Nhận viết luận văn đại học, thạc sĩ trọn gói, chất lượng, LH ZALO=>0909232620
Tham khảo dịch vụ, bảng giá tại: https://vietbaitotnghiep.com/dich-vu-viet-thue-luan-van
Luận văn thạc sĩ ngành luật: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Đề tài: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát, HAY
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HOÀNG NHUNG
NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN -
QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN HOÀNG NHUNG
NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN -
QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái
Hà Nội - 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy đinh của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người cam đoan
Trần Hoàng Nhung
4. LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trƣờng, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới GS.TS
Phạm Hồng Thái là ngƣời trực tiếp hƣớng dẫn khoa học, đã tận tình hƣớng
dẫn cho tôi cả chuyên môn và phƣơng pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực
thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập cũng nhƣ trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng nhƣ thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót. Tôi mong nhận đƣợc sự góp ý chân thành của các Thầy Cô,
đồng nghiệp và bạn bè để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Hà nội, ngày 10 tháng 9 năm 2015
Tác giả Luận văn
Trần Hoàng Nhung
5. MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI, ........................ 9
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ........................ 9
1.1. Quan niệm về quyền con ngƣời, quyền công dân và bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân...................................................................................... 9
1.1.1. Quyền con ngƣời và mối quan hệ giữa quyền con ngƣời và quyền công
dân ..................................................................................................................... 9
1.1.2. Bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân
.........................................................................................................................13
1.1.3 Các đặc trƣng cơ bản của bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân...................................................................................26
1.2. Các nguyên tắc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong hệ thống
các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng dân sự, tố tụng
hành chính. ......................................................................................................35
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật tố tụng hình sự ................35
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật tố tụng dân sự. ................45
1.2.3. Các nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật tố tụng hành chính hiện
hành .................................................................................................................48
CHƢƠNG 2: NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI, QUYỀN
CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN - QUA THỰC TIỄN TẠI
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH.....52
6. 2.1. Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản...........................................................52
2.1.1. Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát công tác giải quyết tin báo
tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố..............................................................52
2.1.2. Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử
các vụ án hình sự.............................................................................................54
2.1.3. Công tác kiểm sát việc tạm giam, tạm giữ và thi hành án hình sự .............56
2.1.4. Công tác kiểm sát thi hành án dân sự....................................................57
2.1.5. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, HN - GĐ, hành
chính, kinh doanh, thƣơng mại và những việc khác theo quy định pháp luật 58
2.1.6. Công tác kiểm sát việc giải quyết đơn thƣ, khiếu nại tố cáo ................59
2.2. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản ....................................................61
2.2.1. Về hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
của Viện kiểm sát............................................................................................71
2.2.2. Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tƣ pháp................................72
2.2.3. Về cơ sở vật chất, kỹ thuật điều kiện làm việc của các cơ quan tƣ pháp
.........................................................................................................................73
2.2.4. Về cơ chế phối hợp trong hoạt động tƣ pháp của các cơ quan tƣ pháp 74
2.2.5. Về cơ chế giám sát họat động tƣ pháp..................................................77
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƢỜI, QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
.........................................................................................................................80
3.1. Tăng cƣờng công tác phổ biến giáo dục pháp luật về quyền con ngƣời
trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp...80
3.2. Tiếp tục đổi mới pháp luật .......................................................................81
7. 3.3. Xây dựng tố tụng hình sự ở Việt Nam theo hƣớng tranh tụng và nâng cao
chất lƣợng tranh tụng tại phiên tòa Hình sự trƣớc yêu cầu cải cách tƣ pháp..83
3.4. Nâng cao năng lực của điều tra viên, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm
phán, hội thẩm nhân dân, luật sự.....................................................................90
3.5. Khắc phục kịp thời có hiệu quả thiệt hại do ngƣời tiến hành tố tụng gây ra
.........................................................................................................................91
3.6. Tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân......................93
KẾT LUẬN.....................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................98
8. DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Bảng số liệu án thụ lý kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định từ năm 2010-2014.........................................54
Bảng 2.2: Bảng số liệu án Viện kiểm sát huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định thụ lý
từ năm 2010-2014 ...........................................................................................55
Bảng 2.3: Bảng số liệu án kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định từ năm 2010-2014 ..................................................................55
Bảng 2.4: Bảng số liệu công tác kiểm sát số việc thi hành án thụ lý giải quyết
của Viện kiểm sát huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định..........................................58
9. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con ngƣời là những giá trị cao quý nhất, đƣợc hình thành và kết
tinh từ nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục
tiêu chung và phƣơng tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy
nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con ngƣời.
Quyền con ngƣời đƣợc chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ
sau Chiến tranh thế giới, quyền con ngƣời hiện đã trở thành một hệ thống các
tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất khuyến cáo với mọi quốc gia và việc
tôn trọng, bảo vệ các quyền con ngƣời hiện đã trở thành thƣớc đo căn bản về
trình độ văn minh của các nƣớc và các dân tộc trên thế giới [9, tr.20].
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo mà ngƣời
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không có mục đích gì khác hơn là
giành và giữ quyền con ngƣời cho toàn thể dân tộc. Việc quan tâm và thúc
đẩy đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân luôn là ƣu tiên của Đảng và
Nhà nƣớc ta, đƣợc phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách,
luật pháp của Nhà nƣớc ta từ trƣớc tới nay.
Ngày nay, nƣớc ta đang bƣớc vào giai đoạn: Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Song
song đó, cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta là một yêu cầu cấp bách, nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đảm bảo các quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm và làm
oan ngƣời vô tội.
Trong giai đoạn hiện nay, với chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân theo quy định của pháp luật là thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tƣ pháp. Trọng tâm của ngành kiểm sát nhân dân là: Phục vụ kịp
thời và hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nƣớc, hoàn thiện và phát
10. 2
huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cƣờng pháp chế, giữ vững và phát huy
bản chất của Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đồng
thời tạo bƣớc đột phá vững chắc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
Viện kiểm sát các cấp trong phòng, chống tội phạm. Nhất là tội phạm về an
ninh quốc gia, tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cƣơng, tôn trọng và bảo
vệ mọi quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, quyền cơ bản của con
ngƣời. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát các cấp, thật sự là chỗ
dựa tin cậy của Đảng, của Nhà nƣớc và của nhân dân.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân
huyện Vụ Bản nói riêng cũng không ngừng vƣơn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nƣớc đã giao phó. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật
để nâng cao chất lƣợng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
án hình sự. Không để xảy ra trƣờng hợp Viện kiểm sát truy tố Tòa án tuyên
không phạm tội, phấn đấu không có trƣờng hợp nào hủy án do có trách nhiệm
của Viện kiểm sát.
Vấn đề bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp là vấn đề còn khá mới mẻ trong
nhận thức của công dân, cũng nhƣ việc tổ chức và đảm bảo quyền con ngƣời,
quyền công dân trong thực tế, đó là vấn đề khá phức tạp cần đƣợc nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn điện cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những vấn đề nhƣ vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ
luật học, chọn đề tài “ Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân
của Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sỹ là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con ngƣời, quyền công dân và việc bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân là vấn đề cơ bản, đƣợc tất cả các quốc gia trên thế giới đặc
11. 3
biệt quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Trong lịch sử
phát triển của nhân loại, các giá trị về quyền con ngƣời và bảo vệ quyền con
ngƣời luôn gắn liền với những thành tựu mà nhân loại đạt đƣợc. Tuyên ngôn
thế giới về quyền con ngƣời đƣợc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm
1948 đã đánh dấu mốc phát triển của lịch sử nhân loại về quyền con ngƣời.
Đây là cơ sở cho việc hoàn thiện về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của việc đảm
bảo quyền con ngƣời.
Trên thế giới, từ cơ sở Luật quốc tế về quyền con ngƣời, các khu vực
quốc gia đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy quyền
con ngƣời trên thực tế. Năm 1950, Ngoại trƣởng các quốc gia thành viên
Cộng đồng Châu Âu ký Hiệp ƣớc về quyền con ngƣời, vạch ra hệ thống bảo
vệ quyền con ngƣời cho tất cả các quốc gia thành viên của cộng đồng.
