SlideShare a Scribd company logo
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN NHẬT LỆ
NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Nhật Lệ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM............ 7
1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ.................................................... 7
1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ ............................................................. 7
1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong
việc chứng minh tội phạm..................................................................10
1.2. Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ ..........................................20
1.2.1. Vật chứng ...........................................................................................20
1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng.......................................21
1.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia
trên thế giới.......................................................................................32
1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng thẩm vấn...................................................................32
1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng tranh tụng.................................................................36
1.3.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn...................41
Chương 2: NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ.................................47
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ qua
các thời kỳ lịch sử.............................................................................47
2.1.1. Nguồn chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam....................47
2.1.2. Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành
BLTTHS năm 1988............................................................................52
2.1.3. Pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ theo bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 .......................................................................................57
2.2. Thực trạng sử dụng nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Việt Nam............................................................................................64
2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ
trong các vụ án hình sự ......................................................................64
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tế sử dụng nguồn chứng
cứ trong các vụ án hình sự..................................................................72
Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU
QUẢ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG
CỨ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ.....................................................84
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự...84
3.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định
nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự...........................................91
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về
nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ................92
3.3.1. Về khái niệm chứng cứ ......................................................................93
3.3.2. Mở rộng nguồn chứng cứ...................................................................94
3.3.3. Xác định quyền thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự - Luật
sư, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ.......................96
3.3.4. Về các nguyên tắc thu thập chứng cứ ................................................98
3.3.5. Về chế định giám định .......................................................................99
3.3.6. Xây dựng Luật về chứng cứ nhằm nâng cao chất lượng xét xử án
hình sự ..............................................................................................101
3.4. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả quy định pháp luật
về nguồn chứng cứ..........................................................................103
KẾT LUẬN..................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Viết tắt Nội dung từ
1. BLHS Bộ luật hình sự
2. BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
3. CQĐT Cơ quan điều tra
4. CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
5. DVBC Duy vật biện chứng
6. KSV Kiểm sát viên
7. TA Tòa án
8. TNHS Trách nhiệm hình sự
9. VKS Viện kiểm sát
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa 2009-2012 68
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đi cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề tội phạm đang
ngày một gia tăng và có những diễn biến hết sức phức tạp. Công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà nước ta xem là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là hai mặt của nhiều
vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và toàn xã hội. Để phát hiện và
xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì
cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất
được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án.
Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, chứng cứ luôn là một vấn đề không thể
thiếu nhằm chứng minh một người có thực hiện hành vi phạm tội hay không.
Chỉ có chứng cứ hợp pháp mới có giá trị chứng minh tội phạm. Một trong
những điều kiện để chứng cứ được coi là hợp pháp là nó phải được rút ra từ
một trong các nguồn chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS
Việt Nam năm 2003. Việc nghiên cứu nguồn chứng cứ nói chung và nguồn
chứng cứ trong vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt
pháp lý mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng
để rút ra những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án.
Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải
thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các
cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính
xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự. Việc làm rõ lý luận và thực tiễn về
2
nguồn chứng cứ không chỉ giúp cho hoạt động nghiên cứu mà còn tạo điều
kiện để nâng cao kiến thức cho các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức và cá
nhân hiểu đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ và nguồn chứng cứ.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
tính đến năm 2014, chiến lược cải cách tư pháp đã đi được gần hai phần ba
chặng đường, hoạt động cải cách tư pháp được các cơ quan nhà nước tiến
hành một cách mạnh mẽ và đạt được một số thành tựu đáng kể, trong đó có
các cải cách về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát
hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
Thực tế tố tụng hình sự nước ta thời gian qua cho thấy có không ít các
vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật
trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Điều này dẫn
đến giải quyết vụ án không chính xác, không ít vụ án hình sự mà những
chứng cứ được đưa ra để kết luận một người đã thực hiện hành vi phạm tội
của cơ quan tiến hành tố tụng còn có điểm gây nghi ngờ trong dư luận, nhiều
trường hợp đã kết án oan cho người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Những sai sót
này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó việc thu thập chứng cứ không
phải từ các nguồn chứng cứ hợp pháp là một trong những nguyên nhân làm
cho việc đánh giá và sử dụng chứng cứ không chính xác. Thông qua luận văn
này, tác giả hi vọng có thể đóng góp phần nào làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
“Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” là một đề
tài mới, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề này. Chỉ có các công trình và các bài viết được đăng trên các báo, tạp
chí có nội dung liên quan như: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình
3
sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường năm 2003 của Trường Đại học Luật Hà Nội do ThS. Bùi Kiên Điện
chủ nhiệm đề tài; “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương, Luận án tiến sĩ
năm 2000; Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS Việt
Nam năm 2003, Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh, tạp chí kiểm sát số
12/2005; Nguồn chứng cứ: Lời khai của bị can, bị cáo, Vũ Xuân Thu, tạp chí
kiểm sát số 10/2001…
Như vậy, có thể nói ít có các công trình nghiên cứu một cách toàn
diện và sâu sắc về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam với hình thức là một đề tài độc lập, chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là
một vấn đề cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng
cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá những quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ. Qua đó, đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định về nguồn chứng cứ
trong pháp luật tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các
vụ án hình sự.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên
cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau:
1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ (làm rõ
khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm “nguồn chứng cứ” với một số
khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng
minh…). Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
nguồn chứng cứ, có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước
trên thế giới;
4
2- Đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam về nguồn chứng cứ;
3- Chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam về nguồn chứng cứ;
4- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng
hình sự về nguồn chứng cứ và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử
dụng nguồn chứng cứ trong thực tế.
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về
nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá thực tiễn áp
dụng và chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong quá trình áp dụng của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự.
- Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả giai đoạn
tố tụng: Điều tra; truy tố; xét xử vụ án hình sự; trong đó chủ yếu tập trung
trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật tố tụng hình sự Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác
xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về
vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng…
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn kết hợp với một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như các phương pháp: hệ thống; logic;
phân tích; tổng hợp; so sánh; khảo sát thực tế để chọn lựa tri thức khoa học,
kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự
Việt Nam, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
5
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Việc làm rõ lý luận và thực tiễn của nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan
trọng trong việc giúp nâng cao nhận thức không chỉ của những người tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng mà còn đối với mọi tổ chức và cá nhân
về vấn đề nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự.
- Góp phần quan trọng để giải quyết vụ án hình sự một cách khách
quan, chính xác và đúng pháp luật.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ
luật học về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mà
trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan
tới nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm
mới cơ bản của luận văn là:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật Việt Nam về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, trên cơ sở
có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới;
- Làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm nguồn chứng
cứ với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương
tiện chứng minh…;
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng các quy định
pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự; những kết quả đạt
được, những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề
xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự,
đảm bảo giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
6
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, lời cảm ơn và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
qua các thời kỳ lịch sử
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện và đảm bảo hiệu quả các quy
định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án
hình sự.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ
1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ
Để nhận thức được về các sự vật, hiện tượng nói chung và nhận thức về
nguồn chứng cứ nói riêng, con người phải dựa vào cơ sở phương pháp luận
nhất định. Trong lịch sử nhân loại đã từng có các quan điểm khác nhau về
nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đã từng tồn tại
các quan điểm phi mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn
giáo, quan điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin
nội tâm của Thẩm phán…
Lịch sử đã chứng minh để nhận thức được chính xác các sự vật, hiện
tượng, con người cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa
trên phương pháp biện chứng khoa học, việc nhận thức về nguồn chứng cứ
trong các vụ án hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lý luận của chủ
nghĩa DVBC về nhận thức thế giới được sử dụng như là cơ sở khoa học của
nguồn chứng cứ và việc chứng minh thông qua những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, vụ án hình sự được phản ánh bởi con người và các vật. Chủ
nghĩa DVBC đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và
chịu sự tác động lẫn nhau. Bằng sự tác động qua lại đó, sự tồn tại của sự vật,
hiện tượng này luôn để lại dấu vết ở sự vật, hiện tượng khác.
Theo BLHS Việt Nam thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [23, tr.50].
Theo khái niệm trên, “tội phạm trước hết là hành vi của con người, những gì
8
mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bằng hành vi thì không phải là tội
phạm, hành vi phạm tội là hành vi đã thực tế xảy ra trong thế giới khách quan
và là một hiện tượng thuộc thế giới khách quan” [23, tr.50]. Chính vì sự tồn
tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu
thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác định được sự
thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của
từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo
quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự
thật khách quan của vụ án. Thủ tục thu thập kiểm tra nguồn chứng cứ vật chất
sẽ khác so với thủ tục kiểm tra nguồn chứng cứ phi vật chất.
Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan của
vụ án hình sự. Chủ nghĩa DVBC khẳng định rằng con người có khả năng
nhận thức được thế giới khách quan. Trong sự tồn tại bất tận của thế giới
khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát
triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật
cũng như sự phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con
người về thế giới khách quan ngày càng tiến dần đến tuyệt đối.
Trong TTHS, phải nói rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội có muôn
hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của một tội
phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội
phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề
chứng minh ở một phạm vi nhất định. Đó là “sự việc phạm tội, người thực hiện
tội phạm, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội cũng như các
thiệt hại do tội phạm gây ra” [12, tr.43]. Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong
TTHS là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Nhìn từ góc độ
nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong TTHS có thể đạt
9
được sự thật khách quan tuyệt đối. Nói cách khác, với quan điểm này thì bất kỳ
tội phạm nào xảy ra, con người đều có thể phát hiện và chứng minh được.
Thứ ba, học thuyết về nhận thức của CNDVBC là cơ sở phương pháp
luận đặc biệt quan trọng trong lý luận về nguồn chứng cứ trong luật TTHS
nước ta. Tinh thần cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin về nhận thức là “từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức
hiện thực khách quan” [26, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra,
đánh giá thông qua tư duy của mình, từ đó có kết luận về các tình tiết nói
riêng và về tội phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của CNDVBC là
học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người;
cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý
thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện
thực khách quan, là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về nguồn
chứng cứ, cho lập pháp TTHS về nguồn chứng cứ và áp dụng các quy định
của pháp luật về nguồn chứng cứ trong thực tiễn.
Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong TTHS
có những nét đặc trưng riêng, là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong
quá khứ với phạm vi và giới hạn xác định. Tuy nhiên, quan điểm này của
học thuyết DVBC về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng
minh. Do quá trình chứng minh trong TTHS có những đặc trưng riêng nên
việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang
những nét đặc trưng riêng. Điều này thể hiện trong biện pháp thu thập chứng
cứ như các biện pháp khám nghiệm, giám định, thực nghiệm điều tra... để tái
tạo lại thực tiễn tội phạm, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác và
kiểm tra lại nhận thức chung về tội phạm. Thông qua các nguồn chứng cứ
10
khác nhau, con người có sự đối chiếu, so sánh các chứng cứ để tìm ra chân
lý của sự việc.
Thứ tư, phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy
luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá
chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như
nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống… đóng vai trò quan trọng trong
quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác – Lê nin được
thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
“Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm xác định và đánh giá mọi
chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng
hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [12, tr.45].
CNDVBC chỉ ra rằng khi xem xét thế giới khách quan, cần đặt trong sự
vận động, biến đổi không ngừng. Lê nin đã từng nói: thế giới tồn tại trong vận
động. Luận điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ,
không thể tách rời từng chứng cứ khi chứng minh tội phạm mà phải xem xét
đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ khác nhau
và đặt trong thực tế diễn biến vụ án.
1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong
việc chứng minh tội phạm
1.1.2.1. Khái niệm nguồn chứng cứ
Nguồn chứng cứ trong TTHS là một trong những vấn đề được các nhà
lập pháp trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đề cập từ khá sớm,
trong lịch sử đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khoa học
pháp lý, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng để đưa ra một khái niệm về nguồn
chứng cứ hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên
các quan niệm của họ luôn có sự mâu thuẫn nhất định. Sở dĩ có sự khác nhau
đó là do xuất phát từ những thế giới quan khác nhau, do trình độ phát triển
không đều về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật..
11
Chế định nguồn chứng cứ trong TTHS Việt Nam được ghi nhận lần đầu
tiên trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự được ban
hành kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao.
Theo đó, nguồn chứng cứ bao gồm: Dấu vết, đồ vật, tài liệu có thể chứng
minh việc phạm pháp; lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
người có trách nhiệm bồi thường, người có tài sản, quyền lợi có liên quan đến
việc phạm pháp, nhân chứng; lời kết luận giám định viên, những tài liệu của
cơ quan, đoàn thể cung cấp về nhân thân bị cáo. Pháp luật TTHS Việt Nam
hiện nay đã kế thừa các quy định và phát triển một số các loại nguồn chứng
cứ của Thông tư trên.
Có ý kiến cho rằng giữa nguồn chứng cứ và chứng cứ có quan hệ đến
việc sử dụng chứng cứ:
Từ những nguồn này, sau khi cơ quan tố tụng xác định nguồn
nào để chứng minh trong từng vụ án cụ thể thì nguồn chứng cứ ấy
trở thành chứng cứ… Giả dụ ta coi bàn tay úp sấp là nguồn chứng
cứ và cũng bàn tay ấy để ngửa là chứng cứ thì động tác xoay cổ tay
để bàn tay từ sấp thành ngửa được ví như quá trình điều tra, tư duy
để xác định nguồn chứng cứ nào có thể được dùng là chứng cứ để
chứng minh [8, tr.50].
Như vậy, theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ chính là chứng cứ.
Nó chỉ phụ thuộc vào việc có sử dụng hay không trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự. Chứng cứ được chia làm hai loại là chứng cứ vật chất và chứng cứ
phi vật chất.
Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì “Chứng cứ phải được rút ra
từ những phương tiện chứng minh” [7, tr.75]. Ý kiến khác cho rằng “Nguồn
chứng cứ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của chứng cứ, được quy định
bởi các quy phạm pháp luật, mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ” [15, tr.59].
12
Theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ được hiểu theo hai khía cạnh: thứ
nhất, nguồn là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta nhận thức được
một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; thứ hai, nguồn là nơi chứa đựng chứng
cứ mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Quan niệm này có nét gần gũi với
quan niệm cho rằng nguồn chứng cứ là cái rút ra được chứng cứ: “...nguồn
chứng cứ với nghĩa là nơi là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tìm ra được
những tình tiết có giá trị chứng minh về tội phạm” [9, tr.5].
Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội cho rằng: “Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường
được gọi bằng thuật ngữ khác là phương tiện chứng minh” [24, tr.168]. Có thể
thấy rằng, việc sử dụng cụm từ “phương tiện chứng minh” thay thế cho cụm
từ “nguồn chứng cứ” như vậy là thiếu chính xác, bởi lẽ khái niệm nguồn
chứng cứ không đồng nhất với khái niệm phương tiện chứng minh. Nếu như
nguồn chứng cứ được hiểu là nơi mà từ đó các CQTHTT cũng như người
THTT có thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự, thì phương tiện chứng
minh được hiểu là chứng cứ được chủ thể sử dụng để chứng minh. Như vậy,
chứng cứ mới được coi là phương tiện chứng minh, còn nguồn chứng cứ
không thể là phương tiện chứng minh, mà chỉ là nơi mà từ đó có thể tìm ra đối
tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh.
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ thông qua hiểu rõ bản chất
của một sự vật, hiện tượng ta mới có thể nhận diện chính xác sự vật, hiện
tượng đó là gì? Để làm rõ khái niệm cũng như thuật ngữ nguồn chứng cứ, ta
cần phải hiểu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ. Để làm rõ bản chất của
nguồn chứng cứ, ta không thể không đề cập đến chứng cứ, bởi vì chứng cứ và
nguồn chứng cứ có mối quan hệ qua lại với nhau, chứng cứ và nguồn chứng
cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm
chứng cứ và nguồn chứng cứ như một số học giả quan niệm được. Có thể
13
hiểu, chứng cứ là thông tin, còn nguồn chứng cứ lại chứa đựng những thông
tin đó. Một nguồn chứng cứ có thể chứa đựng nhiều thông tin khác nhau về
vụ án hình sự. Ngược lại, một thông tin phản ánh về vụ án cũng có thể chứa
đựng trong nhiều nguồn chứng cứ khác nhau. Chứng cứ là thông tin, chúng ta
không thể cầm nắm được chứng cứ mà nó phải được chứa đựng dưới các
dạng nguồn chứng cứ thích hợp. Nguồn chứng cứ chính là nơi chứa đựng
chứng cứ, là vật mang thông tin. Nguồn chứng cứ là nguồn cung cấp những
thông tin quan trọng, mà từ đó có thể rút ra được những chứng cứ có giá trị
chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Từ những phân tích trên, có thể rút
ra được một số đặc điểm về nguồn chứng cứ như sau:
Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nguồn chứa đựng các thông tin tồn tại một
cách khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người và có liên quan đến vụ
án. Các thông tin trên chỉ có thể trở thành chứng cứ để chứng minh tội phạm
nếu nó có đầy đủ các thuộc tính của một chứng cứ, gồm tính khách quan, tính
