Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Nghiên cứu so sánh đối tượng chứng minh theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga, cho các bạn tham khảo
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
Luận văn: So sánh đối tượng chứng minh theo luật tố tụng, HOT
1. 1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ XUÂN THAO
NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2. 2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ XUÂN THAO
NGHIÊN CỨU SO SÁNH
VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2014
4. 4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
8
1.1. Khái niệm, nội dung và phân loại đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự
8
1.1.1. Khái niệm đối tượng chứng minh 8
1.1.2. Nội dung đối tượng chứng minh 11
1.1.3. Phân loại đối tượng chứng minh 27
1.2. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự cụ thể 31
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối tượng chứng minh trong vụ
án hình sự
35
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
VÀ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN
BANG NGA
38
2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối
tượng chứng minh
38
2.2. Đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên
bang Nga
47
5. 5
2.3. So sánh các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong pháp luật tố tụng hình
sự Liên bang Nga
53
2.3.1. Sự tương đồng trong các quy định về đối tượng chứng minh
giữa hai Bộ luật tố tụng hình sự
53
2.3.2. Sự khác biệt trong các quy định về đối tượng chứng minh
giữa hai Bộ luật tố tụng hình sự
56
2.3.3. Nhận xét về các quy định về đối tượng chứng minh trong hai
Bộ luật tố tụng hình sự
58
Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG
MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM TRÊN CƠ SỞ TIẾP THU KINH NGHIỆM LẬP
PHÁP VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA
69
3.1. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003
70
3.2. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện tại Điều
302 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003
82
3.3. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án hình sự do người không có năng lực trách nhiệm hình
sự thực hiện tại Điều 312 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003
87
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
6. 6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP : Cấu thành tội phạm
7. 7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực
tư pháp hình sự, pháp luật tố tụng hình sự là công cụ hữu hiệu của Đảng và
Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm góp phần bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, giáo
dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật. Bởi vì, pháp luật tố tụng hình sự là
hệ thống các quy phạm quy định trình tự, thủ tục, các giai đoạn tố tụng; chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng; nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền
và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức và công dân…
nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội, đáp ứng yêu cầu "Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng" [11, tr. 131] trong
giai đoạn hiện nay.
Trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, Nhà nước
ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý tố tụng hình sự nhưng không có văn bản
nào trực tiếp quy định về chứng cứ và đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án trong thực tiễn, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an đã có những
ghi nhận các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự dựa trên tổng kết kinh
nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong nước và tiếp thu
từ pháp luật tố tụng của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô. Năm
1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành và có hiệu lực thi hành từ
01/01/1989 (đã có những chế định cụ thể quy định về đối tượng chứng minh
8. 8
trong vụ án hình sự), Bộ luật ra đời là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn
40 năm hoạt động tư pháp hình sự, bước đầu đã thể hiện đường lối đổi mới
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Bộ luật được
ban hành đã phát huy tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra
là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân…
Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong từng giai đoạn nhất định, BLTTHS năm 1988 đã ba lần được sửa
đổi, bổ sung (7/1990, 12/1992 và 6/2000) để đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt
động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tư pháp hình sự cho
thấy, qua các lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm 1988 vẫn còn bất cập. Vì
vậy, Quốc hội khóa XI đã thông qua việc ban hành BLTTHS năm 2003 thay
thế BLTTHS năm 1988. Đánh giá một cách tổng thể, BLTTHS năm 2003 đã
sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề chưa được quy định trong BLTTHS năm 1988
nhưng nhìn chung, chế định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình
sự giữa hai Bộ luật này không có sự khác nhau nhiều. Mặc dù đã được ghi
nhận trong pháp luật thực định nhưng cho đến nay BLTTHS năm 2003 nói
chung và chế định về đối tượng chứng minh nói riêng vẫn còn một số hạn
chế: "Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, hình sự… nói chung và các quy
định liên quan đến hoạt động chứng minh tội phạm còn chưa đồng bộ và hoàn
thiện…" [12] vì vậy cần phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện.
Trong thực tiễn công tác phát hiện và xử lý tội phạm, việc làm rõ đối
tượng chứng minh có ý nghĩa quyết định trong việc làm sáng tỏ sự thật khách
quan cũng như bản chất của vụ án, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền kết luận hành vi đã thực hiện là tội phạm hay không phải là tội
phạm, nếu là tội phạm thì ai là người thực hiện tội phạm đó và trách nhiệm
9. 9
hình sự của người này như thế nào…Trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố
tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn giải quyết vụ án hình sự (đảm bảo đúng
người, đúng tội; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội) cũng như
thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc bổ sung, hoàn
thiện chế định đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự đảm bảo sự rõ ràng,
đầy đủ, có hệ thống, lôgic và khoa học là hết sức cần thiết và có ý nghĩa.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu, so sánh pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với pháp luật tố tụng hình sự
một số nước để đưa ra kiến nghị, đề xuất bổ sung về mặt lập pháp. Chính vì
vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu các quy định về đối tượng chứng minh trong
BLTTHS Việt Nam 2003, trên cơ sở tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm lập
pháp của quốc gia có hệ thống pháp luật tương đồng, trên cơ sở đó thấy được
những hạn chế của các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện
các quy định về đối tượng chứng minh trong BLTTHS nước ta nhằm đảm bảo
cơ sở pháp lý đầy đủ cho các cơ quan tố tụng hình sự khi giải quyết vụ án
hình sự, đáp ứng tốt mục đích, yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự... Đây là
lý do chính để chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu so sánh đối tượng chứng
minh theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga", thông
qua đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đối tượng chứng minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải
quyết vụ án hình sự nên ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về nội dung này ở những phương diện và mức độ khác nhau.
10. 10
Tại Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về đối tượng chứng
minh trong tố tụng hình sự (Giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số cơ sở
đào tạo luật; Khóa luận tốt nghiệp đại học của một số sinh viên chuyên ngành
tư pháp hình sự…), các công trình này chủ yếu đề cập đến quá trình chứng
minh hay do yêu cầu, mục đích của việc nghiên cứu nên tác giả không tập
trung chính vào đối tượng chứng minh hoặc đề cập đến đối tượng chứng minh
nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ làm rõ vấn đề (khóa luận tốt nghiệp đại
học) nên việc nghiên cứu vấn đề này còn có phần hạn chế. Chẳng hạn, giáo
trình Luật tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000,
chương 3 có đề cập đến khái niệm đối tượng chứng minh và phân loại đối
tượng chứng minh. Trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân của tác giả Phạm Thế
Lực K41B - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đề tài: "Chứng minh trong
tố tụng hình sự Việt Nam", có đề cập đến những vấn đề cần phải chứng minh
trong vụ án hình sự nhưng việc nghiên cứu chưa sâu sắc và toàn diện. Trong
luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Văn Dương, bảo vệ năm 2000, đề tài
"Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt
Nam hiện nay" có đề cập đến đối tượng chứng minh nhưng đây không phải là
đối tượng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả mới chỉ giải quyết vấn đề
một cách chung, khái quát. Trong số các đề tài nghiên cứu về đối tượng
chứng minh, có luận văn thạc sĩ của tác giả Tô Hữu Thông, bảo vệ năm 2004,
đề tài "Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự". Luận văn đã phân tích
khá sâu sắc một số hạn chế của các quy định của đối tượng chứng minh trong
BLTTHS năm 2003 và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS
Việt Nam về đối tượng chứng minh trên cơ sở tham khảo pháp luật tố tụng
hình sự một số nước về đối tượng chứng minh như: Nga, Pháp, Trung Quốc…
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh. Tuy nhiên, qua việc nghiên
cứu luận văn, chúng tôi thấy, luận văn mới chỉ đề cập đến một số vấn đề liên
quan đến các quy định về đối tượng chứng minh tại Điều 63 BLTTHS mà
11. 11
chưa đề cập đến các quy định về vấn đề chứng minh trong vụ án hình sự do
người chưa thành niên hoặc người không có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện tại Điều 302 và Điều 312 BLTTHS năm 2003.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu độc lập,
mang tính chuyên biệt so sánh về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam với pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài để qua đó đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tượng
chứng minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu trên khía cạnh lập pháp các quy
định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành trên cơ sở nghiên cứu, so sánh với các quy định về đối tượng chứng
minh trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga, từ đó đưa ra những
giải pháp hoàn thiện các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các chế định về đối tượng chứng minh được quy định
trong BLTTHS Việt Nam 2003, đồng thời nghiên cứu, so sánh với chế định
này trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được sự khác biệt
giữa hai chế định của hai hệ thống pháp luật này.