Ở Châu Á - Thái Bình Dƣơng các tổ chức nhân quyền ở các quốc gia
lần lƣợt đƣợc thành lập ở các nƣớc nhƣ: Philippines, Auatralias… để góp
phần bảo vệ quyền con ngƣời trong phạm vi quốc gia mình.
Cùng với các căn cứ pháp lý về quyền con ngƣời, các quan điểm, tƣ
tƣởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã đƣợc phản ánh rất
phong phú và đa dạng nhƣ: tác phẩm “Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo
Công ƣớc quốc tế về dân sự và chính trị” của Lippman Matther, tạp chí Quốc
tế Califonia, số 10-1980; tác phẩm “Việc áp dụng Hiệp ƣớc Châu Âu về nhân
quyền của Tòa án Pháp” của Steiner Eva, tạp chí Luật Kings Collages, số 6-
1996; tác phẩm “Luật nhân quyền quốc tế liên quan đến phụ nữ, các ghi nhớ
từ các vụ án và bình luận” của Cook Rebeca J, tạp chí Vanderbilt Jourual of
Tran national law, số 23-1990…
Các tác phẩm trên đề cập đến các vấn đề lý luận về quyền con ngƣời
nói chung, quyền ở từng lĩnh vực nói riêng; về tổ chức và hoạt động thực tiễn
bảo vệ quyền con ngƣời ở các quốc gia trong Cộng đồng Châu Âu cũng nhƣ
các quốc gia tổ chức khác trên thế giới.
12. 4
Việt Nam là thành viên của khoảng 1/3 số điều ƣớc quốc tế hiện hành
về quyền con ngƣời do Liên hợp quốc ban hành, việc bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân nói chung và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
nói riêng trong hoạt động tƣ pháp là vấn đề đƣợc Đảng, Nhà nƣớc cùng các
nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu nhất là trong thời kỳ đổi mới. Các
cơ quan chủ yếu tham gia hoạt động nghiên cứu lý luận về quyền con ngƣời ở
Việt Nam trong thời gian qua bao gồm Ban Tƣ tƣởng-Văn hóa trung ƣơng,
Bộ ngoại giao, Bộ Tƣ pháp, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính
trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (Viện nghiên cứu quyền con ngƣời và
một số viện nghiên cứu khác trực thuộc Học viện), Tạp chí Cộng sản, Ban chỉ
đạo nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Quốc Hội…
Về phƣơng diện nghiên cứu lý luận, trong thập kỷ 2000, đáng kể nhất
là một số công trình nghiên cứu do Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện với sự hỗ trợ và
hợp tác của một số nhà tài trợ quốc tế, bao gồm các đề tài nghiên cứu: “Nhân
quyền: Lý luận và thực tiễn” (2000-2001), Hiến pháp, pháp luật và quyền con
ngƣời: Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển (2000-2001), Quyền con ngƣời:
Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Australia (2003-2004), Lý luận và thực
tiễn về quyền con ngƣời ở Trung Quốc và Việt Nam (2004)…
Trong gần ba thập kỷ vừa qua, các cơ quan nghiên cứu đã tổ chức thực
hiện nhiều công trình nghiên cứu lý luận về quyền con ngƣời. Một số công
trình nghiên cứu quan trọng mà kết quả nghiên cứu đã đƣợc xã hội hóa nhƣ
Quyền con ngƣời, Quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam,
Trung tâm Thông tin Tƣ liệu trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993; Quyền con ngƣời trong thế giới hiện đại, Phạm Khiêm Ích,
Hoàng Văn Hảo (Chủ biên), Viện thông tin khoa học xã hội, 1995; Tình hiểu
vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, PTS Chu Hồng Thanh (chủ biên),
Nhà xuất bản Lao động, 1996; Quyền con ngƣời ở Trung Quốc và Việt Nam:
13. 5
Truyền thống, lý luận và thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời
thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, 2003; Con ngƣời và phát triển con ngƣời trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Hồ Sỹ Quý (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003;
Sách trắng về thành tựu nhân quyền của Việt Nam, Bộ Ngoại giao, 2004; Tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về quyền con ngƣời, Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, 2005; Bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngƣời trong
khu vƣc ASEAN - Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời thuộc Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2012; Bảo đảm
quyền con ngƣời trong pháp luật lao động Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Thu Hƣơng “Bảo vệ
quyền con ngƣời trong pháp luật trách nhiệm bồi thƣờng nhà nƣớc ở Việt
Nam”, 2014; Luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Thanh “Bảo đảm quyền
con ngƣời trong hoạt động xét xử vụ án hình sự”, 2013; Luận văn thạc sĩ của
tác giả Phùng Thanh Mai “ Bảo vệ quyền con ngƣời bằng các quy phạm và
các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự”, 2014; Luận văn thạc sĩ của
tác giả Phan Thị Hƣơng Giang “Bảo vệ quyền con ngƣời của bị can, bị cáo
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, 2014….
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân.
Đánh giá thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát tại
địa phƣơng để đảm bảo, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
14. 6
Nghiên cứu cơ sở lý luận về nhiệm vụ quyền con ngƣời, quyền công
dân của Viện kiểm sát nhân dân cụ thể là: làm rõ khái niệm quyền con ngƣời,
quyền công dân; làm rõ vấn đề nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân của Viện kiểm sát; đánh giá đƣợc thực tiễn bảo vệ tại Viện kiểm sát
huyện Vụ Bản, chỉ ra những ƣu điểm, những hạn chế. Đồng thời đặt ra những
khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân khi Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Nhiệm vụ của Viện Kiểm
sát trong việc bảo vệ quyền con ngƣời của bị can, bị cáo,bị hại, ngƣời làm
chứng, ngƣời chấp hành án, ngƣời bị tạm giam, tạm giữ; nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình tham gia
tố tụng.
Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tƣ
pháp của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con ngƣời của Viện kiểm sát huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đƣợc giới hạn trên các vấn đề cơ bản
sau:
Cơ sở lý luận bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền con
ngƣời trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của
Viện kiểm sát nhân dân.
Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định
15. 7
Giải pháp nhằm bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản khi thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tƣ pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài đƣợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nƣớc và pháp luật, về
đổi mới hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, về bảo đảm, bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền côn dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tác
giả sử dụng các phƣơng pháp cụ thể sau: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, lịch sử, phƣơng pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến những ngƣời
làm công tác thực tiễn lâu năm), phƣơng pháp khảo sát thực tiễn trong công
tác kiểm sát.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con ngƣời của cơ quan
kiểm sát.
Đánh giá thực tiễn về nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân của Viện kiểm sát nhân dân nhân dân nói chung, của Viện Kiểm sát nhân
dân Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định, nhận diện những vi phạm quyền con
ngƣời, quyền công dân khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ;
Đề ra giải pháp trong việc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân
trong họat động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp nói
chung và ở Viện kiểm sát huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định nói riêng.
16. 8
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đóng góp cho các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói chung, cho ngành Viện kiểm sát nói riêng trong thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp một cách nhìn đích thực về “ Bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân” trong thực thi pháp luật.
Kết quả của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy ở các trƣờng chuyên ngành luật và những ai quan tâm đến lĩnh vực
này.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm mở đầu, kết luận. Phần nội dung gồm 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về quyền con ngƣời, quyền công dân
và bảo vệ quyền con ngƣời, quyền con dân của Viện kiểm sát nhân dân.
Chƣơng 2: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định.