liên quan và tính hợp pháp.
Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để xác định tính hợp pháp của
chứng cứ. Một chứng cứ được coi là hợp pháp khi nó được rút ra từ một trong
các loại nguồn chứng cứ hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, nguồn chứng cứ được các cơ quan và người có thẩm quyền thu
thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội, “Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng
các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, liên quan đến vụ án và
được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” [24, tr.168]. Khái
niệm này đã phần nào nêu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ, tuy nhiên nó
chưa phản ánh hết bản chất của nguồn chứng cứ, chưa chỉ hết ra được mối
quan hệ giữa nguồn chứng cứ với chứng cứ, chưa chỉ được ra ý nghĩa của
nguồn chứng cứ đối với hoạt động tố tụng hình sự.
14
Như vậy, có thể thấy rằng nguồn chứng cứ là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm, nhìn nhận ở nhiều góc nhìn khác nhau. Qua đây, tác giả
cũng xin đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ như sau:
Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự được hiểu là nơi chứa
đựng những thông tin tồn tại một cách khách quan,có liên quan đến vụ án
hình sự, được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp
của chứng cứ đối với mỗi vụ án hình sự cụ thể, góp phần giải quyết đúng đắn
vụ án hình sự.
1.1.2.2. Vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm
Nguồn chứng cứ là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong hoạt
động TTHS, đóng vai trò quan trọng xuyên suốt trong suốt các giai đoạn điều
tra, khởi tố, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Các CQTHTT muốn xác định có
hành vi phạm tội hay không, ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội bắt
buộc phải dựa vào các chứng cứ của vụ án. Có thể nói nguồn chứng cứ trong
pháp luật TTHS là vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao.
Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện để các CQTHTT
xác định được sự thật của vụ án: Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố
tụng, CQĐT, VKS và Toà án khi giải quyết các vụ án hình sự cần xác minh
những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét. Để
giải quyết vụ án, cần phải khẳng định được rằng tội phạm đã xảy ra, xác định
được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành
vi đã thực hiện, tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện
thực khách quan. Để làm được điều đó, CQTHTT phải dựa vào chứng cứ
được thu thập từ những nguồn chứng cứ hợp pháp.
Nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện chứng minh tội phạm,
xác định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự. Thông qua
15
các tài liệu, chứng cứ, các sự kiện thực tế được xác định, khẳng định và đồng
thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Rõ ràng
vai trò, giá trị của nguồn chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là nơi
cung cấp phương tiện để chứng minh tội phạm trong vụ án hình sự.
Khi giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố
tụng, không chỉ CQĐT mà VKS và Toà án cũng cần tiến hành xác minh
những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được xem xét. Đối với hoạt
động xét xử của Tòa án, nguồn chứng cứ có vai trò và vị trí đặc biệt quan
trọng, giúp cho các CQTHTT phát hiện và xác định tội phạm cũng như người
phạm tội một cách nhanh chóng, kịp thời, đề ra biện pháp xử lý phù hợp,
đúng quy định của pháp luật. Thông qua nguồn chứng cứ, KSV thực hành
quyền công tố trước Toà khai thác các thông tin cần thiết từ đó đưa ra lời
buộc tội đối với bị cáo, còn người bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ
lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo.
Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến
hành trên cơ sở của các nguồn chứng cứ, từ các nguồn chứng cứ đó để tìm ra
các chứng cứ, dựa vào đó để làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh
trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận
chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng
cứ, các CQTHTT có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ
án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách
quan của sự việc.
Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để các CQTHTT ra các quyết định
cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án: Việc nhận thức được sự thật của vụ án
là cơ sở để những người THTT ra những quyết định đúng đắn để giải quyết vụ
án. Như vậy, xét về nội dung, nguồn chứng cứ là nơi duy nhất cung cấp
phương tiện để xác định sự thật của vụ án và về mặt hình thức, nguồn chứng cứ
16
là nơi cung cấp các chứng cứ làm căn cứ để ra các quyết định tố tụng cần thiết
nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tất cả các quyết định tố tụng của
CQTHTT đều phải có căn cứ theo luật định, và để xác định được các căn cứ
này phải dựa vào chứng cứ. Điều 100 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ
án khi xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm” [12, tr.64]. Thực tiễn đấu tranh
phòng chống tội phạm cho thấy rằng các cơ quan có thẩm quyền chưa thể biết
ngay được ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi phạm tội đó đã
diễn ra như thế nào nếu chỉ nhận được tin báo tội phạm xảy ra. Để xác định
được tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, các CQTHTT cần thu thập
chứng cứ từ những nguồn chứng cứ hợp pháp từ đó đánh giá, suy luận và đưa
ra những kết luận có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Trong quá trình tố tụng, tùy thuộc vào phạm vi chức năng, nhiệm vụ của
mình, các CQĐT, VKS, Tòa án giải quyết vụ án bằng những quyết định tố tụng
khác nhau. CQĐT với chức năng điều tra có trách nhiệm thu thập chứng cứ, lập
hồ sơ vụ án để làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử của VKS và Tòa án. Mặt
khác, dựa trên các chứng cứ đã thu thập được, CQĐT đưa ra những đánh giá,
những quan điểm của mình đối với vụ án như đề nghị VKS truy tố bị can hoặc
đình chỉ điều tra. Để khởi tố bị can đối với một người phải đảm bảo điều kiện
“khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội” [12,
Điều 126]. Những căn cứ này cũng phải được xác định, được chứng minh bằng
các hoạt động điều tra trước đó. VKS trên cơ sở xem xét, đánh giá những
chứng cứ trong hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng
hoặc đình chỉ vụ án. Trong bản cáo trạng phải ghi rõ những chứng cứ xác định
tội trạng của bị can; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ; nhân thân của bị
can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Bản án và
các quyết định khác của Tòa án cũng phải trên cơ sở chứng cứ. Bản án chỉ
được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
17
VKS và Tòa án chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã
được CQĐT thu thập trong quá trình điều tra, nhưng vẫn có thể tiếp tục thu
thập thêm những chứng cứ mới. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HĐXX có
thể chấp nhận yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật
chứng, tài liệu mới. Những người tham gia tố tụng cũng có thể thay đổi lời
khai khác với lời khai ở giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm,
Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền bổ sung xem xét chứng cứ mới. Điều
246 BLTTHS quy định “Chứng cứ cũ và chứng cứ mới, tài liệu đồ vật mới bổ
sung đều phải được xem xét tại phiên tòa…” [12, tr.143].
Nguồn chứng cứ không chỉ là nơi cung cấp các căn cứ để các CQTHTT
ra những quyết định tố tụng nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội dung vụ
án mà còn cung cấp căn cứ để các CQTHTT ra những quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế tố tụng. Để áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay các
biện pháp cưỡng chế khác đều phải có căn cứ theo luật định, và việc xác định
các căn cứ đó phải dựa vào chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ hợp
pháp. Chỉ khi dựa vào nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật, các
CQTHTT mới có đầy đủ chứng cứ để khẳng định những căn cứ nêu trên, mới
có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế. Nếu không,
quyết định đó bị coi là không có căn cứ, vi phạm pháp chế và vi phạm vào
quyền tự do, dân chủ của công dân.
Thứ ba, nguồn chứng cứ còn có ý nghĩa là nơi cung cấp căn cứ để ra
các quyết định tố tụng mà các quyết định đó sẽ ảnh hưởng đến trình tự tố
tụng của một vụ án cụ thể. VKS và Tòa án có thể ra quyết định trả hồ sơ yêu
cầu điều tra bổ sung nếu “thiếu những chứng cứ quan trọng mà VKS và Tòa
án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội
phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; khi phát hiện có vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng” [12, Điều 168, tr.109], những vi phạm này cũng phải
18
được chứng minh bằng chứng cứ. Các quyết định tạm đình chỉ điều tra hay
phục hồi điều tra của CQĐT; quyết định tạm đình chỉ vụ án của VKS và của
Tòa án, quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại của Tòa án cấp
phúc thẩm cũng phải dựa trên cơ sở chứng cứ để xác định có hay không có
căn cứ để ra quyết định đó.
Sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
việc chứng cứ trong vụ án đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá như thế nào
cũng được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị
giám đốc thẩm vì “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không
đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình
tiết khách quan của vụ án” [12, Điều 273] hoặc bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm nếu “lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch
của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không
đúng sự thật” [12, Điều 291]. Khi có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm, bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ bị xét lại và có thể bị
hủy để điều tra hoặc xét xử lại. Lúc đó, trình tự tố tụng sẽ quay trở lại giai
đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm tùy thuộc vào quyết định của
Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thứ tư, nguồn chứng cứ là phương tiện để người tham gia tố tụng
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Để có thể bào chữa cho bị
can, bị cáo, người bào chữa phải sử dụng những chứng cứ gỡ tội để chứng
minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn tội bị truy cứu;
những chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ. Người bào chữa
cũng sử dụng chứng cứ để bác bỏ những chứng cứ buộc tội đối với bị can, bị
cáo. Quyền đưa ra chứng cứ của người bào chữa được quy định tại Điều 58
BLTTHS. Để thực hiện được quyền đưa chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị
19
cáo, Luật còn quy định về các quyền khác có ý nghĩa như là điều kiện để thực
hiện quyền đưa ra chứng cứ của người bào chữa, đó là các quyền có mặt khi
hỏi cung bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong
các hoạt động điều tra khác, được gặp bị can, bị cáo đang tạm giam; được đọc
hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra, có
quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa (Điều 58 BLTTHS)
Bị can, bị cáo sử dụng nguồn chứng cứ làm phương tiện để tự bảo vệ, để
bào chữa mình trước sự buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra những lời khai
trình bày chứng cứ gỡ tội hoặc những chứng cứ bác bỏ chứng cứ buộc tội (chứng
minh sự không đúng đắn của các chứng cứ phạm tội). Việc đưa chứng cứ để gỡ
tội cho mình là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Ngay cả khi
bị can, bị cáo nhận tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có trách nhiệm xác định
sự thật của vụ án và “lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng
cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội
của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội” [12, Điều 72].
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng sử dụng chứng cứ làm phương tiện để bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đưa ra những chứng cứ có lợi và bác bỏ
những chứng cứ bất lợi cho mình – Quyền đưa chứng cứ và những quyền khác
có liên quan của những người này được quy định tại các Điều 68, 69 BLTTHS.
Những chứng cứ do những người tham gia tố tụng đưa ra được chứa
đựng trong các nguồn: Lời khai của người làm chứng (Điều 67); lời khai của
người bị hại (Điều 68); Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự (Điều
69); Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 70);
Lời khai của người bị tạm giữ (Điều 71); Lời khai của bị can, bị cáo (Điều 72);
Như vậy có thể thấy nguồn chứng cứ là một trong những vấn đề có vị
trí đặc biệt quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn của hoạt động
20
TTHS. Nguồn chứng cứ là căn cứ pháp lý để CQTHTT giải quyết đúng đắn
và chính xác vụ án hình sự. Việc nhận thức đúng vấn đề nguồn chứng cứ sẽ là
cơ sở lý luận, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên cứu, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ qua đó góp phần lớn vào công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm đang hết sức gian nan ở nước ta.
1.2. Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ
1.2.1. Vật chứng
Vật chứng là nguồn chứng cứ có tính truyền thống. Từ khi có hoạt động
TTHS thì vật chứng luôn luôn giữ vai trò quan trọng cho việc làm sáng tỏ sự
thật của vụ án. “Vật chứng là nguồn chứng cứ quan trọng đầu tiên mà thông
qua nó các CQTHTT có thể chứng minh được sự việc hoặc xác định hướng
điều tra của vụ án” [37, tr.33]. Để xây dựng khái niệm vật chứng, trước hết ta
cần phải hiểu các đặc trưng cơ bản của nó:
Thứ nhất, vật chứng là những gì thuộc về thế giới hữu hình, tồn tại dưới
dạng vật thể, con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan là: Xúc
giác, vị giác, thị giác, thính giác, khứu giác. Do tồn tại dưới dạng vật thể, vật
chứng có thể bị các yếu tố tự nhiên tác động làm thay đổi, biến dạng hoặc hủy
hoại nên các CQTHTT cần chú ý trong quá trình phát hiện, thu giữ, bảo quản
và xử lý vật chứng.
Thứ hai, vật chứng chứa đựng và phản ánh những thông tin, sự kiện
thực tế liên quan đến vụ án hình sự và nằm trong mối liên hệ tổng thể giữa
các nội dung, vấn đề của vụ án hình sự.
Thứ ba, vật chứng được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định. Các chủ thể có thẩm quyền thu thập vật
chứng bao gồm: CQĐT, VKS, Tòa án. Ngoài ra, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong Công an
nhân dân, Quân đội nhân dân có quyền thu thập vật chứng trong một số
21
trường hợp. Nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc
thu thập chứng cứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại
hoặc bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cung cấp cho CQTHTT.
Như vậy, vật chứng được hiểu là những gì tồn tại dưới dạng vật thể
chứa đựng và phản ánh những thông tin liên quan đến vụ án, được chủ thể có
thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng
Lời khai được hiểu là lời trình bày của những người tham gia tố tụng
trước các CQTHTT. Lời khai của những người tham gia tố tụng được coi là
nguồn chứng cứ bao gồm: Lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Dạng nguồn chứng cứ
thứ hai này có sự khác biệt so với vật chứng. Lời khai của các đối tượng trên
được hình thành từ tư duy, ý thức của con người. Chính vì vậy, tính khách
quan của lời khai không được đảm bảo như vật chứng. Họ là những người
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ án, tham gia tố tụng với các tư cách
pháp lý khác nhau, tuy nhiên họ có đặc điểm chung là những thông tin mà họ
biết được phản ánh thông qua nhận thức của mình, do đó lời khai của những
người này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan lẫn chủ quan, tùy
từng đối tượng tham gia với tư cách nào trong vụ án và mối quan hệ của họ
với nhau mà mỗi lời khai lại có những ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý khác
nhau đòi hỏi chủ thể lấy lời khai phải vận dụng các chiến thuật, phương pháp
phù hợp để khai thác được những thông tin khách quan, có liên quan đến vụ
án nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
1.2.2.1. Lời khai của bị can, bị cáo
Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử. Như vậy có thể hiểu lời khai của bị can, bị cáo là
22
lời trình bày của người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tình
tiết của vụ án.
Lời khai của bị can, bị cáo là một trong những nguồn chứng cứ có tính
chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong luật
TTHS bởi bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết việc mình có thực hiện
hành vi phạm tội hay không? Thực hiện với mục đích, động cơ, phương tiện,
công cụ phạm tội gì? Và những tình tiết khác liên quan đến vụ án. Ngoài ra,
bị can, bị cáo là người bất lợi nhất trong vụ án, nếu bị Tòa án kết tội, họ có
thể phải chịu hình phạt hoặc các biện pháp cưỡng chế khác.
Lời khai của bị can, bị cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ
sự thật. Tuy nhiên, họ không có nghĩa vụ phải khai báo mà họ có quyền bào
chữa. Nếu bị can, bị cáo khai báo thành khẩn thì được khoan hồng. Vì vậy,
Luật TTHS Việt Nam luôn khuyến khích bị can, bị cáo tích cực góp phần xác
định sự thật của vụ án. Lời khai của bị can, bị cáo có thể theo hai hướng: nhận
tội hoặc không nhận tội. Tuy nhiên, thực tế điều tra, truy tố, xét xử cho thấy
số lượng bị can, bị cáo chịu thành khẩn khai báo ngay từ đầu là rất ít, phần
lớn đều từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối; bị can, bị cáo thường đặt cho
mình mục đích làm sao che giấu hoặc làm giảm TNHS đối với tội phạm mà
họ đã thực hiện… Những thông tin bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo
ý chí chủ quan của bị can, bị cáo thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy,
những thông tin đó không thể là chứng cứ của vụ án. Khi thu thập, kiểm tra và
đánh giá chứng cứ từ lời khai của bị can, bị cáo chủ thể có thẩm quyền cần
phải có thái độ khách quan và thận trọng.
Như vậy, có thể hiểu lời khai của bị can, bị cáo là sự trình bày của
người đã bị khởi tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra
xét xử về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, được thực hiện
trước các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
23
1.2.2.2. Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ
Người bị bắt được hiểu là người bị bắt khi phạm tội quả tang và người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp. Sau khi CQĐT tiếp nhận người bị bắt trong
trường hợp quả tang hoặc khẩn cấp phải tiến hành hoạt động động lấy lời khai
khai ban đầu của người bị bắt về việc người đó bị tình nghi thực hiện tội
phạm, nếu cần thiết phải đối chiếu lời khai của người bị bắt với các nguồn
chứng cứ khác.
Tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội đầu thú, tự thú hoặc người bị bắt
theo quyết định truy nã. Sau khi có quyết định tạm giữ, người bị tạm giữ có
quyền trình bày những vấn đề có liên quan đến việc họ bị bắt giữ, bị truy nã,
tự thú, đầu thú trước người có thẩm quyền.
Nội dung lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ thông thường có
một trong hai khả năng: Thứ nhất, họ khai nhận hành vi phạm tội. Trong
trường hợp này vẫn cần phải thẩm tra xác minh để có căn cứ khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can... Thứ hai, họ đưa ra những lý do trình bày là mình
không phạm tội, không có lỗi... (cần xác minh làm rõ sự thật, không tuỳ tiện
quy kết theo nhận định chủ quan khi chưa thẩm tra xác minh).
Người bị bắt, người bị tạm giữ thường quan tâm đến vụ án, vì vậy lời
khai của họ cần phải được xem xét kỹ lưỡng và so sánh với các tài liệu khác
có trong quá trình thẩm tra xác minh. Khi đánh giá lời khai của người bị bắt,
người bị tạm giữ phải thật khách quan, không được cho rằng họ đã phạm tội
(đề phòng có sự nhầm lẫn), cũng không được chủ quan cần đề phòng họ đánh
lạc hướng CQĐT.
Thông thường, người bị bắt, bị tạm giữ chỉ khai báo về các tình tiết liên
quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Họ có nguy cơ bị truy cứu
TNHS nên họ thường khai báo những tình tiết theo hướng có lợi cho mình,
24
đôi khi không khách quan và đúng sự thật. Tuy nhiên, họ có quyền từ chối
việc khai báo bởi khai báo là quyền chứ không phải nghĩa vụ của người bị bắt,
bị tạm giữ, và pháp luật không truy cứu TNHS đối với hành vi từ chối khai
báo và cố tình khai báo gian dối của họ.
Người bị bắt, bị tạm giữ có thể công nhận hoặc không công nhận về
những tình tiết mà họ bị nghi là đã thực hiện. Nếu có đủ căn cứ xác định
người bị bắt, bị tạm giữ đã thực hiện hành vi phạm tội, CQTHTT ra quyết
định khởi tố về hình sự đối với họ. Ngược lại, nếu chưa có đủ căn cứ xác định
người đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì phải trả tự do cho họ.
Như vậy, lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ được hiểu là sự
trình bày của người bị bắt (trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang,
hoặc đang bị truy nã) và người đã có quyết định tạm giữ hình sự (chưa bị
khởi tố về hình sự) về những tình tiết khách quan, liên quan đến việc họ bị
nghi là đã thực hiện tội phạm trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định.
1.2.2.3. Lời khai của người làm chứng
Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ có
lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất không chỉ trong pháp luật Việt
Nam, mà còn pháp luật các nước trên thế giới. Người làm chứng là người nắm
được diễn biến của vụ án, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội…
Qua đó, giúp cho CQTHTT nhận thức đúng đắn các tình tiết của vụ án. Việc
làm chứng trước các CQTHTT vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mọi người,
vì vậy, nếu người làm chứng từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối, người
đó sẽ phải chịu TNHS về tội từ chối khai báo được quy định tại Điều 308
BLTTHS hoặc tội khai báo gian dối được quy định tại Điều 307 BLHS.
Nội dung lời khai của người làm chứng có thể là diễn biến của vụ án,
nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan
25
hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại,
người làm chứng khác, những vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Lời khai của người làm chứng được sử dụng làm chứng cứ khi nó phù
hợp với chứng cứ khác trong vụ án. Nếu người làm chứng không nói rõ được
do đâu mà họ biết được về những tình tiết khách quan của vụ án… thì những
tình tiết đó không được dùng làm chứng cứ. Trong trường hợp vụ án có nhiều
người làm chứng với những lời khai mâu thuẫn nhau thì CQTHTT phải tiến
hành việc xác minh, đối chiếu với chứng cứ khác xem lời khai của họ có phù
hợp hay mâu thuẫn với các chứng cứ trên không? Qua đó, CQTHTT phân tích
đánh giá một cách tổng hợp, khách quan để tìm ra sự thật của vụ án.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra đặc điểm lời khai của người
làm chứng:
Thứ nhất, người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng trước
hết phải biết được những tình tiết liên quan đến vụ án, đặc điểm nhân thân của
người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại. Họ là người trực tiếp
trông thấy, nghe thấy khi hành vi phạm tội xảy ra hoặc có thể nghe tường
thuật lại vụ việc từ người khác.
Thứ hai, lời khai của người làm chứng được cơ quan có thẩm quyền thu
thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc vi phạm thẩm quyền
thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng sẽ làm mất đi tính hợp
pháp và giá trị chứng minh tội phạm của chứng cứ này.
Như vậy, lời khai của người làm chứng là sự trình bày của người
biết về những tình tiết liên quan đến vụ án, nhân thân của người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác,
được thực hiện trước các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do
pháp luật quy định.
26
1.2.2.4. Lời khai của người bị hại
Trong vụ án hình sự, người bị hại được hiểu là “người bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” [12, tr.31]. Như vậy, người bị
hại là chỉ có thể con người cụ thể (hay còn gọi là thể nhân) mà không thể là
cơ quan, tổ chức. Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong vụ án hình sự
khi được cơ quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua việc
triệu tập họ đến khai báo với tư cách người bị hại.
Nội dung lời khai của người bị hại có thể là những tình tiết, diễn biến
