SlideShare a Scribd company logo
1 of 51
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG VĂN CÔNG
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG VĂN CÔNG
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN
Hà Nội – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Dƣơng Văn Công
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn, được
sự hướng dẫn, giảng dạy của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan cùng với sự
đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm cảm ơn đến:
Ban chủ nhiệm Khoa Luật, Tổ bộ môn Tư pháp hình sự, các giảng viên đã tận
tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian
học tập tại trường.
Cảm ơn lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng
cao trình độ.
Cảm ơn Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Đại học Luật
Hà Nội và Thư viện Học viện Tư pháp đã cho phép tra cứu và sử dụng các tài liệu
nghiên cứu; Liên đoàn luật sư Việt Nam đã đã giúp đỡ tôi số liệu về sự tham gia
Luật sư trong giải quyết vụ án hình sự.
Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều
trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện luận văn này.
Đặc biệt, Tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn
Tuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn
thành luận văn này.
. Tác giả luận văn
Dƣơng Văn Công
DANH MỤC NHỮNG TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT Cơ quan điều tra
CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng
ĐTV Điều tra viên
HĐTP TANDTC Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
HĐXX Hội đồng xét xử
TGTT Tham gia tố tụng
NTGTT Người tham gia tố tụng
NTHTT Người tiến hành tố tụng
THTT Tiến hành tố tụng
TNHS Trách nhiệm hình sự
TTHS Tố tụng hình sự
PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự
UBMTTQ
VAHS
Ủy ban Mặt trật tổ quốc
Vụ án hình sự
VKS Viện kiểm sát
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1.Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1
2.Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................3
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ..................................................5
4.Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu .................................................6
5.Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn............................................................7
6.Kết cấu luận văn ..................................................................................................7
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA
TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ...................................8
1.1 Khái niệm người tham gia tố tụng hình sự........................................................8
1.2 Phân loại những người tham gia tố tụng .........................................................21
1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về người tham gia tố tụng từ sau cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay ....................................................................24
1.4. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới ..................................................................................................28
Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM
GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ... Error! Bookmark not
defined.
2.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự...........Error!
Bookmark not defined.
2.1.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng liên quan trực tiếp
đến vụ án................................................................Error! Bookmark not defined.
2.1.2 Quy định pháp luật về người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích của người
bị hại, đương sự .....................................................Error! Bookmark not defined.
2.2 Thực trạng áp dụng các quy định về những người tham gia tố tụng hình sự
...............................................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.1 Thực trạng xác định tư cách những người tham gia tố tụng hình sự .....Error!
Bookmark not defined.
2.2.2 Thực trạng bảo đảm sự tham gia và quyền của những người tham gia tố tụng
hình sự ...................................................................Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG
NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........Error! Bookmark not defined.
3.1 Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về những người tham
gia tố tụng ..............................................................Error! Bookmark not defined.
3.2 Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về những người tham gia tố tụng
hình sự ...................................................................Error! Bookmark not defined.
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu áp dụng pháp luật về những người tham gia tố
tụng hình sự ...........................................................Error! Bookmark not defined.
3.3.1 Cần có văn bản hướng dẫn cần có hướng dẫn về NTGTT khi giải quyết vụ
án hình sự tại phiên tòa phúc thẩm.........................Error! Bookmark not defined.
3.3.2 Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng .......... Error! Bookmark not
defined.
3.3.3 Nâng cao số lượng và chất lượng của người bào chữaError! Bookmark not
defined.
3.3.4 Các giải pháp khác........................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN...........................................................Error! Bookmark not defined.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
CQTHTT, THTT và NTGTT là những chủ thể của hoạt động TTHS. Việc tham
gia của những người này rất quan trọng bởi thế mà PLTTHS của các nước đều quy
định những chủ thể này phải tham gia vào việc giải quyết VAHS nhưng tùy từng thể
chế nhà nước, hệ thống pháp luật mà các chủ thể TGTT có phạm vi, địa vị pháp lý
của những người này khác nhau đồng thời mức độ tham gia TTHS khác nhau. Việc
CQTHTT và người THTT có phải và cũng nên coi là NTGTT thì hiện nay có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về những
NTGTT độc lập với CQTHTT và NTHTT trên cơ sở quy định của PLTTHS Việt
Nam gọi là NTGTT.
Việc quy định TGTT của những NTGTT suy cho cùng cũng là để bảo vệ bảo vệ
quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Mục
đích của việc nghiên cứu về các quy định của pháp luật nói chung và PLTTHS nói
riêng đều hướng để bảo đảm quyền con người được tốt và hoàn thiện hơn. Hay nói
theo GS.TSKH Đào Trí Úc: “Vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
có thể được coi là trục xoay của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự” [76, tr.8]. Quyền
con người trong PLTTHS được thể hiện dưới nhiều chế định, trong đó có chế định về
NTGTT mà trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của những NTGTT- nếu được quy
định đầy đủ và được bảo đảm nó sẽ là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với
quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ những cơ quan tố
tụng. Quyền và nghĩa vụ của những NTGTT trong PLTTHS nước ta không ngừng
được bổ sung và hoàn thiện. Quá trình thi hành BLTTHS 2003 thấy rằng các quy
định về quyền và nghĩa vụ của những NTGTT đã phần nào bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NTGTT nhưng xét dưới góc độ quyền con người cần phải được tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện nhất là đối với bị can, bị cáo. Mặt khác quy định
PLTTHS hiện hành còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất và chưa có hướng
dẫn chính thức của các CQTHTT dẫn đến nhận thức chưa thống nhất của CQTHTT
và NTHTT nên không ít trường hợp xác định NTGTT không đúng tư cách dẫn đến
2
việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, nhiều bản án bị huỷ, bị sửa vì
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT.
Hoàn thiện chế định về NGTTT, đảm bảo quyền con người, quyền bình đẳng
của các bên trong tranh tụng là yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Nghị quyết
49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
chỉ rõ: “Xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh”.
Hiến Pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, nhiều nội
dung đã được hiến định trong đó có nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân. Hiến Pháp đã đổi tên chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân”, chuyển vị trí từ chương V lên chương II sau chương I về chế độ
chính trị, đồng thời đã bổ sung và làm rõ thêm nhiều quyền phù hợp với các Công
ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà Việt Nam là
thành viên. Những sửa đổi bổ sung lần này không đơn giản chỉ thuần túy về mặt kỹ
thuật, mà lớn hơn cả đó là thể hiện bước tiến mới của chúng ta trong tư duy, nhận
thức về quyền con người tiệm cận tới giá trị phổ quát của nhân loại về dân chủ,
nhân quyền [63, tr.32]. Quán triệt tinh thần của cải cách tư pháp, triển khai Hiến
pháp và để khắc phục những tồn tại, bất cập trong quá trình thực thi BLTTHS 2003,
ngày 27/11/2015 tại kỳ họp Quốc hội khóa 13 đã thông qua BLTTHS mới-
BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003, Bộ luật này gồm có 510 điều, trong đó bổ
sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều, liên quan
đến NTGTT thì đã bổ sung thêm nhiều diện (loại) TGTT mới mặt khác đã bổ sung
các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của NTGTT một cách chặt chẽ, khả thi, phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế bảo đảm
cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc
tranh tụng [6, tr 23]. BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 có
hiệu lực ngày 17/1/2016 nhưng do có một số sai sót của luật nội dung- BLHS 2015,
tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29 tháng 6 năm 2016 lùi ngày
3
có hiệu lực thi hành của BLTTHS 2015 [41]. Do vậy, thời điểm tác giả viết luận
văn này thì BLTTHS 2003 vẫn có hiệu lực nên việc nghiên cứu, đánh giá vẫn dựa
trên các quy định của BLTTHS 2003 song luận văn còn phải giải quyết và đưa ra
những định hướng hay những đề xuất mới nên tác giả có đề cập, lồng ghép, nhận
định và đánh giá cả các quy định của BLTTHS 2015 có liên quan.
Với tất cả các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu về NTGTT không chỉ có ý nghĩa
trong việc tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, PLTTHS mà còn việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật. Mặt khác còn có ý nghĩa trực tiếp trong thực tiễn về việc bảo
vệ, hoàn thiện quyền của NTGTT cũng chính là quyền con người, quyền công dân.
Vì vậy, tác giả ch ọn đề tài: “Những người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam’’ làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước hết, Việc nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ (những) NTGTT rất khó
khăn vì diện (loại) NTGTT thường rất đông- theo quy định pháp luật TTHS hiện
nay được chia làm 12 tư cách (loại) người, trong đó mỗi người tham gia với vai trò,
địa vị pháp lý không giống nhau. Mặt khác do giới hạn (hình thức: số trang) của các
công trình nghiên cứu. Nên trên các sách báo khoa học pháp lý hay các công trình
khoa học các tác giả, nhà khoa học thường nghiên cứu theo hai hướng chính:(i) về
từng NTGTT hay (ii) nhóm người TGTT – có địa vị pháp lý gần giống nhau. Chẳng
hạn:
Về Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: “Hoàn thiện các quy định của BLTHS về
quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện” của TS Chu Thị
Trang Vân đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2009; Một số ý kiến hoàn
thiện BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị cáo, bị can” của đồng
tác giả ThS. Đoàn Tạ Cửu Long và ThS Nguyễn Tấn Hảo đăng trên tạp chí Kiểm
sát số 21/2012; “Địa vị pháp lý của người tạm giam, tạm giữ, bị can bị cáo trong tố
tụng hình sự” của Đoàn Thị Phương Thảo, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQGHN
năm 2012; “Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự” của Hoàng Thị Hồng Chiêm,
4
Luận văn thạc sĩ năm 2014; “Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong
hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân- Thực trạng và
kiến nghị” của ThS Võ Quốc Tuấn tạp chí Nghề Luật số 4 tháng 9/2015 …
- Về người bị hại: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Vũ Gia Lâm, tạp chí Luật học số
11/2011; “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại” của Lê Sỹ Quế đăng trên
tạp chí Luật học; “Một số vấn đề về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam” của ThS Lê Thị Thúy Nga; “Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Thịnh Quang Thắng, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQG Hà Nội, năm
2010, …
- Về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong tố tụng hình sự”, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, luận văn thạc sĩ, Khoa
Luật, năm 2008; Một số vấn đề về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, của ThS Phan Thanh Tùng, …
- Về Người bào chữa: “Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình
sự” đăng trên tạp chí Luật học số 7/2008; “Giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư
trong quá trình tham gia xét xử tại tòa án” của Nguyễn Hữu Chỉnh và ThS Nguyễn
Kim Chi, tạp chí Nghề Luật số 1 /2015…
- Về Người phiên dịch, người giám định, người làm chứng: “Người làm
chứng trong vụ án hình sự” của Nguyễn Minh Tiến đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 12/1998; “Người làm chứng và quyền của người làm chứng trong
BLTTHS 2003 - Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của TS Phan Thị Hương
Thủy, năm 2006; “Về người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự” của ThS
Phạm Quang Định, tạp chí Luật học số 2/2007; “Bảo đảm quyền của người tham
gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trần Thảo ,
Luật án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ chính Minh năm 2015;
Còn việc nghiên cứu về NTGTT có một số công trình và các tác giả sau:
“Xác định tư cách tham gia tố tụng hình sự”của Đàm Duy Vương đăng trên tạp chí
5
Tòa án nhân dân số 12/1999; “Vài suy ngẫm về việc hoàn thiện các quy định về
người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trịnh Văn Thanh, đăng
trên tạp chí Nhà nước và pháp luật (1999); “Việc quy định những người tham gia tố
tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của Lê Xuân Thân đăng tạp chí Tòa án nhân
dân số 4/2000. Các bài viết này đều có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn
nhất định về vấn đề chúng tôi nghiên cứu song những bài viết này được viết chủ yếu
trong khoảng thời gian trước năm 2003 (trước thời điểm BLHS năm 2003 được ban
hành). Vào năm 2006, tại Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phong (Đại học Luật Hà
Nội) “Phân biệt các loại người tham gia tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luận văn này, tập trung giải quyết một số vấn đề nhầm lẫn trong việc xác
định NTGTT từ quy định pháp luật và thực tiễn về một số loại NTGTT; Còn gần
đây nhất có bài viết “Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng
trong Bộ luật tố tụng hình sự” ThS Thái Chí Bình, tạp chí Nghề Luật số 2/2015, với
bài viết này đã đề cập một số vấn đề hoàn thiện về NTGTT.
Trên cơ sở đó nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chưa có công trình
nghiên cứu chuyên khảo cấp thạc sĩ nào nghiên cứu cụ thể về NTGTT (nhất là khi
sau khi chúng ta có Hiến pháp năm 2003 và gần đây vừa xây dựng và ban hành
BLTTHS 2015) việc nghiên cứu về chế định và thực tiễn áp dụng pháp luật về
NTGTT là cần thiết. Do vậy, Có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Những
người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan,
cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõ lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật về những NTGTT trong PLTTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất,
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiê ̣u quả áp dụng các quy định của
pháp luật về những NTGTT trong TTHS Việt Nam
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
6
- Nghiên cứ u làm rõ lý luâ ̣n về NTGTT: khái niệm, phân loại những NTGTT
trong TTHS; những NTGTT ở một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật về những NTGTT và thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc quy
định về NTGTT và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về những
NTGTT.
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về
những NTGTT, một số loại NTGTT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Để bảo đảm tính bao quát và toàn diện của vấn đề nghiên
cứu – về những NTGTT, tác giả xin được tập trung nghiên cứu về mặt lý luận về
NTGTT, mặt khác tác giả xin được lựa chọn một số NTGT như: nhóm NGTTT có
quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án và nhóm người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự để làm rõ, bổ sung lý luận về những NTGTT
trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ tổng hợp, đánh giá các
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT trong TTHS Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường, bảo đảm
quyền của những NTGTT trong TTHS Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh
làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu,
thông tin, thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, sosánh...
7
5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn
Những điểm mới của luận văn
Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, Luận văn thu được những kết quả nhất
định, có thể xem những kết quả sau đây là điểm mới của luận văn:
Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về những NTGTT trong PLTTHS;
Thứ hai, từ việc nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới về cách tiếp cận
cũng như quy định NTGTT trong pháp luật để thấy được những ưu điểm và hướng
tham khảo để PLTTHS Việt Nam tiếp cận;
Thứ ba, từ quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn khi xác định
NGTT thấy được tồn tại và những nguyên nhân và để
Cuối cùng, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc
quy định về chủ thể NTGTT nói riêng
Ý nghĩa của luận văn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luâ ̣n văn góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật về các quy định về NTGTT. Ngoài ra, đề tài còn có thể
dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong các Trường Đại học có đào ta ̣o ngành
luâ ̣t, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ công tác tại CQTHTT, Luật sư và người khác có
quan tâm.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề chung về những người tham gia tố tụng trong luật tố
tụng hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự và
thực tiễn áp dụng
Chương 3: Giải pháp về hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật về những người tham gia tố tụng
8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Khái niệm ngƣời tham gia tố tụnghình sự
Nếu như LHS quy định về TNHS, tội phạm, cấu thành tội phạm, hành vi nào bị
coi là tội phạm và hậu quả pháp lý đối hành vi tội phạm gây ra… thì LTTHS quy
định trình tự, cách thức của những chủ thể tố tụng tham gia để giải quyết, chứng minh
hành vi phạm tội cụ thể có vi phạm, đáp ứng các quy phạm LHS hay không và giải
quyết các vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội gây ra (nếu có). Đây là biểu hiện của
Nhà nước, pháp luật tiến bộ, văn minh, dân chủ và nhân quyền. TTHS cùng một lúc
thực hiện hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để
công lý được thực thi nhưng lại vừa phải bảo đảm thế nào để trên con đường đi tìm sự
thật và công lý thì quyền của tất cả những ai có liên quan đều phải được tôn trọng,
bảo đảm và bảo vệ [76, tr.8]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong tố tụng luôn phản ánh,
chứa đựng những mối quan hệ đa chiều và mang trong mình nó nhiều nghịch lý của
các mối quan hệ.
TTHS là “cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà
nước khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự” [86, tr.786] Với định nghĩa này, ngoài Cơ quan Nhà
nước đại diện trong tư pháp hình sự là các CQTHTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án), những người trong các cơ quan này (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án); và
những NTGTT (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch) thì
còn có đề cập đến các Cơ quan Nhà nước khác (ngoài các CQTHTT trên) và các tổ
9
chức xã hội đã cho chúng ta thấy chủ thể tham gia TTHS là rất đa dạng, mang tính
phổ quát từ các nguyên tắc của TTHS Việt Nam như: nguyên tắc “trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”, nguyên
tắc “sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng”.v.v…
những chủ thể này góp phần không nhỏ trong việc giải quyết VAHS sự nói chung
nhưng những chủ thể này có thực hiện cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động
TTHS hay không thì cần phải xem lại: cơ quan Nhà nước khác là cơ quan nào? Tất cả
các cơ quan Nhà nước hay một số cơ quan Nhà nước? Theo quy định của pháp luật
thì tham gia vào việc giải quyết VAHS thì chỉ có một số cơ quan được giao một số
hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư, lực lượng Cảnh
sát biển và một số cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân…), tương
tự đối với các tổ chức xã hội có tham gia khi NTGTT thuộc tổ chức của mình TGTT
với đại diện (Đoàn thanh niên đại diện cho NTGTT dưới 18 tuổi..).v.v.. Trong những
trường hợp như thế này họ nằm trong những NTGTT rồi. Do vậy, chúng tôi cho rằng
với định nghĩa này trong từ điển đã nêu về TTHS cần phải xem lại cho phù hợp với
thực tiễn pháp luật, tiến tới thống nhất về thuật ngữ này. Chúng ta có thể hiểu TTHS
như sau: TTHS bao gồm toàn bộ các hoạt động của các chủ thể TTHS hướng tới việc
giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm, bảo vệ quyền con người [25, tr.17].
Trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra
bởi tính chất của tố tụng là: truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can,
bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội,
bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói
chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS.
Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng
cho từng chủ thể tố tụng, chẳng hạn Tòa án đáng lẽ là cơ quan tài phán-trọng tài giữ
vai trò khách quan ở giữa bên buộc tội và bào chữa thì Tòa án Việt Nam cũng đi
chứng minh, cũng có chức năng khởi tố VAHS… tức là thực hiện cả chức năng
buộc tội.
10
PLTTHS Việt Nam chia các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng thành:
CQTHTT, NTHTT và NTGTT đã thể hiện việc không phân biệt thật rõ ràng mục
đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thể đó
và trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả
của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan
của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân.
Cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng như PLTTHS như hiện nay mà phải
đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích
của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được
quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần
tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra, tăng cường
giám sát hoạt động điều tra theo hướng gắn công tố với điều tra như các văn kiện
của Đảng và Nhà nước[76, tr.12], tác giả đồng tình với nhận định này, nhưng tác giả
cũng băn khoăn nếu phân chủ thể tố tụng dựa trên chức năng tố tụng nêu trên thì
một số NTGTT không biết được đưa vào bên tố tụng nào (người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch..). Khi nhìn vào lịch sử TTHS Việt Nam cho thấy kỹ
thuật lập pháp luôn khu biệt CQTHTT, NTHTT và NTGTT thành hai chế định
tương ứng thành hai chương trong PLTTHS, điều này dẫn đến nhận thức chỉ những
người nào được quy định, liệt kê trong chương NTGTT mới là NTGTT hình sự, còn
có được quy định, được nhắc đến trong chương khác, trong giai đoạn TTHS, ví dụ
như người tố giác, người kiến nghị khởi tố hay người chứng kiến tại BLTTHS 2003
thì không phải NTGTT? Điều này cũng đã dẫn đến những hạn chế, gây khó khăn nhất
định trong giải thích các quyền và nghĩa vụ trong các giai đoạn TTHS khác nhau của
CQTHTT, NTHTT và cũng khó khăn với chính những NTGTT khi thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, tác giả cho rằng để giữ nguyên “truyền thống”
mà đảm bảo được chức năng của TTHS- thể hiện một cách gián tiếp thành các bên
trong tố tụng để làm được điều này chúng ta phải thay đổi, nhận thức lại về chủ thể
là Tòa án, còn những NTGTT đặc biệt lưu ý đến những quyền và cơ chế bảo đảm
quyền của NTGTT (đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can bị cáo- quyền bào chữa của
11
họ, quyền thu thập chứng chứ, tranh tụng tại phiên tòa.v.v…), bổ sung diện người
mới vào chương NTGTT và nâng cao trách nhiệm của những NTHTT ở các giai
đoạn tố tụng khi khi thực hiện trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho những
NTGTT.
Những NTGTT hình sự được quy định tại chương IV BLTTHS nhưng quan
điểm NTGTT gồm những cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào thì cho đến nay vẫn còn
nhiều ý kiến khác nhau. Theo TS. Nguyễn Văn Tuân, hiện nay có ba quan điểm khác
nhau [66, tr.129-130]:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, những NTGTT cần được hiểu theo nghĩa hẹp và
bao gồm: người bị tạm giữ, bị can bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo
vệ quyền và lợi ích của đương sự. Những NTGTT là những người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Khi tham gia tố tụng, họ có nhiều
quyền và nghĩa vụ, sự tham gia của họ có tác dụng đối với sự tiến triển và kết quả của
vụ án. Theo quan điểm này thì người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
và những người khác như người chứng kiến, nhà chuyên môn và bác sĩ pháp y một
cách thụ động họ là những người được NTHTT “trưng dụng” để giúp làm sáng tỏ vụ
án trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng. Vậy nên đưa họ vào danh sách
những người được giao nhiệm vụ, được tham gia một số hoạt động tố tụng hoặc tách
thành một chương riêng và đặt cho một cái tên khác cho phù hợp.
Quan điểm thứ hai cho rằng, không nên bó hẹp phạm vi những NTGTT. Theo
quan điểm này, ngoài những NTGTT theo quan điểm thứ nhất còn phải kể đến người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch… Những người này thực chất cũng
tham gia vào hoạt động TTHS và hoạt động của họ góp phần thực hiện nhiệm vụ
TTHS. Sự tham gia TTHS của họ mang tính chất hạn chế, không phải để bảo vệ lợi
ích của mình mà nhằm thúc đẩy hoạt động tố tụng.
Quan điểm thứ ba (hiểu theo nghĩa rộng) CQTHTT và NTHTT có góp phần
hoạt động của mình vào hoạt động tố tụng hình sự không? Câu trả lời luôn là có và
12
còn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS - họ là người đại diện cho Nhà
nước điều tra truy tố và xét xử vụ án.Vậy thì họ cũng chính là những người TGTT.
Do vậy ngoài những NTGTT đã nói ở hai quan điểm nêu trên thì những người đại
diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành TTHS, vì vậy, thực chất họ cũng là
những NTGTT [61, tr.58-59].
Theo quan điểm của tác giả, với quan điểm thứ nhất, khi tách người làm chứng,
người phiên dịch, người giám định ra phạm vi NTGTT thì chưa hợp lý, khi NTHTT
“trưng dụng” để góp làm sáng tỏ vụ án tức là họ đã là NTGTT rồi. Do vậy không
nhất thiết phải tách và quy định họ ở phần chương riêng với tên gọi khác. Còn theo
quan điểm thứ ba, việc những người đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành tố tụng cũng là NTGTT cũng có yếu tố hợp lý nhất là xem xét dưới góc độ ngôn
ngữ, pháp luật của một số nước đặc biệt pháp luật theo mô hình tố tụng tranh tụng,
chức năng tố tụng không phân biệt NTGTT như mô hình tố tụng thẩm vấn chỉ nên coi
những người đại diện này cùng với NTGTT theo quan điểm thứ hai là chủ thể của
quan hệ tố tụng hình sự là hợp lý hơn vì: NTHTT là những người có quyền và nghĩa
vụ mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà Nước còn NTGTT thì không. Do
vậy, NTGTT hiểu theo quan điểm thứ hai là hợp lý, phù hợp với quan điểm pháp lý
về NTGTT của các nước trên thế giới (mô hình thẩm vấn) cũng như PLTTHS Việt
Nam cũng như các quan niệm thông thường từ trước đến nay. Như vậy, NTGTT là
gì? Hiện nay, có rất nhiều khái niệm được đưa ra, chẳng hạn:
Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội:
Người tham gia tố tụng là những người có quyền, lợi ích liên quan hoặc có nghĩa vụ
pháp lý tham gia vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc góp phần làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án [25, tr.186].
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật- Đại học Cần Thơ thì
Người tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích cần được bảo vệ trước
pháp luật, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào việc giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và những người tham gia tố tụng
13
để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố tụng khác [24]. Các khái niệm về
NTGTT trên đều dựa trên đặc trưng địa lý pháp lý của NTGTT để xây dựng lên thành
khái niệm song các khái niệm đều có điểm chung khi cho rằng trong số những NTGTT
thì có nhóm NTGTT (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) theo
nghĩa vụ pháp lý (bắt buộc) là chưa xác đáng vì họ tham gia họ còn có những quyền
nhất định, chẳng hạn như họ có quyền “từ chối khi có lý do chính đáng”…
Còn khái niệm: Người tham gia tố tụng hình sự là người phải thực hiện đúng
các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có những quyền, nghĩa vụ
pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự [53] với khái niệm
này, chúng tôi cho rằng không thể hiện được tính bao quát và dường như đã đã làm lu
mờ mục đích và chức năng cũng như bản chất của TTHS khi cho rằng NTGTT là
người phải thực hiện đúng các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Điều này có thể đúng một phần đối với các đối với bị can, bị cáo… hay người giám
định, người làm chứng (nếu họ không có lý do chính đáng) nhưng đối với NTGTT
khác (người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự,…) có cần
phải thực hiện đúng các yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền không? Nếu có thì là các
yêu cầu hay quyết định gì của các cơ quan đó? Trong khi đó mỗi loại NTGTT đều
được quy định quyền và nghĩa vụ của họ rồi. Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền là cơ
quan nào? Trong khi đó phải là cơ quan có thẩm quyền CQTHTT mới là chính xác.
Do vậy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm về NTGTT như sau: Người tham
gia tố tụng là người, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự
được Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định tham gia vào việc
giải quyết vụ án hình sự. Họ có quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định
của pháp luật. Với khái niệm này có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, NTGTT là thuật ngữ bao gồm người, cơ quan, tổ chức việc khẳng
định này bảo đảm và sẽ tương thích với một số định nghĩa pháp lý về NTGTT hiện
nay. Chẳng hạn như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nó cho chúng ta mở rộng
14
khái niệm về người bị hại… song tùy từng trường hợp NTGTT chỉ có thể là cá nhân
như người làm chứng, người phiên dịch…
Thứ hai, NTGTT là người có liên quan đến việc giải quyết VAHS. NTGTT có
thể liên quan trực tiếp (như bị can, bị cáo, người bị hại..), cũng có thể liên quan gián
tiếp thông qua được nhờ, ủy quyền… hoặc có người biết được những tình tiết của vụ
án hay do họ có kiến thức chuyên môn liên quan đến VAHS và được CQTHTT xác
định họ cần phải tham gia và những người này thúc đẩy giải quyết vụ án nhanh chóng
chính xác và khách quan. Tóm lại, đều là những người ít nhiều liên quan và ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Thứ ba, NTGTT được Cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng xác định tham gia
vào việc giải quyết VAHS. NTGTT có thể tự mình đề nghị hoặc được Cơ quan,
NTHTT ghi nhận, xác định là NTGTT.
Thứ tư, khi họ được xác định là NTGTT thì họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
mà pháp luật quy định.
Hiện nay, trong những NTGTT thì người bị hại còn nhiều vấn đề gây tranh
luận. Quy định pháp luật hiện hành quy định: “người bị hại về thể chất, tinh thần, tài
sản do tội phạm gây ra” với quy định này đã dẫn đến cách hiểu “Người bị hại chỉ có
thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài
sản chứ không thể là pháp nhân” và trên thực tiễn CQTHTT và NTHTT luôn loại trừ
tổ chức là người bị hại. Theo chúng tôi, cách hiểu này chưa hợp lý, chưa đúng - người
bị hại phải được hiểu là con người pháp lý không chỉ là con người tự nhiên nên người
bị hại có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức [50, tr.160]. Chúng tôi đồng tình với
quan điểm này, bởi lẽ thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân,
hành vi phạm tội trong thực tế còn nhắm đến để gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức.
Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho pháp nhân, tổ chức là rất đa dạng, không
thuần túy là thiệt hại về tài sản mà có thể bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt hại về
tinh thần. Chẳng hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm
mất uy tín trong kinh doanh... Có các cách hiểu khác nhau bắt nguồn từ thuật ngữ
15
“người bị hại cũng như từ quy định pháp luật. Thuật ngữ “người bị hại” được
PLTTHS Việt Nam (PLTTHS 2003 và trước), PLTTHS của Cộng hòa Pháp, Liên
bang Nga cũng dùng thuật ngữ này; trong khi đó LTTHS Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người
bị thiệt hại”, “nạn nhân”. Riêng đối với thuật ngữ “Nạn nhân” chúng tôi cho rằng
không thể đồng nghĩa là người bị hại được vì khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp
hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm; những thiệt hại của nạn nhân không chỉ
về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các
quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại
gián tiếp. Chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ như thế nào phải thể hiện được bản
chất, nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ. Vì vậy theo chúng tôi sử
dụng thuật ngữ “bị hại” thay cho “người bị hại” như trong BLTTHS 2015 là phù hợp:
“Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan,
tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” (khoản
1 Điều 62). Theo khái niệm và trong thực tiễn này “Bị hại” bao hàm các đặc điểm
như sau:
Thứ nhất, về chủ thể bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ
chức khác;
Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về
tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không
phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là
phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị
hại. Sự thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không phải có nguồn gốc từ hành vi
không phù hợp pháp luật của người bị thiệt hại. Đây là điều kiện quan trọng để
phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ
án hình sự.
16
NTGTT đã được quy định trong chương IV của BLTTHS đã thực sự đầy đủ
chưa? Theo chúng tôi luật thực định quy định như vậy là chưa phù hợp với lý luận và
bỏ sót NTGTT điều này dẫn đến không bảo đảm quyền về mặt TTHS cho một số
người này. Trả lời cho câu hỏi TTHS bắt đầu từ khi nào? Sẽ là lời giải đáp cho chúng
ta phần nào. Điều này rất quan trọng vì nó là cơ sở để xây dựng các quy định về địa
vị pháp lý của các chủ thể TTHS, để các CQTHTT, NTHTT thực hiện cách thức và
trình tự tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, còn NTGTT
thực các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Hiện nay, trong khoa học pháp
lý, việc giải quyết VAHS được phân thành các giai đoạn (quá trình) khác nhau mà
chưa có sự thống nhất, chẳng hạn, trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết VAHS
được chia thành năm giai đoạn [9, tr.26] hay bảy giai đoạn [16, tr.10-11], [21,
tr.16-17] nhưng các quan điểm trên có điểm chung là ghi nhận giai đoạn khởi tố là
quá trình bắt đầu của TTHS mà “thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi
nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc
bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan
đến hành vi đó”[9, tr.26]. CQTHTT đã bắt đầu tiếp nhận các tin báo từ những
người tố giác, người báo tin về tội phạm đây là những cơ sở quan trọng để
CQTHTT giải quyết các tin báo tố giác, phát hiện xử lý tội phạm. Việc không ghi
nhận những người này là NTGTT và với những quyền và nghĩa vụ sẽ làm hạn chế
việc tham gia của các cá nhân, tổ chức trong đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố- họ mới chỉ những người bị tình nghi
thực hiện phạm tội để có cơ sở xác minh những người này phải có mặt theo yêu
cầu của các CQTHTT vì vậy theo logic họ cũng phải có những quyền nhất định
tránh sự lạm quyền từ các CQTHTT. Theo BLTTHS hiện hành việc bỏ sót những
người này là NTGTT là một thiếu sót, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của
họ; Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền mời tham dự một số
hoạt động điều tra, có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà
CQTHTT tiến hành trong khi mình có mặt. Việc có người chứng kiến trong hoạt
động tố tụng là cần thiết vì nó sẽ bảo đảm sự công minh, khách quan, trách sự lạm
17
quyền và nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT; Về giai đoạn thi hành án có
quan điểm cho rằng thi hành án không nên coi đây là một giai đoạn TTHS và cần
phải được nghiên cứu thêm [9 tr.26] còn PLTTHS hiện nay quy định đây là một
giai đoạn TTHS với khái niệm“Người bị kết án”; giảm; miễn chấp hành hình phạt;
xóa án; giám đốc thẩm; tái thẩm nhưng lại không được quy định trong chương
NTGTT theo chúng tôi đây là thiếu sót về diện NTGTT. Do đó, chúng tôi đề nghị
nên xem xét đưa “người bị kết án” và quyền lợi nghĩa vụ của họ vào phần quy
định NTGTT thì mới hợp lý và bảo đảm tính liên tục của tư cách người bị truy cứu
TNHS tương ứng với các giai đoạn TTHS. Cần xác định rõ người bị kết án là
người đang thi hành một bản án một bản án đã có hiệu lực pháp luật và cả những
người đã thi hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của
BLHS. Tiếp đến là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, mặc dù người đại diện
hợp pháp của bị can, bị cáo không được quy định tại điều luật quy định về bị can, bị
cáo nhưng lại được quy định tại các điều luật khác chẳng hạn trong trường hợp bị can
bị cáo bị truy, khởi tố điều tra mà khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc có nhược
điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện có quyền yêu cầu thay đổi người
bào chữa hoặc từ chối bào chữa… và người đại diện của nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ VAHS vẫn còn chữa rõ ràng, họ là
ai? Thời điểm họ tham gia tố tụng từ khi nào?... Để thuận lợi cho quá trình giải quyết
VAHS tại giai đoạn xét xử HĐTP TANDTC đã có những văn bản hướng dẫn nhưng
các văn bản này có những hạn chế nhất định: (i) TTHS bao gồm rất nhiều giai đoạn,
mỗi giai đoạn tố tụng các CQTHTT, NTHTT tham gia khác nhau thì không nhất thiết
phải tuân theo các văn bản hướng dẫn này và hiện nay CQĐT và VKS vẫn chưa có
hướng dẫn về vấn đề này. Vấn đề đặt ra là CQĐT, VKS xác định sai, hay bỏ sót thì
cũng chưa đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT này vì pháp luật thiếu
những quy định cụ thể và nếu tuân theo văn bản của HĐTP TANDTC thì (ii) bản
thân các hướng dẫn này vẫn chưa bao quát hết các trường hợp có người đại diện của
NTGTT (các vấn đề này chúng tôi xin phép được trình bày ở phần tiếp theo). Do vậy,
để hoàn thiện vấn đề này, chúng ta nên xây dựng một điều luật về người đại diện
18
trong TTHS với tư cách là một loại NTGTT như LTTHS nhân dân Trung Hoa đã ghi
nhận, nếu cần hướng dẫn về điều này thì các Cơ quan tư pháp trung ương nên ban
hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất trong cả quá trình tố tụng, trừ các trường
hợp cần hướng dẫn đặc thù cho một giai đoạn tố tụng.
PLTTHS quy định những ai là NTGTT sẽ là cơ sở pháp lý để họ TGTT (họ có
tư cách) và cũng là thừa nhận vai trò và vị trí của họ trong việc giải quyết vụ án, trong
đấu tranh phòng chống tội phạm, trong việc bảo vệ quyền con người. Nhưng để bảo
đảm thực sự về mặt pháp lý thì không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện đầy đủ diện
TGTT mà quyền, nghĩa vụ (có những giới hạn) cần phải được quy định, đặc biệt
những quyền đó phải được bảo đảm và thực hiện trên thực tế. Đây là đòi hỏi tất yếu
và khách quan để NTGTT bảo vệ quyền và lợi ích của mình, để phát huy tính chủ
động, tích cực khi tham gia giải quyết vụ án. Việc tham gia cũng như quyền và nghĩa
vụ của NTGTT còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện sự giám sát hoạt động
tố tụng của CQTHTT, NTGTT.
