SlideShare a Scribd company logo
1 of 61
1
BỘ CÔNG AN
HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN
NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Luật
HÀ NỘI, 2022
2
BỘ CÔNG AN
HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Luật
Họ tên sinh viên: Nguyễn Việt Phương
Lớp: L2 Khóa: K3
Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Hải Âu
HÀ NỘI, 2022
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của bản
thân tôi. Các thông tin, số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, chính xác
do Cơ quan ... cung cấp. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng, kết
quả nghiên cứu của khóa luận không sao chép bất kỳ công trình nào.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỉ luật.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Sinh viên
Nguyễn Việt Phương
4
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Từ được viết tắt
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX Hội đồng xét xử
KTQT Kinh tế quốc tế
KSXX Kiểm sát xét xử phúc thẩm
NN Nhà nước
QLNN Quản lý Nhà nước
QCN Quyền con người
TA Tòa án
THTT Tiến hành tố tụng
THQCT Thực hành quyền công tố
VAHS Vụ án hình sự
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
5
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại
những chuyển biến hết sức tích cực: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được
tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện,
nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được bảo
đảm. Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền con người được xem là thước đo
sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị,
trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc đảm bảo tốt hơn quyền con người là
mục tiêu hướng tới của mình để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân.
Quận Nam Từ Liêm là một trong 12 quận nội thành của thành phố Hà
Nội, nằm phía Tây của thủ đô, giáp với nhiều quận khác của trung tâm thành
phố Hà Nội, quận được coi là địa bàn phức tạp về các loại tội phạm, có vị trí hết
sức quan trọng trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Những năm gần đây, lợi dụng đặc
điểm địa bàn tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc nói riêng hoạt động trên địa
bàn Nam Từ Liêm có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy
hiểm, phương thức thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, gây nhiều khó khăn cho công tác
phòng ngừa và đấu tranh. (có số liệu chứng minh)
Nhận thức được vai trò, trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân trong
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra đối với các loại tội phạm
nói chung và tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc nói riêng. Trong những
năm qua Viện Kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã tăng cường các biện
pháp trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với các vụ án tổ chức
đánh bạc, đánh bạc và đã thu được những kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó
vẫn còn những thiếu sót nhất định, hiệu quả chưa cao. Xuất phát từ thực tế trên,
trên cơ sở nghiên cứu các văn bản liên quan đến tội phạm tổ chức đánh bạc và
6
đánh bạc và thực tế quá trình sau 6 tháng thực tập tại quận Nam Từ Liêm, yêu
cầu đòi hỏi những lí luận và thực tiễn về nâng cao vai trò trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, tôi
đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án tổ chức đánh bạc và đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm
thành phố Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với các vụ
án nói chung và các vụ án về tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói riêng là vấn đề
quan trọng, đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Xung quanh vấn đề thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra theo chức năng
của Viện Kiểm sát nhân dân đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những
khía cạnh khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau, có thể kể đến như:
(Nêu một số công trình đã đề cập nghiên cứu)
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu, phân
tích về phòng chống tội phạm và hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân đối với các cơ quan chức năng trong phòng
chống tội phạm, luận giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn ở nhiều khía cạnh
khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn hoạt động thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa
bàn quận Nam Từ Liên vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống, chuyên sâu. Song, kết quả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu trên là
những tiền đề quan trọng để tôi tiếp cận, tiếp tục nghiên cứu ở góc độ chuyên
sâu trong tình hình mới.
Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị của các công trình
trên và để góp phần làm cụ thể hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc,
7
đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm. Đồng thời tìm ra những giải pháp cụ
thể mang tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền
công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn
quận Nam Từ Liêm trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài : Nghiên cứu, làm rõ những kiến thức
tổng quát về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ
chức đánh bạc, đánh bạc. Thực trạng tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc và
đánh bạc, kết quả phòng ngừa, đấu tranh, điều tra, truy tố, xét xử. Cũng như thực
trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức
đánh bạc, đánh bạc. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế,
thiếu sót; chỉ ra những nguyên nhân của những bạn chế, thiếu sót về hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh
bạc. Từ đó đưa ra các dự báo trong thời gian tới và đề xuất phương hướng, giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên khóa luận cần tập trung
giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Khái quát nhận thức chung các vấn đề liên quan đến hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc.
- Phân tích các quy định pháp luật về hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Kết quả các biện pháp
Viện Kiểm sát nhân dân đã tiến hành trong thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc.
- Nghiên cứu tình hình điều tra tội phạm và thực trạng hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên
địa bàn quận Nam Từ Liêm.
8
- Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên
địa bàn quận Nam Từ Liêm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện Kiểm sát nhân
dân, những vấn đề lý luận và thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Về nội dung: Tập trung vào qui định của pháp luật về hoạt động thực
hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc,
những vấn đề lý luận, thực tiễn. Thực trạng áp dụng pháp luật đối với hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc
theo chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân.
- Về địa bàn: Nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát
điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo chức năng của Viện Kiểm sát
nhân dân trên địa bàn quận Nam Từ Liêm.
- Về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến hết
năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, của Nhà nước và Pháp luật về
tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Đồng thời kế thừa có chọn lọc một số
công trình nghiên cứu liên quan.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên
cứu tài liệu; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh số liệu; phương pháp chuyên gia…
6. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài
9
- Ý nghĩa khoa học: Phát triển và bổ sung nhận thức lý luận về hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh
bạc. Góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về hoạt động của Viện
Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ
chức đánh bạc, đánh bạc. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động, học tập, nghiên cứu khoa học trong các
trường luật.
- Ý nghĩa thực tiễn: Các giải pháp mà đề tài đưa ra sẽ phần nào giúp các
cơ quan chức năng trên địa bàn tham khảo và vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng
cao hiệu quả trong chỉ đạo thực hiện đối với hoạt động thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, khóa luận chia thành chương:
Chương 1: Nhận thức chung về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra của Viện Kiểm sát nhân dân và thực trạng hoạt động thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận
Nam Từ Liêm
Chương 2: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc
của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm
Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ KIỂM SÁT
ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TRẠNG
HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
10
CÁC VỤ ÁN TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC, ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN NAM TỪ LIÊM
1.1. Nhận thức về điều tra tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc và
hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức
đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Nhận thức về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc và hoạt động
điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc
1.1.1.1. Khái niệm
Bộ luật Hình sự được Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2017 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bộ luật
Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức
tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với
người phạm tội. Xuất phát từ bản chất tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp
lý gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật thì trên thực tế việc xây
dựng các cơ sở pháp lý nhằm xử lý các hành vi phạm cho xã hội, đồng thời, đề
xuất các chế tài xử lý vi phạm nhằm xử lý các hành vi vi phạm là điều cần thiết.
Trên cơ sở vận hành hoạt động của nhà nước thì việc xây các chế định về luật
hình sự, tố tụng hình sự là điều rất cần thiết.
Theo quy định của BLHS 2015 được xây dựng và phát triển trên nền tảng
Hiến pháp 2013 với các quy định về quyền con người, quyền công dân để phù
hợp với sự phát triển của đất nước. Điều 3 Hiến pháp 2013 đã có các quy định
11
để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân1
nên khái niệm về tội phạm đã mở rộng hơn so với quy định của BLHS 1999, sửa
đổi bổ sung:
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự2
Như vậy, trên thực tế BLHS năm 2015 đã mở rộng 9 phạm vi chủ thể áp
dụng. Theo đó, chủ thể của tội phạm bao gồm cả: con người và pháp nhân
thương mại. Quy định trên cho thấy, pháp nhân thương mại trước hết phải là
pháp nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015 hiện hành. Từ khái niệm tội phạm, để tìm hiểu và phân tích cụ thể khái
niệm đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của các tội về tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo
quy định pháp luật hiện hành thì với điểm xuất phát là tệ nạn cờ bạc và có sự
gắn bó chặt chẽ với nhau.
Trên cơ sở khái niệm về tội phạm thì việc tìm hiểu khái niệm về đánh bạc
là tiền đề cơ bản để thì cần hiểu đánh bạc là gì? Đánh bạc là hành vi nguy hiểm
cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình và
cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội
phạm khác. Do vậy, tội phạm này được quy định trong Luật hình sự Việt Nam
rất sớm. Theo từ điển Pháp luật phổ thông của Trần Văn Thắng (chủ biên) thì
1
Hiến pháp 2013
2
Xem khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung
12
đánh bạc là “tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được thua
kèm theo việc được hoặc mất lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các
hình thức tài sản khác”3
. Như vậy, trong trò chơi đánh bạc thì sự thắng thua sẽ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như may rủi, tính toán, suy luận của người chơi.
Trên cơ sở đó thì có thể đưa ra khái niệm đánh bạc theo quy định tại Nghị quyết
số 01/2010/NQHĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999 như sau: “Đánh bạc trái
phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích
được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng
thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp”4
. Từ những phân
tích và cơ sở pháp lý trên có thể hiểu: “Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi
được tổ chức trái pháp luật (dưới bất kỳ hình thức nào), được thua bằng tiền hay
hiện vật từ năm triệu đồng trở lên, hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị kết án
về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến trật tự, an toàn công
cộng”. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tội phạm này là Sắc lệnh số 468
năm 1948. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, tội đánh bạc được quy định
trong Sắc luật số 03 năm 1976. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999,
tội đánh bạc đều được quy định thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng.
Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội đánh bạc được quy định cụ thể
hơn với những dấu hiệu cụ thể giúp việc phân biệt giữa đánh bạc là tội phạm và
đánh bạc là vi phạm cũng như với các dấu hiệu định khung hình phạt để phân
hoá trách nhiệm hình sự giữa các trường hợp phạm tội đánh bạc. Theo Bộ luật
3
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp Hà Nội
4
Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2010), Nghị quyết số 01/2010/NQHĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999.
13
hình sự năm 1999, hành vi đánh bạc chỉ bị coi là tội phạm khi tiền hoặc hiện vật
đánh bạc có giá trị lớn hoặc khi chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án
về hành vi cờ bạc (đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc), chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi đánh bạc chỉ bị coi là
tội phạm khi tiền hoặc hiện vật đánh bạc có giá trị lớn hoặc khi chủ thể đã bị xử
phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi cờ bạc (đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá
bạc), chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Đối với tội tổ chức đánh bạc, hành vi được mô tả trong các tội này gắn bó
chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc mang tính chất
hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc). Do vậy, để nghiên cứu khái niệm tội
tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong nhóm các tội đánh bạc. Tội tổ chức
đánh bạc đã được quy định tại BLHS năm 1985. Tuy nhiên, điều luật quy định
một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Đến
khi BLHS năm 1999 được thông qua và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội tổ
chức đánh bạc tiếp tục được quy định tại Điều 249, theo đó: “Người nào tổ chức
đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đã bị kết án
về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền
từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm
năm”5
. Đến BLHS năm 2015 đã có những quy định và các hình thức chế tài cụ
thể hơn cho các hành vi tổ chức đánh bạc, cụ thể, tại Điều 322 BLHS năm 2015
quy định, “người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong
các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản này thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
nếu phạm tội trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2
5
Điều BLHS 1999, sửa đổi bổ sung
14
Điều 322 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm” 6
. Trên cơ sở quy định của BLHS
2015, sửa đổi bổ sung thì có thể đưa ra khái niệm tổ chức đánh bạc như sau: Tổ
chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh bạc với
tư cách là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy người khác tham gia trò chơi có được
thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, tổ chức đánh
bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, thúc đẩy và tạo
điểu kiện cho hành vi đánh bạc là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình
và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội
phạm khác. Hay nói cách khác tổ chức đánh bạc, xét về bản chất là hành vi đồng
phạm đánh bạc thể hiện ở hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh
bạc nhưng có thêm dấu hiệu riêng là mục đích trục lợi. Đây là loại hành vi xảy
ra tương đối phổ biến cùng với hành vi đánh bạc. Do vậy, hành vi tổ chức đánh
bạc được quy định thành tội danh riêng.
1.1.1.2. Dấu hiệu đặc trưng và pháp lý của tội tổ chức đánh bạc, đánh
bạc
* Đối với tội tổ chức đánh bạc: Tổ chức đánh bạc, được hiểu là hành vi
tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người tham gia vào việc đánh bạc thì các yếu tố cấu
thành tội phạm được thể hiện như sau:
+ Về mặt khách quan
Đối với hành vi tổ chức đánh bạc thì có một trong các hành vi sau: có
hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người (từ hai người trở lên) tham gia đánh
bạc. Thông thường người đứng ra tổ chức có sự chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp kế
hoạch đánh bạc rồi mới tập hợp, rủ rê những người khác tham gia. Hành vi tổ
chức đánh bạc phải là trái phép, tức là không có giấy phép hoặc không đúng với
nội dung giấy phép.
6
Xem Điều 322 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung
15
Về các dấu hiệu khác thì ngoài dấu hiệu về hành vi nêu trên còn phải có