của vụ án; những thiệt hại do tội phạm gây ra; quan hệ giữa họ với người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; những vấn đề khác có ý nghĩa đối với
việc giải quyết vụ án. Người bị hại phải có nghĩa vụ khai báo, cung cấp những
thông tin cần thiết giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Nếu người bị
hại có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội
phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS. Lời khai của
người bị hại sẽ không được coi là chứng cứ nếu họ không nói rõ biết được
những thông tin của vụ án trong hoàn cảnh nào, thời gian, địa điểm, cũng như
người cung cấp thông tin đó. Nhìn chung, lời khai của người bị hại thường là
chính xác, trung thực, mong muốn hợp tác với cơ quan chức năng để giải
quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều
trường hợp người bị hại khai không chính xác hoặc có nhiều trường hợp khai
gian dối để che giấu hành vi phạm tội của mình, gây nhiều khó khăn cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử. Khi đánh giá lời khai của người bị hại, các
CQTHTT cần làm rõ tính chính xác, khách quan của lời khai, và có chiến
thuật hợp lý để khai thác được những thông tin cần thiết và chính xác đối với
việc giải quyết vụ án.
Từ những phân tích trên đây, lời khai của người bị hại được hiểu là lời
27
trình bày của người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây
ra về những tình tiết liên quan đến vụ án mà người đó biết, trước chủ thể có
thẩm quyền theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
1.2.2.5. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
Trong vụ án hình sự, nguyên đơn dân sự được hiểu là “cá nhân, cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại” và Bị đơn dân sự được hiểu là “cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp
luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra” [12, tr.33].
Căn cứ để xác định tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ
án hình sự là căn cứ mang tính hình thức, đó là giấy triệu tập họ đến với tư
cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án. Khác với lời khai của các
chủ thể tham gia tố tụng khác, lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, phạm vi khai báo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ
xoay quanh những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, bởi lẽ họ
là những người không trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội nhưng quyền
và lợi ích của họ gắn liền với vụ án. Nếu họ khai báo về những tình tiết không
liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại thì họ có thể tham gia tố tụng với tư
cách người làm chứng. Lời khai của nguyên đơn dân sự có ý nghĩa cho việc
xác định thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra. Nội dung lời khai của bị đơn
dân sự có thể là lời trình bày về việc họ có chấp nhận yêu cầu bồi thường,
mức bồi thường của nguyên đơn dân sự hay không, lý do của các ý kiến này...
Thứ hai, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có thể là cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Trong trường hợp họ là cơ quan, tổ chức thì lời khai do người đại
diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền cung cấp. Việc thu thập chứng
cứ từ nguồn chứng cứ này thường dưới hình thức yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại.
28
Như vậy, lời khai của người đơn dân sự, bị đơn dân sự là sự trình bày
của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra, hoặc gây ra
thiệt hại mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, về
những tình tiết liên quan đến bồi thường thiệt hại trước chủ thể có thẩm
quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2.6. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự được hiểu
là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của
CQTHTT. Họ có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm
nhưng các CQTHTT phải xử lý theo pháp luật những vấn đề liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Căn cứ để xác định tư cách tham gia tố tụng của
họ mang tính hình thức, đó là giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án, họ đến
với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và họ chỉ phải
trình bày trung thực về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của mình.
Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người
không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, hoặc có tham gia nhưng chưa
đến mức bị truy cứu TNHS hoặc có tham gia nhưng được miễn TNHS nhưng
quyền lợi, nghĩa vụ của họ có liên quan đến vụ án hình sự. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ khai báo về những tình tiết liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của họ, nếu họ khai báo về những tình tiết khác của vụ án
thì họ tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng.
Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được
hiểu là sự trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp
bởi các quyết định của CQTHTT về những tình tiết trực tiếp liên quan đến
quyền lợi, nghĩa vụ của mình trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định.
29
1.2.2.7. Kết luận giám định
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để làm rõ những tình tiết khách
quan cần phải chứng minh trong vụ án, các CQTHTT có quyền trưng cầu
giám định. Kết luận giám định là bản nhận xét của người giám định về vấn đề
có liên quan đến việc làm rõ vụ án hình sự được CQTHTT trưng cầu. Nội
dung của bản kết luận giám định có thể là cơ sở để xác định có tội phạm xảy
ra không, ai là người phạm tội...
Hiện nay, vấn đề về giám định được điều chỉnh trực tiếp Luật giám
định tư pháp năm 2012 (có hiệu lực từ 01/01/2013). Biện pháp giám định
được CQTHTT sử dụng nhằm mục đích kiểm tra, củng cố và đánh giá chứng
cứ, tài liệu và nhiều khi nó có vai trò quyết định đối với việc giải quyết vụ án.
Thông qua giám định, CQĐT xác định thủ phạm, phương pháp, phương tiện,
thủ đoạn phạm tội… để từ đó làm cơ sở áp dụng các biện pháp như bắt, khám
xét, hỏi cung... Thực tế có trường hợp không có kết luận giám định thì không
thể có cơ sở để truy cứu TNHS như giám định về nguyên nhân chết ở nạn
nhân hoặc tỷ lệ thương tật... Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho
thấy các trường hợp trưng cầu giám định để phục vụ cho việc giải quyết vụ án
hình sự được chia làm hai trường hợp: Các trường hợp bắt buộc phải trưng
cầu giám định và các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám
định khi xét thấy cần thiết.
Như vậy, có thể thấy kết luận giám định là văn bản pháp lý quan trọng
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Kết luận giám định là loại nguồn
chứng cứ quan trọng vì các chứng cứ này được dựa trên những cơ sở của các
thành tựu khoa học - nó là một phán quyết mang tính khoa học và không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của con người nên đối với quá trình làm rõ sự thật
của vụ án, giá trị chứng minh của kết luận giám định bao giờ cũng mang tính
khách quan hơn các nguồn chứng cứ khác. Có thể rút ra một số đặc điểm của
kết luận giám định sau:
30
Thứ nhất, kết luận giám định được tiến hành thông qua giám định viên
là người có đủ tiêu chuẩn, được bổ nhiệm, cấp thẻ giám định viên, có chuyên
môn nghiệp vụ, am hiểu về lĩnh vực mà họ tiến hành giám định theo yêu cầu
của Cơ quan trưng cầu giám định.
Thứ hai, kết luận giám định được đánh giá trên cơ sở khoa học-kỹ thuật,
nó mang tính khách quan và không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của con
người. Giám định viên trên cơ sở khoa học, dựa trên những kiến thức, am hiểu
của mình để xem xét, đánh giá những vấn đề có liên quan đến vụ án một cách
độc lập và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những gì ghi nhận trong kết
luận giám định. Ngoài ra, việc tiến hành giám định phải tuân theo trình tự, thủ
tục mà pháp luật quy định nói chung, BLTTHS quy định nói riêng.
Như vậy, kết luận giám định là kết quả của việc đánh giá được trình
bày bằng văn bản trên phương diện khoa học-kỹ thuật của giám định viên về
những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự theo quyết định trưng cầu giám
định của CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm phục vụ công tác điều tra,
truy tố, xét xử theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định.
1.2.2.8. Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác
Những biên bản, tài liệu, đồ vật khác cũng có thể được coi là nguồn
chứng cứ khi đáp ứng các điều kiện do luật định.
* Biên bản hoạt động điều tra, xét xử:
Trong hoạt động điều tra xét xử vụ án hình sự, các CQTHTT khi thực
hiện các hoạt động của mình phải tiến hành lập biên bản. Việc lập biên bản là
một trong những biện pháp nhằm công khai các hoạt động tố tụng, đồng thời
ghi nhận lại một cách khách quan về những tình tiết của vụ án nhằm giúp giải
quyết vụ án một cách khách quan, chính xác. Những tình tiết được ghi trong
các biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử
thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên tòa và biên bản
về các hoạt động tố tụng khác có thể được coi là chứng cứ.
31
Biên bản hoạt động điều tra, xét xử là một trong những loại nguồn
chứng cứ quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Nó ghi nhận những sự
việc mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nên thông tin của nó đầy đủ về
mặt nội dung, chuẩn xác về mặt hình thức sẽ giúp cho chính CQTHTT giải
quyết vụ án hình sự nhanh chóng và thuận lợi. Nó hỗ trợ, bổ sung cho các
nguồn chứng cứ khác về tính hợp pháp, là căn cứ kiểm tra các trình tự, thủ tục
hoạt động trong quá trình tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật có
được bảo đảm hay không nhằm góp phần bảo đảm tính hợp pháp và tính
khách quan của chứng cứ.
Như vậy, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử là những văn bản pháp
lý ghi nhận hoạt động điều tra, xét xử được chủ thể có thẩm quyền thực hiện,
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
* Đồ vật, tài liệu khác liên quan đến vụ án:
Ngoài biên bản về hoạt động điều tra, xét xử thì các tài liệu, đồ vật khác
trong vụ án hình sự cũng có thể trở thành nguồn chứng cứ. Các tài liệu, đồ vật
khác ở đây là những văn bản pháp lý hoặc các văn bản hợp pháp khác, là
những vật chứa đựng những thông tin về những tình tiết liên quan đến vụ án
do CQTHTT thu thập, phát hiện hoặc do cơ quan, tổ chức và cá nhân cung
cấp cho CQTHTT. Một số tài liệu có thể trở thành nguồn chứng cứ như: Sổ
sách, hóa đơn, chứng từ, những số liệu, báo cáo có liên quan đến vụ án…
hoặc các đồ vật khác có thể là các mẫu vật cùng loại với công cụ, phương tiện
phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm, những đồ vật mà người phạm tội
sử dụng liên quan đến vụ án… Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính liên quan
của tài liệu, đồ vật do cơ quan, cá nhân, tổ chức cung cấp, CQĐT, VKS, Tòa
án sử dụng chúng làm chứng cứ của vụ án. Trên thực tế, những tài liệu, đồ vật
được cung cấp từ cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là CQTHTT nên
không đảm bảo tính hợp pháp. Hơn nữa, sự hạn chế của loại nguồn chứng cứ
32
này ở chỗ các tài liệu, đồ vật do CQTHTT chuyển hóa thành chứng cứ pháp
lý có giá trị chứng minh hay không. Nếu không được chuyển hóa thành chứng
cứ pháp lý thì chúng không có giá trị chứng minh.
Như vậy, tài liệu, đồ vật khác là những tình tiết có liên quan đến vụ án
được ghi nhận trong các tài liệu cũng như đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp cho CQTHTT theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia
trên thế giới
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, gắn liền với các phương thức sản
xuất khác nhau là kiểu nhà nước và kiểu pháp luật khác nhau. Tương ứng với
mỗi kiểu pháp luật lại có một kiểu tố tụng đặc thù quy định về vấn đề chứng
cứ, nguồn chứng cứ.
1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng thẩm vấn
Vào thế kỷ thứ XIII ở Pháp, thế kỷ thứ XVI ở Đức và một số nước
Châu Âu, hình thức tố tụng thẩm vấn được hình thành, phát triển.
Nó xuất hiện lần đầu tiên trong pháp luật La Mã và biến mất cùng với sự sụp
đổ của đế chế La Mã. Dưới ảnh hưởng của Tòa án Thiên chúa giáo (thế kỷ
thứ XIII ở Pháp), tố tụng thẩm vấn xuất hiện trở lại. Đây là sự khởi nguồn của
tố tụng viết, các bên cung cấp chứng cứ phải thông báo cho nhau biết.
Một đặc trưng cơ bản của tố tụng thẩm vấn là sự can thiệp của nhà
nước vào hoạt động tố tụng rất rõ. Trước khi xét xử, các CQĐT, truy tố phải
điều tra, thu thập chứng cứ và sau đó hồ sơ được chuyển sang cho toà án để
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ chuẩn bị cho việc xét xử. Theo đó, chứng cứ
được hiểu là sự đệ trình của một cơ quan tố cáo, cụ thể là người đại diện cho
cơ quan tố cáo xuất trình cho Tòa án những chứng cứ để chứng minh cho sự
tố cáo của mình nhằm duy trì sự tố cáo. Chứng cứ tồn tại với tính chất là
33
phương tiện để chứng minh cho sự tố cáo của cơ quan tố cáo. Đây là nền tảng
cơ bản sau này liên quan đến quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự.
Một trong những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự là nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ. Theo đó, Việc
đánh giá chứng cứ phải được tự do và không bị kiềm chế bởi các nguyên tắc
loại trừ. Thông thường, Tòa án quan tâm đến giá trị và tính xác thực của
chứng cứ hơn là tính có thể chấp nhận được của chứng cứ. Đây là điểm khác
biệt với hệ thống tranh tụng vốn tập trung trước hết vào việc xem xét chứng
cứ đã được thu thập như thế nào.
Tiêu chuẩn của chứng cứ được chấp nhận là niềm tin nội tâm
của thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn. Nguyên tắc này áp dụng cho tất
cả các khía cạnh của chứng cứ bao gồm cả tình tiết tăng nặng và
tình tiết giảm nhẹ. Thẩm phán và bồi thẩm đoàn có cơ sở về niềm
tin của mình về mọi khía cạnh của các bằng chứng được đưa ra
trước Tòa, tuy nhiên họ không được dựa trên những chứng cứ được
thu thập một cách bất hợp pháp [27, tr.38].
Điển hình cho các quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn là Cộng hòa
Liên bang Đức và Cộng hòa Pháp.
Luật tố tụng hình sự của Cộng hoà Liên bang Đức không quy định cụ
thể về nguồn chứng cứ, tuy nhiên các tình tiết liên quan đến phán quyết của
Tòa án về xác nhận chứng cứ bao gồm: Nhân chứng, chuyên gia giám định,
kiểm tra địa điểm hay đồ vật, các tài liệu, lời khai của bị cáo và đồng phạm.
Pháp luật TTHS của CHLB Đức xác định một số nguyên tắc cơ bản,
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, trong các Luật cơ bản và trong
các văn bản pháp luật khác. Nhóm nguyên tắc về áp dụng, sử dụng chứng cứ
theo quy định của luật chứng cứ gồm: nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ,
34
giả định vô tội. Nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ là một trong những nét
đặc trưng của tố tụng hình sự Đức, khác biệt cơ bản với tố tụng hình sự Anh.
Theo nguyên tắc này, một thẩm phán không bị bắt buộc bởi các
quy định của pháp luật về chứng cứ hay bất kỳ hướng dẫn nào. Không
có điều kiện cụ thể nào đặt ra với Thẩm phán trước khi chứng minh
được một tình tiết của vụ án, mặc dù thẩm phán vẫn phải đảm bảo tôn
trọng các kiến thức khoa học, lập luận logic và nhận thức chung. Nếu
chứng cứ thu thập bằng các biện pháp vi phạm các quy định về thu
thập chứng cứ thì chứng cứ đó phải bị loại bỏ [36, tr.77].
Luật TTHS của CHLB Đức quy định nguyên tắc loại bỏ chứng cứ được
thu thập bằng các biện pháp bất hợp pháp.
Lời khai của bị can, bị cáo do bị đối xử tàn tệ, gây mệt mỏi,
can thiệp về thể chất, sử dụng thuốc, hành hạ, lừa dối hoặc thôi miên,
đe dọa bằng những biện pháp không được pháp luật cho phép, đưa ra
lời hứa hẹn về những thuận lợi, những biện pháp gây ảnh hưởng trí
nhớ hoặc khả năng của bị cáo đều không được coi là chứng cứ ngay
cả khi bị can, bị cáo đồng ý sử dụng chúng [29, Điều 136].
Về vấn đề sử dụng chứng cứ thu thập được qua hoạt động trinh sát:
“Việc sử dụng điều tra trinh sát chỉ được phép sau khi đã có sự cho phép của
cơ quan công tố” [34, tr.66]. Các biện pháp trinh sát bao gồm: xâm nhập vào
nhà riêng, nghe lén và ghi âm điện thoại, nghe lén thông tin viễn thông, chụp
ảnh ghi hình và thiết bị kỹ thuật cho việc giám sát các tài liệu. Điều tra trinh
sát được sử dụng khi có căn cứ cho thấy đã có hành vi phạm tội nghiêm trọng
được thực hiện, liên quan đến buôn bán ma túy, hoặc vũ khí, tiền giả; liên
quan đến an ninh quốc gia, có tính thương mại hoặc liên tục hoặc thực hiện
bởi thành viên của một băng nhóm tội phạm hoặc hình thức tổ chức khác mà
việc sử dụng các biện pháp này sẽ không có khả năng thành công hay gặp
35
nhiều khó khăn hơn. Các thông tin thu thập được thông qua hoạt động trinh
sát chỉ được sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm khi được hội đồng
xét xử cho phép
Pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp không quy định cụ thể
về nguồn chứng cứ mà chỉ quy định “tất cả những gì có thể chứng minh hành
vi phạm tội thì được coi là chứng cứ” [34, Điều 247]. Đối với mỗi giai đoạn
TTHS liên quan tới việc truy tìm của cảnh sát, việc điều tra hoặc giai đoạn xét
xử, chứng cứ được quy định cụ thể. Thẩm phán, công tố viên và Sỹ quan cảnh
sát tư pháp có quyền thu giữ vật chứng trong quá trình thực hiện chức trách,
nhiệm vụ theo luật định.
Tuy pháp luật TTHS của Cộng hòa Pháp không có quy định cụ thể về
nguồn chứng cứ, song có thể nhận thấy chứng cứ trong luật TTHS Pháp bao
gồm 5 loại sau: 1. Sự thừa nhận; 2. việc làm chứng: đây là loại chứng cứ được
thu thập bởi cuộc điều tra hoặc lấy lời khai; 3. chứng cứ vết: các tài liệu giấy
tờ tạo nên một cấu thành tội phạm cụ thể, ví dụ như giấy tờ giả mạo, hoặc một
hành vi đe doạ bằng giấy tờ, thư từ; các biên bản do cảnh sát thiết lập thông
qua giai đoạn điều tra ban đầu sẽ có giá trị chứng minh; các thư từ cá
nhân cũng có thể được sử dụng làm chứng cứ;các chứng cứ về hợp đồng; 4.
Kết luận giám định; 5. Suy đoán và các dấu vết.
Việc dẫn chiếu một cách cụ thể các loại chứng cứ và các phương
thức để xác định chứng cứ có ý nghĩa đề cao quyền của thẩm phán ở thủ tục
xét hỏi trong TTHS là một trong những đặc trưng cơ bản của thủ tục tố tụng
này. Việc thu thập các loại chứng cứ phải đảm bảo các quy định về thu thập
chứng cứ theo quy định của pháp luật. Lời thú tội cũng như mọi chứng cứ
khác thuộc toàn quyền đánh giá của Thẩm phán (Điều 428).
Pháp luật về TTHS của Cộng hòa Pháp đảm bảo nguyên tắc đánh giá
chứng cứ dựa trên niềm tin nội tâm của Thẩm phán. Thẩm phán có thể sử
36
dụng bất cứ chứng cứ nào nhằm thiết lập niềm tin nội tâm của mình về các
vấn đề của vụ án. Khác với hệ thống pháp luật chỉ sử dụng chứng cứ luật
định. Tuy nhiên, việc đánh giá chứng cứ của Thẩm phán cũng phải đảm bảo
một số vấn đề: Thẩm phán phải nêu rõ căn cứ cho quyết định của mình; các
chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp, phải được công khai tranh luận.
1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo
mô hình tố tụng tranh tụng.
Tố tụng tranh tụng xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập
vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Tại đây, người đại diện cơ
quan công tố có trách nhiệm thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ trước
tòa để buộc tội. Ngay từ thời kỳ đầu hình thành, tố tụng tranh tụng coi trọng
tranh luận bằng lời nói công khai, trực tiếp tại tòa. Vì vậy, nhiều tài liệu,
chứng cứ viết được coi là chứng cứ rất quan trọng trong tố tụng thẩm vấn thì
trong tố tụng tranh tụng lại không được coi là chứng cứ. Để làm rõ vấn đề liên
quan đến tài liệu đó, thông thường người viết tài liệu được mời tham gia tố
tụng và trực tiếp trình bày tại tòa. Như vậy, chứng cứ được hiểu là phương
thức một bên chứng minh trước tòa là mình đúng. Tức là bên nào thuyết phục
được tòa án sẽ là bên thắng kiện chứ không phải bên vốn có sự thật ấy.
Trong hệ thống pháp luật tranh tụng, các quy định của pháp luật chủ
yếu hình thành thông qua quá trình xét xử tại tòa án và các phán quyết của
thẩm phán
Tố tụng tranh tụng có 3 hệ thống nguyên tắc chi phối toàn bộ
hoạt động tố tụng: quy tắc tố tụng, quy tắc chứng cứ và quy tắc ứng
xử, trong đó quy tắc về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm
soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có
thẩm quyền quyết định, hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ
có được chấp thuận hay không [27, tr.7].
37
Ngay cả thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ
cho rằng thích hợp nhất mà phải tuân theo các nguyên tắc chứng cứ đã được
quy định. Quy tắc về chứng cứ được đưa ra nhằm đảm bảo sự công bằng
trong tố tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin
cậy, sai lệch hoặc có thể dẫn đến định kiến cho người có thẩm quyền phán
quyết. Nguyên tắc kiểm tra chéo, đối chất để xác định tính chính xác, tính có
căn cứ của chứng cứ được đặc biệt coi trọng. Theo đó, trong quá trình xét xử,
tòa án đóng vai trò là trọng tài quan sát các bên tranh tụng, bảo đảm quyền
tranh tụng trước tòa cho cả bên buộc tội (công tố viên) và bên gỡ tội (các luật
sư bào chữa). Việc đánh giá chứng cứ để đưa ra phán quyết cuối cùng dựa
trên những tiêu chí hợp lệ của chứng cứ do pháp luật quy định. Điển hình cho
mô hình pháp luật tố tụng tranh tụng này là pháp luật TTHS của vương quốc
Anh và của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Pháp luật tố tụng hình sự của Vương quốc Anh không có quy định
cụ thể về nguồn chứng cứ, “chứng cứ sẽ được chấp thuận nếu nó có liên quan
đến các tình tiết cần phải chứng minh giúp giải quyết vụ án” [36, tr.161].
Các quy định về nguồn chứng cứ được thể hiện trong các Luật khác nhau
tùy theo những phần có liên quan. Ví dụ: Trong luật tư pháp hình sự năm 1987
quy định về việc chuyển giao vụ án, trong đó quy định về chuyển giao chứng cứ;
Luật tư pháp hình sự năm 1988 quy định về chứng cứ thông qua phương tiện
truyền hình, Luật tòa án cảnh sát năm 1980 quy định về việc triệu tập và lấy lời
khai nhân chứng… Vì vậy, trong luật Điều tra và tố tụng hình sự năm 1996
không quy định một cách toàn diện về chứng cứ mà chỉ có một mục “chứng cứ -
các quy định đặc biệt” trong đó bổ sung thêm một số quy định về các điều luật
cụ thể trong các luật khác đã quy định về chứng cứ [34, tr.48]. Theo đó, các
chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp (được thu thập bởi các cơ quan có thẩm
quyền theo thủ tục pháp luật quy định), tính liên quan và không rơi vào các
trường hợp loại trừ chứng cứ.
38
Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS của Vương
quốc Anh là nguyên tắc chấp thuận chứng cứ. Chứng cứ sẽ được chấp thuận
nếu nó có liên quan đến các tình tiết cần phải chứng minh giúp giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, Tòa án có thể từ chối chấp thuận một chứng cứ nào đó do Viện
công tố đưa ra nếu việc chấp thuận có thể dẫn tới sự không công bằng và bình
đẳng trong tố tụng. “Có rất nhiều nguyên tắc về loại trừ chứng cứ như: nếu
cung cấp chứng cứ sẽ dẫn đến tự buộc tội, chứng cứ có được do nghe nói
lại…” [36, tr.161]. Chứng cứ phải tránh không rơi vào một trong ba nhóm sau
mới được đưa ra là chứng cứ hợp pháp, đó là: Chứng cứ do nhận chứng
không có năng lực đưa ra; chứng cứ là lời khai quá chung chung; chứng cứ là
quá khứ xấu hoặc tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, cần chú ý một điều là quy định
này về chứng cứ chỉ có giá trị trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trong giai
đoạn thực hiện nhiệm vụ của mình, công tố viên không bị ràng buộc bởi quy
định này trong việc buộc tội một bị can.
Ngoài ba yếu tố đã trình bày ở trên, thời gian từ những năm cuối thế kỷ
XX, pháp luật TTHS của Anh đã xây dựng thêm một vấn đề bắt buộc để đảm
bảo tính hợp pháp của chứng cứ là: Chứng cứ phải được thu thập một cách
hợp pháp và chính xác. Các tài liệu, thông tin, vật chứng được sử dụng làm
chứng cứ phải đảm bảo theo quy định của pháp luật thì mới được coi là chứng
cứ chứng minh tội phạm.
+ Lời khai của nhân chứng: Tất cả các nhân chứng (trừ trẻ em) phải
tuyên thệ, thề tại bục nhân chứng tại phòng xử án trước khi khai báo.
+ Chứng cứ thông qua phương tiện truyền hình: Tòa án cho phép một
người đưa ra bằng chứng thông qua phương tiện truyền hình. Đối với nhân
chứng là trẻ em, Tòa án có thể cho phép đối với người đưa ra chứng cứ mà
không thông qua phương tiện truyền hình trực tiếp nếu toà án thấy rằng việc
cho phép là có lợi cho công lý và dựa trên đơn của một bên trong vụ án hoặc
dựa trên văn bản của Tòa án
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đLuận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
OnTimeVitThu
 
