SlideShare a Scribd company logo
1 of 133
®¹i häc quèc gia hµ néi
Khoa luËt
----------------
Lª ThÞ Hång H¹nh
Nguyªn t¾c thùc hiÖn chÕ ®é hai cÊp xÐt xö-
nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn
LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ Néi - 2009
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để đạt được mục đích của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng: khởi tố
vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cña c¸c cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Cơ quan thi hành án đồng thời quy định quyền
và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ
án. Mặt khác, BLTTHS còn qui định các nguyên tắc cơ bản với tính chất là
những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối
với một loại hoạt động tố tụng nhất định như hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử... Các nguyên tắc của tố tụng hình sự thực chất là những đảm bảo pháp lý
cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời chúng còn là những
đảm bảo pháp lý cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam. Đây cũng là
một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988.
Việc đảm bảo cho nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện trên thực
tế là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định của pháp
luật về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, cũng như giám đốc thẩm và tái thẩm đã
xuất hiện một số vướng mắc nhất định, gây khó khăn cho các cơ quan tiến
hành tố tụng và gây thiệt hại cho những người tham gia tố tụng. Chẳng hạn,
về xét xử sơ thẩm, trong cùng một nội dung nhưng một số điều luật tại các
phần khác nhau trong BLTTHS năm 2003 chưa thực sự thống nhất với nhau,
ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, khiến họ
2
có những phản ứng trước các kết luận trong bản án, quyết định sơ thẩm, dẫn
đến bị cáo kháng cáo, VKS kháng nghị bản án. Trong khi đó các quy định của
pháp luật về xét xử phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục.
Bởi vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện nguyên tắc này là một đòi
hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa khoa
học và còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử cũng còn nhiều bất cập, việc
kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của VKS nhiều khi không có căn cứ mà chỉ
nhằm trì hoãn, dây dưa, kéo dài việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội.
Từ thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu một cách
toàn diện những quy định của pháp luật về nguyên tắc hai cấp xét xử nhằm làm
sáng tỏ về mặt lý luận để áp dụng và thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả nguyên
tắc này trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hình
sự hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Với những lý do đã nêu trên, tôi chọn đề tài "Nguyên tắc thực hiện
chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" để nghiên cứu
trong Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự, nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, thể hiện trong
những cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2004, giáo trình của các trường đại học và rải rác ở
một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
tạp chí Nhà nước và pháp luật như bài viết: "Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến
việc tổ chức Tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số
10/2004 của Trần Văn Độ; "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng
3
nguyên tắc đó vào việc tổ chức tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 5/2007 của Trần Văn Độ; "Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử", đăng trên Tạp
chí Luật học, số 6/2007 của Vũ Gia Lâm.
Tuy nhiên, đây là một nguyên tắc mới được qui định cụ thể trong BLTTHS
năm 2003. Do đó, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này nếu so với
các qui định khác của quá trình tố tụng nói chung còn ít. Thiết nghĩ việc tiếp
tục nghiên cứu nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử để khắc phục
những hạn chế, đưa ra những giải pháp phù hợp là một việc làm cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ
thống các quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử, chỉ ra những mâu thuẫn, vướng mắc trong các quy định của
pháp luật cũng như trong quá trình áp dụng trong thực tiễn. Từ đó đề xuất giải
pháp góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc này.
- Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn thực hiện các nhiệm
vụ cụ thể sau:
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ
hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự.
+ Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam
về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng
thời đối chiếu, so sánh để tìm ra các mâu thuẫn và bất cập trong các quy định
đó. Riêng đối với cấp xét xử phúc thẩm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định của pháp luật về việc phúc thẩm đối với các bản án hình sự sơ thẩm.
+ Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử trong những năm gần đây nhằm tìm ra những khó khăn,
vướng mắc, tồn tại, bất cập khi vận dụng pháp luật.
4
+ Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong BLTTHS Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đây là đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối của
Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách nền tư pháp và
nền hành chính quốc gia, xây dựng một xã hội công bằng, pháp chế, văn minh
theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Nội dung của đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các
văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật có
liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và những bài viết
trên các báo, tạp chí và các bản tổng kết của ngành Tòa án, VKS, cũng như
thực tiễn công tác của bản thân tác giả.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê. Những kết luận và đề
xuất nêu trong luận văn được dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học,
đối chiếu với kết quả khảo sát thực tế, phân tích các báo cáo tổng kết của
ngành tòa án trong những năm gần đây cũng như định hướng phát triển của
ngành tòa án trong những năm sắp tới.
5. Đóng góp mới của luận văn
Đây là luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của
BLTTHS hiện hành về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Kết quả
nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng,
đánh giá đúng thực trạng, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, nguyên
nhân và giải pháp hoàn thiện.
Do đó, luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào
kho tàng lý luận về luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tài liệu tham khảo bổ ích
cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đề xuất sửa đổi, bổ
5
sung BLTTHS về vấn đề này và những người làm công tác thực tế như công
tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong
Luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế
độ hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét
xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Cơ sở của nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự
Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Quy
chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế) xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, đối với nước ta đường lối chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay vẫn tiếp tục kiên định chủ trương xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong đó, mọi
hoạt động của cơ quan nhà nước dù ở cấp nào cũng được thực hiện trên cơ sở
pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền không có nghĩa là chỉ hoàn thiện tổ
chức quyền lực Nhà nước mà còn phải xây dựng tổng thể những nền tảng kinh
tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó, thực hiện pháp luật tố tụng hình sự
theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi
hỏi phải đề cao nguyên tắc phản ánh được tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và
pháp chế. Muốn đạt được như vậy, bên cạnh việc thực hiện các nguyên tắc như:
Nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật…thì còn phải thực hiện nguyên tắc hai cấp xét
xử, vì nguyên tắc này là một bảo đảm cho quá trình tìm ra sự thật khách quan
của vụ án, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi tội
phạm đều phải bị trừng trị đích đáng theo qui định pháp luật đồng thời không
truy cứu oan người vô tội, tạo điều kiện cho các bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích
7
hợp pháp của mình, góp phần vào việc thực hiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, tất cả vì mục tiêu con người mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
Thứ hai, hoạt động xét xử là một hoạt động phức tạp. Ngày nay, trước
những chuyển biến về hoàn cảnh thế giới và trong nước, với xu thế phát triển
ngày càng cao của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến làm phát sinh ra
ngày càng nhiều loại hình tội phạm mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thực tế chỉ
ra rằng, các Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa mặc dù được đào tạo chuyên môn về
luật pháp, có kinh nghiệm xét xử và được bổ trợ những kinh nghiệm thực tế của
02 Hội thẩm nhân dân nhưng có thể vẫn mắc phải những sai lầm do trình độ
nhận thức hoặc cảm tính cá nhân. Để khắc phục được những sai sót có thể xảy
ra đó, pháp luật tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng sau khi xét xử
lần đầu có cơ hội yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại một lần nữa theo thủ tục
phúc thẩm. Tòa án cấp trên với Hội đồng xét xử (HĐXX) có số lượng Thẩm
phán nhiều hơn có kinh nghiệm hơn sẽ là bảo đảm tốt hơn cho vụ án được giải
quyết chính xác, khách quan, công bằng và cũng là cơ hội để Tòa án cấp trên
sửa sai cho Tòa án cấp dưới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng trên thực tế còn có
tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của các Thẩm phán xét xử sơ thẩm.
Thực tế cho thấy, với khả năng các phán quyết của họ có thể sẽ bị Tòa án
phúc thẩm xem xét lại, thậm chí là hủy án sẽ làm cho các Thẩm phán - Chủ
tọa phiên tòa ở cấp sơ thẩm thận trọng hơn, cân nhắc kỹ lưỡng, đầu tư nghiên
cứu hồ sơ vụ án để có một quyết định chính xác. Mặt khác, nếu Thẩm phán bị
phát hiện có dấu hiệu sai lầm trong nghiệm vụ sẽ là dấu ấn không tốt cho việc
thăng tiến trong tương lai hoặc tái bổ nhiệm…
Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền
bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình tại phiên tòa, có quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng vì lý do nào
đó, bị cáo không thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên tắc hai
8
cấp xét xử tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên tòa
phúc thẩm, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo suy ngẫm, ăn năn hối cải, bồi
thường khắc phục hậu quả nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, kể
cả khi đã có bản án kết tội của Tòa án sơ thẩm. Điều đó thể hiện sự nhân đạo
của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ năm, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo sự phù hợp giữa pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế trong hoạt động xây dựng pháp luật. Khi
xây dựng pháp luật, pháp lệnh, Quốc hội nước ta luôn ưu tiên cho việc ban
hành mới hoặc sửa đổi những qui định hiện hành sao cho phù hợp với Điều
ước quốc tế, Công ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập, đảm bảo cho các văn
bản pháp luật đó được thực hiện. Điều đó có nghĩa là khi Chủ tịch nước hay
người có thẩm quyền ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, Công ước quốc
tế thì các văn bản pháp luật quốc tế này phải được xem là một bộ phận của
Pháp luật quốc gia. Và do đó, nó phải được tồn tại trong tổng thể thống nhất
và phối hợp với pháp luật trong nước. Do đó, việc qui định nguyên tắc hai cấp
xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng là một đảm bảo cho sự
phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày
16/12/1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 trong đó qui định: "Bất cứ
người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xét
xử lại bản án và hình phạt đối với mình theo qui định pháp luật".
Theo tác giả, trên đây là những cơ sở, lý do cơ bản để pháp luật quốc
gia và các văn bản pháp luật quốc tế quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố
tụng hình sự
1.1.2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
a) Nguyên tắc thực hành hai cấp xét xử được qui định trong các văn
bản pháp luật của các quốc gia và văn bản pháp luật quốc tế, theo đó nguyên
tắc này bao gồm những nội dung sau:
9
Thứ nhất, bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên
tại cấp xét xử sơ thẩm.
Đối với một vụ án hình sự, sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xử
thứ nhất hay còn gọi là cấp xét xử thứ nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án.
Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS. Điều này có nghĩa là
chỉ khi có cáo trạng truy tố bị can ra Tòa của VKS thì mới có xét xử sơ thẩm.
Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một
phiên tòa hình sự sơ thẩm và được diễn ra theo một thủ tục nhất định được
quy định trong BLTTHS. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào dù đơn
giản hay phức tạp, dù có một hay nhiều bị cáo cũng đều phải diễn ra theo thủ
tục đó.
Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề
của vụ án, có nghĩa là trong bản án hình sự sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm phải
quyết định bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, áp dụng điểm, điều,
khoản nào trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Nếu có nhiều bị cáo thì áp dụng
điểm, điều, khoản nào đối với từng bị cáo và quyết định hình phạt chính, hình
phạt bổ sung (nếu có). Ngoài ra, HĐXX còn phải quyết định các vấn đề khác
như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng (nếu có), quyết định về phần án phí
hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm (nếu có), đồng thời tuyên bố quyền
kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nói cách khác,
HĐXX cấp sơ thẩm phải phân tích, đánh giá toàn bộ vụ án, trên cơ sở những vấn
đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định có tội,
chứng cứ xác định vô tội, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đánh giá
thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như lên hướng xử lý
vật chứng (nếu có) để đi đến các quyết định trong bản án.
Thứ hai, Bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo quy định của pháp luật. Tất cả các bản án, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ trường
10
hợp nào. Khi có kháng cáo, kháng nghị thì vụ án được xét xử ở cấp xét xử
phúc thẩm. Đây là cấp xét xử thứ hai và bao giờ cũng được tiến hành sau cấp
xét xử sơ thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án
cấp sơ thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là các bản án, quyết định sơ thẩm và
Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên của Tòa án đã
xét xử sơ thẩm.
Như vậy, không phải tất cả các vụ án đều phải trải qua thủ tục sơ thẩm
và phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị thì mới được xét xử ở cấp phúc thẩm. Đối với vụ án có kháng cáo, kháng
nghị thì bản án chưa được đưa ra thi hành ngay trừ trường hợp bị cáo đang bị
tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là
tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng
hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của tòa án
được thi hành ngay (khoản 2 Điều 255) mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo,
kháng nghị, mục đích là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, trả lại tự do cho bị cáo
nếu bị cáo không bị giam giữ về một hành vi khác.
Khi kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ
cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu hoặc tại phiên
tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc VKS có quyền bổ sung, thay đổi kháng
cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, rút một
phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ
kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được định
chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ khi Tòa án phúc thẩm ra quyết
định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Thứ ba, quyền kháng cáo thuộc về bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác với phạm vi và giới hạn do luật quy định. Tòa án tạo điều kiện cho
những người tham gia tố tụng thực hiện quyền kháng cáo của mình. Bị cáo,
người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
11
hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 231 BLTTHS). Quyền kháng nghị thuộc về
VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng cáo là mười lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa
thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm
yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp
trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp đặc
biệt, có lý do chính đáng thì Tòa án có thể chấp nhận kháng cáo quá hạn.
Việc chấp nhận hay không chấp nhận được quyết định bởi HĐXX gồm ba
Thẩm phán.
Thứ tư, đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn
theo quy định của pháp luật mà không có kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu
lực pháp luật. Khi đó Tòa án sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án ngay đối
với các bị cáo. Bản án Phúc thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu
lực thi hành ngay sau khi bản án được tuyên. Trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tuyên án hoặc từ khi ra quyết định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản
án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án cấp sơ thẩm (và các cơ quan khác theo
quy định của pháp luật) để Tòa án sơ thẩm ra quyết định thi hành án.
Thứ năm, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án
hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản
án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc
thẩm, tái thẩm là hai hình thức của thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm và bị kháng nghị. Nó được thực
hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không
phải là thủ tục nối tiếp của hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Vì vậy, giám
đốc thẩm và tái thẩm không được coi là cấp xét xử thứ ba. Việc kháng nghị
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm thuộc về VKS, Tòa án. Người phạm tội có quyền kháng cáo
12
đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm phải có các căn cứ quy định tại Điều 273, Điều 291 BLTTHS.
b) Phân biệt hai cấp xét xử với xét xử một cấp. Xét xử một cấp là chế
định về xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nghĩa là các bản án chỉ được
xét xử một lần là xét xử sơ thẩm. Cơ chế xét xử một cấp tồn tại từ sau Cách
mạng tháng Tám thành công, ngày 14-2-1946 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số
21/ SL về việc tổ chức Tòa án quân sự (TAQS) quy định: "Tất cả những vụ án
phản cách mạng đều được xét xử một lần và là chung thẩm", việc xét xử này
thuộc thẩm quyền của TAQS. Đây là văn bản đầu tiên xác định sự ra đời của
thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Từ khi ra đời cho đến nay, thủ
tục này được quy định ở nhiều văn bản pháp luật tố tụng khác nhau cụ thể tại
Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/2/1947 về tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt
Nam; Sắc lệnh số 45/SL ngày 24/4/1947; Sắc luật số 01 ngày 15 tháng 3 năm
1976; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1981; Luật Tổ chức
TAND năm 1992 và BLTTHS năm 1988. Từ năm 1960, Tòa án có thẩm
quyền xét xử một lần (chung thẩm) thuộc về Tòa án nhân dân tối cao
(TANDTC). "Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là
chung thẩm và có hiệu lực pháp luật" (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960).
Vì vậy, thủ tục xét xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời
chung thẩm chứ không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước. Sự thay đổi về
tên gọi này là cần thiết vì nó dễ phân biệt với thủ tục chung thẩm nhưng với ý
nghĩa là cấp xét xử thứ hai (sau này gọi là phúc thẩm). BLTTHS năm 1988 ra
đời, thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC
vẫn tồn tại. Tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 1988 quy định: "Tòa hình sự
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự cấp cao xét xử sơ thẩm đồng thời
chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp". Theo Thông tư
liên ngành số 02 ngày 22/12/1982 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC), Bộ Nội vụ, Bộ tư pháp hướng dẫn để xét xử một vụ án hình
sự theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm phải hội đủ các điều kiện cần
và đủ sau:
13
- Bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh chính
trị, tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản công dân, làm cho nhân dân căm phẫn
và yêu cầu chính trị của địa phương là phải trừng trị nghiêm khắc, kịp thời.
- Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh, côn đồ, những tên
chuyên làm ăn phi pháp, những cán bộ nhân viên sa đọa, biến chất.
- Trong vụ án không có nhiều bị cáo, chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ
không còn nghi vấn gì về tội phạm.
- Mức độ tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, cần phải trừng trị bằng
hình phạt cao nhất.
Cho đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời cơ chế một cấp xét xử mới
được thay thế hoàn toàn bởi cơ chế hai cấp xét xử, hủy bỏ thẩm quyền xét xử
sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC.
Theo thủ tục xét xử một cấp, bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung
thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án. Bị cáo và những người có quyền
lợi pháp lý trong vụ án cũng như VKS không được quyền kháng cáo, kháng nghị
bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm theo thủ tục phúc thẩm.
Xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trong thời điểm nhất định đã
góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong
hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và trong những năm đầu mới giành chính
quyền. Nó có ưu điểm là làm cho việc xét xử nhất là các vụ án trọng điểm, án
phức tạp nhanh chóng hơn, bản án đã tuyên đảm bảo được tính ổn định, tiết kiệm
được chi phí xét xử cũng như thời gian và công sức. Đặc biệt là phù hợp và có
hiệu quả đối với việc xét xử các phần tử phản cách mạng chống chính quyền
nhân dân, giải quyết dứt điểm các vụ án phản cách mạng đồng thời thể hiện được
quyền lực của chính quyền nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự
xã hội và ổn định kinh tế trong những ngày đầu của chính quyền còn non trẻ phải
tiếp quản một xã hội đầy khó khăn và tội phạm. Việc xét xử do TANDTC tiến
hành với đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm
14
nên chất lượng xét xử nhìn chung tốt, đảm bảo xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Song, xét về mặt đảm bảo quyền kháng cáo của người bị kết án nói
riêng, quyền con người nói chung thì thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời là chung
thẩm cần được xem xét lại. Điều này xuất phát từ các lý do sau:
Thứ nhất, nếu như nguyên tắc hai cấp xét xử bảo đảm bản án quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định
của pháp luật, điều này có nghĩa là tất cả các bản án, quyết định của Tòa án sơ
thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp
nào đối với bất kỳ bị cáo nào phạm tội vào bất kỳ loại tội nào kể cả tội ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng.
Trong khi đó, đối tượng của xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trước đây
chỉ là đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, do đó, mức hình phạt
tuyên đối với bị cáo thường rất nặng, thậm chí tù chung thân hoặc tử hình mà
người bị kết án lại không có quyền kháng cáo, trong khi người phạm tội ít
nghiêm trọng hơn lại được kháng cáo. Đó là điều bất hợp lý. Hơn nữa, đây lại
là các vụ án có tính phức tạp cao, nếu chỉ xét xử một lần e là khó tránh khỏi
những sơ suất có thể phát sinh mà sau này không có cơ hội để sửa chữa lại.
Thứ hai, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đã vi phạm
nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được quy định tài Điều 131
Hiến pháp và Điều 12 BLTTHS năm 1988 (tức Điều 11 BLTTHS năm 2003).
Theo nguyên tắc này người bị Tòa án đưa ra xét xử có quyền tự bào chữa cho
mình ở cấp sơ thẩm và khi chưa thỏa đáng với bản án, quyết định sơ thẩm thì
có quyền kháng cáo bản án để được xét xử lại ở cấp phúc thẩm nhưng nếu họ
bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm đống thời chung thẩm thì bị cáo sẽ không có
quyền yêu cầu xét xử phúc thẩm, vì thế, quyền tự bào chữa của bị cáo đã
không thể thực hiện được một cách trọn vẹn.
Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm cũng đã vi phạm
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại
Điều 52 Hiến pháp và Điều 4 BLTTHS năm 1988. Với nguyên tắc này, tất cả
15
những người tham gia tố tụng có cùng tư cách tố tụng họ đều có quyền và
nghĩa vụ pháp lý như nhau, không phân biệt bất kỳ ai, nhưng với thủ tục xét
xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, bị cáo và những người có quyền kháng cáo
trong vụ án đều bị tước mất quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, ngược lại với bị
cáo khác nếu bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm họ lại có quyền kháng cáo bản án
sơ thẩm. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trước pháp luật giữa các bị cáo,
quyền của các bị cáo có sự "phân biệt đối xử", không công bằng.
Khắc phục những hạn chế đó, để đảm bảo lợi ích cũng như quyền bào
chữa của bị cáo, cũng như để phù hợp với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, nguyên tắc hai cấp xét xử
ra đời xóa bỏ chế độ xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trước đây.
Như vậy, việc quy định nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử tại Điều 20
BLTTHS năm 2003 với những nội dung cơ bản như đã nêu trên thể hiện sự
tiến bộ trong lập pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
1.1.3. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Nguyên tắc vốn được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm
cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [44, tr. 1217].
Do đó, có thể khẳng định nguyên tắc là cái không thể thiếu trong hoạt
động thực tiễn của con người, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng
hướng và đạt hiệu quả.
Tố tụng hình sự, với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan
nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc
của luật tố tụng hình sự có thể được định nghĩa "là tư tưởng chủ đạo và là
định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như
trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó" [1, tr. 3]
16
Hoạt động xét xử là quy trình Tòa án áp dụng luật vào việc xử lý hành
vi phạm tội nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế, chính trị-xã
hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là
hoạt động trọng tâm của hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động tư pháp nói
chung nên cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của các nguyên tắc luật tố
tụng hình sự mà đặc trưng là nguyên tắc thực hiện cơ chế hai cấp xét xử.
Cấp xét xử được hiểu với nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm
cho rằng cấp xét xử là giai đoạn xem xét lại vụ án tại Tòa án với thẩm quyền
xác định. Theo khái niệm này thì cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng
chung, thể hiện một giai đoạn xét xử trong quy trình giải quyết vụ án hình sự.
Xuất phát từ đây, người ta cho rằng trong pháp luật tố tụng hình sự có các cấp
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mỗi giai đoạn tương ứng
với một cấp xét xử nhất định. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng cấp xét xử
là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện Quyết định của Nhà nước về xét xử các
vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án,
bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Hiện nay, theo pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện
theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Đó là việc vụ việc mà bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định được Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại theo thủ tục phúc
thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là một thủ tục đặc biệt, xét lại các bản án
và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù xét xử sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng
không thể nói chúng là các cấp xét xử khác nhau.
Nguyên tắc hai cấp xét xử quy định Tòa án khi xét xử một vụ án hình
sự phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Bảo đảm đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ
thẩm vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được
cấp sơ thẩm giải quyết
17
- Bảo đảm tối đa quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm
của các đương sự. Đây là các quy định liên quan đến thời hạn kháng cáo,
kháng nghị, liên quan đến quyền hạn của những người tham gia tố tụng…
- Bảo đảm thể hiện đầy đủ rằng phúc thẩm là cấp xét xử. Tính chất của
phúc thầm phải là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà bản
án, quyết định Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn
pháp luật qui định nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Với những vấn đề quan trọng trên, nguyên tắc hai cấp xét xử được nhà
làm luật xác định là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
và đã được quy định tại một điều luật cụ thể - Điều 20 Chương II "Những
nguyên tắc cơ bản" BLTTHS năm 2003. Bàn về các nguyên tắc cơ bản của
BLTTHS Việt Nam, một số tác giả cho rằng: Nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số
giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự. Nói một cách cụ thể hơn, đó là những nguyên tắc
chi phối hoặc là tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án hoặc chí ít cũng là một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Như vậy, nếu theo quan điểm này thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử chứ không phải là
nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quan điểm cuả tác giả
cho rằng với tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của nó đã được nhà làm luật
xác định tại Điều 20 Chương II, chúng ta có thể khẳng định nguyên tắc hai
cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc hai
cấp xét xử như sau:
Nguyên tắc hai cấp xét xử là những tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc
chung trong hoạt động xét xử, được quy định trong Luật tố tụng hình sự, đảm
bảo mọi vụ án đều có thể được xét xử theo hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp
18
phúc thẩm nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để Tòa án xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời tạo cơ hội cho bị cáo và những
người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng
cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét lại bản án.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử như sau:
Trước hết, nguyên tắc hai cấp xét xử là tư tưởng chủ đạo, định hướng,
là tiền đề quan trọng phản ánh quan điểm của nhà làm luật về xét xử các vụ án
hình sự nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa
án, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ hai, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc đặc trưng chỉ được
thực hiện trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Chủ thể duy nhất thực hiện
nguyên tắc này là Tòa án, bởi vì Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, khi Tòa án thực hiện hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm thì Cấp xét xử phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị
đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ là thủ tục xem
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có các căn cứ luật định.
Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử là biểu hiện quan trọng của việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện ở quyền kháng cáo, tức là
yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định, giảm tội hoặc xử vô tội.
1.2. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI
CẤP XÉT XỬ
Trong BLTTHS nước ta năm 2003, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố
tụng hình sự Việt Nam được nhà làm luật đề cập trong 30 điều khác nhau tại
chương II "những nguyên tắc cơ bản" (từ Điều 3 đến Điều 32). Bên cạnh các
nguyên tắc đặc biệt quan trọng khác như nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội
19
chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3), nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân (Điều 4), nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng
của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5), nguyên tắc xác định sự thật của vụ
án (Điều 10), nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (Điều 16)… thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
được qui định tại Điều 20 BLTTHS.
Thực tế, khi xây dựng hệ thống các nguyên tắc của một ngành luật
tương ứng nào đó, quan điểm được thừa nhận chung là nhà làm luật nên ghi
nhận các nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực cần điều chỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn lập pháp tố tụng hình sự còn ghi
nhận cả những nguyên tắc tổ chức và hoạt động trong các cơ quan tư pháp.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một ví dụ. Đây là nguyên tắc đặc trưng của giai
đoạn xét xử. Có thể nói, trong toàn bộ các nguyên tắc tố tụng hình sự, các
nguyên tắc về xét xử được nhà làm luật quan tâm hơn cả, ngay cả các nhà lập
hiến cũng quan tâm đến vấn đề này khi qui định về tổ chức và hoạt động của
cơ quan xét xử trong bộ máy nhà nước bởi vì xét xử - hoạt động tố tụng của
Tòa án được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự,
nói cách khác xét xử hình sự là quá trình thể hiện một cách tập trung tính chất
hệ thống tố tụng hình sự. Không phải ngẫu nhiên các nhà khoa học về tố tụng
hình sự dùng hình tượng cái chóp của hình nón hoặc đỉnh của kim tự tháp để
chỉ hoạt động xét xử. Pháp luật của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới
quy định nguyên tắc tố tụng hình sự xoay quanh hoạt động xét xử. Ở nước ta
cũng vậy, đó là các nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân
tham gia (Điều 15), nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật (Điều 16), nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (Điều 17), nguyên
tắc xét xử công khai (Điều 18), nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử
(Điều 20), nguyên tắc giám đốc việc xét xử (Điều 21). Xét trong BLTTHS
Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc có vị trí rất quan trọng, là
nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử và là nguyên tắc cơ bản. Xét trong
hệ thống các nguyên tắc của BLTTHS Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử có
20
mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc khác, chúng bổ sung cho nhau, hỗ trợ
lẫn nhau, tạo thành một hệ thống. Mỗi nguyên tắc đều có vai trò độc lập
tương đối, song ý nghĩa đầy đủ của nó chỉ có thể xác định trong mối liên hệ
hữu cơ với những nguyên tắc khác và thông qua sự tác động của cả hệ thống
các nguyên tắc đối với hoạt động tố tụng hình sự.
Việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử có các ý nghĩa sau đây:
Một là, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo việc xét xử của Tòa án được
khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật. Điều 20 BLTTHS quy
định: "Bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị". Trong
trường hợp kháng cáo xảy ra, người dân cảm thấy bản án, quyết định bị kháng
cáo là chưa thỏa đáng đối với họ. Khi đó, không cần biết những kháng cáo đó
có căn cứ hay không, vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp bản án,
quyết định sơ thẩm bị VKS cấp có thẩm quyền kháng nghị khi cho rằng bản án,
quyết định sơ thẩm chưa đúng quy định của pháp luật. Tương tự kháng cáo, các
trường hợp kháng nghị cũng không cần xem xét về tính có căn cứ hay không
của việc kháng nghị mà vụ án đó phải được xét xử phúc thẩm. Điều đó có
nghĩa là, nếu bản án, quyết định sơ thẩm kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì vụ
án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp này có thể hiểu rằng pháp luật cho
phép các chủ thể như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, VKS cấp trên hoặc cùng cấp luôn
luôn có quyền nghi ngờ về tính đúng đắn của bản án, quyết định sơ thẩm.
Nếu hết thời hạn luật định mà bị cáo không kháng cáo, VKS không
kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, điều này cũng có
nghĩa là người dân "trong cuộc" đã hoàn toàn thỏa mãn, tâm phục khẩu phục
hoặc không phản đối, VKS cũng đồng tình (hoặc không phát hiện thấy sai
phạm) của Tòa án cấp sơ thẩm, do đó bản án, quyết định phải được thi hành.
Thứ hai, Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án đảm bảo bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi
21
người tôn trọng. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án cũng có nghĩa
rằng giới hạn về cấp xét xử của Tòa án là hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc
thẩm. Quy định này nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật được thi hành nhanh chóng, kịp thời, hạn chế việc trì hoãn, kéo dài việc
thi hành án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thứ ba, bên cạnh việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án, luật
tố tụng hình sự còn quy định việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhằm kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định sau khi có hiệu
lực pháp luật.
Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Tòa án
nói riêng cũng là hoạt động của con người, do đó không thể không có sự sai sót.
Việc xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật để khắc phục những sai sót đó là việc làm cần thiết.
1.3. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
* Giai đoạn sau năm 1945 - 1960
Ở giai đoạn này hệ thống Tòa án được tổ chức theo sắc lệnh số 13/SL
ngày 21/1/1946 về "tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán". Nhưng những
qui định về hoạt động của nó lại được qui định theo sắc lệnh khác là sắc lệnh
số 51/SL ngày 17/4/1946 "ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân
công giữa các nhân viên trong Tòa án". Theo sắc lệnh này các cấp xét xử
bước đầu được hình thành. Điều thứ 5 sắc lệnh số 51/SL qui định: "về hình
sự, Tòa án sơ cấp có quyền xử:
A- Chung thẩm:
1- Những án phạt bạc từ 0đ 50 đến 9đ 00;
2- Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt
hại trong vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi
cảnh đem ra phiên tòa xử.
22
B- Sơ thẩm:
1- Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày;
2- Những án xử bồi thường quá 150 đ hoặc những việc xin bồi thường
quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu nại hay chậm nhất,
lúc việc vi cảnh đem ra phiên tòa xử.
Điều thứ 10, về hình sự, Tòa án đệ nhị cấp có quyền xử:
A- Chung thẩm: những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo.
B- Sơ thẩm: Những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là
những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đ.
Điều thứ 13 qui định: "Tòa thượng thẩm có quyền xét xử những việc
kháng cáo án sơ thẩm của các tòa đệ nhị cấp".
