tới: Năm 2010 nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong nước, Chính phủ quyết tâm giải tỏa các điểm nghẽn của nền kinh tế, tiếp tục các biện pháp kích cầu đã giúp nền kinh tế dần lấy lại đà phục hồi, hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên. - Thành phố tập trung triển khai thực hiện Đề án phát triển kinh tế biển thành phố Hải Phòng đến năm 2015 định hướng đến năm 2020. Nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm khai thác các lợi thế về dịch vụ hàng hải, phát triển và khai thác cảng biển, du lịch biển. Hoạt động cạnh tranh không lành mạnh giữa các cá thể kinh doanh, doanh nghiệp sẽ phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến kinh tế. Dự kiến trong thời gian tới, các yếu tố mặt trái của nền kinh tế thị trường sẽ ảnh hưởng
  • 95.
    96 không nhỏ đếnhoạt động các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng trong đó có VKS. - Triển khai Quyết định số 1448/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng thành phố Hải Phòng đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050 bằng các Đề án, Dự án cụ thể. Tổ chức công bố công khai các quy hoạch và cắm mốc các quy hoạch được duyệt để quản lý. Khẩn trương rà soát, xây dựng quy chế quản lý quy hoạch, quản lý đô thị, kiểm tra, xử lý vi phạm. Đây là lĩnh vực liên quan đến đất đai, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Nếu các cơ quan chức năng làm chưa tốt một mặt nào đó sẽ gây ra tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây bức xúc trong nhân dân sẽ kéo theo nhiều loại vi phạm pháp luật mới, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố. - Tập trung chỉ đạo thực hiện tốt Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính Giai đoạn III, đẩy mạnh cải cách hành chính giai đoạn 2010- 2015, thường xuyên, kiên quyết và đồng bộ, có trọng tâm từ cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, cải cách tài chính công và hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Tình hình cải cách tư pháp trong thời gian tới: Từ nay đến năm 2020 là một khoảng thời gian tương đối dài, sẽ có nhiều yếu tố tác động đến việc hoạch định có tính chất chiến lược của Đảng và nhà nước về thể chế. Trong đó: - Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, sẽ xác định cụ thể mô hình và chức năng nhiệm vụ của VKS theo hướng VKS vẫn là một cơ quan Nhà nước được quy định trong Hiến pháp và là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước phù hợp với Hiến pháp; tiếp tục thực hiện nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành. Theo định hướng của Nghị quyết 49 đề cập đến vấn đề nghiên cứu chuyển mô hình VKS thành Viện công tố. Như vậy, Viện công tố có sự khác biệt như thế nào so với VKS như hiện nay. Viện công tố tương lai có thực hiện chức năng KSHĐTP nữa hay không? Các nhiệm vụ cụ thể của KSV/ Công tố viên đối với hoạt động xét xử sơ thẩm là gì? Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hay KSV là người xét hỏi chính? KSV tranh
  • 96.
    97 tụng như thếnào? Thời hạn tranh tụng có bị giới hạn không? Thời hạn xét xử giải quyết vụ án sẽ quy định như thế nào? Thẩm quyền của VKS đối với giai đoạn phúc thẩm sẽ ra sao? Một thực tế là trên thế giới hiện nay, mô hình tổ chức cơ quan công tố cũng có nhiều kiểu. Vậy, mô hình Viện công tố Việt Nam sẽ được tổ chức như thế nào? Tất cả những vấn đề này sẽ được giải đáp trong thời gian tới. - Chính sách hình sự sẽ có sự thay đổi lớn theo chiến lược xây dựng đến năm 2020, một số điều luật mới bổ sung nhằm điều chỉnh một số quan hệ pháp luật phát sinh. Nhà nước ta đang xây dựng xã hội dân sự phát triển điều đó cũng đồng nghĩa với việc một số điều luật trong BLHS hiện hành sẽ được sửa đổi căn bản theo hướng giảm mức hình phạt ở các khung của điều luật theo hướng nhẹ hơn, thậm chí sẽ loại bỏ một số loại tội phạm (lạm dụng, lừa đảo…). Mở rộng việc áp dụng các loại hình phạt không phải phải là hình phạt tù đối với tội ít nghiêm trọng. Hạn chế hình phạt tử hình… - Quốc hội sẽ sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003 theo hướng phù hợp với quy định của Hiến pháp. Theo đó, chức năng, nhiệm vụ của VKS nói chung và chức năng, nhiệm vụ của VKS trong công tác THQCT, KSXX sơ thẩm nói riêng sẽ được quy định lại. VKS vẫn tiếp tục thực hiện hai chức năng THQCT và KSHĐTP tăng cường trách nhiệm của VKS trong hoạt động xét xử sơ thẩm hình sự, đặc biệt chú ý đến hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm. Sau năm 2015 sẽ chuyển từ mô hình VKS tổ chức ba cấp theo đơn vị hành chính sang mô hình VKS bốn cấp (khu vực) tương đương với hệ thống của Tòa án, không phụ thuộc và đơn vị hành chính. Theo đó Luật tổ chức VKS cũng có những thay đổi theo hướng trên. - Theo tinh thần của Nghị quyết 49 thì cơ cấu tổ chức của VKS sẽ thay đổi về yêu cầu nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ VKS, đặc biệt là năng lực tranh tụng trong giai đoạn KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự. Bồi thường oan, sai trong hoạt động tố tụng hình sự đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp chính quyền và quần chúng nhân dân. Luật bồi thường Nhà nước có hiệu lực pháp luật là những thách thức và là rào cản đối với ĐTV, KSV, Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án. Các ĐTV, KSV, Thẩm phán sẽ thận trọng hơn trong điều tra, truy tố, xét xử; tư tưởng đùn đẩy trách nhiệm giữa các CQTHTT rất dễ nảy sinh
  • 97.
    98 chùn bước trongviệc đấu tranh với tội phạm, e dè trong việc đưa ra quyết định quan trọng liên quan đến việc giải quyết vụ án. - Ngạch bậc KSV sẽ thay đổi theo đơn vị hành chính. Thời hạn bổ nhiệm KSV sẽ thay đổi theo hướng không quy định thời hạn năm năm như hiện nay. Hệ thống thang bậc lương sẽ thay đổi ngoài phụ cấp nghề nghiệp như hiện nay, còn có phụ cấp thâm niên và những phụ cấp khác. Trước tình hình trên VKS phải chủ động nắm bắt chủ trương nói trên của Đảng và Nhà nước để chủ động triển khai trong công việc của ngành mình. Đồng thời có kế hoạch đào tạo một đội ngũ KSV nắm chắc các quy định pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ khi thực hiện nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao cho. 3.1.1.2. Tình hình tội phạm trong thời gian tới Xuất phát từ đường lối, chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của Đảng, nhà nước và thành phố. Từ kết quả và những kinh nghiệm đã được tích lũy trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, cùng với thực trạng tình hình tội phạm, những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Em đưa ra về một số dự báo tình hình tội phạm ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng trong thời gian tới như sau: Tình hình tội phạm ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành phố Hải phòng nói riêng sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng về số lượng, tính chất, mức độ, thủ đoạn phạm tội ngày nghiêm trọng và phức tạp hơn. Một số loại tội xâm phạm về trật tự xã hội có chiều hướng gia tăng, phức tạp, xu hướng hình thành băng, ổ, nhóm tội phạm sử dụng vũ khí hiện đại để thực hiện hành vi phạm tội, cách thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội dã man, tàn bạo hơn… Bên cạnh những tội phạm "đặc trưng theo kiểu Hải Phòng" - manh động, côn đồ thường sử dụng vũ khí nóng, hiện đại thanh toán lẫn nhau giữa các băng nhóm, thậm chí đe dọa cả những người tiến hành tố tụng đã và đang hoạt động như hiện nay có thể xuất hiện một số loại tội phạm nguy hiểm, hoạt động mang tính xuyên quốc gia như: Khủng bố quốc tế, tội phạm trong lĩnh vực tin học, công nghệ
  • 98.
    99 sinh học, viễnthông, tội phạm bắt cóc con tin, không tặc, hải tặc, tội phạm có tính chất khủng bố, xã hội đen, tội phạm có sử dụng vũ khí và các phương tiện khoa học kỹ thuật gây hậu quả tác hại lớn, buôn lậu quốc tế, tội phạm về ma túy, lừa đảo, rửa tiền, sản xuất và tiêu thụ hàng giả … Ngoài ra một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng như: Cướp có sử dụng vũ khí, cướp ngân hàng, kho bạc, cướp xe ôtô du lịch, cướp tài sản người nước ngoài, cướp tiệm vàng, tội phạm giết người do các mâu thuẫn xã hội, tội phạm cố ý gây thương tích, gây rối trật tự công cộng, chống người thi hành công vụ, tội buôn bán người. Tội phạm về kinh tế sẽ xuất hiện những loại tội phạm mới như tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, tội phạm quốc tế, tội phạm đình công, biểu tình trong các doanh nghiệp có thuê công nhân hoặc hợp đồng lao động… một số tội phạm có liên quan đến nước ngoài sẽ gia tăng. Các hành vi phạm tội của người nước ngoài ở Việt Nam sẽ có chiều hướng gia tăng và phức tạp ở các loại tội: lừa đảo, kinh doanh trái phép, trốn thuế, cố ý làm trái, kinh doanh hàng giả, mua bán vận chuyển trái phép ma túy, buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, tẩy rửa tiền bất hợp pháp có thủ đoạn phạm tội kín đáo, tinh vi hơn. Tội phạm về ma túy tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều loại ma túy mới được phát hiện như Ketamin, Methamphetamine, tài mà, cỏ… hình thức phạm tội ngày càng tinh vi hơn nhất là các tội phạm sản xuất, tàng trữ, mua bán trái phép các chất ma túy. Các chợ ma túy hình thành công khai và buôn bán theo kiểu "lô cốt" sẽ cản trở hoạt động điều tra, xử lý loại tội phạm này. Đối tượng nhóm tội phạm này nhằm đến chủ yếu là thanh, thiếu niên mới lớn. Sẽ tiếp tục hình thành các đường dây về các tội phạm về ma túy, có sự móc nối, liên kết với đối tượng là người nước ngoài, nhất là các nước láng giềng. Đối tượng phạm tội sẽ triệt để lợi dụng các tuyến giao thông quốc tế (sắt, thủy, bộ, hàng không) để vận chuyển ma túy với thủ đoạn cất giấu, đối phó sẽ ngày càng xảo quyệt hơn. Về địa bàn phạm tội ở thành phố Hải Phòng trong thời gian tới, dự báo tội phạm xảy ra chủ yếu ở các đô thị tập trung đông dân cư và một số huyện có diện tích rộng, giáp ranh như: quận Lê Chân, Ngô Quyền, các huyện Thủy Nguyên, An Dương... Bên cạnh đó, các đối tượng phạm tội cũng sẽ móc ngoặc với các cán bộ cơ quan nhà
  • 99.
    100 nước nói đểphạm tội và với các cán bộ tư pháp nói riêng để "chạy án, chạy tội". Các tội phạm liên quan đến chức vụ, tham nhũng cũng sẽ gia tăng. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với các ngành tư pháp nói chung và VKS nói riêng trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm. Đòi hỏi các cán bộ tư pháp phải có bản lĩnh nghề nghiệp, lập trường tư tưởng vững vàng không trở thành "tay sai" của tội phạm. Tóm lại, tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội và những tiêu cực khác ở nước ta nói chung và tại Hải Phòng nói riêng trong thời gian tới có xu hướng tiếp tục diễn biến phức tạp và sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công tác THQCT, KSXX sơ thẩm các vụ án hình sự. Đòi hỏi các cấp Ủy Đảng, chính quyền thành phố, các ngành và toàn xã hội và đặc biệt là các CQTHTT phải phối hợp chặt chẽ, chủ động đấu tranh đối với tội phạm mới đạt kết quả. 3.1.2. Các định hướng thực hiện chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3.1.2.1. Thực tiễn cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm qua Triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thành ủy, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố Hải Phòng, các cơ quan tư pháp thành phố đã xây dựng nhiều chương trình, giải pháp tích cực nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương. Năm 2007, thực hiện ý kiến của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố, các ngành tư pháp thành phố đã có sự chủ động phối hợp tổ chức xây dựng các chuyên đề đánh giá về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp tại địa phương (Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án và Luật sư). Trên cơ sở đó tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm nhằm phân tích, đánh giá các hạn chế và bàn các giải pháp nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp và bổ trợ tư pháp. Năm 2008, ngành tư pháp thành phố tiếp tục phối hợp tổ chức thành công hội thảo bước hai chương trình cải cách tư pháp, tập trung vào việc: "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự".