- Từ kết quả nghiên cứu về đối tượng chứng minh được quy định
trong hai hệ thống pháp luật, luận văn cần làm sáng tỏ một số vấn đề như:
Quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về đối tượng chứng minh đã đầy đủ,
hoàn thiện chưa; phân tích các nội dung chưa đầy đủ hoặc chưa được quy định.
12. 12
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện những nội dung cần bổ sung để tiếp tục
hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tượng
chứng minh, góp phần tích cực và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm của Đảng và Nhà nước như đã trình bày ở trên.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết nội dụng của đối tượng chứng
minh được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành cũng
như tổng hợp các kết quả nghiên cứu của các tác giả về lĩnh vực này, đồng
thời kết hợp việc nghiên cứu, so sánh với các quy định về đối tượng chứng
minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được sự cần thiết
phải bổ sung những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự vào pháp
luật tố tụng hình sự nước nhà.
Luận văn có tham khảo một số công trình nghiên cứu về đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự của các tác giả đã được công bố.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình
sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội
VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng một số phương pháp
đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp quy nạp; phương pháp
diễn dịch và một số phương pháp khác.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
- Đánh giá kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu đã được
công bố để đảm bảo tính chính xác, khoa học của vấn đề cần nghiên cứu.
13. 13
- Nghiên cứu về đối tượng chứng minh quy định trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quy định về đối tượng
chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được những
điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định về đối tượng chứng minh
trong pháp luật tố tụng hình sự của mỗi nước.
- Luận giải và đưa ra được những đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện chế định đối tượng chứng minh của BLTTHS Việt Nam hiện hành.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đối tượng chứng minh trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam và trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định về đối tượng chứng minh trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm lập pháp
về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga.
14. 14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHÂN LOẠI ĐỐI TƢỢNG CHỨNG
MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm đối tƣợng chứng minh
Theo triết học Mác - Lênin thì nhận thức là sự phản ánh biện chứng
tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng
từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ
thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự vật, hiện
tượng, bởi vì "hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần
giống nhau như cảm giác, đặc tính phản ảnh" [22, tr. 104] và "…ý thức bao
giờ cũng là và chỉ là sự phản ánh tồn tại" [21]. Theo nguyên lý trên của chủ
nghĩa duy vật biện chứng thì mọi hoạt động của con người nói chung và hoạt
động tội phạm nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết trong thế giới khách
quan, thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh, lưu lại trong bộ não
con người và con người hoàn toàn có thể nhận thức được về nó vì "thế giới
không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không
thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian" [21, tr. 209-210].
Như vậy, theo lý luận triết học Mác - Lênin về nhận thức, con người
hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới xung quanh, tuy nhiên mức độ nhận
thức phụ thuộc vào khả năng nhận thức của từng con người cụ thể, điều kiện
của sự nhận thức, mục đích yêu cầu của sự nhận thức…Hoạt động nhận thức
của con người diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Đối với vụ án hình sự thì đó là hoạt động nhận thức chân lý mang tính gián
tiếp, được thể hiện ở chỗ, khi có sự việc phạm tội có nghĩa là sự việc phạm tội
đã xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua những dấu vết mà người
15. 15
thực hiện hành vi phạm tội để lại, thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản
ánh trong trí nhớ của con người để khôi phục lại sự thật khách quan, tìm ra
chân lý, làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó giải quyết vụ án khách
quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật.
Để đạt được mục đích của sự nhận thức trong quá trình giải quyết vụ
án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải tuân thủ những
quy luật chung của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, đó là quá trình
"từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến
thực tiễn" [22, tr. 179] để nhận thức sự việc phạm tội, người thực hiện tội
phạm và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án một cách khách quan, có
căn cứ và đúng quy định của pháp luật, làm cơ sở cho việc truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội. Đó cũng chính là quá trình nhận thức và xác
định về đối tượng chứng minh. Vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự là gì?
Trong một số giáo trình cũng như một số công trình nghiên cứu đã
được công bố, có một số quan điểm về đối tượng chứng minh như sau:
- Quan điểm thứ nhất: "Đối tượng chứng minh là tổng hợp những vấn đề
cần phải được xác định làm rõ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự" [35, tr. 87].
- Quan điểm thứ hai: "Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là
tổng hợp tất cả các tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan
đến tội phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự" [19].
Phân tích các quan điểm trên cho thấy, các quan điểm trên đều xác
định đối tượng chứng minh là "tổng hợp" những vấn đề hay những tình tiết
cần phải xác định để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tuy nhiên, quan điểm
thứ nhất về đối tượng chứng minh chưa bao hàm hết nội dung của đối tượng
chứng minh. Cụ thể là khái niệm chưa bao hàm những vấn đề có liên quan
đến vụ án cũng như đặt ra các biện pháp phòng ngừa là đối tượng chứng
16. 16
minh. Ở quan điểm thứ hai, nội dung khái niệm mới chỉ mang tính liệt kê
những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh mà chưa thể hiện được bản chất
của đối tượng chứng minh trong khái niệm, chưa nhắc đến các biện pháp
phòng ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ
án hình sự.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản
chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định
phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự [20].
Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba đã thể hiện được bản chất của đối
tượng chứng minh - là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để
làm sáng tỏ bản chất của vụ án nhưng xét về nội hàm của khái niệm thì chưa
được thật đầy đủ bởi vì nội dung khái niệm chưa bao quát các biện pháp phòng
ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án.
- Quan điểm thứ tư cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản
chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định
phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng
ngừa [32].
Trong các quan điểm về đối tượng chứng minh, chúng tôi thấy quan
điểm thứ tư tương đối hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ bản chất của đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự, coi các biện pháp phòng ngừa là một trong
những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Như chúng ta đã biết, tội phạm là một hiện tượng xã hội, gắn với xã
hội có giai cấp nên tội phạm có sự vận động, biến đổi theo quy luật vận động
của xã hội. Vì vậy, cùng với việc chứng minh tất cả những tình tiết làm sáng tỏ
bản chất của vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải nghiên cứu, xác định
các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển
17. 17
của xã hội, đảm bảo yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Trên cơ sở
nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm về đối tượng chứng minh trong vụ án hình
sự, chúng tôi đưa ra quan điểm của mình về đối tượng chứng minh trong vụ án
hình sự như sau: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những
vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên
cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời xác định các biện pháp phòng ngừa tội
phạm cho phù hợp với sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1.2. Nội dung đối tƣợng chứng minh
Hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế rất đa dạng. Do tính chất, mức độ
và hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau nên phạm vi và yêu cầu xác
định đối tượng chứng minh ở mỗi vụ án là khác nhau. Tuy vậy, mọi tội phạm
đều có những đặc điểm, quy luật chung giống nhau mà quá trình giải quyết vụ
án các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải chứng minh [6]. Vì vậy, nhà làm
luật đã xây dựng "khuôn mẫu chung" những vấn đề cần chứng minh trong vụ
án hình sự để cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó xác định đối tượng
chứng minh cụ thể cho từng vụ án. Theo BLTTHS năm 2003, đối tượng
chứng minh được quy định tại Điều 63 của Bộ luật, theo đó đối tượng chứng
minh trong vụ án hình sự gồm những vấn đề sau:
- Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và những tình tiết khác của hành vi phạm tội,
- Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không
có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không;
mục đích, động cơ phạm tội,
- Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm nhân thân của bị can,
bị cáo,
- Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [29].
18. 18
Đối với vụ án do người chưa thành niên thực hiện thì ngoài những vấn
đề cần phải chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS, cơ quan tiến
hành tố tụng còn phải chứng minh những vấn đề được quy định tại Điều 302
BLTTHS, cụ thể là: "Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ
nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; Điều kiện sinh
sống và giáo dục; Có hay không có người thành niên xúi giục; Nguyên nhân
và điều kiện phạm tội" [29].