Như vậy, theo qui định Sắc lệnh 51/LS, cơ chế xét xử sơ thẩm và
chung thẩm. Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất được áp dụng cho hai cấp Tòa án
là Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp. Những qui định này có lẽ bị ảnh hưởng
nhiều bởi hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp (trước 1945, nước Tòa án có
gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp). Chẳng hạn ở Pháp có hai
loại Tòa án có thẩm xét xử sơ thẩm: Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền hẹp Tòa
án sơ thẩm có thẩm quyền rộng.
Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, điều này có nghĩa là bản án của cấp xét xử
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn có thể bị kháng cáo để xem xét
lại. Việc xem xét này do Tòa án trên một cấp của Tòa án đã ra bản án sơ thẩm bị
kháng cáo tiến hành nhằm đảm bảo tính đúng pháp luật và có căn cứ cho các bản án
của Tòa án cấp sơ thẩm được gọi là cấp xét xử chung thẩm (cấp xét xử thứ hai).
Cấp xét xử chung thẩm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Chính cấp xét xử chung thẩm này cùng với cấp sơ thẩm đã tạo
nên một cơ chế xét xử mang tính chất truyền thống mà trải qua nhiều thời kỳ
phát triển khác nhau cơ chế này dường như không thay đổi, tiêu chí tính hợp
23
lý của cơ chế này không chỉ khác trong phạm vi một quốc gia mà còn có tính
thống nhất trong phạm vi quốc tế.
* Giai đoạn từ năm 1960 - 1981
Hiến pháp 1959 và tiếp đến là Luật Tổ chức TAND năm 1960 đã bắt
đầu ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp. Điều 9 Luật Tổ chức TAND
năm 1960 qui định:
Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử.
Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Tòa
án nhân dân xử sơ thẩm lên Tòa án nhân dân trên một cấp.
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền
kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân.
Nếu đương sự không chống án hoặc Viện kiểm sát nhân dân
không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án
hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương sẽ có
hiệu lực pháp luật.
Bản án và quyết định phúc thẩm của các Tòa án nhân dân,
bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là
chung thẩm và có hiệu lực pháp luật [14].
Như vậy cũng như thời kỳ trước, các bản án, quyết định sơ thẩm sau
khi tuyên án thì chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo,
kháng nghị trong một thời hạn nhất định do luật định. Việc xét xử lại thuộc
thẩm quyền của các Tòa án cấp trên một cấp và được gọi là cấp phúc thẩm
(thời kỳ trước gọi là chung thẩm). Thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm
về cơ bản cũng không khác.
Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
- Điều 16 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp huyện
xử "sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật qui định thuộc thẩm
quyền của các Tòa án đó".
24
- Điều 18 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp tỉnh có
thẩm quyền "sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp dưới mà Tòa án đó lấy lên để xử".
Về thẩm quyền phúc thẩm chỉ thuộc về TAND cấp tỉnh và TANDTC.
TAND cấp tỉnh có thẩm quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa
án cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị (Điều 18). TANDTC có thẩm
quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị chống án
hoặc bị kháng nghị.
Trong giai đoạn này thủ tục giám đốc thẩm mới được qui định. Theo
Điều 10 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 thì: "Đối với những bản án và quyết
định của các Tòa án nhân dân địa phương đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát
hiện có sai lầm thì Tòa án nhân dân tối cao có quyền xét lại hoặc giao cho Tòa
án nhân dân cấp dưới xét lại" [14].
Về cấp xét xử một lần, giai đoạn này có một vài thay đổi:
- Tòa án có thẩm quyền là TANDTC (Điều 21 Luật Tổ chức TAND
năm 1960).
- Bản án, quyết định sơ thẩm của TANDTC đều là chung thẩm và có
hiệu lực pháp luật (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960). Vì vậy, thủ tục xét
xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm chứ
không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước.
Tóm lại, trong thời kỳ này hệ thống xét xử của TAND cơ bản giống
như những quy định trong thời kỳ trước. Đó là việc thực hành chế độ hai cấp
xét xử: Cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm trong đó việc sơ thẩm nếu do TANDTC
tiến hành thì bản án sẽ là chung thẩm tức là không bị phúc thẩm. Bên cạnh đó
còn xuất hiện một thủ tục xét xử mới và đây được coi là một thủ tục xét xử
đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm.
* Giai đoạn từ năm 1981 - 1988
Giai đoạn này bắt đầu bằng Luật Tổ chức TAND năm 1981, sau khi
có Hiến pháp năm 1980. Việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp. Tuy
25
nhiên, nếu trong Luật Tổ chức TAND năm 1960 điều này được ghi nhận như
một nguyên tắc (Điều 9) thì trong Luật Tổ chức TAND năm 1981 lại không quy
định chính thức trong một điều luật nào mà chỉ có thể được thể hiện qua một số
điều luật khác quy định về thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện.
Thủ tục giám đốc thẩm vẫn là một đảm bảo quan trọng để Tòa án có
thể khắc phục những sai lầm có thể xảy ra trong các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, trong giai đoạn này một thủ tục mới xuất hiện:
Thủ tục tái thẩm.
Điều 12 Luật Tổ chức TAND năm 1981 quy định: "Tòa án có nhiệm vụ
tái thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện tình tiết mới".
Tái thẩm không phải là cấp xét xử thực hiện sau khi bản án đã bị
Giám đốc thẩm mà vẫn có sai lầm như mối liên hệ giữa Giám đốc thẩm với án
sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật và án phúc thẩm. Về mặt này, chúng hoàn
toàn độc lập với nhau, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật có thể bị xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm tùy thuộc vào việc nó bị phát hiện
ra sai lầm hay có tình tiết mới.
* Giai đoạn 1988 đến 2003
Giai đoạn này đánh dấu bằng BLTTHS năm 1988. Những tư tưởng
chính của Luật Tổ chức TAND năm 1960 được kế thừa trong Luật Tổ chức
TAND năm 1980 và BLTTHS năm 1988. Mặc dù không được ghi cụ thể
nhưng nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử vẫn được thể hiện đầy đủ và được
mở rộng hơn. Ví dụ, về quyền hạn, Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền
làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm để xét
xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình trạng của đương sự nếu không
có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó.
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật trên còn có những hạn chế sau đây:
- Thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của
TANDTC vẫn tồn tại.
26
- Xác định tính chất của phúc thẩm không đúng, đó là việc xét lại bản
án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chứ không phải là xét xử lại
vụ án mà bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.
- Coi giám đốc thẩm như một cấp xét xử.
* Giai đoạn 2003 đến nay
Giai đoạn này đánh dấu bằng BLTTHS năm 2003. Các hạn chế trên đã
được khắc phục trong Luật Tổ chức TAND năm 2002 và BLTTHS năm 2003.
Nguyên tắc hai cấp xét xử lại được ghi nhận; hủy bỏ thẩm quyền xét xử sơ
thẩm đồng thời là chung thẩm của TANDTC; tính chất của phúc thẩm được
khẳng định là xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và
bằng cách sửa đổi quyền hạn của Tòa giám đốc thẩm, luật khẳng định rằng đó
chỉ là thủ tục đặc biệt chứ không phải là một cấp xét xử… các thay đổi quan
trọng này được thể hiện cụ thể trong BLTTHS năm 2003.
1.4. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở MỘT SỐ NƢỚC
Hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của hệ thống tư pháp nước ta nói chung và tư pháp hình sự nói riêng. Hiện
nay, nguyên tắc này hầu như được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới.
Tại các quốc gia có mô hình tố tụng là mô hình tranh tụng như Anh,
Mỹ không áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử mà ngược lại áp dụng nguyên
tắc đặc trưng là nguyên tắc xét xử chung thẩm, điều này có nghĩa là các bản
án, quyết định của Tòa án sau khi ban hành sẽ mặc nhiên được thừa nhận là
giải pháp cuối cùng và bản án, quyết định đó sẽ có hiệu lực pháp luật ngay,
trừ những trường hợp đặc biệt vi phạm về thủ tục tố tụng hoặc những sai lầm
về mặt pháp lý thì sẽ được Tòa án phúc thẩm xét xử lại. Tuy nhiên, Tòa phúc
thẩm cũng chỉ xem xét lại về mặt pháp lý và thủ tục chứ không xét lại những
nội dung sự kiện đã được bồi thẩm đoàn quyết định tại phiên tòa sơ thẩm. Sở
dĩ các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng không áp dụng nguyên tắc hai
27
cấp xét xử là vì quan niệm về vai trò của bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng ở các
nước này. Theo pháp luật tố tụng hình sự của Mỹ, bị cáo được quyền xét xử
với sự tham gia của bồi thẩm đoàn. Qui định này nhằm mục đích là bảo đảm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm ra các tình tiết tối ưu, có xem xét đến lợi
ích đối kháng của các bên đương sự. Tương tự như các hệ thống pháp luật
khác thuộc hệ thống comment law, tố tụng hình sự của Mỹ cũng dựa trên
những quan niệm cho rằng công tố viên có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, vốn đối lập với lợi ích của bị cáo và rằng cả hai bên đều bình đẳng
trước pháp luật. Quyết định của Công tố viên đối với các tình tiết của vụ việc
cần phải có sức thuyết phục bồi thẩm đoàn.
Ở nước Liên bang Nga, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng. Theo
khoản 4 Điều 354 BLTTHS Liên bang Nga quy định: "Người bị kết án, người
được Tòa án tuyên vô tội, những người bào chữa và người đại diện hợp pháp
của họ, công tố viên, người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có
quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án".
Khoản 3 Điều 354 quy định: "Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp chống án chưa có hiệu lực
pháp luật được xem xét theo thủ tục phúc thẩm".
Như vậy, về nguyên tắc, một vụ án hình sự cũng được xét xử theo hai
cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án
hình sự theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
và Tòa án cấp chống án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Ở nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nguyên tắc hai cấp xét xử
được áp dụng phổ biến. Hệ thống Tòa án của nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa gồm có các TAND, đứng đầu là TANDTC, sau đó đến TAND cấp cao,
TAND cấp trung và cuối cùng là các TAND cơ sở.
TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống xét xử. Tòa án
này có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng pháp luật, xét xử sơ thẩm những vụ án
đặc biệt có tầm quan trọng quốc gia, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định
28
đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao khi có kháng cáo hoặc kháng
nghị từ VKSNDTC hoặc các vụ việc mà Tòa thấy rằng cần phải trực tiếp xét
xử sơ thẩm. Theo Điều 22 BLTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
quy định: "TANDTC xét xử sơ thẩm các vụ án lớn trong phạm vi toàn quốc".
TAND cấp cao là các TAND cấp tỉnh, cấp vùng tự trị và các thành phố
trực thuộc trung ương. Tòa án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với những
vụ án quan trọng xảy ra trong địa bàn mình quản hạt, những vụ việc được Tòa án
cấp dưới chuyển lên và những vụ án hình sự lớn có ảnh hưởng tới tỉnh, đồng
thời có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án đã được Tòa án cấp
dưới xét xử khi có kháng cáo, kháng nghị. (Điều 21)
TAND cấp trung tổ chức tại đơn vị hành chính là thành phố thuộc
tỉnh, có thẩm quyền giải quyết xét xử sơ thẩm trong một số vụ việc như
những vụ việc được chuyển lên từ Tòa án cơ sở, các vụ án hình sự có mức án
tù chung thân hoặc tử hình, các vụ án mà người phạm tội là người nước ngoài,
xét xử phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử bởi TAND cơ sở bị kháng
cáo, kháng nghị. (Điều 20).
Tòa án cấp cơ sở là Tòa án địa phương tổ chức tại các đơn vị hành
chính cấp huyện, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có mức án
thấp hơn án tử hình và án tù chung thân và có thẩm quyền chuyển vụ việc có
tính chất nghiêm trọng lên Tòa án cấp trên để giải quyết. (Điều 19).
Như vậy, về nguyên tắc một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai
cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, ở
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa những vụ án hình sự do TANDTC xét
xử sơ thẩm không áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử. Pháp luật nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa cũng giống như pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
cho phép các đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị bản
án của Tòa án cấp sơ thẩm sau khi tuyên án và bản án quyết định đó sẽ được
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại. Các đương sự được quyền kháng cáo
nhưng chỉ được kháng cáo một lần theo phương châm "phán quyết cuối cùng
29
bởi cơ quan tài phán thứ hai". Các vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm đều
được rà soát lại cả về cơ sở pháp lý mà Tòa án áp dụng để xét xử và cả về tình
tiết vụ việc. Yêu cầu xét xử phúc thẩm phải được thể hiện bằng đơn kháng
cáo hoặc kháng nghị. Đơn kháng cáo có thể do bị cáo hoặc người bị hại gửi
đến tòa. Đơn kháng nghị do VKS gửi tới tòa trong những vụ việc hình sự khi
VKS tin rằng phán quyết của tòa án sơ thẩm đã áp dụng sai luật hoặc bản án
có lỗi về các tình tiết vụ việc.
Ở Nhật Bản, khác với nhiều nước có hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc
thẩm thì ở Nhật Bản qui trình tố tụng theo 3 cấp (tam thẩm): sơ thẩm, phúc thẩm
đệ nhất cấp và phúc thẩm đệ nhị cấp (phúc thẩm lần hai).
- Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhật Bản thực hiện thẩm
quyền xét xử phúc thẩm đệ nhất cấp (Kokoku) và đệ nhị cấp (phúc thẩm Jokoku).
Tòa án tối cao xét xử phúc thẩm Jokoku đối với những trường hợp sau:
+ Đơn kháng cáo chống lại phán quyết sơ thẩm hoặc phúc thẩm lần
một của Tòa án cấp cao.
+ Đơn kháng cáo chống lại bản án sơ thẩm của Tòa án cấp Quận, của
Tòa án gia đình hoặc bản án sơ thẩm hình sự lần thứ nhất của Tòa án rút gọn.
+ Đơn kháng cáo gửi tới Tòa án cấp cao và được chuyển tới Tòa án tối
cao vì một lý do đặc biệt.
Trong các vụ án hình sự, những căn cứ cho một kháng cáo Jokoku
được giới hạn trong phạm vi liên quan đến vi phạm hiến pháp, sai lầm trong
cách hiểu hiến pháp hoặc trái với tiền lệ pháp luật của Tòa án tối cao hoặc trái
với án lệ của Tòa án cấp cao trong trường hợp Tòa án tối cao chưa từng có án
lệ về vụ việc tương tự. Tòa án tối cao cũng có thể chấp nhận vụ việc dựa vào
đơn kiến nghị khi Tòa án cho rằng việc này liên quan đến vấn đề cách hiểu
của luật, Nghị định như một tòa án sơ thẩm Jokoku.
Một đơn kháng cáo Kokoku gửi tới Tòa án tối cao được chấp nhận thụ
lý trong các trường hợp sau: Đó là đơn kháng cáo đặc biệt chống lại bản án hình
30
sự mà trong trường hợp đó không có kháng cáo thông thường nào được qui định
trong BLTTHS và một kháng cáo chống lại một bản án phúc thẩm trong vụ án
về vị thành niên phạm tội trên cơ sở cho rằng bản án đó vi phạm Hiến pháp
hoặc do mâu thuẫn với một tiền lệ pháp luật (hay còn gọi là án lệ).
Tòa án tối cao là tòa án cao nhất có thẩm quyền xét xử trên phạm vi cả
nước và là cấp xét xử cuối cùng đối với những bản án đã được xét xử bởi Tòa
án cấp cao.
- Tòa án cấp cao giải quyết phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử
hình sự bởi tòa án cấp quận, Tòa án rút gọn. Tòa án cấp cao vừa có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Các vụ việc hình sự được xét xử
bởi Tòa án rút gọn cũng có thể được kháng cáo trực tiếp tới Tòa án cấp cao.
- Tòa án cấp quận xét xử hầu hết các vụ án hình sự và xét xử phúc
thẩm các vụ án đã được xét xử bởi Tòa án rút gọn. Về cơ bản, tòa án cấp quận
là Tòa án xét xử sơ thẩm đầu tiên ngoại trừ những vụ việc đặc biệt thuộc thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của những tòa án khác. Tòa án quận cũng có thẩm
quyền xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm của Tòa án rút gọn.