một trong hai dấu hiệu bắt buộc sau đây:
- Tổ chức đánh bạc với quy mô lớn.
- Tổ chức đánh bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở
lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên;
- Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt
trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công ngưòi canh
gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện
như ô tô, xe máy, điện thoại…để trợ giúp cho việc đánh bạc;
- Người thực hiện một trong các hành vi nêu trên nếu không thuộc trường
hợp được coi là có quy mô lớn thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành
chính về hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc bị kết
án về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu
thành cơ bản của tội này.
+ Về khách thể: Cũng như đối với tội hành nghề mê tín, dị đoan và tội
đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự công cộng, mà trực
tiếp xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì cờ bạc nói chung và
tổ chức hoặc gá bạc nói riêng cũng là một tệ nạn của xã hội.
+ Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Lỗi
cố ý là lỗi trong trường hợp chủ thể có ý thức lựa chọn hành vi phạm tội mặc dù
có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội. Lỗi cố ý là
một trong hai loại lỗi theo Luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi cố ý có tính
nguy hiểm cao hơn. Loại lỗi này đòi hỏi các dấu hiệu: (i) Hành vi khách quan
mà chủ thể thực hiện là hành vị có tính chất phạm tội (hành vi có các dấu hiệu
khách quan mà cấu thành tội phạm đòi hỏi); (ii) Chủ thể ý thức được tính chất
phạm tội của hành vi được thực hiện; (iii) Chủ thể đã lựa chọn hành vi có tính
16
chất phạm tội đó khi có điều kiện lựa chọn hành vị khác. Lỗi cố ý được luật hình
sự phân thành hai hình thức. Đó là lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Hai
hình thức lỗi này khác nhau ở lí do của việc chủ thể lựa chọn xử sự phạm tội. Cố
ý trực tiếp là trường hợp cố ý, trong đó, chủ thể lựa chọn xử sự phạm tội vì xử
sự đó phù hợp với mục đích của mình.
+ Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần
đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ
thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định
tại khoản nào của điều luật.
Nếu tổ chức đánh bạc trái phép với quy mô chưa lớn thì người có hành vi
tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi
đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc
tội tổ chức đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc.
+ Về hình phạt của tội tổ chức đánh bạc: Mức phạt của tội này được chia
làm hai khung, cụ thể như sau:
(i) Khung một (khoản 1): Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái
phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng
đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để
cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên
mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;
b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần có giá trị
20.000.000 đồng trở lên;
17
c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang
thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ,
sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh
bạc;
d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy
định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định
tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
(ii) Khung hai (khoản 2): Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Có tính chất chuyên nghiệp;
b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;
c) Tái phạm nguy hiểm.
(iii) Hình phạt bổ sung (khoản 3): Ngoài việc bị áp dụng một trong các
hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể
bị:phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản.
Hai là, cấu thành tội phạm tội Đánh bạc (Điều 321)
+ Thứ nhất, chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội đánh bạc không phải
chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định theo luật định và có năng lực
trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Điều 12 Bộ luật
hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự. Theo đó: (i) Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội mà mình gây ra; (ii) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
theo pháp luật quy định. Như vậy, cứ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội đánh
bạc nếu có hành vi vi phạm đủ cấu thành tội đánh bạc.
18
+ Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm : Tội phạm này thực hiện với lỗi cố
ý. Động cơ phạm tội là sát phạt nhau, tư lợi và mục đích là nhằm lấy tiền, tài sản
từ người thua bạc.
+ Thứ ba, khách thể của tội phạm: Đánh bạc là hành vi bị xã hội lên án và
nghiêm trị. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh trật tự công cộng, ảnh hưởng tới
cuộc sống của chính mỗi gia đình, nếp sống văn minh của xã hội vì đây được
xem là một tệ nạn xã hội.
+ Thứ tư, mặt khách quan của tội phạm: Theo đó, hành vi khách quan:
(i) Có sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hay bằng hiện vật có giá trị từ
năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Trường hợp tiền hay hiện vật có
giá trị dưới năm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị kết án về tội đánh
bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của
tội đánh bạc.
(ii) Trường hợp người phạm tội đã có hành vi đánh bạc trái phép và tiền
hay hiện vật đánh bạc có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên: Về tiền và hiện vật đánh
bạc được xác định chính là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ ở chiếu bạc,
thu được trong người đánh bạc hay ở những nơi khác mà đủ cơ sở để xác định
đã được hay sẽ được dùng để đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm
khi giá trị tiền đánh bạc từng lần có trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên.
(iii) Phân biệt các trường hợp khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh
bạc:
+ Trường hợp tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi lần đánh bạc
bằng hoặc trên mức tối thiểu (5.000.000 đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự
thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần
đánh đó.
19
+ Trường hợp đánh bạc từ 2 lần trở lên mà mỗi lần đánh có tổng tiền, giá
trị hiện vật bằng hoặc trên mức tối thiểu thì người đánh bạc phải bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc kèm với tình tiết tăng nặng là phạm tội 2 lần
trở lên quy định ở Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.
+ Trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc
xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với mỗi người là tổng số tiến,
giá trị hiện vật của tất cả người cùng đánh bạc lúc đó.
+ Trường hợp đánh bạc mà tổng số tiền để đánh bạc của từng lần đánh
đều ở dưới mức tối thiểu 5.000.000 đồng (chưa từng bị kết án về một trong các
tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc chưa được xóa án tích) thì người đánh
bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
+ Trường hợp một lần chơi lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa…để tính là
một lần đánh bạc chính là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong
một kỳ đua ngựa hay một trận bóng đá…người chơi chia làm nhiều đợi để chơi
thì trách nhiệm hình sự được xác định cho người chơi một lần đánh chính là
tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong tất cả đợt đó.
Hậu quả: Tội đánh bạc chỉ quy định hành vi khách quan mà không bắt
buộc phải có hậu quả xảy ra mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Biết là đánh
bạc đem lại nhiều hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng tới cho gia đình xã hội như
hạnh phúc gia đình tan vỡ, khiến cho tình trạng tội phạm có thể diễn ra nhiều
hơn như trộm cắp, cướp, giết người, gây rối trật tự công cộng… Pháp luật không
quy định hậu quả là yếu tố định tội vì hậu quả mà tội đánh bạc gây ra có thể cấu
thành tội phạm khác thậm chí có yếu tố nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Lúc đó,
đánh bạc mà gây ra những hành vi gây tội khác thì người phạm tội bị truy cứu
đối với tội tương ứng theo luật định.
Về mức hình phạt: Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 2 khung
hình phạt:
20
– Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm.
– Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm áp
dụng cho trường hợp phạm tội sau:
+ Có tính chất chuyên nghiệp chính là sử dụng việc đánh bạc làm nguồn
sống chính.
+ Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên.
+ Sử dụng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
để phạm tội.
+ Tái phạm nguy hiểm.
Ngoài hình phạt chính nêu trên người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình
phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
1.1.1.3. Phân biệt tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc
Không phải ngẫu nhiên mà từ Bộ luật hình sự năm 1985, năm 1999 và
năm 2015 đều quy định tổ chức đánh bạc và gá bạc là hai hình thức phạm tội
khác nhau. Vậy gá bạc là gì? Làm sao để phân biệt được hành vi đánh bạc, tổ
chức đánh bạc, gá bạc? Theo từ điển Bách khoa toàn thư thì: “Gá bạc là hành vi
cho sử dụng địa điểm làm nơi thực hiện việc đánh bạc để trục lợi. Là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật trự xã hội, tạo điều kiện cho hành vi đánh
bạc là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu tới gia đình và cá nhân người chơi mà
còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Là hành vi
giúp sức đánh bạc, thể hiện ở việc tạo điều kiện về địa điểm cho người có hành
vi đánh bạc nhưng có thêm dấu hiệu riêng là mục đích trục lợi”. Như vậy, gá
bạc có nghĩa là không nhất thiết phải trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng người
phạm tội gá bạc sử dụng lợi ích vật chất của mình để gián tiếp thực hiện hành vi
21
đánh bạc như: cho người khác mượn nhà, chỗ ở, xe, tàu, thuyền... của mình để
đánh bạc; cho người khác vay, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản để đánh bạc…với
mục đích là thu lợi nhuận cho cá nhân. Trên thực tế, nhiều trường hợp người tổ
chức đánh bạc, người gá bạc, người đánh bạc là một người.
Còn điểm khác biệt giữa tội đánh bạc và gá bạc là: Tội đánh bạc là hành
vi dùng tiền hay các lợi ích vật chất khác để giải quyết việc được, thua trong các
trò chơi. Còn tội gá bạc là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc các địa điểm
thuận lợi khác để chứa đám bạc.
1.1.1.4. Nhận thức về hoạt động điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc,
đánh bạc
Quá trình thực hiện chức năng tăng cường quản lý nhà nước về trật tự an
toàn xã hội thì hoạt động điều tra các vụ án đánh bạc tổ chức đánh bạc là vô
cùng cần thiết. Việc coi trọng và hoàn thiện chính sách hình sự, thủ tục hoàn
thiện chính sách tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong
việc xử lý người phạm tội của tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói riêng và các tội
phạm nói chụng được thực hiện nghiêm túc hơn bao giờ hết. Với yêu cầu về quy
định trách nhiệm hình sự nghêm khác đối với các tội phạm về đánh bạc, góp
phần tạo môi trường phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh. Tệ nạn cờ bạc hiện
nay diễn ra rất phổ biến với nhiều hình thức phong phú, tinh vi. Ngoài việc đánh
bạc theo các hình thức thông thường dễ nhận biết thì hiện nay đang khá thịnh
hành việc sử dụng mạng internet để đánh bạc. Đánh bạc với quy mô lớn, ngoài
việc xử phạt người tham gia đánh bạc thì người tổ chức cũng phải chịu trách
nhiệm hình sự. Có thể khẳng định, đánh bạc và tổ chức đánh bạc đều là những tệ
nạn xã hội thường dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, là nguyên nhân tan vỡ
của nhiều gia đình và cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như
trộm cắp, cướp của giết người, gây mật trật tự trị an và an toàn xã hội. Chính vì
vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan điểm, chủ trương chỉ đạo đấu tranh
22
kiên quyết đối với loại tội phạm này. Trong quá trình xây dựng pháp luật, tùy
theo từng giai đoạn phát triển của đất nước mà các nhà lập pháp cũng nghiên
cứu để có những quy định và chính sách hình sự phù hợp nhằm đấu tranh phòng,
chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này trong xã hội.
Trên cơ sở đó, yêu cầu trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đánh
bạc, tổ chức đánh bạc của Cơ quan điều tra trên thực tế đã đạt được nhiều kết
quả quan trọng. Tội đánh bạc là tội phạm rất phổ biến, làm ảnh hưởng đến nếp
sống văn minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức cho bộ phận dân cư. Đồng
thời, điều này đã gây nhiều thiệt hại về vật chất, tinh thân của gia đình và là
nguyên nhân gây ra nhiều loại tệ nạn xã hội khác. Trong những năm trở lại đây
thì công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử lý các hình thức đánh bạc
của cơ quan CSĐT Công an các tỉnh, thành phố đã và đang đặt được nhiều kết
quả quan trọng. Trên cơ sở thực hiện nhiều chuyên án lớn thì hoạt động điều tra
của các cơ quan điều tra góp phần tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm tổ chức đánh bạc,
đánh bạc đã gây ra cho xã hội. Dưới góc độ chính trị - pháp lý góp phần cụ thể
hóa chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội và góp phần bảo đảm sự hoạt động bình thường, ổn định xã hội góp
phần thúc đẩy công bằng xã hội dân chủ, văn minh.
Việc tiến hành điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc là cơ sở đấu
tranh kiên quyết, xử lý nghiêm minh, triệt để, đúng các quy định pháp luật xâm
phạm tới trật tự, an toàn xã hội ở các mức độ khác nhau và đảm bảo tính thống
nhất trong hoạt động đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp
luật của nhà nước trong giai đoạn hội nhập và phát triển.
1.1.2. Nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nguyên tắc
23
Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các
giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu
khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ
quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật
quy định. BLTTHS năm 2015 chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn
giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án
hình sự; giai đoạn truy tố vụ án hình sự; giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Riêng
giai đoạn thi hành án hình sự đã được tách ra và điều chỉnh theo Luật thi hành án
hình sự năm 2010. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá
trình tố tụng hình sự được BLTTHS năm 2015 quy định trong 9 chương, từ
Chương IX đến Chương XVII. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi
cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố
vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về
việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương
ứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy
định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai
đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình
chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
1.1.2.2. Cơ sở pháp lý
Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là:
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân
dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các
Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các
24
hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật7
.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân nói chung
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật, bảo
vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 3 Điều 107
Hiến pháp năm 2013)8
;
Đồng thời, điều này được “Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật
TCVKSND 2014)9
. Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác
là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất., góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo quy định của Hiến pháp 2013
và Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 đã khẳng định vai trò quan trọng của VKS
nên trước yêu cầu của công cuộc cải cách VKSND tỉnh Kiên Giang đã và đang
tuân thủ nghiêm túc các quy định trên nhằm làm tốt vai trò của mình trong tiến
trình cải cách tư pháp đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới.
1.1.2.3. Nội dung quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án
hình sự
7
Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
8
Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
9
Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
25
Theo quy định tại Điều 210
Luật tổ chức VKSND 2014 quy định rõ chức
năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng với sự thay đổi của tình
hình kinh tế - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó thì khẳng định rõ VKSND có chức
năng quan trọng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
* Chức năng thực hành quyền công tố
Hiện nay, ở nước ta thì quyền công tố và thực hành quyền công tố là những
khái niệm được nhắc đến nhiều trong luật TTHS nước ta khi đề cập chức năng
của viện kiểm sát các cấp. Điều 138 Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên quy định
VKSNDTC nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo
pháp luật... thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất; các VKS các địa phương và VKS quân sự kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm
của mình. Quy định đó cũng được nhắc lại trong Hiến pháp năm 1992. Trên cơ
sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật
TTHS khác cũng có những quy định tương tự.
