SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ MINH NGỌC
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH
HÀ TĨNH,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ MINH NGỌC
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH,
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Trịnh Quốc Toản
Hà Nội - 2011
MỤC LỤC Trang
Mở đầu
Chương 1. Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự
1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm
hình sự
Chương 2. Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hình sự có kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế
2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh
Chương 3. Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất
lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
3.1. Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện các quy định về kháng
nghị phúc thẩm hình sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm về kháng nghị phúc thẩm
3.2.1. Quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình
sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
3.2.2. Quy định cụ thể việc gửi bản sao bản án sơ thẩm của
Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trong Bộ luật tố
tụng hình sự
3.2.3. Quy định cụ thể việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị
trong Bộ luật tố tụng hình sự
3.3. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian tới
3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng
pháp luật
3.3.2. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành, kiểm tra của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp về công tác
kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà
Tĩnh
3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm
sát
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong
việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự
3.3.5. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức
chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ, kiểm sát viên
3.4. Một số kiến nghị cụ thể
Kết luận
Danh mục công trình khoa học của tác giả
Danh mục tài liệu tham khảo
1
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng và chống tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng
và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội, đồng
thời cũng là mục đích của tố tụng hình sự.
Viện kiểm sát được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí quan trọng
trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay, ngành Kiểm sát
nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt trong hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố,
xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội
phạm và làm oan người vô tội. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, Viện kiểm sát bảo đảm cho pháp luật nói chung và pháp luật hình
sự nói riêng được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một hoạt
động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành. Điều 19 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án
nhân dân theo quy định của pháp luật...” [23, 18].
Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng biệt
của Viện kiểm sát. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003
quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có
quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân
dân”. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho bản án,
quyết định của Toà án có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
2
Kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một biện pháp để kiểm tra lại
tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án. Thông qua
việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc
phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật.
Trong những năm qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của
ngành Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh đã có những chuyển biến nhất định. Chất lượng
kháng nghị đã từng bước được nâng lên, nhìn chung đã đảm bảo về hình thức,
nội dung có căn cứ pháp lý, tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc
thẩm bảo vệ và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận được tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Hà tĩnh còn có
những bất cập, hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, vai trò của mình, nhiều
vụ án Viện kiểm sát cấp trên phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Toà
án cấp phúc thẩm chấp nhận còn thấp, số lượng kháng nghị phúc thẩm có
chiều hướng giảm trong khi số án sơ thẩm phải cải sửa, huỷ án thông qua
kháng cáo chiếm tỷ lệ không nhỏ, một số đơn vị Viện kiểm sát nhiều năm liền
không có kháng nghị phúc thẩm hình sự, v.v..
Những tồn tại, thiếu sót nêu trên có nhiều nguyên nhân, từ nguyên nhân
chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Một mặt năng lực và trách nhiệm của
cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế, lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự quan
tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, mối quan hệ phối hợp giữa
Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm chưa cao. Mặt khác
BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm,
thời hạn kháng nghị trên một cấp còn ngắn, việc sao gửi bản án sơ thẩm của
Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên chưa được quy định, trang
thiết bị hỗ trợ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa
3
đáp ứng yêu cầu, v.v.. Những nguyên nhân trên làm cho chất lượng công tác
kháng nghị phúc thẩm bị ảnh hưởng không nhỏ. Trong khi đó, chưa có một
công trình nào nghiên cứu về vấn đề này thông qua thực tiễn công tác kháng
nghị phúc thẩm ở Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh.
Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm các
vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở
lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự và thực tiễn của công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hà Tĩnh trong
những năm gần đây, tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số
giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự
theo tinh thần Chỉ thị 03 ngày 19-6-2008 về “Tăng cường công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao
(VKSNDTC), qua đó thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49
ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020.
2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài
Kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện
kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Thông qua kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát đảm bảo cho
mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội. Yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra với công tác đổi mới tổ chức bộ
máy của Viện kiểm sát theo quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trên tinh
thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì việc nâng cao chất lượng
4
kháng nghị phúc thẩm hình sự là một vấn đề cần thiết. Vì vậy, công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, việc thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây
thông qua việc tổ chức hội thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm, v.v...
Chính vì vậy, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được một số tác giả,
công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau:
- Bình luận khoa học BLTTHS, tác giả PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ
biên), Nxb. Công an nhân dân năm 2004.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật đại học Quốc gia
Hà Nội năm 1994.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2005.
- Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tác giả Dương Thanh Biểu (chủ
biên), Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2008.
- Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh.
- Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, tác giả Nguyễn Huy Tiến, Tạp chí
Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009).
- Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác kháng nghị
phúc thẩm án hình sự, tác giả Lê Doãn Tiết, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng
9/2009).
- Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chuyên
đề của Tạp chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2010).
- Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả
Đinh Văn Quế, Tạp chí kiểm sát số 15 (tháng 8/2007), số 17 (tháng 9/2007).
5
- Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, tác giả Chu Thị Thanh Tú, Luận văn Thạc sỹ
luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007, v.v..
Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đề cập đến
những khía cạnh nhất định hoặc những vấn đề chung nhất. Mỗi bài viết, công
trình nghiên cứu chỉ tập trung giải quyết một hoặc vài nội dung cụ thể liên
quan đến chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa có bài viết hay công
trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết dưới góc độ lý luận, thực trạng
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà
Tĩnh, lý giải các yếu tố ảnh hưởng, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc
phục và nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm của Viện kiểm sát;
- Phân tích, đánh giá toàn diện về thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực
hiện công tác kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Tĩnh từ khi có BLTTHS năm
2003, rút ra những hạn chế, tồn tại và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và
Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm hình sự: khái
niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự.
6
Hai là, phân tích sâu sắc các quy định của BLTTHS năm 2003 về
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát.
Ba là, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự ở Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian từ năm 2003 đến
2010, từ đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế về công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế xét xử ở Hà
Tĩnh hiện nay.
Bốn là, đề xuất các giải pháp, kiến nghị khả thi nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND trong
thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu
* Về đối tượng nghiên cứu: Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát các cấp.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý
luận và thực tiễn trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm
sát hai cấp ở tỉnh Hà Tĩnh.
* Về thời gian nghiên cứu: Luận văn xác định nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ 2003 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối,
quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương
pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, v.v..
6. Những đóng góp mới
- Luận văn hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
7
- Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác kháng
nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, những mặt được và
chưa được, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất một số giải
pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng
nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát hai cấp
ở Hà Tĩnh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh
Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Hà Tĩnh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
Tố tụng hình sự là một trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
cũng như các cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội
được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
nhà nước, tổ chức, đòi hỏi quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải diễn ra
qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi
hành án. Mỗi một giai đoạn tố tụng hình sự gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
của một cơ quan tiến hành tố tụng, tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau.
Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự, BLTTHS còn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các
quy định của BLTTHS, bởi lẽ mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp
9
dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ
quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự
công minh của pháp luật. VKSND là một trong những cơ quan tư pháp tiến
hành các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản
án, quyết định được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
VKSND bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh,
thống nhất theo quy định của pháp luật.
Nghiên cứu lịch sử các cơ quan tư pháp ở nước ta cho thấy, cùng với
Tòa án các cấp, cơ quan công tố cũng dần dần được hình thành
trong bộ máy nhà nước để cùng với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác đấu tranh chống các hành vi tội phạm, nhằm
bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân
dân cũng như lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh số 13/SL
ngày 24-01-1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17-4-1946 và Sắc lệnh
số 131/SL ngày 20-7-1946, hệ thống cơ quan công tố nằm trong
cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà
án được tổ chức ở cả ba cấp: Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện),
Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành phố) và Toà thượng thẩm (ở
Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Ở Toà án sơ cấp, Thẩm phán làm
cả việc xét xử và công tố. Ở Toà án đệ nhị cấp, Thẩm phán được
chia ra làm hai chức vị: Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội
(Công tố Viện). Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do ông
Chưởng lý đứng đầu, gồm các công chức làm công tác công tố
chuyên trách Công tố viện hoạt động dưới sự quản lý, chỉ đạo,
điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhưng Bộ trưởng Bộ Tư
10
pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công tố. Các công
tố viện có thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều tra hình sự), thực
hành quyền công tố, điều khiển công việc và giám sát công tác
điều tra của tư pháp cảnh sát [14, 15].
Về sau, trên cơ sở Nghị quyết ngày 29-4-1958 của Quốc hội
khoá I (kỳ họp thứ 8) và các Nghị định số 256/TTg ngày 01-7-
1959, Nghị định số 321/TTg ngày 02-7-1959 của Chính phủ,
Viện Công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc
lập được thành lập tách khỏi Toà án [14, 16].
Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, và Luật Tổ chức
VKSND năm 1960, hệ thống VKSND được thành lập, đặt dưới
sự giám sát trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà
nước là Quốc hội, VKSND ngoài chức năng công tố còn thực
hiện chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Kể
từ khi Viện công tố được thành lập tách khỏi Chính phủ và sau
này VKSND được thành lập cho đến nay, trên thực tế hệ thống
cơ quan VKSND luôn luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành
của nhánh quyền lực tư pháp [14, 16].
Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy
định về tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng chức năng công tố tiếp tục
giao cho VKSND đảm nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND có hai chức
năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên
chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp” [2, 5]. Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược
11
cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28-7-2010 Ban chấp hành Trung ương
đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động
của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban chấp hành
Trung ương đã khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay” [5, 3]. Như vậy, chức năng và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát không thay đổi và vẫn giữ nguyên như quy định
tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung và Điều 1 Luật Tổ chức
VKSND.
Kết luận số 79-KL/TW cũng định hướng: Tổ chức hệ thống
VKSND thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án
nhân dân. Giữ cụm từ “nhân dân” trong tên gọi của Viện kiểm
sát. Cụ thể là: VKSND khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp
tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân
sơ thẩm khu vực), được thành lập trên cơ sở một hoặc một số
Viện kiểm sát cấp huyện trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa
án sơ thẩm khu vực [5, 3]
Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khu vực, trước mắt, cần xác
định như Viện kiểm sát cấp huyện hiện nay. Căn cứ vào tình hình cụ thể trong
quá trình xây dựng, phát triển các cơ quan tư pháp cũng như tình hình phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước, dần dần có thể tăng thẩm quyền cho Viện
kiểm sát khu vực theo một lộ trình cụ thể, hợp lý.
VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức tương
đương với Tòa án phúc thẩm (cấp tỉnh), thành lập chủ yếu trên cơ sở VKSND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa
án phúc thẩm. Viện kiểm sát tỉnh có chức năng thực hành quyền công tố,
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án hình sự, vụ án
12
hành chính, các vụ việc dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật
do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Tòa án phúc thẩm thụ lý, giải quyết.
VKSND cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng
và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân cấp cao), được tổ chức theo khu vực
tương đương với các Tòa thượng thẩm. Viện kiểm sát cấp cao chỉ có chức
năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm.
VKSNDTC được tổ chức tương đương với Toà án nhân dân tối cao
(TANDTC). Về cơ bản, VKSNDTC có chức năng, nhiệm vụ như hiện nay,
trừ thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm.
Các Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động
điều tra. Như vậy, hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát không chỉ phải phù hợp
với hệ thống tổ chức 4 cấp của Tòa án mà còn phải phù hợp với hệ thống tổ
chức của Cơ quan điều tra. Số lượng Viện kiểm sát khu vực không những
phải tương đương với số lượng Tòa án sơ thẩm khu vực trên địa hạt tư pháp
mà còn phải cân nhắc cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra,
bảo đảm khả năng tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn kết chặt
chẽ, liên tục hoạt động công tố với hoạt động điều tra.
Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát chính
là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định khởi
tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kiểm sát các
hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, thực hiện nhiệm
vụ giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao
nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án hình sự nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được
13
thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Phạm vi chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự cũng bắt đầu từ
khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành
xong bản án. Với chức năng trên, vai trò của VKSND trong suốt quá trình tố
tụng rất quan trọng, sự xuất hiện của VKSND trong quá trình tố tụng nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời,
đảm bảo cho việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, không làm oan người vô tội đồng thời không để lọt tội phạm và người
phạm tội.
Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hành quyền công tố, bảo vệ quan
điểm truy tố theo cáo trạng, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phải phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, VKSND
còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu việc xét
xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định luật hình sự hoặc tố tụng
hình sự, hoặc sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng
từ khi khởi tố vụ án hình sự đến truy tố, xét xử vì lý do chủ quan hay khách
quan có vi phạm pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát
cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp sử dụng quyền năng pháp lý
đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự
phúc thẩm, đó chính là quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền
năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát thực hiện.
Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là cùng cấp
và cấp trên trực tiếp. Sở dĩ quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực
hiện ở cả hai cấp là để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và bảo đảm
cho mọi vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đều được
14
phát hiện và giải quyết tại cấp xét xử thứ hai, đồng thời đây là một trong
những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” theo
quy định tại Điều 20 BLTTHS.
Hiện nay, BLTTHS hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có
một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì "Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực
tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật" [16, 235]. Nếu hiểu
kháng nghị phúc thẩm hình sự như trên thì chưa phản ánh đúng bản chất của
kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà Nhà nước chỉ
giao cho ngành Kiểm sát, thứ hai việc cho rằng Viện kiểm sát ban hành văn
bản kháng nghị phúc thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Toà
án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật là một quan
niệm rất chung chung, ở đây phải đánh giá là để khắc phục các vi phạm
nghiêm trọng đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.
Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì "Kháng nghị phúc thẩm hình sự
là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có
thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc
kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm,
nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai
lầm trong bản án và quyết định đó". [12, 13]. Quan điểm trên khá rõ, tuy
nhiên tác giả cho rằng Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại
vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu hiệu lực pháp luật
khì khá rườm rà, vì thực chất đây là việc xét xử lại vụ án ở cấp xét xử thứ hai,
ngoài ra việc dùng từ xét lại bản án, quyết định gây hiểu nhầm như việc xét
lại bản án ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
15
Do vậy, để có quan niệm thống nhất về khái niệm kháng nghị phúc
thẩm hình sự, cần phải làm sáng tỏ khái niệm “Kháng nghị” và “Phúc thẩm”.
Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “Kháng nghị” được hiểu là
sự bày tỏ bằng văn bản chính thức ý kiến chống đối [18, 474];
còn “Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do
cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [18, 763].
“Kháng nghị” là quyền mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát
và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm
ngưng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết
định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm nhằm cho vụ án được xét xử chính xác,
khách quan, đúng pháp luật [34, 404]. “Phúc thẩm” là việc Toà
án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị
nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết
định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Toà án sơ thẩm,
bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 204 BLTTHS).
Bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi tuyên [34, 378].
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện ở Viện kiểm sát
cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát này. Trong pháp luật Tố tụng
hình sự Việt Nam, ngay từ những văn bản pháp lý đầu tiên khi Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, quyền kháng nghị của VKSND được quy định
tại Điều thứ 34 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 của Chủ tịch
nước “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện lý có quyền chống án lên Tòa thượng
thẩm” [9]. Tại điểm c Điều 1 mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5- 12-1957
16
của Bộ Tư pháp quy định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ tư
pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với bản án hoặc nghị quyết của Tòa án xét
không đúng pháp luật” [6].
Kháng nghị phúc thẩm hình sự được ghi nhận một cách chính thức tại
Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960 “VKSND tối cao và các VKSND địa
phương có quyền: kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của
TAND cùng cấp và dưới một cấp”. Điều 13 luật Tổ chức VKSND năm 1981
quy định: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có
quyền:…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân (TAND) cùng cấp và
dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật” [22].
Qua từng giai đoạn lịch sử, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình
sự được thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn trong
hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát. Chế định kháng nghị
phúc thẩm hình sự được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình
thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam. Khi chưa có BLTTHS năm
1988, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo “Bản
hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số
19/TATC ngày 2- 10-1974 của TANDTC”. Tiếp đến, chế định kháng nghị
phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, chương XXII, tại các Điều
206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của BLTTHS năm 1988. Đến khi có
BLTTHS năm 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, chương
XXIII ở các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237 238, 239.
Có thể khẳng định, kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có Viện kiểm
sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý
mà Nhà nước chỉ trao cho Viện kiểm sát và chỉ có Viện kiểm sát mới có
quyền này.
17
BLTTHS quy định về các giai đoạn tố tụng hình sự đó là điều tra, truy
tố, xét xử, trong đó xét xử tại phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất. Việc Tòa
án ra một bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu phạm tội thì
phạm tội gì, theo quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự (BLHS), áp
dụng hình phạt hay không và hình phạt gì, mặc khác phán quyết của Tòa án
quyết định sinh mạng chính trị của một con người cụ thể nên nó có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng. Đồng thời, Tòa án quyết định các biện pháp tư pháp đối
với bị cáo cũng như yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
hoặc kiến nghị với cơ quan, tổ chức xã hội sửa chữa những thiếu sót trong
quản lý kinh tế, quản lý con người nếu có căn cứ.v.v..
BLTTHS năm 2003 quy định nguyên tắc đối với hoạt động xét xử của
Tòa án, đó là nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử: cấp sơ thẩm và cấp
phúc thẩm. Theo Điều 230 BLTTHS năm 2003 thì “xét xử phúc thẩm là việc
Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà
bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo hoặc kháng nghị” [8, 170]. Xét xử phúc thẩm là việc xét xử ở cấp
thứ hai. Tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án, có như vậy mới
đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử.
Xét xử phúc thẩm có hai nhiệm vụ: xét xử lại vụ án về mặt nội dung;
kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật cả về nội dung và hình thức. Theo quy định trên, ngoài
kháng nghị phúc thẩm thì kháng cáo cũng là một căn cứ để mở ra trình tự xét
xử phúc thẩm hình sự. Chỉ có thể kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm đối
với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi bản án hoặc quyết
định đó chưa có hiệu lực pháp luật, không đảm bảo tính hợp pháp và tính có
căn cứ. Mặc dù giữa kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và kháng cáo
có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có sự khác nhau cơ bản là: kháng cáo chỉ
18
là sự nhân danh cá nhân, tổ chức, cơ quan (tổ chức, cơ quan với tư cách là
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự) để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Do vậy, khác với kháng nghị, những người có quyền kháng cáo có thể thực
hiện quyền này khi không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, còn đối
với kháng nghị thì chỉ có thể thực hiện khi bản án, quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung và về áp dụng pháp
luật thì VKSND mới được thực hiện quyền kháng nghị. Viện kiểm sát thực
hiện quyền kháng nghị phúc thẩm nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại cũng như quyền
lợi của các đương sự trong vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hiện kháng nghị
phúc thẩm bằng một văn bản pháp lý trong đó nêu rõ lý do của việc kháng
nghị (khoản 2 Điều 233 BLTTHS năm 2003), đồng thời yêu cầu Toà án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật, nhằm sửa chữa khắc phục các sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm
khi ra các bản án hoặc quyết định đó. Khi thực hiện quyền kháng nghị phúc
thẩm, Viện kiểm sát phải tuân theo những quy định của pháp luật về chế định
này, không được kháng nghị tùy tiện, tràn lan theo ý chí của Kiểm sát viên.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm
2002 thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án để xét xử. Đồng thời VKSND cũng thực hiện chức năng kiểm
sát các hoạt động điều tra, xét xử nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại
vụ án. Viện kiểm sát vừa bảo vệ quan điểm truy tố của mình vừa bảo đảm cho
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng
19
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô
tội. Như vậy kháng nghị phúc thẩm là một trong những quyền năng pháp lý
quan trọng, thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng là
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây vừa là
quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 cũng
như các văn bản pháp lý khác chưa có một khái niệm thống nhất về khái niệm
kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính
trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới” xác định: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách
quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi
ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có
sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [1, 3].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định mục
tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân
dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao [2, 2].
Như vậy, TAND là cơ qụan xét xử có tính độc lập, nhưng để cho hoạt
động xét xử đạt hiệu quả cao, bảo đảm việc ra một bản án đúng người, đúng
20
tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, thì
hoạt động xét xử phải được đặt dưới sự giám sát của một cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền, đó chính là Viện kiểm sát. Khi kiểm sát xét xử mà phát hiện
bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị
phúc thẩm hình sự để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án.
VKSND là cơ qụan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội ra trước
Tòa án để xét xử. Đồng thời Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử nhằm đảm bảo cho việc truy tố, điều tra, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung, về áp dụng pháp luật
thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự để yêu cầu
Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra một số đặc điểm của kháng
nghị phúc thẩm hình sự của VKSND, đó là:
* Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà
Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát.
Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự: đó là Viện kiểm sát
cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã tuyên bản án,
quyết định sơ thẩm. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự, VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án
và quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân chưa có hiệu lực pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của VKSND và chỉ
Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm, trong tất cả các văn bản
pháp lý sơ khai nhất cho đến BLTTHS đều quy định: Quyền kháng nghị phúc
thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt duy nhất chỉ có ở Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc áp dụng pháp luật của tất
21
cả các chủ thể trong hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. TAND là cơ quan
xét xử có tính độc lập, nhưng hoạt động xét xử của Tòa án chỉ có thể đạt hiệu
quả cao và không có những vi phạm nghiêm trọng khi đặt dưới sự giám sát
của VKSND. Để đảm bảo cho việc quyết định truy tố của mình, cũng như
đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ
thẩm có vi phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm để yêu
cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án.
BLTTHS quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cùng với
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, công tác
xét xử, kiểm sát hoạt động xét xử trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm
hình sự được đặc biệt quan tâm.
* Kháng nghị phúc thẩm hình sự là công cụ đặc biệt và là một trong
những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà
án nhân dân.
VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng
kiểm sát xét xử, nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp
luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp
trên xét xử lại vụ án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát bảo vệ
quyền truy tố của mình đồng thời bảo đảm cho Tòa án ra một bản án chính
xác, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây là một trong
những quyền năng pháp lý mà thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực
hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND.
22
Kháng nghị phúc thẩm thể hiện rõ nhất quyền năng của Viện kiểm sát
trong thực hiện các chức năng của mình. Quyền công tố là quyền nhà nước
giao cho ngành kiểm sát để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm thu thập đầy đủ tài
liệu, chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó để truy tố
bị can ra trước Tòa và bảo vệ việc buộc tội đó trước phiên tòa. Theo quy định
của pháp luật hiện hành thì quyền công tố gắn liền với hoạt động điều tra và
hoạt động xét xử cho nên quyền công tố chỉ được thực hiện bởi một cơ quan