Trong vụ án hình sự nếu có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi, tức là họ không có năng lực chủ thể để tham gia tố tụng
khi giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra phải làm sáng tỏ các vấn đề được quy
định tại Điều 312 BLTTHS, bao gồm: "Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy
ra; Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho
xã hội; Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất khả năng nhận thức
hoặc điều khiển hành vi của mình hay không" [29].
Để đảm bảo mục đích, yêu cầu khi giải quyết vụ án hình sự là phát
hiện nhanh chóng, kịp thời, xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục hậu quả tội phạm gây ra
đồng thời đưa ra những biện pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hiệu quả
trên cơ sở tuân thủ triệt để luật hình sự và luật tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải làm rõ tất cả những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Vì vậy, đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự không chỉ hạn hẹp bởi những vấn đề liên quan đến bản
chất vụ án, liên quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt mà còn bao gồm
cả những vấn đề khác có liên quan và có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự. Để có nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về đối tượng
chứng minh thì ngoài việc nghiên cứu các điều luật trong BLTTHS quy định
trực tiếp đối tượng chứng minh (Điều 63, Điều 302 và Điều 312 BLTTHS),
19. 19
chúng ta cần phải nghiên cứu một số điều luật khác có liên quan, gián tiếp
quy định vấn đề này trong mối quan hệ tổng thể của pháp luật tố tụng hình sự,
qua đó mới có thể thấy được tất cả những vấn đề cần phải chứng minh trong
vụ án hình sự. Qua việc tiếp cận, nghiên cứu BLTTHS năm 2003 về đối tượng
chứng minh, chúng ta thấy ngoài các điều 63, 302 và Điều 312 BLTTHS trực
tiếp quy định về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự thì còn một số
điều luật khác của Bộ luật gián tiếp quy định vấn đề này mà trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng không thể bỏ qua hoặc
phải thực hiện theo đúng yêu cầu nội dung điều luật đã quy định nó, có thể kể
đến một số điều luật như: Điều 10, Điều 27, Điều 28, Điều 64, Điều 66, Điều 67,
Điều 107, Điều 126, Điều 224 BLTTHS…
Nội dung của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự được xây
dựng trên cơ sở mục đích của của tố tụng hình sự, các khái niệm, các quy định
của luật hình sự, luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định
của Bộ luật hình sự (BLHS) và BLTTHS hiện hành, chúng ta thấy không phải
tất cả các quy định của hai bộ luật này đều trực tiếp hoặc gián tiếp quy định
về đối tượng chứng minh, điều này cũng có nghĩa là để xác định đầy đủ nội
dung của đối tượng chứng minh cần phải căn cứ vào những quy định có liên
quan, đó là các quy định: Khái niệm tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự,
miễn trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi,
các giai đoạn thực hiện tội phạm, thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, án
tích… Chẳng hạn, muốn xác định một hành vi phạm tội có phải là tái phạm
hay không thì ngoài việc căn cứ vào khái niệm tội phạm, cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào các nội dung
khác có liên quan như: Tái phạm là gì? Người này đã bị kết án hay chưa? Vấn
đề xóa án tích của người này ra sao?... Ngoài việc căn cứ vào các quy định
trên, xuất phải từ mục đích và yêu cầu của hoạt động tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng còn phải căn cứ vào một số quy định khác của BLTTHS như: để
đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, đúng người đúng
20. 20
tội, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự…) cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh mối quan hệ
giữa người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng, giữa người làm
chứng với các chủ thể tham gia tố tụng khác. Một nội dung nữa chúng tôi
muốn nêu ra trong phạm vi luận văn này, đó là xuất phát từ mục đích, yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo đảm đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong tình
hình mới, đáp ứng yêu cầu "Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn nguyên nhân,
điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm để từng bước kiềm chế, làm giảm các
loại tội phạm, nhất là tội phạm mới, tội phạm nghiêm trọng" [7] thì pháp luật
tố tụng hình sự về đối tượng chứng minh cần phải quy định nguyên nhân và
điều kiện phạm tội là một trong những tình tiết phải chứng minh trong mọi vụ
án hình sự. Có như vậy mới thực hiện tốt yêu cầu phòng ngừa tội phạm theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước…
Để giải quyết thỏa đáng hơn các nội dung nêu ra ở trên, chúng ta cần
làm rõ từng nội dung của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự:
- Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất khi giải quyết vụ án hình sự là
các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh những vấn đề thuộc về bản
chất vụ án, cụ thể là xác định xem có tội phạm xảy ra hay không, nếu có thì
thỏa mãn cấu thành tội phạm nào được quy định trong BLHS hiện hành. Nói
cách khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được tội phạm xảy ra là tội
phạm gì, được quy định tại chương nào, điều nào, khoản nào trong BLHS, sau
đó mới xem xét, chứng minh các vấn đề khác. Để giải quyết được nội dung
này, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải thu thập chứng cứ bằng các biện pháp
điều tra ban đầu (thường được cơ quan điều tra thực hiện trước khi khởi tố vụ
án), trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, đối chiếu với khái niệm tội phạm,
các khái niệm có liên quan và điều luật cụ thể được quy định trong phần riêng
BLHS nhằm xác định hành vi đã thực hiện có phải là hành vi phạm tội hay
21. 21
không, và nếu là hành vi phạm tội thì cần xác định các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng cho tội đó (trong khoa học pháp lý hình sự, những dấu hiệu pháp lý đặc
trưng cho một loại tội được gọi là cấu thành tội phạm và được thể hiện trong
một điều luật cụ thể trong phần riêng BLHS quy định tội danh). Cấu thành tội
phạm gồm bốn yếu tố: Chủ thể của tội phạm, Khách thể của tội phạm, Mặt
khách quan của tội phạm, Mặt chủ quan của tội phạm…Như vậy, việc chứng
minh những vấn đề thuộc về bản chất vụ án thực chất là việc chứng minh những
dấu hiệu pháp lý đặc trưng cơ bản của các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP)
được quy định trong BLHS, cụ thể như sau:
* Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một
số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu bổ sung đặc
biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định [4, tr. 357].
Từ khái niệm chủ thể tội phạm chúng ta thấy, chủ thể của tội phạm chỉ có
thể là thể nhân - con người cụ thể và "không phải ai cũng có thể thành chủ thể
tội phạm khi thực hiện một hành vi được quy định trong luật hình sự" [16, tr. 89]
mà người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (được quy định trong luật
hình sự) chỉ có thể trở thành chủ thể tội phạm khi có đầy đủ các dấu hiệu do
pháp luật hình sự quy định. Việc chứng minh chủ thể tội phạm thực chất là
chứng minh người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm được thể hiện qua họ tên, ngày tháng năm sinh và các đặc điểm nhân
thân khác nhằm xác định họ có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, đã
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS hay chưa…Việc
chứng minh chủ thể tội phạm trong vụ án hình sự còn phải chứng minh xem
trong vụ án đó có bao nhiêu người tham gia, vai trò của từng người trong việc
thực hiện tội phạm, năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm
22. 22
hình sự của từng người cụ thể. Qua đó, xác định vụ án xảy ra có đồng phạm
hay không? Tính chất của đồng phạm?...
Đối với một số CTTP cụ thể liên quan đến chủ thể đặc biệt, thì ngoài
những dấu hiệu bắt buộc nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải
chứng minh thêm dấu hiệu đặc biệt của chủ thể, bởi vì chỉ có những chủ thể
có dấu hiệu đặc biệt thì mới thực hiện được hành vi phạm tội này, các dấu
hiệu đặc biệt thường là: giới tính, chức vụ quyền hạn, nghề nghiệp, độ tuổi,
huyết thống… Ví dụ: Chủ thể của tội tham ô tài sản, nhận hối lộ phải là người
có chức vụ quyền hạn. Trong BLHS hiện hành có một số CTTP quy định
hành vi "…đã bị xử lý hành chính hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích" là
dấu hiệu bắt buộc gắn với nhân thân người phạm tội, vậy vấn đề đặt ra là các
dấu hiệu này có được coi là dấu hiệu đặc biệt của chủ thể tội phạm hay
không? Ví dụ: Khoản 1, Điều 138 BLHS năm 1999 quy định:
Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai
triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc bị phạt từ từ sáu tháng đến ba năm [28].
