Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----****----
TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ SỰ VẬN
DỤNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY.
Họ và tên : Nguyễn Gia Nghi
Mã sinh viên : 11230120
Lớp : Quan hệ công chúng CLC
Viện :
Viện đào tạo Tiên tiến, Chất
lượng cao và POHE
GVHD : Nguyễn Văn Thuân
Hà Nội, 2024
2. 1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................2
NỘI DUNG ...............................................................................................................3
Phần 1: Mối quan hệ giữ vật chất và ý thức..........................................................3
1. Vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:.....................................3
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức ...............3
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.............................................6
Phần 2: Quá trình vận dụng mối quan hệ giữa vật chất Và ý thức trong xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở VN:..............................................................8
1. Ý nghĩa phương pháp luận:.................................................................................8
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình phát triển kinh tế đổi mới đất nước. .9
KẾT LUẬN:............................................................................................................12
Tài liệu tham khảo:............................................... Error! Bookmark not defined.
3. 2
LỜI NÓI ĐẦU
Như một tầm nhìn tổng thể và phương tiện để hiểu biết thế giới, triết học đảm
nhận trách nhiệm giải thích các khía cạnh của thực tế, mở ra cánh cửa cho cái nhìn chiều
sâu, và hướng dẫn hoạt động trực tiếp của con người. Trong thời đại hiện đại, vai trò của
triết học ngày càng trở nên không thể phủ nhận trong định hình cuộc sống xã hội.
Các trường phái triết học nói chung và triết học Mác - Lênin nói riêng đều quan
tâm đến mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Đây chính là vấn đề cơ bản của triết học.
Vật chất và ý thức là hai phạm trù triết học cơ bản, bao quát mọi sự vật hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy. Việc giải thích đúng đắn mối quan hệ này có vai trò quan
trọng định hướng cho con người hành động đúng đắn trong hoạt động thực tiễn.
Hiểu rõ và đúng đắn trong việc giải quyết mối quan hệ cơ bản giữa vật chất và ý
thức đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới quốc gia mà chúng ta đang trải qua.
Điều này đặt ra yêu cầu cao với mỗi cán bộ và đảng viên của Đảng, đòi hỏi họ phải tích
cực nâng cao trình độ, đồng thời đồng bộ hóa với xu hướng phát triển của thực tế hiện
nay.Trọng tâm của công tác này, đặc biệt là việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và
chính trị, cũng như định rõ đường lối phát triển kinh tế xã hội. Điều này sẽ góp phần quan
trọng vào việc xây dựng một quốc gia phát triển bền vững, theo đúng hướng lối của chủ
nghĩa xã hội. Đồng thời, nó là chìa khóa để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới quốc gia, mang
lại những thành tựu tích cực và bền vững cho đất nước.
Với tư cách là một sinh viên đại học, đồng thời là một công dân của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, em muốn cùng mọi người tìm hiểu kĩ hơn về Triết học
Mác- Lênin phần chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa vật chất và ý thức. Cụ thể hơn là đề
tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY”.
Do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế cho nên bài viết của em sẽ không
thể tránh khỏi thiếu sót, em kính mong sự góp ý của thầy giáo.
Em xin chân thành cảm ơn !
4. 3
NỘI DUNG
Phần 1: Mối quan hệ giữ vật chất và ý thức
1. Vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
1.1 Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất và ý thức
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về vật chất
Các nhà duy vật trước Mác đã có những quan điểm về vật chất nhưng còn hạn chế.
Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng, có quảng tính. Vào thời cổ đại, thuyết
Ngũ hành của triết học Trung quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ” là những tố
chất vật chất xây dựng nên thế giới. Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên của thế giới theo quan
điểm của Talet là nước, theo Anaximen là không khí, Hêraclit cho rằng đó là lửa, còn
Đêmôcrit khẳng định đó là nguyên tử. Các nhà duy vật thế kỉ XVII cho rằng nguyên tử
là đơn vị nhỏ nhất không thể chia nhỏ, là những viên gạch đầu tiên xây nên vật chất. Đây
là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới không phải là vô cùng mà có giới hạn,
có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất, bất biến.