duy nhất đó là Viện kiểm sát. Trong giai đoạn xét xử, khi phát hiện bản án,
quyết định sơ thẩm có vi phạm thì Viện kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm
kháng nghị để xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm ở Tòa án cấp trên trực
tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Thực hiện tốt việc kháng nghị phúc thẩm
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát và làm tốt chức năng thực
hành quyền công tố nhà nước theo quy định của pháp luật. Như vậy, kháng
nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát không chỉ được thực hiện thông
qua hoạt động thực hành quyền công tố mà còn thông qua hoạt động kiểm sát
của Viện kiểm sát trước, trong và sau phiên toà hình sự.
*Hệ quả của của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, nhưng không có nghĩa
mọi vụ án đều phải qua hai cấp xét xử, mà vụ án chỉ được tiến
hành xét xử phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản
án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Khi có kháng nghị
phúc thẩm Tòa án cấp trên phải mở phiên tòa phúc thẩm [14, 26].
Như vậy, đối tượng của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự là bản án
hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do phát hiện có vi phạm.
Còn mục đích của việc kháng nghị phúc thẩm là nhằm khắc phục những vi
phạm của bản án, quyết định của Tòa án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm,
23
Viện kiểm sát bảo đảm cho mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát chỉ thực hiện
quyền kháng nghị phúc thẩm khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật có vi phạm trong tố tụng, đánh giá chứng cứ hoặc áp
dụng pháp luật. Khi kháng nghị phúc thẩm Viện kiểm sát bắt buộc phải chỉ ra
được lý do của việc kháng nghị và vi phạm của Tòa án trong bản án, quyết
định sơ thẩm là gì. Đó chính là bản chất của kháng nghị phúc thẩm.
Theo quy định của BLTTHS thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm
sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm. Khi Viện kiểm sát kháng
nghị phúc thẩm thì buộc Tòa án cấp trên trực tiếp phải mở phiên tòa xét xử lại
vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Hậu quả pháp lý của việc kháng nghị phúc
thẩm hình sự là những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi
hành (trừ một số trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật tố
tụng hình sự: trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp sơ thẩm
quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho
hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm
giam thì bản án hoặc quyết định của Toà án được thi hành ngay, mặc dù vẫn
có thể bị kháng cáo, kháng nghị). Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là
không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản
án sơ thẩm, hủy bản án để điều tra, xét xử lại hoặc hủy án và đình chỉ vụ án.
Tãm l¹i, trªn c¬ së tæng kÕt, tiÕp thu nh÷ng quan ®iÓm cña c¸c nhà
khoa học luật tố tụng hình sự vÒ kh¸i niÖm kháng nghị phúc thẩm vụ án hình
sự vµ ph©n tÝch néi dung, ®Æc ®iÓm ®Æc tr-ng còng nh- môc ®Ých cña kháng
nghị phúc thẩm vụ án hình sự, cã thÓ ®-a ra kh¸i niÖm khoa häc vÒ kháng
24
nghị phúc thẩm vụ án hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là
quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát các cấp
thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và
yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua
việc kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố,
đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các
bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật.
1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức VKSND năm
2002, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là
việc Viện kiểm sát sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo
phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt
người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp tức là giám
sát mọi hoạt động của cơ quan Toà án, giám sát tính hợp pháp và tính có căn
cứ của các bản án, quyết định của Toà án nhằm đảm bảo cho việc xét xử được
tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử,
nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật thì Viện kiểm
sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án xét xử lại vụ án. Thông
qua quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm
truy tố, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời nhằm đảm bảo cho Tòa án ra một bản án
chính xác, có căn cứ. Bằng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện
kiểm sát thực hiện chức năng mà Nhà nước đã giao cho ngành kiểm sát là yêu
25
cầu Toà án phải đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm, góp phần nâng
cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo cho việc Toà án ra một bản
án dân chủ, khách quan, đúng pháp luật, đồng thời tăng cường hiệu quả giáo
dục, nâng cao ý thức pháp luật, cũng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng
nhân dân và chủ động tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm một cách có
hiệu quả.
Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự không chỉ có
vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử mà kháng nghị phúc
thẩm hình sự còn là công cụ hữu hiệu để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong hoạt động xét xử của Toà án. Vì pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ
đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ
chức chính trị xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách
nghiêm chỉnh, triệt để, bảo đảm tính thống nhất. Điều đó đòi hỏi việc tổ chức
và hoạt động của Bộ máy nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định
của pháp luật, mọi công dân phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật
khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời mọi vi phạm pháp luật
đều phải được xử lý nghiêm minh. Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi Bộ máy nhà nước, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội
và mọi công dân phải thực hiện một cách thống nhất, vì vậy bảo đảm tính
thống nhất của pháp chế là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ đối
với mọi công dân và thực hiện quyền lực nhà nước. Viện kiểm sát thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của ngành, thực hiện quyền kháng nghị nói chung và
quyền kháng nghị phúc thẩm nói riêng đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt
động xét xử của Tòa án cũng như hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp
phải tuân thủ pháp luật một cách triệt để, đảm bảo cho mọi vi phạm đều bị
phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị, Viện
26
kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, nhằm đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm
pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh. Đồng thời, đảm bảo cho hoạt động xét
xử của Tòa án được công bằng, việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm
vi cả nước.
Như vậy thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò
rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử.
1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng
nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
* Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự
Theo Điều 232 BLTTHS và kể cả trước và sau khi có BLTTHS năm
2003 đều quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm” [8, 171].
Việc quy định quyền kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nhằm
khắc phục ngay những hạn chế của Viện kiểm sát cấp dưới như: không phát
hiện được vi phạm trong bản án, quyết định hoặc phát hiện được nhưng lại hết
thời hạn kháng nghị hoặc do Viện kiểm sát cấp dưới đồng tình với quan điểm
xét xử của Toà án cùng cấp nên không kháng nghị.
Theo Điều 36 BLTTHS năm 2003, người có thẩm quyền quyết định
việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát các
cấp. Điều 32 Quy chế 960/2007/QĐ-VKSNDTC về công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định:
1. Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện.
2. Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định
27
sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh và Toà án
cấp huyện.
3. Viện trưởng VKSNDTC ủy quyền cho Viện trưởng, Phó Viện
trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc
thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
tỉnh [37, 13].
Tuy nhiên, hiện nay còn tồn tại 2 luồng quan điểm khác nhau về thẩm
quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng: chỉ nên
quy định Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự mà
không giao cho Phó Viện trưởng nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát.
Quan điểm thứ hai cho rằng cần phải giao thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm
cho cả Kiểm sát viên, bởi họ là người trực tiếp nghiên cứu hồ sơ và phát hiện
vi phạm. Thực tế cho thấy, cả hai quan điểm này chưa thực sự phù hợp. Nếu
chỉ giao thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm cho Viện trưởng thì Viện trưởng
vừa thực hiện thẩm quyền tố tụng theo quy định pháp luật, vừa là người quản
lý hành chính về mặt nhà nước trong cơ quan Viện kiểm sát các cấp. Vì phải
quản lý nhiều mặt trong cơ quan VKSND các cấp nên sẽ dẫn đến việc không
đảm bảo thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Nếu giao thẩm quyền kháng nghị
cho cả Kiểm sát viên thì vụ án nếu chưa được nghiên cứu, bàn bạc kỹ lưỡng,
dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan theo ý chí chủ quan của Kiểm sát viên,
do vậy tỷ lệ Toà án bác kháng nghị của Viện kiểm sát sẽ tăng cao. Do vậy
việc quy định thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm như quy định tại Điều 36
BLTTHS năm 2003, Điều 32 Quy chế 960/2007/QĐ-VKSNDTC về công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự hiện nay
là phù hợp.
28
* Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự:
BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự
đối với bản án và quyết định sơ thẩm là khác nhau.
Về thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm: tại khoản 1 Điều 234
BLTTHS năm 2003 quy định: “Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng
cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày
kể từ ngày tuyên án” [8, 172]. So với quy định của BLTTHS năm 1988 thời
hạn này không có gì thay đổi, tuy nhiên đây là điểm khác biệt so với quy định
tại Thông tư số 19-TATC ngày 2/10/1974 quy định thời hạn kháng nghị phúc
thẩm hình sự trên một cấp là ba mươi ngày nhưng tính từ ngày nhận được bản
sao bản án. Mục đích của việc sửa đổi, rút ngắn thời hạn kháng nghị phúc
thẩm này là để bảo đảm tính ổn định của bản án. Tuy nhiên trên thực tế cho
thấy việc sao gửi bản án của VKSND cấp dưới cho Viện kiểm sát cấp trên còn
chậm trễ, thậm chí có đơn vị không gửi bản án ảnh hưởng tới hoạt động kiểm
tra bản án của cấp trên, nhiều vi phạm không được phát hiện hoặc khi phát
hiện vi phạm thì không còn thời hạn kháng nghị làm cho công tác kháng nghị
phúc thẩm hình sự không đạt được hiệu quả. Như vậy, trong thời hạn mười
lăm ngày hoặc ba mươi ngày sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát
viên đã tham gia phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên ở VKSND cấp tỉnh được
phân công kiểm tra bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện xem xét có cần phải
kháng nghị bản án hay không. Nếu có căn cứ kháng nghị thì Kiểm sát viên
báo cáo đề xuất với Lãnh đạo Viện về việc kháng nghị phúc thẩm.
Về cách tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn
kháng nghị, BLTTHS năm 2003 chưa có quy định cụ thể. Về vấn đề này, tại
điểm a, tiểu mục 4.1, mục 4 Nghị quyết số 05 ngày 8-12-2005 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC hướng dẫn như sau:
29
Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày
tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày
Toà án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm
sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà hoặc là ngày bản án,
quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị
cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà [30, 5].
Đối với thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời
điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng
của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày
nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc
đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối
cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó [30, 6].
Nghị quyết trên hướng dẫn khá rõ ràng cách tính thời điểm kết thúc của
thời hạn. Tuy nhiên, cách tính thời điểm bắt đầu của thời hạn trong Nghị
quyết chưa đề cập đến đối với trường hợp ngày tuyên án kết thúc vào ngày
thứ sáu, thì ngày thứ bảy, chủ nhật tiếp theo có được tính là thời hạn để kháng
nghị hay không. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự cho thấy quy
định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát còn chưa phù hợp
với thực tế. Tại Điều 229 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị
cáo, Viện kiểm sát cùng cấp...” [8, 169], trong khi đó thời hạn kháng nghị của
Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp là ba mươi ngày cũng kể từ ngày tuyên án. Thực tế có nhiều tỉnh thành
địa bàn rộng, nằm rải rác, đi lại khó khăn thì việc gửi bản án từ Viện kiểm sát
cấp dưới lên Viện kiểm sát cấp trên rất mất thời gian. Mặt khác, việc giao bản
án của Toà án thường không đúng thời hạn đã được quy định tại Điều 229
BLTTHS năm 2003, dẫn đến tình trạng là khi Viện kiểm sát nhận được bản
30
án thì đã hết thời hạn kháng nghị. Chính vì những lý do trên làm cho công tác
kháng nghị của Viện kiểm sát gặp những khó khăn nhất định như khi Viện
kiểm sát thấy có đủ căn cứ để kháng nghị nhưng thời hạn kháng nghị đã hết
nên không kháng nghị. Đây cũng là một vấn đề đặt ra hiện nay khi mà
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định việc xét kháng cáo quá hạn (Điều 235
BLTTHS) chứ không quy định việc xét kháng nghị quá hạn.
Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của TAND: Điều 239
BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị các quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm có một điểm mới so với Điều 231 BLTTHS năm 1988. Trước
đây, BLTTHS năm 1988 quy định chung thời hạn kháng nghị các quyết định
là bảy ngày mà không phân biệt thời hạn của Viện kiểm sát cùng cấp và thời
hạn của Viện kiểm sát trên một cấp. Qua thực tiễn áp dụng, việc quy định như
trên không còn phù hợp, vì vậy thời hạn để Viện kiểm sát kháng nghị các
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đã được sửa đổi tại Điều 239 BLTTHS
năm 2003 như sau: “Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Toà án
cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định” [8, 174].
Về thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng nghị đối với các quyết định
của Toà án cũng giống như quy định đối với bản án, việc quy định thời hạn
bắt đầu kháng nghị kể từ ngày Toà án ra quyết định mà không phải là kể từ
ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định. Như vậy, trong trường hợp Toà án
gửi các quyết định cho Viện kiểm sát mà thời hạn kháng nghị đã hết hoặc gửi
sau thời hạn kháng nghị mà quyết định đó có vi phạm thì giải quyết vấn đề
này như thế nào? Bởi lẽ, BLTTHS năm 2003 không quy định rõ thời hạn Toà
án phải gửi các quyết định cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác
giả cho rằng những quyết định của Toà án đã quá hạn kháng nghị ngang cấp
mà còn thời hạn kháng nghị trên cấp thì Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo
31
ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để tiến hành kháng nghị. Trong
trường hợp thời hạn kháng nghị trên cấp cũng hết thì cần báo cáo Viện kiểm
sát cấp trên kháng nghị giám đốc thẩm, đồng thời Viện kiểm sát cùng cấp
phải có văn bản kiến nghị Chánh án Toà án khắc phục những vi phạm trong
việc gửi các quyết định cho Viện kiểm sát. Để khắc phục tình trạng này, các
Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử vụ án phải tích cực, chủ động kiểm sát các quyết định của Toà án, kịp thời
có biện pháp tác động nhằm sửa chữa, khắc phục những vấn đề nêu trên.
Tương tự như thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ
thẩm, thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với quyết định của Toà án
sơ thẩm hiện nay chưa được giải thích một cách đầy đủ và Điều 239 BLTTHS
năm 2003 cũng chưa quy định cụ thể cách tính thời điểm bắt đầu cũng như kết
thúc của thời hạn kháng nghị. Do vậy, cũng cần có hướng dẫn cụ thể, thống
nhất để tránh những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự
BLTTHS năm 2003 quy định khá cụ thể những căn cứ kháng nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng về căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các
bản án, quyết định của tòa án sơ thẩm thì trong các BLTTHS đều không quy
định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm hình sự.
Tuy nhiên, những căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm lại được
quy định tại Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử hình sự năm 1996, 2004, 2007.
Tại Điều 32 Quy chế công tác kiểm sát xét xử năm 1996 quy