  • 100.
    101 Trên cơ sởthành công của hội thảo bước 1, bước 2, năm 2009 Thành ủy Hải Phòng, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp thành phố tiếp tục chỉ đạo các cơ quan tư pháp thành phố xây dựng quy chế phối hợp trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố. Đến nay các ngành đã cùng thống nhất ký kết và triển khai thực hiện Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết các vụ án hình sự giữa các CQTHTT (CQĐT, VKS và Tòa án). Các giải pháp đề ra đang được triển khai thực hiện và phát huy hiệu quả trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm trong thời gian qua. Năm 2009 VKSNDTP Hải Phòng tổ chức chuyên đề: "các phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết 08" tổ chức thi "Kiểm sát viên giỏi trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, thi hành án..." để tăng cường nâng cao chất lượng THQCT và KSXX của KSV. Triển khai kế hoạch chương trình cải cách tư pháp bước 3, năm 2010 VKSNDTP Hải Phòng tổ chức chuyên đề: "tổ chức các phiên tòa nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên”. Qua đó, chất lượng xét hỏi, chất lượng luận tội, chất lượng tranh tụng cũng được nâng lên. Mọi hành vi, xử sự của KSV và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa đã chuẩn mực hơn, thể hiện văn hóa pháp đình cao hơn, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ngày càng được quan tâm hơn. Tuy nhiên, cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố Hải Phòng còn nhiều khó khăn vướng mắc, cần có những giải pháp hữu hiệu hơn ở tầm vĩ mô, tạo cơ sở pháp lý cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp thành phố. 3.1.2.2. Yêu cầu đối với Viện kiểm sát, Tòa án ở giai đoạn xét xử trong tiến trình cải cách tư pháp Các chủ trương của Đảng và những quy định mới của Nhà nước đối với ngành Kiểm sát trong thời gian tới: - Về chức năng của ngành Kiểm sát: trước mắt vẫn giữ nguyên hai chức năng THQCT và KSHĐTP.
  • 101.
    102 - Tăng cườngnhiệm vụ công tố đặc biệt là trong giai đoạn điều tra, gắn công tố với điều tra để tiến đến chỉ đạo hoạt động điều tra. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì phải nâng cao chất lượng tranh tụng của KSV tại phiên tòa. - Tăng cường vai trò của VKS trong việc KSHĐTP, trong đó nhấn mạnh tăng cường KSHĐTP trong xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, giam giữ cải tạo, thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo. - Đổi mới VKSND theo tiến trình cải cách tư pháp, theo đó tổ chức VKS theo mô hình khu vực (4 cấp), không theo địa giới hành chính phù hợp với TAND. Các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Kiểm sát trong thời gian tới: - Một là, làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, các quy định của pháp luật về VKSND, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong cải cách tư pháp. - Hai là, công tác kiểm sát phải bám sát, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng. - Ba là, nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân. - Bốn là, nâng cao vai trò chủ động và trách nhiệm của Viện trưởng VKSND các cấp, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc VKSNDTC trong quản lý, chỉ đạo điều hành. - Năm là, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. - Sáu là, đổi mới công tác kế hoạch - tài chính, công tác thống kê, tăng cường hợp tác quốc tế, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành. Xuất phát từ những đặc điểm điều kiện thực tế của thành phố, Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp thành phố Hải Phòng đã đặt ra một số yêu cầu: Đối với cơ quan VKS: Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành trong theo quy định tại Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS, BLHS, Quy chế THQCT và KSXX... Nâng cao chất lượng THQCT, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động
  • 102.
    103 điều tra, truytố, xét xử. Phấn đấu không để xảy ra trường hợp VKS truy tố, Tòa án tuyên không phạm tội. Chủ động đào tạo nâng cao chất lượng xét xử, đặc biệt là chất lượng tranh tụng tại phiên tòa cần được quan tâm, chú ý. Các quyền con người phải được bảo đảm. Sau các phiên tòa cần tổ chức rút kinh nghiệm để đánh giá những ưu, khuyết điểm từ đó tìm ra những hạn chế cần phải khắc phục, sửa chữa kịp thời. Chủ động phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan đấu tranh có hiệu quả và giải quyết kịp thời, nghiêm minh đối với các loại tội xâm phạm an ninh quốc gia; các vụ án trọng điểm về buôn lậu, ma túy; các vụ án xâm phạm trật tự an toàn xã hội mà dư luận xã hội quan tâm. Tập trung phát hiện xử lý kiên quyết các vụ án tham nhũng để nâng cao hiệu quả đích thực trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phòng chống tham nhũng. Tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm việc giải quyết các vụ án trọng điểm về tham nhũng, những vụ án đã có ý kiến chỉ đạo của cấp ủy xác định những vấn đề tồn tại cần tiếp tục giải quyết. Đề xuất cơ chế, chính sách, biện pháp phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, xử lý có hiệu quả đối với các hành vi tham những, nhất là hành vi đưa, nhận hối lộ, lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản, cố ý làm trái gây hậu quả nghiêm trọng. Tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng gây ra. Tiến hành rà soát, đánh giá việc giải quyết các vụ việc khiếu kiện về tư pháp, tập trung phối hợp với các ngành chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu kiện về tư pháp kéo dài và vẫn còn tái khiếu trong lĩnh vực tư pháp. Đối với cơ quan Tòa án: Tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của Tòa án, trọng tâm là hoạt động xét xử; thực hiện đúng các quy định của BLTTHS, BLHS; tổ chức xét xử kịp thời, nghiêm minh đúng pháp luật các vụ án, nhất là các vụ án lớn, trọng điểm góp phần thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm tham nhũng, ma túy, buôn lậu, tội phạm có tổ chức hoạt động theo kiểu "xã hội đen".
  • 103.
    104 Trên cơ sởlộ trình cải cách tư pháp và hướng dẫn của TANDTC, đánh giá kết quả bước đầu triển khai và chủ động thực hiện đề án tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định của BLTTHS. 3.2. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Trên cơ sở các vấn đề lý luận cơ bản về THQCT, KSXX sơ thẩm, qua đánh giá thực trạng công tác này trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2011. Từ những yêu cầu đã nêu trên, để VKS Hải Phòng làm tốt công tác THQCT, KSXX cần thực hiện tốt một số nhóm giải pháp cơ bản sau: 3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật 3.2.1.1 Hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát trong Hiến pháp Hiện nay, trong giới nghiên cứu đang hình thành hai hệ thống quan điểm về chức năng nhiệm vụ của ngành Kiểm sát: Một là: bỏ chức năng kiểm sát, chỉ tập trung làm tốt một chức năng là công tố. Những người theo quan điểm này cho rằng đây là xu hướng tất yếu khách quan trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Nếu giao cả hai chức năng THQCT và KSHĐTP cho VKS sẽ làm lẫn lộn hai chức năng này với nhau, giống như tình trạng "vừa đá bóng vừa thổi còi" nên không khách quan, làm giảm chức năng công tố, không tập trung toàn bộ hoạt động của mình để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nên hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không cao. Những người theo quan điểm này thường đặt ra câu hỏi, VKS kiểm sát hoạt động của các cơ quan tư pháp còn cơ quan nào sẽ kiểm sát hoạt động của VKS? Trong điều kiện đất nước hiện nay, vai trò của VKS trong hoạt động điều tra chưa mạnh, chưa có thực quyền, năng lực trình độ của KSV chưa ngang tầm với những quyền hạn mà nhà nước trao cho ngành Kiểm sát. Hơn nữa, hiện nay đất nước chúng ta đang trong giai đoạn mở cửa, hội nhập, cần có những quy định thống nhất, tương
  • 104.
    105 đồng với cácnước trên thế giới để tạo điều kiện đưa đất nước phát triển, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới. Hai là: vẫn giữ nguyên chức năng, nhiệm vụ của VKS như hiện nay. Thậm chí một số người cùng quan điểm này còn muốn phục hồi chức năng kiểm sát chung như trước đây. Những người theo quan điểm này cho rằng bản nhất nhà nước ta là nhà nước XHCN, quyền lực tập trung thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước không giống các nước theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa hay truyền thống luật án lệ, đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập. Do đó, mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước ta cũng khác so với các nước khác. Tương tự như mô hình của các nước theo hệ thống XHCN trước đây, Trung Quốc, Lào, Cu Ba, Bắc Triều Tiên...cơ quan VKS được giao chức năng THQCT và KSHĐTP. Xuất phát từ điều kiện kinh tế của nhà nước ta - công hữu về tư liệu sản xuất nên rất cần có một cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra trông coi, giám sát tài sản của nhà nước khỏi sự xâm phạm của những đối tượng khác. Nhà nước ta thực hiện chế độ nhất nguyên về chính trị, không có sự kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền lực mà chủ yếu là phân công, phối hợp để cùng thực hiện thống nhất quyền lực nhà nước tập trung dưới sự chỉ đạo của Quốc hội - cơ quan dân cử đại diện cho quyền và lợi ích của nhân dân. Các quyền lực của các cơ quan tư pháp (quyền của VKS) là quyền phái sinh từ quyền lực của Quốc Hội (chỉ giám sát ở tầm thấp) và phải chịu sự giám sát của Quốc Hội. Hoạt động giám sát của Quốc Hội chỉ nhằm kiểm tra, giám sát các chủ thể trong việc thực hiện Hiến pháp do Quốc Hội ban hành. Bên cạnh đó, trình độ nhận thức pháp luật của người dân chưa cao, văn hóa pháp lý chưa phát triển, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật còn thấp, tình trạng coi thường pháp luật còn tương đối phổ biến. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, VKS thực hiện 02 chức năng THQCT và KSHĐTP không bị chồng chéo, trùng lặp mà hai chức năng này bổ trợ cho nhau. VKS đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, thể hiện tính hữu hiệu của cơ chế giám sát. Vì vậy, trong điều kiện đất nước ta hiện nay, cơ quan VKS với hai chức năng THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật để đảm bảo việc chấp hành pháp luật thống nhất tạo điều kiện tiền đề cho xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN.
  • 105.
