Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hình sự với đề tài: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRẦN THANH
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRẦN THANH
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN
MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. MAI ĐẮC BIÊN
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy, trung thực, chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Khoa học - Xã hội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học - Xã hội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Nguyễn Trần Thanh
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CÁC VỤ ÁN MA TÚY .................................................................................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy .....6
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
................................................................................................................................15
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy tại
cấp Huyện...............................................................................................................22
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ
ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU..................26
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến thực hành quyền
công tố trong các vụ án ma túy của trên địa bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu................................................................................................................26
2.2. Những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém thực hành quyền công tố các
vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc và nguyên nhân.............................................28
2.3. Những hạn chế, yếu kém trong công tác thực hành quyền công tố các vụ án
ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và nguyên nhân..............44
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HÀNH ĐÚNG
QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC,
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU .....................................................................................54
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ án ma túy tại
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .........................................................54
5. 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hành đúng quyền công tố trong các vụ án ma túy
tại huyện Xuyên Mộc, Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ...................................................56
KẾT LUẬN..............................................................................................................63
6. DANH MỤC VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
CQCSĐT Cơ quan Cảnh sát điều tra
CQĐT Cơ quan điều tra
ĐTV Điều tra viên
HĐXX Hội đồng xét xử
KSV Kiểm sát viên
NXB Nhà xuất bản
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
THQCT Thực hành quyền công tố
TTHS Tố tụng hình sự
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN Xã hội chủ nghĩa
7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội mua bán trái phép chất ma túy với tình
hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai đoạn từ năm 2014–
2018..................................................................................................................31
Bảng 2.2. So sánh tình hình áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ trong vụ án ma túy với
vụ án nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai đoạn từ năm 2014– 2018. .....32
Bảng 2.3. So sánh số vụ án ma túy TAND huyện Xuyên Mộc đưa ra xét xử với số
vụ án ma túy VKSND huyện truy tố với giai đoạn từ năm 2014 – 2018 .................51
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm ma túy là một trong những loại tội phạm nguy hiểm gây ảnh
hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, đến an ninh, trật tự, sự
ổn định và phát triển đất nước, hiện nay với xu thế hội nhập và phát triển toàn
cầu, tội phạm về ma túy hoạt động với phương thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn,
táo bạo hơn, mặc dù nước ta đã đầu tư rất nhiều công sức, tiền của nằm ngăn
chặn loại tội phạm này nhưng hiện nay tội phạm về ma túy vẫn diễn ra rất phức
tạp và có chiều hướng gia tăng. Vấn nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa
lớn của nhân loại, là một trong những nguyên nhân gây nên những hành vi phạm
tội, gây mất an ninh trật tự, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá
hoại hạnh phúc gia đình, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và đặc biệt là lây truyền
HIV/AIDS trong cộng đồng. Trong những năm gần đây, mặc dù trên các phương
tiện thông tin đại chúng đã cảnh báo về tác hại của ma túy đối với con người,
nhưng vẫn còn không ít người chưa thấy rõ tác hại của nó, trên thế giới hiện nay
có khoảng hơn 250 triệu người nghiện ma túy. Tại Việt Nam có 63/63 tỉnh,
thành và trên 93% số xã, phường có người nghiện ma túy, toàn quốc có gần
170.000 người nghiện ma túy; đối tượng nghiện thuộc mọi tầng lớp nhân dân
(trên 80% là lao động phổ thông, thất nghiệp) và thuộc mọi độ tuổi (khoảng 70%
trong độ tuổi từ 18-35 tuổi). Tại địa bàn huyện Xuyên Mộc, số người nghiện ma
túy có chiều hướng gia tăng đến mức đáng lo ngại. Do đó việc giải quyết tội
phạm ma túy là vấn đề hết rất bức thiết tuy nhiên việc xử lý trong thực tế lại gặp
nhiều khó khăn hức tạp nhất là vấn đề THQCT đối với loại án này vì vậy cần
phải có cách nhìn thống nhất để việc xử lý không còn khó khăn, vướng mắc.
Công tác này còn nhiều khó khăn trong khâu chỉ đạo. Vì những lý do trên, tôi
chọn đề tài nghiên cứu THQCT liên quan đến loại tội phạm này. Nghiên cứu làm
rõ thêm những quy định của pháp luật và việc áp dụng những quy định đó trong
thực tế từ đó đề xuất các giải pháp để công tác THQCT đối với các vụ án ma túy
9. 2
tại Huyện Xuyên Mộc được hoàn thiện. Từ thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài
“Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
THQCT đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau tiêu biểu các
công trình:
- Lê Hữu Thể (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạtđộng
tư pháp trong giai đoạn điều tra, NXB Tư pháp, Hà Nội [25];
- Phan Hoàng Tân (2011), Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt
độngthực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở
tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[24];
- Hoàng Công Hạnh (2011), Thực trạng chất lượng thực hành quyềncông
tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội,
Hà Nội [14];
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tốtụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
[13];
- Nguyễn Hồng Chương (2012), Những vấn đề lý luận về thực hànhquyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà
Nội [12];
- Nguyễn Diệp Liên (2017), Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân quận
10. 3
Hà Đông, thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã
hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội [15].
- Nguyễn Mạnh Tùng (2017), Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án về ma tuý ở thành phố Hà Nội; Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội [30].
- Hà Minh Loan (2017), Thực hành quyền công tố trong giao đoạn điều
tra các tội phạm về ma tuý trên địa bàn Huyện Văn Chấn, Tỉnh Yên Bái; Luận
văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội [16].
- Mai Đắc Biên (2018), những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học
viện Công an nhân dân, Hà Nội [1].
- Lại Viết Quang (2018), áp dụng biện pháp cưỡng chế trong điều tra tội
phạm về ma túy; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Học viện Công an nhân dân, Hà Nội
[18].
- Trần Công Phàn (2019), Điều tra và truy tố các tội phạm về ma túy theo
pháp luật mới; sách chuyên khảo, NXB Công an nhân dân, Hà Nội [17].
Hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào bàn về THQCT trong các vụ
án ma túy tại Huyện Xuyên Mộc mà chỉ nói về các vấn đề liên quan đến
THQCT, các nghiên cứu này là nguồn tham khảo quý trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nhằm đưa ra quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hành đúng quyền công
tố trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ án ma
11. 4
túy của VKSND như khái niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự thủ tục và các yếu tố
bảo đảm thực hành quyền công tố các vụ án ma túy của VKSND.
- Làm rõ thực trạng THQCT, đưa ra các giải pháp đảm bảo THQCT trong
các vụ án ma túy của Huyện Xuyên Mộc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý
luận và thực tiễn thực hành quyền công tố các vụ án ma túy của VKSND huyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý
luận và thực tiễn công tác thực hành quyền công tố trong cácvụ án ma túy của
VKSND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong khoảng thời gian từ
năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, các chủ trương, Nghị quyết, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
về chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả dùng phương pháp nghiên cứu tổng
hợp, so sánh, phân tích để nghiên cứu đề tài
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ
thêm lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6.2. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tư liệu tham khảo phục vụ yêu cầu nâng cao chất lượng công tác thực hành
quyền công tố trong các vụ án ma túy của VKSND cấp huyện nói chung, của
12. 5
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu nói riêng trong giai đoạn hiện nay,
qua đó có thể làm nguồn tham khảo trong việc công tác THQCT trong các vụ án
ma túy ở cấp Huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong các vụ
án ma túy của VKSND.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyển công tố đối trong các vụ án ma
túy của tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hành đúng quyền công
tố trong các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
13. 6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ CÁC VỤ ÁN MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án
ma túy
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án ma túy
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Một trong những chức năng cơ bản của VKS là quyền công tố được quy
định cụ thể tại Điều 137 trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2002)
và Điều 107 Hiến pháp năm 2013. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ
chức viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật TTHS khác cũng có
những quy định tương tự về chức năng thực hành quyền công tố của VKS.
Nếu giải quyết tốt việc xác định khái niệm quyền công tố giúp cho việc
xác định nhiệm vu, quyền hạn của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Có nhiều cách hiểu về quyền công tố dẫn đến giới hạn, phạm vi quyền
công tố cũng được hiểu khác nhau. Có quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn
tại trong lĩnh vực TTHS, một số lại cho rằng nó có mặt trong tất cả các lĩnh vực
tư pháp. Tuy có nhiều quan điểm khác nhau tuy nhiên các quan điểm này đều có
cở sở của nó vì các nhìn nhận này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật. Có nhiều quan điểm còn hạn chế nhất định nhưng nhìn ở
khía cạnh khoa học hay thực tiễn đều có ảnh hưởng nhất định đến vai trò của
VKS trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố của VKS, có
thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính như sau:
14. 7
- Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ
là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS
và đưa ra khái niệm công tố: “Quyền nhân danh nhà nước thực hiện các chức
năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội
phạm, để truy tố và để buộc tội người phạm tội tước tòa án nhằm đạt được mục
đích xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, góp phần đảm bảo các
quyền tự do của con người, cũng như các lợi ích của xã hội và của nhà nước”
[11, tr.1-12]. Quan hệ giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan
hệ giữa cái riêng và cái chung. Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm
1980 khi Hiến pháp chưa có quy định về chức năng thực hành quyền công tố của
viện kiểm sát và cũng xuất phát từ quan niệm phổ biến của các nhà TTHS học
Xô viết trước đây.
- Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của VKSND thay mặt Nhà nước
bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật
tức là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra
cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật [29,
tr.85-86]. Vì vậy, VKS thực hành quyền công tố không chỉ trong TTHS mà cả
trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác.
- Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại phiên
tòa với những tội danh cụ thể thông qua hoạt động chứng minh có căn cứ và
đúng pháp luật được thể hiện trong bản cáo trạng. Những người theo quan điểm
này cho rằng việc thực hiện quyền công tố như vậy mới có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cho hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân [26, tr.86-88].
- Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các cơ
quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét
xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [28, tr.204]. Quan điểm này phổ
biến trong các Nhà nước có sự phân chia quyền lực.
15. 8
Do các quan niệm khác nhau như trên về quyền công tố cho nên dẫn đến
cách lí giải khác nhau về phạm vi thời gian cũng như không gian của quyền công
tố. Về không gian, đa số các quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực duy nhất là TTHS nhưng cũng có quan điểm cho rằng quyền công tố được
thực hiện trong cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp như TTHS, tố tụng dân sự,
kinh tế, lao động. Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền công tố cũng chưa
được nhận thức thống nhất. Ngay trong TTHS cũng có người cho rằng quyền
công tố có trong cả giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử; người khác lại cho rằng
quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Các quan điểm còn hạn chế:
- Hoặc là thể hiện sự phụ thuộc của chức năng quyền công tố vào kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKS; coi quyền công tố chỉ là hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.
- Xem quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một. Hay coi
quyền công tố chỉ có phạm vi trong giai đoạn tố tụng ở cấp sơ thẩm.
Hạn chế chung nhất trong các công trình nghiên cứu về quyền công tố là
hầu như các tác giả chưa thống nhất trong việc xác định hoạt động nào của VKS
là để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, hoạt động nào là để thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, đa số các tác giả
cho rằng hai chức năng trên của viện kiểm sát vừa có tính độc lập tương đối vừa
liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại, bổ sung cho nhau, giữa chúng có một số nội
dung xâm nhập, đan xen lẫn nhau không thể tách rời, tạo nên sự thống nhất trong
chức năng của viện kiểm sát.
Trên thực tế quyền công tố có đặc điểm sau đây: VKS được nhà nước ủy
quyền, quyền công tố của mình, thay mặt nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội.
Từ những nhận thức trên, có thể rút ra khái niệm: Quyền công tố là quyền
thuộc về Nhà nước, do VKSND thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc
16. 9
tội đối với người phạm tội bằng các hoạt động cụ thể như thu thập chứng cứ
buộc tội, truy tố bị can ra trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà.
1.1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố
Khi cơ quan tiến hành tố tụng dùng các quyền năng pháp lý của mình
được Bộ luật TTHS giao cho để thực hiện quyền công tố thì cũng xuất hiện khái
niệm THQCT. Đây là khái niệm có liên hệ mật thiết với khái niệm quyền công
tố bởi lẽ khi có hành vi phạm tội xảy ra, mối quan hệ giữa Nhà nước với người
thực hiện hành vi phạm tội phát sinh. Trách nhiệm của Nhà nước là truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa
là phát sinh quyền công tố và cơ quan dùng các quyết định cụ thể được pháp luật
quy định để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội chính là cơ quan thực
hiện quyền công tố. Về khái niệm THQCT hiện nay cũng có nhiều quan điểm
khác nhau tuy nhiên, theo từ điển Luật học: “THQCT là việc sử dụng tổng hợp
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử”
[34,tr.188].
Để hiểu một cách toàn diện về THQCT cần xác định đầy đủ vấn đề sau:
Đối tượng THQCT là tội phạm và người phạm tội. Với chức năng, nhiệm
vị của mình, thực hành quyền công tố có đối tượng là tội phạm và người phạm
tội. Khi có sự việc phạm tội xảy ra, Cơ quan công tố - Viện kiểm sát- phải áp
dụng mọi nhiệm vụ quyền hạn của pháp luật để kịp thời phát hiện tội phạm, khởi
tố, điều tra làm rõ tội phạm, người hoặc pháp nhân phạm tội. Những hoạt động
của VKS để thực hiện quyền công tố là tiếp nhận mọi tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố, yêu cầu CQĐT tiến hành kiểm tra xác minh tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phê chuẩn các quyết định tố tụng của
CQĐT, có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra.
Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKS sử dụng quyền năng của mình
theo quy định của pháp luật thay mặt nhà nước buộc tội đối với người phạm tội
17. 10
từ giai đoạn giải quyết tin báo tố giác tội phạm, giai đoạn điều tra, giai đoạn truy
tố, giai đoạn xét xử [23].
Nội dung thực hành quyền công tố
- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là hoạt động mở đầu cho hoạt động tố tụng
do đó hoạt động của VKS trong giai đoạn này chính là nội dung đầu tiên trong
THQCT của VKS;
- VKS trực tiếp áp dụng thay đổi các biện pháp ngăn chặn hay phê chuẩn,
không phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn theo yêu cầu của CQĐT;
- Truy tố bi can ra tước TA và bảo vệ quyết định truy tố thông qua hoạt
động công tố tại TA. Đồng thời kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án theo
thủ tục phúc thẩm khi thấy có sự vi phạm về nội dung.Quyết định chấm dứt việc
THQCT bằng việc ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.
Có thể kết luận: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự là việc
Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định
để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc tội đối với người phạm tội,
pháp nhân thương mại phạm tội nhằm đảm bảo mọi tội phạm phải được phát
hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.1.1.3. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về ma túy
Khái niệm chất ma túy:
Theo nội dung của 3 Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống và
kiểm soát chất ma túy (năm 1961, 1971 và 1988) mà Việt Nam là thành viên vào
năm 1997 thể hiện không chỉ các chất ma túy, chất hướng thần và tiền chất thiết
yếu tham gia vào danh sách có tên trong danh mục mà còn là các cây tự nhiên có
chứa chất ma túy, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần, các chế phẩm có chứa
chất ma túy, được quy định kiểm soát rất chặc chẽ và phù hợp với từng loại
tương ứng. Ngoài danh mục liệt kê các chất ma túy bị kiểm soát, thì 3 Công ước
này không đưa ra khái niệm thống nhất về chất ma túy.
18. 11
Tại Việt Nam, theo Điều 2 Luật số 13/VBHN-VPQH ngày 23/7/2013 về
phòng, chống ma túy thì khái niệm ma túy gồm chất gây nghiện và hướng thần
được hiểu như sau:
“...
2. Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình
trạng nghiện đối với người sử dụng.
3. Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác,
nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
4. Tiền chất là các hóa chất không thể thiếu được trong quá trình điều
chế, sản xuất chất ma túy, được quy định trong danh mục do Chính phủ ban
hành.
5. Thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được
quy định trong các danh mục do Bộ Y tế ban hành, có chứa các chất quy định tại
Khoản 2 và Khoản 3 Điều này.
6. Cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện (cây anh túc), cây
cô ca, cây cần sa hoặc cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định”
[32].
Trong vụ án ma túy để xử lý tội phạm, Cơ quan tiến hành tố tụng phải căn
cứ vào tên chất ma túy. Trong các vụ án ma túy có thu giữ vật chứng là chất ma
túy thì tên của chất ma túy đó phải được thể hiện kết luận giám định của Cơ
quan có thẩm quyền giám định chất ma túy.
Khái niệm tội phạm về ma túy:
Hiện nay trên thế giới các quốc gia khác nhau có khái niệm tội phạm về
ma túy cũng khác nhau: Ở Thái Lan tại Điều 3 trong luật về các biện pháp trấn
áp người phạm tội liên quan đén ma túy thì khái niệm về tội phạm ma túy được
hiểu là “phạm tội liên quan đến ma túy” [33, tr.327], còn trong Bộ luật kiểm soát
toàn diện các chất ma túy nguy hiểm năm 2002 của Philippines thì tội phạm ma
túy được khái niệm là “Buôn bán trái phép, gieo trồng, chuyển giao, quản lý,
19. 12
phân phối, sản xuất, mua bán, vận chuyển, phân bổ, nhập khẩu, xuất khẩu và sở
hữu trái phép bất kỳ loại ma túy nguy hiểm hoặc tiền chất và hóa chất cần thiết
bị kiểm soát” [33, tr.158-159].
Bộ luật hình sự và Luật phòng, chống ma túy Việt Nam chưa có khái niệm
tội phạm ma túy tuy nhiên trên cơ sở quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (BLHS năm 2015), có thể đưa ra khái niệm tội phạm về ma túy
như sau: Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định tại BLHS năm 2015 và được sửa đổi, bổ sung năm 2017, do người đủ trách
nhiệm hình sự cố ý, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về
các chất ma túy gây hậu quả nghiêm trọng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế,
trật tự xã hội, đạo đức sức khỏe của con người.
Dấu hiệu để nhận biết tội phạm ma túy, đầu tiên phải xác định được đó có
phải là hành vi liên quan đến ma túy bất hợp pháp hay không, đồng thời xem xét
hành vi này có phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật nghiêm cấm
(theo quy điịnh tại Điều 3 Luật số 13/VBHN-VPQH ngày 23/7/2013 về phòng,
chống ma túy) hay không. Các hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tàng trữ,
tổ chức sử dụng trái phep chất ma túy… Các hành vi này đều xâm phạm đến chế
độ độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, tiền chất, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần được quy đinh trong Chương XX “Các tội phạm về ma túy” từ
Điều 247 đến Điều 259 BLHS năm 2015, đều là những hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Người đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện các hành vi nguy hiểm
nêu trên một cách cố ý được coi là tội phạm về ma túy.
Tội phạm ma túy là cở sở cấu thành nên vụ án ma túy, là đối tượng chủ
yếu để các Cơ quan tố tụng có thẩm quyền tiến hành điều tra làm rõ hành vi
phạm tội để xử lý các vụ án về ma túy.