định căn cứ kháng nghị phúc thẩm bản án hoặc quyết định sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị phúc thẩm khi có
một trong các căn cứ sau:
32
- Có những tình tiết qua cuộc điều tra và xét hỏi tại phiên toà
không đầy đủ, chưa rõ ràng;
- Kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án;
- Có những vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS;
- Có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự.
Quy chế trên chưa quy định cụ thể vi phạm nghiêm trọng là vi
phạm như thế nào nên trong thực tế có nhiều bản án và quyết
định có vi phạm nhưng nhiều Viện kiểm sát không xác định được
thế nào là vi phạm nghiêm trọng nên không kháng nghị. Do vậy,
tại Điều 33 Quy chế tạm thời về kiểm sát xét xử năm 2004 đã
xác định căn cứ kháng nghị phúc thẩm như sau:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ;
- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không
phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;
- Có những vi phạm trong việc áp dụng BLHS;
- Có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm.
Sau thời gian thực hiện cho thấy quy định trên chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn. Vì vậy, tại Điều 33 Quy chế 960/2007/QĐ-
VKSTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm hình
sự chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
- Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ;
- Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không
phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;
33
- Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS;
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc
có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng [14, 28-29].
Như vậy, việc VKSNDTC có hướng dẫn về căn cứ để kháng nghị phúc
thẩm như trên là cần thiết, phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi giúp
Viện kiểm sát các cấp có nhận thức thống nhất để xem xét, quyết định việc
kháng nghị hay không kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định
sơ thẩm có vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay những căn cứ để kháng nghị phúc
thẩm hình sự không được quy định trong BLTTHS hoặc Thông tư liên ngành
hay văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTHS mà đó mới chỉ là quy định đơn
phương của ngành kiểm sát nên trong thực tế xét xử có khá nhiều trường hợp
chưa có cách hiểu thống nhất giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc nhận
xét, đánh giá vi phạm của Tòa án sơ thẩm trong việc ra các bản án và quyết
định sơ thẩm, dẫn đến nhiều trường hợp Viện kiểm sát thì xác định bản án,
quyết định sơ thẩm có vi phạm và quyết định kháng nghị nhưng Tòa án lại
cho rằng bản án không vi phạm hoặc vi phạm ở mức độ không lớn, chấp nhận
được nên bác kháng nghị của Viện kiểm sát. Vì vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho
công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát, BLTTHS năm
2003 cần quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự như đối
với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự
Cũng giống như hậu quả của việc kháng cáo, theo quy định của
BLTTHS thì hậu quả của việc kháng nghị là những phần của bản án bị kháng
nghị thì chưa được đưa ra thi hành; đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị
kháng nghị toàn bộ thì toàn bộ bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực
pháp luật và không được đưa ra thi hành, trừ các trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 255 BLTTHS năm 2003 là:
34
Bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình
chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù
nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn
hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án
được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị [8, 185].
Về phạm vi xét xử phúc thẩm thì về nguyên tắc, Toà án cấp phúc thẩm
chỉ xem xét theo nội dung kháng nghị. Nếu kháng nghị đối với toàn bộ bản án
thì Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án; nếu kháng nghị đối với
một phần bản án thì Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại phần bị kháng nghị.
Đối với các phần khác không bị kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem
xét lại nếu thấy cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (họ không có
kháng cáo, không bị kháng cáo hoặc kháng nghị).
Theo quy định tại khoản 2 Điều 248 BLTTHS năm 2003, khi xét xử
phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền ra các quyết định: “a. Không
chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; b. Sửa bản
án sơ thẩm; c. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc
xét xử lại; d. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” [8, 179].
* Trường hợp không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên
bản án sơ thẩm: là khi Toà án cấp phúc thẩm xét thấy bản án sơ thẩm đã phù
hợp với thực tế khách quan của vụ án, phù hợp tính chất, mức độ hành vi của tội
phạm, hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là nghiêm minh, không vi phạm các
quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan.
*Trường hợp sửa bản án sơ thẩm: bản án sơ thẩm có thể bị sửa theo
hướng giảm nhẹ có lợi cho bị cáo hoặc sửa theo hướng tăng nặng không có
lợi cho bị cáo. Điều 249 BLTTHS năm 2003 quy định Toà án cấp phúc thẩm
có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: “a. Miễn trách nhiệm hình sự hoặc
35
miễn hình phạt cho bị cáo; b. Áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn; c.
Giảm hình phạt cho bị cáo; d. Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết
định xử lý vật chứng; đ. Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo” [8, 179-180]. Việc sửa theo
hướng giảm nhẹ cho bị cáo không chỉ thực hiện khi có kháng nghị theo hướng
giảm nhẹ cho bị cáo mà ngay cả khi có kháng nghị theo hướng tăng nặng
trách nhiệm hình sự cho bị cáo nhưng Toà án cấp phúc thẩm xét thấy có căn
cứ để sửa bản án theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Ngoài ra, “nếu có căn cứ, Toà án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt
hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả
những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị” [8, 180].
Khi xét xử phúc thẩm, nếu chỉ có kháng nghị theo hướng có lợi cho bị
cáo thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có thể y án hoặc sửa bản án theo hướng có
lợi cho bị cáo chứ không được tăng nặng hoặc huỷ án sơ thẩm để xét xử sơ
thẩm lại theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Nếu thấy bản án sơ
thẩm xử quá nhẹ đối với bị cáo thì Toà án cấp phúc thẩm y án sơ thẩm và báo
cáo, chuyển hồ sơ lên Toà án để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
Đối với việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng không có lợi
cho bị cáo thì tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong
trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì
Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội
nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại” [8, 180]. Toà án cấp phúc thẩm chỉ
có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng cho bị cáo khi có kháng nghị
theo hướng này. Nếu chỉ có kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo thì
trong mọi trường hợp Toà án cấp phúc thẩm không được sửa bản án theo
hướng tăng nặng. Tuy nhiên, “nếu có căn cứ, Toà án vẫn có thể giảm hình
36
phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm
mức bồi thường thiệt hại” [8, 180].
Về việc sửa quyết định xử lý vật chứng: khi xét xử phúc thẩm, dù có
hay không có kháng nghị về quyết định xử lý vật chứng, nếu thấy quyết định
xử lý vật chứng của Tòa án cấp sơ thẩm không phù hợp với thực tế khách
quan của vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định xử lý lại cho
phù hợp như trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, tịch thu sung công quỹ nhà
nước...
*Trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại: Điều
250 BLTTHS năm 2003 quy định: “Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ
thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ
mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” [8, 180-181]. Nếu việc điều tra ở
cấp sơ thẩm không đầy đủ nhưng ở cấp phúc thẩm có thể bổ sung được thì
Toà án cấp phúc thẩm không được huỷ bản án sơ thẩm mà yêu cầu Viện kiểm
sát cùng cấp tiến hành điều tra bổ sung hoặc tự mình thu thập tài liệu cần
thiết. Toà án cấp phúc thẩm có quyền huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp
sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau
đây: “a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có
vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng; b. Người được Toà án cấp sơ
thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội”
[8, 181]. Khi huỷ án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc
thẩm phải ghi rõ lý do của việc huỷ án sơ thẩm và việc giải quyết vụ án được
tiến hành từ giai đoạn nào, giai đoạn điều tra hay xét xử sơ thẩm. Việc điều
tra lại hoặc xét xử lại được tiến hành theo thủ tục chung.
Trong trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà
thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị
37
cáo là cần thiết, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm
giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ
án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày huỷ án sơ thẩm, hồ sơ vụ án
phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết
theo thủ tục chung. Sau khi Cơ quan điều tra hoặc Toà án cấp sơ thẩm nhận
được hồ sơ của Toà án cấp phúc thẩm, thì phải xem xét và quyết định ngay
việc áp dụng, thay đổi, hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo (vì
Toà án cấp phúc thẩm chỉ ra lệnh tạm giam cho đến khi cơ quan điều tra hoặc
Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án).
*Trường hợp huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án: Điều 251
BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi có một trong những căn cứ quy định tại
điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản
án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong
những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này
thì huỷ án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” [8, 182]. Điều 107 BLTTHS năm 2003
quy định những căn cứ không được khởi tố vụ án, bởi vậy, khi có một trong
những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 thì các cơ quan có
thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Nếu vì một lý do nào
đó mà vụ án đã được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, sau đó có kháng nghị
phúc thẩm thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền ra quyết định huỷ án sơ thẩm
và đình chỉ vụ án. Đối với những trường hợp phát hiện có căn cứ quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 107 BLTTHS năm 2003, ngoài việc huỷ bản án sơ
thẩm phải tuyên bố bị cáo không phạm tội.
1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình sự
Điều 238 BLTTHS năm 2003 quy định về trình tự, thủ tục thay đổi, bổ
sung, rút kháng nghị có tác dụng tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nghiên cứu,
cân nhắc để có được bản kháng nghị đúng pháp luật, có chất lượng. Vì vậy,
38
mặc dù Viện kiểm sát đã kháng nghị và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm, nhưng
trong thời gian chờ mở phiên tòa phúc thẩm là 60 ngày hoặc 90 ngày tương
ứng với cấp phúc thẩm tại Tòa án cấp tỉnh, cấp phúc thẩm TANDTC, và ngay
tại phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có quyền xem xét lại kháng nghị
của mình. Việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị trước phiên toà phúc
thẩm có thể do Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp
phúc thẩm thực hiện. Nhưng việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị tại
phiên toà phúc thẩm thì do Kiểm sát viên tham gia phiên toà quyết định.
* Đối với việc bổ sung, thay đổi kháng nghị thì cần phải phân biệt rõ
các trường hợp sau:
Nếu việc bổ sung, thay đổi kháng nghị đối với một phần hoặc toàn bộ
bản án được thực hiện trong thời hạn kháng nghị thì theo nguyên tắc có thể bổ
sung, thay đổi kháng nghị theo cả hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo;
kể cả trường hợp Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ bản kháng nghị
nhưng sau đó lại tiếp tục kháng nghị lại thì vẫn được chấp nhận để xét xử
phúc thẩm. Như vậy trong thời hạn kháng nghị thì Viện kiểm sát có quyền bổ
sung, thay đổi kháng nghị theo bất kỳ hướng nào.
Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị, thì trước khi bắt đầu
hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng
nghị nhưng chỉ theo hướng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Bởi vì nếu
thay đổi, bổ sung theo hướng không có lợi cho bị cáo trong trường hợp thời
hạn kháng nghị đã hết thì bị cáo không thể thực hiện quyền bào chữa của
mình vì không được thông báo trước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tiễn xét
xử thì việc bổ sung, thay đổi kháng nghị khi bắt đầu hoặc tại phiên toà phúc
thẩm chỉ theo hướng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo như quy định tại
Điều 238 BLTTHS hiện nay còn nhiều bất cập. Vì việc rút kháng nghị của
Viện kiểm sát không chỉ trên cơ sở quyền lợi của bị cáo mà còn phải cân nhắc
39
đảm bảo quyền lợi của những người tham gia tố tụng khác, quyền và lợi ích
của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội nói chung.
* Đối với trường hợp rút kháng nghị:
Đối với việc rút kháng nghị, theo quy định của Thông tư số 19-TATC
ngày 2/10/1974 của TANDTC, khi phiên tòa phúc thẩm đã mở, việc rút kháng
nghị vẫn có thể đề ra nhưng chấp nhận hay không là do Tòa án xét và quyết
định. Đây là một quy định chưa hợp lý, bởi Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất
có quyền truy tố hay không truy tố một người ra trước Tòa án để xét xử, khi
Viện kiểm sát rút kháng nghị trong bất kỳ trường hợp nào thì Tòa án phải
đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Đây là một quyền năng đặc biệt của ngành
kiểm sát, với quy định tại Thông tư này như trên mặc nhiên đã hạn chế quyền
rút kháng nghị của Viện kiểm sát. Chính vì sự bất cập này nên quy định trên
đã được sửa đổi trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003, tức là khi
Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án căn cứ quyết định rút kháng nghị để
đình chỉ việc xét xử phúc thẩm.
Theo quy định của BLTTHS thì chỉ khi bản án sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở
phiên tòa phúc thẩm để xem xét lại nội dung kháng cáo, kháng nghị. Vì thế
khi Viện kiểm sát rút toàn bộ nội dung kháng nghị thì việc xét xử phải được
đình chỉ. Nếu như việc rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa thì thẩm phán
chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm, nếu việc rút
kháng nghị được thực hiện tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
quyết định đình chỉ xét xử.
Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC tại Nghị quyết
05/2005/NQ-HĐTP ngày 8-12-2005 thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật
từ khi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết đình chỉ xét
40
xử phúc thẩm. Hướng dẫn như vậy là đúng nhưng chưa thật đầy đủ và chính
xác. Nó chỉ đúng khi việc ra quyết định của thẩm phán trong thời điểm mà
thời hạn kháng nghị đã hết. Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù Viện kiểm sát đã
rút một phần hay toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa phúc thẩm
nhưng thời hạn kháng nghị vẫn còn, do vậy Viện kiểm sát vẫn có thể tiếp tục
kháng nghị lại. Vì thế trong trường hợp này, nếu thẩm phán chủ tọa phiên tòa
ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ngay sau khi Viện kiểm sát rút toàn
bộ kháng nghị mà trong khi thời hạn kháng nghị vẫn còn thì bản án chưa thể
có hiệu lực pháp luật, vì vẫn còn nguy cơ tiếp tục bị kháng nghị. Trong trường
hợp này, thẩm phán chủ toạ phiên toà phải chờ hết thời hạn kháng nghị mà
không có kháng nghị tiếp thì mới ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, khi
đó bản án sơ thẩm mới được xem là có hiệu lực pháp luật khi Toà án phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Đối với trường hợp rút một phần kháng nghị trước khi bắt đầu phiên
tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét
phần kháng nghị không được rút, trừ những trường hợp cần thiết có thể xem
xét những phần khác của bản án không bị kháng nghị, kể cả những phần Viện
kiểm sát đã rút kháng nghị. Trường hợp rút kháng nghị trước phiên toà thì
việc rút kháng nghị phải được lập thành văn bản. Trường hợp rút tại phiên toà
thì việc rút kháng nghị được ghi vào biên bản phiên toà.
Tóm lại, chế định về kháng nghị phúc thẩm cũng như thủ tục xét xử
phúc thẩm đã được quy định rất sớm trong các văn bản quy phạm pháp luật
của nhà nước ta ngay từ Sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Đến BLTTHS năm 1988 và hiện nay BLTTHS năm 2003 thì chế
định kháng nghị về phúc thẩm hình sự, thủ tục xét xử phúc thẩm ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện hơn. Quy định của pháp luật về chế định kháng
nghị đã phù hợp, thích nghi với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đây là
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT

More Related Content

What's hot

Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luậtLuận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
Luận văn: Phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật
 
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOTLuận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự theo Luật, HOT
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sựLuận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
Luận văn: Giới hạn xét xử sơ thẩm theo pháp luật Tố tụng hình sự
 
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụngLuận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
Luận văn: Giám đốc thẩm vụ án hình sự theo pháp luật tố tụng
 
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng NaiLuận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
Luận văn: Giải quyết vụ án hành chính tại Tòa án tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAYLuận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
Luận văn: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sựLuận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
Luận văn: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự
 
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOTĐề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
Đề tài: Hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ thẩm, HOT
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAYĐề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOTLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt nam, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
Luận văn: Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo luật
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sựVai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAYLuận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
Luận văn: Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm, HAY
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT

Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...Luận Văn 1800
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT (20)

Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn phí ...
 
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG  HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
ĐỀ TÀI : KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰ...
 
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAYLuận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
Luận án: Chất lượng xét xử các vụ án hành chính của Tòa án, HAY
 
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAYChất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
Chất lượng thực hành quyền công tố của Kiểm sát viên, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Kiểm sát hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụngLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAYLuận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
Luận văn: Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam, HOT, HAY
 
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con ngườiThẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
Thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án xâm phạm tính mạng con người
 
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
Luận văn: Thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại Quận 10
 
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sátQuyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Viện kiểm sát
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đThực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, 9đ
 
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTQuyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu GiangLuận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Thủ tục giải quyết khiếu kiện hành chính tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sựLuận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
Luận văn: Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà NộiLuận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Tranh tụng của luật sư tại phiên tòa hình sự tại Hà Nội
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haingTonH1
 
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfchimloncamsungdinhti
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1mskellyworkmail
 

Recently uploaded (20)

Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp haiBài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
Bài giảng chương 8: Phương trình vi phân cấp một và cấp hai
 
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
Vận dụng thi pháp học vào phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ...
 
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
Hoàn thiện hoạt động kiểm soát rủi ro tín dụng trong cho vay doanh nghiệp tại...
 
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdfTiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
Tiểu luận triết học_Nguyễn Gia Nghi_QHCCCLC_11230120.pdf
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá thực trạng an toàn vệ sinh lao động và rủi ro lao...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
Everybody Up 1 - Unit 5 - worksheet grade 1
 