    106 Em đồng ývới quan điểm thứ 2, cần giữ nguyên chức năng nhiệm vụ của VKS như hiện nay. Vì đất nước chúng ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đẩy mạnh tiến trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Trong đó, yêu cầu cấp bách đặt ra trong các văn kiện của Đảng trong những năm gần đây là tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Thực tiễn cho thấy, trong thời gian qua đã chỉ rõ sự thiếu đồng bộ của hệ thống các cơ quan kiểm tra, giám sát; sự bất cập việc kiểm tra giám sát... Điều này đã được chứng minh bằng nhiều công trình nghiên cứu trong những năm qua. Và nói rộng ra một chút, sự bất cập này đã được chứng minh bằng việc Quốc Hội đã trả lại cho VKS chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự. Lý luận và thực tiễn đều chứng minh sự cần thiết phải có sự kiểm tra, giám sát của VKS trong lĩnh vực KSHĐTP. Đối với chủ trương chuyển VKS thành Viện công tố theo quy định tại Nghị quyết 49-NQ/TW: "... Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống Tòa án nhân dân. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [9]. VKS hay Viện công tố, chức năng công tố hay chức năng vừa công tố vừa KSHĐTP đang là vấn đề đặt ra đối với các Cơ quan chức năng của nước ta hiện nay. Nhìn rộng ra xung quanh các nước trong khu vực và trên thế giới, mô hình VKS và Viện công tố cũng có nhiều đặc trưng giống và khác nhau. Không hẳn Viện công tố chỉ thực hiện duy nhất chức năng công tố mà không thực hiện chức năng kiểm sát và ngược lại VKS chỉ thực hiện hai chức năng công tố và KSHĐTP. Nhiều công trình nghiên cứu về mô hình tổ chức hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của VKS/Viện công tố các nước trên thế giới đã chỉ ra rằng: những nước Mỹ, Nhật, Pháp, Bỉ, Ba Lan, Hà Lan, Rumani, Đan Mạch... Viện công tố chỉ thực hiện duy nhất chức năng công tố. Các nước theo hệ thống XHCN trước đây, Nga, Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Lào, Columbia, Equador... VKS/Viện công tố thực hiện hai chức năng công tố và kiểm sát. Riêng đối với chức năng kiểm sát thì tùy từng điều kiện của các quốc gia khác nhau mà phạm vi của chức năng này được thu hẹp hoặc mở rộng. Việt Nam xây dựng mô hình cơ quan VKS gần như "sao chép" mô hình của Liên Xô và các
  • 106.
    107 nước XHCN trướcđây. Trong giai đoạn hiện nay, việc chuyển đổi VKS thành Viện công tố chúng ta cũng cần lưu ý đến bài học về cải tổ chức năng, nhiệm vụ VKS Liên Bang Nga trước đây. Như chúng ta đã biết, sau khi Liên Xô tan ra, nước Nga kế thừa toàn bộ các hệ thống cơ quan nhà tư pháp của Liên Xô cũ. Năm 1991, đề án cải cách tư pháp được đưa ra cải tổ chức năng của VKS theo đó VKS chỉ còn duy nhất một chức năng công tố, buộc tội trước tòa với lập luận chức năng giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật đã có các thiết chế khác đảm nhiệm, còn việc giám sát các hoạt động tư pháp của VKS là trái với yêu cầu độc lập của Tòa án và hoạt động xét xử. VKS cần tập trung làm tốt chức năng buộc tội trước tòa. Nhưng ngay sau đó, năm 1992 các Đại biểu Xô Viết tối cao Liên bang Nga đã bỏ phiếu phủ quyết đề án này tại kỳ họp đầu tiên. Đồng thời là bài học hạn chế quyền, nhiệm vụ của VKS trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở nước ta trong giai đoạn vừa qua đã thấy được sự thiếu hụt, mất cân bằng, ổn định xã hội, áp dụng pháp luật thiếu nghiêm chỉnh dẫn đến tình trạng án xử hủy nhiều trong lĩnh vực dân sự. Do đó, em không đồng tình với quan điểm chuyển VKS thành Viện công tố. Đồng thời em kiến nghị giữ nguyên điều 137 Hiến pháp, quy định về chức năng, nhiệm vụ của VKS như hiện nay. 3.2.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm Thực tiễn đã chứng minh những quy định tại BLHS, BLTTHS, Thông tư liên ngành, Quy chế nghiệp vụ của VKSNDTC... có nhiều bất cập, trực tiếp ảnh hưởng đến công tác THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự làm phát sinh những vướng mắc, tồn tại cần được sửa đổi bổ sung và hướng dẫn tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật thống nhất, cụ thể như sau: a. Hoàn thiện các quy định của BLHS BLHS mới được sửa đổi bổ sung năm 2009 song mới chỉ tập trung sửa đổi những vấn đề cấp bách mang tính thời sự nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn như: giảm hình phạt tử hình, điều chỉnh định lượng truy cứu trách nhiệm hình sự, điều chỉnh cấu thành và hình phạt đối với một số tội phạm. Bổ sung thêm một số hành vi phạm tội mới trong thực tiễn. Từ nay đến năm 2020, chúng ta cần
  • 107.
    108 phải sửa đổicác quy định pháp luật hình sự một cách tổng thể, mang tính đồng bộ giữa phần chung và phần riêng. - Về khái niệm "tội phạm" và "phân loại tội phạm": đây là những quy định thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Việc phân hóa tội phạm theo định tính (phân hóa thành 04 loại tội phạm) quy định tại điều 8 BLHS hiện nay, thực tế áp dụng pháp luật phân biệt rất khó khăn, chủ yếu dựa vào khung hình phạt. Gộp khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm vào cùng một điều luật về mặt kỹ thuật lập pháp chưa đảm bảo bởi đây là hai khái niệm hết sức cơ bản của BLHS. Xác định hành vi vi phạm pháp luật xảy ra có phải là tội phạm hay không, đòi hỏi việc quy định các giới hạn của tội phạm hóa và phi tội phạm hóa cần được quy định cụ thể trong BLHS. Do vậy, cần phải tách thành hai điều luật cụ thể quy định rõ về tội phạm và phân loại tội phạm. - Quy định rõ cụ thể các trường hợp miễn, loại trừ trách nhiệm hình sự trong BLHS thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong lĩnh vực hình sự, tăng cường áp dụng các biện pháp, chế tài ít nghiêm trọng hơn chế tài hình sự; mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp tha miễn trách nhiệm hình sự. - Bổ sung và hoàn thiện các quy định về chế định lỗi, chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm (BLHS hiện hành quy định thiếu hai khái niệm tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hoàn thành), chế định đồng phạm (cần quy định cụ thể giữa khái niệm phạm tội có tổ chức và tổ chức phạm tội). Quy định cụ thể chế định đa tội phạm (phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm...). Việc quyết định hình phạt trong trường hợp có đồng phạm cũng cần quy định cụ thể, thống nhất giữa Điều 47 và Điều 53 BLHS "khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xem xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó" [30]. Thực tiễn xét xử những vụ án có đông bị cáo tham gia, tính chất, mức độ tham gia của các đồng phạm rất khác nhau nhưng vì đồng phạm nên các bị cáo phải chịu
  • 108.
    109 trách nhiệm hìnhsự theo khung hình phạt tương ứng. Điều 47 quy định: "chỉ khi có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 BLHS Tòa án mới có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định" [30]. Thực tế có những vụ án đồng phạm bị cáo là đầu vụ, chủ mưu, thực hành tích cực, hoặc hưởng lợi chính từ hành vi phạm tội so với các đồng phạm khác tính chất vai trò của các bị cáo đồng phạm khác thấp hơn nhưng mức án bị xét xử bằng hoặc thậm chí thấp hơn bị cáo vai trò nguy hiểm trong vụ án vì những bị cáo này có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46. Hoặc thậm chí chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 điều 46 nhưng ở những tình tiết quy định ghép, Tòa án tách các tình tiết này để thành nhiều tình tiết giảm nhẹ tại điều 46. Ví dụ điểm p (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) khoản 1 điều 46 BLHS. Thực tiễn vận dụng còn nhiều bất cập, chưa có các quy định cụ thể về những vấn đề này. Các tình tiết giảm nhẹ cần được nêu rõ khái niệm để vận dụng thống nhất trên thực tiễn tránh tùy tiện trong áp dụng pháp luật. Khái niệm tự thú, đầu thú, gây thiệt hại không lớn... Đồng thời cũng cần làm rõ các khái niệm chưa được giải thích rõ bằng các quy định cụ thể: phạm tội có tính chất côn đồ, phạm tội vì động cơ đê hèn, phạm tội nhiều lần, vì động cơ đê hèn; hậu quả nghiêm trọng, ít nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng... Các tội phạm cụ thể cần xây dựng theo hướng nhân đạo hóa. b. Hoàn thiện các quy định của BLTTHS Thực tiễn xét xử cho thấy, mặc dù BLTTHS đã được sửa đổi bổ sung so với BLTTHS năm 1988 nhưng vẫn còn nhiều quy định chưa thực sự đi vào đời sống tố tụng. Nhiều quy định còn chưa rõ ràng, đặc biệt là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay, khi yêu cầu về việc thực thi nhiệm vụ của các CQTHTT đang đòi hỏi trình độ lập pháp về tố tụng phải cao hơn nữa. Đứng trước những dự kiến thay đổi về chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của các CQTHTT, cụ thể là Tòa án và VKS đòi hỏi BLTTHS cần phải sửa đổi kịp thời đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Việc xác định mô hình tố tụng là thẩm vấn, tranh tụng hay thẩm vấn đan xen lẫn tranh tụng sẽ liên quan trực tiếp đến các quy định của BLTTHS. Nếu chúng
  • 109.
    110 ta chuyển đổiVKS thành Viện công tố thì điều đó cũng có nghĩa mô hình tố tụng của chúng ta không còn là tố tụng thẩm vấn đan xen tranh tụng như hiện nay nữa mà chuyển sang mô hình tố tụng tranh tụng. Như vậy, cũng với những điều kiện về đặc điểm tình hình đất nước, trình độ dân trí, trình độ nhận thức pháp luật, trình độ ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta đã phân tích ở trên thì mô hình tố tụng tranh tụng chưa thực sự phù hợp với đất nước ta. Trong thời kỳ quá độ, nước ta vẫn nên duy trì mô hình tố tụng thẩm vấn đan xen tranh tụng như hiện nay là phù hợp, chủ yếu tập trung tăng cường hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa sơ thẩm hình sự. Điều này, đã được chứng minh bằng thực tiễn thực hiện chức năng nhiệm vụ hơn 50 năm qua của ngành Kiểm sát nhân dân. Để tạo điều kiện đưa đất nước hội nhập cùng thế giới, trong lĩnh vực tố tụng hình sự, chúng ta cần nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các mô hình tố tụng trên thế giới vận dụng linh hoạt trong điều kiện của Việt Nam nhằm tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch trong quá trình giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Bổ sung một số nguyên tắc cơ bản của BLTTHS: - Nguyên tắc tranh tụng: chưa được quy định thành nguyên tắc cụ thể bằng điều luật riêng trong BLTTHS mà được đề cập trong các điều 19 và các điều cụ thể khác trong BLTTHS. Việc xây dựng, ghi nhận nguyên tắc tranh tụng thành điều luật cụ thể trong BLTTHS có ý nghĩa là tư tưởng chủ đạo trong việc xây dựng các quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt là thủ tục tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Nguyên tắc suy đoán vô tội: được coi là tiêu chí để đánh giá một nhà nước có thực sự dân chủ và tôn trọng quyền con người hay không. BLTTHS nước ta chưa quy định nguyên tắc này thành một điều luật riêng nhưng đã được đề cập tại Điều 10 "trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các CQTHTT", Điều 9 "không ai bị có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật". Nhiều nước trên thế giới ghi nhận nguyên tắc này trong hiến pháp để thể hiện sự dân chủ của mình. Nước ta đang trong thời kỳ quá độ, xây dựng nhà
  • 110.