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu GiangLuận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tếTòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Thực trạng về Pháp luật thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOTLuận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
Luận văn: Mặt khách quan của tội phạm trong Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAYLuận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
Luận án: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại, HAY
 
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đLuận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
Luận văn: Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo dưới 18 tuổi, 9đ
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
Luận văn: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Quận 12
 
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
BÁO CÁO THỰC TẬP TẠI CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ >> TẢI MIỄN PHÍ ZALO: 0777.14...
 
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu GiangLuận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tếTòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
 
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp theo pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY

Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAYĐề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình SựCác Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NuioKila
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà NộiChứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTChứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY (20)

Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAYĐề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
Đề tài: Chế định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, HAY
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Hỏi cung bị can trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Hỏi cung bị can trong Luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY  - Gửi miễn phí ...
Luận án: Chứng minh trong tố tụng hình sự tỉnh Đồng Nai, HAY - Gửi miễn phí ...
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docxHỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
Hỏi Cung Bị Can Trong Luật Tố Tụng Hình Sự, HAY.docx
 
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt NamLuận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Luận án: Chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sựLuận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
Luận văn: Pháp luật về thủ tục xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
 
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình SựCác Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
Các Nguồn Chứng Cứ Trong Tố Tụng Hình Sự
 
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà NộiChứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hà Nội
 
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOTChứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
Chứng minh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, HOT
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
 
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đLuận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
Luận văn: Điều tra bổ sung trong xét xử sơ thẩm tại Hải Phòng, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
giangnguyen312210254
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
nvlinhchi1612
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
nvlinhchi1612
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
duykhoacao
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
nhanviet247
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
Qucbo964093
 

Recently uploaded (12)

HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docxHỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
HỆ THỐNG 432 CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM MÔN TTHCM.docx
 
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptxDẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
Dẫn luận ngôn ngữ - Tu vung ngu nghia.pptx
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTUChuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
Chuong 2 Ngu am hoc - Dẫn luận ngôn ngữ - FTU
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
Chương III (Nội dung vẽ sơ đồ tư duy chương 3)
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
ÔN-TẬP-CHƯƠNG1 Lịch sử đảng Việt Nam chủ đề 2
 
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in englishAV6 - PIE CHART WRITING skill in english
AV6 - PIE CHART WRITING skill in english
 