Để bảo vệ quyền con người trong TTHS luôn gắn với yêu cầu về thủ tục pháp lý
chặt chẽ (“Due process of law”), về tố tụng công bằng. Đó là yêu cầu không thể thiếu
được đối với tiến trình pháp lý nhằm xác lập sự cân bằng cần thiết giữa các bên khi
thực hiện các nỗ lực để bảo vệ quan điểm, quyền và lợi ích của mình. Yếu tố “công
bằng”, “công minh” vì thế là biểu tượng chung, bao trùm của một nền tư pháp, là bản
tính của nền tư pháp. Trong đó yêu cầu về sự đối xử công bằng, có vị trí pháp lý, có
các cơ hội pháp lý công bằng giữa các bên trong tố tụng.
Mặc dù TTHS thực chất là mối quan hệ quyền lực, trong đó bên có quyền lực
áp dụng các biện pháp cưỡng chế là Nhà nước mà đại diện là các CQTHTT, người có
thẩm quyền THTT để “phát hiện”, “xử lý”, để “không bỏ lọt tội phạm” và “không
làm oan người vô tội”, đề bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các lợi ích Nhà nước, “trật
tự pháp luật”, “quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” và những quy định
của PLTTHS Việt Nam hiện hành đang ở trạng thái tạo ra sự chủ quan cho chủ thể đi
tìm sự thật của VAHS. Mặt dù pháp luật có xác định phải xử lý công minh, không
làm oan người vô tội, nhưng đứng ở vị trí thế độc quyền chân lý, sự chủ quan là
19
không tránh khỏi. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo là những người thuộc phía yếu
thế. Yếu thế, bởi vì, trong quan hệ này, quyền lực nhằm vào họ, họ phải đối mặt với
cả bộ máy các cơ quan nhà nước buộc tội họ với đội ngũ cán bộ được trả lương và
cung cấp các trang thiết bị cần thiết, có các kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và
kiến thức pháp luật.
Việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội với nội dung: bị can, bị
cáo phải được coi là vô tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh
theo một trình tự do pháp luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của TTHS được ghi
nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân
quyền năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm
1966. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” và cùng với đó quyền im lặng hay quyền không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội là sự
bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng và vững
chắc nhất đối với quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ
phía các cơ quan tố tụng;
Tố tụng công bằng luôn đòi hỏi PLTTHS phải bảo đảm và hoàn thiện các quyền
của người bị buộc tội “bình đẳng” nhất định với bên buộc tội. Nếu xem xét dưới một
vụ kiện trong tố tụng thì các bên phải đưa ra các tài liệu chứng cứ… để chứng minh
rằng yêu cầu, phản bác, lập luận của mình có cơ sở và có căn cứ. Ở khía cạnh nào đó
TTHS cũng cần như vậy, việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ, đồ vật có liên quan đến
vụ án cần phải được bình đẳng giữa các bên (bên buộc tội và bên bào chữa). Hiện
nay, theo quy định của LTTHS Việt Nam việc thu thập, đánh giá chứng cứ, đưa ra
chứng cứ là “đặc quyền” của CQTHTT, NTHTT điều này là thật vô lý khi chúng ta
đã xem nhẹ thuộc tính của chứng cứ (là là những gì có thật, tức là nó tồn tại một cách
khách quan) mà chỉ đề cao đến chủ thể thu thập chứng cứ đồng nghĩa rằng các
CQTHTT luôn công tâm và khách quan trong việc này! Khi CQTHTT, NTHTT đưa
20
ra những tài liệu, chứng cứ, đồ vật, yêu cầu để chứng minh làm căn cứ của mình thì
bên bị buộc tội và người bào chữa của họ, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi, và lợi ích của
những người này chỉ có quyền đưa tài liệu, đồ vật và yêu cầu chứ không được quyền
đưa ra chứng cứ; không được đưa ra ý kiến của mình đối với tài liệu, chứng cứ mà
CQTTHT, NTHTT đưa ra. Đây là quy định thể hiện sự bất bình đẳng và không có cơ
sở khoa học. Do vậy, cần phải ghi nhận thêm quyền đưa ra chứng cứ; quyền đưa ra ý
kiến về đồ vật, chứng cứ của những NTGTT và tất cả các CQTHTT, NTHTT và
NTGTT tôn trọng và đánh giá lại một cách khách quan khi có ý kiến không đồng ý,
trái chiều về một tài liệu, chứng cứ.
Đối với người bị tạm giữ, bị can bị cáo thì có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người bào chữa, còn đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bào vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một trong những quyền cơ bản và quan trọng của
những NTGTT liên quan trực tiếp đến giải quyết vụ án nhưng nó cần phải được bảo
đảm thực hiện hơn là sự ghi nhận đơn thuần. Đặc biệt đối với bị can, bị cáo có thể bị
áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khó có khả năng bình đẳng với bên buộc tội
trong việc chứng minh, thu thập chứng cứ. Bị can, bị cáo để họ tự thực hiện tự bào
chữa thì họ phải được tiếp cận các tài liệu có có liên quan như đọc, ghi chép tài
liệu,chứng cứ liên quan đến buộc tội hay gỡ tội khi kết thúc điều tra nhưng pháp luật
hiện hành lại bỏ sót vấn đề này đây là sự thiếu sót lớn, đã có nhiều ý kiến cho rằng,
việc bị can bị cáo được tiếp cận những tài liệu này của CQTHT sẽ cản trở quá trình
điều tra, gây khó khăn cho CQTTTH nhưng theo chúng tôi, việc tiếp cận này không
cản trở mà nó cho thấy nền tố tụng công bằng và minh bạch. Mặt khác, quyền của
người bào chữa là do phái sinh từ quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong khi
đó người bào chữa được tạo điều kiện đọc, ghi, chép tài liệu liên quan đến việc buộc
tội mà người bị can, bị cáo thì không có quyền này là sự vô lý. Do vậy, pháp luật cần
phải quy định và bảo đảm quyền này được thực hiện.
21
Trong tố tụng nói chung và TTHS nói riêng, người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự (trong đó có Luật sư). Họ đóng vai trò ngày càng quan trọng
trong đời sống xã hội, trong bảo vệ quyền và lợi ích các tổ chức, cá nhân.... dưới góc
độ tố tụng, khi tham gia họ không chỉ là sự trợ giúp về mặt pháp lý (đặc biệt là Luật
sự), mà còn là điểm tựa về tâm lý giúp họ tự tin, bình tĩnh khi trình bày, tránh gây bất
lợi cho mình…. Hiện nay, PLTTHS chỉ ghi nhận những người tham gia trực tiếp
VAHS có quyền nhờ bào chữa, người bào vệ và đã có ý kiến nên bổ sung thêm người
làm chứng cũng có quyền này nếu họ mong muốn, nguyện vọng. Chúng tôi, đồng
tình với quan điểm này việc bổ sung quyền này vì đây cũng là quyền con người,
quyền công dân, pháp luật hiện hành không quy định nhưng cũng không cấm,… thiết
nghĩ khi có Luật sư, có người hiểu biết pháp luật đi cùng cũng không ảnh hưởng đến
những lời trình bày của người làm chứng, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
Việc tham gia của người bào chữa, của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự,
hay người trợ hỗ trợ của người làm chứng là phái sinh từ các quyền bào chữa, quyền
tự bảo vệ hay quyền được hỗ trợ của NTGTT nhưng sự phái sinh đó xuất phát từ
chính ý chí, nguyện vọng của NTGTT và để có nền tố tụng công bằng và khách quan
thì họ phải chỉ có các quyền tố tụng, đặc biệt là thu thập, đưa ra và đánh giá chứng cứ,
đồ vật, tranh luận… và cần tự tôn trọng, bảo đảm khi thực hiện các quyền này từ
pháp luật, từ các các cơ quan tố tụng, NTHTT.
Trên đây là những vấn đề quan trọng, đặt nền tảng khi quy định về địa vị pháp
lý của những NTGTTT, những vấn đề về quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào tố tụng
của những NGTT hiện nay còn nhiều vướng mắc bất cập sẽ được đề cập, luận bàn tại
các phần tiếp theo của luận văn
1.2 Phân loại những ngƣời tham gia tố tụng
Phân loại NTGTT có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đóng góp về
mặt lý luận, xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật. Hiện nay có nhiều
cách phân loại NTGTT, sau đây tác giả xin nêu một số căn cứ phân loại:
- Căn cứ vào chức năng tố tụng
22
Tính chất của TTHS là truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị
can bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, ba chức năng:
buộc tội, bào chữa và xét xử. Dưới khía cạnh nghiên cứu của PLTTHS Việt Nam
cũng có thể nhóm những NTGTT vào các chức năng tố tụng tương ứng:
- Cùng với CQTHTT và NTHHT thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, người
có quyền lợi liên quan và những người đại diện cho họ là những NTGTT với tư
cách là chủ thể buộc tội. Điều này được thể hiện rõ nét nhất là việc người bị hại có
quyền quyết định đề nghị khởi tố VAHS hay không? (trong các trường hợp luật
định); họ giữa vai trò quan trọng trong giải quyết VAHS nhất là trong những vụ án,
quyết định TNHS liên quan đến thiệt hại mà bị can, bị cáo gây ra.
+ NTGTT với tư cách là chủ thể gỡ tội: người bị bắt, bị can, bị cáo, bị đơn dân
sự, người có nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ, người bào chữa.
CQTHTT và NTHTT nhân danh, đại diện cho nhà nước “xác định sự thật của vụ
án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”, trong đó trách nhiệm “làm rõ
những chứng cứ xác định là có tội và chứng tứ xác định vô tội, những tình tiết
tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
Bị can, bị cáo là những chủ thể bị các CQTHTT và NTHTT nhắm vào nhưng do
họ chỉ mới là người bị tình nghi họ nên họ cần sự bình đẳng, vẫn có quyền nhất
định và cần sự bảo đảm và tiếp cận với chứng cứ mà CQTHTT, NTHTT đưa ra,
hay được thu thập và đưa ra những chứng cứ có lợi cho mình, cũng như quyền tự
bào chữa hay nhờ người khác bào chữa… để bảo vệ mình.
+ Chủ thể thực hiện chức năng xét xử và đồng thời là những NTHTT tại
phiên tòa. Thuộc nhóm này chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm - thành viên của hội
đồng xét xử. Chủ thể này không có NTGTT, những người còn lại sẽ được nhóm
vào chủ thể thứ tư: NTGTT với tư cách chủ thể thực hiện chức năng phục vụ xét
xử: người làm chứng, người giám định người phiên dịch. Đây là những chủ thể
không có quyền lợi liên quan đến vụ án và là những NTGTT để giúp cho Tòa án
xét xử bảo đảm một cách khách quan trong việc xác định sự thật về vụ án [8, tr.8].
23
Như phần đầu tác giả đã trình bày, chia vào chức năng tố tụng thành các chủ thể
tham gia quan hệ tố tụng thì những người như người làm chứng, người phiên dịch,
người giám định là thuộc vào chủ thể nào trong ba bên của quan hệ tố tụng và đây
dường như đã giải quyết vấn đề này một cách hợp lý, nhưng xét về mặt lý luận
cũng cần xem lại. Theo chúng tôi cách phân loại này chỉ phù hợp với những nước
theo mô hình tranh tụng, pháp luật không có khái niện về NTGTT riêng biệt. Mặt
khác, với cách phân loại này người làm chứng, người phiên dịch, người giám định
dường như không được đề cập đến. Khi nghiên cứu pháp luật TTHS về các nước
theo mô hình này thì vẫn được quy định trong luật phải chăng những người này
không phải NTGTT? Do vậy, cách phân loại này chưa phù hợp với pháp luật Việt
Nam và cần phải nghiên cứu thêm về cách phân loại này.
- Căn cứ quyền và nghĩa vụ của NTGTT đối với việc giải quyết vụ án
NTGTT được chia thành:
+ NTGTT có quyền lợi liên quan đến vụ án bao gồm: người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ịch hợp pháp
của đương sự.
+ NTGTT theo nghĩa vụ pháp lý: người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch. [25, tr.186-187]:
Theo quan điểm của tác giả, việc phân loại này thực sự chưa hợp lý. Thứ
nhất, khi đưa người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự vào nhóm NTGTT có quyền lợi liên quan đến vụ án mặc dù người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng là để bảo
vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can bị cáo hoặc những NTGTT nên quyền của
họ chỉ là quyền và nghĩa vụ phái sinh [25, tr.187] nhưng khi người bào chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự tham gia vào tố tụng thì họ có những
quyền và nghĩa vụ pháp lý độc lập trong tố tụng hình sự; Thứ hai, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch theo chúng tôi ba loại người này được
24
đưa vào một nhóm và lấy tên gọi là NTGTT theo nghĩa vụ pháp lý [53], [58] với
các lập luận rằng họ là những người bắt buộc phải TGTT theo yêu cầu của
CQTHTT, họ có trách nhiệm cung cấp cho các CQTHTT tài liệu, chứng cứ có ý
nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Nếu họ không thực hiện quy định của PLTTHS
đặt ra đối với họ thì họ có thể phải chịu các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc
phải chịu TNHS theo luật định. Chúng tôi không phủ nhận những trách nhiệm của
họ trong giải quyết VAHS, nhưng pháp luật thực định không hoàn toàn quy định họ
chỉ có nghĩa, vụ có trách nhiệm mà họ còn có quyền như quyền từ chối- “có lý do
chính đáng”. Bởi vậy, nên chăng lấy tên cho nhóm người này là NTGTT góp phần
thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng chính xác và khách quan [67,
tr.129-130] theo quan điểm của TS Nguyễn Văn Tuân là hợp lý, Như vậy sẽ phản
ánh đầy đủ bản chất của những người này tham gia vào giải quyết VAHS.
Từ các nhận định trên, tác giả đề xuất phân loại NTGTT theo quyền, nghĩa
vụ pháp lý như sau:
+ NTGTT liên quan trực tiếp đến vụ án: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
người bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa
vụ liên quan đến vụ án) và mở rộng ra đối với diện người mới như: người bị tạm
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt…
+ Người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại,
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị
khởi tố.
+ NTGTT góp phần thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng
chính xác và khách quan (hay người tham gia tố tụng khác): người làm chứng,
người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người tố giác, báo tinh về tội
phạm, kiến nghị khởi tố.
1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về ngƣời tham gia tố tụng từ sau
cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay
1.3.1. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi có Bộ luật tố tụng năm 1988
25
Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ cộng
hòa ra đời, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những chồng chất khó
khăn thù trong giặc ngoài. Quyền và nghĩa vụ NTGTT trong TTHS sự mới chỉ được
thể hiện trong Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn
trong thời kỳ tòan quốc kháng chiến: sắc lệnh số 69/SL ngày 16/08/1949, quy định
về một số NTGTT như bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại đã được đề cập
và đã cho phép các bị can có thể nhờ một số công dân không phải là Luật sư bênh
vực trước tòa án. Đây là những quy định hết sức tiến bộ, bảo đảm quyền bào chữa
của bị can, bị cáo [65, tr.72]; sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định về người
bị hại (Điều 18); Nghị định số 01/NĐ ngày 12/01/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định
“công dân được cử ra hay được thừa nhận bào chữa trước tòa án phải có đủ các điều
kiện sau đây: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà, ít nhất
21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa can án” (Điều 1), Quyền và nghĩa vụ của người bào
chữa được quy định tại Điều 4 Nghị định: người bào chữa được cử ra hoặc thừa
nhận để bào chữa có quyền đến phòng lục sự xem và chép hồ sơ [65, tr.76]
Sau khi nước ta đánh đuổi Thực dân Pháp năm 1954, đất nước bị chia cắt
thành hai miền, Miền Bắc đổi tên thành Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa- thời kỳ xây
dựng XHCN, còn Miền Nam là nhà nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với
Việt Nam Cộng hòa. Trong khi Cộng hòa Miền Nam Việt Nam không có những
điểm nổi bật về pháp luật nói chung và luật TTHS nói riêng, PLTTHS ở Miền Bắc
XHCN tiếp tục hoàn thiện về NTGTT hình sự trong thời kỳ mới này. Đầu tiên phải
kể đến quy định bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (quyền
bình đẳng của những NTGTT trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
mình) tại Điều 22 Hiến pháp năm 1959, tại Điều 5 Luật tổ chức Tòa án nhân dân
ngày 15-7-1960; mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà
nước [65, tr.82], Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể chỗ ở, an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại của công dân Điều 27, 28, 29 của Hiến pháp năm 1959 và
Điều 1 luật số 103/SL-L005 ngày 20-5-1957; Bảo đảm quyền bào chữa của bị can,
bị cáo tại Điều 101 Hiến pháp năm 1959, Điều 7 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày
26
14/7/1960. Ngoài việc bảo chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, bị
cáo cũng có thể nhờ công dân được đoàn thể giới thiệu hoặc được tòa án nhân dân
chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, tòa án nhân dân chủ động chỉ định
người bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, PLTTHS thời kỳ này chưa quy định cụ thể
những trường hợp nào là cần thiết, dẫn đến khó áp dụng pháp luật một cách thống
nhất [65, tr. 84]
Về NTGTT: trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo Thông
tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã quy định: “để bảo
vệ việc xét xử được chính xác, cần xác định rõ tư cách của những NTGTT và những
quyền của họ. Tư cách của người TGTT khác nhau thì quyền và nghĩa vụ của họ
cũng khác nhau”
Trong thời kỳ này, PLTTHS đã quy định về địa vị pháp lý của bị cáo, người
bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường người
có tài sản, quyền lợi có liên quan, người đại diện của người bị hại, của nguyên đơn
dân sự, của người có trách nhiệm bồi thường và của người có tài sản quyền lợi có
liên quan, địa vị pháp lý của đại diện cơ đoàn thể trong tố tụng [65, tr.90]. Tại
thông tư này có một vài điểm sau:
Thứ nhất, PLTTHS chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm bị can mà
chỉ đề cập khái niệm bị cáo, quyền và nghĩa vụ của bị cáo.