    111 nước pháp quyềnXHCN, cần ghi nhận nguyên tắc này trong BLTTHS bằng một điều luật riêng để xác định đây là những tư tưởng chủ đạo xây dựng, hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật. - Nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo: nguyên tắc này chưa được quy định trong BLTTHS nhưng thực tiễn quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự các CQTHTT đã quan tâm đến nguyên tắc này. Việc quy định nguyên tắc này trong BLTTHS là điều rất cần thiết góp phần đưa nguyên tắc này thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ áp dụng tùy nghi như hiện nay. Qua đó cũng thể hiện trình độ văn hóa pháp lý cũng như chính sách hình sự của một quốc gia trong việc bảo vệ quyền con người, cụ thể là quyền của bị can, bị cáo. Bên cạnh đó, việc hoàn thiện các quy định nâng cao trách nhiệm, vai trò của cá nhân người tiến hành tố tụng; xác định rõ vai trò của các CQTHTT, mối quan hệ giữa các CQTHTT, đặc biệt là CQĐT và VKS trong việc chỉ đạo hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra. Hoàn thiện các chế định chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự. Mở rộng khái niệm chứng cứ, bổ sung thêm nguồn chứng cứ đặc biệt là những chứng cứ liên quan đến lĩnh vực công nghệ cao; hoạt động thu thập chứng cứ cũng cần quy định trình tự đơn giản hơn, các cơ quan hữu quan nếu không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của các CQTHTT cần phải có chế tài cụ thể để xử phạt. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm cần quy định rõ trình tự, thủ tục theo hướng làm rõ các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng hình sự. Quy định như hiện nay thì tố tụng hình sự Việt Nam là tố tụng buộc tội từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử các CQTHTT đều có nghĩa vụ phải chứng minh tội phạm. Theo đó HĐXX là người hỏi chính, rồi đến KSV và những người tham gia tố tụng khác. Để thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp "nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm" cần sửa đổi theo hướng KSV là người hỏi chính, hỏi đầu tiên, đến luật sư, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, thẩm phán hỏi sau cùng và chỉ hỏi những nội dung liên quan đến tố tụng hoặc những chứng cứ thiếu, chưa rõ ràng cần thiết phục vụ cho việc đưa ra bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng
  • 111.
    112 pháp luật. Cùngvới việc đưa tranh tụng thành nguyên tắc trong BLTTHS, việc tăng cường hoạt động tranh tụng trong giai đoạn xét xử thì quy định này rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam với mô hình tố tụng xét hỏi đan xen tranh tụng. Mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, đặc biệt là giai đoạn xét xử sơ thẩm, cần giản lược các thành phần, trình tự tham gia tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm theo hướng chỉ cần 1 thẩm phán, không cần HTND trong phiên tòa rút gọn. Tuy nhiên, việc sửa đổi này sẽ ảnh hưởng đến quy định "Tòa án xét xử tập thể, quyết định theo đa số" trong Hiến pháp. Do vậy, cần có sự chỉnh sửa mang tính hệ thống và đồng bộ. c. Hoàn thiện các quy định khác có liên quan đến VKSND Luật tổ chức VKSND: trên cơ sở định hướng chuyển mô hình tổ chức cơ quan VKS thành 4 cấp tương đương với mô hình, tổ chức của Tòa án nhân dân trong tiến trình cải cách tư pháp. Luật tổ chức VKSND cần sửa đổi theo hướng: - Khẳng định VKSND là hệ thống cơ quan tư pháp độc lập trực thuộc Quốc Hội, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất. VKSND thực hiện hai chức năng THQCT và KSHĐTP. - Bộ máy VKSND được tổ chức thành bốn cấp: VKSNDTC, VKSND cấp cao; VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện (không nên quy định cấp khu vực) để tăng cường hoạt động công tố trong điều tra vì hiện nay mô hình tổ chức của CQĐT vẫn giữ nguyên. Pháp lệnh KSV: cần sửa đổi theo hướng: - Xây dựng cơ chế bổ nhiệm KSV theo hướng bổ nhiệm suốt đời, bỏ ngạch KSV theo cấp hành chính như hiện nay; tăng cường trách nhiệm, vai trò, quyền hạn của KSV với tư cách là một chức danh tố tụng độc lập, KSV được giao một số quyền lực cụ thể... Xây dựng thang bảng lương, chế độ phụ cấp riêng cho cán bộ, công chức ngành kiểm sát không theo bảng lương hành chính như hiện nay. - Hoàn thiện các quy định về trang bị các phương tiện làm việc, cơ sở vật chất cho các KSV khi tham gia xét xử như máy tính sách tay, máy ghi âm, camera...
  • 112.
    113 hoặc những trangthiết bị bảo vệ tính mạng cho KSV trong những vụ án phức tạp, liên quan đến các băng nhóm xã hội, hoặc tổ chức xã hội đen. 3.2.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm 3.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức Theo lộ trình cải cách tư pháp, trước mắt từ nay đến năm 2015 phải chuyển đổi VKS khu vực tương đương với mô hình Tòa án khu vực (04 cấp). Việc chuyển đổi phải đảm bảo nguyên tắc tổ chức quyền lực của nhà nước ta, bảo đảm chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của VKSND các cấp. Đây là nhiệm vụ lớn, khó khăn và phức tạp đối với ngành Kiểm sát nhân dân trong thời gian tới. Việc chuyển đổi tổ chức và thẩm quyền của VKSND khu vực đảm bảo tương đương với số lượng địa hạt tư pháp của TAND sơ thẩm khu vực đồng thời phải đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ THQCT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra trong điều kiện tổ chức và hoạt động của CQĐT vẫn giữ nguyên như hiện nay. Đây là thách thức đối với ngành Kiểm sát về mặt con người, năng lực, trình độ chuyên môn cũng như cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho công tác trong thời gian tới. Nếu chuyển thành VKS khu vực thì đa phần các VKS cấp huyện ở các tỉnh, thành phố lớn hầu như không có sự thay đổi về mặt tổ chức, biên chế, địa bàn hoạt động vì khối lượng công việc ở các đơn vị này hầu như không thay đổi. Việc sát nhập thành VKS khu vực (tương đương với VKS cấp huyện) chủ yếu là ở các vùng xa xôi, hẻo lánh, ít án. Như vậy, việc đi lại của KSV trong quá trình giải quyết án hình sự sẽ rất khó khăn và bất cập trong điều kiện nền kinh tế còn thấp kém như hiện nay. Việc bố trí nhân lực, trang thiết bị phục vụ công tác cũng đòi hỏi Nhà nước, VKSNDTC chú ý quan tâm bởi nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của cán bộ KSV. Với điều kiện thang bảng lương của cán bộ KSV hưởng theo ngạch công chức như hiện nay khó có thể đảm bảo được cuộc sống cho các KSV nếu thường xuyên phải đi làm trong điều kiện cơ sở vật chất khó khăn và điều kiện kinh tế hạn hẹp. Việc thanh toán công tác phí lại phải theo thủ tục xét duyệt chờ đợi lâu. Do vậy, để chuyển đổi VKS khu vực thành công trước hết Nhà nước, Lãnh đạo ngành cần quan tâm đến các điều kiện, cơ sở vật chất, chế độ lương, thưởng đối với các cán bộ, KSV công tác ở những VKS
  • 113.
    114 khu vực nơixa xôi hẻo lánh nói riêng và cán bộ, KSV trong toàn ngành nói chung để khuyến khích động viên và tạo điều kiện để họ chuyên tâm với công tác từ đó sẽ nâng cao được chất lượng THQCT, KSHĐTP góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ KSV của ngành. Lộ trình cải cách tư pháp còn dài, các cơ quan chức năng cần cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng việc chuyển đổi tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát nhân dân để đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật thống nhất xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN. Do đó, em mạnh dạn kiến nghị giữ nguyên tổ chức của ngành kiểm sát như hiện nay không chuyển sang mô hình khu vực. Về tổ chức cán bộ: Trong thời gian tới, VKSNDTP cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đổi mới công tác tổ chức, cán bộ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động THQCT và KSHĐTP ở giai đoạn xét xử sơ thẩm theo hướng tăng cường cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực chuyên môn cao, phù hợp cho công tác này. Cần có kế hoạch tổng thể về việc sắp xếp, bố trí, luân chuyển, điều động cán bộ, KSV phù hợp với đặc thù, tính chất, số lượng các vụ án của từng đơn vị. Việc đổi mới công tác tổ chức bộ máy làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm phải xuất phát từ vấn đề con người; do đó cần tăng cường cán bộ, KSV có trình độ và thực sự có năng lực cho công tác này, thực hiện tốt việc điều động cán bộ, KSV từ VKSNDTP xuống VKS cấp huyện và ngược lại hoặc giữa VKS cấp huyện với nhau đảm bảo khoa học, hợp lý về tính chất công việc, sở trường, năng lực công tác, giới tính....nhằm hạn chế những tồn tại, bất cập góp phần nâng cao chất lượng công tác. Rà soát lại đội ngũ cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm ở VKS để sắp xếp, điều động cho hợp lý; không để cán bộ, KSV làm công tác này quá 10 năm tại một đơn vị hoặc kiên quyết điều động cán bộ, KSV không đủ phẩm chất chính trị, đạo đực, năng lực công tác sang công tác khác, kịp thời bổ sung cán bộ, KSV có đủ tiêu chuẩn thay thế, đảm bảo sự điều động không làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác.
  • 114.
    115 Đổi mới cơchế quản lý, phân công Phó Viện trưởng phụ trách từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự phải đề xuất Viện trưởng quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo sự chế ước và nâng cao trách nhiệm công tác, chống chủ quan, duy ý chí. Tăng cường trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong công tác quản lý chỉ đạo điều hành. Thường xuyên cử cán bộ, KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ... do VKSNDTC tổ chức nhằm nâng cao trình độ, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Nghiên cứu, dự kiến danh sách các VKS khu vực làm cơ sở cho việc xây dựng, quy hoạch, điều động, đào tạo cán bộ trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Thường xuyên tổ chức học tập bằng cách nghiên cứu các chuyên đề nghiệp vụ: nâng cao chất lượng trả hồ sơ điều tra bổ sung, nâng cao chất lượng cáo trạng, kỹ năng xét hỏi, kỹ năng luận tội, kỹ năng tranh tụng, kỹ năng kháng nghị phúc thẩm... Tiến hành thảo luận, rút kinh nghiệm từ công tác nghiên cứu và công tác thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác. Để nâng cao chất lượng cán bộ đòi hỏi trước hết người cán bộ, KSV phải tự rèn luyện ý thức chính trị. Rèn luyện nâng cao ý thức chính trị sẽ giúp cán bộ, KSV thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành một cách có lý, có tình được nhân dân tin tưởng và đồng tình; giúp cán bộ, KSV vận dụng pháp luật được đúng đắn. Xa rời ý thức chính trị dễ làm cho cán bộ, KSV đánh mất ý thức rèn luyện, dễ bị những lợi ích vật chất, tinh thần cám dỗ và đi đến vi phạm pháp luật. Việc rèn luyện ý thức chính trị luôn phải đi đôi với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ kiểm sát theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn". Trong công tác THQCT, kiểm sát giải quyết vụ án hình sự nói chung và ở giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng cán bộ, KSV hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với những mặt trái của xã hội, tiếp xúc với đủ loại vi phạm và tội phạm. Nếu họ không được trau dồi đạo đức và rèn luyện ý thức chính trị thì rất dễ bị mua chuộc, sa vào con đường "chạy án, chạy tội", không hoàn thành nhiệm vụ được giao làm mất uy tín của ngành kiểm sát.
  • 115.