Luận văn: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN NHẬT LỆ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Nhật Lệ
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM............ 7 1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ.................................................... 7 1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ ............................................................. 7 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm..................................................................10 1.2. Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ ..........................................20 1.2.1. Vật chứng ...........................................................................................20 1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng.......................................21 1.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới.......................................................................................32 1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn...................................................................32 1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng.................................................................36 1.3.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình kết hợp tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn...................41 Chương 2: NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ.................................47
  • 4. 2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ qua các thời kỳ lịch sử.............................................................................47 2.1.1. Nguồn chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam....................47 2.1.2. Nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS Việt Nam từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành BLTTHS năm 1988............................................................................52 2.1.3. Pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ theo bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .......................................................................................57 2.2. Thực trạng sử dụng nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam............................................................................................64 2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự ......................................................................64 2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tế sử dụng nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự..................................................................72 Chương 3: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ.....................................................84 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự...84 3.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới, hoàn thiện chế định nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự...........................................91 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ................92 3.3.1. Về khái niệm chứng cứ ......................................................................93 3.3.2. Mở rộng nguồn chứng cứ...................................................................94 3.3.3. Xác định quyền thu thập chứng cứ trong tố tụng hình sự - Luật sư, người bào chữa cũng có quyền thu thập chứng cứ.......................96
  • 5. 3.3.4. Về các nguyên tắc thu thập chứng cứ ................................................98 3.3.5. Về chế định giám định .......................................................................99 3.3.6. Xây dựng Luật về chứng cứ nhằm nâng cao chất lượng xét xử án hình sự ..............................................................................................101 3.4. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả quy định pháp luật về nguồn chứng cứ..........................................................................103 KẾT LUẬN..................................................................................................108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................109
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TT Viết tắt Nội dung từ 1. BLHS Bộ luật hình sự 2. BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự 3. CQĐT Cơ quan điều tra 4. CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng 5. DVBC Duy vật biện chứng 6. KSV Kiểm sát viên 7. TA Tòa án 8. TNHS Trách nhiệm hình sự 9. VKS Viện kiểm sát
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tỉ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa 2009-2012 68
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đi cùng với sự phát triển của xã hội ngày nay, vấn đề tội phạm đang ngày một gia tăng và có những diễn biến hết sức phức tạp. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được Đảng và Nhà nước ta xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Phòng ngừa và điều tra, xử lý tội phạm là hai mặt của nhiều vấn đề mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân và toàn xã hội. Để phát hiện và xử lý chính xác, khách quan tội phạm và người phạm tội, việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, để làm được như vậy thì cần phải có chứng cứ. Hay nói cách khác, chứng cứ là phương tiện duy nhất được các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng để làm sáng tỏ vụ án. Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, chứng cứ luôn là một vấn đề không thể thiếu nhằm chứng minh một người có thực hiện hành vi phạm tội hay không. Chỉ có chứng cứ hợp pháp mới có giá trị chứng minh tội phạm. Một trong những điều kiện để chứng cứ được coi là hợp pháp là nó phải được rút ra từ một trong các nguồn chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS Việt Nam năm 2003. Việc nghiên cứu nguồn chứng cứ nói chung và nguồn chứng cứ trong vụ án hình sự nói riêng có một ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Nguồn chứng cứ được hiểu là nơi cung cấp những tài liệu quan trọng để rút ra những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Do đó, nếu không tìm được nguồn chứng cứ sẽ không thể có chứng cứ giải thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo theo hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng, không chính xác và không đầy đủ đối với vụ án hình sự. Việc làm rõ lý luận và thực tiễn về
  • 9. 2 nguồn chứng cứ không chỉ giúp cho hoạt động nghiên cứu mà còn tạo điều kiện để nâng cao kiến thức cho các cơ quan có thẩm quyền, các tổ chức và cá nhân hiểu đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ và nguồn chứng cứ. Trong những năm qua, thực hiện Nghị Quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tính đến năm 2014, chiến lược cải cách tư pháp đã đi được gần hai phần ba chặng đường, hoạt động cải cách tư pháp được các cơ quan nhà nước tiến hành một cách mạnh mẽ và đạt được một số thành tựu đáng kể, trong đó có các cải cách về hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Thực tế tố tụng hình sự nước ta thời gian qua cho thấy có không ít các vụ án mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã vi phạm các quy định của pháp luật trong việc phát hiện, thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Điều này dẫn đến giải quyết vụ án không chính xác, không ít vụ án hình sự mà những chứng cứ được đưa ra để kết luận một người đã thực hiện hành vi phạm tội của cơ quan tiến hành tố tụng còn có điểm gây nghi ngờ trong dư luận, nhiều trường hợp đã kết án oan cho người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Những sai sót này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó việc thu thập chứng cứ không phải từ các nguồn chứng cứ hợp pháp là một trong những nguyên nhân làm cho việc đánh giá và sử dụng chứng cứ không chính xác. Thông qua luận văn này, tác giả hi vọng có thể đóng góp phần nào làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài “Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” là một đề tài mới, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này. Chỉ có các công trình và các bài viết được đăng trên các báo, tạp chí có nội dung liên quan như: “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình
  • 10. 3 sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường năm 2003 của Trường Đại học Luật Hà Nội do ThS. Bùi Kiên Điện chủ nhiệm đề tài; “Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Đỗ Văn Đương, Luận án tiến sĩ năm 2000; Một số vấn đề về các loại nguồn chứng cứ trong BLTTHS Việt Nam năm 2003, Trịnh Tiến Việt và Trần Thị Quỳnh, tạp chí kiểm sát số 12/2005; Nguồn chứng cứ: Lời khai của bị can, bị cáo, Vũ Xuân Thu, tạp chí kiểm sát số 10/2001… Như vậy, có thể nói ít có các công trình nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với hình thức là một đề tài độc lập, chuyên sâu. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một vấn đề cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự. - Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải quyết những vấn đề sau: 1- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ (làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm “nguồn chứng cứ” với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng minh…). Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ, có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới;
  • 11. 4 2- Đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ; 3- Chỉ rõ những hạn chế trong những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ; 4- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự về nguồn chứng cứ và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử dụng nguồn chứng cứ trong thực tế. - Đối tượng: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá thực tiễn áp dụng và chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong quá trình áp dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự. - Phạm vi: Luận văn nghiên cứu về nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam một cách tổng thể trong phạm vi chung của tất cả giai đoạn tố tụng: Điều tra; truy tố; xét xử vụ án hình sự; trong đó chủ yếu tập trung trong phạm vi khoa học và thực tiễn luật tố tụng hình sự Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng… Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như các phương pháp: hệ thống; logic; phân tích; tổng hợp; so sánh; khảo sát thực tế để chọn lựa tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
  • 12. 5 - Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài: Việc làm rõ lý luận và thực tiễn của nguồn chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp nâng cao nhận thức không chỉ của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng mà còn đối với mọi tổ chức và cá nhân về vấn đề nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự. - Góp phần quan trọng để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, chính xác và đúng pháp luật. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Việt Nam về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự, trên cơ sở có sự so sánh với pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới; - Làm rõ khái niệm nguồn chứng cứ, phân biệt khái niệm nguồn chứng cứ với một số khái niệm khác như: Khái niệm chứng cứ, khái niệm phương tiện chứng minh…; - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ tình hình áp dụng các quy định pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự; những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự, đảm bảo giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
  • 13. 6 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, lời cảm ơn và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện và đảm bảo hiệu quả các quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự.
  • 14. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỨNG CỨ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ 1.1.1. Nhận thức về nguồn chứng cứ Để nhận thức được về các sự vật, hiện tượng nói chung và nhận thức về nguồn chứng cứ nói riêng, con người phải dựa vào cơ sở phương pháp luận nhất định. Trong lịch sử nhân loại đã từng có các quan điểm khác nhau về nguồn chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đã từng tồn tại các quan điểm phi mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn giáo, quan điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin nội tâm của Thẩm phán… Lịch sử đã chứng minh để nhận thức được chính xác các sự vật, hiện tượng, con người cần dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa trên phương pháp biện chứng khoa học, việc nhận thức về nguồn chứng cứ trong các vụ án hình sự cũng không nằm ngoài quy luật đó. Lý luận của chủ nghĩa DVBC về nhận thức thế giới được sử dụng như là cơ sở khoa học của nguồn chứng cứ và việc chứng minh thông qua những quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, vụ án hình sự được phản ánh bởi con người và các vật. Chủ nghĩa DVBC đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại và chịu sự tác động lẫn nhau. Bằng sự tác động qua lại đó, sự tồn tại của sự vật, hiện tượng này luôn để lại dấu vết ở sự vật, hiện tượng khác. Theo BLHS Việt Nam thì “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [23, tr.50]. Theo khái niệm trên, “tội phạm trước hết là hành vi của con người, những gì
  • 15. 8 mới chỉ trong tư tưởng, chưa thể hiện ra bằng hành vi thì không phải là tội phạm, hành vi phạm tội là hành vi đã thực tế xảy ra trong thế giới khách quan và là một hiện tượng thuộc thế giới khách quan” [23, tr.50]. Chính vì sự tồn tại khách quan mà tội phạm cũng để lại các dấu vết nhất định. Bằng cách thu thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác định được sự thật khách quan của vụ án. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của từng loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định trình tự, thủ tục thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau để đảm bảo cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Thủ tục thu thập kiểm tra nguồn chứng cứ vật chất sẽ khác so với thủ tục kiểm tra nguồn chứng cứ phi vật chất. Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được sự thật khách quan của vụ án hình sự. Chủ nghĩa DVBC khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan. Trong sự tồn tại bất tận của thế giới khách quan, nhận thức của con người là tương đối nhưng cùng với sự phát triển của tự nhiên và xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật cũng như sự phụ thuộc vào nhiệm vụ nhận thức cụ thể, nhận thức của con người về thế giới khách quan ngày càng tiến dần đến tuyệt đối. Trong TTHS, phải nói rằng tội phạm là một hiện tượng xã hội có muôn hình, muôn vẻ. Tuy nhiên, các yếu tố có ý nghĩa pháp lý hình sự của một tội phạm lại được xác định rất cụ thể. Căn cứ vào ý nghĩa pháp lý hình sự của tội phạm mà người làm luật quy định đối tượng chứng minh, giới hạn các vấn đề chứng minh ở một phạm vi nhất định. Đó là “sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm, lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các đặc điểm về nhân thân người phạm tội cũng như các thiệt hại do tội phạm gây ra” [12, tr.43]. Như vậy, nhiệm vụ chứng minh trong TTHS là rất cụ thể và được giới hạn trong phạm vi nhất định. Nhìn từ góc độ nhiệm vụ tố tụng đặt ra, có thể nói việc chứng minh trong TTHS có thể đạt
  • 16. 9 được sự thật khách quan tuyệt đối. Nói cách khác, với quan điểm này thì bất kỳ tội phạm nào xảy ra, con người đều có thể phát hiện và chứng minh được. Thứ ba, học thuyết về nhận thức của CNDVBC là cơ sở phương pháp luận đặc biệt quan trọng trong lý luận về nguồn chứng cứ trong luật TTHS nước ta. Tinh thần cơ bản của học thuyết Mác – Lê nin về nhận thức là “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” [26, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra, đánh giá thông qua tư duy của mình, từ đó có kết luận về các tình tiết nói riêng và về tội phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của CNDVBC là học thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người; cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý thức. Ý thức của con người có khả năng phản ánh chính xác, khách quan hiện thực khách quan, là xuất phát điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về nguồn chứng cứ, cho lập pháp TTHS về nguồn chứng cứ và áp dụng các quy định của pháp luật về nguồn chứng cứ trong thực tiễn. Thực tiễn là thước đo của nhận thức. Mặc dù chứng minh trong TTHS có những nét đặc trưng riêng, là nhận thức về một sự kiện đã xảy ra trong quá khứ với phạm vi và giới hạn xác định. Tuy nhiên, quan điểm này của học thuyết DVBC về nhận thức không phải là ngoại lệ của quá trình chứng minh. Do quá trình chứng minh trong TTHS có những đặc trưng riêng nên việc dùng thực tiễn làm thước đo trong nhận thức về tội phạm cũng mang những nét đặc trưng riêng. Điều này thể hiện trong biện pháp thu thập chứng cứ như các biện pháp khám nghiệm, giám định, thực nghiệm điều tra... để tái tạo lại thực tiễn tội phạm, làm cơ sở kiểm tra, đánh giá các chứng cứ khác và kiểm tra lại nhận thức chung về tội phạm. Thông qua các nguồn chứng cứ