- Tòa án rút gọn ở Nhật Bản có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án
hình sự nhỏ mà hình phạt là phạt tiền hoặc hình phạt khác nhẹ như trộm cắp nhỏ,
tham ô nhỏ... Tòa án rút gọn không thể áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt
khác nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên tòa án rút gọn có thể áp dụng hình phạt cải tạo
lao động có thời hạn không quá 3 năm khi Tòa án rút gọn cho rằng hình phạt
thích hợp quá giới hạn trên thì họ phải chuyển vụ việc tới tòa án cấp quận. Tất
cả các vụ việc của Tòa án rút gọn được giải quyết bởi một thẩm phán.
Như vậy, để đảm bảo việc xét xử đúng đắn, kịp thời nhằm bảo vệ có hiệu
quả lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức, một vụ án có thể được xét xử ở hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm.
Đây là một nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở các quốc gia trên thế giới hiện
nay, trong đó có Việt Nam. Nó không chỉ được quy định cụ thể trong pháp luật
31
tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia mà còn được ghi nhận trong các Công ước
quốc tế, các văn bản pháp lý quan trọng khác. Đặc biệt là Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc, trong đó tại Khoản 5 Điều 14 Công ước ghi rõ "bất cứ người nào bị kết
án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án
và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật". Tại Điều 81 Phần thứ
tám Quy chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế cũng xác định "Bản án có thể bị
công tố viên hoặc người bị kết tội kháng cáo phù hợp với quy tắc về tố tụng
và chứng cứ dựa trên cơ sở thiếu sự cân đối giữa tội phạm và bản án".
* *
*
Tóm lại, toàn bộ chương 1 của luận văn tác giả đã tập trung làm sáng
tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Với
những phân tích ở chương 1 có thể đưa ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau mà việc quy định nguyên
tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc được áp dụng trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế quan
trọng như một đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm giúp Tòa án xét xử chính xác,
công minh, bảo vệ hiệu quả lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, công dân. Hiện nay, nguyên tắc này được áp dụng phổ
biến ở đa số các quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản của Luật
tố tụng hình sự Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đưa ra định nghĩa khái quát
về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Nội dung nguyên tắc khẳng định
bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sơ
thẩm và có thể được xét xử lần thứ hai tại cấp xét xử phúc thẩm nếu bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Bản án, quyết
32
định bị kháng cáo, kháng nghị chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định
không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành.
Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc đặc trưng của giai
đoạn xét xử và là nguyên tắc cơ bản, có mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc
khác trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Nó có ý nghĩa
quan trọng, đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án đuược khách quan, toàn diện,
chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử đã khắc phục những hạn chế của
nguyên tắc xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm tồn tại trong thời
gian trước. Việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong
BLTTHS Việt Nam năm 2003 thể hiện sự tiến bộ trong lập pháp của nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được ở chương 1, tác giả
tiếp tục đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ở chương 2.
33
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ
TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Theo Điều 11 Luật Tổ chức TAND năm 2002 quy định: "Tòa án thực
hiện chế độ hai cấp xét xử", tiếp đó Điều 20 BLTTHS năm 2003 quy định:
1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết
định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu
lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết
định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới
thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm [21].
Như vậy, một vụ án hình sự được xét xử thông qua chủ yếu hai cấp
xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là cơ bản, ngoài ra còn có các trình tự xét xử
đặc biệt là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nghĩa là với nguyên tắc thực hiện
chế độ hai cấp xét xử được quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2003 thì một
vụ án hình sự chỉ bị xử nhiều nhất là ba lần (ba phiên tòa). Tuy nhiên, trên
thực tế có những vụ án bị xử tới 5 lần, 7 lần, vấn đề là ở chỗ không phải Tòa
án đã vi phạm thủ tục tố tụng, tự ý xét xử số lần vượt quá số lần xử do luật
định mà chính trong luật đã tiềm ẩn những nguy cơ cho một vụ án có thể bị
xử nhiều lần. Nghiên cứu những quy định của pháp luật sẽ giúp ta thấy rõ
hơn về điều này.
34
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẤP XÉT XỬ SƠ THẨM
Theo Từ điển tiếng Việt thì "Sơ thẩm là xét xử một vụ án với tư cách
là Tòa án ở cấp xử thấp nhất". Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì
"Sơ thẩm là việc Tòa án xét xử lần đầu một vụ án". Theo tác giả Đinh Văn
Quế trong sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, phần xét xử sơ
thẩm thì xét xử sơ thẩm là "việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án
được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật" [12].
Từ các định nghĩa trên có thể kết luận rằng sơ thẩm là cấp xét xử đầu
tiên, là lần xử thứ nhất hay còn được coi là cấp xét xử thứ nhất. Đó là cấp xét
xử đầu tiên trong hoạt động tố tụng của Tòa án. Tất cả các vụ án nếu đã phải
đưa ra xét xử thì đều phải qua cấp xét xử này. Vì vậy, đây là một cấp xét xử
có ý nghĩa quan trọng trong trình tự xét xử một vụ án hình sự. Xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự có những đặc điểm sau đây:
- Là việc xét xử lần đầu vụ án hình sự. Trước đó, vụ án chưa được Tòa
án nào xét xử (kể cả trường hợp vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc
thẩm hay tái thẩm hủy để xét xử lại thì vẫn được coi là xét xử lần đầu, vì kết
quả xét xử trước đó đã bị hủy).
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự
trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án,
quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật.
- Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS, chỉ khi có
cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án thì mới có xét xử sơ thẩm;
- Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề
của vụ án, tội phạm và hình phạt, các biện pháp tư pháp,… Như vậy, phạm vi
xét xử sơ thẩm rộng hơn, toàn diện hơn phạm vi xét xử phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm.
- Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một
phiên tòa hình sự sơ thẩm. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào, dù có một
35
bị cáo hay nhiều bị cáo, đơn giản hay phức tạp, xét xử trong khoảng thời gian
ngắn hay dài …cũng đều phải được diễn ra theo một thủ tục nhất định được quy
định trong BLTTHS - đó là thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm.
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
Theo Từ điển tiếng việt, thẩm quyền được hiểu là "Quyền xem xét để
kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [42, tr. 920]. Thẩm quyền
xét xử là một trong các nội dung của thẩm quyền mà pháp luật quy định cho
Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử của một quốc gia nhất định. Bởi lẽ, thẩm
quyền của Tòa án là một khái niệm có nội dung rộng, không chỉ là quyền
được xét xử những vụ án hình sự nào và xét xử các đối tượng phạm tội nào
mà còn bao gồm quyền được xét xử trong phạm vi (giới hạn) nào do pháp luật
tố tụng hình sự quy định. Ngoài ra, đó còn là một quyền rất quan trọng là
được ra và có thể ra các quyết định khi xét xử vụ án. Theo Từ điển Luật học,
thẩm quyền xét xử được hiểu là "sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án
giữa các Tòa án với nhau" [32, tr. 459]. Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo
TS. Nguyễn Ngọc Chí "là quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án được xét
xử những vụ án cụ thể trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định, nói cách khác,
là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn xét xử) của Tòa án theo quy
định của pháp luật". Có thể nói thẩm quyền xét xử và thẩm quyền ra các quyết
định khi xét xử là hai nội dung quan trọng nhất của thẩm quyền mà pháp luật
tố tụng hình sự quy định cho Tòa án.
Theo quy định của pháp luật, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử,
đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, tương ứng với các cấp xét xử này, pháp
luật tố tụng hình sự quy định hai thủ tục xét xử là thủ tục xét xử sơ thẩm và
thủ tục xét xử phúc thẩm và giao cho các Tòa án ở các cấp xét xử khác nhau
thẩm quyền xét xử theo hai thủ tục xét xử nói trên.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án chỉ là một nội dung của thẩm
quyền mà pháp luật tố tụng hình sự quy định cho Tòa án, đó chỉ là quyền
được xét xử theo thủ tục sơ thẩm những vụ án hình sự loại nào, xảy ra ở đâu
36
và xét xử đối tượng phạm tội nào mà không bao gồm việc được xét xử trong
giới hạn nào và được ra các quyết định nào trong giai đoạn xét xử…
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã dựa vào một số dấu hiệu nhất định
của vụ án hình sự để phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho các cấp Tòa án.
Đó là các dấu hiệu về tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm (loại tội
phạm), nơi tội phạm được thực hiện và người thực hiện tội phạm, đồng thời căn
cứ vào hành vi phạm tội gây thiệt hại cho lĩnh vực quản lý nhà nước nào để xác
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TAND và TAQS trong một số trường
hợp nhất định. Dựa trên ba tiêu chí đã xác định trên, pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam hiện hành phân định thẩm quyền xét xử như sau:
* Thẩm quyền xét xử theo sự việc
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là "thẩm quyền xét xử của Tòa án
được phân định bởi tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm" [28, tr. 234].
Xét trên phương diện tổ chức, trong hệ thống Tòa án nước ta, TAND quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và TAQS khu vực (gọi chung là Tòa án
cấp huyện) là cấp xét xử thấp nhất chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TAND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAQS cấp quân khu (gọi chung là Tòa
án cấp tỉnh) là Tòa án cấp thứ hai và cũng là Tòa án cấp cuối cùng có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm. Vì vậy, thẩm quyền xét xử theo sự việc được nói tới ở
đây chính là việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án cấp
huyện và Tòa án cấp tỉnh.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003:
1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ
những tội phạm sau đây:
a. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm
chiến tranh;
37
c. Các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217,
218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296,
322, và 323 của BLHS.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu
xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà
mình lấy lên để xét xử [21].
Với quy định này ta có thể thấy TAND cấp huyện có thẩm quyền xét
xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử chung của
TAND. TANDTC không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm như quy định trước
đây là sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Việc quy định Tòa án thực hiện nguyên
tắc hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trong đó TANDTC không có thẩm
quyền sơ thẩm (đồng thời chung thẩm) là hoàn toàn phù hợp với xu hướng
chung của pháp luật trong tình hình hiện nay, phù hợp với tố tụng dân sự, tố
tụng kinh tế, tố tụng lao động. Trước đây, theo quy định của pháp luật thì cả
ba cấp Tòa án là TANDTC, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện đều có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong thời gian tới, việc đưa chức năng xét
xử sơ thẩm về cho một cấp Tòa án và tập trung một lượng Thẩm phán đủ mạnh
cho việc xét xử là cần thiết. Vì đây là cấp xét xử thứ nhất nên Tòa án có thẩm
quyền sơ thẩm cũng phải là Tòa án cấp thấp nhất tức là Tòa án cấp quận (huyện).
Vấn đề đặt ra là nếu TAND cấp tỉnh không xét xử sơ thẩm thì có tạo
ra hiệu quả xét xử cao hơn không, hay ngược lại. Nếu để TAND cấp tỉnh xét
xử sơ thẩm như hiện nay ngoài việc san sẻ "gánh nặng" cho Tòa án cấp
huyện, còn bảo đảm cho việc xét xử được thuận lợi hơn vì những vụ án thuộc
thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh thường là có khó khăn, phức tạp.
Nhưng nếu vẫn duy trì thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho cả hai cấp Tòa án sẽ
tạo ra sự lệ thuộc, ỷ lại giữa hai cấp Tòa án. Do đó, nếu giao thẩm quyền sơ
thẩm cho Tòa án cấp huyện thì không những phải tạo ra một lực lượng Thẩm
38
phán đủ mạnh mà còn phải tạo khả năng độc lập cho việc xét xử của cấp Tòa
án này. Thẩm phán phải tự chịu trách nhiệm về việc xét xử của mình. Lý luận
và thực tế cho thấy, nếu vụ án được xét xử sơ thẩm tốt thì sẽ không bị kháng
cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, vụ án không bị kéo dài thậm chí
nếu có bị phúc thẩm thì cũng không bị mất nhiều thời gian, tốn kém tiền của
Nhà nước và nhân dân.
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp quận
(huyện) trong BLTTHS năm 2003 đã được mở rộng thêm rất nhiều so với
BLTTHS năm 1988. Theo BLTTHS năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung
TAND cấp huyện chỉ được xét xử sơ thẩm những tội phạm ít nghiêm trọng và
tội phạm nghiêm trọng. BLTTHS năm 2003 tăng thẩm quyền của TAND cấp
huyện được xét xử cả tội phạm rất nghiêm trọng, nghĩa là TAND cấp huyện
được quyền xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù.
* Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là "thẩm quyền xét xử của Tòa án
được xác định bởi đối tượng phạm tội" [28]. Đây là loại thẩm quyền được
phân định giữa TAND với TAQS dựa trên tiêu chí là người phạm tội.
BLTTHS không quy định loại thẩm quyền này, thẩm quyền xét xử theo đối
tượng được phân định gián tiếp qua quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự trong Pháp lệnh Tổ chức TAQS. Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS
năm 2002 quy định:
Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình
sự mà bị cáo là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng,
quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra
tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân tự vệ phối thuộc với quân
đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng
tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
39
2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại
khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự
hoặc gây thiệt hại cho quân đội [36].
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức TAQS thì những
vụ án hình sự mà người phạm tội là các đối tượng sau đây đều thuộc thẩm
quyền xét xử của TAQS mà không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và
phạm tội ở đâu: Quân nhân tại ngũ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và
quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Công chức quốc phòng bao gồm những
công dân được tuyển dụng vào phục vụ trong quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển
sang và do các đơn vị doanh nghiệp quân đội trực tiếp quản lý theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt
Nam; công nhân quốc phòng bao gồm những công nhân được tuyển dụng
thuộc biên chế của các đơn vị doanh nghiệp quân đội, những công nhân có
hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các đơn vị, doanh nghiệp
quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo hợp
đồng; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc
kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo quy
định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên; dân quân tự vệ trong thời gian
phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu theo quy định của
pháp luật về dân quân, tự vệ; những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự
do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, bao gồm những công dân do nhu cầu
chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị
quân đội trưng tập và trực tiếp quản lý để đáp ứng các nhu cầu đó.
Bí mật quân sự được quy định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức
TAQS là bí mật của quân đội về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật
quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành; gây thiệt hại cho quân đội được hiểu là gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, uy tín của những người được quy định tại
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT
Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOTLuận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
Luận văn: Các nguyên tắc liên quan đến hoạt động xét xử, HOT
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đLuận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
Luận văn: Thi hành án treo từ thực tiễn tại TPHCM, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩmLuận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
Luận văn: Quyền sửa bản án sơ thẩm của Tòa án cấp phúc thẩm
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt NamLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
 
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Các biện pháp tư pháp trong pháp luật hình sự, HAY
 
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOTQuyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án, HOT
 
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOTLuận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
Luận văn: Xác minh điều kiện thi hành án theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Hình phạt tù có thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnhLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đĐăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
Đăng ký thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 9đ
 
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
Luận văn: Đăng ký Kết hôn có yếu tố nước ngoài, HOT!
 

Similar to Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT

Similar to Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT (20)

Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa ánLuận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
Luận văn: Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phánĐề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Đề tài: Pháp luật về quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
 
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOTLuận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tốLuận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
Luận án: Pháp luật về kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Tranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toaTranh tung tai phien toa
Tranh tung tai phien toa
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình ĐịnhLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án ở tỉnh Bình Định
 
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng NaiXét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
 
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ... TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH  >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: ...