Trong khoa học luật TTHS, việc xác định khái niệm quyền công tố và theo
đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải
quyết tốt vấn đề đó giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí của viện kiểm
sát trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói
riêng; xác định rõ chức năng của viện kiểm sát, đặc biệt là trong TTHS; từ đó có
những quyết định đúng đắn về tổ chức viện kiểm sát các cấp. Điều này đặc biệt
quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đang triển khai thực hiện các
nghị quyết lần thứ 8 khoá VII, lần thứ 3 và thứ 7 khóa VIII của Ban chấp hành
trung ương Đảng về cải cách bộ máy nhà nước.
10 Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (Luật tổ chức VKSND 2014)
1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,
góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
26
Vấn đề khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề
cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau. Có tác giả
đề cập khi giải quyết các vấn đề chung của tố tụng hình sự; có những bài viết có
tính chất chuyên khảo phân tích có hệ thống về quyền công tố)
và gần đây có
một số luận án thạc sĩ cũng đề cập quyền công tố trong từng phạm vi khác nhau
(trong giai đoạn điều tra, trong xét xử sơ thẩm...). Mặc dù vậy, quyền công tố và
thực hành quyền công tố vẫn đang là vấn đề phức tạp, đang có nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau đòi hỏi phải được bàn luận tiếp.
Hiện nay, trong sách báo pháp lí nước ta đang có nhiều quan điểm khác
nhau về quyền công tố của viện kiểm sát. Có thể tóm tắt các quan điểm khác
nhau đó thành 4 nhóm chính như sau:
- Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
Quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là
quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước
năm 1980 khi hiến pháp chưa có quy định về chức năng thực hành quyền công
tố của viện kiểm sát và cũng xuất phát từ quan niệm phổ biến của các nhà TTHS
học Xô viết trước đây.
- Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt nhà nước bảo vệ
lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì
vậy, VKS thực hành quyền công tố không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực
tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác.
- Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố
người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại phiên tòa.
- Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan
nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và
27
thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này phổ biến trong các nhà
nước có sự phân chia quyền lực.
Để xác định khái niệm quyền công tố, cần phải khẳng định một số vấn đề
sau đây: Thứ nhất, quyền công tố là quyền của nhà nước. Nhà nước uỷ quyền
cho cơ quan cụ thể thực hiện quyền này trong bộ máy cơ quan nhà nước phân
quyền hoặc phân công thực hiện chức năng; thứ hai, quyền công tố về thực chất
là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để
làm được điều đó, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải
điều tra, xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra
trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa; thứ ba, quyền công tố
mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể đã được
thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể. Không tồn tại quyền công tố
chung chung.
Từ những nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm quyền công tố là quyền
của cơ quan nhà nước được nhà nước uỷ quyền thực hiện việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án
và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó. Ở nước ta trong giai đoạn này được giao cho
Viện kiểm sát để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Để thực hiện tốt quyền này thì VKS phải có quyền và nghĩa vụ
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên
cơ sở đó thì có quyết định truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử theo
đúng quy định của pháp luật.
Từ đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy
định: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội,
được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trên cơ
28
sở đó thì tại khoản 1 của Điều 6 – Luật tổ chức VKSND 2014 đã ghi rõ VKS
thực hiện chức năng này bằng các công tác11
, tạo điều kiện cho việc thực hiện
các VKSND trên thực tế.
Trong hệ thống tư pháp, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được pháp luật
trao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Đây là một chức năng, nhiệm
vụ hết sức quan trọng, khẳng định vị trí trọng yếu của Viện kiểm sát trong hệ
thống các cơ quan tư pháp. Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố của Viện kiểm sát nói chung và ở tỉnh Kiên Giang nói riêng
sẽ đảm bảo khắc phục được tình trạng oan, sai và bỏ lọt tội phạm, góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động của toàn bộ hệ thống tư pháp, đảm bảo không bỏ
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
* Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, cơ
chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không
thể thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của
Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước của nước ta, hệ
thống các cơ quan tư pháp có vị trí và vai trò rất quan trọng. Hoạt động tư pháp
ở nước ta được tiến hành bởi nhiều cơ quan, ở nhiều địa phương và liên quan tới
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động tư pháp bao gồm: Việc phát
hiện tội phạm, khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ trong các vụ án hình sự do Cơ
quan điều tra thực hiện; hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can,
kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ, cải tạo, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành
án do VKS thực hiện.
Hoạt động tư pháp thực chất là hoạt động do các cơ quan tư pháp thực hiện
trên cơ sở quy định của pháp luật. Chính vì vậy, cơ chế giám sát hoạt động tư
pháp là phương thức tổ chức và vận hành theo những nguyên tắc, những quy
11
Điều 6. Các công tác của Viện kiểm sát nhân dân – luật TCVKSND 2014
29
định của pháp luật và phương tiện pháp lý tác động và làm cho hoạt động của
các cơ quan tư pháp theo đúng pháp luật, ngăn ngừa vi phạm, sự lạm dụng
quyền hạn và các hành vi tiêu cực khác, nhằm nâng cao trách nhiệm pháp lý của
các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp, để pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực tế cho thấy, từ khi có Hiến pháp năm 1959
đến nay, Quốc hội không thể và không cần thiết phải tự mình trực tiếp giám sát
toàn bộ hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Quốc hội đã
giao cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho.
Việc Quốc hội giao cho VKS thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các hoạt
động tư pháp hiện nay là xuất phát từ chỗ VKS do cơ quan lập pháp cao nhất
của Nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất
và độc lập so với các cơ quan Nhà nước khác. VKS là cơ quan không nằm trong
hệ thống các cơ quan hành pháp và cơ quan xét xử. Mặt khác, Quốc hội đã giao
cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật như nêu ở trên, còn
xuất phát từ nhu cầu và sự đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích hành động trong nhân dân, giữa
nhân dân và Nhà nước, giữa các ngành, các cơ quan Nhà nước với nhau.
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật TCVKSND 2014 thì VKS thực
hiện cả chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Thực tế đã chứng minh rằng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội từ năm 1960 đến năm 2014 và
hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp từ năm 2014 đến nay đã có kết quả
tốt, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và chấp hành pháp luật trên nhiều
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Theo quy định tại Luật tổ chức
30
VKSND 2014 quy định tại khoản 1 Điều 412
. Với chức năng nhiệm vụ như trên
thì VKSND thực hiện chức năng trên thông qua các công tác theo khoản 2 Điều
613
sau:
1.1.2.4. Biện pháp tiến hành
Hoạt động THQCT và KSĐT của VKSND được thực hiện thông qua nhiệm
vụ, quyền hạn của những người được phân công tiến hành hoạt động tố tụng
hình sự. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm
2015 đối tượng KSĐT của VKSND là hoạt động điều tra của cơ quan điều tra và
hoạt động của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra. Tại Khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định: “Viện
kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho hoạt
động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và Luật này; phải phát hiện
kịp thời và yêu cầu, kiến nghị CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khắc phục vu phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra.”
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng,
Phó Viện trưởng Viện kiểm sảt, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nhằm nâng cao
chức năng THQCT và KSĐT. Các chủ thể THQCT và KSĐT đều phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc là hoạt
động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước
đối với người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc, hoạt động
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án tổ chức đánh
bạc, đánh bạc bắt đầu từ khi có tố giác hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, tin
báo về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc hoặc kiến nghị khởi tố vụ án hình
12
Điều 4. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
13 Khoản 2- Điều 6 Luật TCVKSND 2014 quy định:
31
sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc (có nguồn tin báo về tội phạm tổ chức đánh bạc,
đánh bạc) và kết thúc thuộc một trong ba trường hợp đó là: Khi cơ quan có thẩm
quyền ra quyết định đình chỉ việc giải quyết nguồn tin báo về tội phạm tổ chức
đánh bạc, đánh bạc; khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án tổ
chức đánh bạc, đánh bạc hoặc khi cơ quan có thẩm quyền kết thúc điều tra, ban
hành kết luận điều tra đối với vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc và chuyển hồ sơ
đến Viện kiểm sát để đề nghị truy tố các bị can.
Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2104 khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có
những nhiệm vụ, quyền hạn đã được ghi nhận. Với các quy định của Theo quy
định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì cơ quan có thẩm
quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là Viện kiểm sát nhân dân.
Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền của những người tiến hành tố
tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 quy định cụ thể, chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
THQT và trong hoạt động kiểm sát điều tra. Điểm mới trong Luật tổ chức cơ
quan điều tra hình sự năm 2015 liên quan đến vấn đề thực hành quyền công tố là
hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để yêu cầu cơ quan CSĐT tiến hành
hoạt động điều tra, đây là nhiệm vụ được coi là quan trọng nhất của VKS trong
giai đoạn này. Để bảo đảm hoạt động điều tra được tiến hành tốt, Kiểm sát viên
được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải nghiên cứu
kỹ hồ sơ vụ án, bám sát quá trình hoạt động của cơ quan điều tra nhằm kịp thời
đưa ra các yêu cầu điều tra một cách toàn diện để đảm bảo quá trình điều tra
được thực hiện đúng quy định của pháp luật và việc giải quyết vụ án đúng
32
người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, Viện kiểm sát có quyền trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra
theo quy định của pháp luật như: Hỏi cung bị can; Ghi lời khai bị hại, người làm
chứng, người liên quan; Tiến hành đối chất;…để củng cố các chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án nhằm đánh giá một cách khách quan và toàn diện toàn bộ vụ án.14
Đồng thời, đối với các vụ án có tính chất phức tạp, còn nhiều quan điểm khác
nhau thì tăng cường họp liên ngành; Kiểm sát viên, Điều tra viên cần tăng cường
trao đổi thống nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thay đổi theo
hướng tăng cường trách nhiệm của VKS khi kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
được quy định cụ thể tại Điều 166 BLTTHS góp phần nhằm nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung,
THQCT&KSĐT vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc được nhanh chóng, chống
oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Các chủ thể thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm trách pháp luật về hành vi, quyết
định của mình trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra trong thực tế.
1.1.2.5. Quan hệ phối hợp
Viện kiểm sát chủ động phối hợp với cơ quan điều tra là nhiệm vụ quan
trọng cho sự thành công của các vụ án. Trong các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh
bạc được phát hiện xử lý thì số lượng các vụ án có sử dụng đặc tình chiếm một
tỷ lệ không nhỏ. Quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS được thể hiện
trên hai phương diện:
Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS là quan hệ giữa các
chủ thể tiến hành tố tụng khi tham gia vào mối quan hệ cùng hoạt động trong
phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật trong quan hệ
hỗ trợ nhau trong giải quyết điều tra vụ án hình sự. Đó chính là sự liên kết giữa
14
Điều 165 BLTTHS 2015
33
hai cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình
theo quy định pháp luật.
Mối quan hệ chế ước giữa cơ quan điều tra và VKS trong quá trình điều tra
các vụ án hình sự là sự hạn chế lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng trong
các điều kiện nhất định bởi các quan hệ pháp luật nhằm đảm bảo tính khách
quan, chính xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
Do vậy, khi phê chuẩn khởi tố bị can, Kiểm sát viên cần chú ý phát hiện
các tài liệu trinh sát chưa được chuyển hóa chứng cứ để phối hợp với Điều tra
viên tiến hành loại các tài liệu này ra khỏi hồ sơ tố tụng và chuyển hóa chứng
cứ, bảo vệ đặc tình. Kiểm sát viên cần xây dựng mối quan hệ tốt với Điều tra
viên. Khi Điều tra viên thu thập tài liệu đến đâu thì yêu cầu chuyển ngay cho
Kiểm sát viên đề cùng nghiên cứu, phối hợp đề ra yêu cầu điều tra. Kiểm sát
viên phải chủ động, chú trọng tham gia hoặc tiến hành một số hoạt động điều tra
theo quy định của BLTTHS để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ
án.
1.2. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân trên địa
bàn quận Nam Từ Liêm
1.2.1. Tình hình diễn biến, động thái , cơ cấu, tính chất và đặc điểm của
tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm
Quận Nam Từ Liêm được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày
27/12/2013 của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để
thành lập 02 quận và 23 phường thuộc Thành phố Hà Nội. Về mặt kinh tế, năm
2018, kinh tế quận duy trì tăng trưởng khá (tăng 15,5%). Thu ngân sách nhà
nước trên địa bàn hoàn thành kế hoạch. (Thu từ cho thuê nhà tăng 20%; thuế xây
dựng nhà ở tư nhân tăng 30%; thuế xây dựng vãng lai từ các doanh nghiệp tỉnh
34
ngoài tăng 66%). An sinh và phúc lợi xã hội được đảm bảo; đặc biệt là thực hiện
tốt chế độ chính sách cho các đối tượng xã hội, người có công.. Tình hình an
ninh - chính trị trên địa bàn toàn quận trong những năm qua được đảm bảo khá
tốt. Mặc dù là một thành phố đông dân số nhưng hằng năm tình hình an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được các cơ quan hữu quan đảm bảo. Chính
vì điều này đã góp phần đảm bảo cho diện mạo của toàn thành phố được khởi
sắc, đồng thời cũng góp phần vào sự thay đổi của cơ cấu kinh tế của quận Nam
Từ Liêm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập
kinh tế - quốc tế hiện nay.
Có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong những năm
gần đây, quận Nam Từ Liêm cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác,
trong đó có diễn biến phức tạp về tình hình tội phạm nói chung. Việc gia tăng về
số vụ và số đối tượng phạm tội không chỉ ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật
tự, mà còn trực tiếp xâm phạm đến các khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ.
Đa phần trên địa bàn quận Nam Từ Liêm thường xảy ra các tội phạm liên quan
đến nhóm tội sở hữu, nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người dân,
tội phạm về đánh bạc.
Thực tế này phần nào đã phản ánh tính chất manh động, thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt của người phạm tội trong các vụ án xâm phạm về sở hữu và trật tựu
công cộng thì những vụ đánh bạc nổi lên với tính chất phức tạp, đồng phạm, có
sự tổ chức chặt chẽ của các đối tượng tham gia. Quá trình điều tra xảy ra nhiều
tình tiếp phức tạp, cần phải điều tra bổ sung để xử lý theo đúng quy định pháp
luật về hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói chung. Công tác quản lý về vấn
đề này của các cơ quan NN có thẩm quyền trên thực tế chưa đạt hiệu quả cao.
Tệ nạn cờ bạc, cá độ còn diễn ra nhiều nơi trên địa bàn quận chưa có dấu hiệu
giảm bớt. Đây chính là những vấn đề nhức nhối trong công tác phòng ngừa tội
phạm mà các cơ quan NN có thẩm quyền trong công tác này.
35
Thời gian vừa qua, tình hình tội phạm đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ
Liêm đang có chiều hướng gia tăng với thủ đoạn cực kỳ tinh vi, hầu hết các đối
tượng tham gia đánh bạc đều có tiền án, tiền sự và có máu mặt, các đối tượng