Cấu thành tội phạm của các tội phạm về ma túy:
- Khách thể: Xâm phạm chế độ quản lý nhà nước về chất ma túy;
- Khách quan: Hành vi được quy định trong 13 điều từ Điều 247 đến Điều
259;
20. 13
- Chủ thể: Bất cứ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ
tuổi theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015;
- Chủ quan: Người thực hiện hành vi phạm tội của mình do lỗi cố ý trực
tiếp biết rõ là bị pháp luật cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Khái niệm vụ án ma túy:
Án ma túy là một trong các vụ án hình sự, khái niệm của nó bắt nguồn từ
khái niệm “vụ án hình sự.” Theo từ điển luật học “Vụ án hình sự là vụ việc phạm
pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự đã được Cơ
quan điều tra khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo trình tự
thủ tục đã được quy định” [10,tr.170-171]. Với khái niệm vụ án có thể hiểu “vụ
án ma túy” là những vụ việc phạm tội liên quan đến ma túy đã bị phát hiện khởi
tố, điều tra giải quyết theo quy định của BLHS. Vụ án ma túy là vụ án hình sự
được khởi tố về một hoặc một số quy định trong BLHS mà căn cứ khởi tố ở đây
là các tội phạm về ma túy được BLHS năm 2015 quy định tại chương XX “Các
tội phạm về ma túy” gồm 13 điều (từ Điều 247 đến Điều 259). Từ phân tich trên
có thể đưa ra khái niệm: “Vụ án ma túy là vụ phạm pháp về ma túy đã được Cơ
quan có thẩm quyền theo luật định kiểm tra, xác minh xác định hành vi phạm tội
về ma túy được quy định trong Bộ luật hình sự đã xảy ra và đã có quyết định
khởi tố vụ án hình sự đối với vụ phạm pháp đó để điều tra giải quyết theo quy
định của tố tụng hình sự” [17, tr.18].
1.1.1.4. Khái niệm thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của
Viện kiểm sát nhân dân cấp Huyện
Thực hành quyền công tố đối với vụ án ma túy có đầy đủ những nội dung
cũng như đặc điểm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát đối với vụ án
hình sự nói chung nhưng chứa đựng những đặc điểm riêng đối vói các vụ án ma
túy. Những đặc điểm riêng của thực hành quyền công tố trong các vụ án về ma
túy đó là: phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra giám định hoặc tự mình ra quyết định giám định chất
21. 14
ma túy. Giám định chất ma túy là một hoạt động tố tụng bắt buộc trong việc
khám phá, điều tra, truy tố và xét xử vụ án ma túy. Do vậy, thực hành quyền
công tố của VKS phải gắn chặt với việc giám định chất ma túy. Một đặc điểm
riêng biệt nữa đối với thực hành quyền công tố là việc xem xét phê chuẩn, không
phê chuẩn hoặc hủy bỏ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và tạm giam. Trong nhóm tội phạm về ma
túy thì đại đa số là tội nghiêm trọng trở lên, hơn nữa, người bị buộc tội trong
nhóm tội này thông thường là những người có nhân thân xấu, nơi cư trú không
ổn định, thường có ý thức chống đối cơ quan tiến hành tố tụng, chối tội…Do
vậy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên đối với người bị buộc tội
trong vụ án ma túy phải được đặt ra khi giải quyết vụ án ma túy, kể cả trường
hợp tội phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Từ những phân tích, đánh giá
trên, có thể khái quát: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của Viện
kiểm sát nhân dân cấp Huyện là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu TNHS, buộc tội
đối với người phạm tội về ma túy nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người
phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt
tội phạm.”
1.1.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện
- VKS chủ thể duy nhất của THQCT về tội phạm ma túy phải tuân thủ
chính xác và đầy đủ quy định của pháp luật;
- Thực hành quyền công tố gắn chặt với hoạt động yêu cầu hoặc trực tiếp
ra quyết định giám định chất ma túy:
Kết luận giám định là một trong những chứng cứ quan trọng để xác định
việc người bị buộc tội phạm tội hay không phạm tội. Do vậy, ngay từ khi thu giữ
được chất nghi là ma túy (bao gồm cả tiền chất về chất ma túy), các cơ quan tiến
22. 15
hành tố tụng phải tiến hành giám định chất ma túy để xác định có phải là chất ma
túy hay không, trọng lượng (thậm chí cả hàm lượng) chất ma túy. Do đó, trong
mọi vụ án về ma túy, VKS phải yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giám định hoặc tự mình ra quyết
định giám định chất ma túy để phục vụ việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
- Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nêu trên đối với người bị buộc tội
trong vụ án ma túy phải được đặt ra khi giải quyết vụ án ma túy.
Như trên đã trình bày, phân tích, trong nhóm tội phạm về ma túy thì đại
đa số là tội nghiêm trọng trở lên, hơn nữa, người bị buộc tội trong nhóm tội này
thông thường là những người có nhân thân xấu, nơi cư trú không ổn định,
thường có ý thức chống đối cơ quan tiến hành tố tụng, chối tội. Do vậy, phải áp
dụng các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ,
tạm giam đối với tất cả các vụ án về ma túy. Những hoạt động này gắn chặt với
việc thực hành quyền công tố của VKS, đó là phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc
hủy bỏ các quyết định, lệnh áp dụng biện pháp ngăn chặn của CQĐT, phải xem
xét tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định, lệnh áp dụng biện pháp ngăn
chặn nêu trên của Tòa án, Hội đồng xét xử.
1.2. Đối tượng, phạm vi, nội dung thực hành quyền công tố trong các
vụ án ma túy
1.2.1. Đối tượng thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
Mọi hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ độc quyền
quản lý các chất ma túy là xâm phạm chính sách độc quyền của Nhà nước đối
với các chất ma tuý. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào xâm phạm đến chính
sách độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy cũng đều bị xử lý hình sự
mà tùy vào từng trường hợp quy định cụ thể mới truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có trường, hợp người dưới 16 tuổi có hành vi trồng cây thuốc phiện, cây cô ca,
cây cần sa các loại cây khác có chứa chất ma túy (Điều 247 BLHS thuộc loại tội
23. 16
phạm ít nghiêm trọng), hành vi này đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của
Nhà nước đối với các chất ma túy. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 12 BLHS
năm 2015 (quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) thì chủ thể tội này phải
là người từ đủ 16 tuổi trở lên, cũng có trường hợp chủ thể đủ năng lực trách
nhiệm hình sự có hành vi xâm phạm đến chính sách độc quyền đối với chất ma
túy của Nhà nước ở hành vi này thì phạm tội nhưng đối với hành vi xâm phạm
khác phải có điều kiện kèm theo mới phạm tội, ví dụ: Tại Điều 249 BLHS chỉ
cần người nào có hành vi mua bán trái phép chất ma túy thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự không cần quy định định lượng chất ma túy nhưng tội tàng trữ trái
phép chất ma túy quy định tại điểm c Điều 249 BLHS thì hành vi tàng trữ trái
phép Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-
11 phải có khối lượng từ 0,1 gam trở lên mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì
vậy, khi thực hành quyền công tố, KSV phải xem xét, đánh giá xem có đầy đủ
các yếu tố cấu thành tội phạm về ma túy hay không? Ai là người thực hiện hành
vi phạm tội về ma túy. KSV phải áp dụng triệt để các biện pháp tố tụng hình sự
thuộc thẩm quyền để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do vậy, đối tượng của
THQCT trong các vụ án ma túy chỉ có thể là tội phạm và người phạm tội về ma
túy.
1.2.2. Phạm vi thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
Khi xem xét vấn đề này cần phải toàn diện, đầy đủ bởi lẽ niện nay chưa có
ý kiến thống nhất, việc xác định đúng đắn phạm vi thực hành quyền công tố có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
thực hành quyền công tố nói chung và hoạt động THQCT đối với các tội về ma
túy nói riêng nhằm đảm bảo: Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị
hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra khách quan, toàn
24. 17
diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; truy tố, xét xử phải được phát hiện kịp
thời; sai sót vi phạm phải được khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, tác giả xác định phạm vi của hoạt
động thực hành quyền công tố đối với các vụ án ma túy bắt đầu từ khi VKS thực
hiện việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố về tội phạm
ma túy và kết thúc khi bản án do tòa án tuyên có hiệu lực pháp luật.
1.2.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy
1.2.3.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố (gọi
chung là tố giác, tin báo về tội phạm) nói chung trong đó tin báo về tội phạm ma
túy nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Việc tiếp nhận tin báo, tố giác làm
cơ sở cho việc điều tra, xác minh giải quyết tin báo để khởi tố hay không khởi tố
vụ án.
Nếu như trước đây BLTTHS năm 2003 quy định VKS chỉ thực hiện hoạt
động “kiểm sát” việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi chung
là Cơ quan điều tra) làm cho hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đối với việc
giải quyết tố giác tin báo về tội phạm ma túy mang tính thụ động, đứng ngoài
việc giải quyết, khi nào CQĐT xác minh, kết luận, chuyển hồ sơ xác minh kèm
theo kết luận khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự các vụ án ma túy, thì lúc
đó VKS mới kiểm sát hồ sơ và có quan điểm về việc giải quyết đó. Vì vậy công
tác kiềm sát giải quyết tin báo gặp nhiều khó khăn. Thì công tác thực hành quyền
công tố đối với việc giải quyết tố giác tin báo về tội phạm ma túy được Điều 159
BLTTH năm 2015 quy định cụ thể từ kiểm sát hồ sơ sang THQCT với những
quy định cụ thể.