 
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩmThẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đTranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm tại Tòa án quân sự, 9đ
 
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2Tranh tụng tại phiên tòa hình sự  của các Tòa án quân sự Quân khu 2
Tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Tòa án quân sự Quân khu 2
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
Luận văn: Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm theo luật
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 

Luận văn: Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, HOT

  • 1. ®¹i häc quèc gia hµ néi Khoa luËt ---------------- Lª ThÞ Hång H¹nh Nguyªn t¾c thùc hiÖn chÕ ®é hai cÊp xÐt xö- nh÷ng vÊn ®Ò lý luËn vµ thùc tiÔn LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ Néi - 2009
  • 2. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đạt được mục đích của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động tố tụng: khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự cña c¸c cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án, Cơ quan thi hành án đồng thời quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật của vụ án. Mặt khác, BLTTHS còn qui định các nguyên tắc cơ bản với tính chất là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc đối với một loại hoạt động tố tụng nhất định như hoạt động điều tra, truy tố, xét xử... Các nguyên tắc của tố tụng hình sự thực chất là những đảm bảo pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đồng thời chúng còn là những đảm bảo pháp lý cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. BLTTHS năm 2003 đã bổ sung nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam. Đây cũng là một trong những điểm mới của BLTTHS năm 2003 so với BLTTHS năm 1988. Việc đảm bảo cho nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện trên thực tế là một việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên, khi áp dụng các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, cũng như giám đốc thẩm và tái thẩm đã xuất hiện một số vướng mắc nhất định, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng và gây thiệt hại cho những người tham gia tố tụng. Chẳng hạn, về xét xử sơ thẩm, trong cùng một nội dung nhưng một số điều luật tại các phần khác nhau trong BLTTHS năm 2003 chưa thực sự thống nhất với nhau, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, khiến họ
  • 3. 2 có những phản ứng trước các kết luận trong bản án, quyết định sơ thẩm, dẫn đến bị cáo kháng cáo, VKS kháng nghị bản án. Trong khi đó các quy định của pháp luật về xét xử phúc thẩm cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Bởi vậy, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện nguyên tắc này là một đòi hỏi cấp bách trong tình hình hiện nay. Điều này không chỉ có ý nghĩa khoa học và còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà việc áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử cũng còn nhiều bất cập, việc kháng cáo của bị cáo, kháng nghị của VKS nhiều khi không có căn cứ mà chỉ nhằm trì hoãn, dây dưa, kéo dài việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội. Từ thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu một cách toàn diện những quy định của pháp luật về nguyên tắc hai cấp xét xử nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận để áp dụng và thực hiện nghiêm chỉnh, hiệu quả nguyên tắc này trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả, chất lượng giải quyết các vụ án hình sự hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng. Với những lý do đã nêu trên, tôi chọn đề tài "Nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" để nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, trong khoa học pháp lý hình sự, nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu, thể hiện trong những cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2004, giáo trình của các trường đại học và rải rác ở một số bài viết đăng trên các tạp chí Luật học, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, tạp chí Nhà nước và pháp luật như bài viết: "Từ nguyên tắc hai cấp xét xử đến việc tổ chức Tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2004 của Trần Văn Độ; "Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng
  • 4. 3 nguyên tắc đó vào việc tổ chức tòa án các cấp", đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2007 của Trần Văn Độ; "Đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử", đăng trên Tạp chí Luật học, số 6/2007 của Vũ Gia Lâm. Tuy nhiên, đây là một nguyên tắc mới được qui định cụ thể trong BLTTHS năm 2003. Do đó, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này nếu so với các qui định khác của quá trình tố tụng nói chung còn ít. Thiết nghĩ việc tiếp tục nghiên cứu nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử để khắc phục những hạn chế, đưa ra những giải pháp phù hợp là một việc làm cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, chỉ ra những mâu thuẫn, vướng mắc trong các quy định của pháp luật cũng như trong quá trình áp dụng trong thực tiễn. Từ đó đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của BLTTHS nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. - Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: + Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự. + Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những quy định của BLTTHS Việt Nam về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời đối chiếu, so sánh để tìm ra các mâu thuẫn và bất cập trong các quy định đó. Riêng đối với cấp xét xử phúc thẩm tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc phúc thẩm đối với các bản án hình sự sơ thẩm. + Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong những năm gần đây nhằm tìm ra những khó khăn, vướng mắc, tồn tại, bất cập khi vận dụng pháp luật.
  • 5. 4 + Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong BLTTHS Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đây là đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những đường lối của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách nền tư pháp và nền hành chính quốc gia, xây dựng một xã hội công bằng, pháp chế, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Nội dung của đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật có liên quan đến nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử và những bài viết trên các báo, tạp chí và các bản tổng kết của ngành Tòa án, VKS, cũng như thực tiễn công tác của bản thân tác giả. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh và phương pháp thống kê. Những kết luận và đề xuất nêu trong luận văn được dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học, đối chiếu với kết quả khảo sát thực tế, phân tích các báo cáo tổng kết của ngành tòa án trong những năm gần đây cũng như định hướng phát triển của ngành tòa án trong những năm sắp tới. 5. Đóng góp mới của luận văn Đây là luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của BLTTHS hiện hành về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Kết quả nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn áp dụng, đánh giá đúng thực trạng, từ đó chỉ ra những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện. Do đó, luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào kho tàng lý luận về luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đề xuất sửa đổi, bổ
  • 6. 5 sung BLTTHS về vấn đề này và những người làm công tác thực tế như công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự. Chương 2: Những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
  • 7. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM NGUYÊN TẮC HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Cơ sở của nguyên tắc hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế (Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Quy chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế) xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, đối với nước ta đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay vẫn tiếp tục kiên định chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Trong đó, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước dù ở cấp nào cũng được thực hiện trên cơ sở pháp luật. Xây dựng nhà nước pháp quyền không có nghĩa là chỉ hoàn thiện tổ chức quyền lực Nhà nước mà còn phải xây dựng tổng thể những nền tảng kinh tế, chính trị, pháp lý, văn hóa, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó, thực hiện pháp luật tố tụng hình sự theo yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đề cao nguyên tắc phản ánh được tính dân chủ, công bằng, nhân đạo và pháp chế. Muốn đạt được như vậy, bên cạnh việc thực hiện các nguyên tắc như: Nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…thì còn phải thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, vì nguyên tắc này là một bảo đảm cho quá trình tìm ra sự thật khách quan của vụ án, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mọi tội phạm đều phải bị trừng trị đích đáng theo qui định pháp luật đồng thời không truy cứu oan người vô tội, tạo điều kiện cho các bị cáo bảo vệ quyền và lợi ích
  • 8. 7 hợp pháp của mình, góp phần vào việc thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền, tất cả vì mục tiêu con người mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Thứ hai, hoạt động xét xử là một hoạt động phức tạp. Ngày nay, trước những chuyển biến về hoàn cảnh thế giới và trong nước, với xu thế phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến làm phát sinh ra ngày càng nhiều loại hình tội phạm mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thực tế chỉ ra rằng, các Thẩm phán là chủ tọa phiên tòa mặc dù được đào tạo chuyên môn về luật pháp, có kinh nghiệm xét xử và được bổ trợ những kinh nghiệm thực tế của 02 Hội thẩm nhân dân nhưng có thể vẫn mắc phải những sai lầm do trình độ nhận thức hoặc cảm tính cá nhân. Để khắc phục được những sai sót có thể xảy ra đó, pháp luật tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng sau khi xét xử lần đầu có cơ hội yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại một lần nữa theo thủ tục phúc thẩm. Tòa án cấp trên với Hội đồng xét xử (HĐXX) có số lượng Thẩm phán nhiều hơn có kinh nghiệm hơn sẽ là bảo đảm tốt hơn cho vụ án được giải quyết chính xác, khách quan, công bằng và cũng là cơ hội để Tòa án cấp trên sửa sai cho Tòa án cấp dưới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng trên thực tế còn có tác dụng nâng cao tinh thần trách nhiệm của các Thẩm phán xét xử sơ thẩm. Thực tế cho thấy, với khả năng các phán quyết của họ có thể sẽ bị Tòa án phúc thẩm xem xét lại, thậm chí là hủy án sẽ làm cho các Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ở cấp sơ thẩm thận trọng hơn, cân nhắc kỹ lưỡng, đầu tư nghiên cứu hồ sơ vụ án để có một quyết định chính xác. Mặt khác, nếu Thẩm phán bị phát hiện có dấu hiệu sai lầm trong nghiệm vụ sẽ là dấu ấn không tốt cho việc thăng tiến trong tương lai hoặc tái bổ nhiệm… Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa, có quyền tranh luận tại phiên tòa, nhưng vì lý do nào đó, bị cáo không thực hiện quyền này tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên tắc hai
  • 9. 8 cấp xét xử tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền của mình tại phiên tòa phúc thẩm, đồng thời tạo điều kiện cho bị cáo suy ngẫm, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả nhằm được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, kể cả khi đã có bản án kết tội của Tòa án sơ thẩm. Điều đó thể hiện sự nhân đạo của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ năm, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo sự phù hợp giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế trong hoạt động xây dựng pháp luật. Khi xây dựng pháp luật, pháp lệnh, Quốc hội nước ta luôn ưu tiên cho việc ban hành mới hoặc sửa đổi những qui định hiện hành sao cho phù hợp với Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế đã ký kết hoặc gia nhập, đảm bảo cho các văn bản pháp luật đó được thực hiện. Điều đó có nghĩa là khi Chủ tịch nước hay người có thẩm quyền ký kết hoặc gia nhập Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế thì các văn bản pháp luật quốc tế này phải được xem là một bộ phận của Pháp luật quốc gia. Và do đó, nó phải được tồn tại trong tổng thể thống nhất và phối hợp với pháp luật trong nước. Do đó, việc qui định nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cũng là một đảm bảo cho sự phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 trong đó qui định: "Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xét xử lại bản án và hình phạt đối với mình theo qui định pháp luật". Theo tác giả, trên đây là những cơ sở, lý do cơ bản để pháp luật quốc gia và các văn bản pháp luật quốc tế quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự 1.1.2. Nội dung của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam a) Nguyên tắc thực hành hai cấp xét xử được qui định trong các văn bản pháp luật của các quốc gia và văn bản pháp luật quốc tế, theo đó nguyên tắc này bao gồm những nội dung sau:
  • 10. 9 Thứ nhất, bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sơ thẩm. Đối với một vụ án hình sự, sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xử thứ nhất hay còn gọi là cấp xét xử thứ nhất trong hoạt động xét xử của Tòa án. Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS. Điều này có nghĩa là chỉ khi có cáo trạng truy tố bị can ra Tòa của VKS thì mới có xét xử sơ thẩm. Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự sơ thẩm và được diễn ra theo một thủ tục nhất định được quy định trong BLTTHS. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào dù đơn giản hay phức tạp, dù có một hay nhiều bị cáo cũng đều phải diễn ra theo thủ tục đó. Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án, có nghĩa là trong bản án hình sự sơ thẩm, HĐXX sơ thẩm phải quyết định bị cáo có tội hay không có tội, phạm tội gì, áp dụng điểm, điều, khoản nào trong Bộ luật Hình sự (BLHS). Nếu có nhiều bị cáo thì áp dụng điểm, điều, khoản nào đối với từng bị cáo và quyết định hình phạt chính, hình phạt bổ sung (nếu có). Ngoài ra, HĐXX còn phải quyết định các vấn đề khác như bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng (nếu có), quyết định về phần án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm (nếu có), đồng thời tuyên bố quyền kháng cáo cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Nói cách khác, HĐXX cấp sơ thẩm phải phân tích, đánh giá toàn bộ vụ án, trên cơ sở những vấn đề đã được tranh tụng tại phiên tòa, phân tích những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đánh giá thiệt hại và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như lên hướng xử lý vật chứng (nếu có) để đi đến các quyết định trong bản án. Thứ hai, Bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Tất cả các bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ trường
  • 11. 10 hợp nào. Khi có kháng cáo, kháng nghị thì vụ án được xét xử ở cấp xét xử phúc thẩm. Đây là cấp xét xử thứ hai và bao giờ cũng được tiến hành sau cấp xét xử sơ thẩm nhằm sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Đối tượng của phúc thẩm là các bản án, quyết định sơ thẩm và Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm phải là Tòa án cấp trên của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Như vậy, không phải tất cả các vụ án đều phải trải qua thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm mà chỉ những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì mới được xét xử ở cấp phúc thẩm. Đối với vụ án có kháng cáo, kháng nghị thì bản án chưa được đưa ra thi hành ngay trừ trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của tòa án được thi hành ngay (khoản 2 Điều 255) mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị, mục đích là đảm bảo quyền lợi cho bị cáo, trả lại tự do cho bị cáo nếu bị cáo không bị giam giữ về một hành vi khác. Khi kháng cáo, kháng nghị thì tòa án cấp sơ thẩm phải chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp phúc thẩm xét xử. Tuy nhiên, trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc VKS có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được định chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ khi Tòa án phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Thứ ba, quyền kháng cáo thuộc về bị cáo và những người tham gia tố tụng khác với phạm vi và giới hạn do luật quy định. Tòa án tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền kháng cáo của mình. Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án
  • 12. 11 hoặc quyết định sơ thẩm (Điều 231 BLTTHS). Quyền kháng nghị thuộc về VKS cùng cấp hoặc VKS cấp trên trực tiếp. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Trong trường hợp đặc biệt, có lý do chính đáng thì Tòa án có thể chấp nhận kháng cáo quá hạn. Việc chấp nhận hay không chấp nhận được quyết định bởi HĐXX gồm ba Thẩm phán. Thứ tư, đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà không có kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật. Khi đó Tòa án sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án ngay đối với các bị cáo. Bản án Phúc thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực thi hành ngay sau khi bản án được tuyên. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc từ khi ra quyết định Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án cấp sơ thẩm (và các cơ quan khác theo quy định của pháp luật) để Tòa án sơ thẩm ra quyết định thi hành án. Thứ năm, đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án hoặc có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm là hai hình thức của thủ tục xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm và bị kháng nghị. Nó được thực hiện sau khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải là thủ tục nối tiếp của hai cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Vì vậy, giám đốc thẩm và tái thẩm không được coi là cấp xét xử thứ ba. Việc kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thuộc về VKS, Tòa án. Người phạm tội có quyền kháng cáo