đến từ nhiều tỉnh, thành khác nhau gây lo lắng trong nhân dân. Theo lãnh đạo
phòng Cảnh sát hình sự, Công an quận Nam Từ Liêm, thủ đoạn của các đối
tượng này ngày càng tinh vi, nhằm “qua mắt” lực lượng chức năng, bọn chúng
thường lợi dụng địa bàn giáp ranh, nhà cao tầng, tổ chức canh gác chặt chẽ… để
tổ chức đánh bạc gây khó khăn cho công tác phát hiện, triệt phá. Đối tượng đánh
bạc gồm nhiều thành phần “bất hảo” tiền án, tiền sự, không chỉ có người tại địa
phương mà còn có người từ nhiều tỉnh, thành phố khác đến, có cả thanh niên,
người cao tuổi, có nhóm đánh bạc chỉ là phụ nữ… hầu hết các đối tượng đều
không có công ăn việc làm, sống lang thang.
1.2.2. Tình hình kết quả hoạt động điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc,
đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm
Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vai trò của các cơ quan
chức năng trên địa bàn thành phố là hết sức quan trọng. Cụ thể, nhiều vụ đánh
bạc, tổ chức đánh bạc với quy mô lớn đã được cơ quan bảo vệ pháp luật quận
Nam Từ Liêm kịp thời phát hiện và xử lý đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn
định tình hình kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận.
Bảng 2.1. Bảng thống kê số vụ án điều tra về tội đánh bạc nói riêng trong
giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019
Năm 2016 2017 2018 2019
Số vụ điều tra
về đánh bạc
11 13 16 20
Số bị can về
đánh bạc
49 54 58 69
36
Điều này thể hiện qua biểu đồ sau
Biểu đồ 2.1. Biều đồ thống kê số vụ án điều tra về tội đánh bạc nói riêng
trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019
1.2.3. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra
các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân trên địa
bàn quận Nam Từ Liêm
Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc nên trong những năm
qua thì Lãnh đạo VKSND quận Nam Từ Liêm và Ủy ban Kiểm sát đã và đang
đưa ra những tiêu chí, những phương hướng cụ thể nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động của VKSND quận Nam Từ Liêm. Hoạt động kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc cơ bản
được ghi nhận thông qua bảng số liệu và biểu đồ dưới đây:
Bảng 2.2: Án thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
tổ chức đánh bạc, đánh bạc từ năm 2016 – 2019
Đơn vị tính: vụ/bị cáo
0
10
20
30
40
50
60
70
80
2016 2017 2018 2019
Số vụ điều tra về đánh bạc Số bị can về đánh bạc
37
Năm
Tổng số án
thụ lý
Số bị can
Thực hiện các
hoạt động
THQCT (đề ra
yêu cầu điều
tra)
Kiểm sát
hoạt động
điều tra
2016 11
49
100% 100%
2017 13 54 100% 100%
2018 16 58 100% 100%
2019 20 69 100% 100%
Thông qua bảng số liệu và biểu đồ ta nhận thấy tình hình thụ lý và thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc
của VKS quận Nam Từ Liêm trong những năm gia tăng qua các năm. Tuy
nhiên, đây cũng là một trong kết quả đáng ghi nhận của VKS quận Nam Từ
Liêm trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm diễn ra trên địa bàn trong
những năm qua.
Công tác kiểm sát các quyết định của CQĐT Công an quận trích lập hồ sơ
đã được Viện kiểm sát quận Nam Từ Liêm chú trọng và thực hiện tốt. 100% các
vụ án đều được VKSND quận Nam Từ Liên đều được kiểm sát chặt chẽ cả về
nội dung và hình thức, các quyết định và thực hiện theo quy định theo quy định
của BLTTHS 2015. Từ những kết quả trên đã đã kịp thời phát hiện những vi
phạm của Cơ quan điều tra để tổng hợp, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm,
khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng.
1.3. Nhận xét, đánh giá chung
1.3.1. Những kết quả đã đạt được
Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng thực tiễn áp dụng những quy định
của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
38
vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm đã thu
được nhiều kết quả không nhỏ, cụ thể là:
Một là, đã xây dựng được các quy định của pháp luật, hệ thống chính
sách về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh
bạc, đánh bạc của Việt Nam. Các văn bản pháp luật điều chỉnh những hành vi
tổ chức đánh bạc, đánh bạc là nền tảng pháp lý quan trọng để các cơ quan NN
có thẩm quyền trong việc đối phó với vấn đề này trong công tác phòng ngừa tội
phạm. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cũng như cơ chế chính sách điều
chỉnh là việc làm cần thiết. Đầu tiên là các quy định có liên quan đến tổ chức
đánh bạc, đánh bạc tại theo quy định BLHS 2015 (có quy định tại Điều 321,
Điều 323) và một số văn bản hướng dẫn là kết quả của việc làm này. So với quy
định hiện hành về xử lý tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc ở nước ta thì quy
định của BLHS 2015 được quy định theo hướng tăng nặng và xử lý các hành vi
vi phạm về hoạt động này rộng hơn và đáp ứng phù hợp với sự thay đổi của
điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta. Đồng thời, trên cơ sở đó thì tại các địa phương,
đặc biệt là một số địa phương trọng điểm là điểm nóng về tổ chức đánh bạc,
đánh bạc, các khu vực biên giới đã có sự chỉ đạo thông qua chính sách phát triển
kinh tế địa phương để phù hợp với tình hình trên địa bàn CQNN có thẩm quyền
quản lý. Từ đó góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa tội phạm tổ chức
đánh bạc, đánh bạc ở Việt Nam nói chung và tại quận Nam Từ Liêm nói chung.
Hai là, trong cơ chế quản lý, áp dụng pháp luật về THQCT&KSĐT các
vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc
Thời gian qua, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều biện pháp
ngăn chặn, hạn chế tình trạng tổ chức đánh bạc, đánh bạc từ hoàn thiện khung
pháp lý, cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm gắn với.
Đồng thời, thành lập và quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn cụ thể của cơ quan điều tra về các vụ án hình sự trong thực tế. Tăng
39
cường phối hợp với các cơ quan hữu quan là các cơ quan Tư pháp là Viện kiểm
sát và Tòa án trong việc điều tra, truy tố và xét xử các hành vi vi phạm về tội
phạm này.
Việc ban hành các cơ quan chức năng trong hoạt động xử lý các hành vi tổ
chức đánh bạc, đánh bạc, đã góp phần quan trọng trong việc đưa các văn bản
pháp luật về chủ trương phòng ngừa tổ chức đánh bạc, đánh bạc áp dụng vào
hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam đạt hiệu quả cao trong thời gian gần đây.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng phối hợp với nhau trong hoạt động cung cấp
các thông tin xử lý các vụ án về tổ chức đánh bạc, đánh bạc cũng như các chế tài
nghiêm khắc đảm bảo xử lý các hành vi này một cách tiệt để.
Bốn là, chủ động hơn trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tổ chức
đánh bạc, đánh bạc.
Các tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc không tự nhiên bị hạn chế mà cần thiết
thông qua việc chủ động trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của
những cơ quan NN có thẩm quyền, các chủ thể trong hoạt động này. Cụ thể: các
cơ quan NN có thẩm quyền căn cứ vào tính chất, sự thay đổi về hoạt động tổ
chức đánh bạc, đánh bạc trong nước trong thời gian trở lại đây để ban hành
chính sách nhằm ngăn chặn, xử lý triệt để các hàng vi vi phạm. bằng hoạt động
nghiệp vụ của mình cũng như hoạt động kiểm tra, giám sát để phát hiện và xử lý
các hành vi trên. Bên cạnh đó, người tiêu dùng có thể thông qua các kênh như tố
giác các hành vi vi phạm của hoạt động tổ chức đánh bạc, đánh bạc để các cơ
quan chức năng có thể tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm. Các chủ
thể có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau để có thể tiến hành ngăn ngừa các hành vi vi
phạm.
Bốn là, ý thức pháp luật, sự tích cực công vụ và trình độ, nghiệp vụ của lực
lượng Kiểm sát viên, Kiểm tra viên đã được nâng cao, góp phần nâng cao hiệu
quả trong quá trình giải quyết các nói chung, vụ án hình sự xâm phạm quyền con
40
người nói riêng. Đối với quá trình thực hiện các quy định pháp luật trong tố tụng
hình sự và bảo đảm quyền con người trong quá trình THQCT&KSĐT vụ án
hình sự nói chung và các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc trên địa bàn quận
Nam Từ Liên trong giai đoạn hiện nay. Điều này khẳng định yếu tố trên giữ vai
trò tác động bên ngoài nhưng yếu tố về nội lực chính là sự nỗ lực của các lãnh
đạo, nhân viên, đội ngũ KSV VKSND quận Nam Từ Liêm nói chung. Phải nhìn
nhận một cách khách quan rằng đội ngũ lãnh đạo, KSV cần thiết phải có phẩm
chất chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
hoạt động THQCT&KSĐT trong giai đoạn mới. Bên cạnh việc bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ thì cần thiết phải có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí vươn
lên, khả năng tiếp cận nhanh được các kiến thức pháp lý mới nhằm đáp ứng với
yêu cầu của công tác THQCT&KSĐT hiện nay. Ngoài ra, đội ngũ KSV phải là
đội ngũ có khả năng ứng dụng được công nghệ thông tin trong công tác quản lý
và thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.
Năm là, thông qua hoạt động THQCT&KSĐT VAHS cần thiết phải có sự
tham gia tích cực của người dân, xã hội trong đấu tranh, bảo vệ quyền con người
cũng là yếu tố quan trọng giúp cơ quan Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ
Liêm hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật
hiện hành.
1.3.2. Hạn chế, thiếu sót
Trong quá trình thực hiện các quy định về THQCT&KSĐT của Viện kiểm
sát đối với các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo quy định cửa BLHS 2015,
sửa đổi bổ sung thì quá trình thực tiễn vẫn xảy ra một số khó khăn, vướng mắc,
cụ thể như sau:
Một là, các quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung về các tội đánh bạc
và tổ chức đánh bạc chưa có văn bản hướng dẫn thi hành ngoài những hướng
dẫn theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng
41
Thẩm phán TANDTC hướng dẫn xử lý đối với các hành vi đánh bạc, tổ chức
đánh bạc và gá bạc (sau đây gọi là Nghị quyết số 01) và các văn bản hướng dẫn
xử lý các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc của VKSNDTC hướng dẫn thực hiện
trong ngành kiểm sát. Tuy nhiên, với các hướng dẫn của VKSNDTC thì trên cơ
sở chỉ áp dụng trong ngành kiểm sát, cần thiết có sự hướng dẫn của hội đồng
thẩm phán được ghi nhận thành các quy định pháp luật nhằm làm nền tảng cho
quá trình áp dụng trong thực tế.
Hai là, trong công tác THQCT&KSĐT VAHS về tội đánh bạc, tổ chức
đánh bạc vẫn còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại như: việc đánh giá tính chất vụ
án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự của bị cáo còn chưa chính xác;
Công tác thực hành quyền công tố đối với các quy định của BLTTHS 2015 chưa
được thực hiện một cách nghiêm túc trong thực tế, vẫn còn một số khó khăn
trong việc tiếp cận vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ
Liêm ngay từ đầu còn khó khăn, đặc biệt với các vụ án đánh bạc liên quan đến
lô đề, liên quan đến đánh bạc trên mạng internet với số lượng lớn ngay từ thời
gian ban đầu còn nhiều vướng mắc. Hoạt động thực hành quyền công tố các vụ
án đánh bạc, tổ chức đánh bạc trong thực tế còn nhiều vướng mắc khi việc thu
thập các chứng cứ để xử lý các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Đối với hoạt
động KSĐT thì hoạt động kiểm sát tố tụng trong giai đoạn điều tra của VKS đối
với CQĐT còn nhiều khó khăn khi KSV, ĐTV chưa có kinh nghiệm trong việc
xử lý vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc để giải quyết trên thực tế. Bên cạnh đó
việc áp dụng Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 về việc ban hành
quy chế tạm thời công tác THQCT&KS việc khởi tố, điều tra và truy tố và
Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về
phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện Bộ luật tố tụng hình
sự là nền tảng thực hiện hoạt động THQCT&KSĐT các vụ án hình sự về đánh
bạc, tổ chức đánh bạc được thực hiện một cách triệt để trong thực tế.
42
Ba là, việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị tài liệu cho phiên tòa xét xử của một
số Kiểm sát viên nhiều khi chưa được chú trọng. Một số trường hợp Kiểm sát
viên tham gia KSĐT, chưa nắm chắc tình tiết nội dung vụ án, nhất là những bị
cáo trong quá trình điều tra không nhận tội, thay đổi lời khai. Vì vậy, Kiểm sát
viên không phát hiện được những mâu thuẫn để từ đó có kế hoạch thẩm vấn bị
can, kiểm tra tính đúng đắn, khách quan của các chứng cứ, đồng thời chuẩn bị
tài liệu, chứng cứ để tranh luận, đối đáp với những yêu cầu, đề nghị của bị can,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn điều tra,
do vậy, đôi khi không bảo vệ được quan điểm của VKS đưa ra nhằm điều tra xử
lý vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật.
Bốn là, một số Kiểm sát viên không có tâm lý vững vàng, việc nghiên cứu
hồ sơ, chuẩn bị tài liệu nên chưa có sự phản ứng linh hoạt khi tham gia thực hiện
THCT&KSĐT vụ án hình sự còn hạn chế trong đối đáp nên có tâm lý ngại tranh
luận hoặc tranh luận qua loa, chưa đưa ra đầy đủ những luận điểm có sức thuyết
phục với sự diễn đạt rõ ràng mạch lạc để đối đáp với tất cả các ý kiến của người
bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đã nêu lên, nhất là những ý kiến
trái ngược lại với quan điểm của Kiểm sát viên.
Năm là, việc quy định của pháp luật thiếu đồng bộ; Bộ luật hình sự, Bộ luật
tố tụng hình sự ... đã ban hành nhiều năm nhưng việc hướng dẫn, giải thích
hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm, một số quy định chưa phù
hợp với thực tiễn, gây khó khăn trong khi vận dụng; sự phối họp giữa các cơ
quan bảo vệ pháp luật trên cơ sở chức năng nhiệm vụ còn thiếu chặt chẽ, thiếu
nhất quán nên không ít các vụ việc quá trình xử lý có biểu hiện không thống
nhất cao.
Tóm lại, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc,
43
cũng còn những hạn chế, khuyết điểm mà ngành Kiểm sát cần khắc phục để
thực hiện tốt hơn chức năng, vai trò của mình trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự.
1.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót
Thứ nhất, Bộ luật hình sự hiện hành không cụ thể hoá tất cả các hành vi
phạm tội trong các điều luật mà quá trình áp dụng luật phải vận dụng các văn
bản hướng dẫn như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao, Thông tư liên tịch của các Bộ, Ngành liên quan.
Thứ hai, vẫn còn tình trạng chưa tích cực phối hợp tổ chức các phiên tòa để
rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng KSĐT của Kiểm sát viên. Số lượng
kiến nghị về vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Sự liên kết giữa các cơ
quan NN với nhau trong quá trình thực hiện chưa thật sự được chú trọng.
Thứ ba, nhiều VKS chưa chú trọng việc tổng hợp những thiếu sót, vi phạm
trong hoạt động nghiệp vụ để thông báo, rút kinh nghiệm. Sự phối hợp giữa các
cấp kiểm sát, các bộ phận công tác có lúc, có nơi chưa thường xuyên, chặt chẽ.
Những tồn tại, hạn chế trên chủ yếu là do một số Kiểm sát viên VKSND tỉnh
chưa làm tròn hết trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành tổ chức, thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, nhận thức của một số cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp về nội dung và ý nghĩa của công tác
kháng nghị chưa đầy đủ, đúng đắn, chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm đối
với công tác này, do vậy việc nghiên cứu, kiểm sát quyết định CQĐT còn qua
loa, phiến diện nên không phát hiện được vi phạm, sai sót của CQĐT để báo cáo
lãnh đạo, đề xuất việc kiến nghị.
Chương 2
DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
44
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN
TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC, ĐÁNH BẠC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
QUẬN NAM TỪ LIÊM
2.1. Dự báo tình hình và các yếu tố tác động
* Dự báo tình hình
Quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì quá trình phát triển đất nước
thì các vụ án hình sự nói chung và các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc thì các
vụ án về đánh bạc về cơ bản đem lại hứng thú cho một bộ phận dân cư không
nhỏ đông thời cơ chế thị trường cũng dẫn tới tình trạng thất nghiệp, phân hóa
giàu nghèo, tạo điều kiện thúc đẩy các loại tội phạm trong quá trình phát triển,
đây chính là mặt trái của quá trình phát triển của xã hội. Mặc dù các quy định
của BLHS nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung luôn luôn cố gắng hoàn
thiện những thiếu sót về văn bản hướng dẫn thi hành để từ đó, tạo nền tảng cho
quá trình áp dụng trong thực tiễn đạt kết quả cao nhất. Đây chính là hành lang
pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình nói chung trên thực tế. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh danh đưa ra một số dự
báo về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc như sau:
- Về số vụ và số người tham gia thực hiện: có xu hướng tăng lên đặc biệt
tội phạm có tính chất chuyên nghiệp ngày càng nhiều. Tính chuyên nghiệp được
thể hiện ở thủ đoạn, hành vi phạm tội về loại tội phạm đánh bạc. Số người tham
gia trong các vụ án có xu hướng gia tăng.
- Về hình thức thực hiện tội phạm vẫn rất đa dạng, những hình thức mới
có thể xuất hiện, sự dụng công nghệ điện tử và thông tin hiện đại và được thể
hiện dưới nhiều hình thức biến tướng dưới nhiều hình thức.
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOTLuận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
Luận văn: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết ngườiĐịnh tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
Định tội đối với tội phạm có đồng phạm trong một số vụ án giết người
 