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lƣợng bảo vệ quyền con ngƣời,
quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân
17. 9
CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Quan niệm về quyền con ngƣời, quyền công dân và bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân
1.1.1. Quyền con người và mối quan hệ giữa quyền con người và
quyền công dân
1.1.1.1. Quyền con người
Con ngƣời là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên quyền con
ngƣời luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút đƣợc sự quan tâm cả về
phƣơng diện lý luận cũng nhƣ trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của
từng khu vực, mang tính toàn cầu
Quan niệm về quyền con ngƣời đã đƣợc các nhà tƣ tƣởng bàn đến từ
thời cổ đại và không ngừng đƣợc phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Khi bàn đến quyền con ngƣời Jaeque Mourgeon
trong cuốn “ Các quyền con ngƣời” đã cho rằng: Quyền con ngƣời trƣớc hết
đƣợc hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con ngƣời có. Đó là khả năng hành
động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự vệ. Nhƣng bản thân đặc quyền (quyền
tự nhiên) chƣa phải là quyền con ngƣời. Mà để đạt đến cái gọi là “quyền” thì
phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi đƣợc pháp luật ghi nhận thì các
đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật mới
trở thành quyền con ngƣời” [18, tr.131]
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con ngƣời, chủ nghĩa
Mác đã xác định “con ngƣời” là “con ngƣời xã hội” bản chất của con ngƣời
trong tính hiện thực của nó là sự “tổng hòa các quan hệ xã hội”, cho nên
quyền con ngƣời thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên
mang bản chất đó” [2, tr. 11]
18. 10
Trên cơ sở các quan niệm về quyền con ngƣời năm 1776, lần đầu tiên
quyền con ngƣời đƣợc ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ “Tất cả
mọi ngƣời sinh ra đều có quyền đƣợc bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm đƣợc, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mƣu
cầu hạnh phúc”
Năm 1791, trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, quyền
con ngƣời từng bƣớc đƣợc quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật
của nƣớc mình. Ở nƣớc ta, vấn đề quyền con ngƣời đã đƣợc nghiên cứu và
phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nƣớc và các văn bản pháp luật.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng “Quyền con người
là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn
trọng” [10, tr.338].
Vì vậy theo quan niệm chung hiện nay “Quyền con người là những giá
trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên
của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế” [10, tr.26].
Quyền con ngƣời nhìn từ góc độ nào thì cũng đƣợc xác định nhƣ là
những chuẩn mực đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Do điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các quốc gia phát triển không
giống nhau nên các ở các quốc gia khác nhau thì năng lực, nhu cầu của mỗi
thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên ở các quốc
gia quyền con ngƣời đƣợc thể hiện thành quyền công dân và đƣợc đảm bảo
thực hiện bởi hệ thống pháp luật quốc gia đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã
chia quyền con ngƣời theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con ngƣời
thành các nhóm:
19. 11
Nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: Quyền bầu cử, quyền
ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nƣớc, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền đƣợc thông tin; quyền tự
do tín ngƣỡng.
Nhóm quyền dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do đi
lại cƣ trú trong nƣớc; quyền ra nƣớc ngoài và từ nƣớc ngoài về nƣớc; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể; quyền đƣợc pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền
đƣợc an toàn và bí mật về thƣ tín, điện thoại, điện báo; quyền khiếu nại, tố
cáo…
Nhóm các quyền về kinh tế, xã hội, bao gồm: Quyền lao động, quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập; quyền
nghiên cứu, phát minh sáng chế; quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe; quyền đƣợc
bảo vệ hôn nhân, gia đình; quyền trẻ em; quyền ngƣời già…
Quyền phát triển: quyền phát triển đƣợc Ủy ban Liên hợp quốc chuẩn
bị từ năm 1981, đƣợc thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 4/2/1986 dƣới hình thức Tuyên ngôn toàn cầu về phát triển. Đó là
quyền của các quốc gia, dân tộc đối với chủ quyền trên lãnh thổ của mình
nhƣ: Quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền đƣợc trợ giúp
về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quyền đƣợc sống trong hòa bình và môi trƣờng trong sạch: Quyền này
đang là vấn đề cấp bách của các quốc gia, khu vực và cộng đồng trên thế giới.
Pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến cuộc sống
hòa bình của con ngƣời nhƣ vấn đề giải trừ quân bị, loại trừ vũ khí hạt nhân,
ngăn chặn các cuộc xung đột, thành lập các Tòa án quốc tế để xét xử tội diệt
chủng. Cùng với sự phát triển công nghệ, loài ngƣời đang đứng trƣớc nguy cơ
20. 12
suy thoái và ô nhiễm môi trƣờng ngày càng nặng nề. Để con ngƣời sống trong
môi trƣờng trong sạch cần thiết phải đảm bảo: Quyền đƣợc thông tin và nâng
cao nhận thức của con ngƣời về môi trƣờng; Quyền đƣợc tham gia hoạch định
các chính sách và thể chế bảo vệ môi trƣờng; Quyền đuợc đền bù thiệt hại do
sự hủy hoại môi trƣờng gây ra.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Cách mạng tƣ sản thắng lợi, ách thống trị “Vƣơng quyền”, “thần
quyền” của chế độ phong kiến và thế lực Nhà thờ bị lật đổ, cùng với sự ra đời
của Nhà nƣớc tƣ sản, khái niệm quyền con ngƣời, quyền công dân ra đời. Lúc
này ngƣời dân trong một quốc gia đƣợc xác định là công dân trong xã hội
công dân và đƣợc hƣởng các quyền công dân do pháp luật quy định. Vì thế, là
sản phẩm của cách mạng tƣ sản, quyền công dân đƣợc xác định trong các văn
bản pháp lý quan trọng nhất của các Nhà nƣớc tƣ sản lúc bấy giờ nhƣ: Tuyên
ngôn độc lập nƣớc Mỹ năm 1976, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nƣớc
Pháp năm 1789, Luật về quyền công dân ở Anh …
Ngày nay cùng với Quyền con ngƣời, quyền công dân đã đƣợc hầu hết
các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật
của nhà nƣớc mình và đƣợc đảm bảo thực hiện trong đời sống thực tiễn
Cho nên, có thể xác định “Quyền công dân là quyền con ngƣời, là
những giá trị gắn liền với một nhà nƣớc nhất định và đƣợc nhà nƣớc đó bảo
hộ bằng pháp luật đối với ngƣời mang quốc tịch nƣớc đó, thể hiện mối liên hệ
pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nƣớc cụ thể”
Quyền con ngƣời và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất.
Quyền con ngƣời là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ở
con ngƣời với tƣ cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, đƣợc thể chế
hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Còn quyền công dân thực
chất cũng là quyền con ngƣời đƣợc quốc gia ghi nhận và bảo hộ bằng hệ
21. 13
thống pháp luật của quốc gia đối với công dân nƣớc đó, thể hiện mối quan hệ
pháp lý giữa công dân với nhà nƣớc đó. Quyền công dân chính là sự thể chế
hóa quyền con ngƣời để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của
mỗi quốc gia. Việc xác định quyền con ngƣời và quyền công dân nằm trong
một thể thống nhất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chế định
pháp lý về quyền con ngƣời, quyền công dân trong hệ thống pháp luật của các
quốc gia
Trong lịch sử xã hội loài ngƣời, sự hình thành và phát triển quyền con
ngƣời và quyền công dân đƣợc gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội. Nó phản ánh nhân loại tự đấu tranh giải phóng cho
mình, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội. Vì thế nó luôn đƣợc xác định là tiêu
điểm của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị và tƣ tƣởng.
Ngày nay, quyền con ngƣời và quyền công dân đã trở thành tiêu chí cơ
bản để đánh giá trình độ phát triển của một chế độ xã hội - về sự văn minh,
nhân đạo hay kém văn minh, lạc hậu, đồng thời đó là cơ sở để các quốc gia tổ
chức thiết lập các quan hệ quốc tế, vì lợi ích của các bên và lợi ích của bộ
phận và toàn cộng đồng nhân loại. Cho nên, có thể nói quyền con ngƣời trong
từng quốc gia là quyền công dân của chính quốc gia đó.
1.1.2. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát
nhân dân
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền
con ngƣời. Việc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự đƣợc thể hiện trong đấu tranh chống tội phạm, phát hiện
kịp thời để đƣa ra xử lý nghiêm minh trƣớc pháp luật đối với ngƣời phạm tội
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, trong đó có các quyền của con
22. 14
ngƣời. Đồng thời bảo đảm các quyền của con ngƣời (của ngƣời bị tình nghi, bị
can, bị cáo, ngƣời bị kết án) không bị pháp luật tƣớc bỏ đƣợc tôn trọng.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ
án hình sự.