    116 3.2.2.2. Về yêucầu nghiệp vụ đối với các Kiểm sát viên Để nâng cao yêu cầu nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số hoạt động nghiệp vụ sau: Nâng cao kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự, tập trung làm rõ các cấu thành cơ bản trong quá trình nghiên cứu. Cần ghi chép cụ thể tỉ mỉ những chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có trong hồ sơ vụ án hình sự. Đối với những vụ án phức tạp, có đông bị cáo tham gia cần có cách thức nghiên cứu khoa học để tổng hợp các chứng cứ, phân hóa vai trò của từng bị cáo trong vụ án, hệ thống các chứng cứ theo từng nhóm, phân loại những người tham gia tố tụng để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xét hỏi, luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa cũng như đảm bảo việc tranh tụng với luật sư và những người tham gia tố tụng khác một cách hệ thống, khoa học đảm bảo viện dẫn căn cứ pháp luật chính xác. Nếu thấy các chứng cứ buộc tội không đủ hoặc có tội phạm khác thì KSV phải báo cáo ngay với lãnh đạo đơn vị để giải quyết kịp thời. Xây dựng đề cương xét hỏi khoa học, dự kiến những tình huống xảy ra tại phiên tòa sát với thực tế. Kế hoạch xét hỏi phải hỗ trợ cho kế hoạch tranh luận tại phiên tòa. Đòi hỏi, KSV phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, nắm chắc diễn biến tố tụng, diễn biến lời khai, dự kiến những tình huống sát với diễn biến phiên tòa. Mỗi loại tội danh có những đặc trưng riêng, khi xây dựng kế hoạch xét hỏi, KSV phải đặt những câu hỏi làm rõ những dấu hiệu cơ bản cấu thành tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đối tượng liên quan, vai trò của các đồng phạm.... KSV phải tự đặt mình vào vị trí của bị cáo, người bào chữa, luật sư hoặc những người tham gia tố tụng khác để dự tính những tình huống phát sinh tại tòa, đây cũng chính là những nội dung chính sẽ tiến hành tranh luận tại tòa. Đồng thời KSV cũng phải xây dựng, tìm những tài liệu, lý lẽ để bác bỏ những luận điểm trái chiều có liên quan đến việc xác định tội danh, điều khoản, áp dụng hình phạt, trách nhiệm dân sự đối với bị cáo và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan... Xây dựng dự thảo Luận tội sát với nội dung diễn biến phiên tòa, kịp thời chỉnh sửa những nội dung mới phát sinh theo diễn biến phiên tòa. KSV phải có khả
  • 116.
    117 năng tổng hợp,khả năng viết, khả năng phân tích đánh giá các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo. Đánh giá phân hóa vai trò, trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo cụ thể. Đặc biệt đối với một số tội danh có những hành vi khách quan giống nhau như: giết người với cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chế người, lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tham ô với cố ý làm trái hoặc thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, cướp tài sản với cưỡng đoạt tài sản, hiếp dâm với cưỡng dâm... KSV cần phân tích làm rõ ý thức chủ quan của bị cáo khi phạm tội; hoặc trạng thái tâm lý của người bị hại tại thời điểm xảy ra vụ án; không gian, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh...xảy ra sự việc phạm tội để khẳng định việc truy tố của VKS là đúng, có căn cứ pháp luật. Luận tội là cơ sở, tiền đề cho hoạt động tranh tụng nên cần phải chuẩn bị tỉ mỉ, chi tiết các tình tiết để tranh tụng với Luật sư những người tham gia tố tụng khác. Trong Luận tội cũng phải viện dẫn các căn cứ pháp luật, các văn bản hướng dẫn, các kiến thức chuyên ngành để chứng minh và bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS. Đồng thời, KSV cũng phải có kiến thức xã hội, thường xuyên cập nhật các thông tin xã hội, dư luận của quần chúng nhân dân để nắm bắt các tâm lý xã hội để thuận tiện cho việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho phù hợp với từng đối tượng, từng vụ án cụ thể. Tại phiên tòa, KSV cần tập trung tư tưởng theo dõi toàn bộ diễn biến phiên tòa, ghi chép cẩn thận, tỉ mỉ những câu hỏi của HĐXX, luật sư, người bào chữa và những câu trả lời của bị cáo, người bị hại, nhân chứng... để phán đoán những vấn đề sẽ tranh luận. KSV phải tích cực tham gia xét hỏi, làm rõ những chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đối tượng liên quan khác, các vấn đề dân sự trong vụ án... KSV cần rèn luyện kỹ năng tranh tụng theo từng loại tội hoặc nhóm tội danh cụ thể. Mỗi loại tội danh, mỗi đối tượng tham gia tranh tụng có những đặc trưng riêng, khi tranh luận KSV cần xây dựng những hướng tranh tụng cụ thể: Đối với bị cáo và người bào chữa của bị cáo: - Hướng thứ nhất: bị cáo không nhận phạm tội như VKS truy tố: KSV phải đưa ra các chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa kết hợp với những chứng cứ đã
  • 117.
    118 có trong hồsơ vụ án. Nêu ra những căn cứ pháp luật nhằm bác bỏ những chứng cứ, căn cứ pháp luật mà bị cáo và người bào chữa đưa ra. Vận dụng lý luận về cấu thành tội phạm để chứng minh bị cáo đã phạm tội như nội dung truy tố. KSV không được nóng nảy, phải bình tĩnh, căn cứ vào những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa để hệ thống tổng hợp với các chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án, phân tích logic, lập luận chặt chẽ trả lời bị cáo và luật sư bào chữa bác quan điểm bị cáo không phạm tội như VKS truy tố. Nếu bị cáo và luật sư cho rằng người làm chứng và người bị hại do có quan hệ kinh tế, tình cảm nên lời khai của họ không khách quan làm xấu đi tình trạng của bị cáo, KSV cần đưa ra những chứng cứ chứng minh lời khai của họ là khách quan, trung thực và được thu thập theo đúng quy định của pháp luật bác lời khai của người bào chữa và luật sư. - Hướng thứ hai: luật sư và người bào chữa đưa ra cơ sở chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc phạm tội danh khác với tội danh mà VKS truy tố mà những tội danh này có khung hình phạt nhẹ hơn hoặc bị cáo phạm tội như tội danh VKS truy tố nhưng khung hình phạt nhẹ hơn khung VKS truy tố. KSV phải đưa ra các chứng cứ buộc tội, có thể thẩm vấn ngay lại để làm rõ chứng cứ buộc tội. Vận dụng những lý thuyết cấu thành tội phạm để phân tích chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm mà VKS đã truy tố. KSV phải chứng minh tội danh mà bị cáo và luật sư đưa ra phải có ít nhất 01 yếu tố không cấu thành tội phạm hoặc khung khoản đề nghị không chính xác. - Hướng thứ ba: luật sư thống nhất với VKS về tội danh nhưng không thống nhất cách đánh giá tính chất mức độ phạm tội của bị cáo và đưa ra một số tình tiết giảm nhẹ, hoặc tình tiết giảm nhẹ về nhân thân xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xin được hưởng án treo, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bồi thường thiệt hại cho bị cáo... KSV ghi chép kỹ các tình tiết giảm nhẹ, các tình tiết về nhân thân mà luật sư nêu ra. Đối chiếu với các quy định của pháp luật xem tình tiết nào đã được pháp luật quy định, tình tiết nào pháp luật chưa quy định. Tình tiết nào đã được VKS xem xét cân nhắc đề nghị khi quyết định hình phạt trong luận tội, tình tiết nào VKS chưa xem xét từ đó chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của Luật sư.
  • 118.
    119 - Hướng thứtư: tại phiên tòa luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX hoãn phiên tòa, trả lại hồ sơ cho VKS yêu cầu điều tra bổ sung do kết luận giám định không khách quan, không chính xác... KSV cần nghiên cứu kỹ nội dung lời bào chữa của Luật sư, đối chiếu với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án về công tác giám định và kết quả giám định tư pháp... căn cứ vào các quy định của BLTTHS và Pháp lệnh giám định tư pháp để chấp nhận hoặc bác bỏ lời bào chữa của luật sư. Đối với người bị hại và luật sư của họ: - Hướng thứ nhất: đưa ra ý kiến về các CQTHTT bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội khác yêu cầu xử lý. KSV xem xét kỹ yêu cầu của người bị hại, đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phân tích có hay không việc CQTHTT bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội. Nếu không có bác đề nghị của người bị hại và luật sư của họ. Nếu có, KSV đề xuất việc khởi tố bị can để tiếp tục điều tra xử lý nếu việc xử lý người phạm tội này không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án hiện tại. Hoặc đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu thấy không điều tra bổ sung sẽ ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án và việc điều tra bổ sung này không thể thực hiện tại phiên tòa được. - Hướng thứ hai: đưa ra các tình tiết tăng nặng để yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo. KSV cần xem xét kỹ yêu cầu của người bị hại, đối chiếu với các quy định của pháp luật, xem xét kỹ luận tội đã áp dụng tình tiết giảm tăng nặng, tình tiết nhẹ nào, tình tiết nào chưa áp dụng từ đó có chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của người bị hại. - Hướng thứ ba: đưa ra yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại. KSV xem xét các chứng từ, tài liệu họ xuất trình có hợp lý hay không có phù hợp với thực tế hay không. Nếu yêu cầu không đúng thì KSV đề nghị HĐXX không chấp nhận. Nếu yêu cầu đúng pháp luật nhưng không có chứng từ xuất trình trước ngày đưa vụ án ra xét xử thì KSV có quyền đề nghị HĐXX tách thành vụ án dân sự riêng. Tuy nhiên KSV cần lưu ý chỉ được tách vụ án để giải quyết riêng hoặc tách một phần dân sự giải quyết riêng bằng một vụ án dân sự khi có yêu cầu. Phần dân sự được tách ra không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; chưa tìm được hoặc chưa xác định
  • 119.
    120 được người bịhại, nguyên đơn dân sự; hoặc người bị hại, nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu, hoặc đã có yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình cho CQTHTT; người bị hại, nguyên đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa gây trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự đó. Nếu yêu cầu đúng pháp luật nhưng chứng từ chứng minh lại chưa đảm bảo về mặt pháp lý thì KSV phải xem xét kỹ lưỡng các khoản chi đó có phù hợp với thực tế và có thật hay không để làm cơ sở cho việc đề nghị chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu. Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: thông thường họ có yêu cầu tăng quyền lợi, giảm nghĩa vụ. Tương tự như đối với người bị hại đòi tăng bồi thường thiệt hại, KSV cần nghiên cứu kỹ lưỡng các tài liệu cung cấp cũng như yêu cầu của họ, đối chiếu với các quy định của pháp luật, xem xét trên cơ sở thực tế để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của họ. Một số vấn đề khác liên quan đến luật sư: - Luật sư đưa ra một số tài liệu, chứng cứ chưa rõ, chưa có căn cứ để kết luận chính xác thì KSV có quyền đề nghị HĐXX quay trở lại phần xét hỏi, sau đó mới phát biểu ý kiến đối đáp, tranh luận (Điều 219 BLTTHS). Nếu quay trở lại xét hỏi chưa rõ những tình tiết này hoặc những chứng cứ này có ảnh hưởng tới kết luận vụ án thì KSV đề nghị HĐXX trả hồ sơ để điều tra bổ sung (điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTHS). - Luật sư vắng mặt nhưng đã có bài bào chữa gửi Tòa án: nếu KSV biết trước nội dung bài bào chữa trước khi mở phiên tòa thì KSV cần đưa nội dung đối đáp tranh luận với người bào chữa vào trong bản Luận tội của mình. Nếu tại phiên tòa bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ, hoặc những người tham gia tố tụng khác có những ý kiến có nội dung khác thì KSV vẫn phải đối đáp tranh luận theo quy định của pháp luật. Nếu ra phiên tòa KSV mới biết thì KSV cần yêu cầu HĐXX công bố bài bào chữa của luật sư, sau đó KSV đối đáp tranh luận lại theo thủ tục chung. Khi tranh luận KSV phải đảm bảo các yêu cầu: - Tôn trọng sự thật khách quan của vụ án, thực sự cầu thị. Qua tranh luận có những vấn đề trong hồ sơ vụ án chưa được làm sáng tỏ, nếu có căn cứ thì KSV phải chấp nhận những tình tiết, chứng cứ này.
  • 120.