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, HOTĐề tài: Tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, HOT
Đề tài: Tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, HOT
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú YênBáo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
Báo Cáo Thực Tập Tại Viện Kiểm Sát Nhân Dân Huyện Thanh Chương, Tỉnh Phú Yên
 
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAYĐề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, HOT
 
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụChính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
Chính sách pháp luật hình sự đối với các tội phạm về chức vụ
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự, 9đ
 
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình PhướcBáo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
Báo cáo thực tập kiểm sát viên viện kiểm sát huyện Phú Riềng, Bình Phước
 

Similar to Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc

Similar to Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc (20)

Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh BạcKhóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc
 
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAYĐề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
Đề tài: Phòng, chống các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, HAY
 
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đĐề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
Đề tài: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 9đ
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luậtLuận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đLuận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
Luận văn: Định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật, HAY, 9đ
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sảnĐề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà TĩnhLuận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
Luận văn: Các tội phạm về cờ bạc theo luật thực tiễn tỉnh Hà Tĩnh
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng NamLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HAY
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HAYLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HAY
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HAY
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án làm hư hỏng tài sản
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án làm hư hỏng tài sảnLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án làm hư hỏng tài sản
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án làm hư hỏng tài sản
 
Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYChứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Chứng minh trong điều tra vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp điều tra theo pháp luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
Quyết định hình phạt đối với tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM, HAY - Gửi miễn ph...
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 

More from Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com

More from Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com (20)

Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và IndonesiaLuận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng KhoánLuận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
 
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel IIILuận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
 
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng ChaiLuận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty BonjourLuận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao NhậnLuận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
 
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà MauLuận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú NhuậnLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú Nhuận
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh NhânLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông NghiệpLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân HàngLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
 
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lờiLuận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
 
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLSĐồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
Đồ án Công Nghệ Truyền Số Liệu L3VPN MPLS
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 31-39)...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
Báo cáo bài tập Quản trị Marketing Kế hoạch marketing cho ống hút cỏ của Gree...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi phápHệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
Hệ thống ca dao than thân người Việt từ góc nhìn thi pháp
 