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất đƣợc giao chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp. Hoạt động công tố và kiểm
sát điều tra đƣợc thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá
trình điều tra các vụ án hình sự.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải đƣợc khởi
tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không
làm oan ngƣời vô tội; không để ngƣời nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra đƣợc
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra đƣợc phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý
nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ
và đúng pháp luật.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có
nhiệm vụ, quyền hạn: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét
thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của
pháp luật; yêu cầu Thủ trƣởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt,
23. 15
tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn,
quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy
định của pháp luật. Trƣờng hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không
phê chuẩn phải nêu rõ lý do; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết
định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ,
quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của ngƣời
tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu
cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều
tra viên; yêu cầu Thủ trƣởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra
viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ
chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi
phạm pháp luật.
Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các biện pháp sau đây
có thể đƣợc Viện kiểm sát sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời bị tình nghi, bị can trong giai đoạn điều tra:
Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra rõ ràng là không
có căn cứ thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định
huỷ bỏ hoặc ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại
khoản 2 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành;
Nếu thấy quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra chƣa rõ căn cứ
xác định bị can phạm tội Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài
liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố. Viện kiểm sát có thể hỏi cung bị can, lấy
lời khai ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trƣớc
quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can.
24. 16
Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can đối với ngƣời đang bị tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định
huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự
do ngay cho ngƣời bị tạm giữ.
Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc bắt
khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chƣa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn
cấp hoặc ngƣời bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn,
ngƣời bị bắt là ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời có chức sắc trong tôn giáo, ngƣời có
uy tín trong đồng bào dân tộc ít ngƣời hoặc trong trƣờng hợp cần thiết khác
thì Viện kiểm sát trực tiếp gặp, hỏi ngƣời bị bắt trƣớc quyết định việc phê
chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp.
Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu
ngƣời đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho ngƣời bị tạm giữ theo quy
định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Khi nhận đƣợc hồ sơ xin phê chuẩn lệnh tạm giam, nếu thấy chƣa rõ căn
cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ
căn cứ để xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
Nếu còn thời hạn tạm giam nhƣng thấy biện pháp tạm giam đối với bị
can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát đề nghị Cơ quan điều tra ra quyết
định huỷ bỏ biện pháp tạm giam hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn
khác hoặc Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp gặp, hỏi
cung bị can khi thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trƣớc sau không thống
nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để
nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trƣờng hợp bị can bị khởi
tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ
25. 17
Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hỏi cung bị can
để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai
giữa bị can, ngƣời bị hại, ngƣời làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải
nhận dạng ngƣời hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành
việc đối chất hoặc nhận dạng.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có ngƣời
bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
mà bị can hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của họ không mời ngƣời bào chữa,
thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sƣ phân
công Văn phòng luật sƣ cử ngƣời bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử ngƣời bào chữa
cho thành viên của tổ chức mình.
Sau khi nhận đƣợc kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều
tra chuyển sang, nếu có một trong những căn cứ xác định bị can không phạm
tội; bị can phạm tội nhƣng thuộc trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời
bị hại và ngƣời bị hại không yêu cầu hoặc rút yêu cầu hoặc có căn cứ để
miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình
chỉ vụ án.
Với nhiệm vụ, quyền hạn và các biện pháp thực hiện trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát vừa là ngƣời quyết định việc truy tố
ngƣời phạm tội trƣớc Tòa án để xét xử, bảo đảm nguyên tắc, bất cứ hành vi
phạm tội nào xâm phạm đến quyền con ngƣời đều phải đƣợc phát hiện, xử lý
trƣớc pháp luật, vừa bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp tƣ pháp áp
dụng đối với ngƣời bị tình nghi, bị can, bị cáo đƣợc tuân thủ đúng quy định
của pháp luật. Nhƣ vậy, sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai đọan điều
26. 18
tra vụ án hình sự để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo
đảm mọi hành vi phạm tội và ngƣời phạm tội đều đƣợc phát hiện, xử lý theo
quy định của pháp luật; đồng thời, bảo đảm việc điều tra tuân thủ đúng pháp
luật, mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con ngƣời không bị pháp
luật tƣớc bỏ đều phải đƣợc phát hiện và xử lý.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án
hình sự.
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách
nhiệm bảo đảm việc truy tố đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, việc xét xử đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự,
Viện kiểm sát có các nhiệm vụ và quyền hạn: Đọc cáo trạng và trình bày ý
kiến bổ sung, nếu có; tham gia xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; thực
hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về
việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; tranh
luận với bị cáo, ngƣời bào chữa và những ngƣời tham gia tố tụng khác tại
phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của Toà án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những ngƣời
tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án, biên bản phiên toà và quyết định của
Toà án theo quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dƣới
chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị;
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hoặc
quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; tạm đình
chỉ thi hành bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; cấp, thu hồi giấy chứng
27. 19
nhận ngƣời bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng
khác theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các biện pháp sau đây
có thể đƣợc Viện kiểm sát sử dụng để bảo vệ quyền con ngƣời, phát hiện,
phòng ngừa và khắc phục những sai lầm trong giai đoạn xét xử, bảo vệ quyền
và lợi ích của bị cáo:
Trƣớc khi xét xử, Viện kiểm sát có thể gặp bị cáo để hỏi cung đối với
những trƣờng hợp: Vụ án có bị cáo là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc
điểm về tâm thần hoặc thể chất, vụ án có bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị xử
phạt tù chung thân hoặc tử hình, lời khai của các bị cáo trong vụ án có mâu
thuẫn, bị cáo kêu oan hoặc những trƣờng hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết.
Trong trƣờng hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tổ chức thực nghiệm
điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trƣờng diễn lại hành vi, tình huống.
Trƣớc khi mở phiên toà, nếu thấy việc truy tố không đúng, Viện kiểm
sát có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố. Trƣờng hợp rút toàn bộ
quyết định truy tố thì đề nghị Toà án đình chỉ vụ án.
Tại phiên toà, sau khi xét hỏi nếu có căn cứ rút một phần hay toàn bộ
quyết định truy tố; có tình tiết mới theo hƣớng có lợi cho bị cáo làm thay đổi
quyết định truy tố thì Kiểm sát viên rút quyết định truy tố. Trƣờng hợp tình
tiết mới đƣa ra tại phiên toà có căn cứ để kết luận về một tội danh khác nặng
hơn thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Kiểm sát viên kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên toà
của Hội đồng xét xử, thƣ ký Toà án và những ngƣời tham gia tố tụng từ khi
bắt đầu đến khi kết thúc phiên toà, nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của
những ngƣời tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử đƣợc công minh đúng
pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà trong các trƣờng
hợp: Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; ngƣời bào chữa vắng mặt theo quy
28. 20
định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành; ngƣời tham gia tố
tụng khác vắng mặt sẽ gây trở ngại cho việc xét xử vụ án; thành phần Hội
đồng xét xử không đúng với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Viện kiểm sát kháng nghị bản án quyết định của Tòa án theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm trong các trƣờng hợp có vi phạm pháp
luật trong việc xét xử, trong đó, có trƣờng hợp có căn cứ để xác định Bị cáo
không phạm tội hoặc bị Tòa án xử quá nặng, không tƣơng xứng với tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Đối với những vi
phạm pháp luật của Tòa án chƣa đến mức phải kháng nghị thì Viện kiểm sát
kiến nghị với Tòa án có biện pháp khắc phục vi phạm.