Thứ hai, Người bào chữa quyền hạn và nghĩa vụ của người bào chữa được quy
định trong đề án về quyền bào chữa của bị cáo do Hội nghị tư pháp họp ở Bộ Tư
Pháp thông qua ngày 20/6/1956: “bị cáo nhờ người bào chữa là để giúp đỡ bị cáo
thực hiện các quyền lợi về tố tụng và bênh vực bị cáo, do đó khi chấp hành nghĩa vụ,
người bào chữa cho bị cáo cũng được hưởng đầy đủ quyền hạn về tố tụng như bị
cáo. Người bào chữa là người bênh vực quyền lợi hợp pháp của bị cáo và đồng thời
lại là người kiên quyết bảo vệ pháp luật, chính sách của Nhà nước [65, tr. 92]
Thứ ba, đã đưa ra được định nghĩa pháp lý về người bi hại, nguyên đơn dân sự
(trong thời kỳ này được gọi là “dân sự nguyên cáo”), bị đơn dân (thời kỳ này gọi là
„người có trách nhiệm bồi thường nghĩa vụ pháp lý”), người có quyền lợi và nghĩa
27
vụ liên quan (thời kỳ này được gọi là “người có tài sản quyền lợi liên quan đến việc
phạm pháp”), đồng thời cũng quy định về một số quyền và nghĩa vụ của những
người này, trong văn bản này, cũng đã đề cập đến trường hợp người đại diện của
những NTGTT đã nêu.
1.3.2 Nhữngngười tham gia tố tụng từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 1988 cho đến khi ban hành Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003
BLTTHS 2003 là BLTTHS đầu tiên của nhà nước ta. Nếu PLTTHS thời kỳ
trước đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật TTHS đơn hành, thì việc pháp
điển hóa về TTHS lần này đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp TTHS nước
ta [65, tr.148]
BLTTHS 1988 gồm 07 phần, 32 chương với 286 điều. NTGTT được quy định
chương III bao gồm 11 diện người sau đó trong lần sửa đổi bổ sung BLTTHS vào
năm 1990 đã bổ sung mới một diện người nữa- “người bảo vệ quyền của đương sự”
(Điều 42a) thành 12 diện người: bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị tạm giữ,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp
liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Về mặt nội dung: lần đầu tiên trong BLTTHS đưa định nghĩa pháp lý của khái
niệm bị can, bị cáo: “bị can là người bị khởi tố về hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa
án quyết định đưa vụ án xét xử” (Điều 34 BLTTHS 1988) và định nghĩa khái niệm
người bị tạm giữ và địa vị pháp lý của người bị tạm giữ đã được quy định. Ngoài ra
BLTTHS 1988 còn quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch, điều mà PLTTHS trong thời kỳ trước chưa quy định
[65, tr.158-159]
1.3.3 Những người tham gia tố tụng từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng năm 2003
cho đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
BLTTHS 2003 thay thế BLTTHS 1988, là Bộ luật thứ hai về TTHS, Bộ luật
này về cơ bản kế thừa kỹ thuật lập pháp như BLTTHS 1988, lược bỏ những quy
định không còn phù hợp và bổ sung những quy định mới, tiến bộ trong PLTTHS,
trong đó có quy định về NTGTT.
28
Về hình thức, BLTTHS 2003 vẫn quy định về NTGTT thành một chương-
chương IV (từ Điều 48 đến Điều 61) bao gồm 12 diện (loại) người: bị can, bị cáo,
người bào chữa, người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Về mặt nội dung, BLTTHS 2003 đã quy định đầy đủ, cụ thể, rõ hơn quyền và
nghĩa vụ của những NTGTT, đặc biệt là mở rộng quyền của người bào chữa và
trong việc thu thập chứng cứ, sao chép tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc
bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người thân thích của những người này
hoặc từ cơ quan tổ chức, cá nhân, theo yêu cầu của người tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Người bào chữa được tham gia từ
thời điểm sớm hơn so với BLTTHS 1988, cụ thể là đối với trường hợp bắt người
trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì
người bào chữa TGTT từ khi có quyết định tạm giữ. BLTTHS cũng đã tách quy
định về bị can, bị cáo thành hai điều luật riêng là Điều 49 quy định về địa vị pháp lý
của bị can, và Điều 50 quy định về địa vị pháp lý của bị cáo [47, tr 39-40]
1.4. Những ngƣời tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số
nƣớ c trên thế giớ i
Mặc dù, tại mô hình tố tụng tranh tụng không có khái niệm “người tham gia tố
tụng”. Điều này khác với PLTTHS Việt Nam và mô hình tố tụng thẩm vấn [25,
tr.187]. Trong luận văn này tác giả nghiên cứu NTGTT được tách từ chủ thể tố tụng
hình sự - người tham gia không mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước
nên ngay chính mô hình tố tụng không có “người tham gia tố tụng” với mục đích để
nghiên cứu và so sánh với PLTTHS Việt Nam
1.4.1 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc
LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua tại Kỳ họp
thứ hai Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7 năm 1979,
và được sửa đổi theo Quyết định sửa đổi Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà
29
nhân dân Trung Hoa thông qua tại Kỳ họp thứ tư Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần
thứ 8 ngày 17 tháng 3 năm 1996.
Sau khi tìm hiểu LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có một vài
điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau:
Thứ nhất, LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định
NTGTT thành một phần riêng (trừ quy định về người bào chữa và đại diện) mà quy
định NTGTT theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện NGTT bao gồm: người bị
tình nghi (các điều 14, 89, 93, 95), nghi can (các điều 32, 56, 57, 121), bị cáo (Điều
14, 32, 33, 35, 39, 56, 57, 154, 155, 160, 176), người bị hại (Điều 40, 77, 88, 121,
145, 155, 182), nguyên đơn dân sự (các điều 155, 184), bị đơn dân sự (các điều
155, 184), người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 154, 156,
159, 160), người làm chứng (các điều 37, 97, 98, 106, 156); người bào chữa (các
Điều 35, 36, 37, 38, 98, 154, 156, 157, 159, 160, 175, 176); người giám định (các
điều 119, 120, 154), người phiên dịch (Điều 154), tư tố viên (các Điều 140, 176,
180, 184), người đại diện (các Điều 14, 40, 180,182, 203);
Thứ hai, Nếu căn cứ và quyền và nghĩa vụ của NTGTT thì BLTTHS phân chia thành:
Người có quyền và nghĩa vụ: người bị tình nghi, nghi can, bị cáo, người làm
chứng, người bào chữa
Người có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): người bị hại, nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám
định, người phiên dịch, tư tố viên, người đại diện
Thứ ba, LTTHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có một số NTGTT với một
vài điểm khác biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS
Việt Nam):
Một là, Người bào chữa gồm: luật sư, người do tổ chức hoặc đơn vị công tác
của bị cáo đề nghị, người giám hộ hoặc họ hàng và bạn bè của bị can bị cáo.
30
Hai là, Tư tố viên
Ba là, Người đại diện, được quy định thành một điều độc lập với các quyền
sau đây: được thông báo về thời gian và địa điểm thẩm vấn; được yêu cầu những
người tiến hành, NTGTT không được tham gia tố tụng; được chỉ định người đại
diện TGTT tại bất kỳ thời điểm nào; yêu cầu có được người bảo lĩnh trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử; người đại diện theo pháp luật của người bị hại bị chết hoặc mất
năng lực hành vi có quyền đưa vụ án tư tố ra trước tòa; kháng cáo bản án, nộp đơn
yêu cầu xem xét hiệu lực pháp lý của bản án.
1.4.2. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên
Bang Nga
BLTTHS Liên Bang Nga, được Duma Quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11
năm 2001, được các lần sửa đổi, bổ sung qua các năm bởi Luật liên Bang (tính đến
năm 2006). Sau khi tìm hiểu BLTTHS Liên Bang Nga có một vài điểm liên quan
đến quy định NTGTT như sau:
Thứ nhất, BLTTHS Liên Bang Nga quy định về NTGTT ở các mục: Mục 6
về các chủ thể TGTT thuộc bên buộc tội, Mục 7 về các chủ thể TGTT thuộc bên
bào chữa và Mục 8 những chủ thể khác TGTT hình sự. Theo quy định trong 3 mục
này thì NTGTT bao gồm: người bị hại (Điều 42), tư tố viên (Điều 43 BLTTHS);
nguyên đơn dân sự (Điều 44), người đại diện (người bị hại, nguyên đơn dân sự và tư
tố viên), người bị tình nghi (Điều 46), bị can, người đại diện hợp pháp của người bị
tình nghi và của bị can là người chưa thành niên, người bào chữa (từ Điều 49 đến
Điều 53), bị đơn dân sự (Điều 54), người giám định (Điều 57 BLTTHS), nhà
chuyên môn (Điều 58), người phiên dịch (Điều 59), người chứng kiến; người làm
chứng (Điều 56).
Thứ hai, Hầu hết các diện NTGTT đều được định nghĩa pháp lý để nhận diện và
làm cơ sở để phân biệt giữa những NTGTT này.
Thứ ba, Căn cứ vào quyền, nghĩa vụ của NTGTT, BLTTHS Liên Bang Nga
chia thành:
31
NTGTT có cả quyền và nghĩa vụ: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người làm chứng, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch, tư tố viên
NTGTT có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): người bị tình nghi,
người đại diện
Thứ tư, So với pháp luật TTHS của một số nước, thì BLTTHS Liên Bang Nga
quy định một số diện người đặc biệt: nhà chuyên môn, người chứng kiến
Thứ năm, BLTTHS Liên Bang Nga quy định về Người bào chữa với một vài
điểm khác biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt
Nam): người bào chữa bao gồm: luật sư, người họ hàng thân thích của bị can, bị cáo
hoặc người khác có thể được chấp nhận được.
Một người không thể đồng thời là người bào chữa cho hai hay nhiều người
bị tình nghi hoặc bị can nếu lợi ích của họ đối lập nhau;
Các trường hợp phải có người bào chữa: người bị tình nghi, bị can là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chết hoặc tâm thần; người bị tình
nghi, bị can không sử dụng thành thạo ngôn ngữ dùng trong tố tụng; người bị buộc
tội trong thực hiện tội phạm mà có thể bị xử phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc
tử hình; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án với sự tham gia của bồi thẩm
đoàn; bị can đề nghị xét xử vụ án theo thủ tục quy định của Bộ luật này.
1.4.3. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng
hòa Liên Bang Đức
Sau khi tìm hiểu BLTTHS Liên Bang Đức có một vài điểm liên quan đến quy
định NTGTT như sau:
Thứ nhất, BLTTHS Liên Bang Đức không quy định NTGTT thành một phần
riêng (trừ quy định về người làm chứng, người giám định và người bào chữa) mà
quy định những NTGTT theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện NTGTT bao
gồm: bị can (các Điều 146.148, 163, 382 BLTTHS), bị cáo (các điều 133,
136.137,138,170, 201,216, 219, người bào chữa (các Điều 138, 168, 218, 222, 224,
32
233, 297, 364), tư tố viên (các Điều 24, 74, 379, 285, 286, 396), người bị hại, người
làm chứng (các Điều 51, 70, 71, 286, 304); chuyên gia (người giám định) (các Điều
73, 74, 75, 84, 161), người phiên dịch ( Điều 259 và 465)
Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Liên Bang Đức NTGTT
được chia thành:
TGTTT có quyền và nghĩa vụ: người làm chứng;
NTGTT chỉ quy định về quyền: bị can, bị cáo, người bị hại, người bào chữa,
người phiên dịch, tư tố viên
Thứ ba, BLTTHS Liên Bang Đức quy định về người bào chữa với một vài
điểm khác biệt (theo quan điểm của chúng tôi khi đối chiếu so sánh với PLTTHS
Việt Nam):
Một là, Người bào chữa bao gồm: luật sư, các giáo sư giảng dạy luật tại các
trường đại học luật của Đức, những người khác được chấp nhận khi có sự đồng ý
của tòa án
Hai là, Các trường hợp phải có người bào chữa: nhân chứng không thể thực
hiện quyền của mình trong quá trình lấy lời khai và các lợi ích không được xem xét
đến trong các tội do bộ luật hình sự quy định phiên tòa xét xử chính theo thủ tục sơ
thẩm; bị cáo bị truy tố về một tội nghiêm trọng; việc xét xử chính có thể dẫn đến
lệnh cấm làm một công việc nhất định; bị cáo đã bị giam giữ ít nhất 3 tháng và
không được trả tự do ít nhất trước hai tuần khi bắt đầu phiên tòa xét xử chính; bị
cáo có khả năng bị tòa án kết luận là tâm thần.
Ba là, Người bào chữa bị thay đổi khi có căn cứ hoặc bị nghi ngờ liên quan
đến tội phạm là đối tượng của việc điều tra; đã lợi dụng việc thông tin với bị can
đang bị cách ly với mục đích thực hiện hành vi phạm tội hoặc gây nguy hại đáng kể
cho an ninh nơi giam giữ; đã thực hiện hành vi phạm tội mà trong trường hơp bị
can bị kết tội cấu thành hành vi đồng phạm, cản trở công lý hoặc tiêu thụ tài sản do
phạm tội mà có; có căn cứ cho rằng việc tham gia của luật sư sẽ ảnh hưởng tới an
ninh quốc gia.
33
Bốn là, Người bào chữa không được tham gia bào chữa cho nhiều người bị truy
tố về cùng một tội danh cũng như nhiều người bị truy tố về các tội danh khác nhau.
1.4.4 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng
hòa Pháp
Sau khi tìm hiểu BLTTHS Cộng Hòa Pháp có một vài điểm liên quan đến quy
định NTGTT như sau:
Thứ nhất, BLTTHS Cộng hòa Pháp không quy định NTGTT trong một phần
riêng mà quy định theo trình tự giải quyết vụ án theo đó diện NTGTT bao gồm:
người bị bắt (Điều 627), người bị tạm giữ ( Điều 63 và Điều 77), Bị can (các Điều
148, 312, 344), bị cáo (các Điều 148, 159, 274, 278, 279, 380, 390, 407, 460, 478,
489, 497), người bị hại (các Điều 80, 144, 344, 380, 380, 393, 420, 495), người làm
chứng (các Điều 310, 335, 437,438, 440, 441, 446), nhân chứng bổ trợ (Điều 113,
183), nguyên đơn dân sự (các Điều 379,372, 375, 418, 424, 478, 497), chuyên gia
(giám định viên) (từ điều 156 đến 169 ), người phiên dịch (Điều 408), người bào
chữa (các Điều 113, 393, 417, 442).
Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Cộng hòa Pháp có phân
NTGTT thành:
NTGTT có cả quyền và nghĩa vụ: bị can, bị cáo: người bào chữa, người giám định
NTGTT có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): tạm giữ, bị hại, người bị
hại, nguyên đơn dân sự.
NTGTT có nghĩa vụ (không thấy quy định về quyền): người làm chứng, người
phiên dịch (mà chỉ quy định người phiên dịch không thể được chọn từ các thẩm phán là
thành viên của Tòa án, các Bồi thẩm viên, các bên hoặc các nhân chứng)
Thứ ba, BLTTHS Cộng hòa Pháp có một số NTGTT với một vài điểm khác
biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam)
So với Pháp luật TTHS một số nước, BLTTHS Cộng hòa Pháp là quy định:
người bị bắt, nhân chứng bổ trợ.
34
1.4.5 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Vương
Quốc Anh
Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh được thông qua ngày 04 tháng 07
năm 1996. Sau khi tìm hiểu Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh có một vài
điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau:
Thứ nhất, Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh không quy định NTGTT
trong một phần riêng mà quy định theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện TGTT
bao gồm: bị can (Điều 3, 4, 5, 6), nhân chứng (các Điều 51, 65, 66), người bào chữa
(Điều 60).
Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh
có phân định NTGTT thành:
NTGTT có quyền và nghĩa vụ: bị can, bị can, người làm chứng
NTGTT có nghĩa vụ: người bào chữa (nghĩa vụ chứng minh vào thời điểm
phạm tội người bị cáo buộc không nhận thức được, không bị nghi ngờ hoặc có lý do
để nghi ngờ thực hiện các tội phạm có liên quan đến ấn phẩm hoặc các chương trình
có liên quan)
1.4.6 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản
BLTTHS Nhật Bản được ban hành từ năm 1948 (Luật số 131 ngày 10/7/1948,
có hiệu lực từ năm 1949) và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004. Sau khi tìm hiểu
BLTTHS Nhật bản có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau:
Thứ nhất, BLTTHS Nhật bản không quy định NTGTT thành một phần riêng mà
quy định trong các thành phần khác nhau của Bộ luật, theo đó diện NTGTT bao
gồm: nghi can (tại các điều 350 và 461), chuyên gia (người giám định) (từ Điều 165
đến 174); người phiên dịch (các điều 175, 177), người bào chữa, bị can tại các điều
30, 31, 39, 180, 353), bị cáo (tại các điều 17, 21, 30, 31, 39, 68, 82, 87, 113, 157,
180, 203, 204)
35
Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Nhật Bản có phân định
NTGTT thành:
NTGTT Có quyền và nghĩa vụ: nghi can (người bị tình nghi), bị can, bị cáo,
người giám định.
NTGTT có quyền: người bào chữa
Thứ ba, BLTTHS Nhật bản có quy định về một số NTGTT với một vài điểm
khác biệt (theo quan điểm của chúng tôi khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam):
Một là, về người bào chữa. Người bào chữa bao gồm: Luật sư, những người
khác được Tòa án chấp nhận
Các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa: bị cáo là người chưa thành
niên, bị câm, điếc; bị cáo là từ đủ mười bẩy tuổi trở lên; khi có nghi ngờ bị cáo bị
tâm thần hoặc không có khả năng nhận thức; bị cao không thể chỉ định người bào
chữa mà yêu cầu nhà nước chỉ định người bào chữa.
Các trường hợp Tòa án không chấp nhận bào chữa: cần cần đoàn luật sư phân
công vì bị cáo đã chỉ định luật sư; lợi ích củ bị cáo và người bào chữa là đối nghịch
nhau; người bào chữa bị khiếm khuyết về thể chất, tâm thần hoặc lý do khác không thể
thực hiện được nhiệm vụ, gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ; người bào chữa
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ; người bào chữa bị đe dọa hoặc bị tấn công.