1.2.3.2. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra trong các vụ án ma túy
25. 18
Nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội về ma túy đều phải được xử lý đúng
người, đúng tội, không để xảy ra oan sai, xâm phạm đến quyền con người. Khi
THQCT trong giai đọan điều tra trong các vụ án ma túy phải thực hiện đúng
theo Điều 165 cụ thể:
THQCT trong phê chuẩn khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Trong hồ sơ mua
bán, tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng khi kết quả giám định, chất ma túy
không nằm trong danh mục quy định mà chưa rõ ý thức chủ quan thì phải kiên
quyết yêu cầu Cơ quan CSĐT thu thập, củng cố chứng cứ đầy đủ thì mới phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can. Phải nghiên cứu kỹ chứng cứ buộc và chứng cứ
gỡ tội, nếu cần thiết thì trực tiếp hỏ bị can, nhân chứng về các vấn đề càn làm rõ
trước khi đề xuất phê chuẩn hay không phê chuẩn khởi tố bị can.
Các vụ án ma túy phần lớn có tài liệu đặc tình, trinh sát, do đó khi phê
chuẩn quyết định khởi tố bị can chú ý các loại tài liệu này nếu chưa được chuyển
hóa thành chứng cứ thì phải yêu vầu ĐTV loại các tài liệu này ra khỏi hồ sơ tố
tụng và chuyển hóa chúng thành chứng cứ, để bảo vệ đặc tình. Trong các vụ án
có nhiều đối tượng KSV chủ động phối hợp với ĐTV nắm chắc hành vi của từng
đối tượng, phân loại đối tượng, nếu đối tượng nào có đủ chứng cứ thì đề xuất bắt
ngay tránh để đối tượng bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra. Đối với các
trường hợp không thừa nhận hành vi phạm tội, kêu oan thì KSV trực tiếp lấy lời
khai để làm rõ các nội dung có trong hồ sơ, đánh giá chứng cứ trước khi lãnh
đạo ban hành các quyết định tố tụng.
Khi phê chuẩn các hồ sơ phê chuẩn khởi tố bị can thông qua truy xét, mà
không thu được vật chứng là ma túy, chỉ có lời khai các đối tượng thì KSV phải
phối hợp với điều tra viên củng cố các chứng cứ vật chất khác như thực nghiệm
điều tra, khám nghiệm hiện trường.
THQCT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn: Phê Chuẩn bắt bị
can phạm tội về ma túy phải được thực hiện theo Điều 113, Điều 119, Điều 173
của BLTTHS. Trường hợp chưa rõ căn cứ thì ra văn bản yêu cầu đề nghị bổ sung
26. 19
tài liệu chứng cứ để xem xét quyết định phê chuẩn. Nếu có đủ căn căn cứ tạm
giam và xét thấy phải tạm giam mà Cơ quan ĐT không ra lệnh tạm giam thì
VKS ra lệnh tạm giam sau đó yêu cầu Cơ quan ĐT tra thực hiện lệnh tạm giam
này. Ngoài ra có một số ít trường hợp phạm tội về ma túy áp dụng biện pháp cho
bảo lĩnh, trước khi phê chuẩn bảo lĩnh phải kiểm tra điều kiện tại Điều 121
BLTTHS
THQCT trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế: Người bị áp dụng
biện pháp áp giải, dẫn giải trong vụ án ma túy là đối tượng bị buộc tội, người
làm chứng không có mặt theo giấy triệu tập được quy định tại Khoản 1 và Khoản
2 Điều 127 BLTTHS để tránh việc lợi dụng sở hở tháo chạy. KSV đề xuất lãnh
đạo ra quyết định áp dụng biện pháp dẫn giải, áp giải.
1.2.3.3. Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử trong các vụ án ma túy
Theo quy định Điều 266 BLTTHS năm 2015 quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn xét xử nội dung và quy trình THQCT
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung trong đó có vụ án ma túy
nối riêng tập trung vào các nội dung:
- Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Theo quy định hiện hành, bản cáo trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm
sát ban hành để truy tố người phạm tội ma túy ra trước tòa án để xét xử. Bản cáo
trạng được trình bày phải dựa vào bản kết luận điều tra để nêu rõ: ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội,
thủ đoạn, mục đích, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác;
những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình
tiết giảm nhẹ; nhân thân của bị canvà mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật hình sự được
áp dụng. Bản cáo trạng phải được giao cho bị can. Thời điểm công bố bản cáo
trạng vụ án hình sự được quy định tại Điều 306 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
27. 20
Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ
Đối với việc xét hỏi: Như vậy, theo quy định của BLTTHS năm 2015, chủ
tọa phiên tòa hỏi đầu tiên, Kiểm sát viên hỏi sau Thẩm phán và Hội thẩm, KSV
hỏi đề bảo vệ cáo trạng trong trường hợp bị cáo phản cung không nhận tội và các
tình tiết quan trọng khác của vụ án mà HĐXX không hỏi.
Xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ: Trong trường hợp cần thiết, KSV và
HĐXX cùng những người tham gia phiên tòa xem xét các chứng cứ ngay tại tòa
hoặc xem xét tại chỗ những tài liệu, chứng cứ không đưa được đến phiên tòa
theo quy định tại Điều 312 BLTTTHS năm 2015. Theo quy chế thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số
505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao) [37] (gọi tắc quy chế 505 ), đối với những chứng cứ, tài liệu, đồ vật do cơ
quan, tổ chức, cá nhân hoặc Tòa án cung cấp thì trong thời hạn 03 ngày kể từ
ngày nhận được chứng cứ, tài liệu, đồ vật, KSV phải xem xét báo cáo lãnh đạo
VKS và chuyển lại chứng cứ, tài liệu, đồ vật này cho Tòa án để đưa vào hồ sơ vụ
án và sao chụp để lưu hồ sơ kiểm sát.
Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo
Luận tội của Viện kiểm sát phải phản ánh rõ ràng hành vi phạm tội của
các bị cáo, đã xem xét toàn diện các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hình phạt. Trên
cơ sở xem xét toàn bộ nội dung vụ án, chứng cứ, quá trình xét hỏi, nhận định
hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính
sách quản lý độc quyền về chất ma túy của Nhà nước, đồng thời còn làm ảnh
hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương, do đó cần xét xử nghiêm
tương xứng với hành vi phạm tội, đồng thời tạo sự răn đe với tội phạm ma túy.
Tranh luận tại phiên tòa
Khi tranh luận, KSV cần căn cứ vào lý luận của cấu thành tội phạm về tội
ma túy, phân tích, đánh giá 4 yếu tố cấu thành tội phạm, lý luận về chứng cứ để
lập luận một cách lôgic theo từng vấn đề. Kiểm sát viên cần dựa vào các chứng
28. 21
cứ của vụ án như biên bản phạm tội quả tang, lời khai, hiện trường, giám định
chất ma túy, các quy tắc trong cuộc sống để tranh luận, đối đáp, lập luận chặt chẽ
khẳng định quan điểm đúng đắn của mình, kiên quyết bác bỏ ý kiến sai trái hoặc
không đúng của người bào chữa, bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố
tụng khác. Thực tế thực hành quyền công tố tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án ma
túy cho thấy cho thấy, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị hại, đương sự thường tập trung tranh luận vào những vấn đề
sau:
+ Một là, không đồng ý với quyết định truy tố của VKS về tội mua bán
trái phép chất ma túy mà là phạm tàng trữ trái phép có khung hình phạt nhẹ hơn;
+ Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng cơ bản
đến nội dung giải quyết vụ án;
+ Ba là, tranh luận về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự.
Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là việc VKS cùng cấp hoặc VKS cấp
trên trực tiếp kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa
có hiệu lực pháp luật mà VKS thấy có sai phạm. Có thể xem xét căn cứ kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm quy định tại Điều 32 Quy chế công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử (quy chế 505).
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự
Rút quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa: khi thấy không đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 285
BLTTHS và quy định tại Điều 21 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát xét xử vụ án hình sự (quy chế 505) thì trước khi mở phiên tòa, nếu xét
thấy có căn cứ rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố.
29. 22
Giải quyết việc Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung: Tòa án trả hồ sơ để điều
tra bổ sung nếu có căn cứ thì chấp nhận việc trả hồ sơ VKS tự mình hoặc trả hồ
sơ để điều tra bổ sung cho CQĐT để tiến hành điều tra theo yêu cầu, nếu không
có căn cứ thì không chấp nhận chuyển trả hồ sơ lại cho TA.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong các vụ
án ma túy tại cấp Huyện
1.3.1. Đảm bảo về mặt pháp lý trong hoạt động thực hành quyền công tố
đối với các vụ án ma túy tại cấp Huyện
Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 là những
văn bản văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp nhất quy định về tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND nói chung và VKSND cấp huyện nói riêng trong
công tác thực hành quyền công tố; Luật Phòng, chống ma túy năm 2000 (sửa
đổi, bổ sung năm 2008), BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, BLTTHS năm
2015, Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012; ngoài ra còn có các văn bản dưới
luật do VKSNDTC ban hành như Quyết định số 03/QĐ-VKSTC ngày
29/12/2017 ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc khởi tố, điều tra và truy tố; Quyết định số 169/QĐ-VKSTC ngày
02/5/2018 ban hành Quy chế tạm thời công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
đây là các văn bản pháp lý đảm bảo cho VKSND cấp huyện thực hành quyền
công tố đối với các loại tội phạm nói chung trong đó có tội phạm ma túy nói
riêng. Bên cạnh đó còn có các thông tư, thông tư liên tịch của TA, VKSND tối
cao làm cở sở áp dụng trong THQCT đối với các vụ án ma túy cấp huyện.