Theo quan điểm của chúng tôi, các dấu hiệu này cũng được coi là dấu
hiệu đặc biệt, bởi lẽ cũng như các dấu hiệu đặc biệt khác: giới tính, chức vụ
quyền hạn, nghề nghiệp, độ tuổi, huyết thống…thì dấu hiệu "đã bị xử lý hành
chính…", "đã bị kết án chưa được xóa án tích…"… đều gắn với nhân thân
người phạm tội, vì nếu thiếu các dấu hiệu trên thì người đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội không bị xử lý về những tội danh có quy định các dấu hiệu
này, thậm chí họ không bị xử lý về hình sự đối với hành vi đã thực hiện. Tại
một số CTTP khác trong phần riêng BLHS năm 2003 quy định "Người nào đã
thành niên…" thực hiện hành vi phạm tội mới trở thành chủ thể tội phạm. Ví
23. 23
dụ: Khoản 1, Điều 115 BLHS quy định: "Người nào đã thành niên mà giao
cấu với trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt từ từ một năm đến năm
năm" [29]; Khoản 1, Điều 116 BLHS quy định: "Người nào đã thành niên mà có
hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm" [29]. Vậy,
dấu hiệu "người đã thành niên" trong các trường hợp này có được coi là dấu
hiệu đặc biệt của chủ thể không? Bởi lẽ, theo quy định tại Khoản 1, Điều 12
BLHS thì "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm…" [29], trong khi đó, căn cứ vào khoản 1 của hai điều luật đã trích
dẫn thì người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi không phải chịu trách
nhiệm hình sự đối với hành vi đã thực hiện. Vấn đề này, theo quan điểm của
một số chuyên gia nghiên cứu về lĩnh vực tư pháp hình sự, là sự chưa thống
nhất quy định về độ tuổi giữa Phần chung và Phần riêng trong BLHS mà
nguyên nhân là do kỹ thuật lập pháp [44]. Theo quan điểm của chúng tôi,
trong khi chờ nhà làm luật giải quyết thỏa đáng sự thiếu thống nhất này, đồng
thời để đảm bảo nguyên tắc pháp chế, thực tiễn pháp lý tố tụng hình sự cần
phải coi đây là dấu hiệu đặc biệt khi xem xét, chứng minh chủ thể tội phạm.
* Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật hình
sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng đã bị tội phạm
xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất
định [4, tr. 349].
Khách thể của tội phạm được phân chia làm ba dạng chủ yếu: Khách
thể chung (toàn bộ quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ), khách thể
loại (một nhóm quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ) và khách thể
trực tiếp (một quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật hình sự bảo vệ). Khi có sự
kiện phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định xem quan hệ xã
hội bị hành vi phạm tội xâm hại có phải là các quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ hay không, nếu quan hệ xã hội bị xâm hại không được luật hình sự
24. 24
bảo vệ thì không có tội phạm và đương nhiên người có hành vi xâm hại đến
các quan hệ đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, đây
chính là việc căn cứ vào khách thể chung để loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi. Nếu quan hệ xã hội bị xâm hại được pháp luật hình sự bảo vệ thì cần
phải xác định khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm nghĩa là phải
chứng minh được quan hệ xã hội đó được chương nào, điều nào, khoản nào
của BLHS điều chỉnh.
Mặt khác, khi chứng minh khách thể tội phạm thì cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải làm rõ hành vi phạm tội đã xâm hại tới một hay nhiều quan hệ
xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, vì ở phương diện lý luận cũng như thực
tiễn, một hành vi phạm tội có thể xâm hại đến nhiều khách thể trực tiếp được
pháp luật hình sự bảo vệ cùng một lúc. Ví dụ: Hành vi cướp tài sản có thể
xâm hại đến hai quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở
hữu tài sản của chủ tài sản đối với tài sản bị cướp - quan hệ xã hội thứ nhất;
quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nạn nhân - quan hệ xã hội thứ
hai. Rõ ràng trong trường hợp này, nếu cơ quan có thẩm quyền chỉ xem xét
một trong hai quan hệ xã hội đã nêu thì việc chứng minh khách thể của tội
phạm sẽ trở lên phiến diện, không đầy đủ; không làm rõ được bản chất và tính
nguy hiểm của hành vi cướp tài sản.
Cần phân biệt khách thể của tội phạm với đối tượng tác động của tội
phạm. Như phân tích ở trên, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại còn đối
tượng tác động của tội phạm là đối tượng cụ thể, trực tiếp chịu sự tác động của
hành vi phạm tội khi người phạm tội thực hiện sự xâm hại các khách thể xã
hội do pháp luật hình sự bảo vệ. Ví dụ: Trong vụ án trộm cắp tài sản, A trộm
cắp chiếc xe máy của B thì chiếc xe máy bị đánh cắp chính là đối tượng tác
động của A còn khách thể của tội phạm trong vụ án này là quyền sở hữu của B
đối với chiếc xe máy này bị thiệt hại. Có những trường hợp, cùng một đối tượng
tác động của tội phạm có thể xác định được nhiều khách thể của tội phạm. Ví
25. 25
dụ: M là người Việt Nam được một tổ chức phản động ở nước ngoài giao
nhiệm vụ ám sát N (đại sứ nước ngoài tại Việt Nam) để gây thanh thế. Trong
vụ án này, N là đối tượng tác động của tội phạm nhưng thông qua việc ám sát
N, đã có ít nhất hai khách thể bị xâm hại, đó là quyền được bảo vệ tính mạng
của N và sự vững mạnh của chính quyền nhân dân bị xâm hại. Ngược lại, một
số tội phạm như: Tội che giấu tội phạm, Tội không tố giác tội phạm…thì "đối
tượng tác động không là dấu hiệu bắt buộc của CTTP vật chất, thì sẽ chính là
sự biểu hiện về mặt nội dung của khách thể của tội phạm" [4, tr. 355]. Trong
giải quyết vụ án hình sự, việc chứng minh khách thể của tội phạm là rất quan
trọng vì khách thể tội phạm có thể giúp cơ quan tiến hành tố tụng phân biệt
loại tội phạm này với tội phạm khác cũng như việc xác định tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội.
* Mặt chủ quan của tội phạm:
Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong của cách xử
sự có tính chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật
hình sự, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với
hậu quả của hành vi đó [4, tr. 376].
Mặt chủ quan của tội phạm chính là thái độ tâm lý của chủ thể đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra.
PGS.TS Trần Văn Độ đã viết: "Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu
tố khách quan và chủ quan; do đó, hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm được thực hiện trong thực tế khách quan chỉ có thể quy cho chủ thể
nếu nó bao hàm bằng yếu tố chủ quan của người đó" [41, tr. 59]. Trong các
dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc đối với
mọi CTTP. Lỗi trong luật hình sự được hiểu là:
Quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội mà nội
dung của nó là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội đã được thể
26. 26
hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Đó là sự phủ định đòi hỏi
của xã hội trong ý thức của chủ thể. Sự phủ định chủ quan này tồn
tại trong sự thống nhất với sự phủ định khách quan là sự phủ định
đòi hỏi của xã hội trên thực tế mà biểu hiện cụ thể là sự gây thiệt hại
cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ... [17, tr. 83-84].
Nếu chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi đối
với hành vi đã thực hiện thì không trở thành chủ thể tội phạm và không phải
chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện. Căn cứ vào các chế định lỗi
trong BLHS hiện hành, lỗi được xác định theo hai dạng, đó là lỗi cố ý và lỗi
vô ý. Chứng minh mặt chủ quan của tội phạm thực chất là việc chứng minh
lỗi của chủ thể, cụ thể là chứng minh người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
có lỗi hay không có lỗi đối với hành vi đã thực hiện, nếu có lỗi thì đó là lỗi cố ý
hay vô ý? Ngoài việc chứng minh lỗi, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng
minh động cơ, mục đích phạm tội. Động cơ phạm tội là động lực bên trong
thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội là kết
quả mà người phạm tội đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện tội phạm.