  • 17. 10 khác nhau, con người có sự đối chiếu, so sánh các chứng cứ để tìm ra chân lý của sự việc. Thứ tư, phương pháp biện chứng đặt nền móng cho việc áp dụng các quy luật của phép biện chứng duy vật vào quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ. Các nội dung quan trọng của phép biện chứng trong nhận thức như nguyên tắc toàn diện, đầy đủ, cụ thể, hệ thống… đóng vai trò quan trọng trong quá trình chứng minh. Phương pháp biện chứng của triết học Mác – Lê nin được thể hiện tương đối đầy đủ tại khoản 2 Điều 66 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán và hội thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án” [12, tr.45]. CNDVBC chỉ ra rằng khi xem xét thế giới khách quan, cần đặt trong sự vận động, biến đổi không ngừng. Lê nin đã từng nói: thế giới tồn tại trong vận động. Luận điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá chứng cứ, không thể tách rời từng chứng cứ khi chứng minh tội phạm mà phải xem xét đánh giá tổng hợp các chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ khác nhau và đặt trong thực tế diễn biến vụ án. 1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ, vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm 1.1.2.1. Khái niệm nguồn chứng cứ Nguồn chứng cứ trong TTHS là một trong những vấn đề được các nhà lập pháp trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đề cập từ khá sớm, trong lịch sử đã có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Trong khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu luôn cố gắng để đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên do nhiều cách tiếp cận khác nhau nên các quan niệm của họ luôn có sự mâu thuẫn nhất định. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do xuất phát từ những thế giới quan khác nhau, do trình độ phát triển không đều về kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật..
  • 18. 11 Chế định nguồn chứng cứ trong TTHS Việt Nam được ghi nhận lần đầu tiên trong Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm về hình sự được ban hành kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của TAND tối cao. Theo đó, nguồn chứng cứ bao gồm: Dấu vết, đồ vật, tài liệu có thể chứng minh việc phạm pháp; lời khai của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường, người có tài sản, quyền lợi có liên quan đến việc phạm pháp, nhân chứng; lời kết luận giám định viên, những tài liệu của cơ quan, đoàn thể cung cấp về nhân thân bị cáo. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện nay đã kế thừa các quy định và phát triển một số các loại nguồn chứng cứ của Thông tư trên. Có ý kiến cho rằng giữa nguồn chứng cứ và chứng cứ có quan hệ đến việc sử dụng chứng cứ: Từ những nguồn này, sau khi cơ quan tố tụng xác định nguồn nào để chứng minh trong từng vụ án cụ thể thì nguồn chứng cứ ấy trở thành chứng cứ… Giả dụ ta coi bàn tay úp sấp là nguồn chứng cứ và cũng bàn tay ấy để ngửa là chứng cứ thì động tác xoay cổ tay để bàn tay từ sấp thành ngửa được ví như quá trình điều tra, tư duy để xác định nguồn chứng cứ nào có thể được dùng là chứng cứ để chứng minh [8, tr.50]. Như vậy, theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ chính là chứng cứ. Nó chỉ phụ thuộc vào việc có sử dụng hay không trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ được chia làm hai loại là chứng cứ vật chất và chứng cứ phi vật chất. Theo sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì “Chứng cứ phải được rút ra từ những phương tiện chứng minh” [7, tr.75]. Ý kiến khác cho rằng “Nguồn chứng cứ là những hình thức biểu hiện sự tồn tại của chứng cứ, được quy định bởi các quy phạm pháp luật, mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ” [15, tr.59].
  • 19. 12 Theo quan niệm này thì nguồn chứng cứ được hiểu theo hai khía cạnh: thứ nhất, nguồn là hình thức biểu hiện của chứng cứ, cho phép ta nhận thức được một cách cụ thể rõ ràng về chứng cứ; thứ hai, nguồn là nơi chứa đựng chứng cứ mà từ đó có thể rút ra được chứng cứ. Quan niệm này có nét gần gũi với quan niệm cho rằng nguồn chứng cứ là cái rút ra được chứng cứ: “...nguồn chứng cứ với nghĩa là nơi là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự tìm ra được những tình tiết có giá trị chứng minh về tội phạm” [9, tr.5]. Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng: “Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguồn chứng cứ thường được gọi bằng thuật ngữ khác là phương tiện chứng minh” [24, tr.168]. Có thể thấy rằng, việc sử dụng cụm từ “phương tiện chứng minh” thay thế cho cụm từ “nguồn chứng cứ” như vậy là thiếu chính xác, bởi lẽ khái niệm nguồn chứng cứ không đồng nhất với khái niệm phương tiện chứng minh. Nếu như nguồn chứng cứ được hiểu là nơi mà từ đó các CQTHTT cũng như người THTT có thể tìm ra chứng cứ trong vụ án hình sự, thì phương tiện chứng minh được hiểu là chứng cứ được chủ thể sử dụng để chứng minh. Như vậy, chứng cứ mới được coi là phương tiện chứng minh, còn nguồn chứng cứ không thể là phương tiện chứng minh, mà chỉ là nơi mà từ đó có thể tìm ra đối tượng được chủ thể sử dụng để chứng minh. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chỉ thông qua hiểu rõ bản chất của một sự vật, hiện tượng ta mới có thể nhận diện chính xác sự vật, hiện tượng đó là gì? Để làm rõ khái niệm cũng như thuật ngữ nguồn chứng cứ, ta cần phải hiểu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ. Để làm rõ bản chất của nguồn chứng cứ, ta không thể không đề cập đến chứng cứ, bởi vì chứng cứ và nguồn chứng cứ có mối quan hệ qua lại với nhau, chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ như một số học giả quan niệm được. Có thể
  • 20. 13 hiểu, chứng cứ là thông tin, còn nguồn chứng cứ lại chứa đựng những thông tin đó. Một nguồn chứng cứ có thể chứa đựng nhiều thông tin khác nhau về vụ án hình sự. Ngược lại, một thông tin phản ánh về vụ án cũng có thể chứa đựng trong nhiều nguồn chứng cứ khác nhau. Chứng cứ là thông tin, chúng ta không thể cầm nắm được chứng cứ mà nó phải được chứa đựng dưới các dạng nguồn chứng cứ thích hợp. Nguồn chứng cứ chính là nơi chứa đựng chứng cứ, là vật mang thông tin. Nguồn chứng cứ là nguồn cung cấp những thông tin quan trọng, mà từ đó có thể rút ra được những chứng cứ có giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Từ những phân tích trên, có thể rút ra được một số đặc điểm về nguồn chứng cứ như sau: Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nguồn chứa đựng các thông tin tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý chí con người và có liên quan đến vụ án. Các thông tin trên chỉ có thể trở thành chứng cứ để chứng minh tội phạm nếu nó có đầy đủ các thuộc tính của một chứng cứ, gồm tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để xác định tính hợp pháp của chứng cứ. Một chứng cứ được coi là hợp pháp khi nó được rút ra từ một trong các loại nguồn chứng cứ hợp pháp theo quy định của pháp luật. Thứ ba, nguồn chứng cứ được các cơ quan và người có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, “Nguồn chứng cứ là những sự vật chứa đựng chứng cứ, tức chứa đựng các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tế khách quan, liên quan đến vụ án và được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định” [24, tr.168]. Khái niệm này đã phần nào nêu rõ được bản chất của nguồn chứng cứ, tuy nhiên nó chưa phản ánh hết bản chất của nguồn chứng cứ, chưa chỉ hết ra được mối quan hệ giữa nguồn chứng cứ với chứng cứ, chưa chỉ được ra ý nghĩa của nguồn chứng cứ đối với hoạt động tố tụng hình sự.
  • 21. 14 Như vậy, có thể thấy rằng nguồn chứng cứ là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm, nhìn nhận ở nhiều góc nhìn khác nhau. Qua đây, tác giả cũng xin đưa ra một khái niệm về nguồn chứng cứ như sau: Nguồn chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự được hiểu là nơi chứa đựng những thông tin tồn tại một cách khách quan,có liên quan đến vụ án hình sự, được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính hợp pháp của chứng cứ đối với mỗi vụ án hình sự cụ thể, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.1.2.2. Vai trò của nguồn chứng cứ trong việc chứng minh tội phạm Nguồn chứng cứ là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động TTHS, đóng vai trò quan trọng xuyên suốt trong suốt các giai đoạn điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Các CQTHTT muốn xác định có hành vi phạm tội hay không, ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội bắt buộc phải dựa vào các chứng cứ của vụ án. Có thể nói nguồn chứng cứ trong pháp luật TTHS là vấn đề vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Thứ nhất, nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện để các CQTHTT xác định được sự thật của vụ án: Trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, CQĐT, VKS và Toà án khi giải quyết các vụ án hình sự cần xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được tiến hành xem xét. Để giải quyết vụ án, cần phải khẳng định được rằng tội phạm đã xảy ra, xác định được người cụ thể đã thực hiện tội phạm và họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đã thực hiện, tất cả các sự kiện và tình tiết của vụ án phải phù hợp với hiện thực khách quan. Để làm được điều đó, CQTHTT phải dựa vào chứng cứ được thu thập từ những nguồn chứng cứ hợp pháp. Nguồn chứng cứ là nơi cung cấp phương tiện chứng minh tội phạm, xác định các sự kiện có ý nghĩa với việc giải quyết vụ án hình sự. Thông qua
  • 22. 15 các tài liệu, chứng cứ, các sự kiện thực tế được xác định, khẳng định và đồng thời cũng phủ định, loại trừ các sự kiện không xảy ra trong thực tế. Rõ ràng vai trò, giá trị của nguồn chứng cứ là rất quan trọng, là cơ sở duy nhất, là nơi cung cấp phương tiện để chứng minh tội phạm trong vụ án hình sự. Khi giải quyết vụ án hình sự, trong quá trình thực hiện các hoạt động tố tụng, không chỉ CQĐT mà VKS và Toà án cũng cần tiến hành xác minh những sự việc có liên quan đến tội phạm đang được xem xét. Đối với hoạt động xét xử của Tòa án, nguồn chứng cứ có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng, giúp cho các CQTHTT phát hiện và xác định tội phạm cũng như người phạm tội một cách nhanh chóng, kịp thời, đề ra biện pháp xử lý phù hợp, đúng quy định của pháp luật. Thông qua nguồn chứng cứ, KSV thực hành quyền công tố trước Toà khai thác các thông tin cần thiết từ đó đưa ra lời buộc tội đối với bị cáo, còn người bào chữa và thân chủ của họ có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo. Việc nghiên cứu, xác định các sự kiện, tình tiết của vụ án được tiến hành trên cơ sở của các nguồn chứng cứ, từ các nguồn chứng cứ đó để tìm ra các chứng cứ, dựa vào đó để làm sáng tỏ được những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Thông qua việc phát hiện chứng cứ, xem xét và ghi nhận chứng cứ về mặt tố tụng, kiểm tra tính xác thực của chứng cứ, đánh giá chứng cứ, các CQTHTT có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của vụ án, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý khách quan của sự việc. Thứ hai, nguồn chứng cứ là căn cứ để các CQTHTT ra các quyết định cần thiết để giải quyết đúng đắn vụ án: Việc nhận thức được sự thật của vụ án là cơ sở để những người THTT ra những quyết định đúng đắn để giải quyết vụ án. Như vậy, xét về nội dung, nguồn chứng cứ là nơi duy nhất cung cấp phương tiện để xác định sự thật của vụ án và về mặt hình thức, nguồn chứng cứ
  • 23. 16 là nơi cung cấp các chứng cứ làm căn cứ để ra các quyết định tố tụng cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tất cả các quyết định tố tụng của CQTHTT đều phải có căn cứ theo luật định, và để xác định được các căn cứ này phải dựa vào chứng cứ. Điều 100 BLTTHS quy định: “Chỉ được khởi tố vụ án khi xác định sự việc có dấu hiệu tội phạm” [12, tr.64]. Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy rằng các cơ quan có thẩm quyền chưa thể biết ngay được ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi phạm tội đó đã diễn ra như thế nào nếu chỉ nhận được tin báo tội phạm xảy ra. Để xác định được tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, các CQTHTT cần thu thập chứng cứ từ những nguồn chứng cứ hợp pháp từ đó đánh giá, suy luận và đưa ra những kết luận có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Trong quá trình tố tụng, tùy thuộc vào phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các CQĐT, VKS, Tòa án giải quyết vụ án bằng những quyết định tố tụng khác nhau. CQĐT với chức năng điều tra có trách nhiệm thu thập chứng cứ, lập hồ sơ vụ án để làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử của VKS và Tòa án. Mặt khác, dựa trên các chứng cứ đã thu thập được, CQĐT đưa ra những đánh giá, những quan điểm của mình đối với vụ án như đề nghị VKS truy tố bị can hoặc đình chỉ điều tra. Để khởi tố bị can đối với một người phải đảm bảo điều kiện “khi có đủ căn cứ để xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội” [12, Điều 126]. Những căn cứ này cũng phải được xác định, được chứng minh bằng các hoạt động điều tra trước đó. VKS trên cơ sở xem xét, đánh giá những chứng cứ trong hồ sơ vụ án để ra quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng hoặc đình chỉ vụ án. Trong bản cáo trạng phải ghi rõ những chứng cứ xác định tội trạng của bị can; những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Bản án và các quyết định khác của Tòa án cũng phải trên cơ sở chứng cứ. Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
  • 24. 17 VKS và Tòa án chủ yếu thực hiện việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã được CQĐT thu thập trong quá trình điều tra, nhưng vẫn có thể tiếp tục thu thập thêm những chứng cứ mới. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HĐXX có thể chấp nhận yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng, tài liệu mới. Những người tham gia tố tụng cũng có thể thay đổi lời khai khác với lời khai ở giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cũng có quyền bổ sung xem xét chứng cứ mới. Điều 246 BLTTHS quy định “Chứng cứ cũ và chứng cứ mới, tài liệu đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa…” [12, tr.143]. Nguồn chứng cứ không chỉ là nơi cung cấp các căn cứ để các CQTHTT ra những quyết định tố tụng nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội dung vụ án mà còn cung cấp căn cứ để các CQTHTT ra những quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng. Để áp dụng các biện pháp ngăn chặn hay các biện pháp cưỡng chế khác đều phải có căn cứ theo luật định, và việc xác định các căn cứ đó phải dựa vào chứng cứ thu được từ các nguồn chứng cứ hợp pháp. Chỉ khi dựa vào nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật, các CQTHTT mới có đầy đủ chứng cứ để khẳng định những căn cứ nêu trên, mới có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế. Nếu không, quyết định đó bị coi là không có căn cứ, vi phạm pháp chế và vi phạm vào quyền tự do, dân chủ của công dân. Thứ ba, nguồn chứng cứ còn có ý nghĩa là nơi cung cấp căn cứ để ra các quyết định tố tụng mà các quyết định đó sẽ ảnh hưởng đến trình tự tố tụng của một vụ án cụ thể. VKS và Tòa án có thể ra quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nếu “thiếu những chứng cứ quan trọng mà VKS và Tòa án không thể tự mình bổ sung được; có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác; khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” [12, Điều 168, tr.109], những vi phạm này cũng phải
  • 25. 18 được chứng minh bằng chứng cứ. Các quyết định tạm đình chỉ điều tra hay phục hồi điều tra của CQĐT; quyết định tạm đình chỉ vụ án của VKS và của Tòa án, quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại của Tòa án cấp phúc thẩm cũng phải dựa trên cơ sở chứng cứ để xác định có hay không có căn cứ để ra quyết định đó. Sau khi bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, việc chứng cứ trong vụ án đã được thu thập, kiểm tra, đánh giá như thế nào cũng được coi là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm vì “Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án” [12, Điều 273] hoặc bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu “lời khai của người làm chứng, kết luận giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không đúng sự thật” [12, Điều 291]. Khi có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ bị xét lại và có thể bị hủy để điều tra hoặc xét xử lại. Lúc đó, trình tự tố tụng sẽ quay trở lại giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm tùy thuộc vào quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thứ tư, nguồn chứng cứ là phương tiện để người tham gia tố tụng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình: Để có thể bào chữa cho bị can, bị cáo, người bào chữa phải sử dụng những chứng cứ gỡ tội để chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc phạm tội nhẹ hơn tội bị truy cứu; những chứng cứ xác định tình tiết giảm nhẹ TNHS cho họ. Người bào chữa cũng sử dụng chứng cứ để bác bỏ những chứng cứ buộc tội đối với bị can, bị cáo. Quyền đưa ra chứng cứ của người bào chữa được quy định tại Điều 58 BLTTHS. Để thực hiện được quyền đưa chứng cứ để bào chữa cho bị can, bị
  • 26. 19 cáo, Luật còn quy định về các quyền khác có ý nghĩa như là điều kiện để thực hiện quyền đưa ra chứng cứ của người bào chữa, đó là các quyền có mặt khi hỏi cung bị can, nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác, được gặp bị can, bị cáo đang tạm giam; được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra, có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa (Điều 58 BLTTHS) Bị can, bị cáo sử dụng nguồn chứng cứ làm phương tiện để tự bảo vệ, để bào chữa mình trước sự buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền đưa ra những lời khai trình bày chứng cứ gỡ tội hoặc những chứng cứ bác bỏ chứng cứ buộc tội (chứng minh sự không đúng đắn của các chứng cứ phạm tội). Việc đưa chứng cứ để gỡ tội cho mình là quyền chứ không phải là nghĩa vụ của bị can, bị cáo. Ngay cả khi bị can, bị cáo nhận tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án và “lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội” [12, Điều 72]. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng sử dụng chứng cứ làm phương tiện để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đưa ra những chứng cứ có lợi và bác bỏ những chứng cứ bất lợi cho mình – Quyền đưa chứng cứ và những quyền khác có liên quan của những người này được quy định tại các Điều 68, 69 BLTTHS. Những chứng cứ do những người tham gia tố tụng đưa ra được chứa đựng trong các nguồn: Lời khai của người làm chứng (Điều 67); lời khai của người bị hại (Điều 68); Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự (Điều 69); Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (Điều 70); Lời khai của người bị tạm giữ (Điều 71); Lời khai của bị can, bị cáo (Điều 72); Như vậy có thể thấy nguồn chứng cứ là một trong những vấn đề có vị trí đặc biệt quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tiễn của hoạt động