    121 - Tôn trọngquyền bào chữa của bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác, dân chủ bình đẳng trong đối đáp tranh luận. - Bảo đảm văn hóa ứng xử trong đối đáp tranh luận. KSV giữ đúng chuẩn mực là người thay mặt nhà nước THQCT và KSHĐTP. - Đối đáp, tranh luận phải đảm bảo có căn cứ, hợp lý và thuyết phục. - Khi đối đáp tranh luận, KSV phải đối đáp với từng ý kiến một. - KSV phải lựa chọn những ý kiến nào quan trọng mang tính chất then chốt, quyết định đến nội dung vụ án để đối đáp trước còn những ý kiến khác trả lời sau. Bên cạnh việc thực hiện tốt chức năng công tố, VKS phải thực sự là cơ quan giám sát của nhà nước trong việc thực thi pháp luật. Từ khi chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án, VKS phải kiểm sát các quyết định của Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Đối chiếu với các quy định của pháp luật xem các quyết định đó có căn cứ không, có đúng hay không, nội dung các quyết định có đảm bảo hay không... HĐXX có tuân thủ đúng các quy định về trình tự xét xử tại phiên tòa hay không, những người tham gia phiên tòa có chấp hành pháp luật đúng hay không. Để có thể đối chiếu mọi hành vi, xử sự của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, KSV luôn phải để BLTTHS trước mặt mình trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án để kịp thời theo dõi và viện dẫn căn cứ pháp luật khi cần thiết. Sau phiên tòa, KSV phải kiểm tra biên tòa phiên tòa, tập hợp những vi phạm của Tòa án để xem xét kháng nghị hoặc kiến nghị khắc phục những hạn chế đó. 3.2.2.3. Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp a. Đổi mới quan hệ phối hợp giữa VKS với Tòa án Trước hết các KSV, Thẩm phán phải nhận thức rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành để từ đó thấy được tầm quan trọng của công việc mình đang thực hiện. Kết hợp với hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho đội ngũ KSV, Thẩm phán để họ nhận thấy rõ vai trò, hiệu quả của mối quan hệ phối hợp giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan VKS và Tòa
  • 121.
    122 án là nhântố quyết định sự thành công trong việc xử lý vụ án, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo kịp thời, nhanh chóng và đáp ứng được sự trông đợi của nhân dân. Thực tiễn cho thấy, nếu phối hợp thiếu chặt chẽ, việc xử lý tội phạm sẽ kéo dài, kém hiệu quả sẽ làm giảm uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật đối với quần chúng, còn có thể dẫn đến sai sót, gây hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự. Một trong những giải pháp cơ bản để đổi mới mối quan hệ giữa VKS và Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là việc nâng cao năng lực nghiệp vụ cho các KSV, Thẩm phán nhằm nâng cao chất lượng phối hợp và hiệu quả hoạt động của từng cơ quan. Thẩm phán và KSV phải tự mình bồi dưỡng những phẩm chất, kiến thức, xác định rõ trách nhiệm để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Tòa án và VKS cần phải thường xuyên đào tạo, trang bị kiến thức nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, kiến thức khoa học công nghệ, ngoại ngữ cho họ. Thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm đối với những vụ án phối hợp tốt mang lại hiệu quả cao để học tập và cũng tổ chức rút kinh nghiệm những vụ án không có sự phối hợp tốt dẫn đến những sai sót, vi phạm để không lặp lại. Để đảm bảo mối quan hệ hợp tác, trước hết, KSV và Thẩm phán phải hiểu rõ và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của quyền hạn của ngành và của bản thân, không ngừng học tập để nâng cao trình độ nghiệp vụ và kỹ năng xét xử, phải nắm chắc các quy định của pháp luật khi thực hiện nhiệm vụ. Cùng với BLHS, BLTTHS cần phải nắm chắc các văn bản dưới luật như Thông tư liên ngành, các quy định của từng ngành, quy chế phối hợp của các ngành trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Riêng đối với các KSV còn phải nắm chắc quy chế THQCT và KSXX các vụ án hình sự. Thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo của cấp Ủy để tăng cường mối quan hệ phối hợp, đặc biệt khi giải quyết các vụ án lớn, phức tạp tại địa phương. Hai ngành Tòa án, VKS cần sớm ban hành Quy chế phối hợp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
  • 122.
    123 b. Đổi mớiquan hệ phối hợp giữa VKS và các bổ trợ tư pháp Với các cơ quan bổ trợ tư pháp: Để nâng cao chất lượng xét xử, trong những phiên tòa phức tạp, khó về đánh giá chứng cứ cần có sự phối hợp của các cơ quan giám định, các trường giáo dục người khuyết tật, khiếm thính... hoặc người phiên dịch để làm tăng tính khách quan và thuyết phục tại phiên tòa. Khi tham gia phiên tòa đòi hỏi những người này phải nâng cao nhận thức, nâng cao trách nhiệm trong công tác và thực hiện đầy đủ quyền hạn, nhiệm vụ mà pháp luật tố tụng quy định nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân góp phần nâng cao hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử vụ án, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm. KSV, Thẩm phán cần phối hợp với những người này trong quá trình xét xử; nếu có thể trù bị trước với họ về cách thức trình bày khi tham gia phiên tòa để tránh tình trạng họ ít tham gia tố tụng sẽ có những phản ứng không tốt khi thấy KSV hoặc HĐXX hỏi mình như hỏi cung bị cáo trước phiên tòa. KSV, Thẩm phán cũng cần chú ý ngữ điệu, cách thức xét hỏi đối với đại diện các cơ quan này trong quá trình giải quyết vụ án, không nên quá gay gắt, không nên quá nhẹ nhàng. Nếu phối hợp không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng vụ án. Giữa các đơn vị trong VKSND TP Hải Phòng: Quá trình phối hợp luôn đòi hỏi các KSV phải có trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ đồng đều thì hiệu quả hoạt động phối hợp mới cao. Thực tiễn cho thấy có nhiều lý do khác nhau dẫn đến hiệu quả của công tác phối hợp trong ngành chưa cao, trong đó có một lý do chủ yếu là trình độ của các KSV làm công tác kiểm sát hình sự không đồng đều từ đó có nhiều vấn đề không nhận thức thống nhất hoặc do tự ti về trình độ mà nhiều KSV không dám mạnh dạn thể hiện quan điểm nghiệp vụ của mình...dẫn đến sự thiếu chủ động tích cực trong hoạt động phối hợp làm hạn chế hiệu quả của hoạt động này. Do đó, thường xuyên bằng nhiều hình thức khác nhau nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các KSV và có những cơ chế thích hợp nhằm phát huy sự chủ động, tích cực của các KSV trong hoạt động nghiệp vụ nói chung và hoạt động phối kết hợp nói riêng. Từng KSV phải nâng cao ý thức, trách nhiệm tự giác với công việc được giao, cần tránh tư tưởng ỷ lại vào quyết định của lãnh đạo VKS hoặc nghiên cứu hời hợt không báo cáo được những
  • 123.
    124 vấn đề vướngmắc trong đánh giá chứng cứ và các vấn đề liên quan trong vụ án. Đồng thời cũng cần chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ khi THQCT và KSXX. Lãnh đạo VKS cần tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với hoạt động phối hợp các khâu công tác kiểm sát, cần lưu ý đến hoạt động phối kết hợp hoạt động giữa các khâu công tác kiểm sát, coi đây là một trong những nội dung đổi mới về phương thức hoạt động kiểm sát nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm sát, hạn chế thấp nhất các trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Tăng cường công tác tổng kết, hướng dẫn nghiệp vụ về hoạt động phối hợp giữa các khâu công tác kiểm sát. VKSNDTP cần tăng cường công tác phối hợp với VKS cấp huyện thông qua công tác trả lời thỉnh thị nghiệp vụ. Cần yêu cầu các đơn vị VKS quận, huyện nghiêm túc thực hiện quy định về việc họp đơn vị để bàn bạc, thảo luận vấn đề vướng mắc trước khi quyết định thỉnh thị. Báo cáo thỉnh thị phải nêu rõ các quan điểm khác nhau đối với những vướng mắc về áp dụng pháp luật, đường lối giải quyết vụ án. Nội dung thỉnh thị phải rõ ràng, cụ thể. Đối với các vụ án chưa chuyển Tòa án thì thỉnh thị nghiệp vụ (phòng 1, phòng 1A, phòng 2). Các vụ án đã chuyển Tòa án thì thỉnh thị phòng 3. Cần lưu ý việc thực hiện ý kiến trả lời thỉnh thị của VKSNDTP, các đơn vị VKSND quận, huyện phải báo cáo kết quả đã được chỉ đạo hướng dẫn; nếu còn vướng mắc thì cần tiếp tục báo cáo VKSNDTP để hướng dẫn chỉ đạo. Kịp thời thông báo rút kinh nghiệm thông qua các vụ án có nhiều vi phạm phải trả hồ sơ, đình chỉ điều tra do hành vi không cấu thành tội phạm, án phúc thẩm cải sửa; án bị cấp giám đốc, tái thẩm hủy để điều tra, xét xử lại. VKSND cấp huyện: tổng hợp những khó khăn, vướng mắc của đơn vị, chủ động, kịp thời báo cáo những vụ án phức tạp, khó, được dư luận quần chúng quan tâm để tranh thủ sự chỉ đạo, hướng dẫn của VKS thành phố. c. Tăng cường sự lãnh đạo của các cơ quan Đảng, chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội khác Quán triệt nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động THQCT và KSXX các vụ án hình sự. Đảng bộ các cấp cần tiếp tục kiện
  • 124.
    125 toàn ban chỉđạo cải cách tư pháp, chỉ đạo sâu sát để thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, có lộ trình đặc thù cho địa phương mình, tiến hành tổ chức rút kinh nghiệm để đề ra những giải pháp thiết thực về cải cách tư pháp trong đó có công tác THQCT, KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự. Đổi mới công tác báo cáo của VKS và việc lãnh đạo chỉ đạo của cấp ủy. VKS không chỉ báo cáo những hoạt động công tác chung hoặc theo sự vụ mà cần tập trung vào những vấn đề cần tháo gỡ, xin ý kiến chỉ đạo. Cấp ủy cũng cần định hướng về nội dung báo cáo, những nội dung cần tập trung làm sâu và những chỉ đạo định hướng trong từng thời điểm. Cấp ủy Đảng cần chú trọng lãnh đạo về công tác cán bộ để nâng cao chất lượng công tác tư pháp, lựa chọn những cán bộ có trình độ năng lực, có tâm huyết bố trí vào những vị trí trọng trách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hoạt động giám sát của HĐND luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bám sát nghị quyết của Đảng, đặc biệt các nghị quyết về cải cách tư pháp. Hoạt động giám sát của HĐND cần được phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ Quốc và các tổ chức xã hội, để công tác giám sát được toàn diện, các thông tin về vi phạm tội phạm được xử lý kịp thời. HĐND cần có những kế hoạch, định hướng và phương thức giám sát hữu hiệu đối với hoạt động của VKS trong điều kiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện. Thường trực HĐND thành phố tiến hành hoặc phân công Ban pháp chế HĐND thành phố tăng cường giám sát hoạt động của VKSND các huyện, quận bằng cách yêu cầu báo cáo định kỳ hàng quý hoặc thành lập Đoàn giám sát theo từng chuyên đề, vụ việc cụ thể, nhất là những hoạt động liên quan đến việc thực hiện tăng thẩm quyền. 3.3.3.4. Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm Cơ sở vật chất là điều kiện quan trọng để những người tiến hành tố tụng nói chung và KSV nói riêng tiến hành nhiệm vụ thắng lợi. Hiện nay, các trụ sở làm việc của nhiều Tòa án, VKS còn chật hẹp, trang thiết bị lạc hậu cần tập trung đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc đặc biệt chú ý hội trường xét xử phải rộng rãi, thoáng mát; hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị như hệ thống loa đài, âm
  • 125.