Số lượng người bào chữa do Tòa án giới hạn
Hai là, đối với người phiên dịch BLTTHS Nhật bản không quy định về quyền
và nghĩa vụ của người phiên dịch mà chỉ quy định các trường hợp sau phải có người
phiên dịch: người không biết tiếng Nhật, người câm hoặc điếc.
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOTLuận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
Luận văn: Hợp đồng vay tài sản qua giải quyết tranh chấp, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm ...
 
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOTLuận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
Luận văn: Xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAYĐề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
Đề tài: Tính hợp pháp và tính hợp lý của quyết định hành chính, HAY
 
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOTĐề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
Đề tài: Trách nhiệm của công chức trong hoạt động công vụ, HOT
 
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAYLuận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
Luận văn: Xác định và phân chia di sản thừa kế theo luật, HAY
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luậtLuận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
Luận văn: Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo luật
 
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAYLuận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩmLuận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
Luận văn: Hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 

Similar to Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT

NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNuioKila
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT (20)

NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdfNHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM.pdf
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niênLuận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Luận án: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt NamLuận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
Luận án: Thời hạn tố tụng trong luật tố tụng hình sự tại Việt Nam
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niênBảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa thành niên
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sựLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự
 
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đLuận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
Luận văn: Tranh luận tại phiên tòa xét xử sơ thẩm tại Nghệ An, 9đ
 
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyềnCung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
Cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền
 
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng, HAY
 
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA CÁC...
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sựBảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
Luận án: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét x...
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng dân sự theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAYLuận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Đà Nẵng, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG VĂN CÔNG NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2017
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG VĂN CÔNG NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN VĂN TUÂN Hà Nội – 2017
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Dƣơng Văn Công
  • 4. LỜI CẢM ƠN Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sỹ Luật học. Qua đây tôi xin chân thành gửi lời cảm cảm ơn đến: Ban chủ nhiệm Khoa Luật, Tổ bộ môn Tư pháp hình sự, các giảng viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường. Cảm ơn lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng cao trình độ. Cảm ơn Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Đại học Luật Hà Nội và Thư viện Học viện Tư pháp đã cho phép tra cứu và sử dụng các tài liệu nghiên cứu; Liên đoàn luật sư Việt Nam đã đã giúp đỡ tôi số liệu về sự tham gia Luật sư trong giải quyết vụ án hình sự. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện luận văn này. Đặc biệt, Tôi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Tuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. . Tác giả luận văn Dƣơng Văn Công
  • 5. DANH MỤC NHỮNG TỪ ĐƢỢC VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng ĐTV Điều tra viên HĐTP TANDTC Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao HĐXX Hội đồng xét xử TGTT Tham gia tố tụng NTGTT Người tham gia tố tụng NTHTT Người tiến hành tố tụng THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự PLTTHS Pháp luật tố tụng hình sự UBMTTQ VAHS Ủy ban Mặt trật tổ quốc Vụ án hình sự VKS Viện kiểm sát
  • 6. MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................1 1.Tính cấp thiết của đề tài.......................................................................................1 2.Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................................3 3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ..................................................5 4.Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu .................................................6 5.Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn............................................................7 6.Kết cấu luận văn ..................................................................................................7 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ...................................8 1.1 Khái niệm người tham gia tố tụng hình sự........................................................8 1.2 Phân loại những người tham gia tố tụng .........................................................21 1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về người tham gia tố tụng từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay ....................................................................24 1.4. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới ..................................................................................................28 Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ... Error! Bookmark not defined. 2.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự...........Error! Bookmark not defined. 2.1.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng liên quan trực tiếp đến vụ án................................................................Error! Bookmark not defined. 2.1.2 Quy định pháp luật về người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích của người bị hại, đương sự .....................................................Error! Bookmark not defined. 2.2 Thực trạng áp dụng các quy định về những người tham gia tố tụng hình sự ...............................................................................Error! Bookmark not defined.
  • 7. 2.2.1 Thực trạng xác định tư cách những người tham gia tố tụng hình sự .....Error! Bookmark not defined. 2.2.2 Thực trạng bảo đảm sự tham gia và quyền của những người tham gia tố tụng hình sự ...................................................................Error! Bookmark not defined. Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........Error! Bookmark not defined. 3.1 Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về những người tham gia tố tụng ..............................................................Error! Bookmark not defined. 3.2 Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự ...................................................................Error! Bookmark not defined. 3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu áp dụng pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự ...........................................................Error! Bookmark not defined. 3.3.1 Cần có văn bản hướng dẫn cần có hướng dẫn về NTGTT khi giải quyết vụ án hình sự tại phiên tòa phúc thẩm.........................Error! Bookmark not defined. 3.3.2 Nâng cao năng lực của người tiến hành tố tụng .......... Error! Bookmark not defined. 3.3.3 Nâng cao số lượng và chất lượng của người bào chữaError! Bookmark not defined. 3.3.4 Các giải pháp khác........................................Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN...........................................................Error! Bookmark not defined.
  • 8.
  • 9. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài CQTHTT, THTT và NTGTT là những chủ thể của hoạt động TTHS. Việc tham gia của những người này rất quan trọng bởi thế mà PLTTHS của các nước đều quy định những chủ thể này phải tham gia vào việc giải quyết VAHS nhưng tùy từng thể chế nhà nước, hệ thống pháp luật mà các chủ thể TGTT có phạm vi, địa vị pháp lý của những người này khác nhau đồng thời mức độ tham gia TTHS khác nhau. Việc CQTHTT và người THTT có phải và cũng nên coi là NTGTT thì hiện nay có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về những NTGTT độc lập với CQTHTT và NTHTT trên cơ sở quy định của PLTTHS Việt Nam gọi là NTGTT. Việc quy định TGTT của những NTGTT suy cho cùng cũng là để bảo vệ bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Mục đích của việc nghiên cứu về các quy định của pháp luật nói chung và PLTTHS nói riêng đều hướng để bảo đảm quyền con người được tốt và hoàn thiện hơn. Hay nói theo GS.TSKH Đào Trí Úc: “Vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự có thể được coi là trục xoay của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự” [76, tr.8]. Quyền con người trong PLTTHS được thể hiện dưới nhiều chế định, trong đó có chế định về NTGTT mà trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của những NTGTT- nếu được quy định đầy đủ và được bảo đảm nó sẽ là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ những cơ quan tố tụng. Quyền và nghĩa vụ của những NTGTT trong PLTTHS nước ta không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Quá trình thi hành BLTTHS 2003 thấy rằng các quy định về quyền và nghĩa vụ của những NTGTT đã phần nào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT nhưng xét dưới góc độ quyền con người cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện nhất là đối với bị can, bị cáo. Mặt khác quy định PLTTHS hiện hành còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất và chưa có hướng dẫn chính thức của các CQTHTT dẫn đến nhận thức chưa thống nhất của CQTHTT và NTHTT nên không ít trường hợp xác định NTGTT không đúng tư cách dẫn đến
  • 10. 2 việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, nhiều bản án bị huỷ, bị sửa vì xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT. Hoàn thiện chế định về NGTTT, đảm bảo quyền con người, quyền bình đẳng của các bên trong tranh tụng là yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh”. Hiến Pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, nhiều nội dung đã được hiến định trong đó có nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến Pháp đã đổi tên chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, chuyển vị trí từ chương V lên chương II sau chương I về chế độ chính trị, đồng thời đã bổ sung và làm rõ thêm nhiều quyền phù hợp với các Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà Việt Nam là thành viên. Những sửa đổi bổ sung lần này không đơn giản chỉ thuần túy về mặt kỹ thuật, mà lớn hơn cả đó là thể hiện bước tiến mới của chúng ta trong tư duy, nhận thức về quyền con người tiệm cận tới giá trị phổ quát của nhân loại về dân chủ, nhân quyền [63, tr.32]. Quán triệt tinh thần của cải cách tư pháp, triển khai Hiến pháp và để khắc phục những tồn tại, bất cập trong quá trình thực thi BLTTHS 2003, ngày 27/11/2015 tại kỳ họp Quốc hội khóa 13 đã thông qua BLTTHS mới- BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003, Bộ luật này gồm có 510 điều, trong đó bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều, liên quan đến NTGTT thì đã bổ sung thêm nhiều diện (loại) TGTT mới mặt khác đã bổ sung các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của NTGTT một cách chặt chẽ, khả thi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế bảo đảm cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc tranh tụng [6, tr 23]. BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày 17/1/2016 nhưng do có một số sai sót của luật nội dung- BLHS 2015, tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29 tháng 6 năm 2016 lùi ngày
  • 11. 3 có hiệu lực thi hành của BLTTHS 2015 [41]. Do vậy, thời điểm tác giả viết luận văn này thì BLTTHS 2003 vẫn có hiệu lực nên việc nghiên cứu, đánh giá vẫn dựa trên các quy định của BLTTHS 2003 song luận văn còn phải giải quyết và đưa ra những định hướng hay những đề xuất mới nên tác giả có đề cập, lồng ghép, nhận định và đánh giá cả các quy định của BLTTHS 2015 có liên quan. Với tất cả các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu về NTGTT không chỉ có ý nghĩa trong việc tuyên truyền, phổ biến Hiến pháp, PLTTHS mà còn việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Mặt khác còn có ý nghĩa trực tiếp trong thực tiễn về việc bảo vệ, hoàn thiện quyền của NTGTT cũng chính là quyền con người, quyền công dân. Vì vậy, tác giả ch ọn đề tài: “Những người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam’’ làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước hết, Việc nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ (những) NTGTT rất khó khăn vì diện (loại) NTGTT thường rất đông- theo quy định pháp luật TTHS hiện nay được chia làm 12 tư cách (loại) người, trong đó mỗi người tham gia với vai trò, địa vị pháp lý không giống nhau. Mặt khác do giới hạn (hình thức: số trang) của các công trình nghiên cứu. Nên trên các sách báo khoa học pháp lý hay các công trình khoa học các tác giả, nhà khoa học thường nghiên cứu theo hai hướng chính:(i) về từng NTGTT hay (ii) nhóm người TGTT – có địa vị pháp lý gần giống nhau. Chẳng hạn: Về Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: “Hoàn thiện các quy định của BLTHS về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện” của TS Chu Thị Trang Vân đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2009; Một số ý kiến hoàn thiện BLTTHS về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị cáo, bị can” của đồng tác giả ThS. Đoàn Tạ Cửu Long và ThS Nguyễn Tấn Hảo đăng trên tạp chí Kiểm sát số 21/2012; “Địa vị pháp lý của người tạm giam, tạm giữ, bị can bị cáo trong tố tụng hình sự” của Đoàn Thị Phương Thảo, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQGHN năm 2012; “Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự” của Hoàng Thị Hồng Chiêm,
  • 12. 4 Luận văn thạc sĩ năm 2014; “Quy định pháp luật quyền bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân- Thực trạng và kiến nghị” của ThS Võ Quốc Tuấn tạp chí Nghề Luật số 4 tháng 9/2015 … - Về người bị hại: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Vũ Gia Lâm, tạp chí Luật học số 11/2011; “Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại” của Lê Sỹ Quế đăng trên tạp chí Luật học; “Một số vấn đề về người bị hại trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” của ThS Lê Thị Thúy Nga; “Người bị hại trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Thịnh Quang Thắng, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật- ĐHQG Hà Nội, năm 2010, … - Về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự”, Nguyễn Thị Thúy Ngọc, luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, năm 2008; Một số vấn đề về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, của ThS Phan Thanh Tùng, … - Về Người bào chữa: “Nâng cao vị thế của người bào chữa tại phiên tòa hình sự” đăng trên tạp chí Luật học số 7/2008; “Giải pháp nâng cao vai trò của Luật sư trong quá trình tham gia xét xử tại tòa án” của Nguyễn Hữu Chỉnh và ThS Nguyễn Kim Chi, tạp chí Nghề Luật số 1 /2015… - Về Người phiên dịch, người giám định, người làm chứng: “Người làm chứng trong vụ án hình sự” của Nguyễn Minh Tiến đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/1998; “Người làm chứng và quyền của người làm chứng trong BLTTHS 2003 - Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của TS Phan Thị Hương Thủy, năm 2006; “Về người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự” của ThS Phạm Quang Định, tạp chí Luật học số 2/2007; “Bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng theo nghĩa vụ pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trần Thảo , Luật án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ chính Minh năm 2015; Còn việc nghiên cứu về NTGTT có một số công trình và các tác giả sau: “Xác định tư cách tham gia tố tụng hình sự”của Đàm Duy Vương đăng trên tạp chí
  • 13. 5 Tòa án nhân dân số 12/1999; “Vài suy ngẫm về việc hoàn thiện các quy định về người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Trịnh Văn Thanh, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật (1999); “Việc quy định những người tham gia tố tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của Lê Xuân Thân đăng tạp chí Tòa án nhân dân số 4/2000. Các bài viết này đều có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn nhất định về vấn đề chúng tôi nghiên cứu song những bài viết này được viết chủ yếu trong khoảng thời gian trước năm 2003 (trước thời điểm BLHS năm 2003 được ban hành). Vào năm 2006, tại Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phong (Đại học Luật Hà Nội) “Phân biệt các loại người tham gia tố tụng theo luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn này, tập trung giải quyết một số vấn đề nhầm lẫn trong việc xác định NTGTT từ quy định pháp luật và thực tiễn về một số loại NTGTT; Còn gần đây nhất có bài viết “Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia tố tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự” ThS Thái Chí Bình, tạp chí Nghề Luật số 2/2015, với bài viết này đã đề cập một số vấn đề hoàn thiện về NTGTT. Trên cơ sở đó nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo cấp thạc sĩ nào nghiên cứu cụ thể về NTGTT (nhất là khi sau khi chúng ta có Hiến pháp năm 2003 và gần đây vừa xây dựng và ban hành BLTTHS 2015) việc nghiên cứu về chế định và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT là cần thiết. Do vậy, Có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Những người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõ lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về những NTGTT trong PLTTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiê ̣u quả áp dụng các quy định của pháp luật về những NTGTT trong TTHS Việt Nam Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
  • 14. 6 - Nghiên cứ u làm rõ lý luâ ̣n về NTGTT: khái niệm, phân loại những NTGTT trong TTHS; những NTGTT ở một số nước trên thế giới. - Nghiên cứu các quy định pháp luật về những NTGTT và thực tiễn áp dụng. - Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc quy định về NTGTT và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về những NTGTT. 4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về những NTGTT, một số loại NTGTT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam Phạm vi nghiên cứu: Để bảo đảm tính bao quát và toàn diện của vấn đề nghiên cứu – về những NTGTT, tác giả xin được tập trung nghiên cứu về mặt lý luận về NTGTT, mặt khác tác giả xin được lựa chọn một số NTGT như: nhóm NGTTT có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án và nhóm người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự để làm rõ, bổ sung lý luận về những NTGTT trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ tổng hợp, đánh giá các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT trong TTHS Việt Nam. Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường, bảo đảm quyền của những NTGTT trong TTHS Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh làm nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu, thông tin, thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, sosánh...
  • 15. 7 5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn Những điểm mới của luận văn Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, Luận văn thu được những kết quả nhất định, có thể xem những kết quả sau đây là điểm mới của luận văn: Thứ nhất, làm rõ vấn đề lý luận về những NTGTT trong PLTTHS; Thứ hai, từ việc nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới về cách tiếp cận cũng như quy định NTGTT trong pháp luật để thấy được những ưu điểm và hướng tham khảo để PLTTHS Việt Nam tiếp cận; Thứ ba, từ quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn khi xác định NGTT thấy được tồn tại và những nguyên nhân và để Cuối cùng, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc quy định về chủ thể NTGTT nói riêng Ý nghĩa của luận văn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luâ ̣n văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về các quy định về NTGTT. Ngoài ra, đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong các Trường Đại học có đào ta ̣o ngành luâ ̣t, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ công tác tại CQTHTT, Luật sư và người khác có quan tâm. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương chính: Chương 1: Một số vấn đề chung về những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng hình sự Chương 2: Quy định của pháp luật về những người tham gia tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng Chương 3: Giải pháp về hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về những người tham gia tố tụng
  • 16. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG NGƢỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm ngƣời tham gia tố tụnghình sự Nếu như LHS quy định về TNHS, tội phạm, cấu thành tội phạm, hành vi nào bị coi là tội phạm và hậu quả pháp lý đối hành vi tội phạm gây ra… thì LTTHS quy định trình tự, cách thức của những chủ thể tố tụng tham gia để giải quyết, chứng minh hành vi phạm tội cụ thể có vi phạm, đáp ứng các quy phạm LHS hay không và giải quyết các vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội gây ra (nếu có). Đây là biểu hiện của Nhà nước, pháp luật tiến bộ, văn minh, dân chủ và nhân quyền. TTHS cùng một lúc thực hiện hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để công lý được thực thi nhưng lại vừa phải bảo đảm thế nào để trên con đường đi tìm sự thật và công lý thì quyền của tất cả những ai có liên quan đều phải được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ [76, tr.8]. Như vậy, có thể thấy rằng, trong tố tụng luôn phản ánh, chứa đựng những mối quan hệ đa chiều và mang trong mình nó nhiều nghịch lý của các mối quan hệ. TTHS là “cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự” [86, tr.786] Với định nghĩa này, ngoài Cơ quan Nhà nước đại diện trong tư pháp hình sự là các CQTHTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án), những người trong các cơ quan này (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án); và những NTGTT (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch) thì còn có đề cập đến các Cơ quan Nhà nước khác (ngoài các CQTHTT trên) và các tổ
  • 17. 9 chức xã hội đã cho chúng ta thấy chủ thể tham gia TTHS là rất đa dạng, mang tính phổ quát từ các nguyên tắc của TTHS Việt Nam như: nguyên tắc “trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”, nguyên tắc “sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng”.v.v… những chủ thể này góp phần không nhỏ trong việc giải quyết VAHS sự nói chung nhưng những chủ thể này có thực hiện cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động TTHS hay không thì cần phải xem lại: cơ quan Nhà nước khác là cơ quan nào? Tất cả các cơ quan Nhà nước hay một số cơ quan Nhà nước? Theo quy định của pháp luật thì tham gia vào việc giải quyết VAHS thì chỉ có một số cơ quan được giao một số hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư, lực lượng Cảnh sát biển và một số cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân…), tương tự đối với các tổ chức xã hội có tham gia khi NTGTT thuộc tổ chức của mình TGTT với đại diện (Đoàn thanh niên đại diện cho NTGTT dưới 18 tuổi..).v.v.. Trong những trường hợp như thế này họ nằm trong những NTGTT rồi. Do vậy, chúng tôi cho rằng với định nghĩa này trong từ điển đã nêu về TTHS cần phải xem lại cho phù hợp với thực tiễn pháp luật, tiến tới thống nhất về thuật ngữ này. Chúng ta có thể hiểu TTHS như sau: TTHS bao gồm toàn bộ các hoạt động của các chủ thể TTHS hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan, công bằng, góp phần đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con người [25, tr.17]. Trong bất kỳ một hệ thống TTHS nào cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra bởi tính chất của tố tụng là: truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can, bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử luôn luôn tồn tại trong bất kỳ một loại TTHS nào. Do đó, nói chức năng tố tụng là nói đến những định hướng hoạt động trong quá trình TTHS. Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng, chẳng hạn Tòa án đáng lẽ là cơ quan tài phán-trọng tài giữ vai trò khách quan ở giữa bên buộc tội và bào chữa thì Tòa án Việt Nam cũng đi chứng minh, cũng có chức năng khởi tố VAHS… tức là thực hiện cả chức năng buộc tội.