Luận văn thạc sĩ: Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH NGỌC KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH NGỌC KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2011
  • 3. MỤC LỤC Trang Mở đầu Chương 1. Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 2. Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hình sự có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Chương 3. Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm
  • 4. sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 3.1. Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm về kháng nghị phúc thẩm 3.2.1. Quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.2.2. Quy định cụ thể việc gửi bản sao bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.2.3. Quy định cụ thể việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.3. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới 3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật 3.3.2. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự 3.3.5. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên 3.4. Một số kiến nghị cụ thể Kết luận Danh mục công trình khoa học của tác giả Danh mục tài liệu tham khảo
  • 5. 1 MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh phòng và chống tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội, đồng thời cũng là mục đích của tố tụng hình sự. Viện kiểm sát được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát bảo đảm cho pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành. Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật...” [23, 18]. Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng biệt của Viện kiểm sát. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân”. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Toà án có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
  • 6. 2 Kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một biện pháp để kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật. Trong những năm qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của ngành Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh đã có những chuyển biến nhất định. Chất lượng kháng nghị đã từng bước được nâng lên, nhìn chung đã đảm bảo về hình thức, nội dung có căn cứ pháp lý, tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận được tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Hà tĩnh còn có những bất cập, hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, vai trò của mình, nhiều vụ án Viện kiểm sát cấp trên phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận còn thấp, số lượng kháng nghị phúc thẩm có chiều hướng giảm trong khi số án sơ thẩm phải cải sửa, huỷ án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ không nhỏ, một số đơn vị Viện kiểm sát nhiều năm liền không có kháng nghị phúc thẩm hình sự, v.v.. Những tồn tại, thiếu sót nêu trên có nhiều nguyên nhân, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Một mặt năng lực và trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế, lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự quan tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm chưa cao. Mặt khác BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm, thời hạn kháng nghị trên một cấp còn ngắn, việc sao gửi bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên chưa được quy định, trang thiết bị hỗ trợ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa
  • 7. 3 đáp ứng yêu cầu, v.v.. Những nguyên nhân trên làm cho chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm bị ảnh hưởng không nhỏ. Trong khi đó, chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề này thông qua thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm ở Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh. Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự và thực tiễn của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây, tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự theo tinh thần Chỉ thị 03 ngày 19-6-2008 về “Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao (VKSNDTC), qua đó thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài Kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát đảm bảo cho mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra với công tác đổi mới tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát theo quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trên tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì việc nâng cao chất lượng
  • 8. 4 kháng nghị phúc thẩm hình sự là một vấn đề cần thiết. Vì vậy, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây thông qua việc tổ chức hội thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm, v.v... Chính vì vậy, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được một số tác giả, công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau: - Bình luận khoa học BLTTHS, tác giả PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân năm 2004. - Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật đại học Quốc gia Hà Nội năm 1994. - Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2005. - Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tác giả Dương Thanh Biểu (chủ biên), Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2008. - Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. - Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, tác giả Nguyễn Huy Tiến, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009). - Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự, tác giả Lê Doãn Tiết, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009). - Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chuyên đề của Tạp chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2010). - Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí kiểm sát số 15 (tháng 8/2007), số 17 (tháng 9/2007).
  • 9. 5 - Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tác giả Chu Thị Thanh Tú, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007, v.v.. Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đề cập đến những khía cạnh nhất định hoặc những vấn đề chung nhất. Mỗi bài viết, công trình nghiên cứu chỉ tập trung giải quyết một hoặc vài nội dung cụ thể liên quan đến chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa có bài viết hay công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết dưới góc độ lý luận, thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, lý giải các yếu tố ảnh hưởng, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục và nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát; - Phân tích, đánh giá toàn diện về thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện công tác kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Tĩnh từ khi có BLTTHS năm 2003, rút ra những hạn chế, tồn tại và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm hình sự: khái niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự.
  • 10. 6 Hai là, phân tích sâu sắc các quy định của BLTTHS năm 2003 về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát. Ba là, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian từ năm 2003 đến 2010, từ đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế xét xử ở Hà Tĩnh hiện nay. Bốn là, đề xuất các giải pháp, kiến nghị khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu * Về đối tượng nghiên cứu: Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát các cấp. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp ở tỉnh Hà Tĩnh. * Về thời gian nghiên cứu: Luận văn xác định nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, v.v.. 6. Những đóng góp mới - Luận văn hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
  • 11. 7 - Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, những mặt được và chưa được, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát hai cấp ở Hà Tĩnh nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.
  • 12. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Tố tụng hình sự là một trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước, tổ chức, đòi hỏi quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Mỗi một giai đoạn tố tụng hình sự gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan tiến hành tố tụng, tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, BLTTHS còn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của BLTTHS, bởi lẽ mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp
  • 13. 9 dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. VKSND là một trong những cơ quan tư pháp tiến hành các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án, quyết định được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VKSND bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu lịch sử các cơ quan tư pháp ở nước ta cho thấy, cùng với Tòa án các cấp, cơ quan công tố cũng dần dần được hình thành trong bộ máy nhà nước để cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác đấu tranh chống các hành vi tội phạm, nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân cũng như lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24-01-1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17-4-1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20-7-1946, hệ thống cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà án được tổ chức ở cả ba cấp: Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện), Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành phố) và Toà thượng thẩm (ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Ở Toà án sơ cấp, Thẩm phán làm cả việc xét xử và công tố. Ở Toà án đệ nhị cấp, Thẩm phán được chia ra làm hai chức vị: Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội (Công tố Viện). Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do ông Chưởng lý đứng đầu, gồm các công chức làm công tác công tố chuyên trách Công tố viện hoạt động dưới sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhưng Bộ trưởng Bộ Tư
  • 14. 10 pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công tố. Các công tố viện có thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều tra hình sự), thực hành quyền công tố, điều khiển công việc và giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát [14, 15]. Về sau, trên cơ sở Nghị quyết ngày 29-4-1958 của Quốc hội khoá I (kỳ họp thứ 8) và các Nghị định số 256/TTg ngày 01-7- 1959, Nghị định số 321/TTg ngày 02-7-1959 của Chính phủ, Viện Công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập được thành lập tách khỏi Toà án [14, 16]. Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, và Luật Tổ chức VKSND năm 1960, hệ thống VKSND được thành lập, đặt dưới sự giám sát trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là Quốc hội, VKSND ngoài chức năng công tố còn thực hiện chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Kể từ khi Viện công tố được thành lập tách khỏi Chính phủ và sau này VKSND được thành lập cho đến nay, trên thực tế hệ thống cơ quan VKSND luôn luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành của nhánh quyền lực tư pháp [14, 16]. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng chức năng công tố tiếp tục giao cho VKSND đảm nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND có hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [2, 5]. Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược
  • 15. 11 cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28-7-2010 Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay” [5, 3]. Như vậy, chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát không thay đổi và vẫn giữ nguyên như quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND. Kết luận số 79-KL/TW cũng định hướng: Tổ chức hệ thống VKSND thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án nhân dân. Giữ cụm từ “nhân dân” trong tên gọi của Viện kiểm sát. Cụ thể là: VKSND khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực), được thành lập trên cơ sở một hoặc một số Viện kiểm sát cấp huyện trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa án sơ thẩm khu vực [5, 3] Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khu vực, trước mắt, cần xác định như Viện kiểm sát cấp huyện hiện nay. Căn cứ vào tình hình cụ thể trong quá trình xây dựng, phát triển các cơ quan tư pháp cũng như tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, dần dần có thể tăng thẩm quyền cho Viện kiểm sát khu vực theo một lộ trình cụ thể, hợp lý. VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức tương đương với Tòa án phúc thẩm (cấp tỉnh), thành lập chủ yếu trên cơ sở VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa án phúc thẩm. Viện kiểm sát tỉnh có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án hình sự, vụ án
  • 16. 12 hành chính, các vụ việc dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Tòa án phúc thẩm thụ lý, giải quyết. VKSND cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân cấp cao), được tổ chức theo khu vực tương đương với các Tòa thượng thẩm. Viện kiểm sát cấp cao chỉ có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. VKSNDTC được tổ chức tương đương với Toà án nhân dân tối cao (TANDTC). Về cơ bản, VKSNDTC có chức năng, nhiệm vụ như hiện nay, trừ thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Các Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Như vậy, hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát không chỉ phải phù hợp với hệ thống tổ chức 4 cấp của Tòa án mà còn phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra. Số lượng Viện kiểm sát khu vực không những phải tương đương với số lượng Tòa án sơ thẩm khu vực trên địa hạt tư pháp mà còn phải cân nhắc cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra, bảo đảm khả năng tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn kết chặt chẽ, liên tục hoạt động công tố với hoạt động điều tra. Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, thực hiện nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được
  • 17. 13 thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Phạm vi chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự cũng bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Với chức năng trên, vai trò của VKSND trong suốt quá trình tố tụng rất quan trọng, sự xuất hiện của VKSND trong quá trình tố tụng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời, đảm bảo cho việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội đồng thời không để lọt tội phạm và người phạm tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hành quyền công tố, bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, VKSND còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định luật hình sự hoặc tố tụng hình sự, hoặc sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố vụ án hình sự đến truy tố, xét xử vì lý do chủ quan hay khách quan có vi phạm pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp sử dụng quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó chính là quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát thực hiện. Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Sở dĩ quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và bảo đảm cho mọi vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đều được
  • 18. 14 phát hiện và giải quyết tại cấp xét xử thứ hai, đồng thời đây là một trong những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” theo quy định tại Điều 20 BLTTHS. Hiện nay, BLTTHS hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì "Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật" [16, 235]. Nếu hiểu kháng nghị phúc thẩm hình sự như trên thì chưa phản ánh đúng bản chất của kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát, thứ hai việc cho rằng Viện kiểm sát ban hành văn bản kháng nghị phúc thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật là một quan niệm rất chung chung, ở đây phải đánh giá là để khắc phục các vi phạm nghiêm trọng đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì "Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm, nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai lầm trong bản án và quyết định đó". [12, 13]. Quan điểm trên khá rõ, tuy nhiên tác giả cho rằng Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu hiệu lực pháp luật khì khá rườm rà, vì thực chất đây là việc xét xử lại vụ án ở cấp xét xử thứ hai, ngoài ra việc dùng từ xét lại bản án, quyết định gây hiểu nhầm như việc xét lại bản án ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
  • 19. 15 Do vậy, để có quan niệm thống nhất về khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự, cần phải làm sáng tỏ khái niệm “Kháng nghị” và “Phúc thẩm”. Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “Kháng nghị” được hiểu là sự bày tỏ bằng văn bản chính thức ý kiến chống đối [18, 474]; còn “Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [18, 763]. “Kháng nghị” là quyền mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm ngưng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [34, 404]. “Phúc thẩm” là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Toà án sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 204 BLTTHS). Bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên [34, 378]. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện ở Viện kiểm sát cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát này. Trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, ngay từ những văn bản pháp lý đầu tiên khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, quyền kháng nghị của VKSND được quy định tại Điều thứ 34 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 của Chủ tịch nước “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện lý có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm” [9]. Tại điểm c Điều 1 mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5- 12-1957
  • 20. 16 của Bộ Tư pháp quy định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ tư pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với bản án hoặc nghị quyết của Tòa án xét không đúng pháp luật” [6]. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được ghi nhận một cách chính thức tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960 “VKSND tối cao và các VKSND địa phương có quyền: kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và dưới một cấp”. Điều 13 luật Tổ chức VKSND năm 1981 quy định: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền:…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân (TAND) cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật” [22]. Qua từng giai đoạn lịch sử, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự được thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn trong hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát. Chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam. Khi chưa có BLTTHS năm 1988, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo “Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 2- 10-1974 của TANDTC”. Tiếp đến, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, chương XXII, tại các Điều 206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của BLTTHS năm 1988. Đến khi có BLTTHS năm 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, chương XXIII ở các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237 238, 239. Có thể khẳng định, kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý mà Nhà nước chỉ trao cho Viện kiểm sát và chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền này.