  • 13. 12 đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm phải có các căn cứ quy định tại Điều 273, Điều 291 BLTTHS. b) Phân biệt hai cấp xét xử với xét xử một cấp. Xét xử một cấp là chế định về xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm, nghĩa là các bản án chỉ được xét xử một lần là xét xử sơ thẩm. Cơ chế xét xử một cấp tồn tại từ sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 14-2-1946 Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 21/ SL về việc tổ chức Tòa án quân sự (TAQS) quy định: "Tất cả những vụ án phản cách mạng đều được xét xử một lần và là chung thẩm", việc xét xử này thuộc thẩm quyền của TAQS. Đây là văn bản đầu tiên xác định sự ra đời của thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Từ khi ra đời cho đến nay, thủ tục này được quy định ở nhiều văn bản pháp luật tố tụng khác nhau cụ thể tại Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/2/1947 về tổ chức Tòa án binh trên toàn cõi Việt Nam; Sắc lệnh số 45/SL ngày 24/4/1947; Sắc luật số 01 ngày 15 tháng 3 năm 1976; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 1981; Luật Tổ chức TAND năm 1992 và BLTTHS năm 1988. Từ năm 1960, Tòa án có thẩm quyền xét xử một lần (chung thẩm) thuộc về Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC). "Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật" (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960). Vì vậy, thủ tục xét xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm chứ không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước. Sự thay đổi về tên gọi này là cần thiết vì nó dễ phân biệt với thủ tục chung thẩm nhưng với ý nghĩa là cấp xét xử thứ hai (sau này gọi là phúc thẩm). BLTTHS năm 1988 ra đời, thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC vẫn tồn tại. Tại khoản 3 Điều 145 BLTTHS năm 1988 quy định: "Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự cấp cao xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp". Theo Thông tư liên ngành số 02 ngày 22/12/1982 của TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Bộ Nội vụ, Bộ tư pháp hướng dẫn để xét xử một vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm phải hội đủ các điều kiện cần và đủ sau:
  • 14. 13 - Bị cáo phạm những tội đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm an ninh chính trị, tài sản xã hội chủ nghĩa hoặc tài sản công dân, làm cho nhân dân căm phẫn và yêu cầu chính trị của địa phương là phải trừng trị nghiêm khắc, kịp thời. - Bị cáo là những tên phản cách mạng, lưu manh, côn đồ, những tên chuyên làm ăn phi pháp, những cán bộ nhân viên sa đọa, biến chất. - Trong vụ án không có nhiều bị cáo, chứng cứ đã rõ ràng, đầy đủ không còn nghi vấn gì về tội phạm. - Mức độ tội của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, cần phải trừng trị bằng hình phạt cao nhất. Cho đến khi BLTTHS năm 2003 ra đời cơ chế một cấp xét xử mới được thay thế hoàn toàn bởi cơ chế hai cấp xét xử, hủy bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC. Theo thủ tục xét xử một cấp, bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án. Bị cáo và những người có quyền lợi pháp lý trong vụ án cũng như VKS không được quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm đồng thời chung thẩm theo thủ tục phúc thẩm. Xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trong thời điểm nhất định đã góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đặc biệt là trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh và trong những năm đầu mới giành chính quyền. Nó có ưu điểm là làm cho việc xét xử nhất là các vụ án trọng điểm, án phức tạp nhanh chóng hơn, bản án đã tuyên đảm bảo được tính ổn định, tiết kiệm được chi phí xét xử cũng như thời gian và công sức. Đặc biệt là phù hợp và có hiệu quả đối với việc xét xử các phần tử phản cách mạng chống chính quyền nhân dân, giải quyết dứt điểm các vụ án phản cách mạng đồng thời thể hiện được quyền lực của chính quyền nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và ổn định kinh tế trong những ngày đầu của chính quyền còn non trẻ phải tiếp quản một xã hội đầy khó khăn và tội phạm. Việc xét xử do TANDTC tiến hành với đội ngũ Thẩm phán có trình độ chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm
  • 15. 14 nên chất lượng xét xử nhìn chung tốt, đảm bảo xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Song, xét về mặt đảm bảo quyền kháng cáo của người bị kết án nói riêng, quyền con người nói chung thì thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm cần được xem xét lại. Điều này xuất phát từ các lý do sau: Thứ nhất, nếu như nguyên tắc hai cấp xét xử bảo đảm bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo qui định của pháp luật, điều này có nghĩa là tất cả các bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm đều có thể bị kháng cáo, kháng nghị không loại trừ bất kỳ trường hợp nào đối với bất kỳ bị cáo nào phạm tội vào bất kỳ loại tội nào kể cả tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Trong khi đó, đối tượng của xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm trước đây chỉ là đối với những vụ án nghiêm trọng, phức tạp, do đó, mức hình phạt tuyên đối với bị cáo thường rất nặng, thậm chí tù chung thân hoặc tử hình mà người bị kết án lại không có quyền kháng cáo, trong khi người phạm tội ít nghiêm trọng hơn lại được kháng cáo. Đó là điều bất hợp lý. Hơn nữa, đây lại là các vụ án có tính phức tạp cao, nếu chỉ xét xử một lần e là khó tránh khỏi những sơ suất có thể phát sinh mà sau này không có cơ hội để sửa chữa lại. Thứ hai, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm đã vi phạm nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo được quy định tài Điều 131 Hiến pháp và Điều 12 BLTTHS năm 1988 (tức Điều 11 BLTTHS năm 2003). Theo nguyên tắc này người bị Tòa án đưa ra xét xử có quyền tự bào chữa cho mình ở cấp sơ thẩm và khi chưa thỏa đáng với bản án, quyết định sơ thẩm thì có quyền kháng cáo bản án để được xét xử lại ở cấp phúc thẩm nhưng nếu họ bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm đống thời chung thẩm thì bị cáo sẽ không có quyền yêu cầu xét xử phúc thẩm, vì thế, quyền tự bào chữa của bị cáo đã không thể thực hiện được một cách trọn vẹn. Thứ ba, thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm cũng đã vi phạm nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được quy định tại Điều 52 Hiến pháp và Điều 4 BLTTHS năm 1988. Với nguyên tắc này, tất cả
  • 16. 15 những người tham gia tố tụng có cùng tư cách tố tụng họ đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau, không phân biệt bất kỳ ai, nhưng với thủ tục xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, bị cáo và những người có quyền kháng cáo trong vụ án đều bị tước mất quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, ngược lại với bị cáo khác nếu bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm họ lại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Điều này đã tạo ra sự bất bình đẳng trước pháp luật giữa các bị cáo, quyền của các bị cáo có sự "phân biệt đối xử", không công bằng. Khắc phục những hạn chế đó, để đảm bảo lợi ích cũng như quyền bào chữa của bị cáo, cũng như để phù hợp với pháp luật quốc tế mà cụ thể là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, nguyên tắc hai cấp xét xử ra đời xóa bỏ chế độ xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm trước đây. Như vậy, việc quy định nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử tại Điều 20 BLTTHS năm 2003 với những nội dung cơ bản như đã nêu trên thể hiện sự tiến bộ trong lập pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.1.3. Thực hiện chế độ hai cấp xét xử là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam Nguyên tắc vốn được hiểu là "những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc" [44, tr. 1217]. Do đó, có thể khẳng định nguyên tắc là cái không thể thiếu trong hoạt động thực tiễn của con người, đảm bảo cho những hoạt động đó đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Tố tụng hình sự, với tư cách là hoạt động pháp luật của các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc của luật tố tụng hình sự có thể được định nghĩa "là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó" [1, tr. 3]
  • 17. 16 Hoạt động xét xử là quy trình Tòa án áp dụng luật vào việc xử lý hành vi phạm tội nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, chế độ kinh tế, chính trị-xã hội, bảo vệ trật tự pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nó là hoạt động trọng tâm của hoạt động tố tụng nói riêng và hoạt động tư pháp nói chung nên cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của các nguyên tắc luật tố tụng hình sự mà đặc trưng là nguyên tắc thực hiện cơ chế hai cấp xét xử. Cấp xét xử được hiểu với nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng cấp xét xử là giai đoạn xem xét lại vụ án tại Tòa án với thẩm quyền xác định. Theo khái niệm này thì cấp xét xử đơn thuần là khái niệm tố tụng chung, thể hiện một giai đoạn xét xử trong quy trình giải quyết vụ án hình sự. Xuất phát từ đây, người ta cho rằng trong pháp luật tố tụng hình sự có các cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm mỗi giai đoạn tương ứng với một cấp xét xử nhất định. Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng thể hiện Quyết định của Nhà nước về xét xử các vụ án nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân. Hiện nay, theo pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử. Đó là việc vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định được Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là một thủ tục đặc biệt, xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, mặc dù xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đều là những giai đoạn của tố tụng hình sự nhưng không thể nói chúng là các cấp xét xử khác nhau. Nguyên tắc hai cấp xét xử quy định Tòa án khi xét xử một vụ án hình sự phải đáp ứng các yêu cầu sau: - Bảo đảm đầy đủ các cơ sở pháp lý và tổ chức cho việc xét xử sơ thẩm vụ án một cách khách quan, toàn diện, chính xác, mọi vấn đề đều được cấp sơ thẩm giải quyết
  • 18. 17 - Bảo đảm tối đa quyền kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm của các đương sự. Đây là các quy định liên quan đến thời hạn kháng cáo, kháng nghị, liên quan đến quyền hạn của những người tham gia tố tụng… - Bảo đảm thể hiện đầy đủ rằng phúc thẩm là cấp xét xử. Tính chất của phúc thầm phải là xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với vụ án mà bản án, quyết định Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật qui định nhằm kiểm tra tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Với những vấn đề quan trọng trên, nguyên tắc hai cấp xét xử được nhà làm luật xác định là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam và đã được quy định tại một điều luật cụ thể - Điều 20 Chương II "Những nguyên tắc cơ bản" BLTTHS năm 2003. Bàn về các nguyên tắc cơ bản của BLTTHS Việt Nam, một số tác giả cho rằng: Nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Nói một cách cụ thể hơn, đó là những nguyên tắc chi phối hoặc là tất cả các giai đoạn từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc chí ít cũng là một số giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Như vậy, nếu theo quan điểm này thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử chỉ là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử chứ không phải là nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quan điểm cuả tác giả cho rằng với tầm quan trọng và ý nghĩa to lớn của nó đã được nhà làm luật xác định tại Điều 20 Chương II, chúng ta có thể khẳng định nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử như sau: Nguyên tắc hai cấp xét xử là những tư tưởng chủ đạo, có tính bắt buộc chung trong hoạt động xét xử, được quy định trong Luật tố tụng hình sự, đảm bảo mọi vụ án đều có thể được xét xử theo hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp
  • 19. 18 phúc thẩm nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án, để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật đồng thời tạo cơ hội cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách yêu cầu Tòa án cấp trên xét lại bản án. Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử như sau: Trước hết, nguyên tắc hai cấp xét xử là tư tưởng chủ đạo, định hướng, là tiền đề quan trọng phản ánh quan điểm của nhà làm luật về xét xử các vụ án hình sự nhằm đảm bảo tính chính xác, khách quan trong phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân. Thứ hai, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc đặc trưng chỉ được thực hiện trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Chủ thể duy nhất thực hiện nguyên tắc này là Tòa án, bởi vì Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ ba, khi Tòa án thực hiện hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm thì Cấp xét xử phúc thẩm chỉ được thực hiện khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Giám đốc thẩm, tái thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba mà chỉ là thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có các căn cứ luật định. Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử là biểu hiện quan trọng của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện ở quyền kháng cáo, tức là yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại bản án, quyết định, giảm tội hoặc xử vô tội. 1.2. VỊ TRÍ, Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ Trong BLTTHS nước ta năm 2003, các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam được nhà làm luật đề cập trong 30 điều khác nhau tại chương II "những nguyên tắc cơ bản" (từ Điều 3 đến Điều 32). Bên cạnh các nguyên tắc đặc biệt quan trọng khác như nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội
  • 20. 19 chủ nghĩa trong tố tụng hình sự (Điều 3), nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4), nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 10), nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16)… thì nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được qui định tại Điều 20 BLTTHS. Thực tế, khi xây dựng hệ thống các nguyên tắc của một ngành luật tương ứng nào đó, quan điểm được thừa nhận chung là nhà làm luật nên ghi nhận các nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực cần điều chỉnh. Tuy nhiên, thực tiễn lập pháp tố tụng hình sự còn ghi nhận cả những nguyên tắc tổ chức và hoạt động trong các cơ quan tư pháp. Nguyên tắc hai cấp xét xử là một ví dụ. Đây là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử. Có thể nói, trong toàn bộ các nguyên tắc tố tụng hình sự, các nguyên tắc về xét xử được nhà làm luật quan tâm hơn cả, ngay cả các nhà lập hiến cũng quan tâm đến vấn đề này khi qui định về tổ chức và hoạt động của cơ quan xét xử trong bộ máy nhà nước bởi vì xét xử - hoạt động tố tụng của Tòa án được coi là hoạt động trọng tâm của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, nói cách khác xét xử hình sự là quá trình thể hiện một cách tập trung tính chất hệ thống tố tụng hình sự. Không phải ngẫu nhiên các nhà khoa học về tố tụng hình sự dùng hình tượng cái chóp của hình nón hoặc đỉnh của kim tự tháp để chỉ hoạt động xét xử. Pháp luật của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới quy định nguyên tắc tố tụng hình sự xoay quanh hoạt động xét xử. Ở nước ta cũng vậy, đó là các nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 15), nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 16), nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể (Điều 17), nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18), nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20), nguyên tắc giám đốc việc xét xử (Điều 21). Xét trong BLTTHS Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc có vị trí rất quan trọng, là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử và là nguyên tắc cơ bản. Xét trong hệ thống các nguyên tắc của BLTTHS Việt Nam, nguyên tắc hai cấp xét xử có
  • 21. 20 mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc khác, chúng bổ sung cho nhau, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành một hệ thống. Mỗi nguyên tắc đều có vai trò độc lập tương đối, song ý nghĩa đầy đủ của nó chỉ có thể xác định trong mối liên hệ hữu cơ với những nguyên tắc khác và thông qua sự tác động của cả hệ thống các nguyên tắc đối với hoạt động tố tụng hình sự. Việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử có các ý nghĩa sau đây: Một là, nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo việc xét xử của Tòa án được khách quan, toàn diện, chính xác và đúng pháp luật. Điều 20 BLTTHS quy định: "Bản án, quyết định sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị". Trong trường hợp kháng cáo xảy ra, người dân cảm thấy bản án, quyết định bị kháng cáo là chưa thỏa đáng đối với họ. Khi đó, không cần biết những kháng cáo đó có căn cứ hay không, vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp bản án, quyết định sơ thẩm bị VKS cấp có thẩm quyền kháng nghị khi cho rằng bản án, quyết định sơ thẩm chưa đúng quy định của pháp luật. Tương tự kháng cáo, các trường hợp kháng nghị cũng không cần xem xét về tính có căn cứ hay không của việc kháng nghị mà vụ án đó phải được xét xử phúc thẩm. Điều đó có nghĩa là, nếu bản án, quyết định sơ thẩm kháng cáo hoặc bị kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Trường hợp này có thể hiểu rằng pháp luật cho phép các chủ thể như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, VKS cấp trên hoặc cùng cấp luôn luôn có quyền nghi ngờ về tính đúng đắn của bản án, quyết định sơ thẩm. Nếu hết thời hạn luật định mà bị cáo không kháng cáo, VKS không kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, điều này cũng có nghĩa là người dân "trong cuộc" đã hoàn toàn thỏa mãn, tâm phục khẩu phục hoặc không phản đối, VKS cũng đồng tình (hoặc không phát hiện thấy sai phạm) của Tòa án cấp sơ thẩm, do đó bản án, quyết định phải được thi hành. Thứ hai, Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi
  • 22. 21 người tôn trọng. Việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án cũng có nghĩa rằng giới hạn về cấp xét xử của Tòa án là hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Quy định này nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thi hành nhanh chóng, kịp thời, hạn chế việc trì hoãn, kéo dài việc thi hành án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Thứ ba, bên cạnh việc thực hiện chế độ hai cấp xét xử của Tòa án, luật tố tụng hình sự còn quy định việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhằm kiểm tra tính có căn cứ của bản án, quyết định sau khi có hiệu lực pháp luật. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và của Tòa án nói riêng cũng là hoạt động của con người, do đó không thể không có sự sai sót. Việc xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để khắc phục những sai sót đó là việc làm cần thiết. 1.3. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM * Giai đoạn sau năm 1945 - 1960 Ở giai đoạn này hệ thống Tòa án được tổ chức theo sắc lệnh số 13/SL ngày 21/1/1946 về "tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán". Nhưng những qui định về hoạt động của nó lại được qui định theo sắc lệnh khác là sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 "ấn định thẩm quyền của các Tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án". Theo sắc lệnh này các cấp xét xử bước đầu được hình thành. Điều thứ 5 sắc lệnh số 51/SL qui định: "về hình sự, Tòa án sơ cấp có quyền xử: A- Chung thẩm: 1- Những án phạt bạc từ 0đ 50 đến 9đ 00; 2- Những án xử bồi thường từ 150đ trở xuống do nguyên cáo bị thiệt hại trong vụ vi cảnh thỉnh cầu trong đơn khiếu hay chậm nhất, lúc việc vi cảnh đem ra phiên tòa xử.