  • 27. 20 TTHS. Nguồn chứng cứ là căn cứ pháp lý để CQTHTT giải quyết đúng đắn và chính xác vụ án hình sự. Việc nhận thức đúng vấn đề nguồn chứng cứ sẽ là cơ sở lý luận, định hướng đúng đắn cho quá trình thu thập, nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá chứng cứ qua đó góp phần lớn vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đang hết sức gian nan ở nước ta. 1.2. Đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ 1.2.1. Vật chứng Vật chứng là nguồn chứng cứ có tính truyền thống. Từ khi có hoạt động TTHS thì vật chứng luôn luôn giữ vai trò quan trọng cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. “Vật chứng là nguồn chứng cứ quan trọng đầu tiên mà thông qua nó các CQTHTT có thể chứng minh được sự việc hoặc xác định hướng điều tra của vụ án” [37, tr.33]. Để xây dựng khái niệm vật chứng, trước hết ta cần phải hiểu các đặc trưng cơ bản của nó: Thứ nhất, vật chứng là những gì thuộc về thế giới hữu hình, tồn tại dưới dạng vật thể, con người có thể cảm nhận được bằng các giác quan là: Xúc giác, vị giác, thị giác, thính giác, khứu giác. Do tồn tại dưới dạng vật thể, vật chứng có thể bị các yếu tố tự nhiên tác động làm thay đổi, biến dạng hoặc hủy hoại nên các CQTHTT cần chú ý trong quá trình phát hiện, thu giữ, bảo quản và xử lý vật chứng. Thứ hai, vật chứng chứa đựng và phản ánh những thông tin, sự kiện thực tế liên quan đến vụ án hình sự và nằm trong mối liên hệ tổng thể giữa các nội dung, vấn đề của vụ án hình sự. Thứ ba, vật chứng được các chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Các chủ thể có thẩm quyền thu thập vật chứng bao gồm: CQĐT, VKS, Tòa án. Ngoài ra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có quyền thu thập vật chứng trong một số
  • 28. 21 trường hợp. Nhiều trường hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự việc thu thập chứng cứ có thể do bị can, bị cáo, người làm chứng, người bị hại hoặc bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cung cấp cho CQTHTT. Như vậy, vật chứng được hiểu là những gì tồn tại dưới dạng vật thể chứa đựng và phản ánh những thông tin liên quan đến vụ án, được chủ thể có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.2.2. Lời khai của những người tham gia tố tụng Lời khai được hiểu là lời trình bày của những người tham gia tố tụng trước các CQTHTT. Lời khai của những người tham gia tố tụng được coi là nguồn chứng cứ bao gồm: Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Dạng nguồn chứng cứ thứ hai này có sự khác biệt so với vật chứng. Lời khai của các đối tượng trên được hình thành từ tư duy, ý thức của con người. Chính vì vậy, tính khách quan của lời khai không được đảm bảo như vật chứng. Họ là những người liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ án, tham gia tố tụng với các tư cách pháp lý khác nhau, tuy nhiên họ có đặc điểm chung là những thông tin mà họ biết được phản ánh thông qua nhận thức của mình, do đó lời khai của những người này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khách quan lẫn chủ quan, tùy từng đối tượng tham gia với tư cách nào trong vụ án và mối quan hệ của họ với nhau mà mỗi lời khai lại có những ảnh hưởng của đặc điểm tâm lý khác nhau đòi hỏi chủ thể lấy lời khai phải vận dụng các chiến thuật, phương pháp phù hợp để khai thác được những thông tin khách quan, có liên quan đến vụ án nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.2.2.1. Lời khai của bị can, bị cáo Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Như vậy có thể hiểu lời khai của bị can, bị cáo là
  • 29. 22 lời trình bày của người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tình tiết của vụ án. Lời khai của bị can, bị cáo là một trong những nguồn chứng cứ có tính chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của bị can, bị cáo trong luật TTHS bởi bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết việc mình có thực hiện hành vi phạm tội hay không? Thực hiện với mục đích, động cơ, phương tiện, công cụ phạm tội gì? Và những tình tiết khác liên quan đến vụ án. Ngoài ra, bị can, bị cáo là người bất lợi nhất trong vụ án, nếu bị Tòa án kết tội, họ có thể phải chịu hình phạt hoặc các biện pháp cưỡng chế khác. Lời khai của bị can, bị cáo có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật. Tuy nhiên, họ không có nghĩa vụ phải khai báo mà họ có quyền bào chữa. Nếu bị can, bị cáo khai báo thành khẩn thì được khoan hồng. Vì vậy, Luật TTHS Việt Nam luôn khuyến khích bị can, bị cáo tích cực góp phần xác định sự thật của vụ án. Lời khai của bị can, bị cáo có thể theo hai hướng: nhận tội hoặc không nhận tội. Tuy nhiên, thực tế điều tra, truy tố, xét xử cho thấy số lượng bị can, bị cáo chịu thành khẩn khai báo ngay từ đầu là rất ít, phần lớn đều từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối; bị can, bị cáo thường đặt cho mình mục đích làm sao che giấu hoặc làm giảm TNHS đối với tội phạm mà họ đã thực hiện… Những thông tin bị xuyên tạc, bóp méo hay bị làm giả theo ý chí chủ quan của bị can, bị cáo thì không còn mang tính khách quan. Vì vậy, những thông tin đó không thể là chứng cứ của vụ án. Khi thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ từ lời khai của bị can, bị cáo chủ thể có thẩm quyền cần phải có thái độ khách quan và thận trọng. Như vậy, có thể hiểu lời khai của bị can, bị cáo là sự trình bày của người đã bị khởi tố về hình sự và người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự, cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, được thực hiện trước các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
  • 30. 23 1.2.2.2. Lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ Người bị bắt được hiểu là người bị bắt khi phạm tội quả tang và người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp. Sau khi CQĐT tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp quả tang hoặc khẩn cấp phải tiến hành hoạt động động lấy lời khai khai ban đầu của người bị bắt về việc người đó bị tình nghi thực hiện tội phạm, nếu cần thiết phải đối chiếu lời khai của người bị bắt với các nguồn chứng cứ khác. Tạm giữ có thể áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội đầu thú, tự thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã. Sau khi có quyết định tạm giữ, người bị tạm giữ có quyền trình bày những vấn đề có liên quan đến việc họ bị bắt giữ, bị truy nã, tự thú, đầu thú trước người có thẩm quyền. Nội dung lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ thông thường có một trong hai khả năng: Thứ nhất, họ khai nhận hành vi phạm tội. Trong trường hợp này vẫn cần phải thẩm tra xác minh để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can... Thứ hai, họ đưa ra những lý do trình bày là mình không phạm tội, không có lỗi... (cần xác minh làm rõ sự thật, không tuỳ tiện quy kết theo nhận định chủ quan khi chưa thẩm tra xác minh). Người bị bắt, người bị tạm giữ thường quan tâm đến vụ án, vì vậy lời khai của họ cần phải được xem xét kỹ lưỡng và so sánh với các tài liệu khác có trong quá trình thẩm tra xác minh. Khi đánh giá lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ phải thật khách quan, không được cho rằng họ đã phạm tội (đề phòng có sự nhầm lẫn), cũng không được chủ quan cần đề phòng họ đánh lạc hướng CQĐT. Thông thường, người bị bắt, bị tạm giữ chỉ khai báo về các tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm. Họ có nguy cơ bị truy cứu TNHS nên họ thường khai báo những tình tiết theo hướng có lợi cho mình,
  • 31. 24 đôi khi không khách quan và đúng sự thật. Tuy nhiên, họ có quyền từ chối việc khai báo bởi khai báo là quyền chứ không phải nghĩa vụ của người bị bắt, bị tạm giữ, và pháp luật không truy cứu TNHS đối với hành vi từ chối khai báo và cố tình khai báo gian dối của họ. Người bị bắt, bị tạm giữ có thể công nhận hoặc không công nhận về những tình tiết mà họ bị nghi là đã thực hiện. Nếu có đủ căn cứ xác định người bị bắt, bị tạm giữ đã thực hiện hành vi phạm tội, CQTHTT ra quyết định khởi tố về hình sự đối với họ. Ngược lại, nếu chưa có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, lời khai của người bị bắt, người bị tạm giữ được hiểu là sự trình bày của người bị bắt (trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, hoặc đang bị truy nã) và người đã có quyết định tạm giữ hình sự (chưa bị khởi tố về hình sự) về những tình tiết khách quan, liên quan đến việc họ bị nghi là đã thực hiện tội phạm trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.2.2.3. Lời khai của người làm chứng Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời nhất không chỉ trong pháp luật Việt Nam, mà còn pháp luật các nước trên thế giới. Người làm chứng là người nắm được diễn biến của vụ án, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân người phạm tội… Qua đó, giúp cho CQTHTT nhận thức đúng đắn các tình tiết của vụ án. Việc làm chứng trước các CQTHTT vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của mọi người, vì vậy, nếu người làm chứng từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối, người đó sẽ phải chịu TNHS về tội từ chối khai báo được quy định tại Điều 308 BLTTHS hoặc tội khai báo gian dối được quy định tại Điều 307 BLHS. Nội dung lời khai của người làm chứng có thể là diễn biến của vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan
  • 32. 25 hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác, những vấn đề có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Lời khai của người làm chứng được sử dụng làm chứng cứ khi nó phù hợp với chứng cứ khác trong vụ án. Nếu người làm chứng không nói rõ được do đâu mà họ biết được về những tình tiết khách quan của vụ án… thì những tình tiết đó không được dùng làm chứng cứ. Trong trường hợp vụ án có nhiều người làm chứng với những lời khai mâu thuẫn nhau thì CQTHTT phải tiến hành việc xác minh, đối chiếu với chứng cứ khác xem lời khai của họ có phù hợp hay mâu thuẫn với các chứng cứ trên không? Qua đó, CQTHTT phân tích đánh giá một cách tổng hợp, khách quan để tìm ra sự thật của vụ án. Từ những phân tích trên, có thể rút ra đặc điểm lời khai của người làm chứng: Thứ nhất, người tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng trước hết phải biết được những tình tiết liên quan đến vụ án, đặc điểm nhân thân của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại. Họ là người trực tiếp trông thấy, nghe thấy khi hành vi phạm tội xảy ra hoặc có thể nghe tường thuật lại vụ việc từ người khác. Thứ hai, lời khai của người làm chứng được cơ quan có thẩm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Việc vi phạm thẩm quyền thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng sẽ làm mất đi tính hợp pháp và giá trị chứng minh tội phạm của chứng cứ này. Như vậy, lời khai của người làm chứng là sự trình bày của người biết về những tình tiết liên quan đến vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác, được thực hiện trước các chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
  • 33. 26 1.2.2.4. Lời khai của người bị hại Trong vụ án hình sự, người bị hại được hiểu là “người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” [12, tr.31]. Như vậy, người bị hại là chỉ có thể con người cụ thể (hay còn gọi là thể nhân) mà không thể là cơ quan, tổ chức. Xét về mặt hình thức, người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra chỉ trở thành người bị hại trong vụ án hình sự khi được cơ quan có thẩm quyền công nhận là người bị hại thông qua việc triệu tập họ đến khai báo với tư cách người bị hại. Nội dung lời khai của người bị hại có thể là những tình tiết, diễn biến của vụ án; những thiệt hại do tội phạm gây ra; quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; những vấn đề khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Người bị hại phải có nghĩa vụ khai báo, cung cấp những thông tin cần thiết giúp cho việc làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Nếu người bị hại có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, có thể bị coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 BLHS. Lời khai của người bị hại sẽ không được coi là chứng cứ nếu họ không nói rõ biết được những thông tin của vụ án trong hoàn cảnh nào, thời gian, địa điểm, cũng như người cung cấp thông tin đó. Nhìn chung, lời khai của người bị hại thường là chính xác, trung thực, mong muốn hợp tác với cơ quan chức năng để giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp người bị hại khai không chính xác hoặc có nhiều trường hợp khai gian dối để che giấu hành vi phạm tội của mình, gây nhiều khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử. Khi đánh giá lời khai của người bị hại, các CQTHTT cần làm rõ tính chính xác, khách quan của lời khai, và có chiến thuật hợp lý để khai thác được những thông tin cần thiết và chính xác đối với việc giải quyết vụ án. Từ những phân tích trên đây, lời khai của người bị hại được hiểu là lời
  • 34. 27 trình bày của người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra về những tình tiết liên quan đến vụ án mà người đó biết, trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. 1.2.2.5. Lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự Trong vụ án hình sự, nguyên đơn dân sự được hiểu là “cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại” và Bị đơn dân sự được hiểu là “cá nhân, cơ quan, tổ chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” [12, tr.33]. Căn cứ để xác định tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là căn cứ mang tính hình thức, đó là giấy triệu tập họ đến với tư cách nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án. Khác với lời khai của các chủ thể tham gia tố tụng khác, lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, phạm vi khai báo của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ xoay quanh những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, bởi lẽ họ là những người không trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội nhưng quyền và lợi ích của họ gắn liền với vụ án. Nếu họ khai báo về những tình tiết không liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại thì họ có thể tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Lời khai của nguyên đơn dân sự có ý nghĩa cho việc xác định thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra. Nội dung lời khai của bị đơn dân sự có thể là lời trình bày về việc họ có chấp nhận yêu cầu bồi thường, mức bồi thường của nguyên đơn dân sự hay không, lý do của các ý kiến này... Thứ hai, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong trường hợp họ là cơ quan, tổ chức thì lời khai do người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền cung cấp. Việc thu thập chứng cứ từ nguồn chứng cứ này thường dưới hình thức yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại.
  • 35. 28 Như vậy, lời khai của người đơn dân sự, bị đơn dân sự là sự trình bày của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra, hoặc gây ra thiệt hại mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, về những tình tiết liên quan đến bồi thường thiệt hại trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.2.2.6. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự được hiểu là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của CQTHTT. Họ có thể là người không liên quan đến việc thực hiện tội phạm nhưng các CQTHTT phải xử lý theo pháp luật những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Căn cứ để xác định tư cách tham gia tố tụng của họ mang tính hình thức, đó là giấy triệu tập của CQĐT, VKS, Tòa án, họ đến với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và họ chỉ phải trình bày trung thực về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người không tham gia vào việc thực hiện tội phạm, hoặc có tham gia nhưng chưa đến mức bị truy cứu TNHS hoặc có tham gia nhưng được miễn TNHS nhưng quyền lợi, nghĩa vụ của họ có liên quan đến vụ án hình sự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ khai báo về những tình tiết liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ, nếu họ khai báo về những tình tiết khác của vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được hiểu là sự trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định của CQTHTT về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trước chủ thể có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
  • 36. 29 1.2.2.7. Kết luận giám định Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để làm rõ những tình tiết khách quan cần phải chứng minh trong vụ án, các CQTHTT có quyền trưng cầu giám định. Kết luận giám định là bản nhận xét của người giám định về vấn đề có liên quan đến việc làm rõ vụ án hình sự được CQTHTT trưng cầu. Nội dung của bản kết luận giám định có thể là cơ sở để xác định có tội phạm xảy ra không, ai là người phạm tội... Hiện nay, vấn đề về giám định được điều chỉnh trực tiếp Luật giám định tư pháp năm 2012 (có hiệu lực từ 01/01/2013). Biện pháp giám định được CQTHTT sử dụng nhằm mục đích kiểm tra, củng cố và đánh giá chứng cứ, tài liệu và nhiều khi nó có vai trò quyết định đối với việc giải quyết vụ án. Thông qua giám định, CQĐT xác định thủ phạm, phương pháp, phương tiện, thủ đoạn phạm tội… để từ đó làm cơ sở áp dụng các biện pháp như bắt, khám xét, hỏi cung... Thực tế có trường hợp không có kết luận giám định thì không thể có cơ sở để truy cứu TNHS như giám định về nguyên nhân chết ở nạn nhân hoặc tỷ lệ thương tật... Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy các trường hợp trưng cầu giám định để phục vụ cho việc giải quyết vụ án hình sự được chia làm hai trường hợp: Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định và các trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết. Như vậy, có thể thấy kết luận giám định là văn bản pháp lý quan trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. Kết luận giám định là loại nguồn chứng cứ quan trọng vì các chứng cứ này được dựa trên những cơ sở của các thành tựu khoa học - nó là một phán quyết mang tính khoa học và không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người nên đối với quá trình làm rõ sự thật của vụ án, giá trị chứng minh của kết luận giám định bao giờ cũng mang tính khách quan hơn các nguồn chứng cứ khác. Có thể rút ra một số đặc điểm của kết luận giám định sau:
  • 37. 30 Thứ nhất, kết luận giám định được tiến hành thông qua giám định viên là người có đủ tiêu chuẩn, được bổ nhiệm, cấp thẻ giám định viên, có chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu về lĩnh vực mà họ tiến hành giám định theo yêu cầu của Cơ quan trưng cầu giám định. Thứ hai, kết luận giám định được đánh giá trên cơ sở khoa học-kỹ thuật, nó mang tính khách quan và không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của con người. Giám định viên trên cơ sở khoa học, dựa trên những kiến thức, am hiểu của mình để xem xét, đánh giá những vấn đề có liên quan đến vụ án một cách độc lập và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những gì ghi nhận trong kết luận giám định. Ngoài ra, việc tiến hành giám định phải tuân theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định nói chung, BLTTHS quy định nói riêng. Như vậy, kết luận giám định là kết quả của việc đánh giá được trình bày bằng văn bản trên phương diện khoa học-kỹ thuật của giám định viên về những vấn đề có liên quan đến vụ án hình sự theo quyết định trưng cầu giám định của CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. 1.2.2.8. Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác Những biên bản, tài liệu, đồ vật khác cũng có thể được coi là nguồn chứng cứ khi đáp ứng các điều kiện do luật định. * Biên bản hoạt động điều tra, xét xử: Trong hoạt động điều tra xét xử vụ án hình sự, các CQTHTT khi thực hiện các hoạt động của mình phải tiến hành lập biên bản. Việc lập biên bản là một trong những biện pháp nhằm công khai các hoạt động tố tụng, đồng thời ghi nhận lại một cách khách quan về những tình tiết của vụ án nhằm giúp giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác. Những tình tiết được ghi trong các biên bản bắt người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, biên bản phiên tòa và biên bản về các hoạt động tố tụng khác có thể được coi là chứng cứ.
  • 38. 31 Biên bản hoạt động điều tra, xét xử là một trong những loại nguồn chứng cứ quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự. Nó ghi nhận những sự việc mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nên thông tin của nó đầy đủ về mặt nội dung, chuẩn xác về mặt hình thức sẽ giúp cho chính CQTHTT giải quyết vụ án hình sự nhanh chóng và thuận lợi. Nó hỗ trợ, bổ sung cho các nguồn chứng cứ khác về tính hợp pháp, là căn cứ kiểm tra các trình tự, thủ tục hoạt động trong quá trình tiến hành tố tụng theo quy định của pháp luật có được bảo đảm hay không nhằm góp phần bảo đảm tính hợp pháp và tính khách quan của chứng cứ. Như vậy, biên bản về hoạt động điều tra, xét xử là những văn bản pháp lý ghi nhận hoạt động điều tra, xét xử được chủ thể có thẩm quyền thực hiện, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. * Đồ vật, tài liệu khác liên quan đến vụ án: Ngoài biên bản về hoạt động điều tra, xét xử thì các tài liệu, đồ vật khác trong vụ án hình sự cũng có thể trở thành nguồn chứng cứ. Các tài liệu, đồ vật khác ở đây là những văn bản pháp lý hoặc các văn bản hợp pháp khác, là những vật chứa đựng những thông tin về những tình tiết liên quan đến vụ án do CQTHTT thu thập, phát hiện hoặc do cơ quan, tổ chức và cá nhân cung cấp cho CQTHTT. Một số tài liệu có thể trở thành nguồn chứng cứ như: Sổ sách, hóa đơn, chứng từ, những số liệu, báo cáo có liên quan đến vụ án… hoặc các đồ vật khác có thể là các mẫu vật cùng loại với công cụ, phương tiện phạm tội, đối tượng tác động của tội phạm, những đồ vật mà người phạm tội sử dụng liên quan đến vụ án… Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính liên quan của tài liệu, đồ vật do cơ quan, cá nhân, tổ chức cung cấp, CQĐT, VKS, Tòa án sử dụng chúng làm chứng cứ của vụ án. Trên thực tế, những tài liệu, đồ vật được cung cấp từ cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là CQTHTT nên không đảm bảo tính hợp pháp. Hơn nữa, sự hạn chế của loại nguồn chứng cứ
  • 39. 32 này ở chỗ các tài liệu, đồ vật do CQTHTT chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý có giá trị chứng minh hay không. Nếu không được chuyển hóa thành chứng cứ pháp lý thì chúng không có giá trị chứng minh. Như vậy, tài liệu, đồ vật khác là những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi nhận trong các tài liệu cũng như đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho CQTHTT theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. 1.3. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự một số quốc gia trên thế giới Trong lịch sử phát triển của nhân loại, gắn liền với các phương thức sản xuất khác nhau là kiểu nhà nước và kiểu pháp luật khác nhau. Tương ứng với mỗi kiểu pháp luật lại có một kiểu tố tụng đặc thù quy định về vấn đề chứng cứ, nguồn chứng cứ. 1.3.1. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng thẩm vấn Vào thế kỷ thứ XIII ở Pháp, thế kỷ thứ XVI ở Đức và một số nước Châu Âu, hình thức tố tụng thẩm vấn được hình thành, phát triển. Nó xuất hiện lần đầu tiên trong pháp luật La Mã và biến mất cùng với sự sụp đổ của đế chế La Mã. Dưới ảnh hưởng của Tòa án Thiên chúa giáo (thế kỷ thứ XIII ở Pháp), tố tụng thẩm vấn xuất hiện trở lại. Đây là sự khởi nguồn của tố tụng viết, các bên cung cấp chứng cứ phải thông báo cho nhau biết. Một đặc trưng cơ bản của tố tụng thẩm vấn là sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động tố tụng rất rõ. Trước khi xét xử, các CQĐT, truy tố phải điều tra, thu thập chứng cứ và sau đó hồ sơ được chuyển sang cho toà án để nghiên cứu, đánh giá chứng cứ chuẩn bị cho việc xét xử. Theo đó, chứng cứ được hiểu là sự đệ trình của một cơ quan tố cáo, cụ thể là người đại diện cho cơ quan tố cáo xuất trình cho Tòa án những chứng cứ để chứng minh cho sự tố cáo của mình nhằm duy trì sự tố cáo. Chứng cứ tồn tại với tính chất là
  • 40. 33 phương tiện để chứng minh cho sự tố cáo của cơ quan tố cáo. Đây là nền tảng cơ bản sau này liên quan đến quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Một trong những nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ. Theo đó, Việc đánh giá chứng cứ phải được tự do và không bị kiềm chế bởi các nguyên tắc loại trừ. Thông thường, Tòa án quan tâm đến giá trị và tính xác thực của chứng cứ hơn là tính có thể chấp nhận được của chứng cứ. Đây là điểm khác biệt với hệ thống tranh tụng vốn tập trung trước hết vào việc xem xét chứng cứ đã được thu thập như thế nào. Tiêu chuẩn của chứng cứ được chấp nhận là niềm tin nội tâm của thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn. Nguyên tắc này áp dụng cho tất cả các khía cạnh của chứng cứ bao gồm cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ. Thẩm phán và bồi thẩm đoàn có cơ sở về niềm tin của mình về mọi khía cạnh của các bằng chứng được đưa ra trước Tòa, tuy nhiên họ không được dựa trên những chứng cứ được thu thập một cách bất hợp pháp [27, tr.38]. Điển hình cho các quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn là Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Pháp. Luật tố tụng hình sự của Cộng hoà Liên bang Đức không quy định cụ thể về nguồn chứng cứ, tuy nhiên các tình tiết liên quan đến phán quyết của Tòa án về xác nhận chứng cứ bao gồm: Nhân chứng, chuyên gia giám định, kiểm tra địa điểm hay đồ vật, các tài liệu, lời khai của bị cáo và đồng phạm. Pháp luật TTHS của CHLB Đức xác định một số nguyên tắc cơ bản, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, trong các Luật cơ bản và trong các văn bản pháp luật khác. Nhóm nguyên tắc về áp dụng, sử dụng chứng cứ theo quy định của luật chứng cứ gồm: nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ,
  • 41. 34 giả định vô tội. Nguyên tắc tự do đánh giá chứng cứ là một trong những nét đặc trưng của tố tụng hình sự Đức, khác biệt cơ bản với tố tụng hình sự Anh. Theo nguyên tắc này, một thẩm phán không bị bắt buộc bởi các quy định của pháp luật về chứng cứ hay bất kỳ hướng dẫn nào. Không có điều kiện cụ thể nào đặt ra với Thẩm phán trước khi chứng minh được một tình tiết của vụ án, mặc dù thẩm phán vẫn phải đảm bảo tôn trọng các kiến thức khoa học, lập luận logic và nhận thức chung. Nếu chứng cứ thu thập bằng các biện pháp vi phạm các quy định về thu thập chứng cứ thì chứng cứ đó phải bị loại bỏ [36, tr.77]. Luật TTHS của CHLB Đức quy định nguyên tắc loại bỏ chứng cứ được thu thập bằng các biện pháp bất hợp pháp. Lời khai của bị can, bị cáo do bị đối xử tàn tệ, gây mệt mỏi, can thiệp về thể chất, sử dụng thuốc, hành hạ, lừa dối hoặc thôi miên, đe dọa bằng những biện pháp không được pháp luật cho phép, đưa ra lời hứa hẹn về những thuận lợi, những biện pháp gây ảnh hưởng trí nhớ hoặc khả năng của bị cáo đều không được coi là chứng cứ ngay cả khi bị can, bị cáo đồng ý sử dụng chúng [29, Điều 136]. Về vấn đề sử dụng chứng cứ thu thập được qua hoạt động trinh sát: “Việc sử dụng điều tra trinh sát chỉ được phép sau khi đã có sự cho phép của cơ quan công tố” [34, tr.66]. Các biện pháp trinh sát bao gồm: xâm nhập vào nhà riêng, nghe lén và ghi âm điện thoại, nghe lén thông tin viễn thông, chụp ảnh ghi hình và thiết bị kỹ thuật cho việc giám sát các tài liệu. Điều tra trinh sát được sử dụng khi có căn cứ cho thấy đã có hành vi phạm tội nghiêm trọng được thực hiện, liên quan đến buôn bán ma túy, hoặc vũ khí, tiền giả; liên quan đến an ninh quốc gia, có tính thương mại hoặc liên tục hoặc thực hiện bởi thành viên của một băng nhóm tội phạm hoặc hình thức tổ chức khác mà việc sử dụng các biện pháp này sẽ không có khả năng thành công hay gặp
  • 42. 35 nhiều khó khăn hơn. Các thông tin thu thập được thông qua hoạt động trinh sát chỉ được sử dụng làm chứng cứ chứng minh tội phạm khi được hội đồng xét xử cho phép Pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp không quy định cụ thể về nguồn chứng cứ mà chỉ quy định “tất cả những gì có thể chứng minh hành vi phạm tội thì được coi là chứng cứ” [34, Điều 247]. Đối với mỗi giai đoạn TTHS liên quan tới việc truy tìm của cảnh sát, việc điều tra hoặc giai đoạn xét xử, chứng cứ được quy định cụ thể. Thẩm phán, công tố viên và Sỹ quan cảnh sát tư pháp có quyền thu giữ vật chứng trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo luật định. Tuy pháp luật TTHS của Cộng hòa Pháp không có quy định cụ thể về nguồn chứng cứ, song có thể nhận thấy chứng cứ trong luật TTHS Pháp bao gồm 5 loại sau: 1. Sự thừa nhận; 2. việc làm chứng: đây là loại chứng cứ được thu thập bởi cuộc điều tra hoặc lấy lời khai; 3. chứng cứ vết: các tài liệu giấy tờ tạo nên một cấu thành tội phạm cụ thể, ví dụ như giấy tờ giả mạo, hoặc một hành vi đe doạ bằng giấy tờ, thư từ; các biên bản do cảnh sát thiết lập thông qua giai đoạn điều tra ban đầu sẽ có giá trị chứng minh; các thư từ cá nhân cũng có thể được sử dụng làm chứng cứ;các chứng cứ về hợp đồng; 4. Kết luận giám định; 5. Suy đoán và các dấu vết. Việc dẫn chiếu một cách cụ thể các loại chứng cứ và các phương thức để xác định chứng cứ có ý nghĩa đề cao quyền của thẩm phán ở thủ tục xét hỏi trong TTHS là một trong những đặc trưng cơ bản của thủ tục tố tụng này. Việc thu thập các loại chứng cứ phải đảm bảo các quy định về thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Lời thú tội cũng như mọi chứng cứ khác thuộc toàn quyền đánh giá của Thẩm phán (Điều 428). Pháp luật về TTHS của Cộng hòa Pháp đảm bảo nguyên tắc đánh giá chứng cứ dựa trên niềm tin nội tâm của Thẩm phán. Thẩm phán có thể sử
  • 43. 36 dụng bất cứ chứng cứ nào nhằm thiết lập niềm tin nội tâm của mình về các vấn đề của vụ án. Khác với hệ thống pháp luật chỉ sử dụng chứng cứ luật định. Tuy nhiên, việc đánh giá chứng cứ của Thẩm phán cũng phải đảm bảo một số vấn đề: Thẩm phán phải nêu rõ căn cứ cho quyết định của mình; các chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp, phải được công khai tranh luận. 1.3.2. Nguồn chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng. Tố tụng tranh tụng xuất hiện đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại, sau đó du nhập vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”. Tại đây, người đại diện cơ quan công tố có trách nhiệm thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ trước tòa để buộc tội. Ngay từ thời kỳ đầu hình thành, tố tụng tranh tụng coi trọng tranh luận bằng lời nói công khai, trực tiếp tại tòa. Vì vậy, nhiều tài liệu, chứng cứ viết được coi là chứng cứ rất quan trọng trong tố tụng thẩm vấn thì trong tố tụng tranh tụng lại không được coi là chứng cứ. Để làm rõ vấn đề liên quan đến tài liệu đó, thông thường người viết tài liệu được mời tham gia tố tụng và trực tiếp trình bày tại tòa. Như vậy, chứng cứ được hiểu là phương thức một bên chứng minh trước tòa là mình đúng. Tức là bên nào thuyết phục được tòa án sẽ là bên thắng kiện chứ không phải bên vốn có sự thật ấy. Trong hệ thống pháp luật tranh tụng, các quy định của pháp luật chủ yếu hình thành thông qua quá trình xét xử tại tòa án và các phán quyết của thẩm phán Tố tụng tranh tụng có 3 hệ thống nguyên tắc chi phối toàn bộ hoạt động tố tụng: quy tắc tố tụng, quy tắc chứng cứ và quy tắc ứng xử, trong đó quy tắc về chứng cứ có ảnh hưởng lớn nhất vì nó kiểm soát loại chứng cứ nào có thể được đưa ra trước những người có thẩm quyền quyết định, hay nói cách khác, nó quyết định chứng cứ có được chấp thuận hay không [27, tr.7].
  • 44. 37 Ngay cả thẩm phán cũng không được tự do lựa chọn chứng cứ mà họ cho rằng thích hợp nhất mà phải tuân theo các nguyên tắc chứng cứ đã được quy định. Quy tắc về chứng cứ được đưa ra nhằm đảm bảo sự công bằng trong tố tụng qua việc cấm sử dụng những nguồn chứng cứ không đáng tin cậy, sai lệch hoặc có thể dẫn đến định kiến cho người có thẩm quyền phán quyết. Nguyên tắc kiểm tra chéo, đối chất để xác định tính chính xác, tính có căn cứ của chứng cứ được đặc biệt coi trọng. Theo đó, trong quá trình xét xử, tòa án đóng vai trò là trọng tài quan sát các bên tranh tụng, bảo đảm quyền tranh tụng trước tòa cho cả bên buộc tội (công tố viên) và bên gỡ tội (các luật sư bào chữa). Việc đánh giá chứng cứ để đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên những tiêu chí hợp lệ của chứng cứ do pháp luật quy định. Điển hình cho mô hình pháp luật tố tụng tranh tụng này là pháp luật TTHS của vương quốc Anh và của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Pháp luật tố tụng hình sự của Vương quốc Anh không có quy định cụ thể về nguồn chứng cứ, “chứng cứ sẽ được chấp thuận nếu nó có liên quan đến các tình tiết cần phải chứng minh giúp giải quyết vụ án” [36, tr.161]. Các quy định về nguồn chứng cứ được thể hiện trong các Luật khác nhau tùy theo những phần có liên quan. Ví dụ: Trong luật tư pháp hình sự năm 1987 quy định về việc chuyển giao vụ án, trong đó quy định về chuyển giao chứng cứ; Luật tư pháp hình sự năm 1988 quy định về chứng cứ thông qua phương tiện truyền hình, Luật tòa án cảnh sát năm 1980 quy định về việc triệu tập và lấy lời khai nhân chứng… Vì vậy, trong luật Điều tra và tố tụng hình sự năm 1996 không quy định một cách toàn diện về chứng cứ mà chỉ có một mục “chứng cứ - các quy định đặc biệt” trong đó bổ sung thêm một số quy định về các điều luật cụ thể trong các luật khác đã quy định về chứng cứ [34, tr.48]. Theo đó, các chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp (được thu thập bởi các cơ quan có thẩm quyền theo thủ tục pháp luật quy định), tính liên quan và không rơi vào các trường hợp loại trừ chứng cứ.
  • 45. 38 Một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS của Vương quốc Anh là nguyên tắc chấp thuận chứng cứ. Chứng cứ sẽ được chấp thuận nếu nó có liên quan đến các tình tiết cần phải chứng minh giúp giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Tòa án có thể từ chối chấp thuận một chứng cứ nào đó do Viện công tố đưa ra nếu việc chấp thuận có thể dẫn tới sự không công bằng và bình đẳng trong tố tụng. “Có rất nhiều nguyên tắc về loại trừ chứng cứ như: nếu cung cấp chứng cứ sẽ dẫn đến tự buộc tội, chứng cứ có được do nghe nói lại…” [36, tr.161]. Chứng cứ phải tránh không rơi vào một trong ba nhóm sau mới được đưa ra là chứng cứ hợp pháp, đó là: Chứng cứ do nhận chứng không có năng lực đưa ra; chứng cứ là lời khai quá chung chung; chứng cứ là quá khứ xấu hoặc tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, cần chú ý một điều là quy định này về chứng cứ chỉ có giá trị trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Trong giai đoạn thực hiện nhiệm vụ của mình, công tố viên không bị ràng buộc bởi quy định này trong việc buộc tội một bị can. Ngoài ba yếu tố đã trình bày ở trên, thời gian từ những năm cuối thế kỷ XX, pháp luật TTHS của Anh đã xây dựng thêm một vấn đề bắt buộc để đảm bảo tính hợp pháp của chứng cứ là: Chứng cứ phải được thu thập một cách hợp pháp và chính xác. Các tài liệu, thông tin, vật chứng được sử dụng làm chứng cứ phải đảm bảo theo quy định của pháp luật thì mới được coi là chứng cứ chứng minh tội phạm. + Lời khai của nhân chứng: Tất cả các nhân chứng (trừ trẻ em) phải tuyên thệ, thề tại bục nhân chứng tại phòng xử án trước khi khai báo. + Chứng cứ thông qua phương tiện truyền hình: Tòa án cho phép một người đưa ra bằng chứng thông qua phương tiện truyền hình. Đối với nhân chứng là trẻ em, Tòa án có thể cho phép đối với người đưa ra chứng cứ mà không thông qua phương tiện truyền hình trực tiếp nếu toà án thấy rằng việc cho phép là có lợi cho công lý và dựa trên đơn của một bên trong vụ án hoặc dựa trên văn bản của Tòa án