Nhƣ vậy, với những nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc pháp luật quy định
trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát bảo vệ quyền con ngƣời thông qua hoạt
động truy tố, buộc tội ngƣời phạm tội để Tòa án xét xử, kết tội, quyết định
hình phạt. Bằng cách đó góp phần phòng ngừa tội phạm và khôi phục các
quyền và lợi ích của ngƣời bị hại, ngƣời có quyền, lợi ích có liên quan bị kẻ
phạm tội xâm phạm. Mặt khác, hoạt động kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát
còn bảo đảm hoạt động xét xử của Tòa án tuân thủ đúng quy định của pháp
luật, khắc phục tình trạng xét xử oan ngƣời vô tội, quyết định hình phạt và các
biện pháp xử lý đối với bị cáo nặng hơn quy định của pháp luật hoặc áp dụng
các biện pháp không đƣợc áp dụng đối với bị cáo; mọi hoạt động vi phạm
pháp luật đều phải đƣợc xử lý kịp thời.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam.
Công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là một trong các công tác
kiểm sát thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân nhằm đảm bảo:
Việc tạm giữ, tạm giam theo đúng quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ,
tạm giam, quản lý đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh; tính mạng, tài sản, danh dự,
29. 21
nhân phẩm của ngƣời bị tạm giữ, tạm giam và các quyền khác của họ không
bị pháp luật tƣớc bỏ đƣợc tôn trọng.
Quyền con ngƣời của ngƣời bị bắt, ngƣời bị tạm giữ, ngƣời bị tạm giam
trong tố tụng hình sự đƣợc thể hiện cụ thể trong các quyền và nghĩa vụ tố tụng
của họ đƣợc pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận và đảm bảo thực hiện [19,
tr.54]
Nhƣ vậy, hoạt động của Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam là một trong những phƣơng thức để Viện kiểm sát bảo vệ quyền của
con ngƣời, quyền công dân (của ngƣời bị tạm giữ, tạm giam).
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ,
tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các quyền và các biện pháp sau:
Thƣờng kỳ trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam. Nếu có dấu
hiệu vi phạm pháp luật xảy ra ở nhà tạm giữ, trại tạm giam thì Viện kiểm sát
có thể trực tiếp tiến hành kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm giam vào bất kỳ thời
gian nào, không kể là ngày hay đêm. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp
luật gây ra thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Trƣởng nhà tạm giữ, Giám thị
trại tạm giam, nơi đã kiểm sát, có biện pháp chấm dứt việc làm vi phạm pháp
luật và xử lý ngƣời vi phạm pháp luật.
Kiểm tra hồ sơ, tài liệu của cơ quan cùng cấp và cấp dƣới có trách
nhiệm tạm giữ, tạm giam; gặp, hỏi ngƣời bị tạm giữ, tạm giam về việc thực
hiện các quy định của pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, đảm bảo cho việc
tạm giữ, tạm giam đƣợc thực hiện khách quan, toàn diện, đúng quy định
pháp luật.
Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam.
Sau khi tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, nếu xét thấy cần thiết Kiểm sát viên có thể
trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với ngƣời khiếu nại, ngƣời bị khiếu nại, ngƣời tố
cáo, ngƣời bị tố cáo và những ngƣời có liên quan để xác minh nội dung những
30. 22
khiếu nại, tố cáo; trực tiếp giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến
việc chấp hành các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam; kháng nghị,
kiến nghị, yêu cầu xử lý những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và chế độ đối với ngƣời bị tạm giữ, tạm giam và
ngƣời chấp hành án phạt tù, chuyển đến cơ quan, đơn vị có thẩm quyền giải
quyết những khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và theo dõi kết quả giải quyết
của cơ quan, đơn vị đó.
Yêu cầu cơ quan cùng cấp và cấp dƣới quản lý nơi tạm giữ, tạm giam
kiểm tra những nơi đó và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân.
Yêu cầu cơ quan cùng cấp, cấp dƣới và ngƣời có trách nhiệm thông báo
tình hình tạm giữ, tạm giam trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi
phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam.
Kháng nghị cơ quan cùng cấp và cấp dƣới yêu cầu đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ,
tạm giam, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý ngƣời vi
phạm pháp luật.
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị với cơ quan cùng cấp
và cấp dƣới, yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi
phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; chấm dứt việc làm vi phạm pháp
luật và yêu cầu xử lý ngƣời vi phạm pháp luật trong trƣờng hợp quyết định của
Trƣởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam, trái
pháp luật.
Khi xác định đƣợc nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật
hoặc những việc nếu không có biện pháp khắc phục sẽ dẫn đến vi phạm pháp
luật, Viện kiểm sát kiến nghị cơ quan có thẩm quyền và ngƣời có trách nhiệm
có biện pháp tích cực để khắc phục, phòng ngừa vi phạm pháp luật.
Trong quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát có
trách nhiệm tiếp nhận kịp thời các trƣờng hợp có dấu hiệu oan, tiến hành
31. 23
xác minh, thu thập tài liệu và chuyển việc khiếu oan, sai đó đến cơ quan có
trách nhiệm xem xét giải quyết theo thẩm quyền.
Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, khi phát hiện có căn cứ để
không tiếp tục tạm giữ, tạm giam thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do
ngay cho ngƣời bị tạm giữ, tạm giam. Đó là các trƣờng hợp: Viện kiểm sát
không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp mà một ngƣời vẫn bị tạm giữ; ngƣời bị
tạm giữ không có quyết định của cơ quan và ngƣời có thẩm quyền; ngƣời bị
tạm giữ đã đƣợc Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định tạm giữ nhƣng vẫn bị tạm
giữ, ngƣời bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do; ngƣời mà Viện kiểm sát
nhân dân không phê chuẩn gia hạn tạm giữ, ngƣời đã hết thời hạn tạm giữ
mà không có quyết định hợp pháp nào khác nhƣng vẫn bị giữ; ngƣời bị tạm
giam nhƣng không có lệnh hoặc lệnh không có phê chuẩn của Viện kiểm sát;
ngƣời bị tạm giam mà Viện kiểm sát nhân dân quyết định không gia hạn tạm
giam; ngƣời đã có quyết định huỷ bỏ việc tạm giam; ngƣời đã có quyết định
trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; ngƣời đã có quyết định
đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án mà không bị giam giữ về
hành vi phạm tội khác.
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, nếu phát hiện
có dấu hiệu tội phạm trong việc quản lý giam giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu
Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra
theo quy định của pháp luật.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà
án, Cơ quan thi hành án, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án, nhằm đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật phải đƣợc thi hành đúng quy định pháp luật, đầy đủ, kịp thời. Đồng thời,
32. 24
bảo đảm các quyền và lợi ích của con ngƣời (của ngƣời bị kết án) không bị
pháp luật tƣớc bỏ, đƣợc tôn trọng.
Khi thực hiện kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát có nhiệm vụ,
quyền hạn: Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dƣới ra quyết định thi hành án
hình sự đúng quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức đƣợc giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự tự
kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả kiểm tra cho Viện
kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự.
Viện kiểm sát có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời các trƣờng
hợp vi phạm pháp luật trong thi hành án hình sự theo thẩm quyền; ra quyết
định trả tự do ngay cho ngƣời đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và
trái pháp luật.
Để thực hiện chức năng kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát có
thể định kỳ và đột xuất kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành
án của cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp dƣới, cơ quan, tổ chức
đƣợc giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành án
hình sự của cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp dƣới, cơ quan, tổ
chức đƣợc giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Việc kiểm sát trực tiếp
việc thi hành án của cơ quan thi hành án hình sự nhằm kịp thời phát hiện vi
phạm trong thi hành án, bảo đảm việc thi hành án tuân thủ đúng quy định của
pháp luật. Qua đó, góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp không bị
pháp luật tƣớc bỏ của ngƣời bị kết án.
Trong quá trình kiểm sát thi hành án hình sự, nếu phát hiện có căn cứ
để miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án thì Viện kiểm sát có trách
nhiệm đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ra các quyết định miễn, hoãn, tạm
đình chỉ, đình chỉ chấp hành án đối với ngƣời bị kết án; đồng thời, Viện kiểm
sát tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp
33. 25
tƣ pháp, rút ngắn thời gian thử thách để phát biểu quan điểm về việc giải
quyết đó.