  • 23. 22 B- Sơ thẩm: 1- Những án phạt giam từ 1 đến 5 ngày; 2- Những án xử bồi thường quá 150 đ hoặc những việc xin bồi thường quá số tiền ấy, mà nguyên đơn thỉnh cầu trong đơn khiếu nại hay chậm nhất, lúc việc vi cảnh đem ra phiên tòa xử. Điều thứ 10, về hình sự, Tòa án đệ nhị cấp có quyền xử: A- Chung thẩm: những án vi cảnh của Tòa án sơ cấp bị kháng cáo. B- Sơ thẩm: Những việc tiểu hình và đại hình. Những việc tiểu hình là những việc có thể bị phạt tù từ 6 ngày đến 5 năm, hay phạt bạc trên 9 đ. Điều thứ 13 qui định: "Tòa thượng thẩm có quyền xét xử những việc kháng cáo án sơ thẩm của các tòa đệ nhị cấp". Như vậy, theo qui định Sắc lệnh 51/LS, cơ chế xét xử sơ thẩm và chung thẩm. Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất được áp dụng cho hai cấp Tòa án là Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp. Những qui định này có lẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi hệ thống pháp luật của Cộng hòa Pháp (trước 1945, nước Tòa án có gần 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp). Chẳng hạn ở Pháp có hai loại Tòa án có thẩm xét xử sơ thẩm: Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền hẹp Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền rộng. Sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, điều này có nghĩa là bản án của cấp xét xử sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn có thể bị kháng cáo để xem xét lại. Việc xem xét này do Tòa án trên một cấp của Tòa án đã ra bản án sơ thẩm bị kháng cáo tiến hành nhằm đảm bảo tính đúng pháp luật và có căn cứ cho các bản án của Tòa án cấp sơ thẩm được gọi là cấp xét xử chung thẩm (cấp xét xử thứ hai). Cấp xét xử chung thẩm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Chính cấp xét xử chung thẩm này cùng với cấp sơ thẩm đã tạo nên một cơ chế xét xử mang tính chất truyền thống mà trải qua nhiều thời kỳ phát triển khác nhau cơ chế này dường như không thay đổi, tiêu chí tính hợp
  • 24. 23 lý của cơ chế này không chỉ khác trong phạm vi một quốc gia mà còn có tính thống nhất trong phạm vi quốc tế. * Giai đoạn từ năm 1960 - 1981 Hiến pháp 1959 và tiếp đến là Luật Tổ chức TAND năm 1960 đã bắt đầu ghi nhận nguyên tắc Tòa án xét xử hai cấp. Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: Tòa án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân xử sơ thẩm lên Tòa án nhân dân trên một cấp. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân. Nếu đương sự không chống án hoặc Viện kiểm sát nhân dân không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân địa phương sẽ có hiệu lực pháp luật. Bản án và quyết định phúc thẩm của các Tòa án nhân dân, bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật [14]. Như vậy cũng như thời kỳ trước, các bản án, quyết định sơ thẩm sau khi tuyên án thì chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị trong một thời hạn nhất định do luật định. Việc xét xử lại thuộc thẩm quyền của các Tòa án cấp trên một cấp và được gọi là cấp phúc thẩm (thời kỳ trước gọi là chung thẩm). Thẩm quyền xét xử sơ thẩm và phúc thẩm về cơ bản cũng không khác. Về thẩm quyền xét xử sơ thẩm: - Điều 16 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp huyện xử "sơ thẩm những vụ án hình sự và dân sự do pháp luật qui định thuộc thẩm quyền của các Tòa án đó".
  • 25. 24 - Điều 18 Luật Tổ chức TAND năm 1960 qui định: TAND cấp tỉnh có thẩm quyền "sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp dưới mà Tòa án đó lấy lên để xử". Về thẩm quyền phúc thẩm chỉ thuộc về TAND cấp tỉnh và TANDTC. TAND cấp tỉnh có thẩm quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị (Điều 18). TANDTC có thẩm quyền phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị chống án hoặc bị kháng nghị. Trong giai đoạn này thủ tục giám đốc thẩm mới được qui định. Theo Điều 10 Luật tổ chức Tòa án năm 1960 thì: "Đối với những bản án và quyết định của các Tòa án nhân dân địa phương đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Tòa án nhân dân tối cao có quyền xét lại hoặc giao cho Tòa án nhân dân cấp dưới xét lại" [14]. Về cấp xét xử một lần, giai đoạn này có một vài thay đổi: - Tòa án có thẩm quyền là TANDTC (Điều 21 Luật Tổ chức TAND năm 1960). - Bản án, quyết định sơ thẩm của TANDTC đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật (Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 1960). Vì vậy, thủ tục xét xử một lần còn được gọi là thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm chứ không gọi là "chung thẩm" như thời kỳ trước. Tóm lại, trong thời kỳ này hệ thống xét xử của TAND cơ bản giống như những quy định trong thời kỳ trước. Đó là việc thực hành chế độ hai cấp xét xử: Cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm trong đó việc sơ thẩm nếu do TANDTC tiến hành thì bản án sẽ là chung thẩm tức là không bị phúc thẩm. Bên cạnh đó còn xuất hiện một thủ tục xét xử mới và đây được coi là một thủ tục xét xử đặc biệt là thủ tục giám đốc thẩm. * Giai đoạn từ năm 1981 - 1988 Giai đoạn này bắt đầu bằng Luật Tổ chức TAND năm 1981, sau khi có Hiến pháp năm 1980. Việc xét xử vẫn được thực hiện theo hai cấp. Tuy
  • 26. 25 nhiên, nếu trong Luật Tổ chức TAND năm 1960 điều này được ghi nhận như một nguyên tắc (Điều 9) thì trong Luật Tổ chức TAND năm 1981 lại không quy định chính thức trong một điều luật nào mà chỉ có thể được thể hiện qua một số điều luật khác quy định về thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện. Thủ tục giám đốc thẩm vẫn là một đảm bảo quan trọng để Tòa án có thể khắc phục những sai lầm có thể xảy ra trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, trong giai đoạn này một thủ tục mới xuất hiện: Thủ tục tái thẩm. Điều 12 Luật Tổ chức TAND năm 1981 quy định: "Tòa án có nhiệm vụ tái thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện tình tiết mới". Tái thẩm không phải là cấp xét xử thực hiện sau khi bản án đã bị Giám đốc thẩm mà vẫn có sai lầm như mối liên hệ giữa Giám đốc thẩm với án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật và án phúc thẩm. Về mặt này, chúng hoàn toàn độc lập với nhau, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật có thể bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm tùy thuộc vào việc nó bị phát hiện ra sai lầm hay có tình tiết mới. * Giai đoạn 1988 đến 2003 Giai đoạn này đánh dấu bằng BLTTHS năm 1988. Những tư tưởng chính của Luật Tổ chức TAND năm 1960 được kế thừa trong Luật Tổ chức TAND năm 1980 và BLTTHS năm 1988. Mặc dù không được ghi cụ thể nhưng nội dung nguyên tắc hai cấp xét xử vẫn được thể hiện đầy đủ và được mở rộng hơn. Ví dụ, về quyền hạn, Tòa án cấp phúc thẩm không có quyền làm xấu đi tình trạng của bị cáo hoặc hủy bản án, quyết định sơ thẩm để xét xử lại vụ án theo hướng làm nặng thêm tình trạng của đương sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề đó. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật trên còn có những hạn chế sau đây: - Thủ tục xét xử theo trình tự sơ thẩm đồng thời chung thẩm của TANDTC vẫn tồn tại.
  • 27. 26 - Xác định tính chất của phúc thẩm không đúng, đó là việc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị chứ không phải là xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. - Coi giám đốc thẩm như một cấp xét xử. * Giai đoạn 2003 đến nay Giai đoạn này đánh dấu bằng BLTTHS năm 2003. Các hạn chế trên đã được khắc phục trong Luật Tổ chức TAND năm 2002 và BLTTHS năm 2003. Nguyên tắc hai cấp xét xử lại được ghi nhận; hủy bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm của TANDTC; tính chất của phúc thẩm được khẳng định là xét lại bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị và bằng cách sửa đổi quyền hạn của Tòa giám đốc thẩm, luật khẳng định rằng đó chỉ là thủ tục đặc biệt chứ không phải là một cấp xét xử… các thay đổi quan trọng này được thể hiện cụ thể trong BLTTHS năm 2003. 1.4. NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở MỘT SỐ NƢỚC Hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp nước ta nói chung và tư pháp hình sự nói riêng. Hiện nay, nguyên tắc này hầu như được áp dụng phổ biến ở các nước trên thế giới. Tại các quốc gia có mô hình tố tụng là mô hình tranh tụng như Anh, Mỹ không áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử mà ngược lại áp dụng nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc xét xử chung thẩm, điều này có nghĩa là các bản án, quyết định của Tòa án sau khi ban hành sẽ mặc nhiên được thừa nhận là giải pháp cuối cùng và bản án, quyết định đó sẽ có hiệu lực pháp luật ngay, trừ những trường hợp đặc biệt vi phạm về thủ tục tố tụng hoặc những sai lầm về mặt pháp lý thì sẽ được Tòa án phúc thẩm xét xử lại. Tuy nhiên, Tòa phúc thẩm cũng chỉ xem xét lại về mặt pháp lý và thủ tục chứ không xét lại những nội dung sự kiện đã được bồi thẩm đoàn quyết định tại phiên tòa sơ thẩm. Sở dĩ các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng không áp dụng nguyên tắc hai
  • 28. 27 cấp xét xử là vì quan niệm về vai trò của bồi thẩm đoàn tham gia tố tụng ở các nước này. Theo pháp luật tố tụng hình sự của Mỹ, bị cáo được quyền xét xử với sự tham gia của bồi thẩm đoàn. Qui định này nhằm mục đích là bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm ra các tình tiết tối ưu, có xem xét đến lợi ích đối kháng của các bên đương sự. Tương tự như các hệ thống pháp luật khác thuộc hệ thống comment law, tố tụng hình sự của Mỹ cũng dựa trên những quan niệm cho rằng công tố viên có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, vốn đối lập với lợi ích của bị cáo và rằng cả hai bên đều bình đẳng trước pháp luật. Quyết định của Công tố viên đối với các tình tiết của vụ việc cần phải có sức thuyết phục bồi thẩm đoàn. Ở nước Liên bang Nga, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng. Theo khoản 4 Điều 354 BLTTHS Liên bang Nga quy định: "Người bị kết án, người được Tòa án tuyên vô tội, những người bào chữa và người đại diện hợp pháp của họ, công tố viên, người bị hại và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án". Khoản 3 Điều 354 quy định: "Kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp chống án chưa có hiệu lực pháp luật được xem xét theo thủ tục phúc thẩm". Như vậy, về nguyên tắc, một vụ án hình sự cũng được xét xử theo hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp chống án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Ở nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, nguyên tắc hai cấp xét xử được áp dụng phổ biến. Hệ thống Tòa án của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa gồm có các TAND, đứng đầu là TANDTC, sau đó đến TAND cấp cao, TAND cấp trung và cuối cùng là các TAND cơ sở. TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất trong hệ thống xét xử. Tòa án này có thẩm quyền hướng dẫn áp dụng pháp luật, xét xử sơ thẩm những vụ án đặc biệt có tầm quan trọng quốc gia, xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định
  • 29. 28 đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao khi có kháng cáo hoặc kháng nghị từ VKSNDTC hoặc các vụ việc mà Tòa thấy rằng cần phải trực tiếp xét xử sơ thẩm. Theo Điều 22 BLTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: "TANDTC xét xử sơ thẩm các vụ án lớn trong phạm vi toàn quốc". TAND cấp cao là các TAND cấp tỉnh, cấp vùng tự trị và các thành phố trực thuộc trung ương. Tòa án này có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với những vụ án quan trọng xảy ra trong địa bàn mình quản hạt, những vụ việc được Tòa án cấp dưới chuyển lên và những vụ án hình sự lớn có ảnh hưởng tới tỉnh, đồng thời có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với những vụ án đã được Tòa án cấp dưới xét xử khi có kháng cáo, kháng nghị. (Điều 21) TAND cấp trung tổ chức tại đơn vị hành chính là thành phố thuộc tỉnh, có thẩm quyền giải quyết xét xử sơ thẩm trong một số vụ việc như những vụ việc được chuyển lên từ Tòa án cơ sở, các vụ án hình sự có mức án tù chung thân hoặc tử hình, các vụ án mà người phạm tội là người nước ngoài, xét xử phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử bởi TAND cơ sở bị kháng cáo, kháng nghị. (Điều 20). Tòa án cấp cơ sở là Tòa án địa phương tổ chức tại các đơn vị hành chính cấp huyện, có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự có mức án thấp hơn án tử hình và án tù chung thân và có thẩm quyền chuyển vụ việc có tính chất nghiêm trọng lên Tòa án cấp trên để giải quyết. (Điều 19). Như vậy, về nguyên tắc một vụ án hình sự có thể được xét xử ở hai cấp là sơ thẩm và phúc thẩm nếu có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, ở nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa những vụ án hình sự do TANDTC xét xử sơ thẩm không áp dụng nguyên tắc hai cấp xét xử. Pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng giống như pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cho phép các đương sự có quyền kháng cáo, VKS có quyền kháng nghị bản án của Tòa án cấp sơ thẩm sau khi tuyên án và bản án quyết định đó sẽ được Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại. Các đương sự được quyền kháng cáo nhưng chỉ được kháng cáo một lần theo phương châm "phán quyết cuối cùng
  • 30. 29 bởi cơ quan tài phán thứ hai". Các vụ án được đưa ra xét xử phúc thẩm đều được rà soát lại cả về cơ sở pháp lý mà Tòa án áp dụng để xét xử và cả về tình tiết vụ việc. Yêu cầu xét xử phúc thẩm phải được thể hiện bằng đơn kháng cáo hoặc kháng nghị. Đơn kháng cáo có thể do bị cáo hoặc người bị hại gửi đến tòa. Đơn kháng nghị do VKS gửi tới tòa trong những vụ việc hình sự khi VKS tin rằng phán quyết của tòa án sơ thẩm đã áp dụng sai luật hoặc bản án có lỗi về các tình tiết vụ việc. Ở Nhật Bản, khác với nhiều nước có hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì ở Nhật Bản qui trình tố tụng theo 3 cấp (tam thẩm): sơ thẩm, phúc thẩm đệ nhất cấp và phúc thẩm đệ nhị cấp (phúc thẩm lần hai). - Tòa án tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của Nhật Bản thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm đệ nhất cấp (Kokoku) và đệ nhị cấp (phúc thẩm Jokoku). Tòa án tối cao xét xử phúc thẩm Jokoku đối với những trường hợp sau: + Đơn kháng cáo chống lại phán quyết sơ thẩm hoặc phúc thẩm lần một của Tòa án cấp cao. + Đơn kháng cáo chống lại bản án sơ thẩm của Tòa án cấp Quận, của Tòa án gia đình hoặc bản án sơ thẩm hình sự lần thứ nhất của Tòa án rút gọn. + Đơn kháng cáo gửi tới Tòa án cấp cao và được chuyển tới Tòa án tối cao vì một lý do đặc biệt. Trong các vụ án hình sự, những căn cứ cho một kháng cáo Jokoku được giới hạn trong phạm vi liên quan đến vi phạm hiến pháp, sai lầm trong cách hiểu hiến pháp hoặc trái với tiền lệ pháp luật của Tòa án tối cao hoặc trái với án lệ của Tòa án cấp cao trong trường hợp Tòa án tối cao chưa từng có án lệ về vụ việc tương tự. Tòa án tối cao cũng có thể chấp nhận vụ việc dựa vào đơn kiến nghị khi Tòa án cho rằng việc này liên quan đến vấn đề cách hiểu của luật, Nghị định như một tòa án sơ thẩm Jokoku. Một đơn kháng cáo Kokoku gửi tới Tòa án tối cao được chấp nhận thụ lý trong các trường hợp sau: Đó là đơn kháng cáo đặc biệt chống lại bản án hình