Cuối thế kỷ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu khoa học ra đời đã
bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật trước Mác: Beccoren phát hiện ra tia phóng
xạ (năm 1896), Tômson phát hiện ra điện tử (năm 1897), phát hiện ra hạt quác (năm
1964),... Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó, V.I.Lênin khẳng định: “Vật
chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào
cảm giác”. Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lenin. Theo định nghĩa
trên, vật chất là pham trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận chưa vượt qua được. Do vậy,
5. 4
chúng ta không thể đồng nhất vật chất với vật thể hay một thuộc tính cụ thể, cũng không
thể quy về phạm trù rộng lớn hơn.
Vật chất không phải là một lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó như chủ
nghĩa duy tâm khách quan đã quan niệm. Mà vật chất dùng để thực tại khách quan, là cái
tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy
con người thức được hay chưa nhận thức được. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con
người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan con người, được cảm giác chép
lại, chụp lại, phản ánh.
Lênin từng chỉ rõ: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và
vật chất đang vận động không ở đâu ngoài không gian và thời gian”. Vận động là phương
thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất. Khác với quan điểm siêu hình cho rằng vận
động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận
động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là
mọi sự biến đổi nói chung. Vật chất tồn tại bằng vận động, vật chất thông qua vận động
để biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là sự tự thân vận động. Vận động
của vật chất không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ hình thức vận động này sang hình
thức vận động khác. Đứng im là một trạng thái vận động, đó là vận động trong sự thăng
bằng, trong sự ổn định tương đối. Như vậy, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Vật chất luôn vận động
và phát triển, sự vận động ấy không đâu khác “ngoài không gian và thời gian”. Không
gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự vận động của vật chất.
Không gian có tính vô tận và ba chiều còn thời gian có tính vĩnh cửu và một chiều. Hai
thuộc tính này không thể tách rời nhau.
6. 5
* Quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về ý thức
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình
phát triển của cả tự nhiên và lịch sử xã hội. Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và
thế giới khách quan. Bộ óc con người là cơ quan tổ chức vật chất của ý thức. Hoạt động ý
thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc con người. Ý
thức không thể tách rời khỏi hoạt động của bộ óc. Tuy nhiên, để bộ óc con người sinh ra
được ý thức thì tất yếu cần phải có sự tác động của thế giới khách quan. Mọi vật chất có
thuộc tính chung là phản ánh, ý thức là hình thức phản ánh thế giới hiện thực cao nhất
của bộ óc thông qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới khách quan. Điều kiện cần cho sự
ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên song vẫn chưa đủ mà lao động và ngôn ngữ là hai
nguồn gốc xã hôi quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức. Lao
động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác. Lao
động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình. Thông qua lao động, thế
giới khách quan tác động nên não người và não người càng phát triển tư duy trừu tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Ngôn ngữ còn là
phương tiện giao tiếp trong xã hội, là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con
người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho
rằng bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người
một cách năng động sáng tạo. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý
thức ra đời trong quá trình con người lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý
thức không phải thụ động như sao chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo. Theo
C.Mác và Ăng-ghen, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc
con người và được cải biến đi ở trong đó”.
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt ngang,
ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn…Trong đó, tri thức là hạt nhân
7. 6
của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức và
tự ý thức. Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn vạch ra quy luật vận
động phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện thực mà còn sáng tạo hiện thực.