Động cơ và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc thuộc
mặt chủ quan đối với bất kỳ tội phạm nào mà nó chỉ có trong tội cố ý (thường
là cố ý trực tiếp) còn đối với tội cố ý gián tiếp và tội vô ý thì ít khi có dấu hiệu
này. Chính vì vậy:
Động cơ và mục đích không được xếp ngang hàng với lỗi
trong mặt chủ quan của tội phạm, vì tự bản thân mình lỗi là toàn bộ
mặt chủ quan của tội phạm còn động cơ, mục đích suy cho cùng,
chẳng qua cũng chỉ là các dấu hiệu tùy nghi thuộc mặt chủ quan của
phạm tội - các yếu tố của lỗi mà thôi [4, tr. 378].
BLHS hiện hành quy định rõ hai hình thức lỗi - phạm tội do cố ý và
phạm tội do vô ý (Điều 9 - 11 BLHS). Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như
thực tiễn giải quyết vụ án hình sự còn xuất hiện trường hợp tồn tại hai hình
27. 27
thức lỗi cùng một lúc - lỗi cố ý đối với hành vi và lỗi vô ý đối với hậu quả
phạm tội. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là hỗn hợp lỗi. Trường
hợp hỗn hợp lỗi chỉ xuất hiện trong các CTTP tăng nặng bởi vì ý định chủ
quan của người phạm tội đặt ra đối với hậu quả phạm tội được quy định trong
CTTP cơ bản còn hậu quả phạm tội xảy ra trên thực tế đã vượt quá hậu quả
dự định ban đầu, nằm ngoài mong muốn chủ quan của chủ thể. Khi hậu quả
xảy ra vượt quá sự mong muốn của chính bản thân người phạm tội đã chuyển
hành vi phạm tội từ CTTP cơ bản sang CTTP tăng nặng.
Lỗi là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt chủ quan đối với mọi tội phạm, là
cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự, đồng thời lỗi còn là căn cứ đánh giá
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội…Chính vì vai trò và tầm
trong trọng của lỗi nên khi chứng minh lỗi, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải
khẳng định rõ ràng, rứt khoát rằng người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội có lỗi hay không có lỗi đối với hành vi đã thực hiện, nếu có lỗi thì đó là
lỗi gì, cố ý, vô ý hay hỗn hợp lỗi? Bởi vì có xác định được đúng hình thức lỗi
thì mới giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự (áp dụng CTTP cơ
bản, CTTP tăng nặng, đặc biệt tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ) đối với người
phạm tội.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm về lỗi.
Theo đó, lỗi được xem là toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm còn động cơ,
mục đích phạm tội chỉ là các yếu tố của lỗi - là dấu hiệu tùy nghi thuộc mặt
chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, khi chứng minh lỗi của người phạm tội, cơ
quan tiến hành tố tụng không thể bỏ qua việc chứng minh động cơ, mục đích
phạm tội. Bởi vì, ở một số CTTP cơ bản, động cơ phạm tội được xác định là
dấu hiệu định tội (Điều: 95, 96, 105, 106 BLHS 1999…) và ở một số CTTP
tăng nặng, động cơ phạm tội là dấu hiệu định khung hình phạt (điểm q khoản 1
Điều 93, khoản 2 Điều 132BLHS…). Khi luật không quy định là dấu hiệu
định tội hoặc định khung hình phạt thì động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng
hoặc giảm nhẹ chung được quy định tại Điều 46 hoặc Điều 48 BLHS. Cũng
28. 28
như động cơ phạm tội, mục đích phạm tội được xác định là dấu hiệu định tội
của CTTP cơ bản (Điều 78 - 91, 133 - 135, 136 - 143 BLHS…) và dấu hiệu
định khung hình phạt của CTTP tăng nặng (điểm g, h khoản 1 Điều 93; điểm k
khoản 2 Điều 104 BLHS…).
* Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là
những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan bao gồm: Hành vi nguy
hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do
hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn,
phương tiện phạm tội [46, tr. 151-152].
Khi chứng minh mặt khách quan của tội phạm, cơ quan tiến hành tố
tụng cần phải chứng minh: Hành vi phạm tội, hậu quả phạm tội, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả phạm tội và các dấu hiệu không
bắt buộc như thủ đoạn (phương pháp) phạm tội, phương tiện (công cụ) phạm
tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội… Trong mặt khách quan của
tội phạm thì hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc cho mọi CTTP. Nếu không
có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến các khách thể được pháp luật
hình sự bảo vệ thì không có tội phạm. Hành vi phạm tội được biểu hiện ở hai
dạng: Hành động và không hành động. Trong BLHS hiện hành có một số
CTTP có hành vi thuộc mặt khách quan ở dạng không hành động (Điều 102
và Điều 314 BLHS…) và chỉ khi nào người có hành vi không hành động thỏa
mãn CTTP cụ thể đã được quy định trong phần riêng BLHS thì mới phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.
Hậu quả phạm tội là thiệt hại thực tế và đáng kể cho các quan hệ xã
hội được PLHS bảo vệ do hành vi phạm tội gây ra. Với tính chất là dấu hiệu
bắt buộc thuộc mặt khách quan của các CTTP vật chất, hậu quả tội phạm có ý
nghĩa pháp lí hình sự quan trọng đối với việc định tội, định khung hình phạt
29. 29
và quyết định hình phạt. Ví dụ: Một người chưa bị xử lý hành chính về hành
vi chiếm đoạt tài sản hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, trộm cắp
tài sản trị giá từ hai triệu đồng trở lên thì mới phạm tội trộm cắp tài sản theo
Điều 138 BLHS; nếu tài sản trộm cắp có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng thì người phạm tội bị xử lý theo điểm e khoản 2
Điều 138 BLHS; khi hành vi phạm tội chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không
lớn thì Tòa án có thể xem xét, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm
tội theo điểm g khoản 1 Điều 46 BLHS.
Tuy nhiên, hậu quả phạm tội xảy ra phải do hành vi phạm tội trực tiếp
gây nên, nghĩa là ngoài việc chứng minh hành vi phạm tội và hậu quả phạm
tội, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh mối quan hệ nhân quả
giữa chúng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, quan hệ nhân quả là một
dạng của những liên hệ khách quan phổ biến, sự tác động qua lại và phụ thuộc
giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Mối quan hệ nhân quả
thể hiện ở một hiện tượng trong những điều kiện nhất định sản sinh ra những
hiện tượng khác như là quá trình tất yếu mang tính quy luật, Ph. Ăngghen viết:
… Nguyên nhân và kết quả là những biểu tượng chỉ có ý
nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi nào được ứng dụng vào một
trường hợp cá biệt, nhưng ta xét trường hợp cá biệt ấy trong mối
liên hệ chung của nó với toàn bộ thế giới thì những biểu tượng đó
lại hòa hợp với nhau, xoắn suýt với nhau trong sự tác động qua lại
một cách phổ biến [1, tr. 36].
Vì vậy, khi chứng minh mối quan hệ nhân quả, cơ quan tiến hành tố
tụng phải chứng minh rõ nguyên nhân là hành vi trái pháp luật, có tính nguy
hiểm cho xã hội, gây ra các dạng thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ. Cụ thể là khi xem xét, chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải dựa
vào một số căn cứ nhất định như: Hành vi phạm tội phải có trước hậu quả
30. 30
phạm tội; Hành vi phạm tội phải chứa đựng khả năng thực tế và hành vi đó
chính là hành vi gây ra hậu quả nguy hại cho khách thể được pháp luật hình
sự bảo vệ…
Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như thủ đoạn,
phương tiện, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội tuy không phải là các
dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan nhưng khi chứng minh mặt khách
quan của tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng không thể bỏ qua bởi vì trong
một số CTTP cụ thể, các dấu hiệu này có ý nghĩa pháp lí hình sự quan trọng
đối với việc định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt. Ví dụ:
Địa điểm phạm tội "vùng rừng núi", "vùng biển", "vùng hiểm yếu khác" là dấu
hiệu định tội đối với tội hoạt động phỉ - Điều 83 BLHS; phương tiện, thủ đoạn
phạm tội "sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác" là dấu
hiệu định khung tăng nặng đối với tội trộm cắp tài sản - điểm d khoản 2
Điều 133 BLHS; hoàn cảnh phạm tội "lợi dụng chiến tranh, thiên tai, dịch
bệnh…" là dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội buôn lậu - điểm g khoản 2
Điều 153 BLHS; thủ đoạn, phương tiện, hoàn cảnh phạm tội…được quy định
tại điểm l, m Điều 48 BLHS là căn cứ quan trọng để Tòa án quyết định hình
phạt. Việc chứng minh một số dấu hiệu (địa điểm phạm tội, thời gian phạm
tội) còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của cơ quan
tiến hành tố tụng và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội. Trong trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi nguy
hiểm cho xã hội thì cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh từng hành
vi phạm tội đồng thời phải làm rõ các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan có
liên quan đến hành vi đó.