    126 thanh… Cần trangbị cho KSV những thiết bị bảo vệ để phòng thân trong quá trình giải quyết vụ án. Cấp thêm phương tiện đi lại cho các KSV trong những trường hợp địa bàn xa, rộng hoặc khi chuyển đổi sang mô hình VKS khu vực. Bên cạnh đó cũng cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ. Mỗi KSV làm công tác THQCT và KSHĐTP cần được trang bị 01 máy vi tính xách tay, máy ghi âm...để phục vụ công tác. 3.3.3.5. Hợp tác quốc tế Nhà nước ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế, để đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam và người nước ngoài làm ăn sinh sống tại Việt Nam. Các cơ quan chức năng cần tăng cường phối hợp trong lĩnh vực điều tra, xử lý tội phạm quốc tế thông qua các Hiệp định tương trợ tư pháp hoặc các cam kết quốc tế về tư pháp hình sự. Thường xuyên tổ chức các Hội thảo khoa học nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của các nước trên thế giới để có cái nhìn tổng thể từ đó đưa ra những quan điểm, đề xuất chính xác, có hiệu quả về việc thay đổi, áp dụng mô hình các cơ quan nhà nước nói chung và VKS nói riêng.
  • 126.
    127 KẾT LUẬN Thực hiệnchủ trương cải cách, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới được Đảng đề ra từ sau Đại hội VI năm 1986. Đảng ta kiên trì với đường lối đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN với mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho hành động. Đảng đã đề ra các chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và xác định: nhiệm vụ trọng tâm là phải xây dựng nền kinh tế mạnh đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, nhiệm vụ then chốt là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng xã hội dân sự phát triển trên nền pháp luật tiến bộ, đổi mới toàn diện sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý nhà nước và cải cách bộ máy nhà nước. Trước tiên là các cơ quan tư pháp, cụ thể là TAND và VKSND. Đòi hỏi ngành kiểm sát nhân dân phải tự đổi mới mình, làm đúng, đầy đủ, có hiệu quả chức năng nhà nước đã giao cho ngành. Những năm qua lãnh đạo VKSND các cấp đã quán triệt các tư tưởng của Đảng, thực hiện các bước trong tiến trình cải cách tư pháp bước đầu đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận, trong đó có VKSNDTP Hải Phòng. Việc thực hiện chức năng THQCT và KSHĐTP trong giai đoạn xét xử sơ thẩm của ngành kiểm sát Hải Phòng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, trước yêu cầu của cải cách tư pháp, chất lượng THQCT và KSXX sơ thẩm của VKSNDTP Hải Phòng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế đặc biệt là hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Do vậy, em đã đặt vấn đề nghiên cứu để nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trên cơ sở đánh giá tổng kết kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ tại VKSNDTP Hải Phòng so sánh đối chiều tìm ra những thiếu sót, hạn chế để đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tốt hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của VKS Hải Phòng. Đồng thời Luận văn cũng chỉ ra một số sự bất cập giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp về mô hình, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của VKSND từ đó đề xuất, kiến nghị đến các cơ quan chức năng có thẩm quyền chỉnh sửa những quy định pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa sát với thực tiễn để tạo mọi điều kiện cho việc thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ mà nhà nước đã giao cho ngành kiểm sát nói chung và VKSNDTP Hải Phòng nói riêng góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
  • 127.
    128 DANH MỤC TÀILIỆU THAM KHẢO 1. Hồ Đức Anh (2010), "Một vài ý kiến về việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát theo mô hình khu vực", vksndtc.gov.vn. 2. Lê Văn Cảm (2004), "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng", Kiểm sát, (2). 3. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống Tư pháp Hình sự trong giai đoan xây dựng nhà nước pháp quyền (sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 4. Lê Văn Cảm (2010), "Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền", Kiểm sát, (7+9). 5. Nguyễn Ngọc Chí (2009), Xét xử trong tố tụng hình sự, (Tài liệu dùng cho học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự), Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 6. Lý Văn Chính (2004), Quyền công tố trong tố tụng hình sự tranh tụng và việc vận dụng trong điều kiện Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/3 của Bộ Chính trị (khóa IX) về một số công việc cấp bách các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08 NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7 của Bộ Chính trị về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Hà Nội. 11. Trần Văn Độ (2003), "Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
  • 128.
    129 12. Nguyễn MinhĐức (2008), "Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 13. Nguyễn Duy Giảng (2010), "Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 14. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp", Kiểm sát, (8). 15. Nguyễn Hữu Hậu (2009), "Những vấn đề đặt ra khi đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 16. Nguyễn Văn Hiển (2010), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật học. 17. Nguyễn Văn Huyên (2007), Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Tập bài giảng, Học viện Tư pháp, Hà Nội. 18. Nguyễn Hữu Khoa (2010), Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học. 19. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007) Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 20. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011). Mô hình tố tụng hình sự một số nước trên thế giới- kinh nghiệm với việc hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học tại Hà Nội, tháng 11. 21. Ngô Ngọc Liên (2005), "Một số ý kiến qua 5 năm thi hành Pháp lệnh kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2002 đến năm 2005", vksndtc.gov.vn. 22. Ngô Quang Liễn (2004), "Cơ quan công tố và việc tranh tụng tại các nước Autralia và New Zealand", Kiểm sát, (11). 23. Trương Đắc Linh (2008), "Một số ý kiến về đổi mới tổ chức VKS trong chiến lược cải cách tư pháp ở nhà nước ta hiện nay", vksndtc.gov.vn. 24. Bùi Đức Long (2010), "Một số kiến nghị về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 25. Trần Văn Nam (2010), Quá trình hình thành, phát triển và đổi mới Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học.
  • 129.
    130 26. Tôn ThiệnPhương (2002), Vai trò của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học. 27. Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28. Đinh Văn Quế (2010), "Một số vấn đề về mô hình tổ chức của Tòa án nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp", toaan.gov.vn. 29. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 30. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 31. Quốc hội (2001), Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 32. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội. 33. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội. 34. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 35. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 36. Bùi Quang Thạch (2007), Luật tổ chức Viện kiểm sát Liên bang Nga, (Tài liệu dịch), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 37. Trần Đại Thắng (2003), "Viện công tố một số nước trong quá trình chuyển đổi", Kiểm sát, (7). 38. Lê Hữu Thể (2003), Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ. 39. Lê Hữu Thể (2009), "Tổ chức bộ máy và chức năng, nhiệm vụ của Viểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 40. Lê Hữu Thể (2012), "Một số kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về Viện kiểm sát trong Hiến pháp năm 1992", Kiểm sát, (1). 41. Vũ Xuân Thu (2004), "Chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", Kiểm sát, (12). 42. Trần Quang Tiệp (2004), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 43. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Những vấn đề cần trao đổi trong việc điều khiển phiên tòa của Thẩm phán chủ tọa tại Hải Phòng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hải Phòng.
  • 130.
    131 44. Tòa ánnhân dân tối cao (1975), Hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Hà Nội. 45. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 04/2004/ NQ-HĐTP ngày 05/11 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ ba "xét xử sơ thẩm" của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội. 46. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 47. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 48. Nguyễn Thị Tuyết (2011), "Hoàn thiện pháp luật về chức năng tố tụng hình sự của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", Tòa án nhân dân, (3). 49. Đào Trí Úc (2012), "Sửa đổi Hiến pháp và vấn đề sửa đổi, bổ sung quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp", Kiểm sát, (3). 50. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Báo cáo tình hình cải cách tư pháp giai đoạn 1, Hải Phòng. 51. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2009), Báo cáo tình hình cải cách tư pháp giai đoạn 2, Hải Phòng. 52. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Báo cáo tình hình cải cách tư pháp giai đoạn 3, Hải Phòng. 53. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng (2004 - 2010), Báo cáo tình hình kinh tế xã hội các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hải Phòng. 54. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên, Hà Nội. 55. Nguyễn Tất Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và Kiểm sát hoạt động tư pháp", vksndtc.gov.vn. 56. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng. 57. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2008), Phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng.
  • 131.
    132 58. Ủy bannhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Báo cáo tổng kết về tình hình đổi mới của Hải Phòng từ năm 1986 đến nay, Hải Phòng. 59. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2010), Nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hải Phòng. 60. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2004-2010), Báo cáo tổng kết công tác các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hải Phòng. 61. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng cáo trạng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 9, Hải Phòng. 62. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Các biện pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 9, Hải Phòng. 63. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát và tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 10, Hải Phòng. 64. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng (2011), Nâng cao chất lượng trả hồ sơ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Dự án Jica, tháng 11, Hải Phòng. 65. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng - Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng - Công an thành phố Hải Phòng (2009), Quy chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, Hải Phòng. 66. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2011), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quảng Ninh, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Quảng Ninh. 67. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), "Luật cán bộ kiểm sát nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", (Tài liệu dịch tham khảo), Dự án Vie/95/018: Tăng cường năng lực Kiểm sát viên tại Việt Nam, Hà Nội. 68. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1995), Quy tắc tố tụng hình sự viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa", (Tài liệu dịch tham khảo), Dự án Vie/95/018: Tăng cường năng lực Kiểm sát viên tại Việt Nam, Hà Nội.
  • 132.
    133 69. Viện kiểmsát nhân dân tối cao (1998), Bộ luật tố tụng hình sự Canada 1994, (tài liệu dịch tham khảo), Dự án VIE/95/018, Hà Nội. 70. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Bộ luật tố tụng hình sự Malaysia, (tài liệu dịch tham khảo), Dự án VIE/95/018, Hà Nội. 71. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 72. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga, (tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 73. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Tập tài liệu về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội. 74. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Tập bài giảng Lớp bồi dưỡng kiến thức thực hành quyền công tố và kiểm sát hình sự dùng cho Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Hà Nội. 75. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Luật tổ chức cơ quan công tố Hàn Quốc, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 76. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2005), Luật tổ chức cơ quan công tố nước Cộng hòa Indonesia, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 77. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Nguyên tắc liên bang về tố tụng hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, (Tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội. 78. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Luật công tố viên Hoàng gia Anh", Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5). 79. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Luật tổ chức Tòa án cộng hòa Liên bang Đức", Thông tin khoa học kiểm sát, (4+5). 80. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), "Các nhiệm vụ cụ thể của ngành kiểm sát nhân dân giai đoạn 2006-2010 để thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005", Kiểm sát, (8). 81. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử (ban hành kèm theo Quyết định số 960/2007/QĐ-VKSNDTC ngày 17 tháng 9 năm 2007), Hà Nội.
  • 133.
    134 82. Viện kiểmsát nhân dân tối cao (2007), Kỹ năng tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự liên quan đến phụ nữ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 83. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Sổ tay Kiểm sát viên, Hà Nội. 84. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2008), Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.. 85. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2009), Mô hình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Dự án Danida, Hà Nội. 86. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), Tổng kết 50 năm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (1960- 2010), Hà Nội. 87. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), "Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự", Kiểm sát, (Số chuyên đề). 88. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2010), "Vai trò, thẩm quyền của các chủ thể tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", Kiểm sát, (Số chuyên đề). 89. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004-2010), Báo cáo tổng kết công tác các năm 2004, 2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, Hà Nội. 90. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 91. Lại Hợp Việt (2010), "Bàn về mô hình Viện kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp", vksndtc.gov.vn. 92. Võ Khánh Vinh (2003), "Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta", Nhà nước và pháp luật, (8). 93. Vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự (2008), Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát án hình sự, hạn chế thấp nhất việc tòa án tuyên bị cáo không phạm tội năm 2008, Đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội.
  • 134.