  • 21. 17 BLTTHS quy định về các giai đoạn tố tụng hình sự đó là điều tra, truy tố, xét xử, trong đó xét xử tại phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất. Việc Tòa án ra một bản án khẳng định bị cáo có tội hoặc không có tội, nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật hình sự (BLHS), áp dụng hình phạt hay không và hình phạt gì, mặc khác phán quyết của Tòa án quyết định sinh mạng chính trị của một con người cụ thể nên nó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đồng thời, Tòa án quyết định các biện pháp tư pháp đối với bị cáo cũng như yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc kiến nghị với cơ quan, tổ chức xã hội sửa chữa những thiếu sót trong quản lý kinh tế, quản lý con người nếu có căn cứ.v.v.. BLTTHS năm 2003 quy định nguyên tắc đối với hoạt động xét xử của Tòa án, đó là nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử: cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Theo Điều 230 BLTTHS năm 2003 thì “xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị” [8, 170]. Xét xử phúc thẩm là việc xét xử ở cấp thứ hai. Tính chất của xét xử phúc thẩm là xét xử lại vụ án, có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử. Xét xử phúc thẩm có hai nhiệm vụ: xét xử lại vụ án về mặt nội dung; kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật cả về nội dung và hình thức. Theo quy định trên, ngoài kháng nghị phúc thẩm thì kháng cáo cũng là một căn cứ để mở ra trình tự xét xử phúc thẩm hình sự. Chỉ có thể kháng cáo hoặc kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm khi bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật, không đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ. Mặc dù giữa kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát và kháng cáo có nhiều điểm giống nhau nhưng lại có sự khác nhau cơ bản là: kháng cáo chỉ
  • 22. 18 là sự nhân danh cá nhân, tổ chức, cơ quan (tổ chức, cơ quan với tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự) để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Do vậy, khác với kháng nghị, những người có quyền kháng cáo có thể thực hiện quyền này khi không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, còn đối với kháng nghị thì chỉ có thể thực hiện khi bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung và về áp dụng pháp luật thì VKSND mới được thực hiện quyền kháng nghị. Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại cũng như quyền lợi của các đương sự trong vụ án hình sự. Viện kiểm sát thực hiện kháng nghị phúc thẩm bằng một văn bản pháp lý trong đó nêu rõ lý do của việc kháng nghị (khoản 2 Điều 233 BLTTHS năm 2003), đồng thời yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại các quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, nhằm sửa chữa khắc phục các sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm khi ra các bản án hoặc quyết định đó. Khi thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát phải tuân theo những quy định của pháp luật về chế định này, không được kháng nghị tùy tiện, tràn lan theo ý chí của Kiểm sát viên. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. VKSND là cơ quan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Đồng thời VKSND cũng thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động điều tra, xét xử nhằm đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. Viện kiểm sát vừa bảo vệ quan điểm truy tố của mình vừa bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng
  • 23. 19 pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Như vậy kháng nghị phúc thẩm là một trong những quyền năng pháp lý quan trọng, thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND. Hiện nay, BLTTHS năm 2003 cũng như các văn bản pháp lý khác chưa có một khái niệm thống nhất về khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” xác định: Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [1, 3]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định mục tiêu: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao [2, 2]. Như vậy, TAND là cơ qụan xét xử có tính độc lập, nhưng để cho hoạt động xét xử đạt hiệu quả cao, bảo đảm việc ra một bản án đúng người, đúng
  • 24. 20 tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, thì hoạt động xét xử phải được đặt dưới sự giám sát của một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đó chính là Viện kiểm sát. Khi kiểm sát xét xử mà phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. VKSND là cơ qụan duy nhất có quyền truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử. Đồng thời Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử nhằm đảm bảo cho việc truy tố, điều tra, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng, về nội dung, về áp dụng pháp luật thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Từ những phân tích trên đây có thể rút ra một số đặc điểm của kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND, đó là: * Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành kiểm sát. Chủ thể của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự: đó là Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp với Tòa án đã tuyên bản án, quyết định sơ thẩm. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án và quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân chưa có hiệu lực pháp luật. Kháng nghị phúc thẩm là một hoạt động quan trọng của VKSND và chỉ Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm, trong tất cả các văn bản pháp lý sơ khai nhất cho đến BLTTHS đều quy định: Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt duy nhất chỉ có ở Viện kiểm sát. Viện kiểm sát là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc áp dụng pháp luật của tất
  • 25. 21 cả các chủ thể trong hoạt động tư pháp, trong đó có TAND. TAND là cơ quan xét xử có tính độc lập, nhưng hoạt động xét xử của Tòa án chỉ có thể đạt hiệu quả cao và không có những vi phạm nghiêm trọng khi đặt dưới sự giám sát của VKSND. Để đảm bảo cho việc quyết định truy tố của mình, cũng như đảm bảo cho việc xét xử đúng pháp luật, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng, Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. BLTTHS quy định nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử cùng với Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” xác định mục tiêu hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao, công tác xét xử, kiểm sát hoạt động xét xử trong đó có công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự được đặc biệt quan tâm. * Kháng nghị phúc thẩm hình sự là công cụ đặc biệt và là một trong những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân. VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát xét xử, nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm, Viện kiểm sát bảo vệ quyền truy tố của mình đồng thời bảo đảm cho Tòa án ra một bản án chính xác, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây là một trong những quyền năng pháp lý mà thông qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây vừa là quyền, vừa là trách nhiệm của VKSND.
  • 26. 22 Kháng nghị phúc thẩm thể hiện rõ nhất quyền năng của Viện kiểm sát trong thực hiện các chức năng của mình. Quyền công tố là quyền nhà nước giao cho ngành kiểm sát để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó để truy tố bị can ra trước Tòa và bảo vệ việc buộc tội đó trước phiên tòa. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền công tố gắn liền với hoạt động điều tra và hoạt động xét xử cho nên quyền công tố chỉ được thực hiện bởi một cơ quan duy nhất đó là Viện kiểm sát. Trong giai đoạn xét xử, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm thì Viện kiểm sát có quyền hạn và trách nhiệm kháng nghị để xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm ở Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Thực hiện tốt việc kháng nghị phúc thẩm sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát và làm tốt chức năng thực hành quyền công tố nhà nước theo quy định của pháp luật. Như vậy, kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát không chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực hành quyền công tố mà còn thông qua hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trước, trong và sau phiên toà hình sự. *Hệ quả của của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự. Xét xử phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai, nhưng không có nghĩa mọi vụ án đều phải qua hai cấp xét xử, mà vụ án chỉ được tiến hành xét xử phúc thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Khi có kháng nghị phúc thẩm Tòa án cấp trên phải mở phiên tòa phúc thẩm [14, 26]. Như vậy, đối tượng của quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự là bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật do phát hiện có vi phạm. Còn mục đích của việc kháng nghị phúc thẩm là nhằm khắc phục những vi phạm của bản án, quyết định của Tòa án. Thông qua kháng nghị phúc thẩm,
  • 27. 23 Viện kiểm sát bảo đảm cho mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát chỉ thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm trong tố tụng, đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp luật. Khi kháng nghị phúc thẩm Viện kiểm sát bắt buộc phải chỉ ra được lý do của việc kháng nghị và vi phạm của Tòa án trong bản án, quyết định sơ thẩm là gì. Đó chính là bản chất của kháng nghị phúc thẩm. Theo quy định của BLTTHS thì Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm. Khi Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm thì buộc Tòa án cấp trên trực tiếp phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Hậu quả pháp lý của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự là những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành (trừ một số trường hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự: trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Toà án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị). Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm là không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, sửa bản án sơ thẩm, hủy bản án để điều tra, xét xử lại hoặc hủy án và đình chỉ vụ án. Tãm l¹i, trªn c¬ së tæng kÕt, tiÕp thu nh÷ng quan ®iÓm cña c¸c nhà khoa học luật tố tụng hình sự vÒ kh¸i niÖm kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự vµ ph©n tÝch néi dung, ®Æc ®iÓm ®Æc tr-ng còng nh- môc ®Ých cña kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự, cã thÓ ®-a ra kh¸i niÖm khoa häc vÒ kháng
  • 28. 24 nghị phúc thẩm vụ án hình sự như sau: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho Viện kiểm sát các cấp thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm. Thông qua việc kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, đồng thời nhằm khắc phục các vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật. 1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức VKSND năm 2002, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nội dung của hoạt động thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tất cả những quyền năng tố tụng nhằm đảm bảo phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt người, lọt tội, không làm oan người vô tội. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp tức là giám sát mọi hoạt động của cơ quan Toà án, giám sát tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án, quyết định của Toà án nhằm đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành theo đúng các quy định của pháp luật. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử, nếu phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền kháng nghị phúc thẩm để yêu cầu Tòa án xét xử lại vụ án. Thông qua quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời nhằm đảm bảo cho Tòa án ra một bản án chính xác, có căn cứ. Bằng hoạt động kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát thực hiện chức năng mà Nhà nước đã giao cho ngành kiểm sát là yêu
  • 29. 25 cầu Toà án phải đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm, góp phần nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo cho việc Toà án ra một bản án dân chủ, khách quan, đúng pháp luật, đồng thời tăng cường hiệu quả giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật, cũng cố niềm tin vào công lý cho quần chúng nhân dân và chủ động tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm một cách có hiệu quả. Việc thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự không chỉ có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử mà kháng nghị phúc thẩm hình sự còn là công cụ hữu hiệu để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động xét xử của Toà án. Vì pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội, trong đó mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, bảo đảm tính thống nhất. Điều đó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật, mọi công dân phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời mọi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý nghiêm minh. Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Bộ máy nhà nước, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân phải thực hiện một cách thống nhất, vì vậy bảo đảm tính thống nhất của pháp chế là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ đối với mọi công dân và thực hiện quyền lực nhà nước. Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành, thực hiện quyền kháng nghị nói chung và quyền kháng nghị phúc thẩm nói riêng đều nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án cũng như hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp phải tuân thủ pháp luật một cách triệt để, đảm bảo cho mọi vi phạm đều bị phát hiện và xử lý kịp thời. Thông qua thực hiện quyền kháng nghị, Viện
  • 30. 26 kiểm sát bảo vệ quan điểm truy tố, nhằm đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh. Đồng thời, đảm bảo cho hoạt động xét xử của Tòa án được công bằng, việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Như vậy thực hiện tốt công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử. 1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự * Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự Theo Điều 232 BLTTHS và kể cả trước và sau khi có BLTTHS năm 2003 đều quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm” [8, 171]. Việc quy định quyền kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp nhằm khắc phục ngay những hạn chế của Viện kiểm sát cấp dưới như: không phát hiện được vi phạm trong bản án, quyết định hoặc phát hiện được nhưng lại hết thời hạn kháng nghị hoặc do Viện kiểm sát cấp dưới đồng tình với quan điểm xét xử của Toà án cùng cấp nên không kháng nghị. Theo Điều 36 BLTTHS năm 2003, người có thẩm quyền quyết định việc kháng nghị phúc thẩm là Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát các cấp. Điều 32 Quy chế 960/2007/QĐ-VKSNDTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự quy định: 1. Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp huyện kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện. 2. Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định
  • 31. 27 sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện. 3. Viện trưởng VKSNDTC ủy quyền cho Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp tỉnh [37, 13]. Tuy nhiên, hiện nay còn tồn tại 2 luồng quan điểm khác nhau về thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Quan điểm thứ nhất cho rằng: chỉ nên quy định Viện trưởng VKSND có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự mà không giao cho Phó Viện trưởng nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát. Quan điểm thứ hai cho rằng cần phải giao thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm cho cả Kiểm sát viên, bởi họ là người trực tiếp nghiên cứu hồ sơ và phát hiện vi phạm. Thực tế cho thấy, cả hai quan điểm này chưa thực sự phù hợp. Nếu chỉ giao thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm cho Viện trưởng thì Viện trưởng vừa thực hiện thẩm quyền tố tụng theo quy định pháp luật, vừa là người quản lý hành chính về mặt nhà nước trong cơ quan Viện kiểm sát các cấp. Vì phải quản lý nhiều mặt trong cơ quan VKSND các cấp nên sẽ dẫn đến việc không đảm bảo thời hạn kháng nghị phúc thẩm. Nếu giao thẩm quyền kháng nghị cho cả Kiểm sát viên thì vụ án nếu chưa được nghiên cứu, bàn bạc kỹ lưỡng, dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan theo ý chí chủ quan của Kiểm sát viên, do vậy tỷ lệ Toà án bác kháng nghị của Viện kiểm sát sẽ tăng cao. Do vậy việc quy định thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm như quy định tại Điều 36 BLTTHS năm 2003, Điều 32 Quy chế 960/2007/QĐ-VKSNDTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự hiện nay là phù hợp.
  • 32. 28 * Thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự: BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự đối với bản án và quyết định sơ thẩm là khác nhau. Về thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm: tại khoản 1 Điều 234 BLTTHS năm 2003 quy định: “Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày kể từ ngày tuyên án” [8, 172]. So với quy định của BLTTHS năm 1988 thời hạn này không có gì thay đổi, tuy nhiên đây là điểm khác biệt so với quy định tại Thông tư số 19-TATC ngày 2/10/1974 quy định thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự trên một cấp là ba mươi ngày nhưng tính từ ngày nhận được bản sao bản án. Mục đích của việc sửa đổi, rút ngắn thời hạn kháng nghị phúc thẩm này là để bảo đảm tính ổn định của bản án. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy việc sao gửi bản án của VKSND cấp dưới cho Viện kiểm sát cấp trên còn chậm trễ, thậm chí có đơn vị không gửi bản án ảnh hưởng tới hoạt động kiểm tra bản án của cấp trên, nhiều vi phạm không được phát hiện hoặc khi phát hiện vi phạm thì không còn thời hạn kháng nghị làm cho công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự không đạt được hiệu quả. Như vậy, trong thời hạn mười lăm ngày hoặc ba mươi ngày sau khi kết thúc phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên đã tham gia phiên toà sơ thẩm, Kiểm sát viên ở VKSND cấp tỉnh được phân công kiểm tra bản án sơ thẩm của Toà án cấp huyện xem xét có cần phải kháng nghị bản án hay không. Nếu có căn cứ kháng nghị thì Kiểm sát viên báo cáo đề xuất với Lãnh đạo Viện về việc kháng nghị phúc thẩm. Về cách tính thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc của thời hạn kháng nghị, BLTTHS năm 2003 chưa có quy định cụ thể. Về vấn đề này, tại điểm a, tiểu mục 4.1, mục 4 Nghị quyết số 05 ngày 8-12-2005 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn như sau:
  • 33. 29 Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án hoặc ra quyết định trong trường hợp Viện kiểm sát, bị cáo, đương sự có mặt tại phiên toà hoặc là ngày bản án, quyết định được giao hoặc được niêm yết trong trường hợp bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên toà [30, 5]. Đối với thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày làm việc đầu tiên tiếp theo ngày nghỉ đó. Thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời hạn vào lúc hai mươi tư giờ của ngày đó [30, 6]. Nghị quyết trên hướng dẫn khá rõ ràng cách tính thời điểm kết thúc của thời hạn. Tuy nhiên, cách tính thời điểm bắt đầu của thời hạn trong Nghị quyết chưa đề cập đến đối với trường hợp ngày tuyên án kết thúc vào ngày thứ sáu, thì ngày thứ bảy, chủ nhật tiếp theo có được tính là thời hạn để kháng nghị hay không. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự cho thấy quy định về thời hạn kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát còn chưa phù hợp với thực tế. Tại Điều 229 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án, Toà án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp...” [8, 169], trong khi đó thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày cũng kể từ ngày tuyên án. Thực tế có nhiều tỉnh thành địa bàn rộng, nằm rải rác, đi lại khó khăn thì việc gửi bản án từ Viện kiểm sát cấp dưới lên Viện kiểm sát cấp trên rất mất thời gian. Mặt khác, việc giao bản án của Toà án thường không đúng thời hạn đã được quy định tại Điều 229 BLTTHS năm 2003, dẫn đến tình trạng là khi Viện kiểm sát nhận được bản