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 

Khóa Luận Thực Hành Quyền Công Tố, Kiểm Sát Điều Tra Các Vụ Án Đánh Bạc

  • 1. 1 BỘ CÔNG AN HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN NGUYỄN VIỆT PHƯƠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM THÀNH PHỐ HÀ NỘI Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Luật HÀ NỘI, 2022
  • 2. 2 BỘ CÔNG AN HỌC VIỆN CẢNH SÁT NHÂN DÂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Họ tên sinh viên: Nguyễn Việt Phương Lớp: L2 Khóa: K3 Người hướng dẫn: PGS.TS Trần Hải Âu HÀ NỘI, 2022
  • 3. 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của bản thân tôi. Các thông tin, số liệu sử dụng trong khóa luận là trung thực, chính xác do Cơ quan ... cung cấp. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng, kết quả nghiên cứu của khóa luận không sao chép bất kỳ công trình nào. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm và chịu mọi hình thức kỉ luật. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Sinh viên Nguyễn Việt Phương
  • 4. 4 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Từ được viết tắt BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KTQT Kinh tế quốc tế KSXX Kiểm sát xét xử phúc thẩm NN Nhà nước QLNN Quản lý Nhà nước QCN Quyền con người TA Tòa án THTT Tiến hành tố tụng THQCT Thực hành quyền công tố VAHS Vụ án hình sự VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU
  • 5. 5 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến hết sức tích cực: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, an ninh được bảo đảm. Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền con người được xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc đảm bảo tốt hơn quyền con người là mục tiêu hướng tới của mình để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Quận Nam Từ Liêm là một trong 12 quận nội thành của thành phố Hà Nội, nằm phía Tây của thủ đô, giáp với nhiều quận khác của trung tâm thành phố Hà Nội, quận được coi là địa bàn phức tạp về các loại tội phạm, có vị trí hết sức quan trọng trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Những năm gần đây, lợi dụng đặc điểm địa bàn tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc nói riêng hoạt động trên địa bàn Nam Từ Liêm có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm, phương thức thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, gây nhiều khó khăn cho công tác phòng ngừa và đấu tranh. (có số liệu chứng minh) Nhận thức được vai trò, trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra đối với các loại tội phạm nói chung và tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc nói riêng. Trong những năm qua Viện Kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã tăng cường các biện pháp trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc và đã thu được những kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những thiếu sót nhất định, hiệu quả chưa cao. Xuất phát từ thực tế trên, trên cơ sở nghiên cứu các văn bản liên quan đến tội phạm tổ chức đánh bạc và
  • 6. 6 đánh bạc và thực tế quá trình sau 6 tháng thực tập tại quận Nam Từ Liêm, yêu cầu đòi hỏi những lí luận và thực tiễn về nâng cao vai trò trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc và đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thành phố Hà Nội” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra đối với các vụ án nói chung và các vụ án về tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói riêng là vấn đề quan trọng, đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức. Xung quanh vấn đề thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra theo chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau, có thể kể đến như: (Nêu một số công trình đã đề cập nghiên cứu) Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập, nghiên cứu, phân tích về phòng chống tội phạm và hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân đối với các cơ quan chức năng trong phòng chống tội phạm, luận giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liên vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu. Song, kết quả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu trên là những tiền đề quan trọng để tôi tiếp cận, tiếp tục nghiên cứu ở góc độ chuyên sâu trong tình hình mới. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những giá trị của các công trình trên và để góp phần làm cụ thể hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc,
  • 7. 7 đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm. Đồng thời tìm ra những giải pháp cụ thể mang tính hệ thống nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của đề tài : Nghiên cứu, làm rõ những kiến thức tổng quát về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Thực trạng tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc, kết quả phòng ngừa, đấu tranh, điều tra, truy tố, xét xử. Cũng như thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Trên cơ sở đó phân tích, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế, thiếu sót; chỉ ra những nguyên nhân của những bạn chế, thiếu sót về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Từ đó đưa ra các dự báo trong thời gian tới và đề xuất phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên khóa luận cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: - Khái quát nhận thức chung các vấn đề liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. - Phân tích các quy định pháp luật về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Kết quả các biện pháp Viện Kiểm sát nhân dân đã tiến hành trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. - Nghiên cứu tình hình điều tra tội phạm và thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm.
  • 8. 8 - Nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện Kiểm sát nhân dân, những vấn đề lý luận và thực tiễn. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Về nội dung: Tập trung vào qui định của pháp luật về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc, những vấn đề lý luận, thực tiễn. Thực trạng áp dụng pháp luật đối với hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân. - Về địa bàn: Nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trên địa bàn quận Nam Từ Liêm. - Về thời gian: Nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến hết năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng, của Nhà nước và Pháp luật về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Đồng thời kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu liên quan. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp khảo sát thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh số liệu; phương pháp chuyên gia… 6. Ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn của đề tài
  • 9. 9 - Ý nghĩa khoa học: Phát triển và bổ sung nhận thức lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động, học tập, nghiên cứu khoa học trong các trường luật. - Ý nghĩa thực tiễn: Các giải pháp mà đề tài đưa ra sẽ phần nào giúp các cơ quan chức năng trên địa bàn tham khảo và vận dụng vào thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả trong chỉ đạo thực hiện đối với hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa luận chia thành chương: Chương 1: Nhận thức chung về thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân và thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm Chương 2: Dự báo tình hình và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
  • 10. 10 CÁC VỤ ÁN TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC, ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NAM TỪ LIÊM 1.1. Nhận thức về điều tra tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc và hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Nhận thức về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc và hoạt động điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc 1.1.1.1. Khái niệm Bộ luật Hình sự được Quốc hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2017 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội. Xuất phát từ bản chất tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật thì trên thực tế việc xây dựng các cơ sở pháp lý nhằm xử lý các hành vi phạm cho xã hội, đồng thời, đề xuất các chế tài xử lý vi phạm nhằm xử lý các hành vi vi phạm là điều cần thiết. Trên cơ sở vận hành hoạt động của nhà nước thì việc xây các chế định về luật hình sự, tố tụng hình sự là điều rất cần thiết. Theo quy định của BLHS 2015 được xây dựng và phát triển trên nền tảng Hiến pháp 2013 với các quy định về quyền con người, quyền công dân để phù hợp với sự phát triển của đất nước. Điều 3 Hiến pháp 2013 đã có các quy định
  • 11. 11 để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân1 nên khái niệm về tội phạm đã mở rộng hơn so với quy định của BLHS 1999, sửa đổi bổ sung: Điều 8. Khái niệm tội phạm 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự2 Như vậy, trên thực tế BLHS năm 2015 đã mở rộng 9 phạm vi chủ thể áp dụng. Theo đó, chủ thể của tội phạm bao gồm cả: con người và pháp nhân thương mại. Quy định trên cho thấy, pháp nhân thương mại trước hết phải là pháp nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 hiện hành. Từ khái niệm tội phạm, để tìm hiểu và phân tích cụ thể khái niệm đặc điểm, dấu hiệu pháp lý của các tội về tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo quy định pháp luật hiện hành thì với điểm xuất phát là tệ nạn cờ bạc và có sự gắn bó chặt chẽ với nhau. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm thì việc tìm hiểu khái niệm về đánh bạc là tiền đề cơ bản để thì cần hiểu đánh bạc là gì? Đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do vậy, tội phạm này được quy định trong Luật hình sự Việt Nam rất sớm. Theo từ điển Pháp luật phổ thông của Trần Văn Thắng (chủ biên) thì 1 Hiến pháp 2013 2 Xem khoản 1 Điều 8 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung
  • 12. 12 đánh bạc là “tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được thua kèm theo việc được hoặc mất lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác”3 . Như vậy, trong trò chơi đánh bạc thì sự thắng thua sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như may rủi, tính toán, suy luận của người chơi. Trên cơ sở đó thì có thể đưa ra khái niệm đánh bạc theo quy định tại Nghị quyết số 01/2010/NQHĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999 như sau: “Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp”4 . Từ những phân tích và cơ sở pháp lý trên có thể hiểu: “Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi được tổ chức trái pháp luật (dưới bất kỳ hình thức nào), được thua bằng tiền hay hiện vật từ năm triệu đồng trở lên, hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc và gá bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng”. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tội phạm này là Sắc lệnh số 468 năm 1948. Trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985, tội đánh bạc được quy định trong Sắc luật số 03 năm 1976. Trong Bộ luật hình sự năm 1985 và năm 1999, tội đánh bạc đều được quy định thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng. Tuy nhiên, trong Bộ luật hình sự năm 1999, tội đánh bạc được quy định cụ thể hơn với những dấu hiệu cụ thể giúp việc phân biệt giữa đánh bạc là tội phạm và đánh bạc là vi phạm cũng như với các dấu hiệu định khung hình phạt để phân hoá trách nhiệm hình sự giữa các trường hợp phạm tội đánh bạc. Theo Bộ luật 3 Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp Hà Nội 4 Hội đồng thẩm phán TAND tối cao (2010), Nghị quyết số 01/2010/NQHĐTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 BLHS năm 1999.
  • 13. 13 hình sự năm 1999, hành vi đánh bạc chỉ bị coi là tội phạm khi tiền hoặc hiện vật đánh bạc có giá trị lớn hoặc khi chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi cờ bạc (đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc), chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Theo Bộ luật hình sự năm 1999, hành vi đánh bạc chỉ bị coi là tội phạm khi tiền hoặc hiện vật đánh bạc có giá trị lớn hoặc khi chủ thể đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi cờ bạc (đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc), chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Đối với tội tổ chức đánh bạc, hành vi được mô tả trong các tội này gắn bó chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc mang tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc). Do vậy, để nghiên cứu khái niệm tội tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong nhóm các tội đánh bạc. Tội tổ chức đánh bạc đã được quy định tại BLHS năm 1985. Tuy nhiên, điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Đến khi BLHS năm 1999 được thông qua và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội tổ chức đánh bạc tiếp tục được quy định tại Điều 249, theo đó: “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm”5 . Đến BLHS năm 2015 đã có những quy định và các hình thức chế tài cụ thể hơn cho các hành vi tổ chức đánh bạc, cụ thể, tại Điều 322 BLHS năm 2015 quy định, “người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm d khoản này thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; nếu phạm tội trong trường hợp có các tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2 5 Điều BLHS 1999, sửa đổi bổ sung
  • 14. 14 Điều 322 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm” 6 . Trên cơ sở quy định của BLHS 2015, sửa đổi bổ sung thì có thể đưa ra khái niệm tổ chức đánh bạc như sau: Tổ chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh bạc với tư cách là chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào. Như vậy, tổ chức đánh bạc là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự xã hội, thúc đẩy và tạo điểu kiện cho hành vi đánh bạc là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu đến gia đình và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Hay nói cách khác tổ chức đánh bạc, xét về bản chất là hành vi đồng phạm đánh bạc thể hiện ở hành vi rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác tham gia đánh bạc nhưng có thêm dấu hiệu riêng là mục đích trục lợi. Đây là loại hành vi xảy ra tương đối phổ biến cùng với hành vi đánh bạc. Do vậy, hành vi tổ chức đánh bạc được quy định thành tội danh riêng. 1.1.1.2. Dấu hiệu đặc trưng và pháp lý của tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc * Đối với tội tổ chức đánh bạc: Tổ chức đánh bạc, được hiểu là hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người tham gia vào việc đánh bạc thì các yếu tố cấu thành tội phạm được thể hiện như sau: + Về mặt khách quan Đối với hành vi tổ chức đánh bạc thì có một trong các hành vi sau: có hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người (từ hai người trở lên) tham gia đánh bạc. Thông thường người đứng ra tổ chức có sự chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp kế hoạch đánh bạc rồi mới tập hợp, rủ rê những người khác tham gia. Hành vi tổ chức đánh bạc phải là trái phép, tức là không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung giấy phép. 6 Xem Điều 322 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung
  • 15. 15 Về các dấu hiệu khác thì ngoài dấu hiệu về hành vi nêu trên còn phải có một trong hai dấu hiệu bắt buộc sau đây: - Tổ chức đánh bạc với quy mô lớn. - Tổ chức đánh bạc trong cùng một lúc cho từ mười người đánh bạc trở lên hoặc cho từ hai chiếu bạc trở lên; - Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; khi đánh bạc có phân công ngưòi canh gác, người phục vụ, có sắp đặt lối thoát khi khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện như ô tô, xe máy, điện thoại…để trợ giúp cho việc đánh bạc; - Người thực hiện một trong các hành vi nêu trên nếu không thuộc trường hợp được coi là có quy mô lớn thì phải thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc hoặc bị kết án về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này. + Về khách thể: Cũng như đối với tội hành nghề mê tín, dị đoan và tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc là tội xâm phạm đến trật tự công cộng, mà trực tiếp xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh của xã hội, vì cờ bạc nói chung và tổ chức hoặc gá bạc nói riêng cũng là một tệ nạn của xã hội. + Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Lỗi cố ý là lỗi trong trường hợp chủ thể có ý thức lựa chọn hành vi phạm tội mặc dù có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội. Lỗi cố ý là một trong hai loại lỗi theo Luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi cố ý có tính nguy hiểm cao hơn. Loại lỗi này đòi hỏi các dấu hiệu: (i) Hành vi khách quan mà chủ thể thực hiện là hành vị có tính chất phạm tội (hành vi có các dấu hiệu khách quan mà cấu thành tội phạm đòi hỏi); (ii) Chủ thể ý thức được tính chất phạm tội của hành vi được thực hiện; (iii) Chủ thể đã lựa chọn hành vi có tính
  • 16. 16 chất phạm tội đó khi có điều kiện lựa chọn hành vị khác. Lỗi cố ý được luật hình sự phân thành hai hình thức. Đó là lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Hai hình thức lỗi này khác nhau ở lí do của việc chủ thể lựa chọn xử sự phạm tội. Cố ý trực tiếp là trường hợp cố ý, trong đó, chủ thể lựa chọn xử sự phạm tội vì xử sự đó phù hợp với mục đích của mình. + Chủ thể: Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật; người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. Nếu tổ chức đánh bạc trái phép với quy mô chưa lớn thì người có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc phải là người đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc, hoặc đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc. + Về hình phạt của tội tổ chức đánh bạc: Mức phạt của tội này được chia làm hai khung, cụ thể như sau: (i) Khung một (khoản 1): Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Tổ chức, sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu, quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên mà số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; b) Tổng số tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần có giá trị 20.000.000 đồng trở lên;
  • 17. 17 c) Tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc; phân công người canh gác, người phục vụ, sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc; d) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. (ii) Khung hai (khoản 2): Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên; c) Tái phạm nguy hiểm. (iii) Hình phạt bổ sung (khoản 3): Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể bị:phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hai là, cấu thành tội phạm tội Đánh bạc (Điều 321) + Thứ nhất, chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội đánh bạc không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định theo luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó: (i) Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội mà mình gây ra; (ii) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng theo pháp luật quy định. Như vậy, cứ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể của tội đánh bạc nếu có hành vi vi phạm đủ cấu thành tội đánh bạc.
  • 18. 18 + Thứ hai, mặt chủ quan của tội phạm : Tội phạm này thực hiện với lỗi cố ý. Động cơ phạm tội là sát phạt nhau, tư lợi và mục đích là nhằm lấy tiền, tài sản từ người thua bạc. + Thứ ba, khách thể của tội phạm: Đánh bạc là hành vi bị xã hội lên án và nghiêm trị. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh trật tự công cộng, ảnh hưởng tới cuộc sống của chính mỗi gia đình, nếp sống văn minh của xã hội vì đây được xem là một tệ nạn xã hội. + Thứ tư, mặt khách quan của tội phạm: Theo đó, hành vi khách quan: (i) Có sự thỏa thuận thắng thua bằng tiền hay bằng hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Trường hợp tiền hay hiện vật có giá trị dưới năm triệu đồng thì phải thuộc trường hợp đã bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội đánh bạc. (ii) Trường hợp người phạm tội đã có hành vi đánh bạc trái phép và tiền hay hiện vật đánh bạc có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên: Về tiền và hiện vật đánh bạc được xác định chính là tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ ở chiếu bạc, thu được trong người đánh bạc hay ở những nơi khác mà đủ cơ sở để xác định đã được hay sẽ được dùng để đánh bạc. Hành vi đánh bạc cấu thành tội phạm khi giá trị tiền đánh bạc từng lần có trị giá từ 5.000.000 đồng trở lên. (iii) Phân biệt các trường hợp khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc: + Trường hợp tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu (5.000.000 đồng) để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh đó.