Khi chứng minh những vấn đề thuộc về bản chất vụ án và những vấn
đề liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt của người
phạm tội, ngoài việc chứng minh bốn nhóm vấn đề thuộc bốn yếu tố CTTP,
cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh những tình tiết được quy định
trong BLHS năm 1999, đó là: các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự của
31. 31
hành vi như phòng vệ chính đáng (Điều 15 BLHS), tình thế cấp thiết (Điều 16
BLHS), sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS); Những tình tiết là căn cứ miễn trách
nhiệm hình sự (Điều 25 BLHS); Những tình tiết là căn cứ quyết định hình
phạt trong đồng phạm (Điều 53 BLHS), Những tình tiết là căn cứ miễn hình
phạt (Điều 54 BLHS); Những tình tiết là căn cứ quyết định hình phạt những
hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể thì không phải là tội phạm (khoản 4, Điều 8 BLHS 1999)…
Bên cạnh việc chứng minh những tình tiết thuộc về bản chất vụ án và
những tình tiết liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự và hình phạt,
cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh những tình tiết khác có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, đó là: Những tình tiết là
căn cứ không được khởi tố vụ án; những tình tiết xác định thẩm quyền điều
tra, xét xử vụ án; những tình tiết làm căn cứ để đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án;
mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị cáo, người bị hại nguyên
đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự; tung tích nạn nhân trong những vụ án mà
người bị hại đã chết, mất tích hoặc mất khả năng nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi; nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị can bị, bị cáo; các
tình tiết để xác định bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…; các tình tiết làm căn cứ áp dụng các
biện pháp ngăn chặn; các tình tiết làm căn cứ áp dụng các biện pháp tư pháp
(Điều 41, 42, 43 và Điều 70 BLHS năm 1999) và các tình tiết khác có ý nghĩa
đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự…
- Đối với vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện thì bên
cạnh việc chứng minh những tình tiết chung quy định tại Điều 63 BLTTHS,
cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh thêm một số tình tiết khác để
đảm bảo nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội với mục tiêu chính
là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành người có ích cho gia
đình và xã hội, đó là: Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ
nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống
32. 32
và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều
kiện phạm tội. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất và tâm sinh lý, có nhận thức về xã hội chưa đầy đủ, sự hiểu biết về pháp
luật chưa sâu, kinh nghiệm sống chưa nhiều nên họ dễ bị kích động, cám dỗ
bởi những thói hư tật xấu, các tệ nạn xã hội và dẫn đến con đường phạm tội.
Để đảm bảo chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội với
mục tiêu giáo dục họ là chính, giúp đỡ họ nhận thức được hành vi phạm tội
mà họ đã gây ra là trái với yêu cầu của pháp luật và đạo đức xã hội, cải tạo,
uốn nắn họ phát triển theo hướng lành mạnh để trở thành những công dân có
ích cho xã hội. Vì mục tiêu trên, pháp luật tố tụng hình sự yêu cầu trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự do người chưa thành niên phạm tội, cơ quan
tiến hành tố tụng phải chứng minh thêm các nội dung trên để làm sáng tỏ bản
chất vụ án, đồng thời có biện pháp giáo dục, cải tạo, giúp đỡ người chưa
thành niên phạm tội hoàn lương đạt hiệu quả cao…Và thực tiễn xét xử vụ án
hình sự do người chưa thành niên phạm tội, Tòa án "chỉ đưa vào trường giáo
dưỡng những trường hợp hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng, nhân
thân xấu, không có nơi cư trú nhất định" [26, tr. 399].
- Trong trường hợp có căn cứ cho rằng, người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì
ngoài việc chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội, cơ quan tiến hành tố
tụng phải chứng minh thêm: Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người
có hành vi nguy hiểm cho xã hội; người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có
mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không. Nếu có
đủ chứng cứ chứng minh được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội,
họ đang bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác làm mất hoàn toàn khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì họ được coi là người
không có năng lực trách nhiệm hình sự và đương nhiên họ không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội đã thực hiện, khi đó họ chỉ bị áp
33. 33
dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc theo quy định. Trong quá trình chứng
minh vụ án, nếu cơ quan tiến hành tố tụng có đủ chứng cứ khẳng định tại thời
điểm thực hiện hành vi tội phạm, người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì đương nhiên họ phải chịu
trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội họ đã gây ra.
Như vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự không chỉ được
quy định tại Điều 63, Điều 302 và Điều 312 BLTTHS năm 2003 mà còn gián
tiếp được quy định trong một số điều luật khác của BLTTHS năm 2003 như:
Điều 10, Điều 27, Điều 28, Điều 64, Điều 66, Điều 67, Điều 107, Điều 126,
Điều 224 BLTTHS... Đồng thời, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự
còn được quy định ở một số điều luật trong Phần chung của BLHS năm 1999
như: Điều 11, Điều 15, Điều 16, Điều 25, Điều 53, Điều 54, khoản 4 Điều 8
BLHS 1999 và một số điều luật khác của Bộ luật này.
1.1.3. Phân loại đối tƣợng chứng minh
Việc phân loại đối tượng chứng minh cần phải dựa vào các tiêu chí
phân loại khác nhau. Nếu căn cứ vào mối quan hệ của những vấn đề phải
chứng minh với sự buộc tội thì đối tượng chứng minh được chia làm hai
nhóm, đó là: Nhóm vấn đề chứng minh có tính chất buộc tội và nhóm vấn đề
chứng minh có tính chất gỡ tội. Nhóm đối tượng chứng minh có tính chất
buộc tội bao gồm: có sự kiện phạm tội hay không, nếu có thì ai là người thực
hiện tội phạm?; lỗi của chủ thể thực hiện tội phạm; tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự của người phạm tội... Nhóm vấn đề chứng minh có tính chất gỡ
tội bao gồm: Những tình tiết chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội;
những tình tiết miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội... Dù thuộc nhóm nào thì
mỗi vấn đề chứng minh đều có vị trí và ý nghĩa khác nhau trong quá trình giải
quyết vụ án. Về lí luận cũng như thực tiễn tố tụng hình sự, có những vấn đề
34. 34
buộc phải chứng minh đối với bất kì vụ án nào vì nếu không chứng minh
được nó hoặc chứng minh không đầy đủ thì sẽ không giải quyết đúng đắn
được vụ án hình sự, dẫn đến việc làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm.
Mặt khác, có những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án này nhưng
không nhất thiết phải chứng minh trong vụ án khác… Từ vị trí và ý nghĩa của
mỗi nhóm vấn đề chứng minh trong mối quan hệ với việc giải quyết đúng đắn
vụ án, đối tượng chứng minh có thể được phân loại như sau: Những vấn đề
chứng minh thuộc về bản chất vụ án (chứng minh người thực hiện hành vi có
phạm tội hay không phạm tội); những vấn đề chứng minh ảnh hưởng đến việc
quyết định hình phạt; những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ án.
- Những vấn đề chứng minh thuộc về bản chất vụ án bao gồm: Có
hành vi phạm tội xảy ra hay không; ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có
năng lực trách nhiệm hình sự hay không; có lỗi hay không có lỗi, nếu có lỗi
thì do cố ý hay vô ý và các tình tiết khác thuộc dấu hiệu của CTTP. Như vậy,
những vấn đề chứng minh thuộc về bản chất vụ án chính là những dấu hiệu
đặc trưng cơ bản của các yếu tố CTTP được quy định trong BLHS nên những
vấn đề chứng minh thuộc về bản chất vụ án có thể được xác định theo bốn
yếu tố CTTP:
* Chứng minh những vấn đề thuộc về khách thể của tội phạm thực
chất là chứng minh quan hệ (hoặc nhóm quan hệ) xã hội bị xâm hại có phải là
các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ hay không, nếu phải thì
khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm là gì (thỏa mãn Chương
nào, Điều luật nào trong BLHS)
* Chứng minh những vấn đề thuộc mặt khách quan của tội phạm thực
chất là chứng minh hành vi khách quan của phạm tội. Trong một số trường
hợp cần phải chứng minh một số vấn đề khác như hậu quả phạm tội, mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả phạm tội...