Trong trƣờng hợp phát hiện có vi phạm trong việc thi hành án hình sự,
Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu Toà án, cơ
quan thi hành án hình sự cùng cấp, cấp dƣới, cơ quan, tổ chức đƣợc giao một
số nhiệm vụ thi hành án hình sự trong việc thi hành án hình sự và cá nhân có
liên quan đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm
pháp luật trong việc thi hành án hình sự và chấm dứt hành vi vi phạm pháp
luật. Bằng cách đó, góp phần khắc phục những sai lầm, khôi phục lại những
quyền, lợi ích hợp pháp không bị pháp luật tƣớc bỏ của ngƣời đang phải chấp
hành án.
Trong quá trình kiểm sát thi hành án hình sự, nếu phát hiện đƣợc có căn
cứ để không buộc một ngƣời phải tiếp tục chấp hành hình phạt tại trại giam
thì Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do ngay cho ngƣời bị bị kết án. Đó là
các trƣờng hợp: Ngƣời đã đƣợc Toà án xét xử và quyết định trả tự do; ngƣời
đƣợc tuyên không phạm tội, đƣợc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt;
ngƣời bị phạt hình phạt không phải là tù giam, thời hạn phạt tù bằng hoặc
ngắn hơn thời gian đã bị tạm giam; ngƣời đã chấp hành xong thời hạn phạt tù
ghi trong bản án nếu họ không bị tạm giam về một hành vi phạm tội khác;
ngƣời đã có quyết định giảm hết thời hạn chấp hành hình phạt tù; ngƣời đã có
quyết định đặc xá của Chủ tịch nƣớc; ngƣời đã có quyết định tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù, ngƣời đã có quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,
ngƣời bị bắt thi hành bản án đã đƣợc Toà án có thẩm quyền thông báo đã hết
thời hiệu.
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc thi hành án hình sự, nếu phát
hiện có dấu hiệu tội phạm trong quản lý giam giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu
Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý theo quy định của
pháp luật.
34. 26
Như vậy, với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc điều tra, xét xử, giam giữ, thi hành án hình sự, Viện
kiểm sát góp phần tích cực vào việc bảo vệ quyền con ngƣời trong tố tụng
hình sự. Các quyền năng và biện pháp mà Viện kiểm sát sử dụng để bảo vệ
quyền con ngƣời rất đa dạng, nhƣ: Yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều
tra; tự mình thực hiện một số hoạt động điều tra để xác minh, làm rõ những
vấn đề còn nghi ngờ; yêu cầu hủy bỏ hoặc tự ra quyết định hủy bỏ các quyết
định trái pháp luật của Cơ quan điều tra; không phê chuẩn các quyết định hạn
chế quyền của ngƣời bị tình nghi, bị can khi chƣa đủ căn cứ; đình chỉ vụ án
đối với bị can khi có căn cứ xác định bị can không phạm tội hoặc có căn cứ
miễn trách nhiệm hình sự; trả tự do cho ngƣời bị tạm giữ, tạm giam, ngƣời
chấp hành án phạt tù khi có căn cứ theo luật định; ra quyết định truy tố và
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại các phiên toàn xét xử các vụ án hình
sự; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án,
quyết định của Tòa án để khắc phục vi phạm; kiến nghị các cơ quan có liên
quan đến các hoạt động tố tụng hình sự để có các biện pháp khắc phục, phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật...
1.1.3 Các đặc trưng cơ bản của bảo vệ quyền con người, quyền công
dân của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.3.1.Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp là lĩnh vực hoạt động bảo vệ quyền con người có hiệu lực, hiệu quả
cao
Với mục tiêu xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền, Hiến pháp
hiện hành tiếp tục khẳng định Viện Kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức
năng đó là “thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp”. Nhƣ vậy,
ở đâu có hoạt động tƣ pháp thì ở đó có kiểm sát các hoạt động tƣ pháp và
trong quá trình đó, Viện Kiểm sát nhân dân là một thiết chế quan trọng trong
Bộ máy nhà nƣớc thực hiện kiểm soát quyền lực trong hoạt động tƣ
35. 27
pháp. Mục tiêu cao nhất của một nền pháp chế văn minh hiện đại là bảo đảm
quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ của công dân đƣợc thực thi. Với mục
tiêu đó, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định một ngƣời có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, đƣợc pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm,
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Hiến pháp
cũng quy định, không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân,
quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trƣờng hợp phạm
tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ ngƣời do luật định.
Hoạt động kiểm sát và hoạt động công tố là hai họat động khác nhau,
với mục tiêu khác nhau. Một bên là bảo đảm cho pháp luật đƣợc thực hiện,
đƣợc chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, còn bên kia là tập
trung vào việc phát hiện, điều tra, truy tố, buộc tội chính xác, nhanh
chóng, kịp thời, bảo đảm không để xẩy ra oan sai, không bỏ lọt tội phạm.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng và các
cơ quan đƣợc Nhà nƣớc giao thẩm quyền chủ yếu giải quyết nhóm quan hệ tố
tụng cơ bản là nhóm quan hệ đƣợc phát sinh do việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội là tội phạm. Đây là nhóm quan hệ tố tụng đƣợc xác lập do
yêu cầu của xã hội, thuộc trách nhiệm của Nhà nƣớc. Viện kiểm sát thực hiện
việc buộc tội của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội và đề nghị mức hình phạt
mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu theo quy định của pháp luật. Hình phạt là
hậu quả của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mức độ hình phạt là
mức độ xã hội lên án đối với tính chất, mức độ, hậu quả mà ngƣời phạm tội
gây ra cho xã hội. Do đó, trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với ngƣời
phạm tội mà không thể chuyển giao cho ngƣời khác.
Hoạt động kiểm sát là hoạt động kiểm sát quyền lực, còn hoạt động
công tố là hoạt động thực thi quyền lực (quyền truy cứu trách nhiệm hình
sự của Nhà nƣớc). Hoạt động kiểm sát tƣ pháp có phạm vi rộng hơn phạm
36. 28
vi hoạt động công tố
Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định:
1.Kiểm sát hoạt động tư pháp là các hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thể hiện ngay từ khi tiếp nhận
và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trong việc
thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và các hoạt động tư
pháp khác theo quy định của pháp luật .
2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo:
a. Việc tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, việc thi hành án, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp và các hoạt động tư pháp khác được thực
hiện đúng quy định của pháp luật
b. Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của
pháp luật; quyền con người và các quyền lợi ích hợp pháp khác của người bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế
phải được tôn trọng và bảo vệ
c. Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được
thi hành nghiêm chỉnh
d. Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp được phát hiện, xử
lý kịp thời, nghiêm minh.
Đối với hoạt động kiểm sát thì Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tƣ pháp nhƣ: Kiểm
sát điều tra, xét xử các vụ án hình sự; Kiểm sát việc giải quyết của Tòa án đối
37. 29
với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, các vụ án
hành chính; Kiểm sát thi hành án; Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý
và giáo dục ngƣời chấp hành án phạt tù…
Nhƣ vậy, ngoài việc phối hợp để chất lƣợng công tác đạt hiệu quả cao,
còn kìm chế, đối trọng nhau, tránh việc lạm quyền hƣớng tới bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của ngƣời bị tình nghi, ngƣời tham gia tố tụng hình sự, ngƣời
tham gia tố tụng dân sự, ngƣời bị tạm giữ, tạm giam và ngƣời bị kết án…
1.1.3.2. Chủ thể được Viện kiểm sát bảo vệ quyền con người, quyền
công dân được xác định cụ thể
Căn cứ vào tính chất, nội dung, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có
thể chia thành hai nhóm: Một nhóm chủ thể tham gia tố tụng vì có quyền và
nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến sự phán xét của các cơ quan tiến hành tố
tụng. Nhóm chủ thể này gồm hai loại, một loại với tƣ cách pháp lý là ngƣời bị
bắt, tạm giữ, bị can,bị cáo, ngƣời bị kết án do đã thực hiện hành vi, vi phạm
pháp luật hình sự. Đối với loại chủ thể này, quyền và nghĩa vụ đƣợc giải
quyết theo trình tự Tố tụng hình sự. Còn loại chủ thể khác tham gia tố tụng
với tƣ cách là các bên đƣơng sự nhƣ: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ngƣời bị hại... Đối với loại
chủ thể này, các quyền và nghĩa vụ của họ đƣợc giải quyết theo trình tự Tố
tụng dân sự, Tố tụng hành chính và các văn bản pháp lý liên quan.