  • 18. 10 PLTTHS Việt Nam chia các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng thành: CQTHTT, NTHTT và NTGTT đã thể hiện việc không phân biệt thật rõ ràng mục đích của các chủ thể tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thể đó và trong tổng thể điều đó không tạo ra được động cơ và động lực thúc đẩy hiệu quả của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân. Cần từ bỏ cách chia các chủ thể quan hệ tố tụng như PLTTHS như hiện nay mà phải đều là chủ thể các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích của các chủ thể đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lấy lời khai người làm chứng. Cần tăng cường những bảo đảm cho tính công khai của hoạt động điều tra, tăng cường giám sát hoạt động điều tra theo hướng gắn công tố với điều tra như các văn kiện của Đảng và Nhà nước[76, tr.12], tác giả đồng tình với nhận định này, nhưng tác giả cũng băn khoăn nếu phân chủ thể tố tụng dựa trên chức năng tố tụng nêu trên thì một số NTGTT không biết được đưa vào bên tố tụng nào (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch..). Khi nhìn vào lịch sử TTHS Việt Nam cho thấy kỹ thuật lập pháp luôn khu biệt CQTHTT, NTHTT và NTGTT thành hai chế định tương ứng thành hai chương trong PLTTHS, điều này dẫn đến nhận thức chỉ những người nào được quy định, liệt kê trong chương NTGTT mới là NTGTT hình sự, còn có được quy định, được nhắc đến trong chương khác, trong giai đoạn TTHS, ví dụ như người tố giác, người kiến nghị khởi tố hay người chứng kiến tại BLTTHS 2003 thì không phải NTGTT? Điều này cũng đã dẫn đến những hạn chế, gây khó khăn nhất định trong giải thích các quyền và nghĩa vụ trong các giai đoạn TTHS khác nhau của CQTHTT, NTHTT và cũng khó khăn với chính những NTGTT khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, tác giả cho rằng để giữ nguyên “truyền thống” mà đảm bảo được chức năng của TTHS- thể hiện một cách gián tiếp thành các bên trong tố tụng để làm được điều này chúng ta phải thay đổi, nhận thức lại về chủ thể là Tòa án, còn những NTGTT đặc biệt lưu ý đến những quyền và cơ chế bảo đảm quyền của NTGTT (đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can bị cáo- quyền bào chữa của
  • 19. 11 họ, quyền thu thập chứng chứ, tranh tụng tại phiên tòa.v.v…), bổ sung diện người mới vào chương NTGTT và nâng cao trách nhiệm của những NTHTT ở các giai đoạn tố tụng khi khi thực hiện trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho những NTGTT. Những NTGTT hình sự được quy định tại chương IV BLTTHS nhưng quan điểm NTGTT gồm những cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào thì cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo TS. Nguyễn Văn Tuân, hiện nay có ba quan điểm khác nhau [66, tr.129-130]: Quan điểm thứ nhất cho rằng, những NTGTT cần được hiểu theo nghĩa hẹp và bao gồm: người bị tạm giữ, bị can bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự. Những NTGTT là những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Khi tham gia tố tụng, họ có nhiều quyền và nghĩa vụ, sự tham gia của họ có tác dụng đối với sự tiến triển và kết quả của vụ án. Theo quan điểm này thì người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người khác như người chứng kiến, nhà chuyên môn và bác sĩ pháp y một cách thụ động họ là những người được NTHTT “trưng dụng” để giúp làm sáng tỏ vụ án trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng. Vậy nên đưa họ vào danh sách những người được giao nhiệm vụ, được tham gia một số hoạt động tố tụng hoặc tách thành một chương riêng và đặt cho một cái tên khác cho phù hợp. Quan điểm thứ hai cho rằng, không nên bó hẹp phạm vi những NTGTT. Theo quan điểm này, ngoài những NTGTT theo quan điểm thứ nhất còn phải kể đến người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… Những người này thực chất cũng tham gia vào hoạt động TTHS và hoạt động của họ góp phần thực hiện nhiệm vụ TTHS. Sự tham gia TTHS của họ mang tính chất hạn chế, không phải để bảo vệ lợi ích của mình mà nhằm thúc đẩy hoạt động tố tụng. Quan điểm thứ ba (hiểu theo nghĩa rộng) CQTHTT và NTHTT có góp phần hoạt động của mình vào hoạt động tố tụng hình sự không? Câu trả lời luôn là có và
  • 20. 12 còn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS - họ là người đại diện cho Nhà nước điều tra truy tố và xét xử vụ án.Vậy thì họ cũng chính là những người TGTT. Do vậy ngoài những NTGTT đã nói ở hai quan điểm nêu trên thì những người đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành TTHS, vì vậy, thực chất họ cũng là những NTGTT [61, tr.58-59]. Theo quan điểm của tác giả, với quan điểm thứ nhất, khi tách người làm chứng, người phiên dịch, người giám định ra phạm vi NTGTT thì chưa hợp lý, khi NTHTT “trưng dụng” để góp làm sáng tỏ vụ án tức là họ đã là NTGTT rồi. Do vậy không nhất thiết phải tách và quy định họ ở phần chương riêng với tên gọi khác. Còn theo quan điểm thứ ba, việc những người đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng là NTGTT cũng có yếu tố hợp lý nhất là xem xét dưới góc độ ngôn ngữ, pháp luật của một số nước đặc biệt pháp luật theo mô hình tố tụng tranh tụng, chức năng tố tụng không phân biệt NTGTT như mô hình tố tụng thẩm vấn chỉ nên coi những người đại diện này cùng với NTGTT theo quan điểm thứ hai là chủ thể của quan hệ tố tụng hình sự là hợp lý hơn vì: NTHTT là những người có quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà Nước còn NTGTT thì không. Do vậy, NTGTT hiểu theo quan điểm thứ hai là hợp lý, phù hợp với quan điểm pháp lý về NTGTT của các nước trên thế giới (mô hình thẩm vấn) cũng như PLTTHS Việt Nam cũng như các quan niệm thông thường từ trước đến nay. Như vậy, NTGTT là gì? Hiện nay, có rất nhiều khái niệm được đưa ra, chẳng hạn: Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội: Người tham gia tố tụng là những người có quyền, lợi ích liên quan hoặc có nghĩa vụ pháp lý tham gia vụ án để bảo vệ quyền, lợi ích của mình hoặc góp phần làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án [25, tr.186]. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật- Đại học Cần Thơ thì Người tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích cần được bảo vệ trước pháp luật, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, và những người tham gia tố tụng
  • 21. 13 để hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia tố tụng khác [24]. Các khái niệm về NTGTT trên đều dựa trên đặc trưng địa lý pháp lý của NTGTT để xây dựng lên thành khái niệm song các khái niệm đều có điểm chung khi cho rằng trong số những NTGTT thì có nhóm NTGTT (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) theo nghĩa vụ pháp lý (bắt buộc) là chưa xác đáng vì họ tham gia họ còn có những quyền nhất định, chẳng hạn như họ có quyền “từ chối khi có lý do chính đáng”… Còn khái niệm: Người tham gia tố tụng hình sự là người phải thực hiện đúng các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có những quyền, nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự [53] với khái niệm này, chúng tôi cho rằng không thể hiện được tính bao quát và dường như đã đã làm lu mờ mục đích và chức năng cũng như bản chất của TTHS khi cho rằng NTGTT là người phải thực hiện đúng các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Điều này có thể đúng một phần đối với các đối với bị can, bị cáo… hay người giám định, người làm chứng (nếu họ không có lý do chính đáng) nhưng đối với NTGTT khác (người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự,…) có cần phải thực hiện đúng các yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền không? Nếu có thì là các yêu cầu hay quyết định gì của các cơ quan đó? Trong khi đó mỗi loại NTGTT đều được quy định quyền và nghĩa vụ của họ rồi. Mặt khác, cơ quan có thẩm quyền là cơ quan nào? Trong khi đó phải là cơ quan có thẩm quyền CQTHTT mới là chính xác. Do vậy, chúng tôi mạnh dạn đưa ra khái niệm về NTGTT như sau: Người tham gia tố tụng là người, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự được Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Họ có quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật. Với khái niệm này có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, NTGTT là thuật ngữ bao gồm người, cơ quan, tổ chức việc khẳng định này bảo đảm và sẽ tương thích với một số định nghĩa pháp lý về NTGTT hiện nay. Chẳng hạn như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nó cho chúng ta mở rộng
  • 22. 14 khái niệm về người bị hại… song tùy từng trường hợp NTGTT chỉ có thể là cá nhân như người làm chứng, người phiên dịch… Thứ hai, NTGTT là người có liên quan đến việc giải quyết VAHS. NTGTT có thể liên quan trực tiếp (như bị can, bị cáo, người bị hại..), cũng có thể liên quan gián tiếp thông qua được nhờ, ủy quyền… hoặc có người biết được những tình tiết của vụ án hay do họ có kiến thức chuyên môn liên quan đến VAHS và được CQTHTT xác định họ cần phải tham gia và những người này thúc đẩy giải quyết vụ án nhanh chóng chính xác và khách quan. Tóm lại, đều là những người ít nhiều liên quan và ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Thứ ba, NTGTT được Cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng xác định tham gia vào việc giải quyết VAHS. NTGTT có thể tự mình đề nghị hoặc được Cơ quan, NTHTT ghi nhận, xác định là NTGTT. Thứ tư, khi họ được xác định là NTGTT thì họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Hiện nay, trong những NTGTT thì người bị hại còn nhiều vấn đề gây tranh luận. Quy định pháp luật hiện hành quy định: “người bị hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” với quy định này đã dẫn đến cách hiểu “Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân” và trên thực tiễn CQTHTT và NTHTT luôn loại trừ tổ chức là người bị hại. Theo chúng tôi, cách hiểu này chưa hợp lý, chưa đúng - người bị hại phải được hiểu là con người pháp lý không chỉ là con người tự nhiên nên người bị hại có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức [50, tr.160]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân, hành vi phạm tội trong thực tế còn nhắm đến để gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho pháp nhân, tổ chức là rất đa dạng, không thuần túy là thiệt hại về tài sản mà có thể bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt hại về tinh thần. Chẳng hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh doanh... Có các cách hiểu khác nhau bắt nguồn từ thuật ngữ
  • 23. 15 “người bị hại cũng như từ quy định pháp luật. Thuật ngữ “người bị hại” được PLTTHS Việt Nam (PLTTHS 2003 và trước), PLTTHS của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga cũng dùng thuật ngữ này; trong khi đó LTTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại”, “nạn nhân”. Riêng đối với thuật ngữ “Nạn nhân” chúng tôi cho rằng không thể đồng nghĩa là người bị hại được vì khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm; những thiệt hại của nạn nhân không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp. Chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ như thế nào phải thể hiện được bản chất, nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ. Vì vậy theo chúng tôi sử dụng thuật ngữ “bị hại” thay cho “người bị hại” như trong BLTTHS 2015 là phù hợp: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra” (khoản 1 Điều 62). Theo khái niệm và trong thực tiễn này “Bị hại” bao hàm các đặc điểm như sau: Thứ nhất, về chủ thể bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác; Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp. Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Sự thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không phải có nguồn gốc từ hành vi không phù hợp pháp luật của người bị thiệt hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
  • 24. 16 NTGTT đã được quy định trong chương IV của BLTTHS đã thực sự đầy đủ chưa? Theo chúng tôi luật thực định quy định như vậy là chưa phù hợp với lý luận và bỏ sót NTGTT điều này dẫn đến không bảo đảm quyền về mặt TTHS cho một số người này. Trả lời cho câu hỏi TTHS bắt đầu từ khi nào? Sẽ là lời giải đáp cho chúng ta phần nào. Điều này rất quan trọng vì nó là cơ sở để xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của các chủ thể TTHS, để các CQTHTT, NTHTT thực hiện cách thức và trình tự tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, còn NTGTT thực các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Hiện nay, trong khoa học pháp lý, việc giải quyết VAHS được phân thành các giai đoạn (quá trình) khác nhau mà chưa có sự thống nhất, chẳng hạn, trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết VAHS được chia thành năm giai đoạn [9, tr.26] hay bảy giai đoạn [16, tr.10-11], [21, tr.16-17] nhưng các quan điểm trên có điểm chung là ghi nhận giai đoạn khởi tố là quá trình bắt đầu của TTHS mà “thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó”[9, tr.26]. CQTHTT đã bắt đầu tiếp nhận các tin báo từ những người tố giác, người báo tin về tội phạm đây là những cơ sở quan trọng để CQTHTT giải quyết các tin báo tố giác, phát hiện xử lý tội phạm. Việc không ghi nhận những người này là NTGTT và với những quyền và nghĩa vụ sẽ làm hạn chế việc tham gia của các cá nhân, tổ chức trong đấu tranh và phòng chống tội phạm. Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố- họ mới chỉ những người bị tình nghi thực hiện phạm tội để có cơ sở xác minh những người này phải có mặt theo yêu cầu của các CQTHTT vì vậy theo logic họ cũng phải có những quyền nhất định tránh sự lạm quyền từ các CQTHTT. Theo BLTTHS hiện hành việc bỏ sót những người này là NTGTT là một thiếu sót, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của họ; Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền mời tham dự một số hoạt động điều tra, có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà CQTHTT tiến hành trong khi mình có mặt. Việc có người chứng kiến trong hoạt động tố tụng là cần thiết vì nó sẽ bảo đảm sự công minh, khách quan, trách sự lạm
  • 25. 17 quyền và nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT; Về giai đoạn thi hành án có quan điểm cho rằng thi hành án không nên coi đây là một giai đoạn TTHS và cần phải được nghiên cứu thêm [9 tr.26] còn PLTTHS hiện nay quy định đây là một giai đoạn TTHS với khái niệm“Người bị kết án”; giảm; miễn chấp hành hình phạt; xóa án; giám đốc thẩm; tái thẩm nhưng lại không được quy định trong chương NTGTT theo chúng tôi đây là thiếu sót về diện NTGTT. Do đó, chúng tôi đề nghị nên xem xét đưa “người bị kết án” và quyền lợi nghĩa vụ của họ vào phần quy định NTGTT thì mới hợp lý và bảo đảm tính liên tục của tư cách người bị truy cứu TNHS tương ứng với các giai đoạn TTHS. Cần xác định rõ người bị kết án là người đang thi hành một bản án một bản án đã có hiệu lực pháp luật và cả những người đã thi hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của BLHS. Tiếp đến là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, mặc dù người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo không được quy định tại điều luật quy định về bị can, bị cáo nhưng lại được quy định tại các điều luật khác chẳng hạn trong trường hợp bị can bị cáo bị truy, khởi tố điều tra mà khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì người đại diện có quyền yêu cầu thay đổi người bào chữa hoặc từ chối bào chữa… và người đại diện của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ VAHS vẫn còn chữa rõ ràng, họ là ai? Thời điểm họ tham gia tố tụng từ khi nào?... Để thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS tại giai đoạn xét xử HĐTP TANDTC đã có những văn bản hướng dẫn nhưng các văn bản này có những hạn chế nhất định: (i) TTHS bao gồm rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng các CQTHTT, NTHTT tham gia khác nhau thì không nhất thiết phải tuân theo các văn bản hướng dẫn này và hiện nay CQĐT và VKS vẫn chưa có hướng dẫn về vấn đề này. Vấn đề đặt ra là CQĐT, VKS xác định sai, hay bỏ sót thì cũng chưa đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT này vì pháp luật thiếu những quy định cụ thể và nếu tuân theo văn bản của HĐTP TANDTC thì (ii) bản thân các hướng dẫn này vẫn chưa bao quát hết các trường hợp có người đại diện của NTGTT (các vấn đề này chúng tôi xin phép được trình bày ở phần tiếp theo). Do vậy, để hoàn thiện vấn đề này, chúng ta nên xây dựng một điều luật về người đại diện
  • 26. 18 trong TTHS với tư cách là một loại NTGTT như LTTHS nhân dân Trung Hoa đã ghi nhận, nếu cần hướng dẫn về điều này thì các Cơ quan tư pháp trung ương nên ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất trong cả quá trình tố tụng, trừ các trường hợp cần hướng dẫn đặc thù cho một giai đoạn tố tụng. PLTTHS quy định những ai là NTGTT sẽ là cơ sở pháp lý để họ TGTT (họ có tư cách) và cũng là thừa nhận vai trò và vị trí của họ trong việc giải quyết vụ án, trong đấu tranh phòng chống tội phạm, trong việc bảo vệ quyền con người. Nhưng để bảo đảm thực sự về mặt pháp lý thì không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện đầy đủ diện TGTT mà quyền, nghĩa vụ (có những giới hạn) cần phải được quy định, đặc biệt những quyền đó phải được bảo đảm và thực hiện trên thực tế. Đây là đòi hỏi tất yếu và khách quan để NTGTT bảo vệ quyền và lợi ích của mình, để phát huy tính chủ động, tích cực khi tham gia giải quyết vụ án. Việc tham gia cũng như quyền và nghĩa vụ của NTGTT còn có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện sự giám sát hoạt động tố tụng của CQTHTT, NTGTT. Để bảo vệ quyền con người trong TTHS luôn gắn với yêu cầu về thủ tục pháp lý chặt chẽ (“Due process of law”), về tố tụng công bằng. Đó là yêu cầu không thể thiếu được đối với tiến trình pháp lý nhằm xác lập sự cân bằng cần thiết giữa các bên khi thực hiện các nỗ lực để bảo vệ quan điểm, quyền và lợi ích của mình. Yếu tố “công bằng”, “công minh” vì thế là biểu tượng chung, bao trùm của một nền tư pháp, là bản tính của nền tư pháp. Trong đó yêu cầu về sự đối xử công bằng, có vị trí pháp lý, có các cơ hội pháp lý công bằng giữa các bên trong tố tụng. Mặc dù TTHS thực chất là mối quan hệ quyền lực, trong đó bên có quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế là Nhà nước mà đại diện là các CQTHTT, người có thẩm quyền THTT để “phát hiện”, “xử lý”, để “không bỏ lọt tội phạm” và “không làm oan người vô tội”, đề bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, các lợi ích Nhà nước, “trật tự pháp luật”, “quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức” và những quy định của PLTTHS Việt Nam hiện hành đang ở trạng thái tạo ra sự chủ quan cho chủ thể đi tìm sự thật của VAHS. Mặt dù pháp luật có xác định phải xử lý công minh, không làm oan người vô tội, nhưng đứng ở vị trí thế độc quyền chân lý, sự chủ quan là