35. 35
* Chứng minh những vấn đề thuộc về chủ thể tội phạm thực chất là
chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay không; những dấu hiệu đặc
biệt của chủ thể. Nếu vụ án có nhiều người tham gia thì phải chứng minh
năng lực chủ thể của từng người, vai trò của từng người trong vụ án…
* Chứng minh những vấn đề thuộc mặt chủ quan của tội phạm thực
chất là chứng minh hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể thực hiện có lỗi
hay không có lỗi, nếu có thì do vô ý hay cố ý. Trong một số trường hợp còn
phải chứng minh động cơ phạm tội, mục đích phạm tội…
Khi chứng minh những vấn đề thuộc về bản chất vụ án, ngoài việc
chứng minh bốn nhóm vấn đề thuộc bốn yếu tố CTTP, cơ quan tiến hành tố
tụng còn phải chứng minh có hay không có các tình tiết loại trừ trách nhiệm
hình sự của hành vi như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất
ngờ; những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm (khoản 4, Điều 8 BLHS
1999) hoặc "…những trường hợp do yếu tố này hay yếu tố khác làm cho hành
vi được thực hiện mất đi tính nguy hiểm cho xã hội, thậm chí hành vi đó được
coi là tích cực, có lợi, những hành vi đó không thể coi là tội phạm" [39].
- Những vấn đề chứng minh ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt
đối với người phạm tội, gồm:
* Tính chất và mức độ của hành vi phạm tội: Để đánh giá được tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần
phải thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội đã xâm hại đến quan hệ
xã hội nào, mức độ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại của hành vi, mức
độ lỗi; công cụ, phương tiện phạm tội; phương pháp, thủ đoạn thực hiện tội
phạm; hoàn cảnh phạm tội; nơi xảy ra việc phạm tội…
* Các tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự (Điều 48 BLHS) và các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 46 BLHS) của bị can, bị cáo khi
thực hiện tội phạm.
36. 36
* Những đặc điểm nhân thân của người phạm tội có ảnh hưởng tới
việc đánh giá tính chất, mức độ phạm tội và khả năng cải tạo giáo dục của
người phạm tội và "tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của của người phạm
tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của
họ" [45, tr. 124].
Ngoài ra, khi giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng còn
phải chứng minh các tình tiết: Người phạm tội có được hưởng thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự hay không (tội phạm xảy ra khi nào, trong khoảng
thời gian đó người phạm tội có trốn tránh pháp luật và có phạm tội mới hay
không?); người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình
phạt hay không (do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc do người phạm tội
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội?…); tội phạm được thực hiện ở giai
đoạn nào (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, phạm tội
chưa đạt đã hoàn thành hay tội phạm hoàn thành?); trong vụ án đồng phạm cơ
quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh tính chất đồng phạm, vai trò và
mức độ tham gia của từng người trong vụ án, tình tiết năng nặng - giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của từng người…nhằm đảm bảo nguyên tắc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt.
- Những vấn đề chứng minh khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết
đúng đắn vụ án: Là những tình tiết có liên quan đến vụ án, nếu thiếu những
tình tiết này, việc giải quyết vụ án sẽ thiếu tính khách quan hoặc không bảo
đảm nguyên tắc pháp chế trong tố tụng hình sự, đó là:
* Những tình tiết là căn cứ không được khởi tố vụ án (Điều 107
BLTTHS); những tình tiết xác định thẩm quyền điều tra, xét xử vụ án; những
tình tiết làm căn cứ để đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án…
* Mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị cáo, người bị hại
nguyên đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự.
37. 37
* Tung tích nạn nhân trong những vụ án mà người bị hại đã chết, mất
tích hoặc mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
* Nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị can bị, bị cáo: Trong việc
giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh
nguyên nhân và điều kiện phạm tội nhằm một mặt để áp dụng những biện
pháp cải tạo, giáo dục người phạm tội có hiệu quả, giúp họ tái hòa nhập cộng
đồng sau khi chấp hành xong hình phạt, mặt khác đề xuất hoặc áp dụng các
biện pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
* Các tình tiết để xác định bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…
* Các tình tiết làm căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn; các tình
tiết làm căn cứ áp dụng các biện pháp tư pháp (các điều 41, 42, 43 và Điều 70
BLHS 1999)
* Các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án
hình sự.
Việc phân loại đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự giúp chúng
ta có cái nhìn khái quát, toàn diện và đầy đủ hơn về đối tượng chứng minh
trong vụ án hình sự, đồng thời còn cho chúng ta thấy được vai trò, tầm quan
trọng của từng nhóm đối tượng chứng minh cũng như từng đối tượng chứng
minh cụ thể trong vụ án. Trên cơ sở đó, giúp cơ quan tiến hành tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự xác định đúng phạm vi, giới hạn chứng
minh của từng vụ án hình sự, tránh việc điều tra, thu thập chứng cứ bị tràn
lan, mất phương hướng…
1.2. ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ CỤ THỂ
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp những vấn đề
cần phải chứng minh cho mọi vụ án hình sự, mang tính bao quát, đã được nhà
làm luật dự liệu và ghi nhận trong BLTTHS nhằm điều chỉnh hoạt động của
38. 38
cơ quan tiến hành tố tụng theo đúng hướng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế tội phạm xảy ra rất đa dạng, có diễn biến
phức tạp và biến đổi qua các giai đoạn nên tính dự liệu của pháp luật tố tụng
hình sự về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự chỉ mang tính chất
tương đối.
Do tính chất, mức độ và diễn biến của các tội phạm không giống nhau
nên đối tượng chứng minh trong mỗi vụ án hình sự cụ thể là khác nhau. Việc
xác định đối tượng chứng minh đúng, cần thiết trong mỗi vụ án hình sự cụ thể
được hiểu là giới hạn chứng minh trong vụ án đó. Nói cách khác, giới hạn
chứng minh trong vụ án hình sự chính là việc xác định xem vụ án hình sự đã
xảy ra cần phải chứng minh những tình tiết gì để được coi là cần và đủ để làm
sáng tỏ toàn bộ sự thật, khách quan của vụ án. Cũng do tính đa dạng, phức tạp
của tội phạm mà giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự không được ghi
nhận thành một điều luật cụ thể riêng trong BLTTHS.
Xuất phát từ sự phân tích như trên, vấn đề đặt ra là khi có vụ án xảy
ra, cơ quan tiến hành tố tụng phải làm gì để xác định đúng giới hạn chứng
minh của vụ án? Để giải quyết thỏa đáng vấn đề này, cần xem xét đối tượng
chứng minh ở từng phương diện cụ thể. Trên phương diện pháp luật, Điều 63
BLTTHS ghi nhận đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự có tính chất
chung, bao quát cho mọi vụ án, là định hướng đúng đắn cho cơ quan tiến hành
tố tụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Việc ghi nhận đối tượng
chứng minh trong BLTTHS bao hàm nhiều nội dung song nội dung chính và
chủ yếu lại chứa đựng đầy đủ bốn yếu tố của CTTP - xác định nội dung cơ
bản nhất của giới hạn chứng minh cho mọi vụ án. Khi giải quyết một vụ án cụ
thể, cơ quan tiến hành tố tụng không phải chứng minh tất cả những vấn đề đã
được dự liệu trong luật mà chỉ cần xác định và chứng minh những vấn đề có
liên quan và có ý nghĩa, đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án. Trên phương
diện thực tiễn giải quyết vụ án, để đảm bảo chứng cứ cần và đủ để chứng
minh, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, ngoài việc căn cứ vào Điều 63
39. 39
BLTTHS để xác định những tình tiết cần phải chứng minh của vụ án đó, cơ
quan tiến hành tố tụng còn phải thu thập chứng cứ chứng minh một số vấn đề
khác như: chứng minh không có sự việc phạm tội; hành vi phạm tội không
CTTP; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; nhân thân người phạm tội…Việc
xác định giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng trong việc thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
đây là vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp bởi lẽ giới hạn chứng minh trong vụ
án hình sự cụ thể không được xác định bằng một ranh giới nhất định, cũng
không được khái quát và ghi nhận thành một điều luật cụ thể riêng làm khuôn
mẫu pháp lí định hướng cho hoạt động chứng minh. Yêu cầu "cần và đủ" về
mặt chứng cứ ở đây được xuất phát từ yêu cầu giải quyết vụ án hình sự đúng
đắn, đảm bảo sự thật khách quan của vụ án, để xác định được điều này cơ
quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào chính nội dung vụ án đã xảy ra với
những tình tiết thực tế của nó và các quy định của pháp luật để xác định đúng
đối tượng chứng minh trong vụ án đó. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho
thấy, Cơ quan điều tra đã thu thập quá nhiều chứng cứ chứng minh cho một
vấn đề dẫn đến việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử tại
phiên tòa mất nhiều thời gian, thiếu tập trung và rõ ràng như vậy là không cần
thiết. Trong một số vụ án khác, việc thu chứng cứ không đủ để giải quyết vụ
án, khi chuẩn bị xét xử Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra
quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung…Việc thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ yêu cầu phải đủ để giải quyết đúng đắn vụ án,
đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên chính xác, có căn cứ và đúng
pháp luật.