Trong quá trình tố tụng, quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể này
đƣợc đảm bảo thực hiện thông qua những ngƣời tiến hành tố tụng. Vì vậy có
thể xác định trong những ngƣời tham gia tố tụng trên là đối tƣợng đảm bảo
quyền con ngƣời.
Ngoài ra trong hoạt động tố tụng còn có ngƣời tham gia tố tụng nhƣ
ngƣời làm chứng, ngƣời phiên dịch, ngƣời bào chữa, ngƣời bảo vệ quyền và
lợi hợp pháp cho các bên đƣơng sự cũng là chủ thể cần đƣợc đảm bảo quyền
con ngƣời mặc dù họ không có nguy cơ bị xâm hại về quyền con ngƣời từ
38. 30
phía ngƣời tiến hành tố tụng, họ tham gia tố tụng là để thực hiện trách nhiệm
của mình nhằm góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Nhƣ vậy, có thể xác định chủ thể đƣợc Viện kiểm sát bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân đƣợc xác định cụ thể. Họ là những ngƣời bị tình nghi,
ngƣời tham gia tố tụng trong quá trình tiến hành hoạt động tố tụng.
1.1.3.3. Quyền của các chủ thể được quy định đầy đủ, cụ thể và được
đảm bảo thực hiện
Hoạt động tố tụng nhằm giải quyết hai nhóm quan hệ đặc trƣng là
nhóm quan hệ phát sinh do việc thực hiện các hành vi phạm tội và các lọai
quan hệ phát sinh do tranh chấp về dân sự. Hai nhóm quan hệ này khác nhau
về tính chất.
Đối với việc thực hiện các hành vi phạm tội, khách thể của nhóm quan
hệ này là việc xâm hại các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Do
đó, theo quy định của Bộ luật hình sự, họ phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội của mình bằng các hình phạt tƣơng xứng với tính chất, mức
độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà ngƣời đó đã gây ra. Trách nhiệm hình
sự mà ngƣời phạm tội phải gánh chịu là thái độ của Nhà nƣớc, của xã hội đối
với ngƣời phạm tội
Do tính chất đặc biệt của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự là đƣợc phát
sinh từ việc thực hiện hành vi phạm tội, nên trong tố tụng hình sự, ngƣời bị
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, ngƣời bị kế án bị hạn chế một số quyền cơ
bản của công dân nhƣ: Quyền tự do thân thể, tự do đi lại, quyền lao động,
quyền tự do kinh doanh, quyền học tập, quyền bất khả xâm phạm về thân
thể… Do việc hạn chế các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trực tiếp
ảnh hƣởng đến đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời bị tạm giữ, tạm giam,
bị can, bị cáo, ngƣời bị kết án, vì thế để đảm bảo quyền con ngƣời, quyền
công dân của những ngƣời này trong từng giai đoạn tố tụng, pháp luật đã quy
định các quyền tƣơng ứng với địa vị pháp lý của họ theo quy định pháp luật
39. 31
Ngƣời bị tạm giữ có quyền: Đƣợc biết lý do bị tạm giữ, trình bày lời
khai, đƣa ra yêu cầu, khiếu nại về việc bị tạm giữ và các quyết định khác liên
quan, nhờ ngƣời bào chữa...
Bị can có các quyền: Đƣợc biết mình bị khởi tố về tội gì, đƣa ra nguồn
chứng cứ và những yêu cầu, đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, tự bào
chữa hoặc nhờ ngƣời khác bào chữa. Đƣợc nhận bản sao quyết định khởi tố,
bản kết luận điều tra, bản cáo trạng, khiếu nại các quyết định của cơ quan tiến
hành tố tụng…
Bị cáo có các quyền: Đƣợc nhận quyết định đƣa vụ án ra xét xử, tham
gia phiên tòa, đề nghị thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, tự bào chữa hoặc nhờ
ngƣời khác bào chữa, nói lời sau cùng trƣớc khi nghị án, đƣợc xem biên bản
phiên tòa, kháng cáo bản án…
Ngƣời bị kết án có các quyền: Đƣợc nhận trích lục bản án, quyết định
thi hành án, đối với ngƣời bị kết án tử hình đƣợc gửi đơn xin ân giảm lên Chủ
tịch nƣớc, đƣợc hoãn thi hành án phạt tù, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù theo
quy định của pháp luật. Đƣợc giảm thời hạn, miễn chấp hành hình phạt theo
quy định pháp luật…
Đối với nhóm quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh do tranh chấp về dân
sự, hành chính, kinh doanh, thƣơng mại, lao động và những việc khác theo
quy định của pháp luật. Trong nhóm quan hệ pháp luật này, hầu hết các quan
hệ đƣợc phát sinh do có sự tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể.
Đặc trƣng của mối quan hệ pháp luật này là quyền của chủ thể đƣợc thực hiện
bởi nghĩa vụ của chủ thể khác và ngƣợc lại. Trách nhiệm pháp lý mà các chủ
thể phải thực hiện là trách nhiệm giữa các chủ thể với nhau. Trong nhóm quan
hệ pháp luật tố tụng này, Tòa án làm “trọng tài” phân xử, còn các đƣơng sự có
nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ các quyền và lợi ích đang bị tranh chấp. Viện
kiểm sát kiểm sát các vụ việc thông qua việc tham gia phiên tòa, các quyết
40. 32
định giải quyết của Tòa án nhƣ bản án, quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đƣơng sự, quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ… để phát hiện vi phạm
từ đó ban hành kiến nghị, kháng nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm.
Kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát đều hƣớng tới bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đƣơng sự.
Nhƣ vậy, trong phạm vi chức năng nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát
bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc quy định trong pháp luật tùy
từng loại chủ thể khi tham gia vào hoạt động tố tụng. Đó là các quyền của
ngƣời tham gia tố tụng và những ngƣời tiến hành tố tụng. Đồng thời các
quyền của những ngƣời này đƣợc đảm bảo thực hiện bằng pháp luật khi các
chủ thể tham gia vào lĩnh vực này.
1.1.3.4. Vi phạm quyền con người, quyền công dân chủ yếu từ phía
những người tiến hành tố tụng
Hoạt động tố tụng bao gồm hoạt động của các cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án và hoạt động của các cơ quan đƣợc
giao thẩm quyền. Thông qua đó nhằm xác định tính khách quan, toàn diện,
đầy đủ đúng pháp luật, việc thực hiện tội phạm hoặc các quá trình khác để từ
đó có sự phán quyết đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong hoạt
động tố tụng, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến
hành tố tụng và ngƣời tham gia tố tụng đƣợc quy định đầy đủ, cụ thể trong
các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng. Trong đó, các cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng chỉ đƣợc làm những gì mà pháp luật cho phép
(quy định), còn ngƣời tham gia tố tụng đƣợc làm tất cả nhƣng gì mà pháp luật
không cấm.
Theo Điều 31 Luật Hiến pháp năm 2013 “Người bị buộc tội được coi là
không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
41. 33
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Một trong những đặc trƣng
quan trọng của hoạt động tố tụng là hoạt động chứng minh hành vi phạm tội.
Trong hoạt động này, bị can, bị cáo tìm mọi cách để bảo vệ các quyền có lợi
nhất cho mình, nhằm xác định mình không phạm tội. Các cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời tham gia tố tụng khác theo quy
định của pháp luật có nghĩa vụ phải chứng minh sự khách quan của vụ án,
toàn diện và đầy đủ về nội dung của sự việc xảy ra để có sự phán quyết đúng
pháp luật, chứng minh đó là hành vi phạm tội.
Trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nghĩa vụ chứng minh thuộc về
các bên đƣơng sự (nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên
quan). Vì thế các bên đƣơng sự có trách nhiệm thu thập đầy đủ chứng cứ
nhằm đảm bảo cho quá trình chứng minh của mình. Đối với những ngƣời tiến
hành tố tụng có trách nhiệm củng cố, đánh giá, xác định tính trung thực của
các chứng cứ mà các bên đƣơng sự cung cấp để chứng minh sự thật khách
quan nội dung sự việc cần phải giải quyết nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các bên đƣơng sự.
Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong quá trình này, nghĩa
vụ điều tra, thu thập chứng cứ, củng cố chứng cứ để chứng minh sự thật
khách quan của vụ án thuộc về những ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời
khác liên quan theo quy định của pháp luật.
Hoạt động tố tụng hình sự là một lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm vì nó
liên quan đến các quyền thiết thực nhất của con ngƣời trong đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội nhƣ quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền tự do cƣ
trú… Vì vậy, trong quá trình chứng minh sự thật khách quan của vụ án, các
cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng do sự tác động trực tiếp
42. 34
hay gián tiếp của các yếu tố khách quan, chủ quan nên dễ bị ảnh hƣởng đến
tính trung thực khách quan trong các quyết định của mình, trong đó có các
yếu tố cơ bản nhƣ:
Do thiếu sự hợp tác của ngƣời tham gia tố tụng với ngƣời tiến hành tố
tụng trong việc xác định sự thật khách quan của các chứng cứ, nhất là đối với
các trƣờng hợp ngƣời bị tạm giữ, bị can, bị cáo tìm cách tiêu hủy, che giấu
các chứng cứ liên quan đến vụ án nên các quyết định của ngƣời tiến hành tố
tụng không phản ảnh đƣợc chính xác, toàn diện nội dung sự việc
Do sự tác động chi phối từ bên ngoài vào hoạt động tố tụng. Sự chi
phối, tác động này có thể do sự lãnh đạo, quản lý của cấp trên đối với cấp
dƣới, của cơ quan tiến hành tố tụng đối với ngƣời tiến hành tố tụng hoặc cùng
có thể từ phía những ngƣời quen biết, ngƣời thân của ngƣời tham gia tố
tụng… nên các quyết định trong hoạt động này dễ thiếu sự khách quan, trung
thực và đầy đủ
Do một bộ phận những ngƣời tiến hành tố tụng bị hạn chế về trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, về năng lực công tác nên trong việc thực hiện chức
năng thẩm quyền của mình các quyết định của họ thiếu chính xác, không
đúng pháp luật.
Do một số những ngƣời tiến hành tố tụng bị tha hóa về phẩm chất đạo
đức, lối sống, phẩm chất chính trị, … làm cho sự phán quyết của họ trong một
số vụ án thiếu khách quan, toàn diện, đầy đủ và không đúng pháp luật
Nhƣ vậy, trong hoạt động tố tụng, quyền và nghĩa vụ pháp lý của ngƣời
tham gia tố tụng đƣợc phán quyết bởi các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong đó
mọi biểu hiện của sự chủ quan, thiếu đầy đủ, không trung thực trong hoạt
động tố tụng đều xuất phát từ việc thiếu tuân thủ pháp luật của ngƣời tiến
hành tố tụng. Đó là nguyên nhân của sự vi phạm quyền con ngƣời, quyền
công dân trong hoạt động tƣ pháp
43. 35
Tóm lại, trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt
động tƣ pháp; sự vi phạm quyền con ngƣời, quyền công dân đƣợc thể hiện
dƣới nhiều hình thức, nội dung, mức độ khác nhau, nhƣng chủ yếu và nghiêm
trọng nhất là do các cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng gây
ra. Hầu hết các vi phạm về quyền con ngƣời, quyền công dân trong lĩnh vực
này đều có nguyên nhân từ việc vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố
tụng, ngƣời tiến hành tố tụng đã không tạo mọi điều kiện để ngƣời tham gia tố
tụng thực hiện đầy đủ các quyền của họ theo quy định pháp luật, từ đó đã vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, tƣớc đi quyền cơ bản mà họ đƣợc hƣởng
1.2. Các nguyên tắc bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân trong
hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự và Luật tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính.
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản quy định trong Luật tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm phát hiện kịp thời nhanh
chóng, xử lý đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cần tuân thủ các nguyên tắc của luật tố tụng hình
sự. Các nguyên tắc này là những tƣ tƣởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng
và áp dụng luật tố tụng hình sự, thể hiện quan điểm, đƣờng lối và chính sách
hình sự của Nhà nƣớc ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các nguyên
tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự chi phối toàn bộ hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự
hiện hành bao gồm nhiều nguyên tắc khác nhau, trong đó có nguyên tắc bảo
vệ quyền con ngƣời. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành đã quy định các
nguyên tắc cơ bản về quyền con ngƣời, quyền công dân nhƣ sau:
Nguyên tắc Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân đƣợc
quy định tại Điều 4 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, sửa đổi năm 2004
“Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều
44. 36
tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh
án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét
thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”. Dự thảo Bộ luật tố
tụng hình sự bổ sung thêm các chủ thể (Trợ lý điều tra viên, Kiểm tra viên,
Thƣ ký Tòa án, Thẩm tra viên, cấp trƣởng, cấp phó, Trợ lý điều tra thuộc cơ
quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) phù hợp với
quy định tại Chƣơng II của Hiến pháp năm 2013 và đáp ứng yêu cầu thực tiễn
giải quyết vụ án hình sự hiện nay.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đề
cao và tôn trọng quyền con ngƣời, quyền công dân; vì lợi ích của con ngƣời.
Đó là quyền bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền đƣợc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm,
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thƣ tín điện thoại, điện
tín. Đây là các quyền cơ bản của công dân đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp.
Bảo đảm sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong tố tụng
hình sự thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa luôn đề cao và tôn
trọng các giá trị của con ngƣời, vì lợi ích của con ngƣời.
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành “Tố tụng hình sự
tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội,
địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”.
Trong Tố tụng hình sự, nguyên tắc này đƣợc hiểu là: Ngƣời phạm tội,
thì dù họ là ai cũng phải bị xử ký theo pháp luật hình sự. Việc khởi tố, điều
45. 37
tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đều đƣợc tiến hành theo thủ tục, trình tự
thống nhất do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, không có ngoại lệ vì lý do dân
tộc, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội của ngƣời bị hại
hoặc của bị can, bị cáo. Mọi ngƣời tham gia tố tụng đều đƣợc hƣởng những
quyền và thực hiện những nghĩa vụ tố tụng ngang nhau.
Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự thay chủ thể “công dân” bằng “mọi
ngƣời” cho phù hợp vì ngƣời tham gia tố tụng không chỉ gồm công dân Việt
Nam, mà còn gồm ngƣời nƣớc ngoài. Nguyên tắc này thể hiện việc bảo vệ
quyền con ngƣời, quyền công dân của pháp luật tố tụng hình sự rộng khắp,
không phân biệt bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào.
Nguyên tắc Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công
dân đƣợc quy định tại Điều 6 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành “Không ai bị
bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện
kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.Việc bắt và giam giữ người phải
theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền tự do
cá nhân quan trọng nhất của con ngƣời. Vì vậy, việc Bộ luật Tố tụng hình sự
coi việc đảm bảo nguyên tắc này là một trong những nguyên tắc cơ bản của
Luật Tố tụng hình sự, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc ta trong
việc bảo vệ quyền con ngƣời nói chung , bảo về quyền bất khả xâm phạm về
thân thể con ngƣời nói riêng.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể công dân đòi
hỏi quy định cụ thể về thủ tục và căn cứ bắt ngƣời.
Bộ luật Tố tụng hình sự quy định ba trƣờng hợp bắt ngƣời: bắt bị can,
bị cáo để tạm giam ( Điều 80), bắt ngƣời trong trƣờng hợp khẩn cấp (Điều
81), bắt ngƣời trong trƣờng hợp phạm tội quả tan hoặc đang bị truy nã (Điều
82). Các trƣờng hợp bắt ngƣời trên đây phải đƣợc tiến hành theo đúng quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền, căn cứ và thủ tục. Đây là bảo