1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Theo chủ nghĩa duy vật thì vật chất quyết định ý thức. Theo chủ nghĩa duy tâm ý
thức quyết định vật chất. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học
khẳng định trong mối quan hệ vật chất và ý thức thì vật chất là cơ sở, cội nguồn sinh ra ý
thức. Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng thể hiện qua vai trò quyết định
của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương ứng. Ý thức tác động trở lại thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức quyết định
nội dung và xu hướng phát triển của với ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý
thức bởi vì vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức và là nguồn gốc sinh ra ý thức
(não người là dạng vật chất có tổ chức cao, là cơ quan phản ánh hình thành ý thức, ý thức
tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não). Trong quá trình phản ánh thế giới
khách quan, ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất đó vào con người. Thế giới khách
quan là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung của ý thức. Ý thức bắt nguồn từ một
thuộc tính của vật chất, đó là một thuộc tính phản ánh phát triển thành, ý thức ra đời là
kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất. Điều kiện quyết định cho
sự ra đời của ý thức là những tiền đề nguồn gốc xã hội, ý thức ra đời cùng với quá trình
hình thành bộ óc con người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội trong hoạt
động thức tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật chất cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết
định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Vì vậy ý thức chính là sản phẩm của
sự phát triển xã hội. Ngoài ra ý thức có thể trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo
hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Do vậy, vật chất quyết định sự phát triển của ý
thức, quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức. Ý thức do vật chất sinh ra
và quyết định nhưng sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động
8. 7
trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. vì vậy con
người phải tôn trọng khách quan của vật chất và của các quy luật tự nhiên xã hội, đồng
thời phải tôn trọng tính chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy khách
quan làm căn cứ cho hoạt động của mình. Bên cạnh đó cần phát huy tính năng động chủ
quan túc là phát huy vai trò tích cực của ý thức, không ngừng tìm kiếm tích lũy những
hiểu biết mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và
sự phát triển sự vật. Mặt khác bản thân ý thức tự nó không thay đổi được gì trong hiện
thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất được
con người thực hiện trong thực tiễn. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người
những tri thức về bản chất quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy con người
xác định đúng mục tiêu và đề ra phương hướng hoạt động phù hợp. Vì vậy, ý thức tác
động trở lại vật chất theo hai hướng:
-Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và thành
công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật
chất phát triển nhanh vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng
và biện pháp chính xác.
- Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi
con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của thế giới vật
chất. VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm
hãm sự phát triển của thế giới vật chất. Vì vậy cần phải phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan,
đồng thời khắc phục bệnh trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động trong quá trình đổi mới hiện
nay. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó
không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất. Từ quan điểm duy vật
9. 8
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, một nguyên tắc được rút ra, đó là
nguyên tắc khách quan. Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định
của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
“phải lấy thực thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính
năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính năng động sáng tạo
của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể
phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những con
đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực
hiện sự biến đổi từ cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu
cầu của con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách
quan, sức mạnh của quy luật ... để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác nhau của con
người.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như cụ thể và khách thể,
lý luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan .
Phần 2: Quá trình vận dụng mối quan hệ giữa vật chất Và ý
thức trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở VN:
1. Ý nghĩa phương pháp luận:
-Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn
trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
10. 9
- Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan, đặc
biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con
người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí,
lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất nhưng lí luận một khi
thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất".
- Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ thấp, đánh giá
không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt thực tế,
lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ
nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lí luận vào thực tiễn nói riêng.
Đó là “sự mù quáng chủ quan”, là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một
cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của vật chất trong mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại “chủ nghĩa khách quan” thái độ thụ
động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
- Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan trong
hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình phát triển kinh tế đổi mới đất nước.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, phương hướng về
xây dựng cơ sở vật chất, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế ... Biểu hiện của căn
bệnh đó là chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà
sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế và hệ quả của nó là việc đề ra
những chỉ tiêu quá cao vượt quá khả năng thực tại. Không những vậy, Đảng đã mắc sai
lầm là vội cải tạo XHCN, phủ nhận nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì cơ chế quan liêu
bao cấp. Đảng có nhiều sai sót trong quản lý tiền tệ cũng như quản lý giai cấp lãnh đạo.
Chúng ta đã không có một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học
11. 10
dẫn đường. Như vậy, Đảng ta đã vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với
tinh thần của phép biện chứng duy vật. Sau khi miền Nam giải phóng thống nhất đất
nước, nền kinh tế miền Bắc bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo lộn và suy sụp. Cơ
sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp; sản
xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho người dân, nguyên liệu cho công
nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu, ...; nền nông nghiệp bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chi tiêu kế hoạch năm
1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng như: năm 1975, phấn đấu đạt 21
triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hecta khai hoang, 1 triệu 200 hecta rừng
mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng,...
Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra, nền
kinh tế tăng trưởng chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp
tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội lần thứ V chưa tìm ra nguyên nhân thực sự
dẫn đến sự trì trệ trong nền kinh tế và cũng chưa đưa ra chủ trương chính sách toàn diện
về đổi mới nhất là kinh tế.
Tại Đại hội VI, Đảng đã rút ra kinh nghiệm quan trọng, đó là: phải tôn trọng thực
tế, tôn trọng và hoạt động khách quan. Đảng đã tự phê phán một cách nghiêm khắc, phân
tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế; đồng thời đề ra định hướng,
tạo ra bước ngoặt trong đổi mới đất nước đặc biệt đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu
ba chương trình kinh tế: lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình
thành nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế tư sản hàng hóa và kinh tế tư bản
tư nhân, đổi mới cơ chế quản lý. Đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải
quyết như: lạm phát, thiếu việc làm, cơ chế quản lý còn sơ hở, lúng túng,…
12. 11
Tình hình chính trị lúc này đã dần ổn định, khủng hoảng kinh tế giảm bớt nên đời
sống nhân dân được cải thiện, dân chủ được phát huy. Đại hội VIII tiếp tục hoàn thiện
đường lối đề ra, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc. Đảng đã chỉ ra những mục tiêu đạt được trong 5 năm từ 1991 đến 1995, quan
trọng là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, lấy đổi mới làm nền
để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.Nhờ nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh
tế và chính trị, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn: lạm phát được đẩy lùi; tổng
sản phẩm GDP tăng bình quân 8,2% so với mức đề ra là 5,6%; sản xuất lương thực tương
đối toàn diện, vấn đề lương thực được giải quyết; quan hệ đối ngoại được mở rộng theo
hướng đa phương hóa; thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng; vốn đầu tư nước ngoài
tăng mạnh; kim ngạch xuất khẩu tăng. Không những thế, khoa học kỹ thuật phát triển,
đời sống người dân được nâng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững.
Công cuộc đổi mới ngày càng được những thành tựu to lớn nhờ Đảng đã kịp thời
khắc phục sai lầm, nghiên cứu, tìm ra những mặt hạn chế để từ đó vận dụng đúng mối
quan hệ vật chất và ý thức vào sự phát triển kinh tế. Những thành công trong quá trình
đổi mới ngày càng khẳng định con đường đúng đắn mà Đảng ta đã chọn: phù hợp với nền
kinh tế thị trường, hướng tới CNXH bỏ qua TBCN, phát triền kinh tế gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội. Qua đây, chúng ta càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính
trị và xã hội, công tác đối ngoại quốc phòng an ninh ... nhưng các nhân tố xã hội, chính
trị đối ngoại ... cũng tác động trở lại nền kinh tế.
13. 12
KẾT LUẬN:
Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, Đảng ta
chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người lao
động. Muốn vậy “ phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài
chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” (tức là phát
huy tính năng động của ý thức). Đảng đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy
mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH nước
ta. Ngoài ra, ta cũng nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị đề tạo nên
sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân. Quá trình xây dựng đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự đoàn kết của cả dân
tộc Việt Nam, toàn Đảng toàn dân phải nhạy bén, tỉnh táo với thời cuộc, vận dụng đúng
đắn chủ nghĩa Mác- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển kinh tế xã hội
xây dựng đất nước.
14. 13
Tài liệu tham khảo:
- Tìm hiểu môn triết học Mác- Lenin (Nhà xuất bản chính trị)
- Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia)
- Văn kiện đại hội lần IV
- Văn kiên đại hội lần VI
- Văn kiện đại hội lần VII
- Công cu tìm kiếm: Trang web: http://www.google.com.vn