THQCT trong các vụ án ma túy ở cấp huyện được chính xác và đồng bộ
hay không, phụ thuộc rất lớn vào mức độ hoàn thiện của các quy định pháp luật
liên quan. Nếu mức độ hoàn thiện tốt thì công tác này thuận lợi, nhanh chống
30. 23
còn ngược lại thì khó khăn, ách tắc từ giai đoạn giải quyết tin báo, điều tra, truy
tố, xét xử.
1.3.2. Ý thức pháp luật, kỹ năng của người thực hành quyền công tố trong
các vụ án ma túy tại cấp Huyện
Trong hoạt động thực hành quyền công tố, ý thức pháp luật của KSV là
một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết để áp dụng pháp luật một cách chính
xác và đúng đắn.
Nếu ý thức pháp luật, nhận thức pháp luật của KSV ở mức độ thấp rất dẽ
dẫn đến việc hiểu sai nội dung của quy phạm pháp luật; đánh giá, xem xét các
tình tiết của vụ án một cách hời hợt, chủ quan, phiến diện và rất dễ dẫn đến oan,
sai. Ý thức pháp luật, trình độ nhận thức pháp luật của KSV ở tầm cao thì quyết
định áp dụng pháp luật được ban hành trên cơ sở khoa học và thực tiễn, khách
quan và công minh. Những quyết định áp dụng pháp luật của KSV trong hoạt
động thực hành quyền công tố là sản phẩm của cả một quá trình nghiên cứu, cân
nhắc, trăn trở và lao động nghiêm túc. Chính ý thức pháp luật là nhân tố giúp
KSV đánh giá các sự kiện, các tình tiết, các chứng cứ một cách khách quan,
chính xác, không thiên vị, không bỏ qua bất kỳ tình tiết nào dù nhỏ nhất.
Chính ý thức pháp luật, bản lĩnh, kỹ năng nghề nghiệp mách bảo cho KSV
biết đâu là vấn đề mấu chốt, đâu là những tình tiết có ý nghĩa quan trọng của một
vụ án. Ý thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của KSV góp phần tạo ra phong
cách làm việc đĩnh đạc, tự tin, quyết đoán, chính xác và khoa học khi thao tác
quy trình áp dụng pháp luật để giải quyết từng vụ án cụ thể.
Có thể nói rằng, ý thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của KSV có một
vai trò cức kỳ quan trọng trong hoạt động thực hành quyền công tố.
1.3.3. Phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp
Ngoài việc làm tốt công tác phối hợp liên ngành với TAND và Cơ quan
điều tra cùng cấp thông qua các Quy chế phối hợp liên quan đến việc giải quyết
án ma túy. VKS phối hợp với các ngành, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, các
31. 24
đoàn thể quần chúng là cơ sở vững chắc cho VKS thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ của mình, phát huy được sức mạnh của hệ thống chính trị trong đấu
tranh, phòng chống tội phạm, trong đó, mối quan hệ giữa VKS và Mặt trận tổ
quốc và các thành viên đóng một vai trò quan trọng, vì vậy, VKS các địa phương
phải chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc để ban hành quy chế phối hợp
công tác, từ đó mở rộng các hình thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến nâng cao
nhận thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân nhằm thực hiện có hiệu quả công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong đó có tội phạm ma túy cũng như
kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hình sự của
ngành Kiểm sát và các cơ quan tư pháp khác.
Kết luận chương 1
Trong Chương 1 của luận văn, tác giả đã trình bày, làm rõ những vấn đề
về lý luận liên quan đến thực hành quyền công tố của VKS đối với các vụ án ma
túy, như khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố của
VKS đối với các vụ án ma túy. Theo đó, THQCT trong các vụ án ma túy của
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là việc VKS sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý do pháp luật quy định để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình
sự, buộc tội đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội về ma túy nhằm đảm
bảo mọi hành vi phạm tội, người và pháp nhân thương mại phạm tội phải được
phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Đặc
điểm của thực hành quyền công tố trong các vụ án về ma túy mang những nét
riêng biệt so với THQCT đối với các loại tội phạm khác. Đối tượng của THQCT
trong các vụ án ma túy là tội phạm và người phạm tội ma túy, với phạm vi bắt
đầu từ khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Chương 1 tác giả cũng đã trình bày,
phân tích, đánh giá nội dung thực hành quyền công tố của VKS trong vụ án ma
túy, có thể nhóm lại thành một số nội dung sau: Yêu cầu CQĐT tiến hành kiểm
32. 25
tra xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và yêu cầu điều tra;
phê chuẩn hoặc không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định của CQĐT; quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, ra các quyết định tố tụng khác để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự, trực tiếp tiến hành một số hoạt động kiểm tra xác minh và
hoạt động điều tra; quyết định truy tố; xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận đối đáp;
kiến nghị vi phạm pháp luật và kháng nghị đối với bản án, quyết định của tòa án;
một số nội dung nhiệm vụ quyền hạn tố tụng khác. Những nội dung trên là căn
cứ, cơ sở để tác giả nghiên cứu, trình bày nội dung tại Chương 2: Thực trạng
thực hành quyển công tố đối trong các vụ án ma túy của tại huyện Xuyên Mộc,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
33. 26
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG CÁC VỤ ÁN
MA TÚY TẠI HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
2.1. Tình hình đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, ảnh hưởng đến thực
hành quyền công tố trong các vụ án ma túy của trên địa bàn huyện Xuyên
Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
2.1.1. Tình hình kinh tế, xã hội huyện Xuyên Mộc ảnh hưởng đến công tác
thực hành quyền công tố các vụ án ma túy
Huyện Xuyên Mộc thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một huyện nằm ở vị
trí địa lý vô cùng quan trọng của tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Vốn là
vùng địa đầu của miền Đông Nam Bộ nối liền với cực Nam Trung Bộ, phía Tây
và Tây Bắc giáp huyện Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai, Tây giáp huyện Châu Đức, Tây
Nam giáp huyện Đất Đỏ, Đông Nam giáp huyện Hàm Tân tỉnh Bình Thuận, phía
Nam giáp với biển Đông rộng lớn. Diện tích tự nhiên 640,48 km2
. Xuyên Mộc là
một huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất tỉnh với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng, đã và đang được tiến hành khai tháccác nguồn lợi kinh tế.
Theo số liệu thống kê năm 2015 thì dân số trên địa bàn huyện Xuyên Mộc là
170.356 người. Trong những năm qua kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Xuyên
Mộc, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến phát triển hàng loạt các
dự án như khu du lịch Hồ Tràm, du lịch sinh thái Sài Gòn - Bình Châu, bên cạnh
đó huyện còn có cảng cá Bình Châu tạo điều kiện cho các nhà máy chế biến hải
sản phát triển. Ngoài kinh tế biển, nền kinh tế huyện Xuyên Mộc còn có thế
mạnh phát triển các cây công nghiệp như tiêu, cà phê, điều chính những điều
kiện thuận lợi trên đảm bảo an sinh xã hội huyện Xuyên Mộc được phát triển,
đời sống kinh tế của người dân có những biến đổi tích cực [31]. Bên cạn thuận
lợi địa bàn huyện Xuyên Mộc gặp nhiều khó khăn đặc biệt là các loại hình dịch
vụ phòng trọ, karaoke tạo điều kiện cho tội phạm về ma túy phát triển trong đó
đa số là tội phạm về mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy. Nhiều tụ điểm tổ
34. 27
chức sử dụng ma túy tổng hợp trong đó có các quán bar, karaoke. Đối tượng chủ
yếu là thanh niên có tuổi đời còn rất trẻ (80% trong lứa tuổi 16-25, cá biệt có đối
tượng là giáo viên, công chức, viên chức). Trong những năn qua chính quyền và
các đoàn thể, địa phương, đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng đều có kế
hoạch cụ thể triển khai thực hiện đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với
tội phạm và tệ nạn ma túy nhằm từng bước kiềm chế, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi
tệ nạn ma tuý; tạo môi trường lành mạnh, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội của Huyện trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì cuộc sống
bình yên và hạnh phúc của nhân dân. Trong những năm qua tỷ lệ người nghiện
ma túy tăng lên đáng kể. Đây chính là “nguồn cầu” kích thích tội phạm về ma
túy phát triển, cần phải có nhiều biện pháp đấu tranh có hiệu quả với tội phạm về
ma túy trên địa bàn huyện. Số lượng tàng trữ để sử dụng và mua bán bị bắt tăng
nhiều làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng THQCT đối với loại án này.
2.1.2. Tổ chức bộ máy Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu
Dựa trên chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của VKSND huyện Xuyên Mộc
được chia thành nhiều bộ phận nghiệp vụ, cụ thể gồm: Bộ phận kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; bộ phận
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự; bộ phận thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự; bộ phận
kiểm sát án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, thương mại và thi hành
án dân sự; bộ phận kiểm sát án hành chính, bộ phận kiểm sát khiếu tố; bộ phận
văn phòng, thống kê, tổng hợp.
Tính đến ngày 31/12/2018, Tổng số cán bộ VKSND huyện Xuyên Mộc là
15 người, trong đó có 13 cán bộ, công chức và 02 người là cán bộ theo hợp đồng.