  • 19. 19 + Trường hợp đánh bạc từ 2 lần trở lên mà mỗi lần đánh có tổng tiền, giá trị hiện vật bằng hoặc trên mức tối thiểu thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc kèm với tình tiết tăng nặng là phạm tội 2 lần trở lên quy định ở Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. + Trường hợp có nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với mỗi người là tổng số tiến, giá trị hiện vật của tất cả người cùng đánh bạc lúc đó. + Trường hợp đánh bạc mà tổng số tiền để đánh bạc của từng lần đánh đều ở dưới mức tối thiểu 5.000.000 đồng (chưa từng bị kết án về một trong các tội đánh bạc hoặc tổ chức đánh bạc hoặc chưa được xóa án tích) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. + Trường hợp một lần chơi lô đề, cá độ bóng đá, đua ngựa…để tính là một lần đánh bạc chính là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa hay một trận bóng đá…người chơi chia làm nhiều đợi để chơi thì trách nhiệm hình sự được xác định cho người chơi một lần đánh chính là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong tất cả đợt đó. Hậu quả: Tội đánh bạc chỉ quy định hành vi khách quan mà không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Biết là đánh bạc đem lại nhiều hậu quả ảnh hưởng nghiêm trọng tới cho gia đình xã hội như hạnh phúc gia đình tan vỡ, khiến cho tình trạng tội phạm có thể diễn ra nhiều hơn như trộm cắp, cướp, giết người, gây rối trật tự công cộng… Pháp luật không quy định hậu quả là yếu tố định tội vì hậu quả mà tội đánh bạc gây ra có thể cấu thành tội phạm khác thậm chí có yếu tố nguy hiểm hơn tội đánh bạc. Lúc đó, đánh bạc mà gây ra những hành vi gây tội khác thì người phạm tội bị truy cứu đối với tội tương ứng theo luật định. Về mức hình phạt: Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 2 khung hình phạt:
  • 20. 20 – Khung hình phạt cơ bản có mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. – Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm áp dụng cho trường hợp phạm tội sau: + Có tính chất chuyên nghiệp chính là sử dụng việc đánh bạc làm nguồn sống chính. + Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50 triệu đồng trở lên. + Sử dụng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội. + Tái phạm nguy hiểm. Ngoài hình phạt chính nêu trên người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng. 1.1.1.3. Phân biệt tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc Không phải ngẫu nhiên mà từ Bộ luật hình sự năm 1985, năm 1999 và năm 2015 đều quy định tổ chức đánh bạc và gá bạc là hai hình thức phạm tội khác nhau. Vậy gá bạc là gì? Làm sao để phân biệt được hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc? Theo từ điển Bách khoa toàn thư thì: “Gá bạc là hành vi cho sử dụng địa điểm làm nơi thực hiện việc đánh bạc để trục lợi. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật trự xã hội, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc là hành vi không chỉ ảnh hưởng xấu tới gia đình và cá nhân người chơi mà còn có thể là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Là hành vi giúp sức đánh bạc, thể hiện ở việc tạo điều kiện về địa điểm cho người có hành vi đánh bạc nhưng có thêm dấu hiệu riêng là mục đích trục lợi”. Như vậy, gá bạc có nghĩa là không nhất thiết phải trực tiếp tham gia đánh bạc, nhưng người phạm tội gá bạc sử dụng lợi ích vật chất của mình để gián tiếp thực hiện hành vi
  • 21. 21 đánh bạc như: cho người khác mượn nhà, chỗ ở, xe, tàu, thuyền... của mình để đánh bạc; cho người khác vay, mượn, cầm cố, thế chấp tài sản để đánh bạc…với mục đích là thu lợi nhuận cho cá nhân. Trên thực tế, nhiều trường hợp người tổ chức đánh bạc, người gá bạc, người đánh bạc là một người. Còn điểm khác biệt giữa tội đánh bạc và gá bạc là: Tội đánh bạc là hành vi dùng tiền hay các lợi ích vật chất khác để giải quyết việc được, thua trong các trò chơi. Còn tội gá bạc là hành vi dùng nhà ở của mình hoặc các địa điểm thuận lợi khác để chứa đám bạc. 1.1.1.4. Nhận thức về hoạt động điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc Quá trình thực hiện chức năng tăng cường quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội thì hoạt động điều tra các vụ án đánh bạc tổ chức đánh bạc là vô cùng cần thiết. Việc coi trọng và hoàn thiện chính sách hình sự, thủ tục hoàn thiện chính sách tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội của tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói riêng và các tội phạm nói chụng được thực hiện nghiêm túc hơn bao giờ hết. Với yêu cầu về quy định trách nhiệm hình sự nghêm khác đối với các tội phạm về đánh bạc, góp phần tạo môi trường phát triển kinh tế - xã hội lành mạnh. Tệ nạn cờ bạc hiện nay diễn ra rất phổ biến với nhiều hình thức phong phú, tinh vi. Ngoài việc đánh bạc theo các hình thức thông thường dễ nhận biết thì hiện nay đang khá thịnh hành việc sử dụng mạng internet để đánh bạc. Đánh bạc với quy mô lớn, ngoài việc xử phạt người tham gia đánh bạc thì người tổ chức cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Có thể khẳng định, đánh bạc và tổ chức đánh bạc đều là những tệ nạn xã hội thường dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, là nguyên nhân tan vỡ của nhiều gia đình và cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp của giết người, gây mật trật tự trị an và an toàn xã hội. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quan điểm, chủ trương chỉ đạo đấu tranh
  • 22. 22 kiên quyết đối với loại tội phạm này. Trong quá trình xây dựng pháp luật, tùy theo từng giai đoạn phát triển của đất nước mà các nhà lập pháp cũng nghiên cứu để có những quy định và chính sách hình sự phù hợp nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với loại tội phạm này trong xã hội. Trên cơ sở đó, yêu cầu trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự về đánh bạc, tổ chức đánh bạc của Cơ quan điều tra trên thực tế đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tội đánh bạc là tội phạm rất phổ biến, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức cho bộ phận dân cư. Đồng thời, điều này đã gây nhiều thiệt hại về vật chất, tinh thân của gia đình và là nguyên nhân gây ra nhiều loại tệ nạn xã hội khác. Trong những năm trở lại đây thì công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và xử lý các hình thức đánh bạc của cơ quan CSĐT Công an các tỉnh, thành phố đã và đang đặt được nhiều kết quả quan trọng. Trên cơ sở thực hiện nhiều chuyên án lớn thì hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra góp phần tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc đã gây ra cho xã hội. Dưới góc độ chính trị - pháp lý góp phần cụ thể hóa chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội và góp phần bảo đảm sự hoạt động bình thường, ổn định xã hội góp phần thúc đẩy công bằng xã hội dân chủ, văn minh. Việc tiến hành điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc là cơ sở đấu tranh kiên quyết, xử lý nghiêm minh, triệt để, đúng các quy định pháp luật xâm phạm tới trật tự, an toàn xã hội ở các mức độ khác nhau và đảm bảo tính thống nhất trong hoạt động đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, thượng tôn pháp luật của nhà nước trong giai đoạn hội nhập và phát triển. 1.1.2. Nhận thức về hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, nguyên tắc
  • 23. 23 Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. BLTTHS năm 2015 chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự; giai đoạn truy tố vụ án hình sự; giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Riêng giai đoạn thi hành án hình sự đã được tách ra và điều chỉnh theo Luật thi hành án hình sự năm 2010. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS năm 2015 quy định trong 9 chương, từ Chương IX đến Chương XVII. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án. 1.1.2.2. Cơ sở pháp lý Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của Viện kiểm sát là: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các
  • 24. 24 hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật7 . Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân nói chung Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh nói riêng có nhiệm vụ: “bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013)8 ; Đồng thời, điều này được “Bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. (Khoản 2 Điều 2 Luật TCVKSND 2014)9 . Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất., góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 đã khẳng định vai trò quan trọng của VKS nên trước yêu cầu của công cuộc cải cách VKSND tỉnh Kiên Giang đã và đang tuân thủ nghiêm túc các quy định trên nhằm làm tốt vai trò của mình trong tiến trình cải cách tư pháp đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. 1.1.2.3. Nội dung quyền thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra vụ án hình sự 7 Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 8 Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 9 Quốc hội (2013), Hiến pháp, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
  • 25. 25 Theo quy định tại Điều 210 Luật tổ chức VKSND 2014 quy định rõ chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng với sự thay đổi của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ta. Trên cơ sở đó thì khẳng định rõ VKSND có chức năng quan trọng là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. * Chức năng thực hành quyền công tố Hiện nay, ở nước ta thì quyền công tố và thực hành quyền công tố là những khái niệm được nhắc đến nhiều trong luật TTHS nước ta khi đề cập chức năng của viện kiểm sát các cấp. Điều 138 Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên quy định VKSNDTC nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật... thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các VKS các địa phương và VKS quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình. Quy định đó cũng được nhắc lại trong Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND và các văn bản pháp luật TTHS khác cũng có những quy định tương tự. Trong khoa học luật TTHS, việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề đó giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí của viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng; xác định rõ chức năng của viện kiểm sát, đặc biệt là trong TTHS; từ đó có những quyết định đúng đắn về tổ chức viện kiểm sát các cấp. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước đang triển khai thực hiện các nghị quyết lần thứ 8 khoá VII, lần thứ 3 và thứ 7 khóa VIII của Ban chấp hành trung ương Đảng về cải cách bộ máy nhà nước. 10 Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (Luật tổ chức VKSND 2014) 1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
  • 26. 26 Vấn đề khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau. Có tác giả đề cập khi giải quyết các vấn đề chung của tố tụng hình sự; có những bài viết có tính chất chuyên khảo phân tích có hệ thống về quyền công tố) và gần đây có một số luận án thạc sĩ cũng đề cập quyền công tố trong từng phạm vi khác nhau (trong giai đoạn điều tra, trong xét xử sơ thẩm...). Mặc dù vậy, quyền công tố và thực hành quyền công tố vẫn đang là vấn đề phức tạp, đang có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau đòi hỏi phải được bàn luận tiếp. Hiện nay, trong sách báo pháp lí nước ta đang có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố của viện kiểm sát. Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính như sau: - Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm 1980 khi hiến pháp chưa có quy định về chức năng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát và cũng xuất phát từ quan niệm phổ biến của các nhà TTHS học Xô viết trước đây. - Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt nhà nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì vậy, VKS thực hành quyền công tố không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác. - Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại phiên tòa. - Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và
  • 27. 27 thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này phổ biến trong các nhà nước có sự phân chia quyền lực. Để xác định khái niệm quyền công tố, cần phải khẳng định một số vấn đề sau đây: Thứ nhất, quyền công tố là quyền của nhà nước. Nhà nước uỷ quyền cho cơ quan cụ thể thực hiện quyền này trong bộ máy cơ quan nhà nước phân quyền hoặc phân công thực hiện chức năng; thứ hai, quyền công tố về thực chất là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều đó, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải điều tra, xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa; thứ ba, quyền công tố mang tính cụ thể, tức chỉ xuất hiện trong trường hợp tội phạm cụ thể đã được thực hiện và đối với những người phạm tội cụ thể. Không tồn tại quyền công tố chung chung. Từ những nhận thức trên, có thể đưa ra khái niệm quyền công tố là quyền của cơ quan nhà nước được nhà nước uỷ quyền thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm đưa người đó ra xét xử trước tòa án và đồng thời bảo vệ sự buộc tội đó. Ở nước ta trong giai đoạn này được giao cho Viện kiểm sát để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để thực hiện tốt quyền này thì VKS phải có quyền và nghĩa vụ thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó thì có quyết định truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử theo đúng quy định của pháp luật. Từ đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014 quy định: Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trên cơ
  • 28. 28 sở đó thì tại khoản 1 của Điều 6 – Luật tổ chức VKSND 2014 đã ghi rõ VKS thực hiện chức năng này bằng các công tác11 , tạo điều kiện cho việc thực hiện các VKSND trên thực tế. Trong hệ thống tư pháp, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được pháp luật trao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố. Đây là một chức năng, nhiệm vụ hết sức quan trọng, khẳng định vị trí trọng yếu của Viện kiểm sát trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nói chung và ở tỉnh Kiên Giang nói riêng sẽ đảm bảo khắc phục được tình trạng oan, sai và bỏ lọt tội phạm, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của toàn bộ hệ thống tư pháp, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. * Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước luôn là yếu tố không thể thiếu được để các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan Nhà nước của nước ta, hệ thống các cơ quan tư pháp có vị trí và vai trò rất quan trọng. Hoạt động tư pháp ở nước ta được tiến hành bởi nhiều cơ quan, ở nhiều địa phương và liên quan tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động tư pháp bao gồm: Việc phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ trong các vụ án hình sự do Cơ quan điều tra thực hiện; hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, kiểm sát điều tra, kiểm sát giam giữ, cải tạo, kiểm sát xét xử, kiểm sát thi hành án do VKS thực hiện. Hoạt động tư pháp thực chất là hoạt động do các cơ quan tư pháp thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Chính vì vậy, cơ chế giám sát hoạt động tư pháp là phương thức tổ chức và vận hành theo những nguyên tắc, những quy 11 Điều 6. Các công tác của Viện kiểm sát nhân dân – luật TCVKSND 2014
  • 29. 29 định của pháp luật và phương tiện pháp lý tác động và làm cho hoạt động của các cơ quan tư pháp theo đúng pháp luật, ngăn ngừa vi phạm, sự lạm dụng quyền hạn và các hành vi tiêu cực khác, nhằm nâng cao trách nhiệm pháp lý của các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ tư pháp, để pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực tế cho thấy, từ khi có Hiến pháp năm 1959 đến nay, Quốc hội không thể và không cần thiết phải tự mình trực tiếp giám sát toàn bộ hoạt động của các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Quốc hội đã giao cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong phạm vi được Quốc hội giao cho. Việc Quốc hội giao cho VKS thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội trước đây và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp hiện nay là xuất phát từ chỗ VKS do cơ quan lập pháp cao nhất của Nhà nước là Quốc hội lập ra, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất và độc lập so với các cơ quan Nhà nước khác. VKS là cơ quan không nằm trong hệ thống các cơ quan hành pháp và cơ quan xét xử. Mặt khác, Quốc hội đã giao cho VKS thực hiện quyền giám sát việc tuân thủ pháp luật như nêu ở trên, còn xuất phát từ nhu cầu và sự đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, đòi hỏi sự nhất trí về mục đích hành động trong nhân dân, giữa nhân dân và Nhà nước, giữa các ngành, các cơ quan Nhà nước với nhau. Theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật TCVKSND 2014 thì VKS thực hiện cả chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thực tế đã chứng minh rằng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội từ năm 1960 đến năm 2014 và hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp từ năm 2014 đến nay đã có kết quả tốt, góp phần quan trọng vào việc xây dựng và chấp hành pháp luật trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Theo quy định tại Luật tổ chức
  • 30. 30 VKSND 2014 quy định tại khoản 1 Điều 412 . Với chức năng nhiệm vụ như trên thì VKSND thực hiện chức năng trên thông qua các công tác theo khoản 2 Điều 613 sau: 1.1.2.4. Biện pháp tiến hành Hoạt động THQCT và KSĐT của VKSND được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn của những người được phân công tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đối tượng KSĐT của VKSND là hoạt động điều tra của cơ quan điều tra và hoạt động của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Tại Khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định: “Viện kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và Luật này; phải phát hiện kịp thời và yêu cầu, kiến nghị CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vu phạm pháp luật trong hoạt động điều tra.” BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sảt, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nhằm nâng cao chức năng THQCT và KSĐT. Các chủ thể THQCT và KSĐT đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc bắt đầu từ khi có tố giác hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, tin báo về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc hoặc kiến nghị khởi tố vụ án hình 12 Điều 4. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân 13 Khoản 2- Điều 6 Luật TCVKSND 2014 quy định:
  • 31. 31 sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc (có nguồn tin báo về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc) và kết thúc thuộc một trong ba trường hợp đó là: Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ việc giải quyết nguồn tin báo về tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc; khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc hoặc khi cơ quan có thẩm quyền kết thúc điều tra, ban hành kết luận điều tra đối với vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc và chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát để đề nghị truy tố các bị can. Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2104 khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ, quyền hạn đã được ghi nhận. Với các quy định của Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì cơ quan có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là Viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền của những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể, chặt chẽ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong THQT và trong hoạt động kiểm sát điều tra. Điểm mới trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 liên quan đến vấn đề thực hành quyền công tố là hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để yêu cầu cơ quan CSĐT tiến hành hoạt động điều tra, đây là nhiệm vụ được coi là quan trọng nhất của VKS trong giai đoạn này. Để bảo đảm hoạt động điều tra được tiến hành tốt, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bám sát quá trình hoạt động của cơ quan điều tra nhằm kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra một cách toàn diện để đảm bảo quá trình điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật và việc giải quyết vụ án đúng
  • 32. 32 người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát có quyền trực tiếp thực hiện một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật như: Hỏi cung bị can; Ghi lời khai bị hại, người làm chứng, người liên quan; Tiến hành đối chất;…để củng cố các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm đánh giá một cách khách quan và toàn diện toàn bộ vụ án.14 Đồng thời, đối với các vụ án có tính chất phức tạp, còn nhiều quan điểm khác nhau thì tăng cường họp liên ngành; Kiểm sát viên, Điều tra viên cần tăng cường trao đổi thống nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án. Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thay đổi theo hướng tăng cường trách nhiệm của VKS khi kiểm sát điều tra các vụ án hình sự được quy định cụ thể tại Điều 166 BLTTHS góp phần nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung, THQCT&KSĐT vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc được nhanh chóng, chống oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Các chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm trách pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra trong thực tế. 1.1.2.5. Quan hệ phối hợp Viện kiểm sát chủ động phối hợp với cơ quan điều tra là nhiệm vụ quan trọng cho sự thành công của các vụ án. Trong các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc được phát hiện xử lý thì số lượng các vụ án có sử dụng đặc tình chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS được thể hiện trên hai phương diện: Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS là quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng khi tham gia vào mối quan hệ cùng hoạt động trong phạm vi, chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật trong quan hệ hỗ trợ nhau trong giải quyết điều tra vụ án hình sự. Đó chính là sự liên kết giữa 14 Điều 165 BLTTHS 2015