Trong quá trình chứng minh vụ án hình sự, ngoài việc chứng minh các
tình tiết đã được quy định trong BLTTHS năm 2003, cơ quan tiến hành tố
tụng còn phải chứng minh những tình tiết được quy định trong BLHS năm
1999, đó là các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự của hành vi như: Phòng
40. 40
vệ chính đáng (Điều 15 BLHS), tình thế cấp thiết (Điều 16 BLHS), sự kiện
bất ngờ (Điều 11 BLHS); những tình tiết là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
(Điều 25 BLHS); những tình tiết là căn cứ quyết định hình phạt trong đồng
phạm (Điều 53 BLHS), những tình tiết là căn cứ miễn hình phạt (Điều 54
BLHS); những tình tiết là căn cứ quyết định hình phạt những hành vi tuy có
dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể
thì không phải là tội phạm (khoản 4, Điều 8 BLHS 1999)…
Khi nghiên cứu về giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự, một vấn
đề nữa chúng ta cần xem xét là vấn đề giới hạn của việc chứng minh trong
giai đoạn xét xử. Điều 196 BLTTHS năm 2003 về giới hạn của việc xét xử
quy định:
Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội
danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản mà
Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố [29].
Căn cứ quy định trên, Tòa án chỉ được xét xử bị cáo theo những tội
danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, trong trường hợp thay đổi tội danh thì tội
đó bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố. Vậy, tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử có đủ chứng cứ chứng minh bị cáo phạm tội nặng hơn tội Viện
kiểm sát đã truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử bị cáo theo tội danh Viện
kiểm sát đã truy tố theo bản cáo trạng. Theo quan điểm của chúng tôi, việc
quy định như trên có lẽ đã phần nào hạn chế quyền quyết định của Tòa án bởi
lẽ, Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội,
hình phạt và các biện pháp tư pháp khác áp dụng đối với người phạm tội. Để
có một bản án công minh, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm thì khi xét xử, Tòa án
không chỉ xem xét, đánh giá hoạt động điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra,
41. 41
Viện kiểm sát xem hoạt động tố tụng do họ thực hiện có đúng trình tự, thủ tục
tố tụng theo quy định của pháp luật hay không, kiểm tra lại kết quả điều tra,
truy tố của các cơ quan này mà Tòa án phải xem xét tất cả các tình huống có
liên quan đến vụ án, có toàn quyền khẳng định hay phủ định các hành vi, các
tội danh của bị cáo mà Viện kiểm sát đã truy tố, trên cơ sở những chứng cứ có
được có quyền quyết định một tội danh khác nhẹ hay nặng hơn tội danh mà
Viện kiểm sát đã truy tố và có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc "Khi xét xử,
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [29]. Rõ ràng việc
quy định giới hạn chứng minh trong xét xử tại Điều 196 của Bộ luật là không
phù hợp nguyên tắc xét xử "độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" của Tòa án khi
xét xử vụ án hình sự. Để bảo đảm quyền "độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"
của Tòa án khi xét xử vụ án hình sự, Điều 196 BLTTHS cần được sửa đổi
theo hướng Viện Kiểm sát truy tố hành vi phạm tội của bị can còn Tòa án căn
cứ hành vi bị truy tố, mặt chủ quan, mặt khách quan của tội phạm và chứng
cứ thu thập được để xác định tội danh, quyết định hình phạt, đảm bảo việc xét
xử đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Như vậy, giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự là kết quả nhận
thức chủ quan của cơ quan tiến hành tố tụng về vụ án đã xảy ra dựa trên cơ sở
quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng chứng minh và các tình
tiết thực tế của vụ án. Kết quả nhận thức đó có làm sáng tỏ sự thật về vụ án
hay không phụ thuộc vào sự hiểu biết về pháp luật, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án, kinh nghiệm
thực tiễn và niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng được giao
nhiệm vụ giải quyết vụ án.
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH
TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
"Sự thành công hay thất bại của quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ
án hình sự có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng bắt
42. 42
nguồn từ chứng cứ và quá trình thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ" [2] mà
để có chứng cứ đầy đủ, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định, đảm bảo tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp làm căn
cứ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự thì ngoài năng lực chuyên môn,
kinh nghiệm công tác, niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng,
còn phụ thuộc vào việc ghi nhận của pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng
chứng minh. Nếu pháp luật tố tụng hình sự quy định đầy đủ, chi tiết những vấn
đề cần phải chứng minh thì chính các quy định đó sẽ là định hướng đúng đắn
cho các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng.
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề
chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó
cơ quan tiến hành tố tụng có căn cứ để giải quyết vụ án hình sự đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự,
đảm bảo mục tiêu "…không tội phạm nào không bị phát hiện" [34, tr. 508] và
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm, đáp ứng tốt yêu cầu đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm của Đảng và Nhà nước. Việc nghiên cứu đối
tượng chứng minh trong vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
khoa học và thực tiễn pháp lí tố tụng hình sự.
Đối với khoa học pháp lí hình sự, việc nghiên cứu đối tượng chứng
minh trong vụ án hình sự sẽ giúp người nghiên cứu thấy được về mặt lí luận,
đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự bao gồm những vấn đề gì; vấn đề
gì đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự thực định; vấn đề gì chưa được
ghi nhận, có cần thiết phải ghi nhận bổ sung hay không…từ đó có kiến nghị
bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự.
Đối với thực tiễn pháp lí tố tụng hình sự: Việc nghiên cứu đối tượng
chứng minh trong vụ án hình sự sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng có nhận
thức thống nhất, toàn diện và đầy đủ về đối tượng chứng minh, thấy được vai
43. 43
trò và tầm quan trọng của đối tượng chứng minh đối với việc giải quyết vụ án
hình sự. Đặc biệt, khi nghiên cứu về phân loại đối tượng chứng minh, sẽ giúp
cơ quan tiến hành tố tụng thấy rõ hơn về vai trò, ý nghĩa của mỗi nhóm đối
tượng chứng minh cũng như của từng đối tượng chứng minh cụ thể; thấy
được đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự nói chung và yêu cầu, phạm
vi - giới hạn chứng minh trong vụ án hình sự cụ thể, trên cơ sở đó có phương
hướng và xây dựng kế hoạch điều tra, thu thập chứng cứ phù hợp, sát với thực
tế của từng vụ án, tránh hiện tượng điều tra, thu thập chứng cứ tràn lan, vừa
thừa vừa thiếu chứng cứ…Thực tiễn đã cho thấy, ở giai đoạn điều tra, Cơ
quan điều tra phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ không đầy đủ,
phiến diện sẽ dẫn đến việc Viện kiểm sát, Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc nếu cứ sử dụng những chứng cứ đó để giải quyết vụ án sẽ dẫn đến
xử lí sai sót, thậm chí làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, nguyên nhân là
do xác định không đúng hoặc xác định đúng nhưng chứng minh không đầy đủ
đối tượng chứng minh. Ngoài ra, việc xác định đúng và chứng minh đầy đủ
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự còn đảm bảo hoặc rút ngắn
thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm chi phí về tiền bạc, thời gian, công sức
của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án.