03 lãnh đạo 01 Viện trưởng và 02 Phó viện trưởng. Trong biên chế, có 07 Kiểm
sát viên; 02 Kiểm tra viên; 03 chuyên viên và 01 Kế toán trưởng. Trong đó có 02
35. 28
Kiểm sát viên trung cấp chức vụ Viện trưởng, Phó viện trưởng và 01 sơ cấp giữ
chức vụ Phó viện trưởng và 04 Kiểm sát viên sơ cấp. Biên chế được phân bổ như
sau: Viện trưởng phụ trách chỉ đạo chung và trực tiếp phụ trách công tác thống kê
tổng hợp, tài chính; Phó Viện trưởng phụ trách chỉ đạo thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm hình sự từng loại án hình sự, xử lý tố
giác, tin báo về tội phạm; kiểm sát khiếu tố; kiểm sát thi hành án; kiểm sát giam
giữ.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị: Hiện tại, 01 đồng
chí có trình độ Thạc sỹ Luật, 01 đồng chí đang theo học Thạc sỹ Luật, còn lại
đều có trình độ Cử nhân Luật và Cử nhân chuyên ngành khác. Hiện tại chỉ có 02
KSV làm công tác THQCT các vụ án hình sự trong đó có có các vụ án ma túy
chiếm tỷ lệ rất thấp so với khối lượng công việc. Vấn đề này là nguyên nhân
chính dẫn đến chất lượng THQCT trong các vụ án ma túy tại địa bàn huyện.
2.2. Những kết quả đạt được, những hạn chế yếu kém thực hành quyền
công tố các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc và nguyên nhân
2.2.1. Những kết quả đạt được từ công tác thực hành quyền tố trong giai
đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ma túy
Theo số liệu thống kê của VKSND huyện Xuyên Mộc từ năm 2014 đến
năm 2018 [35]: số tố giác, tin báo về tội phạm mà Cơ quan điều tra, VKS tiếp
nhận là 184 tin/205 đối tượng (năm 2014: 23 tin/28 đối tượng; năm 2015: 32
tin/42 đối tượng; năm 2016: 45 tin/50 đối tượng; năm 2017: 37 tin/42 đối tượng;
năm 2018: 47 vụ/62 đối tượng). Các tố giác, tin báo về tội phạm chủ yếu đến từ
công dân và không có trường hợp nào thuộc trường hợp kiến nghị khởi tố. Đồng
thời, không có trường hợp nào thuộc trường hợp pháp nhân thương mại phạm
tội. Tất cả các tin báo đều được VKS tiến hành thụ lý, phân loại, xác minh, khởi
tố. Sau khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm kiến nghị khởi tố các cơ quan
liên ngành đã thực hiện đúng các trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng
36. 29
hình sự năm 2003 (đến năm 2018 theo BLTTHS năm 2015) và Thông tư liên
tịch số 17/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn
áp dụng một số quy định tại chương XVIII “ Các tội phạm về ma túy ” của
BLHS năm 1999; thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-
BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017 “Quy định việc phối hợp giữa các cơ
quan có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm
2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”
[9] [7], để tiến hành kiểm tra, xác minh, điều tra; Viện kiểm sát đã chủ động,
phối hợp chặt chẽ, thường xuyên hơn trong công tác thực hành quyền công tố,
kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm ma túy. Những tố giác, tin báo về
tội phạm ma túy sau khi VKS tiếp nhận đều được chuyển cho CQĐT giải quyết,
VKS huyện không trực tiếp giải quyết. Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm ma túy, VKS đều kiểm sát chặt chẽ mọi hoạt động và quyết định của
CQĐT để phục vụ việc thực hành quyền công tố. Trong số 184 tin/224 đối tượng
đã tiếp nhận đều tiến hành kiểm tra, xác minh, áp dụng các biện pháp ngăn chặn
như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ và khởi tố vụ án hình sự đối
với tất cả các tố giác, tin báo về tội phạm đã tiếp nhận, giải quyết. Những lệnh
giữ người bị bắt trong trường họp khẩn cấp đều được VKS phê chuẩn và gia hạn
tạm giữ hình sự đối với 57 trường hợp. Có 150 trường hợp VKS yêu cầu CQĐT
phải tiến hành kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố, kết quả yêu cầu đó đều được CQĐT thực hiện và đã khởi tố vụ án, khởi tố bị
can đối với 150 trường hợp nêu trên. Có 35 trường hợp trước khi phê chuẩn lệnh
bắt khẩn cấp (lệnh giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp) VKS đã tiến
hành lấy lời khai của người bị buộc tội để củng cố chứng cứ phục vụ việc phê
chuẩn. Tất cả 184 quyết định khởi tố vụ án và 224 quyết định khởi tố bị can của
CQĐT đều được VKS huyện Xuyên Mộc nghiên cứu kỹ lưỡng, đồng ý với các
quyết định khởi tố vụ án và phê chuẩn đối với các quyết định khởi tố bị can.
Trong tất cả các trường hợp, khi có tố giác, tin báo về tội phạm ma túy, KSV đã
37. 30
chủ động kiểm sát chặt chẽ tài liệu của CQĐT để qua đó phân tích, đánh giá
chứng cứ và thống nhất với Điều tra viên hướng giải quyết tiếp theo đối với tố
giác, tin báo để báo cáo Lãnh đạo Viện chỉ đạo ngay từ ban đầu. Đối với các vụ
án ma túy có tình thiết phức tạp KSV đề xuất họp liên ngành để tìm hướng tháo
gỡ khó khăn. Một số tố giác, tin báo về tội phạm ma túy phức tạp đều được đưa
ra họp liên ngành tư pháp để thảo luận, bàn bạc thống nhất quan điểm giải quyết.
Công tác thỉnh thị liên ngành cấp trên của VKSND huyện Xuyên Mộc được chú
trọng và thực hiện kịp thời hơn, tất cả các tin báo về ma túy có khó khăn trong
việc xử lý đều được thỉnh thị xin ý kiến giải quyêt của cấp trên nên đã hạn chế
những sai sót, vi phạm có thể dẫn đến oan sai, lọt tội. Đối với những thông tin
tội phạm về ma túy mà VKS phát hiện thông qua công tác nghiệp vụ của mình,
qua xác minh, kiểm tra ban đầu, nếu có dấu hiệu tội phạm thì đưa vào tin báo tội
phạm và chuyển cho CQĐT tiến hành xác minh, giải quyết theo quy định; những
thông tin tội phạm không có dấu hiệu tội phạm thì được phân loại để theo dõi,
giải quyết khi phát hiện có tình tiết mới. Công tác thực hành quyền công tố của
VKSND huyện Xuyên Mộc làm tốt mối quan hệ phối hợp và quan hệ chế ước
đối với CQĐT.
Qua công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đối với tội phạm ma túy, VKS huyện
Xuyên Mộc đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, giữ vững trật tự an toàn xã hội ở địa phương nói chung và đối với tội
phạm ma túy nói riêng.
2.2.2. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc
Theo số liệu thống kê được từ VKSND huyện Xuyên Mộc trong 05 năm
giai đoạn từ 01/01/2014 đến 30/12/2018. VKSND huyện Xuyên Mộc đã THQCT
ở giai đoạn điều tra 554 vụ án hình sự/695 bị can, trong vụ án về ma túy là 184
vụ/ 224 bị can [35], cụ thể: Tội phạm về ma túy là tội phạm chiếm số lượng lớn
38. 31
trong công tác THQCT của VKSND huyện Xuyên Mộc. Trong giai đoạn 2014
đến 2018 tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đỉnh điểm là năm 2018,
VKSND huyện Xuyên Mộc THQCT trong giai đoạn điều tra với 47 vụ án, với
62 bị can chiếm 41,59% các vụ án hình sự. Đây là con số khá lớn đối với một
huyện nông thôn như Xuyên Mộc, cho thấy diễn biến phức tạp khó dự đoán của
loại tội phạm này.
Bảng 2.1. So sánh tình hình tội phạm về tội mua bán trái phép chất
ma túy với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc
giai đoạn từ năm 2014 – 2018
Đơn vị tính: Bị can
Năm
Vụ án hình sự Vụ án ma túy Tỷ lệ %
Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can Số vụ án Số bị can
2014 90 144 23 28 25,55% 19,4%
2015 115 143 32 42 27,82% 29,37%
2016 130 152 45 50 34,61% 32,89%
2017 106 115 37 42 34,90% 36,52%
2018 113 141 47 62 41,59% 43,79%
Tổng số 554 695 184 224 33,31% 32,23%
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
0
50
100
150
Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Biểu 2.1 (Biểu đồ biểu diễn số lượng các vụ án hình sự và vụ án ma túy
trong giai đoạn năm 2014 - 2018)
số vụ án hình sự số vụ án ma túy
39. 32
Nguồn: VKSND huyện Xuyên Mộc
Ngay sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, CQĐT thường
ban hành lệnh tạm giam, lệnh bắt bị can để tạm giam (hoặc gia hạn tạm giam
trong quá trình điều tra) và chuyển các quyết định, lệnh cũng như toàn bộ hồ sơ
vụ án sang VKS để phê chuẩn. KSV được giao nhiệm vụ THQCT đối với vụ án
tập trung nghiên cứu nắm vững nội dung vụ án, các tình tiết có liên quan để báo
cáo, đề xuất lãnh đạo Viện phê chuẩn, không phê chuẩn hoặc hủy bỏ các quyết
định trên của CQĐT. Đây là các thao tác nghiệp vụ chủ yếu trong công tác
THQCT đối với vụ án ma túy trong giai đoạn điều tra của VKSND huyện Xuyên
Mộc.