  • 34. 30 án thì đã hết thời hạn kháng nghị. Chính vì những lý do trên làm cho công tác kháng nghị của Viện kiểm sát gặp những khó khăn nhất định như khi Viện kiểm sát thấy có đủ căn cứ để kháng nghị nhưng thời hạn kháng nghị đã hết nên không kháng nghị. Đây cũng là một vấn đề đặt ra hiện nay khi mà BLTTHS năm 2003 chỉ quy định việc xét kháng cáo quá hạn (Điều 235 BLTTHS) chứ không quy định việc xét kháng nghị quá hạn. Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của TAND: Điều 239 BLTTHS năm 2003 quy định thời hạn kháng nghị các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm có một điểm mới so với Điều 231 BLTTHS năm 1988. Trước đây, BLTTHS năm 1988 quy định chung thời hạn kháng nghị các quyết định là bảy ngày mà không phân biệt thời hạn của Viện kiểm sát cùng cấp và thời hạn của Viện kiểm sát trên một cấp. Qua thực tiễn áp dụng, việc quy định như trên không còn phù hợp, vì vậy thời hạn để Viện kiểm sát kháng nghị các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm đã được sửa đổi tại Điều 239 BLTTHS năm 2003 như sau: “Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Toà án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Toà án ra quyết định” [8, 174]. Về thời điểm bắt đầu của thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của Toà án cũng giống như quy định đối với bản án, việc quy định thời hạn bắt đầu kháng nghị kể từ ngày Toà án ra quyết định mà không phải là kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được quyết định. Như vậy, trong trường hợp Toà án gửi các quyết định cho Viện kiểm sát mà thời hạn kháng nghị đã hết hoặc gửi sau thời hạn kháng nghị mà quyết định đó có vi phạm thì giải quyết vấn đề này như thế nào? Bởi lẽ, BLTTHS năm 2003 không quy định rõ thời hạn Toà án phải gửi các quyết định cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác giả cho rằng những quyết định của Toà án đã quá hạn kháng nghị ngang cấp mà còn thời hạn kháng nghị trên cấp thì Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo
  • 35. 31 ngay cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để tiến hành kháng nghị. Trong trường hợp thời hạn kháng nghị trên cấp cũng hết thì cần báo cáo Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị giám đốc thẩm, đồng thời Viện kiểm sát cùng cấp phải có văn bản kiến nghị Chánh án Toà án khắc phục những vi phạm trong việc gửi các quyết định cho Viện kiểm sát. Để khắc phục tình trạng này, các Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án phải tích cực, chủ động kiểm sát các quyết định của Toà án, kịp thời có biện pháp tác động nhằm sửa chữa, khắc phục những vấn đề nêu trên. Tương tự như thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, thời điểm kết thúc thời hạn kháng nghị đối với quyết định của Toà án sơ thẩm hiện nay chưa được giải thích một cách đầy đủ và Điều 239 BLTTHS năm 2003 cũng chưa quy định cụ thể cách tính thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc của thời hạn kháng nghị. Do vậy, cũng cần có hướng dẫn cụ thể, thống nhất để tránh những quan điểm khác nhau về vấn đề này. 1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự BLTTHS năm 2003 quy định khá cụ thể những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng về căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định của tòa án sơ thẩm thì trong các BLTTHS đều không quy định cụ thể về những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm hình sự. Tuy nhiên, những căn cứ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm lại được quy định tại Quy chế về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự năm 1996, 2004, 2007. Tại Điều 32 Quy chế công tác kiểm sát xét xử năm 1996 quy định căn cứ kháng nghị phúc thẩm bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị phúc thẩm khi có một trong các căn cứ sau:
  • 36. 32 - Có những tình tiết qua cuộc điều tra và xét hỏi tại phiên toà không đầy đủ, chưa rõ ràng; - Kết luận của bản án hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; - Có những vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS; - Có những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hình sự. Quy chế trên chưa quy định cụ thể vi phạm nghiêm trọng là vi phạm như thế nào nên trong thực tế có nhiều bản án và quyết định có vi phạm nhưng nhiều Viện kiểm sát không xác định được thế nào là vi phạm nghiêm trọng nên không kháng nghị. Do vậy, tại Điều 33 Quy chế tạm thời về kiểm sát xét xử năm 2004 đã xác định căn cứ kháng nghị phúc thẩm như sau: - Việc điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ; - Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án; - Có những vi phạm trong việc áp dụng BLHS; - Có những vi phạm về thủ tục tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Sau thời gian thực hiện cho thấy quy định trên chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Vì vậy, tại Điều 33 Quy chế 960/2007/QĐ- VKSTC về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự xác định bản án hoặc quyết định sơ thẩm hình sự chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: - Việc điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; - Kết luận của bản án hoặc quyết định hình sự sơ thẩm không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án;
  • 37. 33 - Có vi phạm trong việc áp dụng BLHS; - Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng [14, 28-29]. Như vậy, việc VKSNDTC có hướng dẫn về căn cứ để kháng nghị phúc thẩm như trên là cần thiết, phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi giúp Viện kiểm sát các cấp có nhận thức thống nhất để xem xét, quyết định việc kháng nghị hay không kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm. Tuy nhiên, hiện nay những căn cứ để kháng nghị phúc thẩm hình sự không được quy định trong BLTTHS hoặc Thông tư liên ngành hay văn bản hướng dẫn thực hiện BLTTHS mà đó mới chỉ là quy định đơn phương của ngành kiểm sát nên trong thực tế xét xử có khá nhiều trường hợp chưa có cách hiểu thống nhất giữa Tòa án và Viện kiểm sát trong việc nhận xét, đánh giá vi phạm của Tòa án sơ thẩm trong việc ra các bản án và quyết định sơ thẩm, dẫn đến nhiều trường hợp Viện kiểm sát thì xác định bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm và quyết định kháng nghị nhưng Tòa án lại cho rằng bản án không vi phạm hoặc vi phạm ở mức độ không lớn, chấp nhận được nên bác kháng nghị của Viện kiểm sát. Vì vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát, BLTTHS năm 2003 cần quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự như đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự Cũng giống như hậu quả của việc kháng cáo, theo quy định của BLTTHS thì hậu quả của việc kháng nghị là những phần của bản án bị kháng nghị thì chưa được đưa ra thi hành; đối với bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng nghị toàn bộ thì toàn bộ bản án hoặc quyết định đó chưa có hiệu lực pháp luật và không được đưa ra thi hành, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 255 BLTTHS năm 2003 là:
  • 38. 34 Bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị [8, 185]. Về phạm vi xét xử phúc thẩm thì về nguyên tắc, Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét theo nội dung kháng nghị. Nếu kháng nghị đối với toàn bộ bản án thì Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án; nếu kháng nghị đối với một phần bản án thì Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại phần bị kháng nghị. Đối với các phần khác không bị kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại nếu thấy cần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo (họ không có kháng cáo, không bị kháng cáo hoặc kháng nghị). Theo quy định tại khoản 2 Điều 248 BLTTHS năm 2003, khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm có quyền ra các quyết định: “a. Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; b. Sửa bản án sơ thẩm; c. Huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; d. Huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” [8, 179]. * Trường hợp không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm: là khi Toà án cấp phúc thẩm xét thấy bản án sơ thẩm đã phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, phù hợp tính chất, mức độ hành vi của tội phạm, hình phạt áp dụng đối với các bị cáo là nghiêm minh, không vi phạm các quy định của BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật có liên quan. *Trường hợp sửa bản án sơ thẩm: bản án sơ thẩm có thể bị sửa theo hướng giảm nhẹ có lợi cho bị cáo hoặc sửa theo hướng tăng nặng không có lợi cho bị cáo. Điều 249 BLTTHS năm 2003 quy định Toà án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau: “a. Miễn trách nhiệm hình sự hoặc
  • 39. 35 miễn hình phạt cho bị cáo; b. Áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn; c. Giảm hình phạt cho bị cáo; d. Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng; đ. Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo” [8, 179-180]. Việc sửa theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo không chỉ thực hiện khi có kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo mà ngay cả khi có kháng nghị theo hướng tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo nhưng Toà án cấp phúc thẩm xét thấy có căn cứ để sửa bản án theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Ngoài ra, “nếu có căn cứ, Toà án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị” [8, 180]. Khi xét xử phúc thẩm, nếu chỉ có kháng nghị theo hướng có lợi cho bị cáo thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ có thể y án hoặc sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo chứ không được tăng nặng hoặc huỷ án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Nếu thấy bản án sơ thẩm xử quá nhẹ đối với bị cáo thì Toà án cấp phúc thẩm y án sơ thẩm và báo cáo, chuyển hồ sơ lên Toà án để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Đối với việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng không có lợi cho bị cáo thì tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Toà án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại” [8, 180]. Toà án cấp phúc thẩm chỉ có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng nặng cho bị cáo khi có kháng nghị theo hướng này. Nếu chỉ có kháng nghị theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo thì trong mọi trường hợp Toà án cấp phúc thẩm không được sửa bản án theo hướng tăng nặng. Tuy nhiên, “nếu có căn cứ, Toà án vẫn có thể giảm hình
  • 40. 36 phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại” [8, 180]. Về việc sửa quyết định xử lý vật chứng: khi xét xử phúc thẩm, dù có hay không có kháng nghị về quyết định xử lý vật chứng, nếu thấy quyết định xử lý vật chứng của Tòa án cấp sơ thẩm không phù hợp với thực tế khách quan của vụ án, thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định xử lý lại cho phù hợp như trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, tịch thu sung công quỹ nhà nước... *Trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại: Điều 250 BLTTHS năm 2003 quy định: “Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được” [8, 180-181]. Nếu việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ nhưng ở cấp phúc thẩm có thể bổ sung được thì Toà án cấp phúc thẩm không được huỷ bản án sơ thẩm mà yêu cầu Viện kiểm sát cùng cấp tiến hành điều tra bổ sung hoặc tự mình thu thập tài liệu cần thiết. Toà án cấp phúc thẩm có quyền huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau đây: “a. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng; b. Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội” [8, 181]. Khi huỷ án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc huỷ án sơ thẩm và việc giải quyết vụ án được tiến hành từ giai đoạn nào, giai đoạn điều tra hay xét xử sơ thẩm. Việc điều tra lại hoặc xét xử lại được tiến hành theo thủ tục chung. Trong trường hợp huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị
  • 41. 37 cáo là cần thiết, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày huỷ án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung. Sau khi Cơ quan điều tra hoặc Toà án cấp sơ thẩm nhận được hồ sơ của Toà án cấp phúc thẩm, thì phải xem xét và quyết định ngay việc áp dụng, thay đổi, hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo (vì Toà án cấp phúc thẩm chỉ ra lệnh tạm giam cho đến khi cơ quan điều tra hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án). *Trường hợp huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án: Điều 251 BLTTHS năm 2003 quy định: “Khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này thì huỷ án sơ thẩm và đình chỉ vụ án” [8, 182]. Điều 107 BLTTHS năm 2003 quy định những căn cứ không được khởi tố vụ án, bởi vậy, khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003 thì các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Nếu vì một lý do nào đó mà vụ án đã được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, sau đó có kháng nghị phúc thẩm thì Toà án cấp phúc thẩm có quyền ra quyết định huỷ án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Đối với những trường hợp phát hiện có căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 107 BLTTHS năm 2003, ngoài việc huỷ bản án sơ thẩm phải tuyên bố bị cáo không phạm tội. 1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình sự Điều 238 BLTTHS năm 2003 quy định về trình tự, thủ tục thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị có tác dụng tạo điều kiện cho Viện kiểm sát nghiên cứu, cân nhắc để có được bản kháng nghị đúng pháp luật, có chất lượng. Vì vậy,
  • 42. 38 mặc dù Viện kiểm sát đã kháng nghị và gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm, nhưng trong thời gian chờ mở phiên tòa phúc thẩm là 60 ngày hoặc 90 ngày tương ứng với cấp phúc thẩm tại Tòa án cấp tỉnh, cấp phúc thẩm TANDTC, và ngay tại phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát vẫn có quyền xem xét lại kháng nghị của mình. Việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị trước phiên toà phúc thẩm có thể do Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp phúc thẩm thực hiện. Nhưng việc thay đổi, bổ sung hoặc rút kháng nghị tại phiên toà phúc thẩm thì do Kiểm sát viên tham gia phiên toà quyết định. * Đối với việc bổ sung, thay đổi kháng nghị thì cần phải phân biệt rõ các trường hợp sau: Nếu việc bổ sung, thay đổi kháng nghị đối với một phần hoặc toàn bộ bản án được thực hiện trong thời hạn kháng nghị thì theo nguyên tắc có thể bổ sung, thay đổi kháng nghị theo cả hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo; kể cả trường hợp Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ bản kháng nghị nhưng sau đó lại tiếp tục kháng nghị lại thì vẫn được chấp nhận để xét xử phúc thẩm. Như vậy trong thời hạn kháng nghị thì Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị theo bất kỳ hướng nào. Trong trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị, thì trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị nhưng chỉ theo hướng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Bởi vì nếu thay đổi, bổ sung theo hướng không có lợi cho bị cáo trong trường hợp thời hạn kháng nghị đã hết thì bị cáo không thể thực hiện quyền bào chữa của mình vì không được thông báo trước. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực tiễn xét xử thì việc bổ sung, thay đổi kháng nghị khi bắt đầu hoặc tại phiên toà phúc thẩm chỉ theo hướng không làm xấu đi tình trạng của bị cáo như quy định tại Điều 238 BLTTHS hiện nay còn nhiều bất cập. Vì việc rút kháng nghị của Viện kiểm sát không chỉ trên cơ sở quyền lợi của bị cáo mà còn phải cân nhắc
  • 43. 39 đảm bảo quyền lợi của những người tham gia tố tụng khác, quyền và lợi ích của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói chung. * Đối với trường hợp rút kháng nghị: Đối với việc rút kháng nghị, theo quy định của Thông tư số 19-TATC ngày 2/10/1974 của TANDTC, khi phiên tòa phúc thẩm đã mở, việc rút kháng nghị vẫn có thể đề ra nhưng chấp nhận hay không là do Tòa án xét và quyết định. Đây là một quy định chưa hợp lý, bởi Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền truy tố hay không truy tố một người ra trước Tòa án để xét xử, khi Viện kiểm sát rút kháng nghị trong bất kỳ trường hợp nào thì Tòa án phải đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Đây là một quyền năng đặc biệt của ngành kiểm sát, với quy định tại Thông tư này như trên mặc nhiên đã hạn chế quyền rút kháng nghị của Viện kiểm sát. Chính vì sự bất cập này nên quy định trên đã được sửa đổi trong BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003, tức là khi Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án căn cứ quyết định rút kháng nghị để đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Theo quy định của BLTTHS thì chỉ khi bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật mà bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa phúc thẩm để xem xét lại nội dung kháng cáo, kháng nghị. Vì thế khi Viện kiểm sát rút toàn bộ nội dung kháng nghị thì việc xét xử phải được đình chỉ. Nếu như việc rút kháng nghị trước khi mở phiên tòa thì thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm, nếu việc rút kháng nghị được thực hiện tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC tại Nghị quyết 05/2005/NQ-HĐTP ngày 8-12-2005 thì bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật từ khi thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết đình chỉ xét
  • 44. 40 xử phúc thẩm. Hướng dẫn như vậy là đúng nhưng chưa thật đầy đủ và chính xác. Nó chỉ đúng khi việc ra quyết định của thẩm phán trong thời điểm mà thời hạn kháng nghị đã hết. Vấn đề đặt ra ở đây là mặc dù Viện kiểm sát đã rút một phần hay toàn bộ kháng nghị trước khi mở phiên tòa phúc thẩm nhưng thời hạn kháng nghị vẫn còn, do vậy Viện kiểm sát vẫn có thể tiếp tục kháng nghị lại. Vì thế trong trường hợp này, nếu thẩm phán chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm ngay sau khi Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị mà trong khi thời hạn kháng nghị vẫn còn thì bản án chưa thể có hiệu lực pháp luật, vì vẫn còn nguy cơ tiếp tục bị kháng nghị. Trong trường hợp này, thẩm phán chủ toạ phiên toà phải chờ hết thời hạn kháng nghị mà không có kháng nghị tiếp thì mới ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, khi đó bản án sơ thẩm mới được xem là có hiệu lực pháp luật khi Toà án phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Đối với trường hợp rút một phần kháng nghị trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét phần kháng nghị không được rút, trừ những trường hợp cần thiết có thể xem xét những phần khác của bản án không bị kháng nghị, kể cả những phần Viện kiểm sát đã rút kháng nghị. Trường hợp rút kháng nghị trước phiên toà thì việc rút kháng nghị phải được lập thành văn bản. Trường hợp rút tại phiên toà thì việc rút kháng nghị được ghi vào biên bản phiên toà. Tóm lại, chế định về kháng nghị phúc thẩm cũng như thủ tục xét xử phúc thẩm đã được quy định rất sớm trong các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước ta ngay từ Sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến BLTTHS năm 1988 và hiện nay BLTTHS năm 2003 thì chế định kháng nghị về phúc thẩm hình sự, thủ tục xét xử phúc thẩm ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Quy định của pháp luật về chế định kháng nghị đã phù hợp, thích nghi với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đây là