  • 27. 19 không tránh khỏi. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo là những người thuộc phía yếu thế. Yếu thế, bởi vì, trong quan hệ này, quyền lực nhằm vào họ, họ phải đối mặt với cả bộ máy các cơ quan nhà nước buộc tội họ với đội ngũ cán bộ được trả lương và cung cấp các trang thiết bị cần thiết, có các kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức pháp luật. Việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội với nội dung: bị can, bị cáo phải được coi là vô tội khi mà lỗi của bị can, bị cáo đó chưa được chứng minh theo một trình tự do pháp luật quy định và được xác định bởi một bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đây là nguyên tắc “kinh điển” nhất của TTHS được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” và cùng với đó quyền im lặng hay quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội là sự bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng; Tố tụng công bằng luôn đòi hỏi PLTTHS phải bảo đảm và hoàn thiện các quyền của người bị buộc tội “bình đẳng” nhất định với bên buộc tội. Nếu xem xét dưới một vụ kiện trong tố tụng thì các bên phải đưa ra các tài liệu chứng cứ… để chứng minh rằng yêu cầu, phản bác, lập luận của mình có cơ sở và có căn cứ. Ở khía cạnh nào đó TTHS cũng cần như vậy, việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ, đồ vật có liên quan đến vụ án cần phải được bình đẳng giữa các bên (bên buộc tội và bên bào chữa). Hiện nay, theo quy định của LTTHS Việt Nam việc thu thập, đánh giá chứng cứ, đưa ra chứng cứ là “đặc quyền” của CQTHTT, NTHTT điều này là thật vô lý khi chúng ta đã xem nhẹ thuộc tính của chứng cứ (là là những gì có thật, tức là nó tồn tại một cách khách quan) mà chỉ đề cao đến chủ thể thu thập chứng cứ đồng nghĩa rằng các CQTHTT luôn công tâm và khách quan trong việc này! Khi CQTHTT, NTHTT đưa
  • 28. 20 ra những tài liệu, chứng cứ, đồ vật, yêu cầu để chứng minh làm căn cứ của mình thì bên bị buộc tội và người bào chữa của họ, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền lợi, và lợi ích của những người này chỉ có quyền đưa tài liệu, đồ vật và yêu cầu chứ không được quyền đưa ra chứng cứ; không được đưa ra ý kiến của mình đối với tài liệu, chứng cứ mà CQTTHT, NTHTT đưa ra. Đây là quy định thể hiện sự bất bình đẳng và không có cơ sở khoa học. Do vậy, cần phải ghi nhận thêm quyền đưa ra chứng cứ; quyền đưa ra ý kiến về đồ vật, chứng cứ của những NTGTT và tất cả các CQTHTT, NTHTT và NTGTT tôn trọng và đánh giá lại một cách khách quan khi có ý kiến không đồng ý, trái chiều về một tài liệu, chứng cứ. Đối với người bị tạm giữ, bị can bị cáo thì có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa, còn đối với người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thì có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là một trong những quyền cơ bản và quan trọng của những NTGTT liên quan trực tiếp đến giải quyết vụ án nhưng nó cần phải được bảo đảm thực hiện hơn là sự ghi nhận đơn thuần. Đặc biệt đối với bị can, bị cáo có thể bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn và khó có khả năng bình đẳng với bên buộc tội trong việc chứng minh, thu thập chứng cứ. Bị can, bị cáo để họ tự thực hiện tự bào chữa thì họ phải được tiếp cận các tài liệu có có liên quan như đọc, ghi chép tài liệu,chứng cứ liên quan đến buộc tội hay gỡ tội khi kết thúc điều tra nhưng pháp luật hiện hành lại bỏ sót vấn đề này đây là sự thiếu sót lớn, đã có nhiều ý kiến cho rằng, việc bị can bị cáo được tiếp cận những tài liệu này của CQTHT sẽ cản trở quá trình điều tra, gây khó khăn cho CQTTTH nhưng theo chúng tôi, việc tiếp cận này không cản trở mà nó cho thấy nền tố tụng công bằng và minh bạch. Mặt khác, quyền của người bào chữa là do phái sinh từ quyền tự bào chữa của người bị buộc tội trong khi đó người bào chữa được tạo điều kiện đọc, ghi, chép tài liệu liên quan đến việc buộc tội mà người bị can, bị cáo thì không có quyền này là sự vô lý. Do vậy, pháp luật cần phải quy định và bảo đảm quyền này được thực hiện.
  • 29. 21 Trong tố tụng nói chung và TTHS nói riêng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự (trong đó có Luật sư). Họ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội, trong bảo vệ quyền và lợi ích các tổ chức, cá nhân.... dưới góc độ tố tụng, khi tham gia họ không chỉ là sự trợ giúp về mặt pháp lý (đặc biệt là Luật sự), mà còn là điểm tựa về tâm lý giúp họ tự tin, bình tĩnh khi trình bày, tránh gây bất lợi cho mình…. Hiện nay, PLTTHS chỉ ghi nhận những người tham gia trực tiếp VAHS có quyền nhờ bào chữa, người bào vệ và đã có ý kiến nên bổ sung thêm người làm chứng cũng có quyền này nếu họ mong muốn, nguyện vọng. Chúng tôi, đồng tình với quan điểm này việc bổ sung quyền này vì đây cũng là quyền con người, quyền công dân, pháp luật hiện hành không quy định nhưng cũng không cấm,… thiết nghĩ khi có Luật sư, có người hiểu biết pháp luật đi cùng cũng không ảnh hưởng đến những lời trình bày của người làm chứng, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Việc tham gia của người bào chữa, của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự, hay người trợ hỗ trợ của người làm chứng là phái sinh từ các quyền bào chữa, quyền tự bảo vệ hay quyền được hỗ trợ của NTGTT nhưng sự phái sinh đó xuất phát từ chính ý chí, nguyện vọng của NTGTT và để có nền tố tụng công bằng và khách quan thì họ phải chỉ có các quyền tố tụng, đặc biệt là thu thập, đưa ra và đánh giá chứng cứ, đồ vật, tranh luận… và cần tự tôn trọng, bảo đảm khi thực hiện các quyền này từ pháp luật, từ các các cơ quan tố tụng, NTHTT. Trên đây là những vấn đề quan trọng, đặt nền tảng khi quy định về địa vị pháp lý của những NTGTTT, những vấn đề về quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào tố tụng của những NGTT hiện nay còn nhiều vướng mắc bất cập sẽ được đề cập, luận bàn tại các phần tiếp theo của luận văn 1.2 Phân loại những ngƣời tham gia tố tụng Phân loại NTGTT có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đóng góp về mặt lý luận, xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật. Hiện nay có nhiều cách phân loại NTGTT, sau đây tác giả xin nêu một số căn cứ phân loại: - Căn cứ vào chức năng tố tụng
  • 30. 22 Tính chất của TTHS là truy tố tội phạm và người phạm tội; bào chữa của bị can bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Dưới khía cạnh nghiên cứu của PLTTHS Việt Nam cũng có thể nhóm những NTGTT vào các chức năng tố tụng tương ứng: - Cùng với CQTHTT và NTHHT thì người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan và những người đại diện cho họ là những NTGTT với tư cách là chủ thể buộc tội. Điều này được thể hiện rõ nét nhất là việc người bị hại có quyền quyết định đề nghị khởi tố VAHS hay không? (trong các trường hợp luật định); họ giữa vai trò quan trọng trong giải quyết VAHS nhất là trong những vụ án, quyết định TNHS liên quan đến thiệt hại mà bị can, bị cáo gây ra. + NTGTT với tư cách là chủ thể gỡ tội: người bị bắt, bị can, bị cáo, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan và người đại diện của họ, người bào chữa. CQTHTT và NTHTT nhân danh, đại diện cho nhà nước “xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ”, trong đó trách nhiệm “làm rõ những chứng cứ xác định là có tội và chứng tứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”. Bị can, bị cáo là những chủ thể bị các CQTHTT và NTHTT nhắm vào nhưng do họ chỉ mới là người bị tình nghi họ nên họ cần sự bình đẳng, vẫn có quyền nhất định và cần sự bảo đảm và tiếp cận với chứng cứ mà CQTHTT, NTHTT đưa ra, hay được thu thập và đưa ra những chứng cứ có lợi cho mình, cũng như quyền tự bào chữa hay nhờ người khác bào chữa… để bảo vệ mình. + Chủ thể thực hiện chức năng xét xử và đồng thời là những NTHTT tại phiên tòa. Thuộc nhóm này chỉ có Thẩm phán và Hội thẩm - thành viên của hội đồng xét xử. Chủ thể này không có NTGTT, những người còn lại sẽ được nhóm vào chủ thể thứ tư: NTGTT với tư cách chủ thể thực hiện chức năng phục vụ xét xử: người làm chứng, người giám định người phiên dịch. Đây là những chủ thể không có quyền lợi liên quan đến vụ án và là những NTGTT để giúp cho Tòa án xét xử bảo đảm một cách khách quan trong việc xác định sự thật về vụ án [8, tr.8].
  • 31. 23 Như phần đầu tác giả đã trình bày, chia vào chức năng tố tụng thành các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng thì những người như người làm chứng, người phiên dịch, người giám định là thuộc vào chủ thể nào trong ba bên của quan hệ tố tụng và đây dường như đã giải quyết vấn đề này một cách hợp lý, nhưng xét về mặt lý luận cũng cần xem lại. Theo chúng tôi cách phân loại này chỉ phù hợp với những nước theo mô hình tranh tụng, pháp luật không có khái niện về NTGTT riêng biệt. Mặt khác, với cách phân loại này người làm chứng, người phiên dịch, người giám định dường như không được đề cập đến. Khi nghiên cứu pháp luật TTHS về các nước theo mô hình này thì vẫn được quy định trong luật phải chăng những người này không phải NTGTT? Do vậy, cách phân loại này chưa phù hợp với pháp luật Việt Nam và cần phải nghiên cứu thêm về cách phân loại này. - Căn cứ quyền và nghĩa vụ của NTGTT đối với việc giải quyết vụ án NTGTT được chia thành: + NTGTT có quyền lợi liên quan đến vụ án bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ịch hợp pháp của đương sự. + NTGTT theo nghĩa vụ pháp lý: người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. [25, tr.186-187]: Theo quan điểm của tác giả, việc phân loại này thực sự chưa hợp lý. Thứ nhất, khi đưa người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự vào nhóm NTGTT có quyền lợi liên quan đến vụ án mặc dù người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng là để bảo vệ quyền của người bị tạm giữ, bị can bị cáo hoặc những NTGTT nên quyền của họ chỉ là quyền và nghĩa vụ phái sinh [25, tr.187] nhưng khi người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự tham gia vào tố tụng thì họ có những quyền và nghĩa vụ pháp lý độc lập trong tố tụng hình sự; Thứ hai, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch theo chúng tôi ba loại người này được
  • 32. 24 đưa vào một nhóm và lấy tên gọi là NTGTT theo nghĩa vụ pháp lý [53], [58] với các lập luận rằng họ là những người bắt buộc phải TGTT theo yêu cầu của CQTHTT, họ có trách nhiệm cung cấp cho các CQTHTT tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Nếu họ không thực hiện quy định của PLTTHS đặt ra đối với họ thì họ có thể phải chịu các biện pháp cưỡng chế Nhà nước hoặc phải chịu TNHS theo luật định. Chúng tôi không phủ nhận những trách nhiệm của họ trong giải quyết VAHS, nhưng pháp luật thực định không hoàn toàn quy định họ chỉ có nghĩa, vụ có trách nhiệm mà họ còn có quyền như quyền từ chối- “có lý do chính đáng”. Bởi vậy, nên chăng lấy tên cho nhóm người này là NTGTT góp phần thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng chính xác và khách quan [67, tr.129-130] theo quan điểm của TS Nguyễn Văn Tuân là hợp lý, Như vậy sẽ phản ánh đầy đủ bản chất của những người này tham gia vào giải quyết VAHS. Từ các nhận định trên, tác giả đề xuất phân loại NTGTT theo quyền, nghĩa vụ pháp lý như sau: + NTGTT liên quan trực tiếp đến vụ án: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người bị hại, đương sự (nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án) và mở rộng ra đối với diện người mới như: người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt… + Người bào chữa và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố. + NTGTT góp phần thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng chính xác và khách quan (hay người tham gia tố tụng khác): người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, người tố giác, báo tinh về tội phạm, kiến nghị khởi tố. 1.3 Khái quát lịch sử pháp luật Việt Nam về ngƣời tham gia tố tụng từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay 1.3.1. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến khi có Bộ luật tố tụng năm 1988
  • 33. 25 Sau cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân Chủ cộng hòa ra đời, chính quyền nhân dân non trẻ phải đối mặt với những chồng chất khó khăn thù trong giặc ngoài. Quyền và nghĩa vụ NTGTT trong TTHS sự mới chỉ được thể hiện trong Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật khác nhau. Chẳng hạn trong thời kỳ tòan quốc kháng chiến: sắc lệnh số 69/SL ngày 16/08/1949, quy định về một số NTGTT như bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại đã được đề cập và đã cho phép các bị can có thể nhờ một số công dân không phải là Luật sư bênh vực trước tòa án. Đây là những quy định hết sức tiến bộ, bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo [65, tr.72]; sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 quy định về người bị hại (Điều 18); Nghị định số 01/NĐ ngày 12/01/1950 của Bộ Tư pháp đã quy định “công dân được cử ra hay được thừa nhận bào chữa trước tòa án phải có đủ các điều kiện sau đây: có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và chưa can án” (Điều 1), Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Điều 4 Nghị định: người bào chữa được cử ra hoặc thừa nhận để bào chữa có quyền đến phòng lục sự xem và chép hồ sơ [65, tr.76] Sau khi nước ta đánh đuổi Thực dân Pháp năm 1954, đất nước bị chia cắt thành hai miền, Miền Bắc đổi tên thành Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa- thời kỳ xây dựng XHCN, còn Miền Nam là nhà nước Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Cộng hòa. Trong khi Cộng hòa Miền Nam Việt Nam không có những điểm nổi bật về pháp luật nói chung và luật TTHS nói riêng, PLTTHS ở Miền Bắc XHCN tiếp tục hoàn thiện về NTGTT hình sự trong thời kỳ mới này. Đầu tiên phải kể đến quy định bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (quyền bình đẳng của những NTGTT trong việc bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình) tại Điều 22 Hiến pháp năm 1959, tại Điều 5 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày 15-7-1960; mọi người phạm tội đều phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà nước [65, tr.82], Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại của công dân Điều 27, 28, 29 của Hiến pháp năm 1959 và Điều 1 luật số 103/SL-L005 ngày 20-5-1957; Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo tại Điều 101 Hiến pháp năm 1959, Điều 7 Luật tổ chức Tòa án nhân dân ngày
  • 34. 26 14/7/1960. Ngoài việc bảo chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình, bị cáo cũng có thể nhờ công dân được đoàn thể giới thiệu hoặc được tòa án nhân dân chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, tòa án nhân dân chủ động chỉ định người bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, PLTTHS thời kỳ này chưa quy định cụ thể những trường hợp nào là cần thiết, dẫn đến khó áp dụng pháp luật một cách thống nhất [65, tr. 84] Về NTGTT: trong bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm kèm theo Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã quy định: “để bảo vệ việc xét xử được chính xác, cần xác định rõ tư cách của những NTGTT và những quyền của họ. Tư cách của người TGTT khác nhau thì quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác nhau” Trong thời kỳ này, PLTTHS đã quy định về địa vị pháp lý của bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có trách nhiệm bồi thường người có tài sản, quyền lợi có liên quan, người đại diện của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, của người có trách nhiệm bồi thường và của người có tài sản quyền lợi có liên quan, địa vị pháp lý của đại diện cơ đoàn thể trong tố tụng [65, tr.90]. Tại thông tư này có một vài điểm sau: Thứ nhất, PLTTHS chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm bị can mà chỉ đề cập khái niệm bị cáo, quyền và nghĩa vụ của bị cáo. Thứ hai, Người bào chữa quyền hạn và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định trong đề án về quyền bào chữa của bị cáo do Hội nghị tư pháp họp ở Bộ Tư Pháp thông qua ngày 20/6/1956: “bị cáo nhờ người bào chữa là để giúp đỡ bị cáo thực hiện các quyền lợi về tố tụng và bênh vực bị cáo, do đó khi chấp hành nghĩa vụ, người bào chữa cho bị cáo cũng được hưởng đầy đủ quyền hạn về tố tụng như bị cáo. Người bào chữa là người bênh vực quyền lợi hợp pháp của bị cáo và đồng thời lại là người kiên quyết bảo vệ pháp luật, chính sách của Nhà nước [65, tr. 92] Thứ ba, đã đưa ra được định nghĩa pháp lý về người bi hại, nguyên đơn dân sự (trong thời kỳ này được gọi là “dân sự nguyên cáo”), bị đơn dân (thời kỳ này gọi là „người có trách nhiệm bồi thường nghĩa vụ pháp lý”), người có quyền lợi và nghĩa
  • 35. 27 vụ liên quan (thời kỳ này được gọi là “người có tài sản quyền lợi liên quan đến việc phạm pháp”), đồng thời cũng quy định về một số quyền và nghĩa vụ của những người này, trong văn bản này, cũng đã đề cập đến trường hợp người đại diện của những NTGTT đã nêu. 1.3.2 Nhữngngười tham gia tố tụng từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 cho đến khi ban hành Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 BLTTHS 2003 là BLTTHS đầu tiên của nhà nước ta. Nếu PLTTHS thời kỳ trước đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật TTHS đơn hành, thì việc pháp điển hóa về TTHS lần này đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp TTHS nước ta [65, tr.148] BLTTHS 1988 gồm 07 phần, 32 chương với 286 điều. NTGTT được quy định chương III bao gồm 11 diện người sau đó trong lần sửa đổi bổ sung BLTTHS vào năm 1990 đã bổ sung mới một diện người nữa- “người bảo vệ quyền của đương sự” (Điều 42a) thành 12 diện người: bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Về mặt nội dung: lần đầu tiên trong BLTTHS đưa định nghĩa pháp lý của khái niệm bị can, bị cáo: “bị can là người bị khởi tố về hình sự, bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án xét xử” (Điều 34 BLTTHS 1988) và định nghĩa khái niệm người bị tạm giữ và địa vị pháp lý của người bị tạm giữ đã được quy định. Ngoài ra BLTTHS 1988 còn quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, điều mà PLTTHS trong thời kỳ trước chưa quy định [65, tr.158-159] 1.3.3 Những người tham gia tố tụng từ khi ban hành Bộ luật Tố tụng năm 2003 cho đến khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 BLTTHS 2003 thay thế BLTTHS 1988, là Bộ luật thứ hai về TTHS, Bộ luật này về cơ bản kế thừa kỹ thuật lập pháp như BLTTHS 1988, lược bỏ những quy định không còn phù hợp và bổ sung những quy định mới, tiến bộ trong PLTTHS, trong đó có quy định về NTGTT.