  • 31. 30 sự mà trong trường hợp đó không có kháng cáo thông thường nào được qui định trong BLTTHS và một kháng cáo chống lại một bản án phúc thẩm trong vụ án về vị thành niên phạm tội trên cơ sở cho rằng bản án đó vi phạm Hiến pháp hoặc do mâu thuẫn với một tiền lệ pháp luật (hay còn gọi là án lệ). Tòa án tối cao là tòa án cao nhất có thẩm quyền xét xử trên phạm vi cả nước và là cấp xét xử cuối cùng đối với những bản án đã được xét xử bởi Tòa án cấp cao. - Tòa án cấp cao giải quyết phúc thẩm những vụ việc đã được xét xử hình sự bởi tòa án cấp quận, Tòa án rút gọn. Tòa án cấp cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Các vụ việc hình sự được xét xử bởi Tòa án rút gọn cũng có thể được kháng cáo trực tiếp tới Tòa án cấp cao. - Tòa án cấp quận xét xử hầu hết các vụ án hình sự và xét xử phúc thẩm các vụ án đã được xét xử bởi Tòa án rút gọn. Về cơ bản, tòa án cấp quận là Tòa án xét xử sơ thẩm đầu tiên ngoại trừ những vụ việc đặc biệt thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của những tòa án khác. Tòa án quận cũng có thẩm quyền xét xử phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm của Tòa án rút gọn. - Tòa án rút gọn ở Nhật Bản có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự nhỏ mà hình phạt là phạt tiền hoặc hình phạt khác nhẹ như trộm cắp nhỏ, tham ô nhỏ... Tòa án rút gọn không thể áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt khác nghiêm khắc hơn. Tuy nhiên tòa án rút gọn có thể áp dụng hình phạt cải tạo lao động có thời hạn không quá 3 năm khi Tòa án rút gọn cho rằng hình phạt thích hợp quá giới hạn trên thì họ phải chuyển vụ việc tới tòa án cấp quận. Tất cả các vụ việc của Tòa án rút gọn được giải quyết bởi một thẩm phán. Như vậy, để đảm bảo việc xét xử đúng đắn, kịp thời nhằm bảo vệ có hiệu quả lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, một vụ án có thể được xét xử ở hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Đây là một nguyên tắc được áp dụng phổ biến ở các quốc gia trên thế giới hiện nay, trong đó có Việt Nam. Nó không chỉ được quy định cụ thể trong pháp luật
  • 32. 31 tố tụng hình sự ở nhiều quốc gia mà còn được ghi nhận trong các Công ước quốc tế, các văn bản pháp lý quan trọng khác. Đặc biệt là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, trong đó tại Khoản 5 Điều 14 Công ước ghi rõ "bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật". Tại Điều 81 Phần thứ tám Quy chế Rom về Tòa án hình sự quốc tế cũng xác định "Bản án có thể bị công tố viên hoặc người bị kết tội kháng cáo phù hợp với quy tắc về tố tụng và chứng cứ dựa trên cơ sở thiếu sự cân đối giữa tội phạm và bản án". * * * Tóm lại, toàn bộ chương 1 của luận văn tác giả đã tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Với những phân tích ở chương 1 có thể đưa ra một số kết luận sau: Thứ nhất, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau mà việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử là một nguyên tắc được áp dụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và các văn bản pháp luật quốc tế quan trọng như một đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm giúp Tòa án xét xử chính xác, công minh, bảo vệ hiệu quả lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân. Hiện nay, nguyên tắc này được áp dụng phổ biến ở đa số các quốc gia trên thế giới. Thứ hai, nguyên tắc hai cấp xét xử là một nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Tác giả đã phân tích và đưa ra định nghĩa khái quát về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Nội dung nguyên tắc khẳng định bất kỳ một vụ án hình sự nào cũng được xét xử lần đầu tiên tại cấp xét xử sơ thẩm và có thể được xét xử lần thứ hai tại cấp xét xử phúc thẩm nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm sửa chữa những sai lầm trong việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm. Bản án, quyết
  • 33. 32 định bị kháng cáo, kháng nghị chưa có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành. Thứ ba, nguyên tắc hai cấp xét xử là nguyên tắc đặc trưng của giai đoạn xét xử và là nguyên tắc cơ bản, có mối liên hệ hữu cơ với các nguyên tắc khác trong hệ thống các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Nó có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án đuược khách quan, toàn diện, chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thứ tư, nguyên tắc hai cấp xét xử đã khắc phục những hạn chế của nguyên tắc xét xử một cấp sơ thẩm đồng thời là chung thẩm tồn tại trong thời gian trước. Việc quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong BLTTHS Việt Nam năm 2003 thể hiện sự tiến bộ trong lập pháp của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt được ở chương 1, tác giả tiếp tục đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ở chương 2.
  • 34. 33 Chương 2 NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HAI CẤP XÉT XỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Theo Điều 11 Luật Tổ chức TAND năm 2002 quy định: "Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử", tiếp đó Điều 20 BLTTHS năm 2003 quy định: 1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. 2. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm [21]. Như vậy, một vụ án hình sự được xét xử thông qua chủ yếu hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm là cơ bản, ngoài ra còn có các trình tự xét xử đặc biệt là giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nghĩa là với nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử được quy định tại Điều 20 BLTTHS năm 2003 thì một vụ án hình sự chỉ bị xử nhiều nhất là ba lần (ba phiên tòa). Tuy nhiên, trên thực tế có những vụ án bị xử tới 5 lần, 7 lần, vấn đề là ở chỗ không phải Tòa án đã vi phạm thủ tục tố tụng, tự ý xét xử số lần vượt quá số lần xử do luật định mà chính trong luật đã tiềm ẩn những nguy cơ cho một vụ án có thể bị xử nhiều lần. Nghiên cứu những quy định của pháp luật sẽ giúp ta thấy rõ hơn về điều này.
  • 35. 34 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CẤP XÉT XỬ SƠ THẨM Theo Từ điển tiếng Việt thì "Sơ thẩm là xét xử một vụ án với tư cách là Tòa án ở cấp xử thấp nhất". Theo Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì "Sơ thẩm là việc Tòa án xét xử lần đầu một vụ án". Theo tác giả Đinh Văn Quế trong sách Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, phần xét xử sơ thẩm thì xét xử sơ thẩm là "việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật" [12]. Từ các định nghĩa trên có thể kết luận rằng sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, là lần xử thứ nhất hay còn được coi là cấp xét xử thứ nhất. Đó là cấp xét xử đầu tiên trong hoạt động tố tụng của Tòa án. Tất cả các vụ án nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải qua cấp xét xử này. Vì vậy, đây là một cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong trình tự xét xử một vụ án hình sự. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm sau đây: - Là việc xét xử lần đầu vụ án hình sự. Trước đó, vụ án chưa được Tòa án nào xét xử (kể cả trường hợp vụ án bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm hủy để xét xử lại thì vẫn được coi là xét xử lần đầu, vì kết quả xét xử trước đó đã bị hủy). - Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật. - Việc xét xử phát sinh trên cơ sở bản cáo trạng của VKS, chỉ khi có cáo trạng truy tố bị can ra trước Tòa án thì mới có xét xử sơ thẩm; - Tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Tòa án giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án, tội phạm và hình phạt, các biện pháp tư pháp,… Như vậy, phạm vi xét xử sơ thẩm rộng hơn, toàn diện hơn phạm vi xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. - Việc xét xử sơ thẩm một vụ án hình sự được thực hiện thông qua một phiên tòa hình sự sơ thẩm. Bất kỳ một phiên tòa hình sự sơ thẩm nào, dù có một
  • 36. 35 bị cáo hay nhiều bị cáo, đơn giản hay phức tạp, xét xử trong khoảng thời gian ngắn hay dài …cũng đều phải được diễn ra theo một thủ tục nhất định được quy định trong BLTTHS - đó là thủ tục phiên tòa hình sự sơ thẩm. 2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án Theo Từ điển tiếng việt, thẩm quyền được hiểu là "Quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật" [42, tr. 920]. Thẩm quyền xét xử là một trong các nội dung của thẩm quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án với tư cách là cơ quan xét xử của một quốc gia nhất định. Bởi lẽ, thẩm quyền của Tòa án là một khái niệm có nội dung rộng, không chỉ là quyền được xét xử những vụ án hình sự nào và xét xử các đối tượng phạm tội nào mà còn bao gồm quyền được xét xử trong phạm vi (giới hạn) nào do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Ngoài ra, đó còn là một quyền rất quan trọng là được ra và có thể ra các quyết định khi xét xử vụ án. Theo Từ điển Luật học, thẩm quyền xét xử được hiểu là "sự phân định thẩm quyền xét xử các vụ án giữa các Tòa án với nhau" [32, tr. 459]. Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo TS. Nguyễn Ngọc Chí "là quyền mà pháp luật quy định cho Tòa án được xét xử những vụ án cụ thể trong giới hạn hoặc phạm vi nhất định, nói cách khác, là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn xét xử) của Tòa án theo quy định của pháp luật". Có thể nói thẩm quyền xét xử và thẩm quyền ra các quyết định khi xét xử là hai nội dung quan trọng nhất của thẩm quyền mà pháp luật tố tụng hình sự quy định cho Tòa án. Theo quy định của pháp luật, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, đó là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, tương ứng với các cấp xét xử này, pháp luật tố tụng hình sự quy định hai thủ tục xét xử là thủ tục xét xử sơ thẩm và thủ tục xét xử phúc thẩm và giao cho các Tòa án ở các cấp xét xử khác nhau thẩm quyền xét xử theo hai thủ tục xét xử nói trên. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án chỉ là một nội dung của thẩm quyền mà pháp luật tố tụng hình sự quy định cho Tòa án, đó chỉ là quyền được xét xử theo thủ tục sơ thẩm những vụ án hình sự loại nào, xảy ra ở đâu
  • 37. 36 và xét xử đối tượng phạm tội nào mà không bao gồm việc được xét xử trong giới hạn nào và được ra các quyết định nào trong giai đoạn xét xử… Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã dựa vào một số dấu hiệu nhất định của vụ án hình sự để phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho các cấp Tòa án. Đó là các dấu hiệu về tính chất nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm (loại tội phạm), nơi tội phạm được thực hiện và người thực hiện tội phạm, đồng thời căn cứ vào hành vi phạm tội gây thiệt hại cho lĩnh vực quản lý nhà nước nào để xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa TAND và TAQS trong một số trường hợp nhất định. Dựa trên ba tiêu chí đã xác định trên, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành phân định thẩm quyền xét xử như sau: * Thẩm quyền xét xử theo sự việc Thẩm quyền xét xử theo sự việc là "thẩm quyền xét xử của Tòa án được phân định bởi tính nghiêm trọng, phức tạp của tội phạm" [28, tr. 234]. Xét trên phương diện tổ chức, trong hệ thống Tòa án nước ta, TAND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và TAQS khu vực (gọi chung là Tòa án cấp huyện) là cấp xét xử thấp nhất chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, TAQS cấp quân khu (gọi chung là Tòa án cấp tỉnh) là Tòa án cấp thứ hai và cũng là Tòa án cấp cuối cùng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Vì vậy, thẩm quyền xét xử theo sự việc được nói tới ở đây chính là việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003: 1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây: a. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; b. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
  • 38. 37 c. Các tội quy định tại các Điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322, và 323 của BLHS. 2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử [21]. Với quy định này ta có thể thấy TAND cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử chung của TAND. TANDTC không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm như quy định trước đây là sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Việc quy định Tòa án thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trong đó TANDTC không có thẩm quyền sơ thẩm (đồng thời chung thẩm) là hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung của pháp luật trong tình hình hiện nay, phù hợp với tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động. Trước đây, theo quy định của pháp luật thì cả ba cấp Tòa án là TANDTC, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện đều có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trong thời gian tới, việc đưa chức năng xét xử sơ thẩm về cho một cấp Tòa án và tập trung một lượng Thẩm phán đủ mạnh cho việc xét xử là cần thiết. Vì đây là cấp xét xử thứ nhất nên Tòa án có thẩm quyền sơ thẩm cũng phải là Tòa án cấp thấp nhất tức là Tòa án cấp quận (huyện). Vấn đề đặt ra là nếu TAND cấp tỉnh không xét xử sơ thẩm thì có tạo ra hiệu quả xét xử cao hơn không, hay ngược lại. Nếu để TAND cấp tỉnh xét xử sơ thẩm như hiện nay ngoài việc san sẻ "gánh nặng" cho Tòa án cấp huyện, còn bảo đảm cho việc xét xử được thuận lợi hơn vì những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh thường là có khó khăn, phức tạp. Nhưng nếu vẫn duy trì thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho cả hai cấp Tòa án sẽ tạo ra sự lệ thuộc, ỷ lại giữa hai cấp Tòa án. Do đó, nếu giao thẩm quyền sơ thẩm cho Tòa án cấp huyện thì không những phải tạo ra một lực lượng Thẩm
  • 39. 38 phán đủ mạnh mà còn phải tạo khả năng độc lập cho việc xét xử của cấp Tòa án này. Thẩm phán phải tự chịu trách nhiệm về việc xét xử của mình. Lý luận và thực tế cho thấy, nếu vụ án được xét xử sơ thẩm tốt thì sẽ không bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, vụ án không bị kéo dài thậm chí nếu có bị phúc thẩm thì cũng không bị mất nhiều thời gian, tốn kém tiền của Nhà nước và nhân dân. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp quận (huyện) trong BLTTHS năm 2003 đã được mở rộng thêm rất nhiều so với BLTTHS năm 1988. Theo BLTTHS năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung TAND cấp huyện chỉ được xét xử sơ thẩm những tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng. BLTTHS năm 2003 tăng thẩm quyền của TAND cấp huyện được xét xử cả tội phạm rất nghiêm trọng, nghĩa là TAND cấp huyện được quyền xét xử sơ thẩm những tội phạm mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. * Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là "thẩm quyền xét xử của Tòa án được xác định bởi đối tượng phạm tội" [28]. Đây là loại thẩm quyền được phân định giữa TAND với TAQS dựa trên tiêu chí là người phạm tội. BLTTHS không quy định loại thẩm quyền này, thẩm quyền xét xử theo đối tượng được phân định gián tiếp qua quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự trong Pháp lệnh Tổ chức TAQS. Điều 3 Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002 quy định: Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là: 1. Quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý;
  • 40. 39 2. Những người không thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này mà phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội [36]. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức TAQS thì những vụ án hình sự mà người phạm tội là các đối tượng sau đây đều thuộc thẩm quyền xét xử của TAQS mà không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu: Quân nhân tại ngũ bao gồm sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Công chức quốc phòng bao gồm những công dân được tuyển dụng vào phục vụ trong quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển sang và do các đơn vị doanh nghiệp quân đội trực tiếp quản lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; công nhân quốc phòng bao gồm những công nhân được tuyển dụng thuộc biên chế của các đơn vị doanh nghiệp quân đội, những công nhân có hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các đơn vị, doanh nghiệp quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo hợp đồng; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo quy định của pháp luật về lực lượng dự bị động viên; dân quân tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu theo quy định của pháp luật về dân quân, tự vệ; những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý, bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập và trực tiếp quản lý để đáp ứng các nhu cầu đó. Bí mật quân sự được quy định tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Tổ chức TAQS là bí mật của quân đội về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành; gây thiệt hại cho quân đội được hiểu là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, uy tín của những người được quy định tại