Về công tác THQCT trong việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
của CQĐT và VKSND huyện Xuyên Mộc: Trong 05 năm từ năm 2014 đến năm
2018, CQĐT đã bắt, tạm giữ hình sự tổng số 537 người; trong đó đã đưa vào xử
lý hình sự 537 người (chiếm tỷ lệ 100%), gồm khởi tố chuyển tạm giam 512
người ( Tất cả trường này được VKSND huyện Xuyên Mộc phê chuẩn). Trong
toàn bộ số người bị bắt, tạm giữ thì số người có hành vi phạm tội về ma tuý là
224 người (chiếm tỷ lệ 41,71%), tất cả trường hợp bị bắt tạm giữ CQĐT huyện
Xuyên Mộc đều khởi tố chuyển sang giam.
Bảng 2.2. So sánh tình hình áp dụng biện pháp bắt tạm giữ, tạm giam
trong vụ án ma túy với vụ án nói chung trên địa bàn huyện Xuyên Mộc giai
đoạn từ năm 2014 – 2018.
Đơn vị tính: Người bị bắt, tạm giữ
Năm
Vụ án hình sự Vụ án ma túy Tỷ lệ %
Số người
bị bắt,
tạm giữ
Chuyển
tạm
giam
Số người
bị bắt, tạm
giữ
Chuyển
tạm
giam
Số người
bị bắt,
tạm giữ
Chuyển
tạm giam
40. 33
2014 100 96 28 28 28% 29,16%
2015 120 119 42 42 35% 35,29%
2016 130 120 50 50 28,46% 41,66%
2017 92 87 42 42 45,65% 48,27%
2018 95 90 62 62 65% 68%
Tổng 537 512 224 224 41,71% 43,75%
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
Nguồn: VKSND huyện Xuyên Mộc
Quyền hạn, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, tạm giam được quy định rõ tại Điều 22 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014. Việc kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng biện pháp tạm giam
nhằm đảm bảo cho Cơ quan điều tra thực hiện nghiêm chỉnh trình tự, thủ tục tạm
giam; đảm bảo mọi trường hợp tạm giam phải có căn cứ, đúng pháp luật; tránh
tình trạng áp dụng một cách tràn lan, tùy tiện, ảnh hưởng đến quyền tự do của
công dân.
Trên cơ sở nắm chắc các quy định của BLTTHS và nhận thức rõ vai trò,
trách nhiệm của VKS trong việc phê chuẩn các biện pháp ngăn chặn tạm giam,
VKSND huyện Xuyên Mộc luôn chú trọng việc nâng cao trách nhiệm trong công
tác phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam nhằm bảo đảm việc truy
0
100
200
Biểu 2.2 (Biểu đồ biểu diễn số người bị bắt, tạm giữ trong các vụ
án hình sự và vụ án ma túy trong giai đoạn năm 2014 - 2018)
Người bị bắt, tạm giữ trong Vụ án hình sự
Người bị bắt, tạm giữ trong Vụ án ma túy
41. 34
cứu TNHS, buộc tội được đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con
người trong hoạt động TTHS, cụ thể:
Ngay sau khi nhận được hồ sơ vụ án của CQĐT chuyển sang, đề nghị
VKS phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh tạm giam, KSV
VKSND huyện Xuyên Mộc được phân công thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra vụ án trong thời hạn 03 ngày đã khẩn trương tiến hành nghiên cứu kỹ
lưỡng hồ sơ vụ án, trực tiếp lấy lời khai của người bị bắt giữ để làm căn cứ phê
chuẩn các lệnh, quyết định trên. KSV đọc kỹ từng trang tài liệu, từng biên bản
khám xét, biên bản lấy lời khai, hỏi cung, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận
giám định chất ma túy… để xác định rõ hành vi phạm tội của bị can, hậu quả của
tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo, các tình tiết khác
có liên quan đến vụ án.Tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố bị
can, lệnh tạm giam bị can bao gồm các nội dung quan trọng, đó là: bị can phải là
người thực hiện hành vi phạm tội về ma túy, quyết định ban hành phải đúng
thẩm quyền, đúng đối tượng, đúng thời hạn luật định…
Khi lấy lời khai người bị bắt, tạm giam, bị can, bên cạnh việc làm rõ các
tình tiết của vụ án, hành vi phạm tội của người bị bắt giữ, KSV luôn chú trọng
đến việc làm rõ các nội dung buộc tội để đảm bảo việc phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can, Lệnh tạm giam là có căn cứ và đúng pháp luật, như: Hỏi về nhân
thân người phạm tội; hỏi về nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi ở; sức khỏe của
người bị bắt tạm giữ, hành vi phạm tội của bị can, hậu quả của hành vi phạm
tội…
Sau khi lấy lời khai của người bị bắt giữ, KSV tiếp tục nghiên cứu kỹ các
tài liệu có trong hồ sơ vụ án, so sánh, đối chiếu với kết quả lấy lời khai của
mình, thận trọng đánh giá các căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can, căn cứ tạm
giam để báo cáo, đề xuất chính xác các trường hợp cần áp dụng biện pháp này.
Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người già phạm tội, KSV xem
42. 35
xét kỹ lưỡng căn cứ, điều kiện áp dụng biện pháp tạm giam nhằm bảo đảm đúng
quy định của pháp luật.
Có thể thấy rằng, VKSND huyện Xuyên Mộc trong công tác phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam đã luôn chú trọng bảo đảm đúng các
quy định của pháp luật, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng hình
sự. Việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam luôn bảo đảm có
căn cứ và hợp pháp; các trường hợp không đảm bảo căn cứ hoặc không hợp
pháp, VKSND huyện Xuyên Mộc kiên quyết hủy bỏ quyết định khởi tố bị can,
không phê chuẩn lệnh tạm giam (gia hạn tạm giam), yêu cầu CQĐT áp dụng các
biện pháp ngăn chặn khác, không có trường hợp phê chuẩn không đúng quy định
của pháp luật hoặc oan sai đối với người bị buộc tội.
Sau đây là một số vụ án điển hình thể hiện công tác thực hành quyền công
tố của VKS trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án ma túy:
Vụ thứ nhất: Khoảng 20 giờ này 04/9/2018 Trần Khương Phúc sinh năm
1990 nhắn tin qua mạng xã hội rủ Trần Túy sinh năm 1993 cùng ngụ tại ấp Bình
Tiến, xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, góp mỗi người 100.000đ mua ma túy về
sử dụng chung, Túy đồng ý và mượn điện thoại di động của 01 người không rõ
lai lịch nhắn tin hỏi mua ma túy của Đoàn Văn Trung sinh năm 1986 ngụ tại ấp
khu 1, xã Bình Châu, Trung đồng ý, Túy điều khiển xe mô tô Biển số 72G1-
350.14 đến nhà của Trung và mua được 01 gói ma túy đá. Sau khi mua được ma
túy, Túy bỏ vào túi rồi đi về tiện Internet gặp Phúc, đi tìm nơi sử dụng thì bị
Công an xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc nghi ngờ yêu cầu kiểm tra thì Túy
khai nhận có cất giấu trong người 01 gói ma túy và lấy giao nộp cùng với 01 nỏ
thủy tinh dài 14,5cm cho Cơ quan Công an. Cơ quan Công an đã tiến hành khám
xét nơi ở của Trung thì thu giữ được 06 gói ma túy gồm 01 gói dưới nền nhà và
05 gói Trung giấu trên tấm rèm gần bàn thờ ở phòng khách, mục đích để bán cho
các con nghiện. Ngoài ra còn thu giữ được nhiều vật dụng dùng để chia nhỏ và
sử dụng ma túy gồm 01 kéo bằng kim loại dài 22cm, 01 ống hút bằng nhựa màu
43. 36
đen dài 06cm, 03 gói nylon hàn kín kích thước 03 x 03 cm, 01 nỏ bằng thủy tinh
dài 14,5cm và 200.000đ là tiền Trung vừa bán ma túy cho Túy mà có.
Kết quả giám định thì gói ma túy thu giữ của Trần Túy có khối lượng là
0,1016 gam, 06 gói ma túy thu giữ của Đoàn Văn Trung có khối lượng là 1,4435
gam, tất cả đều là loại ma túy Methamphetamine.
Sau khi CQĐT bắt quả tang đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy đối với Trần Khương Phúc, Trần Túy theo điểm c Khoản 1
Điều 249 BLHS năm 2015 và tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1
Điều 251 BLHS năm 2015 đối với Đoàn Văn Trung, đồng thời ra lệnh tạm giam
đối với các bị can đồng thời chuyển hồ sơ vụ án đề nghị VKS phê chuẩn quyết
đinh khởi tố vụ án và lệnh tạm giam đối với các bị can. KSV được phân công
THQCT và kiểm sát điều tra, tiến hành nghiên cứ hồ sơ vụ án, hỏi cung trực tiếp
các bị can, thấy có căn cứ KSV tiến hành đề xuất lãnh đạo viện phê chuẩn các
quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam và đề ra yêu cầu điều tra vụ án.
Vụ thứ hai: Khoảng 20 giờ ngày 24/11/2018 Bùi Thành Lâm sinh năm
1997 đến khu vực nhà hát cũ thuộc xã An Ngãi, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu mua 07 gói ma túy từ người tên Bình (không rõ nhân thân, lai lịch)
với giá 1.000.000đ và được Bình cho thêm 02 gói ma túy. Lâm đem 09 gói ma
túy về cất giấu ở gác phòng trọ của mình thuộc tổ 7, ấp Thạnh Sơn 1A, xã Phước
Thuận, huyện Xuyên Mộc mục đích để Lâm mình và bạn cùng phòng là Trần
Tuấn Anh sinh năm 1998 và Dương Văn Vũ sinh năm 2001 sử dụng chung.