  • 36. 28 Về hình thức, BLTTHS 2003 vẫn quy định về NTGTT thành một chương- chương IV (từ Điều 48 đến Điều 61) bao gồm 12 diện (loại) người: bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị tạm giữ, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Về mặt nội dung, BLTTHS 2003 đã quy định đầy đủ, cụ thể, rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những NTGTT, đặc biệt là mở rộng quyền của người bào chữa và trong việc thu thập chứng cứ, sao chép tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan tổ chức, cá nhân, theo yêu cầu của người tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Người bào chữa được tham gia từ thời điểm sớm hơn so với BLTTHS 1988, cụ thể là đối với trường hợp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì người bào chữa TGTT từ khi có quyết định tạm giữ. BLTTHS cũng đã tách quy định về bị can, bị cáo thành hai điều luật riêng là Điều 49 quy định về địa vị pháp lý của bị can, và Điều 50 quy định về địa vị pháp lý của bị cáo [47, tr 39-40] 1.4. Những ngƣời tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số nƣớ c trên thế giớ i Mặc dù, tại mô hình tố tụng tranh tụng không có khái niệm “người tham gia tố tụng”. Điều này khác với PLTTHS Việt Nam và mô hình tố tụng thẩm vấn [25, tr.187]. Trong luận văn này tác giả nghiên cứu NTGTT được tách từ chủ thể tố tụng hình sự - người tham gia không mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước nên ngay chính mô hình tố tụng không có “người tham gia tố tụng” với mục đích để nghiên cứu và so sánh với PLTTHS Việt Nam 1.4.1 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thông qua tại Kỳ họp thứ hai Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 5 ngày 01 tháng 7 năm 1979, và được sửa đổi theo Quyết định sửa đổi Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hoà
  • 37. 29 nhân dân Trung Hoa thông qua tại Kỳ họp thứ tư Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 8 ngày 17 tháng 3 năm 1996. Sau khi tìm hiểu LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, LTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không quy định NTGTT thành một phần riêng (trừ quy định về người bào chữa và đại diện) mà quy định NTGTT theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện NGTT bao gồm: người bị tình nghi (các điều 14, 89, 93, 95), nghi can (các điều 32, 56, 57, 121), bị cáo (Điều 14, 32, 33, 35, 39, 56, 57, 154, 155, 160, 176), người bị hại (Điều 40, 77, 88, 121, 145, 155, 182), nguyên đơn dân sự (các điều 155, 184), bị đơn dân sự (các điều 155, 184), người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 154, 156, 159, 160), người làm chứng (các điều 37, 97, 98, 106, 156); người bào chữa (các Điều 35, 36, 37, 38, 98, 154, 156, 157, 159, 160, 175, 176); người giám định (các điều 119, 120, 154), người phiên dịch (Điều 154), tư tố viên (các Điều 140, 176, 180, 184), người đại diện (các Điều 14, 40, 180,182, 203); Thứ hai, Nếu căn cứ và quyền và nghĩa vụ của NTGTT thì BLTTHS phân chia thành: Người có quyền và nghĩa vụ: người bị tình nghi, nghi can, bị cáo, người làm chứng, người bào chữa Người có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người phiên dịch, tư tố viên, người đại diện Thứ ba, LTTHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có một số NTGTT với một vài điểm khác biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam): Một là, Người bào chữa gồm: luật sư, người do tổ chức hoặc đơn vị công tác của bị cáo đề nghị, người giám hộ hoặc họ hàng và bạn bè của bị can bị cáo.
  • 38. 30 Hai là, Tư tố viên Ba là, Người đại diện, được quy định thành một điều độc lập với các quyền sau đây: được thông báo về thời gian và địa điểm thẩm vấn; được yêu cầu những người tiến hành, NTGTT không được tham gia tố tụng; được chỉ định người đại diện TGTT tại bất kỳ thời điểm nào; yêu cầu có được người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; người đại diện theo pháp luật của người bị hại bị chết hoặc mất năng lực hành vi có quyền đưa vụ án tư tố ra trước tòa; kháng cáo bản án, nộp đơn yêu cầu xem xét hiệu lực pháp lý của bản án. 1.4.2. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên Bang Nga BLTTHS Liên Bang Nga, được Duma Quốc gia thông qua ngày 22 tháng 11 năm 2001, được các lần sửa đổi, bổ sung qua các năm bởi Luật liên Bang (tính đến năm 2006). Sau khi tìm hiểu BLTTHS Liên Bang Nga có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, BLTTHS Liên Bang Nga quy định về NTGTT ở các mục: Mục 6 về các chủ thể TGTT thuộc bên buộc tội, Mục 7 về các chủ thể TGTT thuộc bên bào chữa và Mục 8 những chủ thể khác TGTT hình sự. Theo quy định trong 3 mục này thì NTGTT bao gồm: người bị hại (Điều 42), tư tố viên (Điều 43 BLTTHS); nguyên đơn dân sự (Điều 44), người đại diện (người bị hại, nguyên đơn dân sự và tư tố viên), người bị tình nghi (Điều 46), bị can, người đại diện hợp pháp của người bị tình nghi và của bị can là người chưa thành niên, người bào chữa (từ Điều 49 đến Điều 53), bị đơn dân sự (Điều 54), người giám định (Điều 57 BLTTHS), nhà chuyên môn (Điều 58), người phiên dịch (Điều 59), người chứng kiến; người làm chứng (Điều 56). Thứ hai, Hầu hết các diện NTGTT đều được định nghĩa pháp lý để nhận diện và làm cơ sở để phân biệt giữa những NTGTT này. Thứ ba, Căn cứ vào quyền, nghĩa vụ của NTGTT, BLTTHS Liên Bang Nga chia thành:
  • 39. 31 NTGTT có cả quyền và nghĩa vụ: người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng, người bào chữa, người giám định, người phiên dịch, tư tố viên NTGTT có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): người bị tình nghi, người đại diện Thứ tư, So với pháp luật TTHS của một số nước, thì BLTTHS Liên Bang Nga quy định một số diện người đặc biệt: nhà chuyên môn, người chứng kiến Thứ năm, BLTTHS Liên Bang Nga quy định về Người bào chữa với một vài điểm khác biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam): người bào chữa bao gồm: luật sư, người họ hàng thân thích của bị can, bị cáo hoặc người khác có thể được chấp nhận được. Một người không thể đồng thời là người bào chữa cho hai hay nhiều người bị tình nghi hoặc bị can nếu lợi ích của họ đối lập nhau; Các trường hợp phải có người bào chữa: người bị tình nghi, bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chết hoặc tâm thần; người bị tình nghi, bị can không sử dụng thành thạo ngôn ngữ dùng trong tố tụng; người bị buộc tội trong thực hiện tội phạm mà có thể bị xử phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án với sự tham gia của bồi thẩm đoàn; bị can đề nghị xét xử vụ án theo thủ tục quy định của Bộ luật này. 1.4.3. Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên Bang Đức Sau khi tìm hiểu BLTTHS Liên Bang Đức có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, BLTTHS Liên Bang Đức không quy định NTGTT thành một phần riêng (trừ quy định về người làm chứng, người giám định và người bào chữa) mà quy định những NTGTT theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện NTGTT bao gồm: bị can (các Điều 146.148, 163, 382 BLTTHS), bị cáo (các điều 133, 136.137,138,170, 201,216, 219, người bào chữa (các Điều 138, 168, 218, 222, 224,
  • 40. 32 233, 297, 364), tư tố viên (các Điều 24, 74, 379, 285, 286, 396), người bị hại, người làm chứng (các Điều 51, 70, 71, 286, 304); chuyên gia (người giám định) (các Điều 73, 74, 75, 84, 161), người phiên dịch ( Điều 259 và 465) Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Liên Bang Đức NTGTT được chia thành: TGTTT có quyền và nghĩa vụ: người làm chứng; NTGTT chỉ quy định về quyền: bị can, bị cáo, người bị hại, người bào chữa, người phiên dịch, tư tố viên Thứ ba, BLTTHS Liên Bang Đức quy định về người bào chữa với một vài điểm khác biệt (theo quan điểm của chúng tôi khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam): Một là, Người bào chữa bao gồm: luật sư, các giáo sư giảng dạy luật tại các trường đại học luật của Đức, những người khác được chấp nhận khi có sự đồng ý của tòa án Hai là, Các trường hợp phải có người bào chữa: nhân chứng không thể thực hiện quyền của mình trong quá trình lấy lời khai và các lợi ích không được xem xét đến trong các tội do bộ luật hình sự quy định phiên tòa xét xử chính theo thủ tục sơ thẩm; bị cáo bị truy tố về một tội nghiêm trọng; việc xét xử chính có thể dẫn đến lệnh cấm làm một công việc nhất định; bị cáo đã bị giam giữ ít nhất 3 tháng và không được trả tự do ít nhất trước hai tuần khi bắt đầu phiên tòa xét xử chính; bị cáo có khả năng bị tòa án kết luận là tâm thần. Ba là, Người bào chữa bị thay đổi khi có căn cứ hoặc bị nghi ngờ liên quan đến tội phạm là đối tượng của việc điều tra; đã lợi dụng việc thông tin với bị can đang bị cách ly với mục đích thực hiện hành vi phạm tội hoặc gây nguy hại đáng kể cho an ninh nơi giam giữ; đã thực hiện hành vi phạm tội mà trong trường hơp bị can bị kết tội cấu thành hành vi đồng phạm, cản trở công lý hoặc tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có; có căn cứ cho rằng việc tham gia của luật sư sẽ ảnh hưởng tới an ninh quốc gia.
  • 41. 33 Bốn là, Người bào chữa không được tham gia bào chữa cho nhiều người bị truy tố về cùng một tội danh cũng như nhiều người bị truy tố về các tội danh khác nhau. 1.4.4 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp Sau khi tìm hiểu BLTTHS Cộng Hòa Pháp có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, BLTTHS Cộng hòa Pháp không quy định NTGTT trong một phần riêng mà quy định theo trình tự giải quyết vụ án theo đó diện NTGTT bao gồm: người bị bắt (Điều 627), người bị tạm giữ ( Điều 63 và Điều 77), Bị can (các Điều 148, 312, 344), bị cáo (các Điều 148, 159, 274, 278, 279, 380, 390, 407, 460, 478, 489, 497), người bị hại (các Điều 80, 144, 344, 380, 380, 393, 420, 495), người làm chứng (các Điều 310, 335, 437,438, 440, 441, 446), nhân chứng bổ trợ (Điều 113, 183), nguyên đơn dân sự (các Điều 379,372, 375, 418, 424, 478, 497), chuyên gia (giám định viên) (từ điều 156 đến 169 ), người phiên dịch (Điều 408), người bào chữa (các Điều 113, 393, 417, 442). Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Cộng hòa Pháp có phân NTGTT thành: NTGTT có cả quyền và nghĩa vụ: bị can, bị cáo: người bào chữa, người giám định NTGTT có quyền (không thấy quy định về nghĩa vụ): tạm giữ, bị hại, người bị hại, nguyên đơn dân sự. NTGTT có nghĩa vụ (không thấy quy định về quyền): người làm chứng, người phiên dịch (mà chỉ quy định người phiên dịch không thể được chọn từ các thẩm phán là thành viên của Tòa án, các Bồi thẩm viên, các bên hoặc các nhân chứng) Thứ ba, BLTTHS Cộng hòa Pháp có một số NTGTT với một vài điểm khác biệt (theo quan điểm của tác giả khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam) So với Pháp luật TTHS một số nước, BLTTHS Cộng hòa Pháp là quy định: người bị bắt, nhân chứng bổ trợ.
  • 42. 34 1.4.5 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Vương Quốc Anh Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh được thông qua ngày 04 tháng 07 năm 1996. Sau khi tìm hiểu Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh không quy định NTGTT trong một phần riêng mà quy định theo trình tự giải quyết vụ án, theo đó diện TGTT bao gồm: bị can (Điều 3, 4, 5, 6), nhân chứng (các Điều 51, 65, 66), người bào chữa (Điều 60). Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, Luật điều tra và TTHS Vương Quốc Anh có phân định NTGTT thành: NTGTT có quyền và nghĩa vụ: bị can, bị can, người làm chứng NTGTT có nghĩa vụ: người bào chữa (nghĩa vụ chứng minh vào thời điểm phạm tội người bị cáo buộc không nhận thức được, không bị nghi ngờ hoặc có lý do để nghi ngờ thực hiện các tội phạm có liên quan đến ấn phẩm hoặc các chương trình có liên quan) 1.4.6 Những người tham gia tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhật Bản BLTTHS Nhật Bản được ban hành từ năm 1948 (Luật số 131 ngày 10/7/1948, có hiệu lực từ năm 1949) và sửa đổi, bổ sung vào các năm 2004. Sau khi tìm hiểu BLTTHS Nhật bản có một vài điểm liên quan đến quy định NTGTT như sau: Thứ nhất, BLTTHS Nhật bản không quy định NTGTT thành một phần riêng mà quy định trong các thành phần khác nhau của Bộ luật, theo đó diện NTGTT bao gồm: nghi can (tại các điều 350 và 461), chuyên gia (người giám định) (từ Điều 165 đến 174); người phiên dịch (các điều 175, 177), người bào chữa, bị can tại các điều 30, 31, 39, 180, 353), bị cáo (tại các điều 17, 21, 30, 31, 39, 68, 82, 87, 113, 157, 180, 203, 204)
  • 43. 35 Thứ hai, căn cứ vào quyền, nghĩa vụ, BLTTHS Nhật Bản có phân định NTGTT thành: NTGTT Có quyền và nghĩa vụ: nghi can (người bị tình nghi), bị can, bị cáo, người giám định. NTGTT có quyền: người bào chữa Thứ ba, BLTTHS Nhật bản có quy định về một số NTGTT với một vài điểm khác biệt (theo quan điểm của chúng tôi khi đối chiếu so sánh với PLTTHS Việt Nam): Một là, về người bào chữa. Người bào chữa bao gồm: Luật sư, những người khác được Tòa án chấp nhận Các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa: bị cáo là người chưa thành niên, bị câm, điếc; bị cáo là từ đủ mười bẩy tuổi trở lên; khi có nghi ngờ bị cáo bị tâm thần hoặc không có khả năng nhận thức; bị cao không thể chỉ định người bào chữa mà yêu cầu nhà nước chỉ định người bào chữa. Các trường hợp Tòa án không chấp nhận bào chữa: cần cần đoàn luật sư phân công vì bị cáo đã chỉ định luật sư; lợi ích củ bị cáo và người bào chữa là đối nghịch nhau; người bào chữa bị khiếm khuyết về thể chất, tâm thần hoặc lý do khác không thể thực hiện được nhiệm vụ, gặp khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ; người bào chữa vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ; người bào chữa bị đe dọa hoặc bị tấn công. Số lượng người bào chữa do Tòa án giới hạn Hai là, đối với người phiên dịch BLTTHS Nhật bản không quy định về quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch mà chỉ quy định các trường hợp sau phải có người phiên dịch: người không biết tiếng Nhật, người câm hoặc điếc.