    135 PHỤ LỤC PHỤ LỤC1 Bảng 2.1: Thụ lý khởi tố điều tra, truy tố, xét xử của cả nước NĂM ĐIỀU TRA TRUY TỐ XÉT XỬ Vụ Bị can Vụ Bị can Vụ Bị cáo 2005 59.720 87.606 50.732 81.425 48.859 77.810 2006 65.773 98.483 56.553 92.632 55.766 90.507 2007 64.709 97.131 57.332 96.466 56.541 94.291 2008 69.370 106.375 60.404 103.089 58.738 99.289 2009 66.314 101.733 59. 486 101.616 59.140 100.630 2010 62.746 97.000 54.197 92.272 52.797 89.457 TỔNG SỐ 388.632 588.328 338.704 567.500 331.841 551.984 (Nguồn Báo cáo VKSND tối cao). Bảng 2.2: Thụ lý THQCT và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự Năm Số thụ lý Đã xét xử Loại hình phạt Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Tử hình Tù chung thân Tù có thời hạn Tù cho hưởng án treo Cải tạo không giam giữ Phạt tiền, cảnh cáo 2004 1809 2497 1644 2248 12 29 1759 347 95 06 2005 1651 2360 1456 2046 03 16 1608 333 86 0 2006 1929 2955 1743 2633 05 11 2123 387 102 05 2007 1656 2658 1500 2315 04 12 1723 467 107 02 2008 1630 2626 1481 2372 03 08 1747 491 91 32 2009 1645 2722 1487 2411 04 09 1708 476 151 63 2010 1394 2528 1219 2195 04 16 1414 511 192 58 2011 1538 2688 1373 2348 04 15 1581 456 220 72 ( Nguồn Báo cáo VKSND TP Hải Phòng).
  • 135.
    136 Bảng 2.3: Sốliệu thống kê về án Tòa án trả cho VKS để điều tra bổ sung Năm Tổng số Trả đúng Lý do Vụ Lượt Vụ Thiếu chứng cứ quan trọng Vi phạm thủ tục tố tụng Khởi tố thêm bị can, tội danh Thay đổi tội danh Khác 2004 48 48 40 27 09 08 04 2005 37 37 28 18 10 2006 54 56 42 28 05 16 04 03 2007 41 45 34 27 04 15 2008 29 29 22 19 02 07 01 2009 23 23 18 16 01 05 01 2010 37 37 22 30 02 02 03 2011 21 21 13 02 04 11 04 ( Nguồn báo cáo VKSND TP Hải Phòng) Bảng 2.4: Số liệu án VKS kháng nghị phúc thẩm Năm Tổng số Kháng nghị cùng cấp Kháng nghị trên 1 cấp Vụ Bị cáo Cấp tỉnh Cấp huyện Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 2004 29 34 10 11 17 21 02 02 2005 27 35 04 07 13 18 10 10 2006 28 37 06 09 16 20 06 08 2007 27 41 02 03 14 18 11 20 2008 22 40 02 05 18 33 02 02 2009 27 34 02 05 23 26 02 03 2010 16 19 04 04 10 11 02 04 2011 12 17 03 05 06 07 03 05 ( Nguồn báo cáo VKSND TP Hải Phòng)
  • 136.
    137 2.5. Kết quảcông tác kháng nghị phúc thẩm Năm Số thụ lý Đã xét xử Kháng nghị phúc thẩm Chấp nhận kháng nghị Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 2004 1809 2497 1644 2248 29 34 12 20 2005 1651 2360 1456 2046 27 35 12 16 2006 1929 2955 1743 2633 28 37 13 16 2007 1656 2658 1500 2315 27 41 12 21 2008 1630 2626 1481 2372 22 40 10 22 2009 1645 2722 1487 2411 27 34 15 17 2010 1394 2528 1219 2195 16 19 06 08 2011 1538 2688 1373 2348 12 17 06 09 Ghi chú: Tỷ lệ chấp nhận kháng nghị phúc thẩm trên không tính số kháng nghị rút và số Tòa án chưa đưa ra xét xử. Tính theo thời điểm lập báo cáo 2.6. Bảng số liệu các kiến nghị của VKS Năm Kiến nghị với CQĐT Kiến nghị với tòa án Kiến nghị với CQ khác 2005 41 12 2006 57 07 2007 25 10 2008 39 09 2009 31 17 2010 36 13 01 2011 24 12 (Nguồn Báo cáo VKSNDTP Hải Phòng).
  • 137.
    138 PHỤ LỤC 2 *Một số vụ Tòa án trả do thiếu chứng cứ quan trọng của vụ án: - Vụ án Ngô Văn Thành phạm tội Chống người thi hành công vụ theo quy định tại khoản 1 điều 257 BLHS (xảy ra ngày 02/10/2007 ở huyện Kiến Thụy). Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung vì thiếu chứng cứ quan trọng chứng minh “người thi hành công vụ” là các ông trưởng thôn, an ninh thôn... (thiếu quyết định phân công của UBND xã về việc thành lập đoàn kiểm tra cưỡng chế nếu dân tiếp tục thả vịt trên cánh đồng). - Vụ án Hoàng Văn Bộ phạm tội bức tử quy định tại khoản 1 điều 100 BLHS, sau thay đổi tội danh sang Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 2 điều 104 BLHS. Xuất phát từ việc ghen tuông nên Bộ đã đánh vợ là Phạm Thị Hương, uất ức nên chị Hương đã treo cổ tự tử. Quá trình điều tra, CQĐT không ra quyết định trưng cầu giám định đối với thương tích của chị Hương mà chỉ ban hành công văn trao đổi với cơ quan pháp y xác định tỷ lệ thương tật của chị Hương nếu còn sống giảm từ 11- 15% sức lao động. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán thấy trong biên bản khám nghiệm tử thi có dấu vết nạn nhân bị đánh vào mặt và có 01 vết rách ra cung mày chưa được làm rõ nên đã trả hồ sơ điều tra bổ sung. Kết quả điều tra bổ sung xác định thương tích trên của nạn nhân giảm 4% sức lao động. Như vậy, VKS truy tố bị can Bộ trên cơ sở Công văn làm việc không phải là kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền. - Vụ án Nguyễn Văn Hậu bị VKS truy tố về tội Cố ý gây thương tích. Qua xét hỏi, HĐXX quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung vì bị cáo khai nhận tội thay Nguyễn Văn Vinh. Chứng cứ chứng minh tội của bị cáo là lời khai nhận tội của bị cáo và lời khai của các nhân chứng gián tiếp, người bị hại nhận diện không chắc chắn, bị cáo có dấu hiệu phản cung ngay từ giai đoạn điều tra nhưng VKS không phúc cung để truy tố nên khi bị cáo thay đổi lời khai tại phiên tòa KSV không có căn cứ để bác lời khai. Vụ Hoàng Thụy Khá và đồng bọn bị VKSND Hải Phòng truy tố về các tội Giết Người, Cố ý gây thương tích, Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại các điều 93, 104, 105 BLHS. Tòa án trả hồ sơ vì trong vụ án thu được của bị cáo Đoàn
  • 138.
    139 Văn Dương 01con dao có dính máu nhưng không xác định là máu của bị hại nào (vụ án có 2 bị hại cùng nhóm máu). Đây là chứng cứ quan trọng để xác định hành vi phạm tội của bị can Khá. Nhưng do thời gian quá lâu, không thể giám định được ADN nên không đủ căn cứ kết tội bị can Khá. * Một số vụ án Tòa án trả do có căn cứ để khởi tố bị can về tội danh khác hoặc có đồng phạm khác, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: - Vụ án Hoàng Ngọc Cường và Bùi Thị Thắm bị VKS truy tố về tội Môi giới mại dâm. Tại phiên tòa, Thắm khai phù hợp với lời khai của các nhân chứng là gái bán dâm về việc đã nhiều lần tổ chức cho gái bán dâm tại quán cafe do Thắm làm chủ nên Tòa án trả hồ sơ VKS để khởi tố bổ sung với Thắm và Cường về tội Chứa mại dâm. - Vụ án Đoàn Văn Bách cùng đồng bọn bị VKS An Dương truy tố tội Cố ý gây thương tích và gây rối trật tự công cộng. Tại phiên tòa các bị cáo Trương Quang Lân, Nguyễn Anh Khoảng, Trịnh Văn Huy bị truy tố tôi Gây rối trật tự công cộng khai cùng với Bách và Phạm Thế Dương tấn công anh Tiến. Tòa án trả để thay đổi tội danh với Lân, Khoảng và Huy khởi tố đồng phạm tội Cố ý gây thương tích. - Vụ án Trần Quốc Hưng phạm tội Cố ý gây thương tích có đơn khiếu nại ngay sau khi nhận được Kết luận điều tra và Cáo trạng nhưng không được VKS giải quyết là vi phạm các điều 325, 326 BLTTHS. Tòa án trả cho VKS để giải quyết khiếu nại. * Một số vụ Toà án trả không đúng: - Vụ án Ngô Đăng Đỉnh bị VKS truy tố về tội Cướp tài sản, Tòa án đánh giá thiếu chứng cứ quan trọng là giấy khai sinh của các nhân chứng là người chưa thành niên trong vụ án. Hoặc vụ án Bùi Văn Chót bị truy tố về tội Cố ý gây thương tích, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung vì đánh giá chứng cứ là bản sao bệnh án của người bị hại ghi lý do vào viện là do tai nạn sinh hoạt. Mặc dù điều này đã được nhân chứng xác định khai như vậy để hưởng chế độ bảo hiểm. Vụ án Nguyễn Sỹ Dũng, Tòa án trả hồ sơ vì cho rằng chưa tiến hành đối chất lời khai của các nhân chứng mặc dù lời khai của họ không hề mâu thuẫn. Vụ án Phạm Lương Minh phạm tội Cố ý gây thương tích, Tòa án tiến hành trả hồ sơ điều tra bổ sung hỏi về quy
  • 139.
    140 trình giám địnhthương tích đối với người bị hại mặc dù đã có công văn trả lời của Trung tâm pháp y về quy trình giám định là khách quan trước đó. - Vụ án Lee Cheng An người Đài Loan, quốc tịch Trung Quốc phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b, h khoản 2 BLHS. Tòa án trả hồ sơ để xác định tình trạng bệnh lý của Lee Cheng An có phải bị ung thư gan hay không để xác định động cơ, mục đích phạm tội. Quan điểm của VKS Hải Phòng việc xác định nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội không phải là yếu tố xác định tình tiết định khung hay là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
  • 140.
    141 PHỤ LỤC 3 *Một số vụ án qua công tác kháng nghị của VKS đã khắc phục được sai phạm, thiếu sót của cấp sơ thẩm - Vụ Nguyễn Văn Hồng phạm tội Cướp tài sản, VKS truy tố bị can khoản 2 điểm d Điều 133 BLHS. Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Hồng phạm tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS. VKS kháng nghị phúc thẩm hình sự đề nghị Tòa phúc thẩm TAND Tối cao áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS. Tòa phúc thẩm TAND Tối cao chấp nhận áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133. - Vụ Trần Đức Lan, VKSND TP Hải Phòng truy tố hai tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng theo khoản 3 Điều 165 BLHS năm 1999 và tội Tham ô tài sản theo điểm c khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1985. Tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Đức Lan phạm tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và tuyên bị cáo Lan không phạm tội Tham ô tài sản. VKS kháng nghị phúc thẩm đề nghị Tòa phúc thẩm TAND Tối cao xử bị cáo Lan hai tội như cáo trạng đã nêu. Tòa án phúc thẩm Tòa án Tối cao chấp nhận kháng nghị của VKS, tuyên Trần Đức Lan phạm hai tội như cáo trạng của VKS đã truy tố. - Vụ Nguyễn Văn Tuấn, VKS truy tố tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 BLHS. VKSND TP Hải Phòng đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Tòa án sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS xử phạt Nguyễn Văn Tuấn 6 tháng tù giam. VKS kháng nghị phúc thẩm đề nghị tăng hình phạt do bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm, nên cần phải xét xử nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung. Tòa phúc thẩm TAND Tối cao đã chấp nhận kháng nghị của VKSND Tòa án Hải Phòng xét xử tăng hình phạt đối với bị cáo Tuấn, mức hình phạt là 12 tháng tù.