Khoảng 10 giờ ngày 27/11/2017 Lâm đi thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, trước
khi đi Lâm nói với Dương Văn Vũ đem 09 gói ma túy để trên gác cất đi vì sợ
người khác phát hiện, Vũ đồng ý nhưng chưa thực hiện, khoảng 15 phút sau
Trần Tuấn Anh bạn trọ cùng phòng hỏi Vũ nơi cất ma túy của Lâm đi bán lấy
tiền phụ sinh hoạt phòng trọ. Vũ chỉ nơi cất ma túy, Anh lên gác lấy 01 gói ma
túy chia làm 02 gói nhỏ, để 01 gói lại chỗ cũ còn mình lấy đi 01 gói. Sau đó Vũ
đem số ma túy còn lại của Lâm đem đi giấu ở đầu bếp ga để sử dụng chung cùng
44. 37
với Lâm. Sau khi có được ma túy, Anh mượn xe mô tô của người tên Vàng
(không rõ nhân thân, lai lịch) đến quán cà phê Sao Băng thuộc khu phố Xóm
Rẫy, thị trấn Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc bán cho người tên Ân (không rõ
nhân thân, lai lịch) nhưng khi vừa đến quán thì bị Công an huyện Xuyên Mộc
kiểm tra hành chính phát hiện và tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối
với Trần Tuấn Anh vào lúc 13 giờ 40 phút ngày 27/11/2018, sau đó khám xét
phòng trọ của Bùi Thành Lâm và thu giữ 09 gói ma túy còn lại vào lúc 16 giờ 40
phút ngày 27/11/2018. Số ma túy thu giữ của Trần Tuấn Anh gửi đến giám định
có khối lượng 0,2059 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine và của Bùi
Thành Lâm khối lượng 0,8011 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuyên Mộc đã khởi tố vụ án
hình sự, khởi tố bị can đới với Lâm và Vũ về “Tội tàng trữ trái phép chất ma
túy”, bị can Anh về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ra lệnh tạm giam đối
với các bị can và đề nghị VKS phê chuẩn. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, xét
thấy có đầy đủ cơ sở đề khởi tố bị can theo đề nghị phê chuẩn, tuy nhiên KSV
vẫn trực tiếp tiến hành lấy lời khai và cho đối chất giữa Trần Tuấn Anh và
Dương Văn Vũ để làm rõ hành vi chỉ nơi cất giấu ma túy cho Anh đem bán của
Vũ có đồng phạm mua bán ma túy hay không, kết quả có đồng phạm nên
VKSND huyện Xuyên Mộc yêu cầu khởi tố bổ sung đối với Dương Văn Vũ về
hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Phần lớn các vụ án ma túy phát hiện ban đầu ở huyện Xuyên Mộc được
thực hiện dưới hình thức bắt quả tang. Do vậy, để đảm bảo tính có căn cứ phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định khởi tố của CQĐT thì đòi hỏi KSV
phải chú ý việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Một số thiếu sót của
CQĐT khi tiến hành lập biên bản quả tang như không lập biên bản tại hiện
trường bắt hoặc mô tả sơ sài đặc điểm người, đồ vật, hiện trường khi bắt quả
tang, không có nhân chứng chứng minh đối tượng có mặt ở hiện trường, liên
quan đến ma túy. Vì vậy, trong quá trình THQCT, KSV rất cẩn trọng kiểm tra kỹ
45. 38
biên bản, chú ý đến những mâu thuẫn giữa lời khai của các đối tượng với nhau,
với đặc điểm vật chứng thu giữ… vì nếu không phát hiện được sẽ dẫn đến gặp
nhiều khó khăn trong củng cố và đánh giá chứng cứ. Khi tiến hành phê chuẩn
các quyết định trên, KSV khẩn trương nghiên cứu, nếu thấy chứng cứ chưa đầy
đủ và còn mâu thuẫn thì yêu cầu CQĐT bổ sung hoặc KSV trực tiếp lấy lời khai
đối tượng để làm rõ, dần đáp ứng với yêu cầu công tố gắn với hoạt động điều tra.
KSV đề ra yêu cầu điều tra rõ ràng không chung chung bằng văn bản (có thể
bằng miệng đối với vụ án đơn giản).
Do thực hiện tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
nên việc khởi tố, điều tra các vụ án ma túy cơ bản bảo đảm chất lượng, đúng thời
hạn tố tụng và tuân thủ đúng các thủ tục do pháp luật quy định. Tỷ lệ án được
giải quyết ở CQĐT huyện Xuyên Mộc luôn đạt cao, hạn chế được việc gia hạn
điều tra hoặc để quá hạn điều tra.
Trong 05 năm qua, công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các vụ án
ma túy của VKSND huyện Xuyên Mộc đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận. Các vụ án ma túy được phát hiện và đưa ra xử lý kịp thời, xử đúng người,
đúng tội, không oan sai. Góp phần có hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng
ngừa tội phạm.
2.2.3. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy tại huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu
2.2.3.1. Đối với hoạt động công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo
thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa
Cáo trạng đáp ứng đúng theo mẫu của ngành, nội dung đảm bảo quy định
tại Điều 243 BLTTHS. KSV được phân công thực hành quyền công tố tại phiên
tòa khi công bố cáo trạng đã thể hiện được phong thái đĩnh đạc, trình bày rõ
ràng, mạch lạc, dứt khoát thể hiện được sự uy nghiêm của người đại diện của cơ
quan công tố tại phiên tòa. Việc công bố cáo trạng nhìn chung đạt chất lượng tốt,
46. 39
các KSV nắm được kỹ năng nghiệp vụ và kết hợp với theo dõi các diễn biến tại
phiên tòa, trong một số vụ án KSV thực hành quyền công tố đã kịp thời thay đổi,
bổ sung cáo trạng khi có tình tiết, chứng cứ mới nhưng không làm xấu hơn tình
trạng của bị cáo.
Năm 2014 - năm 2018 đối với các vụ án ma túy VKSND huyện đã truy tố
182 vụ/219 bị cáo, TAND huyện đã xét xử 180 vụ/217 bị cáo, tương ứng với 180
cáo trạng mà VKS đã công bố buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa [35].
Trong các vụ án ma túy, có rất nhiều loại chất và tiền chất ma túy được sử
dụng thống nhất nguyên bản ngôn ngữ tiếng Anh trong các văn bản của Nhà
nước ban hành. KSV huyện giữ quyền công tố tại tòa luôn phát âm đúng, chính
xác không hề gây phản cảm.
Bảng 2.3. So sánh số vụ án ma túy TAND huyện Xuyên Mộc đưa ra
xét xử với số vụ án ma túy VKSND huyện truy tố với giai đoạn từ năm 2014
– 2018
Đơn vị tính: Vụ án
Năm
Vụ án ma túy truy
tố
Vụ án ma túy xét xử Tỷ lệ %
Số vụ Số bị
can
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
2014 21 25 21 25 100% 100%
2015 34 47 24 30 70,58% 63,82%
2016 45 50 50 60 111% 120%
2017 37 42 42 49 113% 116%
2018 45 55 43 53 95% 96%
Tổng 182 219 180 217 98% 99%
Nguồn: VKDND huyên Xuyên Mộc
47. 40
2.2.3.2. Đối với hoạt động xét hỏi và xem xét vật chứng tại phiên tòa
Kết quả thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự giai đoạn năm 2014 đến hết năm 2018 với 180 vụ án ma túy/217 bị cáo
phạm tội. KSV VKSND huyện xuyên Mộc đã thực hiện tốt các kỹ năng nghiệp
vụ để tham gia xét hỏi làm rõ nội dung vụ án như chuẩn bị đề cương xét hỏi, tập
trung xét hỏi tại phiên tòa. Việc xây dựng đề cương xét hỏi được tuân thủ theo
Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự (Ban
hành kèm theo quyết định số 505 ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC).
Đề cương dự kiến đầy đủ các nội dung cần xét hỏi làm rõ vụ án, các tình huống
có thể phát sinh tại phiên tòa. Bên cạnh đó, trong xét hỏi, câu hỏi của các KSV
ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, không mang tính ép buộc, mớm cung, dụ cung, nội
dung hỏi tập trung vào làm rõ hành vi phạm tội của bị cáo, công cụ, phương tiện
bị cáo sử dụng để phạm tội, động cơ, mục đích của bị cáo khi phạm tội, các yếu
tố về lỗi của bị cáo, hậu quả của tội phạm cũng như các tình tiết khác có liên
quan đến vụ án như có đồng phạm hay không, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS; Từ những nội dung xét hỏi được làm rõ tại phiên tòa, các chứng cứ buộc
tội, gỡ tội được chứng minh, từ đó, KSV luôn bảo vệ được sự buộc tội đối với bị
cáo theo đúng nội dung cáo trạng. Tác phong, thái độ của KSV giữ quyền công
tố tại tòa đúng mực đáp ứng được quy chế của ngành đề ra.
Hầu hết các vụ án ma túy đều có kết luận giám định của cơ quan giám
định đối với chất ma túy nên các cơ quan giám định không cử người tham gia
phiên tòa sơ thẩm thì phải công bố kết luận, khi thẩm vấn công khai tại phiên
tòa. Đối với trường hợp nhân chứng và những người tham gia tố tụng khác vắng
mặt tại phiên tòa nếu chứng cứ ddue buộc tội thì không cần phải công bố lời khai
của người vắng mặt trong hồ sơ vụ án. Quá trình xét hỏi, KSV luôn chú ý đối
chiếu bảng kê vật chứng, bản kê số lần phạm tội của từng đối tượng đã được
chuẩn bị, tình huống thu giữ vật chứng, như khi đuổi bắt đối tượng vứt lại ma
túy sau đó mới giữ vật chứng hay khám xét thu giữ để phục vụ tranh luận. KSV