  • 33. 33 hai cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định pháp luật. Mối quan hệ chế ước giữa cơ quan điều tra và VKS trong quá trình điều tra các vụ án hình sự là sự hạn chế lẫn nhau giữa các chủ thể tiến hành tố tụng trong các điều kiện nhất định bởi các quan hệ pháp luật nhằm đảm bảo tính khách quan, chính xác trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Do vậy, khi phê chuẩn khởi tố bị can, Kiểm sát viên cần chú ý phát hiện các tài liệu trinh sát chưa được chuyển hóa chứng cứ để phối hợp với Điều tra viên tiến hành loại các tài liệu này ra khỏi hồ sơ tố tụng và chuyển hóa chứng cứ, bảo vệ đặc tình. Kiểm sát viên cần xây dựng mối quan hệ tốt với Điều tra viên. Khi Điều tra viên thu thập tài liệu đến đâu thì yêu cầu chuyển ngay cho Kiểm sát viên đề cùng nghiên cứu, phối hợp đề ra yêu cầu điều tra. Kiểm sát viên phải chủ động, chú trọng tham gia hoặc tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án. 1.2. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn quận Nam Từ Liêm 1.2.1. Tình hình diễn biến, động thái , cơ cấu, tính chất và đặc điểm của tội phạm tổ chức đánh bạc và đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm Quận Nam Từ Liêm được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27/12/2013 của Chính phủ về điều chỉnh địa giới hành chính huyện Từ Liêm để thành lập 02 quận và 23 phường thuộc Thành phố Hà Nội. Về mặt kinh tế, năm 2018, kinh tế quận duy trì tăng trưởng khá (tăng 15,5%). Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn hoàn thành kế hoạch. (Thu từ cho thuê nhà tăng 20%; thuế xây dựng nhà ở tư nhân tăng 30%; thuế xây dựng vãng lai từ các doanh nghiệp tỉnh
  • 34. 34 ngoài tăng 66%). An sinh và phúc lợi xã hội được đảm bảo; đặc biệt là thực hiện tốt chế độ chính sách cho các đối tượng xã hội, người có công.. Tình hình an ninh - chính trị trên địa bàn toàn quận trong những năm qua được đảm bảo khá tốt. Mặc dù là một thành phố đông dân số nhưng hằng năm tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vẫn được các cơ quan hữu quan đảm bảo. Chính vì điều này đã góp phần đảm bảo cho diện mạo của toàn thành phố được khởi sắc, đồng thời cũng góp phần vào sự thay đổi của cơ cấu kinh tế của quận Nam Từ Liêm trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay. Có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội, nhưng trong những năm gần đây, quận Nam Từ Liêm cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác, trong đó có diễn biến phức tạp về tình hình tội phạm nói chung. Việc gia tăng về số vụ và số đối tượng phạm tội không chỉ ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, mà còn trực tiếp xâm phạm đến các khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Đa phần trên địa bàn quận Nam Từ Liêm thường xảy ra các tội phạm liên quan đến nhóm tội sở hữu, nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người dân, tội phạm về đánh bạc. Thực tế này phần nào đã phản ánh tính chất manh động, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của người phạm tội trong các vụ án xâm phạm về sở hữu và trật tựu công cộng thì những vụ đánh bạc nổi lên với tính chất phức tạp, đồng phạm, có sự tổ chức chặt chẽ của các đối tượng tham gia. Quá trình điều tra xảy ra nhiều tình tiếp phức tạp, cần phải điều tra bổ sung để xử lý theo đúng quy định pháp luật về hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc nói chung. Công tác quản lý về vấn đề này của các cơ quan NN có thẩm quyền trên thực tế chưa đạt hiệu quả cao. Tệ nạn cờ bạc, cá độ còn diễn ra nhiều nơi trên địa bàn quận chưa có dấu hiệu giảm bớt. Đây chính là những vấn đề nhức nhối trong công tác phòng ngừa tội phạm mà các cơ quan NN có thẩm quyền trong công tác này.
  • 35. 35 Thời gian vừa qua, tình hình tội phạm đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm đang có chiều hướng gia tăng với thủ đoạn cực kỳ tinh vi, hầu hết các đối tượng tham gia đánh bạc đều có tiền án, tiền sự và có máu mặt, các đối tượng đến từ nhiều tỉnh, thành khác nhau gây lo lắng trong nhân dân. Theo lãnh đạo phòng Cảnh sát hình sự, Công an quận Nam Từ Liêm, thủ đoạn của các đối tượng này ngày càng tinh vi, nhằm “qua mắt” lực lượng chức năng, bọn chúng thường lợi dụng địa bàn giáp ranh, nhà cao tầng, tổ chức canh gác chặt chẽ… để tổ chức đánh bạc gây khó khăn cho công tác phát hiện, triệt phá. Đối tượng đánh bạc gồm nhiều thành phần “bất hảo” tiền án, tiền sự, không chỉ có người tại địa phương mà còn có người từ nhiều tỉnh, thành phố khác đến, có cả thanh niên, người cao tuổi, có nhóm đánh bạc chỉ là phụ nữ… hầu hết các đối tượng đều không có công ăn việc làm, sống lang thang. 1.2.2. Tình hình kết quả hoạt động điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm Trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vai trò của các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố là hết sức quan trọng. Cụ thể, nhiều vụ đánh bạc, tổ chức đánh bạc với quy mô lớn đã được cơ quan bảo vệ pháp luật quận Nam Từ Liêm kịp thời phát hiện và xử lý đúng pháp luật, góp phần giữ vững ổn định tình hình kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn quận. Bảng 2.1. Bảng thống kê số vụ án điều tra về tội đánh bạc nói riêng trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019 Năm 2016 2017 2018 2019 Số vụ điều tra về đánh bạc 11 13 16 20 Số bị can về đánh bạc 49 54 58 69
  • 36. 36 Điều này thể hiện qua biểu đồ sau Biểu đồ 2.1. Biều đồ thống kê số vụ án điều tra về tội đánh bạc nói riêng trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019 1.2.3. Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn quận Nam Từ Liêm Nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc nên trong những năm qua thì Lãnh đạo VKSND quận Nam Từ Liêm và Ủy ban Kiểm sát đã và đang đưa ra những tiêu chí, những phương hướng cụ thể nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của VKSND quận Nam Từ Liêm. Hoạt động kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc cơ bản được ghi nhận thông qua bảng số liệu và biểu đồ dưới đây: Bảng 2.2: Án thụ lý thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc từ năm 2016 – 2019 Đơn vị tính: vụ/bị cáo 0 10 20 30 40 50 60 70 80 2016 2017 2018 2019 Số vụ điều tra về đánh bạc Số bị can về đánh bạc
  • 37. 37 Năm Tổng số án thụ lý Số bị can Thực hiện các hoạt động THQCT (đề ra yêu cầu điều tra) Kiểm sát hoạt động điều tra 2016 11 49 100% 100% 2017 13 54 100% 100% 2018 16 58 100% 100% 2019 20 69 100% 100% Thông qua bảng số liệu và biểu đồ ta nhận thấy tình hình thụ lý và thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của VKS quận Nam Từ Liêm trong những năm gia tăng qua các năm. Tuy nhiên, đây cũng là một trong kết quả đáng ghi nhận của VKS quận Nam Từ Liêm trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm diễn ra trên địa bàn trong những năm qua. Công tác kiểm sát các quyết định của CQĐT Công an quận trích lập hồ sơ đã được Viện kiểm sát quận Nam Từ Liêm chú trọng và thực hiện tốt. 100% các vụ án đều được VKSND quận Nam Từ Liên đều được kiểm sát chặt chẽ cả về nội dung và hình thức, các quyết định và thực hiện theo quy định theo quy định của BLTTHS 2015. Từ những kết quả trên đã đã kịp thời phát hiện những vi phạm của Cơ quan điều tra để tổng hợp, kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm, khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng. 1.3. Nhận xét, đánh giá chung 1.3.1. Những kết quả đã đạt được Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các
  • 38. 38 vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm đã thu được nhiều kết quả không nhỏ, cụ thể là: Một là, đã xây dựng được các quy định của pháp luật, hệ thống chính sách về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc của Việt Nam. Các văn bản pháp luật điều chỉnh những hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc là nền tảng pháp lý quan trọng để các cơ quan NN có thẩm quyền trong việc đối phó với vấn đề này trong công tác phòng ngừa tội phạm. Xây dựng hệ thống văn bản pháp luật cũng như cơ chế chính sách điều chỉnh là việc làm cần thiết. Đầu tiên là các quy định có liên quan đến tổ chức đánh bạc, đánh bạc tại theo quy định BLHS 2015 (có quy định tại Điều 321, Điều 323) và một số văn bản hướng dẫn là kết quả của việc làm này. So với quy định hiện hành về xử lý tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc ở nước ta thì quy định của BLHS 2015 được quy định theo hướng tăng nặng và xử lý các hành vi vi phạm về hoạt động này rộng hơn và đáp ứng phù hợp với sự thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta. Đồng thời, trên cơ sở đó thì tại các địa phương, đặc biệt là một số địa phương trọng điểm là điểm nóng về tổ chức đánh bạc, đánh bạc, các khu vực biên giới đã có sự chỉ đạo thông qua chính sách phát triển kinh tế địa phương để phù hợp với tình hình trên địa bàn CQNN có thẩm quyền quản lý. Từ đó góp phần quan trọng trong việc phòng ngừa tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc ở Việt Nam nói chung và tại quận Nam Từ Liêm nói chung. Hai là, trong cơ chế quản lý, áp dụng pháp luật về THQCT&KSĐT các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc Thời gian qua, Chính phủ và các cơ quan chức năng đã có nhiều biện pháp ngăn chặn, hạn chế tình trạng tổ chức đánh bạc, đánh bạc từ hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện, kiểm tra và xử lý vi phạm gắn với. Đồng thời, thành lập và quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của cơ quan điều tra về các vụ án hình sự trong thực tế. Tăng
  • 39. 39 cường phối hợp với các cơ quan hữu quan là các cơ quan Tư pháp là Viện kiểm sát và Tòa án trong việc điều tra, truy tố và xét xử các hành vi vi phạm về tội phạm này. Việc ban hành các cơ quan chức năng trong hoạt động xử lý các hành vi tổ chức đánh bạc, đánh bạc, đã góp phần quan trọng trong việc đưa các văn bản pháp luật về chủ trương phòng ngừa tổ chức đánh bạc, đánh bạc áp dụng vào hoàn cảnh thực tiễn tại Việt Nam đạt hiệu quả cao trong thời gian gần đây. Ngoài ra, các cơ quan chức năng phối hợp với nhau trong hoạt động cung cấp các thông tin xử lý các vụ án về tổ chức đánh bạc, đánh bạc cũng như các chế tài nghiêm khắc đảm bảo xử lý các hành vi này một cách tiệt để. Bốn là, chủ động hơn trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Các tội tổ chức đánh bạc, đánh bạc không tự nhiên bị hạn chế mà cần thiết thông qua việc chủ động trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm của những cơ quan NN có thẩm quyền, các chủ thể trong hoạt động này. Cụ thể: các cơ quan NN có thẩm quyền căn cứ vào tính chất, sự thay đổi về hoạt động tổ chức đánh bạc, đánh bạc trong nước trong thời gian trở lại đây để ban hành chính sách nhằm ngăn chặn, xử lý triệt để các hàng vi vi phạm. bằng hoạt động nghiệp vụ của mình cũng như hoạt động kiểm tra, giám sát để phát hiện và xử lý các hành vi trên. Bên cạnh đó, người tiêu dùng có thể thông qua các kênh như tố giác các hành vi vi phạm của hoạt động tổ chức đánh bạc, đánh bạc để các cơ quan chức năng có thể tiến hành các hoạt động điều tra, xử lý vi phạm. Các chủ thể có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau để có thể tiến hành ngăn ngừa các hành vi vi phạm. Bốn là, ý thức pháp luật, sự tích cực công vụ và trình độ, nghiệp vụ của lực lượng Kiểm sát viên, Kiểm tra viên đã được nâng cao, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình giải quyết các nói chung, vụ án hình sự xâm phạm quyền con
  • 40. 40 người nói riêng. Đối với quá trình thực hiện các quy định pháp luật trong tố tụng hình sự và bảo đảm quyền con người trong quá trình THQCT&KSĐT vụ án hình sự nói chung và các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liên trong giai đoạn hiện nay. Điều này khẳng định yếu tố trên giữ vai trò tác động bên ngoài nhưng yếu tố về nội lực chính là sự nỗ lực của các lãnh đạo, nhân viên, đội ngũ KSV VKSND quận Nam Từ Liêm nói chung. Phải nhìn nhận một cách khách quan rằng đội ngũ lãnh đạo, KSV cần thiết phải có phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động THQCT&KSĐT trong giai đoạn mới. Bên cạnh việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ thì cần thiết phải có đạo đức nghề nghiệp, có ý chí vươn lên, khả năng tiếp cận nhanh được các kiến thức pháp lý mới nhằm đáp ứng với yêu cầu của công tác THQCT&KSĐT hiện nay. Ngoài ra, đội ngũ KSV phải là đội ngũ có khả năng ứng dụng được công nghệ thông tin trong công tác quản lý và thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Năm là, thông qua hoạt động THQCT&KSĐT VAHS cần thiết phải có sự tham gia tích cực của người dân, xã hội trong đấu tranh, bảo vệ quyền con người cũng là yếu tố quan trọng giúp cơ quan Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định của pháp luật hiện hành. 1.3.2. Hạn chế, thiếu sót Trong quá trình thực hiện các quy định về THQCT&KSĐT của Viện kiểm sát đối với các vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc theo quy định cửa BLHS 2015, sửa đổi bổ sung thì quá trình thực tiễn vẫn xảy ra một số khó khăn, vướng mắc, cụ thể như sau: Một là, các quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung về các tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc chưa có văn bản hướng dẫn thi hành ngoài những hướng dẫn theo Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng
  • 41. 41 Thẩm phán TANDTC hướng dẫn xử lý đối với các hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc (sau đây gọi là Nghị quyết số 01) và các văn bản hướng dẫn xử lý các tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc của VKSNDTC hướng dẫn thực hiện trong ngành kiểm sát. Tuy nhiên, với các hướng dẫn của VKSNDTC thì trên cơ sở chỉ áp dụng trong ngành kiểm sát, cần thiết có sự hướng dẫn của hội đồng thẩm phán được ghi nhận thành các quy định pháp luật nhằm làm nền tảng cho quá trình áp dụng trong thực tế. Hai là, trong công tác THQCT&KSĐT VAHS về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc vẫn còn bộc lộ những hạn chế, tồn tại như: việc đánh giá tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự của bị cáo còn chưa chính xác; Công tác thực hành quyền công tố đối với các quy định của BLTTHS 2015 chưa được thực hiện một cách nghiêm túc trong thực tế, vẫn còn một số khó khăn trong việc tiếp cận vụ án tổ chức đánh bạc, đánh bạc trên địa bàn quận Nam Từ Liêm ngay từ đầu còn khó khăn, đặc biệt với các vụ án đánh bạc liên quan đến lô đề, liên quan đến đánh bạc trên mạng internet với số lượng lớn ngay từ thời gian ban đầu còn nhiều vướng mắc. Hoạt động thực hành quyền công tố các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc trong thực tế còn nhiều vướng mắc khi việc thu thập các chứng cứ để xử lý các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Đối với hoạt động KSĐT thì hoạt động kiểm sát tố tụng trong giai đoạn điều tra của VKS đối với CQĐT còn nhiều khó khăn khi KSV, ĐTV chưa có kinh nghiệm trong việc xử lý vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc để giải quyết trên thực tế. Bên cạnh đó việc áp dụng Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày 29/12/2017 về việc ban hành quy chế tạm thời công tác THQCT&KS việc khởi tố, điều tra và truy tố và Thông tư liên tịch 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 về phối hợp giữa cơ quan điều tra và VKS trong việc thực hiện Bộ luật tố tụng hình sự là nền tảng thực hiện hoạt động THQCT&KSĐT các vụ án hình sự về đánh bạc, tổ chức đánh bạc được thực hiện một cách triệt để trong thực tế.
  • 42. 42 Ba là, việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị tài liệu cho phiên tòa xét xử của một số Kiểm sát viên nhiều khi chưa được chú trọng. Một số trường hợp Kiểm sát viên tham gia KSĐT, chưa nắm chắc tình tiết nội dung vụ án, nhất là những bị cáo trong quá trình điều tra không nhận tội, thay đổi lời khai. Vì vậy, Kiểm sát viên không phát hiện được những mâu thuẫn để từ đó có kế hoạch thẩm vấn bị can, kiểm tra tính đúng đắn, khách quan của các chứng cứ, đồng thời chuẩn bị tài liệu, chứng cứ để tranh luận, đối đáp với những yêu cầu, đề nghị của bị can, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác trong giai đoạn điều tra, do vậy, đôi khi không bảo vệ được quan điểm của VKS đưa ra nhằm điều tra xử lý vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bốn là, một số Kiểm sát viên không có tâm lý vững vàng, việc nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị tài liệu nên chưa có sự phản ứng linh hoạt khi tham gia thực hiện THCT&KSĐT vụ án hình sự còn hạn chế trong đối đáp nên có tâm lý ngại tranh luận hoặc tranh luận qua loa, chưa đưa ra đầy đủ những luận điểm có sức thuyết phục với sự diễn đạt rõ ràng mạch lạc để đối đáp với tất cả các ý kiến của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đã nêu lên, nhất là những ý kiến trái ngược lại với quan điểm của Kiểm sát viên. Năm là, việc quy định của pháp luật thiếu đồng bộ; Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự ... đã ban hành nhiều năm nhưng việc hướng dẫn, giải thích hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền còn chậm, một số quy định chưa phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn trong khi vận dụng; sự phối họp giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật trên cơ sở chức năng nhiệm vụ còn thiếu chặt chẽ, thiếu nhất quán nên không ít các vụ việc quá trình xử lý có biểu hiện không thống nhất cao. Tóm lại, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc,
  • 43. 43 cũng còn những hạn chế, khuyết điểm mà ngành Kiểm sát cần khắc phục để thực hiện tốt hơn chức năng, vai trò của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.3.3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót Thứ nhất, Bộ luật hình sự hiện hành không cụ thể hoá tất cả các hành vi phạm tội trong các điều luật mà quá trình áp dụng luật phải vận dụng các văn bản hướng dẫn như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư liên tịch của các Bộ, Ngành liên quan. Thứ hai, vẫn còn tình trạng chưa tích cực phối hợp tổ chức các phiên tòa để rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng KSĐT của Kiểm sát viên. Số lượng kiến nghị về vụ án hình sự tổ chức đánh bạc, đánh bạc. Sự liên kết giữa các cơ quan NN với nhau trong quá trình thực hiện chưa thật sự được chú trọng. Thứ ba, nhiều VKS chưa chú trọng việc tổng hợp những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động nghiệp vụ để thông báo, rút kinh nghiệm. Sự phối hợp giữa các cấp kiểm sát, các bộ phận công tác có lúc, có nơi chưa thường xuyên, chặt chẽ. Những tồn tại, hạn chế trên chủ yếu là do một số Kiểm sát viên VKSND tỉnh chưa làm tròn hết trách nhiệm trong chỉ đạo, điều hành tổ chức, thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Thứ tư, nhận thức của một số cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp về nội dung và ý nghĩa của công tác kháng nghị chưa đầy đủ, đúng đắn, chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm đối với công tác này, do vậy việc nghiên cứu, kiểm sát quyết định CQĐT còn qua loa, phiến diện nên không phát hiện được vi phạm, sai sót của CQĐT để báo cáo lãnh đạo, đề xuất việc kiến nghị. Chương 2 DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
  • 44. 44 THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC, ĐÁNH BẠC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM 2.1. Dự báo tình hình và các yếu tố tác động * Dự báo tình hình Quá trình xây dựng và phát triển đất nước thì quá trình phát triển đất nước thì các vụ án hình sự nói chung và các vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc thì các vụ án về đánh bạc về cơ bản đem lại hứng thú cho một bộ phận dân cư không nhỏ đông thời cơ chế thị trường cũng dẫn tới tình trạng thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, tạo điều kiện thúc đẩy các loại tội phạm trong quá trình phát triển, đây chính là mặt trái của quá trình phát triển của xã hội. Mặc dù các quy định của BLHS nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung luôn luôn cố gắng hoàn thiện những thiếu sót về văn bản hướng dẫn thi hành để từ đó, tạo nền tảng cho quá trình áp dụng trong thực tiễn đạt kết quả cao nhất. Đây chính là hành lang pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nói chung trên thực tế. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh danh đưa ra một số dự báo về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc như sau: - Về số vụ và số người tham gia thực hiện: có xu hướng tăng lên đặc biệt tội phạm có tính chất chuyên nghiệp ngày càng nhiều. Tính chuyên nghiệp được thể hiện ở thủ đoạn, hành vi phạm tội về loại tội phạm đánh bạc. Số người tham gia trong các vụ án có xu hướng gia tăng. - Về hình thức thực hiện tội phạm vẫn rất đa dạng, những hình thức mới có thể xuất hiện, sự dụng công nghệ điện tử và thông tin hiện đại và được thể hiện dưới nhiều hình thức biến tướng dưới nhiều hình thức.